Năm
Thứ 4889
www.vietnamvanhien.net
GÓP
PHẦN
NGHIÊN CỨU VỀ TRƯƠNG VĨNH KƯ
(1837-1898)
Nguyên
Vũ
©
2002, 2010 by
Chieu N. Vu. All Rights Reserved
Trương Vĩnh
Kư (1837-1898)
( ảnh cuả
virtualarchivist.wordpress.com - VNVH sưu tầm )
|
L.T.G.: Tôi vốn
không chuyên biệt
về khía cạnh chính trị trong giai đoạn
Pháp thuộc. Lại không định viết tiểu sử các
tác nhân, ngoại trừ tập Nhân Vật Chí
(kư tên Chính Đạo) ghi chép vắn tắt
dài theo hơn phần tư thế kỷ nghiên cứu vừa qua (đă
tái bản, có bổ sung năm 1997). Những tài liệu
phát hiện về Petrus Key cũng như các tác
nhân lịch sử cận và hiện đại thường rất t́nh cờ.
Với ước muốn dùng các thay đổi văn hóa và
xă hội để giải thích chiến thắng của người Cộng Sản
năm
1975, ngoài những vấn đề ngoại giao, chính trị, kinh
tế,
không thể không nghiên cứu thêm các
tôn giáo và ư thức hệ tại Việt Nam trước năm
1945. Bởi vậy, năm 1996, khi t́m đọc các tài liệu
về Giám mục Dominico Lefèbvre, vô t́nh bắt
gặp lá thư thủ bút của Petrus Key vào cuối
tháng 3/1859 để tự tiến thân với các quan tướng
Pháp. Khi đọc tư liệu của Trung tá Hải quân Henri
Rieunier, cựu chánh văn pḥng của Jean Bernard
Jauréguiberry, cũng người cầm đầu phái bộ Pháp của
“Cochinchine” [Nam Kỳ] bên cạnh sứ đoàn Phan Thanh
Giản
năm 1863, mới xác tín rằng Petrus Key, thông
ngôn hạng nhất của Soái phủ Sài G̣n,
là thông ngôn của phái bộ Pháp, dưới
quyền Gabriel Aubaret, mà không phải của sứ đoàn
Việt như thường huyễn truyền (thông ngôn của triều
Nguyễn
là hai người khác, kể cả một linh mục Việt, Nguyễn
Hoằng). Khi đọc tư liệu văn khố Hội truyền giáo hải
ngoại, mới
biết chính sách mua trẻ mồ côi để tăng số
giáo dân và thày kẻ giảng (thí dụ như Lettre
commune năm 1858), và từ đó hiểu tại
sao những Petrus Key và Ngô Đ́nh Khả v.. v...
bỗng dưng trở thành các “chú” của nhà
Chúa Blời. Đọc tư liệu Joseph Page và
Jauréguiberry mới rơ nghị quyết của Ủy Ban Cochinchine
năm 1857 yêu cầu sử dụng “thày kẻ giảng và 600,000
giáo dân Ki-tô làm ṇng cốt” cho
“tân trào” bảo hộ Pháp. Đọc tài liệu
trường Collège général de Pinang [Đại chủng
viện Pinang] mới rơ chương tŕnh huấn luyện các
thày kẻ giảng bản xứ, và đại cương về các chủng
sinh [Nên không thể không đặt câu hỏi Petrus
Key tốt nghiệp trường Pinang chưa mà không được thụ
phong
linh mục hay thày kẻ giảng ở Pinang, đă phải vội
vă “cưỡi ngựa”, vượt sông vượt biển về Cái Nhum chờ
đón những sứ giả “Moises và Jacobs” mà
“Thiên chúa” gửi sang “giải phóng” giáo
dân Việt năm 1858? Phải chăng v́ Lefèbvre (người
ngày đêm trông đợi binh thuyền Pháp tới
đ̣i vua Tự Đức nợ máu) đă được thông
báo về Nghị quyết 1857 của Ủy Ban Cochinchine, yêu cầu
thiết lập một tân trào với các thày kẻ giảng
làm trụ cốt và sự trợ giúp của 600,000 giáo
dân?].
Công bố những tài
liệu mới phát hiện này hay không, chúng vẫn
nằm ở đó, thu thập bụi thời gian và
chờ ngày bị mục nát, nếu chưa được
những
người nghiên cứu khác t́m đọc. Nhưng
tôi đă quyết định công bố tất
cả các sử liệu t́m được suốt
hơn 30
năm qua, dưới sự hướng dẫn của ánh sáng lương tâm
nghề nghiệp. Sự thực nhiều khi khiến đau ḷng, nhưng
hậu thế
Việt Nam xứng đáng và có quyền được hiểu biết
những sự thực ấy. Họ có đọc chăng, suy nghĩ ǵ, đó
là quyền của họ. Gần trọn nửa đời bị bưng tai, bịt mắt
tại Việt
Nam, thấy xà cừ mà tưởng lầm là bạc–nửa đời trăn
trở dưới vực thẳm giữa những triền đá dựng đứng, dốc
ngược của
sự ngu dốt sặc sỡ và lừa dối hào nhoáng–khiến
tôi không-thể-không công bố chúng. Thứ
bóng tối kinh hoàng nhất là bóng tối của sự
ngu dốt, khiến nhân diện nhợt nhạt, trí tuệ hôn
ám. Nỗi hổ nhục sâu cay nhất, nói theo Socratus
(470-399 TTL), là cứ tưởng ḿnh “biết rồi!” những điều
ḿnh thực sự chẳng biết ǵ cả. (Xem Nguyên Vũ, Paris:
Xuân 1996, Houston: Văn Hóa, 1997; và, Vũ Ngự
Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn, 1883-1945, 3 tập,
Houston: Văn Hóa, 1999-2000)
Đă hẳn tôi hiểu rất
rơ rằng công bố các tư liệu văn khố mới phát
hiện không có nghĩa tất cả những người đương thời sẵn
sàng chấp nhận sự thực ấy. V́ như tôi đă
nhắc đó đây, cảm nhận về lịch sử (a perception of
history)
thường ảnh hưởng đám đông hơn chính sự thực lịch
sử. Đó là nỗi buồn riêng ḿnh
ḿnh biết của người c̣n giữ được sự lương thiện
trí thức. Hoặc, nói theo sách vở cổ thời Tây
phương, đó là hớp độc dược mà Socratus phải nuốt
qua cuống họng v́ tội “làm ung hoại tuổi trẻ”, hay con
thuyền chở chàng “nô lệ” Plato (427-347 TTL); nhưng
nhất
định không thể là lời xin lỗi nghẹn ngào, ứa nước
mắt của Galliléo Galiéli (1564-1642) về việc phát
hiện ra rằng trái đất quay quanh mặt trời, mà không
phải mặt trời quay quanh trái đất như Giáo Hội dạy
bảo,
và đă trở thành một thứ “kinh điển đă thiết
lập” [establsihed literature]. Hoặc, nói theo ngôn ngữ
hiện đại, là nỗi buồn đứt ruột của những nhà y học
đă t́m cách tái tạo [cloning] được một
bào thai sơ khai, nhưng đang chịu đủ thứ búa ŕu
dư luận (như bị kết án là kiêu ngạo, không
tin ở Thượng đế, thiếu đạo đức, không chấp nhận và
thách thức thuyết sáng tạo của đạo Ki-tô);
có thể bị luật pháp ngăn cấm. Nên chẳng có
ǵ đáng ngạc nhiên khi nghe lời ong tiếng ve về
những tài liệu lịch sử mới phát hiện đó, như muốn
“bêu xấu,” hay “nói xấu,” làm giảm uy tín
các “lănh tụ” dưới thời Pháp thuộc, hoặc
chính những người đang cai trị ở Việt Nam. Cũng chẳng
ngạc
nhiên khi thấy xuất hiện các “tác phẩm” của bầy
cuồng tín tôn giáo và ư thức hệ, nhắm
hạ nhục và nguyền rủa, vu cáo những người t́m sự
thực.
Người trí thức
lương
thiện, dĩ nhiên, luôn ấm như Xuân
mà lạnh như Thu trước lời lăng mạ, hay mưu
mô chồn cáo của loài tinh tinh,
và ngay cả bạo lực. Hành tŕnh
vào tri thức và chân lư phải trả giá
rất đắt. H́nh ảnh của Promotheus bị kền kền moi gan,
móc
mắt suốt 13 kiếp trên đỉnh núi Olympia v́
dám “đánh cắp lửa trời,” soi sáng cho trần gian,
là cái giá phải trả ấy. Và, dĩ nhiên,
núi lên càng cao, càng lạnh. T́m hiểu
và công bố những tội ác xâm phạm nhân
quyền của quốc dân Việt là điều không một người Việt
nào có thể xao lăng; bất kể cái giá
phải trả!
Trong tập Các
vua cuối
nhà Nguyễn, tập I, kư tên thực Vũ Ngự
Chiêu, tôi đă tŕnh bày trường hợp
Petrus Key khá đầy đủ. Dựa trên tài liệu văn khố
mà không phải những tác phẩm và nguồn tin
đă xuất bản suốt hơn trăm năm qua (thường chỉ sao chép
lại những lỗi lầm của người đi trước, rồi thêm thắt
chỗ
này, chỗ nọ, tự nhận của ḿnh), tôi nghĩ những
ǵ viết về Petrus Key đă tạm đủ. Petrus Key, trong
ḍng lịch sử quốc dân, chỉ là một tác
nhân bản xứ phụ thuộc (thày kẻ giảng bỏ tu, làm
thông ngôn và công tác văn hóa)
trong chính sách xâm lăng và cai trị Việt
Nam của người Pháp (1858-1945, 1945-1955). Sự khác
biệt
giữa những Petrus Key, Trần Bá Lộc, Lê Hoan, Ngô
Đ́nh Khả, Nguyễn Hữu Bài, v.. v... chỉ là vấn
đề lượng hơn phẩm, về h́nh thức [pathos] hơn thực chất
[ethos].
Những lời đả kích, chụp mũ quàng xiên nhắm
vào những người nghiên cứu sử nào đủ biến đen
thành trắng? Phấn son nào đủ tô hồng, chuốt lục cho
những khuôn mặt không thể chuốt lục, tô hồng? Dẫu
vậy, người học sử nghiêm túc thường cố tránh
phê b́nh, đánh giá trong các
nghiên cứu của ḿnh, chỉ nỗ lực tái dựng sự kiện
lịch sử, một cách trung thực tối đa, với những tài
liệu
có trong tay. Phán xét là của hậu thế.
Nên, tôi đă chỉ dùng một thuật ngữ
phi-chính-trị để mô tả họ: Thành phần trung
gian bản xứ. Thuật ngữ này có thể dùng
chung cho bất cứ một xă hội bị ngoại bang đô hộ hay
chiếm
đóng nào, trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào.
Sở dĩ trong
tâm
bút Ngàn Năm Soi Mặt phải trở lại vấn đề
Petrus
Key v́ hai lư do. Trước khi hoàn tất
bộ Các vua cuối nhà Nguyễn, trong tập
tâm bút Paris: Xuân 1996 (1997) kư
tên Nguyên Vũ, tôi đă công bố một
tài liệu then chốt trong cuộc đời sự nghiệp chính trị
(và từ đó, văn học) của Petrus Key. Đó
là lá thư Petrus Key viết cho Hải quân Trung
tá Jauréguiberry vào cuối tháng 3/1859, do
Phụ tá Giám mục Borelle chuyển giao, tự tiến thân
để làm thông ngôn cho Pháp, hoặc do tự
nguyện, hoặc theo lời xúi dục của các bề trên, hoặc
cả hai. Bức thư này đă được in lại phần nào trong
nguyệt san Quốc Dân (xuất bản tại Houston) năm
1996
và tập Hồ Chí Minh, 1892-1969, tập I (1997,
tr.
68). Có người không được đọc số báo hay tập
sách trên, hoặc tảng lờ phóng ảnh tài liệu
trong đó, đặt câu hỏi thực chăng có lá thư
“nói xấu” Petrus Kư ấy. Một câu hỏi đầy khôi
hài. V́ trong cuốn Paris: Xuân 1996,
tôi trưng dẫn xuất xứ khá rơ ràng:
Đó là tư liệu của Jauréguiberry, hiện cất giữ
trong Văn khố sử học Hải quân Pháp [Service historique
de
la Marine] tại Château de Vincennes. (Xem thêm Vũ Ngự
Chiêu,
Các vua, tập I, tr. 110, 130chú32, 297) Muốn biết tài liệu
trên
có thực hay chăng, một người trí thức lương thiện chỉ
cần
đến Château de Vincennes, hoặc nhờ thân hữu ở Paris
kiểm
chứng giùm. V́ chắc chắn không một nhà
nghiên cứu nào có thể cho in lại toàn bộ
những tư liệu văn khố ḿnh phát hiện.
Nhưng
như trên đă nói, cảm nhận về lịch
sử thường có tính cách thuyết phục hơn
chính sự thực lịch sử. Người ta thường
chỉ thích đọc và “khám phá” những
ǵ ḿnh tin là sự thực hơn chính sự thực.
Bản thân tôi vẫn chưa quên được sự phản kháng
từ chính nội tâm ḿnh khi t́m thấy tập hồ sơ
xin nhập học Trường Thuộc Địa (Ecole coloniale) Pháp,
theo
lối cổng hậu, của Nguyễn Tất Thành vào tháng
9/1911; hồ sơ hoạt động cho t́nh báo Liên Sô
Nga, Trung Cộng, và t́nh báo Mỹ của Lin, Hồ Quang
hay Lucius; hoặc công tŕnh của Quân ủy Trung Cộng,
cùng các Tướng Trần Canh, Vi Quốc Thanh, “hóa
phép” Vơ Nguyên Giáp thành một danh
tướng; hồ sơ về việc Phạm Văn Đồng nh́n nhận lănh hải
mới do Trung Cộng vẽ ra năm 1958 để có quân viện
đánh chiếm miền Nam và 300,000 cố vấn Trung Cộng, v..
v... Hoặc, tài liệu lần đầu tiên tiết lộ về cuộc đảo
chính cung đ́nh không đổ máu ngày
2/5/1933; cuộc từ chức ngày 18/7/1933 của Ngô
Đ́nh Diệm (1897-1963) cùng âm mưu của
các phe Ki-tô giáo chống lại kế hoạch “đại cải
cách” của Toàn quyền Pierre Pasquier; lá thư đề
ngày 21/8/1944, trong đó Giám mục Ngô
Đ́nh Thục (1897-1984) xin Toàn quyền Jean Decoux nghĩ
tới công lao hăn mă của cha ḿnh, Ngô
Đ́nh Khả (như đă đào mả “rebelle“ [ngụy hay
giặc] Phan Đ́nh Phùng ở Tây Bắc
Quảng-B́nh năm 1896), mà nương tay với Ngô
Đ́nh Khôi, Ngô Đ́nh Diệm; hay việc
Ngô Đ́nh Nhu và Ngô Đ́nh
Khôi thú nhận với Paul Arnoux, Tổng Giám đốc Cảnh
Sát Đông Dương, rằng chế độ Bảo hộ Pháp
là “bát cơm” [bol de riz] ḍng họ Ngô. Từ
thái độ phản kháng âm thầm ấy–giống như h́nh
ảnh một tù nhân bị giam giữ trong hang tối quá
lâu, thường quáng mắt khi đột ngột bị lôi kéo
ra ngoài trời rực nắng– đến sự rẫy rụa, ḥ hét
giận dữ là lẽ tự nhiên. Hơn nữa, sau gần hai thế kỷ bị
bưng tai, bịt mắt và tẩy năo bằng truyền đơn khẩu
hiệu,
trí óc nhiều người đă được điều kiện hóa
trong khuôn khổ các truyền đơn khẩu hiệu ấy. Nên chỉ
có trắng và đen. Có đạo và ngoại đạo.
Thù và bạn. Cộng Sản và Quốc Gia. Yêu nước
và Việt gian. Ta và địch. Phe ta và phe địch. Ta
phải trường tồn, hay đẹp, địch phải xấu xa, cần bị
tiêu diệt. Không
c̣n
một
khoảng
trống
nào
cho
lẽ
phải,
hay
sự
suy
lư
vượt
lên
trên
những
dấu
mốc nhị nguyên sỉn
tanh dấu máu hận thù ấy. Con người bị hạ
thấp
xuống đâu đó gần con vật thí nghiệm của
Pavlov. Chỉ cần một tiếng chuông gióng lên
thôi đă có những biến chứng sinh học.
Bởi thế, tôi
chỉ cười, khi
có người tung tin rằng các tài liệu tôi
t́m thấy là “giả mạo,” hay “sai
lầm,” hoặc việc công bố có “dụng tâm” nếu
không phải “có thiên kiến.” Là người
nghiên cứu sử chuyên nghiệp, tôi hoàn
toàn chịu trách nhiệm và sẵn sàng ghi nhận
những sai lầm, nếu có, của ḿnh. Sai lầm nếu có
trên, chỉ thuần do kỹ thuật, hoặc do tôi chưa có dịp
tham khảo đầy đủ tư liệu, mà chẳng bao giờ do tiên
kiến
“xây dựng kỳ đài lịch sử” tưởng niệm, vinh danh, hay
“đào mộ” vùi chôn một tác nhân
nào. Hơn nữa, được huấn luyện chuyên nghiệp khá cao
về sử học, tôi hiểu được tầm quan trọng của sự khách
quan
cũng như lương tâm nghề nghiệp. Nên tôi đă im
lặng, cười, trước luận điệu chỉ trích hàm hồ, v́
tự hiểu riêng ḿnh nhất thời khó đủ sức lay chuyển,
nói chi đập phá những kiến thức giả ngụy do các
tài liệu tuyên truyền mạo danh là “sử”–Những
tài liệu tuyên truyền viết từ những chân trụ đồng hoang
tưởng chơm chởm giáo mác của Mă Viện; từ
“boong” chiến hạm hay nh́n nhắm dài theo ṇng
những khẩu đại bác đen bóng của các thế lực thực
dân; được “vẩy nước thánh” với những lời cầu nguyện
trên những cây thập tự giá, hay, những tiếng “rao
giảng” “thánh chiến,” “nghĩa vụ quốc tế” của những kẻ
cuồng
tín; hoặc, lanh lảnh tiếng reo ḥ, chiêng khua,
trống gơ đệm nhịp cho các cánh tay giơ cao ngọn
giáo, lưỡi mác của người bản xứ để tự ca ngợi sự vĩ
đại
của các chiến công “châu chấu đá voi.”
Như tôi đă
cười, im lặng, khi một cháu bé 10-12 tuổi, con
bà bạn mới từ Việt Nam qua Mỹ định cư,
chỉ vào h́nh b́a tập
Hồ Chí Minh, 1892-1969 bảo tôi “Bác
sai rồi, cụ Hồ sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890
mới đúng!” Bị nhồi sọ
từ nhỏ những “sự thực giả ngụy,”
đệm nhịp bằng
những bài đồng ca như “đêm qua em nằm mơ thấy .... ,“ phản ứng của
cháu con bà bạn dễ hiểu
thôi! Giận, trách mới thực là sai lầm.
Tôi tin rằng mai này khi lớn khôn lên, được
đọc sách sử thế giới, cháu sẽ mỉm cười nghĩ đến chuyện
cũ.
Như tôi đă cười, im
lặng,
khi thấy các tác giả tập Vàng Trong Lửa
trong nước cho rằng Nguyễn Thế Anh và tôi–qua tập Một
Ngôi
Trường Khác Cho Nguyễn Tất Thành–“không
hiểu
nổi
hành
tŕnh
t́m
đường
cứu
nước”
của
cậu
Nguyễn
Tất
Thành,
tức
Hồ
Chí
Minh
sau này. Một
câu phê b́nh thuần túy để phê
b́nh, hay chỉ với mục đích giới thiệu tựa sách của
Nguyễn Thế Anh và tôi?
Và, như tôi cũng
đă chỉ im lặng, cười, chẳng bận tâm đối
đáp với vài ba kẻ cóp nhặt các
tư liệu tôi đă sưu khảo được sau ba
thập
niên làm việc tại các văn khố, chép
vào sách họ, tự xưng đă tham khảo các
tài liệu văn khố trên. Rồi “bí ẩn” rông
càn về tục kị húy, cuộc đảo chính không đổ
máu ngày 2/5/1933, cao giọng cung văn những thành
phần trung gian bản xứ theo đạo Ki-tô, v.. v.. (Nhưng
v́
là của giả, trộm cắp vặt, vẫn không che dấu nổi sự dốt
nát). Lại c̣n cao giọng vu cáo tôi là
“phịa” ra những tư liệu đă phá vỡ thứ kiến thức ao
tù, ruộng cạn, và/hay đạp đổ loại niềm tin kiểu
b́nh nước cạn, mặn chát tại các góc tối tăm
của Nguyên Hồng trong Những nhân vật ấy đă sống
với tôi.
Tôi không
có và không muốn
phí th́ giờ với loại chuyên viên ziết
sử, hay côn-đồ-văn-hóa,
chẳng những
thiếu kiến thức sử học, mà c̣n hàm hồ đầy tư
tâm. Nhưng thái độ của tôi hẳn đă khác
nếu lời cáo buộc trên do một người học sử chuyên
nghiệp đưa ra. Tôi sẵn sàng tranh luận, trong nguyên
tắc và lư lẽ tối thiểu của một cuộc tranh luận sử học:
Muốn
có
một
nhận
định
nào
về
tư
liệu
sử
học,
cần
tŕnh
bày
rơ
sự
đúng/sai
của
tư liệu ấy, và trưng
dẫn những bằng chứng khả tín cần thiết để tán đồng
hay
phản đối.
Từ ngày ra hải
ngoại,
tôi chọn cho ḿnh ba bút hiệu. Tên thực, Vũ
Ngự Chiêu, kư dưới các biên khảo sử học.
Chính Đạo để viết những nghiên cứu nhẹ tính
chất kỹ thuật hơn. Và, Nguyên Vũ, như một nối dài
của nghề nghiệp sáng tác cũ, từ quê nhà.
Các tác phẩm kư tên Nguyên Vũ thường
là tư duy của tác giả về người, việc và vật phải
gặp gỡ, chứng kiến, đầy tính cách cá nhân.
Ba bút hiệu trên liên hệ với nhau, và chắc
hẳn luôn luôn lấy sự thực làm đường đi, dù
có dị biệt về phân loại của các tác phẩm.
Những tác giả thận trọng thường phân biệt kỹ càng
khi trích dẫn tác phẩm của tôi. Nhưng có
người cố t́nh nối ba bút hiệu làm một, như “sử
gia” Nguyên Vũ, cho mục tiêu nào đó.
Cũng nên thêm
về hai
chữ “sử gia” trong ngoặc kép trên. Theo
tiêu chuẩn quốc tế, hoặc ít nữa ở Mỹ và
Pháp, sử gia (historian) là người có bằng Tiến sĩ
về ngành sử học rồi tiếp tục nghiên cứu hoặc giảng dạy
ngành này. Nó là một học vị không thể
tự xưng hay phong cho một ai đó theo ư thích
riêng của ḿnh. Chẳng hiểu người viết hai chữ “sử gia”
Nguyên Vũ có hàm ư ǵ? Tôi
không có bằng Tiến sĩ Sử học chăng? Hay tôi
không tiếp tục nghiên cứu và viết sử suốt 25 năm
qua, sau ngày tốt nghiệp? Cách nào đi nữa, cũng
chẳng đáng quan tâm. Tôi vẫn nghĩ danh chỉ
là khách của thực, và thường muốn tự coi
ḿnh như một người học sử. Tước vị sử gia hay những
bằng cấp với
tôi thật vô nghĩa, dù chúng là những
tấm thông hành giúp tiến xa hơn trên
hành tŕnh vào tri thức.
Trở lại với
những chi tiết viết
về Petrus Key trong tập Paris: Xuân
1996. Do
lỗi kỹ thuật, khi đánh máy (trang 70, ḍng 7) mất
hàng chữ “thập niên 1920, chế độ Bảo hộ Pháp,
và rồi,” nên chỉ c̣n “từ năm 1946, chính
phủ Nam Kỳ Tự trị của Y sĩ Nguyễn Văn Thinh đă lấy tên
Petrus Kư đặt tên trường trung học bản xứ lớn nhất
Sài G̣n.” Giáo sư Trần Thượng Thủ, nguyên
giáo chức trường Petrus Kư, ở Houston, và Y sĩ
Trần Ngươn Phiêu từ miền Tây Bắc Texas đă nhắc
tôi lỗi kỹ thuật này sau khi sách ra đời. Xin cảm
tạ, và nhân đây xin độc giả đă mua
sách sửa lại giúp.
Ngoài ra, trong
sơ thảo Các vua cuối nhà Nguyễn, tập
I,
tôi đă sử dụng tài liệu của các nhà
truyền giáo nên những đoạn nói về vụ án
Hoàng tôn Đán không được nhất quán
(tr. 52, 57). Khi nói về cuộc nổi dạy của “Lê Văn”
Khôi tôi c̣n ghi lại lỗi lầm của một số tác
giả đi trước, rằng Khôi là “con nuôi của Lê
Văn Duyệt” (tr. 81, chú 23). Tên thực của cố Trường,
Th.
Le Grand de la Liraye, đă viết không nhất quán
(thiếu chữ “La”; tr. 169, ḍng 12, tr. 172, ḍng
16,21,24). Nay muốn mượn chương viết về Petrus Key,
công bố
rơ sai lầm của ḿnh. Mong độc giả đă có
trong tay tập I Các vua cuối nhà Nguyễn (ấn
bản
1999 mà chưa kịp có phần Đính chính)
lượng t́nh sửa giúp [Xem đoạn dưới].
Cuối năm 2004, nhân
dịp
về Việt Nam nghiên cứu về khía cạnh pháp
luật của chiến lược đổi mới, tôi cũng may
mắn được tham khảo
thêm tại các văn khố quốc gia tại thành phố Hồ
Chí Minh và Hà Nội, và t́m ra một số
tài liệu giúp minh xác hơn những điêu
đă viết. Xin đa tạ Hội đồng học bổng Fulbright, thuộc
Bộ Ngoại
Giao Liên bang Mỹ, và Trung tâm William Joiner
Center, tại Đại học Massachusetts-Boston, cùng Khoa
Lịch Sử,
Đại học Khoa học Xă hội và Nhân văn,
Thành phố Hồ Chí Minh, cùng quí vị
Giám đốc và nhân viên các văn khố tại
Việt Nam đă giúp tôi cơ hội tu chỉnh lại bài
viết ít năm trước.
Nhưng chỉ riêng
tôi
chịu trách nhiệm những thiếu sót khó tránh
trong chương sách này.
Đa
tạ.
Petrus Key, sau này đổi
thành Petrus Trương Vĩnh Kư, P.J.B. Trương Vĩnh
Kư, Sĩ Tải Trương Vĩnh Kư, hay Petrus Kư, thường
được coi như một đại văn hào của miền Nam dưới thời
Pháp
thuộc.
Có
người xưng tụng Petrus Key
như “đại ái quốc,” “đại học giả,” “bác học,” thông
thạo tới “26 thứ tiếng.” (Xem, chẳng hạn, Nguyễn Văn
Trấn, Trương
Vĩnh Kư [Con người và sự thật], Sài
G̣n: 1993, tr. 7) Dưới thời Pháp thuộc, rồi Cộng
Ḥa Nam Kỳ Quốc, Quốc Gia Việt Nam, và Việt Nam Cộng
Ḥa, người ta lấy tên Petrus Key (Kư) đặt cho
trường trung học công lập lớn nhất ở Sài G̣n,
đúc tượng để ghi công lao, v.. v... danh nhân
này. Với chương tŕnh giáo dục nhiều hạn chế (nhắm
mục đích ngu dân), được đặt tên cho trường
công lập lớn nhất miền Nam là vinh dự không nhỏ;
v́ nơi đây chỉ có con ông cháu cha
cùng những học sinh xuất sắc được thu nhận, qua các kỳ
thi tuyển khó khăn.
Thực chất, trước năm
1975,
chúng ta biết rất ít về Petrus Key. Hầu hết
chi tiết về gia đ́nh, thân thế và hoạt động
chính trị của Petrus Key đều chịu ảnh hưởng chung của
hai
trào lưu trong nước: ĐóÔ là “cung văn”
và “đào mộ.” Tuy nhiên, đă hơn 100 năm qua
sau ngày Petrus Key nằm xuống, xúc động về lập trường
chính trị hợp tác-kháng chiến, đạo-ngoại đạo, hay
yêu-ghét đă lắng dịu, đủ để các nhà
nghiên cứu tái dựng lại vai tṛ Petrus Key trong
lịch sử.
Petrus Key hay
Petrus Kư?
Trước hết, cần minh
định tại sao
tôi dùng tên “Petrus Key”
mà không “Petrus Kư” trong bài viết
này.
Như chúng ta đă
biết, các tài liệu viết về Trương Vĩnh Kư thường
đặt trước tên ông một bí danh Latin khác
là Petrus, Pétrus, hoặc kèm cả tên
thánh “J.B.” tức Jean-Baptiste [Gioan Bao-xi-ta].
Người
Pháp, khi viết về Petrus Key, thường ghi Pétrus Kư
hay Petrus Kư. Đây có thể do cách gọi
đặt tên trước họ theo kiểu Âu Mỹ, nhưng lược bỏ những
chữ
“J.B. Trương Vĩnh.” Cách gọi tên này c̣n
hàm ư ông ta theo đạo Ki-tô. Petrus Kư
cũng có thể tiêu biểu thói quen gọi tên
kép quen thuộc tại miền Nam, như “Paulus [San],”
“Simon Của,”
“André Đôn,” “Raymond Khánh,” v.. v.... Nhưng
tài liệu do tôi phát hiện năm 1996 cho thấy năm
1859, người mà chúng ta sau này biết là
Trương Vĩnh Kư tự xưng, được đặt hay tự đặt cho ḿnh
tên “Petrus Key,” không có ba chữ Trương Vĩnh
Kư kèm theo tên Petrus Key. Cho tới năm 1863,
tài liệu Soái phủ Pháp vẫn ghi “Petrus Key,” trong
khi phần Hán tự ghi thêm là Trương Vĩnh Kư. (Xem Chính Đạo, Hồ
Chí Minh, 1892-1969, tập I: 1892-1924, tr. 68; Vũ Ngự
Chiêu, Các vua cuối, tập I, tr. 297)
Sử dụng tên
Petrus Key,
như thế, trước hết không những chính xác
hơn tên Petrus Kư hoặc Pétrus Kư, mà
c̣n tôn trọng ư nguyện của ông ta. Thứ nữa,
dùng tên Petrus Key c̣n có hàm
ư kêu gọi những nỗ lực nghiên cứu thêm về gia
thế ông. Các nhà “Petrus Key học” tương lai
nên t́m hiểu, một cách rơ ràng
chính xác mà đừng suy đoán vu vơ, là
tại sao Petrus Key sau này tự khai (hoặc lấy lại) tên
Trương Vĩnh Kư? Phải chăng “Trương Vĩnh Kư” chỉ là
tên Việt hóa của Petrus Key, cho những mục tiêu
nào đó (như bỏ tu, lấy vợ, trở lại xă hội)? Hay,
Petrus Key đơn giản chỉ là bí danh đầu tiên của
“Trương Vĩnh Kư,” như chúng ta thường hiểu?
Khi đă lớn tuổi,
Petrus Key
c̣n dùng tên hiệu “Sĩ Tải” Trương
Vĩnh Kư. (Xem h́nh ở đầu bài; Nguyễn Văn
Trung, Trương Vĩnh Kư Nhà văn hóa
[Hà Nội: 1993], b́a sau). Tuy nhiên, hầu hết
các sách của Petrus Key vẫn đề “P.J.B. Truong Vinh
Ky.”
[Xem, chẳng hạn, Cours
d’histoire
annamite à l’usage des écoles de la
Basse-Cochinchine,
par
P.J.B.
Truong
Vinh
Ky,
1ère
édition,
Saigon,
Impr.
du
Gouvernement,
1875-1877
[1879?];
hiện
tàng
trữ
tại
Thư Viện Quốc
Gia Pháp, Paris, với danh số [cote] LK10-102 (1);
nhưng tập II
đóng lên trước tập I. Ngoài ra, c̣n
có 27 cuốn khác; kể cả 2 bản Abrégé de
grammaire annamite (1867, 1924), 1 bản Grammaire
de la langue
annamite (1883), 1 bản Cours pratique de
langue annamite
(1868), 2 bản Mẹo luật dạy học tiếng
Pha-lang-sa: tóm lại
văn vắn để dạy học tṛ mới nhập trường (1867,
1872), 1 bản Dictionnaire
francais-annamite (1878), 2 bản Petit
dictionnaire
francais-annamite (1884, 1920), 2 bản Poème
Kim
Vân Kiều truyện (1875, 1889), 1 bản Lục
vân
tiên truyện (1897), 1 bản Lục súc tranh
công
(1887), 1 bản Poèmes populaires annamites
(1889), 1 bản Huấn
mông
khúc
ca:
sách
dạy
trẻ
nhỏ
học
chữ
nhu
(1884), 1 bản Tam tự kinh quốc ngữ diễn ca
(1884), 1 bản Voyage
au
Tonking
en
1876 (1881). Tác giả cảm tạ Luật sư Trần
Thanh Hiệp đă cung cấp bản danh sách trên, cũng như
đă ưu ái giúp kiểm lại những chi tiết cần tra cứu
khi sách được hiệu đính lần chót vào
tháng 12/2001. Gia đ́nh của tác giả, vào
tháng 1/2002, cũng t́m được một bản phóng ảnh tập
II cuốn Cours d’histoire annamite.]
V́ Petrus Key
là người của hai nền văn hóa–đúng hơn, hai
nền văn hóa rưỡi, tức thần quyền Ki-tô Vatican,
văn
hóa thuộc địa/bảo hộ Pháp, và văn hóa Trung
cổ Việt đang suy thoái–gọi Petrus Key bằng bất cứ tên
nào đều có thể chấp nhận được. Nhưng để tôn trọng
tâm nguyện của Petrus Key [Trương Vĩnh Kư], xuyên
suốt bài viết này tôi sẽ dùng tên
Petrus Key hay Trương Vĩnh Kư, hoặc “P.J.B. Truong
Vinh Ky”
mà không ghi “Petrus Kư” hoặc “Pétrus
Kư”. Với ai đó, cái tên “Petrus Key”
có thể hơi “lạ,” nhưng cách ghi này chỉ là
nguyên tắc thông thường thôi. Nên trả lại cho
Cesar những ǵ của Cesar, vật hoàn cố chủ, theo
đúng nghĩa đen của chữ.
Sơ Lược
về những
tài liệu
giúp nghiên cứu
Petrus
Key:
Cho tới hiện nay, quan
điểm và
mục tiêu chính trị giai đoạn vẫn ảnh hưởng mạnh trên
hầu hết các tác phẩm viết về Petrus Key.
Khối văn chương “cung
văn” [hagiographies] có bốn nguồn chính:
tài liệu truyền giáo, các tác
giả Pháp, cựu học sinh hay giáo chức trường
Petrus
Kư, và những người muốn mượn tên tuổi Petrus Key
làm hậu thuẫn chính trị.
Về tài liệu
truyền
giáo, tiêu biểu có Pierre Khorat với
bài “Les personalités annamites catholiques
[Những
nhân vật An-nam-mít có đạo
Ki-tô]” trong cuốn Annales de la
Société des Missions Etrangères [Niên
giám Hội truyền giáo hải ngoại] năm 1913 (tr. 243-49). Trong bài này, Khorat
ca
ngợi Petrus Key như một trong bốn giáo dân
Ki-tô góp công lớn trong việc thiết lập nền bảo
hộ Pháp, bên cạnh Linh mục Trần Lục (Père Six,
cánh tay bản xứ của Giám mục Paul Puginier, người tự
nhận
là cầm đầu hệ thống t́nh báo dân gian),
Huyện Sỹ Lê Phát Đạt (ông ngoại cựu Hoàng
hậu Nam Phương), và Tổng đốc Trần Bá Lộc (cấp chỉ huy
quân sự bản xứ lừng danh từ Nam Kỳ ra tới B́nh Thuận
trong
các chiến dịch b́nh định của quân viễn chinh
Pháp).
Vài tác
giả Pháp cũng viết về Petrus Key
như Henri
Cordier (“Pétrus Truong Vinh Ky;” T’oung Pao,
Séries II, 1 (1900), tr. 261-8) để tưởng
nhớ ông, và đặc biệt là Jean Bouchot, một
viên chức quản thủ văn khố [archivist]. Bouchot bỏ ra
một thời
gian dài thu thập tư liệu của gia đ́nh Petrus Key hầu
viết tiểu sử ông (Petrus J. B. Truong Vinh
Ky,
1837-1898, (Saigon: Paulus Cua, 1927), v.. v...
Đây quả
là vinh dự cá nhân cho Petrus Key. Nhưng, đồng
thời, những tư liệu trên cũng hùng hồn chứng minh vai
tṛ trung gian bản xứ ngoại hạng mà Petrus Key thủ
diễn
trong cuộc xâm lăng và b́nh định xứ Nam Kỳ của
Pháp, cũng như mở rộng cuộc xâm lăng ra Bắc và
Trung Kỳ (1859-1886), hay sát nhập nước Ai Lao vào
Liên bang Đông Dương thuộc Pháp (1893).
Cựu học sinh
và giáo chức trường Petrus Kư lên
tới hàng chục ngàn người, gồm nhiều khoa bảng
và viên chức cao cấp từ thời Pháp thuộc
tới Việt Nam Cộng Ḥa, và rồi chủ nghĩa
xă hội hiện nay. Một số người này không
thể không viết tốt về nhân
vật đă được đặt tên cho ngôi trường thuở
ấu thời và thanh thiếu niên của họ. “Cái thuở
ban đầu lưu luyến ấy,” như một nhà thơ từng
viết. (Xem, chẳng hạn, Nguyễn Thanh
Liêm, Trường trung học Pétrus Kư và nền
giáo dục phổ thông Việt Nam [n.d.]) Một số tác giả miền
Nam
c̣n mang tâm trạng “tôn sùng vĩ nhân”
bản xứ. Trường hợp tiêu biểu nhất là hai tác giả
Viên Đài & Nguyễn Đồng, qua bài
“Nhân ngày giỗ thứ 60 P.J.B. Trương Vĩnh Kư: Người
đă mở đầu một kỷ nguyên văn học Việt Nam mới” (Bách
Khoa [Saigon], số 40, [1/9/1958], tr. 43-57). Rất tiếc chẳng những
không
giúp được ǵ cho sự hiểu biết thêm về cá
nhân Petrus Key hay sự triển biến tư tưởng ông ta, hai
tác giả trên chỉ đóng góp được một phụ bản
chữ kư của “P. Trương Vĩnh Kư” vào ngày
23/7/1872, và bản danh sách 127 [trong số “143”?]
tác phẩm mà hai tác giả đoán
rằng Petrus Key đă biên soạn. (Ibid., 40:54) C̣n lại, thuần những
dữ kiện mờ
tối, cần kiểm chứng và truy cứu thêm mà Bouchot
và các tác giả khác đă ghi từ năm
1927. (Xem phần dưới)
Đáng quan tâm hơn nữa
là đôi ba người không những chỉ coi như
“chân lư” các dữ kiện “cung văn” kiểu Petrus Key
thông hiểu “26 thứ tiếng,” Petrus Key là nhà “đại
ái quốc,” (Pierre Vieillard, “Un grand patriote Pétrus
Kư;” France-Asie, ngày 15/2 & 15/3/1947),
Petrus Key tượng trưng cho t́nh thần bất khuất, nh́n
xa
thấy rộng, “muốn tự trị” của xứ Nam Kỳ lục tỉnh, v..
v..., mà
c̣n ra công bảo vệ thứ “chân lư giả ngụy”
này bằng mọi giá. (Nguyễn Văn Trấn, 1993)
[Một tác giả trong nước,
mới đây c̣n tiểu thuyết hóa cuộc đời
Petrus Key, hết lời cung văn cho việc hợp tác với
quân
viễn chinh Pháp, coi đó là một hành động
yêu nước. Theo đúng thủ thuật cung văn quen thuộc
của
các chế độ chuyên chính, và được sự cổ
vơ của vài ba nhân vật quyền thế như Sáu
Dân Vơ Văn Kiệt, tác giả này cho Petrus Key
từ thuở lên bốn, lên năm đă đọc tứ thư, ngũ kinh
(chỉ dành cho những khóa sinh chuẩn bị thi Hương hay
thi
Hội); đọc Thánh kinh (Bible) viết bằng tiếng Latin
từ lúc
chưa đầy tám, chín tuổi, dù ngay đến các
giáo sĩ Pháp cũng rất ít khi, nếu chẳng phải chẳng
bao giờ được quyền mang theo Thánh kinh đi giảng đạo
(họ chỉ
mang theo sách giảng tám ngày, sách lễ
và đại loại); tảng lờ hoặc không biết đến những báo
cáo do đích tay Petrus Key viết tŕnh lên
thượng cấp người Pháp; bịa đặt ra những cảnh giáo
dân Ki-tô bị quan quân đập chết bằng vồ, con
nít bị xé xác làm nhiều mảnh trong
các chiến dịch bài đạo của vua Minh Mạng, v.. v...
(dưới
dạng ngủ mơ); có lẽ với mục đích bảo vệ quyết định
của
Sáu Dân thay tên đường Thái Văn Lung bằng
Alexandre de Rhodes, rồi cho lập trường trung học tư
(dân lập)
Petrus Kư. Loại phóng bút hoang tưởng này
bất chấp những sự thực lịch sử như Việt Nam, đặc
biệt là đất
Đà Nẵng/Hội An, đă dung chứa hàng trăm
giáo sĩ và giáo dân Nhật trốn chạy cuộc thảm
sát Ki-tô ở Nhật trong giai đoạn 1597-1624; mở rộng
ṿng tay đón nhận những giáo sĩ Ki-tô
“Ḥa Lan” đầu tiên như Francesco Buzomi (Italia),
Diego
Carvalho (người Portugal), Antonio Diaz (người
Espania), cùng
hai người Nhật Joseph và Paul từ ngày 18/1/1615; rồi
đến
các giáo sĩ Andrea Fernandez (Portugal, 1615),
Francisco
Mareto (Portugal), Francesco di Pina (Italia, 1617),
Christoforo Borri
(Italia, 1618); và cho phép họ mang thông
ngôn đi hỏi người Việt, “Con Gnoo muon bau lom
laom Hoa laom
chỉa?” (Con nhỏ muốn vào trong ḷng Ḥa Lan
chưa?) (Hồng Lam & Léopold Cadière, Lịch sử
đạo
Thiên chúa ở Việt Nam [Huế: Đại Việt, 1944],
tr.
169-75 [Việt ngữ]). Tại Đàng Ngoài, chúa Trịnh
cũng vậy. Trên thực tế, vua chúa Việt không hề tắm
máu giáo dân Ki-tô như vua chúa Nhật,
mà thường chỉ trừng trị hàng giáo sĩ hay
giáo mục bản xứ. Cổ nhân thường dạy “Dậu đổ,
b́m leo,” là vậy!]
Trong số người
muốn dùng
Petrus Key để bày tỏ quan điểm chính
trị có các ông Hồ Hữu Tường
và Nguyễn Văn “Bảy” Trấn, cựu đao
thủ phủ đất Chợ Đệm trong hai năm
1945-1946.
Qua bài “Hiện
tượng Trương
Vĩnh Kư: Từ người trí thức tới kẻ sĩ phu” đọc tại
Sài G̣n và đăng lại trên báo Bách
Khoa năm 1974, Hồ Hữu Tường đưa ra những biện hộ
tương đối ôn
ḥa nhất, dù ông Tường chẳng sử dụng được một
tài liệu nào mới, và dữ kiện đưa ra thường
không đúng sự thực. (Hồ Hữu Tường, “Hiện tượng Trương
Vĩnh
Kư hay là hóa tŕnh từ người trí
thức đến kẻ sĩ phu;” Bách Khoa (Sài G̣n),
M [1974], tr. 15-22) Gần 20 năm sau, trong tập Trương
Vĩnh Kư in
năm 1993, ông “Bảy” Trấn giải thích rằng chữ “người
Pháp” (mà Petrus Key cổ vơ thúc dục người
Việt phải đưa cả hai tay ra mà bám chặt lấy để đứng
lên) trong thư từ hay báo cáo Petrus Key viết cho
các viên chức Pháp phải hiểu rộng thành
“Tây phương.” (Trương Vĩnh Kư, 1993, tr. 17; Báo
cáo ngày 28/4/1876, P. Truong Vinh Ky gửi Amiral
Duperré). Lối giải thích quá rộng răi
này, dù với hàm ư ǵ đi nữa,
có thể khiến ông Petrus Key phải dơ tay phản kháng
từ đáy mồ. (V́ Petrus Key rất hănh diện được
làm thần dân của một quốc gia mới là nước
Pháp; Xem, Cours d’histoire annamite, tập II
[1879?],
tr. 252, 278) Tác giả Nguyễn Thanh Liêm, vào khoảng
năm 1995, th́ trích dẫn lại hầu hết những lời xưng
tụng
nhà giáo dục Petrus Key mà không kiểm chứng
mức độ khả tín của tư liệu, và nhất là quên
đi khía cạnh chính trị của nền giáo dục thuộc địa
ấy. (Nguyễn
Thanh
Liêm, op. cit., tr. 11-22)
Dĩ nhiên, nhiều
cựu học
sinh trường Petrus Kư biết rất rơ vai
tṛ đích thực của Petrus Key cũng như
khả năng ngôn ngữ và vai
tṛ “văn hóa” của ông, nhưng
họ đă chọn thái độ im lặng. Chẳng ai muốn
khuấy
bùn làm đục nước ao. Khả năng và tinh thần
yêu nước của các cựu học sinh trường Petrus Kư
chẳng liên quan ǵ tới vai tṛ lịch sử hay
tài năng của Petrus Key, một cá nhân đă được
chính quyền Bảo hộ đặt làm tên trường học của họ
(và họ không có một lựa chọn nào hơn phải
chấp nhận). Họ phân biệt rơ ràng giữa “tinh thần trường
Petrus Kư” và “tinh thần Petrus Key.” Hàng trăm,
nếu không phải hàng ngàn, cựu giáo chức
và học sinh trường Petrus Kư đă đổ máu hay
hy sinh mạng sống trong cuộc đấu tranh kháng Pháp,
giành độc lập, giương danh quốc dân và đất nước
Việt trên thế giới, hoàn toàn trái ngược với
lời hô hào hăy đồng hóa quyền lợi của người
An-nam-mít với quyền lợi Đại Pháp mà Petrus
Key đề xướng–hai thứ quyền lợi khác nhau như nước với
lửa.
Cũng có tác
giả nghiêng về khuynh hướng “đào mộ,”
thích gọi Petrus Key bằng những tiếng xúc phạm nặng nề
như “Việt gian,” “tay sai đắc lực cho thực dân Pháp,”
v..
v... Từ thập niên 1960, tại miền Bắc đă công khai
dùng tiếng này. (Xem Tô Minh Trung, “Trương Vĩnh
Kư: tên tay sai đắc lực đầu tiên của chủ nghĩa thực
dân Pháp trong lịch sử ta;” Nghiên cứu lịch sử
(Hà Nội), Bộ 65, số 2 (1964), tr. 43-6; Mẫn Quốc,
“Trương Vĩnh
Kư: một nhà bác học trứ danh đă ngang
nhiên đóng vai đặc vụ t́nh báo, làm
tay sai đắc lực cho thực dân Pháp;” NCLS, Bộ
60,
số 3, 35-8) Tại miền Nam, một số tác giả cũng đặt lại
vai
tṛ Petrus Key trong lịch sử. Tiêu biểu nhất có
những bài viết trên bán nguyệt san Bách
Khoa của Nguyễn Sinh Duy [8/1974] và Phạm Long
Điền
[11/1974]. Hai tác giả Nguyễn Sinh Duy và Phạm Long
Điền đă trả lời khá xuất sắc cung văn của ông
Hồ Hữu Tường về Petrus Key.
Vào thập niên 1990,
con
người và tác phẩm Petrus Key lại
được đem
ra mổ xẻ. Phần v́ có thêm những
tư liệu mới. Phần v́ có nỗ lực
chính trị để thiết lập một trường trung học dân
lập
(tư thục) mang tên Petrus Kư tại Sài G̣n.
Ngoài ra, c̣n âm mưu bành trướng ảnh hưởng
của một thiểu số giáo mục và giáo dân
Ki-tô tham vọng. Tôi không theo dơi kỹ những
cuộc tranh luận này v́ vài lư do.
Trước hết, tôi không
nuôi tham vọng làm một “nhà Petrus Key
học.” Những tư liệu t́m được về Petrus Key chỉ rất
t́nh
cờ. Hơn nữa, vai tṛ lịch sử của Petrus Key đă được
xác định, từ lâu: một trong những khai quốc công
thần của nền bảo hộ Pháp; nhưng vẫn chỉ là một
thành phần trung gian bản xứ “được khai hóa.” (Chỉ cần
nh́n vào hàng huy chương trong di ảnh Petrus Key
đủ chứng minh điều này: Nào là Bắc đẩu Bội tinh,
Long Khánh Bội tinh, v.. v...)
Thứ hai, tôi
hiểu rằng với
các sử quan Cộng Sản, nghiên cứu sử học
thường
chỉ nhằm phục vụ mục tiêu chính
trị giai
đoạn của Đảng Cộng Sản và Nhà nước Xă hội Chủ
nghĩa. Những kết luận lớn và nhỏ của các sử quan (chưa
hẳn đă là sử gia) trong nước, bởi thế, chẳng nên
bận tâm. V́ chúng sẽ được thay đổi hay bỏ
quên khi cần. Chỉ so sánh những tài liệu sử quan
Cộng Sản viết về Trung Quốc trong thập niên 1950 và
1960,
với những ǵ họ công bố từ năm 1980 tới 1990, rồi
những
ǵ họ đang viết vào đầu thế kỷ XXI (và ngược lại)
đủ hiểu thân phận và nỗi buồn của người nghiên cứu
c̣n đôi chút lương thiện trí thức tại quốc
nội. Nói cách khác, kết luận của những buổi hội
thảo về Petrus Key ra sao đi nữa chẳng đóng góp ǵ
nhiều cho kiến thức sử học.
Tuy nhiên, một trường
hợp đặc biệt cần ghi nhận. Đó là trường hợp
cuốn Trương Vĩnh Kư: Nhà văn hóa của
Nguyễn Văn Trung (Hà Nội [?]: Nhà văn, 1993). Một thời, nhóm Giáo sư
Trung (trí thức
Ki-tô tiến bộ) đả kích cả hai ông Petrus Key
và Phạm Quỳnh khá nặng. Nhưng trong tập sách mới
trên, ông Trung tự nhận đă thay đổi quan điểm. (Ibid., tr. 49, 137) Sự thay đổi này có lẽ
do
mục đích chính trị giai đoạn hơn văn hóa. Trước
hết, Giáo sư Trung ra công sưu tập được một số tư liệu
nguyên bản của Petrus Key tại Sài G̣n và
Hà Nội–như danh sách 141 tác phẩm do chính
Petrus Key tự liệt kê vào năm 1892 (Ibid., tr.
109-131),
danh sách 7 ngoại ngữ Petrus Key từng học hỏi ghi
trong hồ sơ
cá nhân ông (anglais, francais, espagnol,
italien, malais, cambodgien, latin; Ibid., tr.
138), hay phân
tích khá kỹ lưỡng tờ học báo ít người
chú ư, tức nguyệt san Miscellanées ou Lectures
instructives pour les élèves des écoles primaires,
communales, cantonales et les familles (Thống Loại
Khóa
Tŕnh) trong hai năm 1888-1889 (loại tài liệu
dạy
trong bộ môn khoa học, hay cách trí thường thức
dùng cho các trường tiểu học, trường làng, trường
tổng và gia đ́nh). Ông Trung cũng tham khảo dăm
bài viết về Petrus Key của một số tác giả, như Lê
Thanh, Nguyễn Văn Tố, và một cây bút ít ai
biết như Pierre Vieillard [Villard?], v.. v... Nhưng
v́ mục
đích “kéo” Petrus Key về với văn hóa Việt Nam,
ông Trung mất đi thế đứng trung dung của người nghiên
cứu,
để lộ vài kẽ hở kỹ thuật. Một trong những nhược điểm
này
là ông Trung tránh phân tích nội dung
một số tác phẩm của Petrus Key như bộ Bài giảng sử
An-Nam-mít, v.. v... Giáo sư Trung chỉ ghi nhận sơ
sài rằng ông Petrus Key đả kích các vua
Nguyễn một cách “nghiêm khắc.” Thực ra, trong tập
“giáo khoa sử” trên, Petrus Key không những chỉ
“nghiêm khắc” với các vua nhà Nguyễn mà
c̣n bịa đặt ra, hoặc sao chép lại những lời bịa đặt
của
người khác, cho mục đích chính trị nhất thời.
Thí dụ như không hề có việc ông Nguyễn Văn
Thành [mà Petrus Key viết thành Nguyễn Văn Thiềng]
làm “vice-roi” [Phó vương] miền Bắc, bị vua Minh Mạng
hại
chết (Tome II:260); hay việc Minh Mạng giết hai con
Hoàng tử
Cảnh và chị dâu sau khi khiến chị dâu góa bị
mang thai.(Tome II:259-60; xem thêm phần dưới) Hai
Hoàng
tử của vua Thiệu Trị không phải là “Hoàng Bảo”
và “Hoàng Nhậm”; tên đệm của họ là “Hường.”
Từ thời điểm này nh́n lại những lời bịa đặt, chỉ
trích đầy sai lầm về dữ kiện ấy chẳng xứng đáng
chút nào với lời “cung văn” của ông Nguyễn Văn Tố
như “science, conscience, modestie” [khoa học,
lương tâm,
khiêm tốn]. (“Pétrus Kư (1873-1898); Bulletin
de
la
Société
d’Enseignement
Mutuel
du
Tonkin
[BSEMT,
Thành tích biểu Hội Truyền bá chữ quốc ngữ Bắc
Kỳ], Tome XVII, Nos. 1-2, Janvier-Juin 1937; dẫn trong
Nguyễn Văn
Trung, 1993, tr. 49, 197-98. Tại Thư viện Quốc Gia
Pháp
có tựa sách này, nhưng hiện nay không được
phép tham khảo v́ đă “không sử dụng được”)
[Xem thêm phần sau]. Và dĩ nhiên, khó thể
giúp xếp loại Petrus Key là “sử gia trung thực và
có lương tâm” [historien fidèle et
consciencieux] như ông ta tự nhận (Tome II:251),
hay được
“cung văn”.( Nguyễn Văn Trấn, 1993, tr. 45)
Ông Trung c̣n
tránh đề cập đến khía cạnh “tài tử” trên
lănh vực ngôn ngữ học của Petrus Key; hoặc đúng
hơn, chưa phân biệt rơ ràng khía cạnh “thực
dụng” của khả năng ngoại ngữ (thông ngôn, giáo
viên dạy tiếng Việt và Pháp) và “lư
thuyết” ngôn ngữ học mà Petrus Key không hoặc chưa
có dịp thảo luận. Tôi nghĩ những ghi chép vỏn vẹn
1, 2, 3 hay 5, 10 trang về một ngôn ngữ chưa đủ phản
ảnh, hay
chưa đủ số lượng tư liệu để lượng giá, khả năng hiểu
biết của
tác giả về ngôn ngữ ấy. Và, gọi là
“tác phẩm” th́ hơi quá đáng.
Hơn nữa, ông Trung
cố lư luận rằng Giáo sư trường Thông
ngôn và rồi Tập sự Hành chính
(hay, “Hậu bổ” nếu muốn) đă trở thành một nhà
ngôn ngữ học–có lẽ do những chữ linguiste
hay philologue ghi trong hồ sơ cá nhân
Petrus Key–dù chính ông chưa được đọc những tựa
sách như Essai sur la similitude des langues et
des
écritures orientales [Bàn về sự tương đồng trong
các ngôn ngữ và cách viết Đông
phương]; Analyse comparée des principales langues
du monde
[Phân tích tỉ đối các ngôn ngữ chính
trên thế giới]; Etude sans titre sur les langues
de la
Pennisule indochinoise [Nghiên cứu không có tựa
đề về các ngôn ngữ ở bán đảo Đông Dương]; Etude
comparée sur les langues, les écritures,
les croyances et les moeurs de l’Indochine
[Nghiên cứu tỉ đối
về ngôn ngữ, chữ viết, tín ngưỡng và phong tục
Đông Dương]; Combinaisons des systèmes
conventionnels des écritures idéographiques,
hiérogliphiques, phonétiques et alphabétiques [Sự
phối
hợp
những
hệ
thống
qui
ước
về
các
lối
chữ
viết
hội
ư,
kư
hiệu
(giống
như
chữ cổ Ê-gípt), ghi
âm và bằng mẫu tự La-tin]; hay Etude comparée
des écritures et des langues des trois branches
linguistiques
[Nghiên cứu tỉ đối về ba ngành ngôn ngữ học].
Chưa một ai cho biết
mỗi cuốn trong 6
tựa sách trên dày bao nhiêu trang, nội dung
ra sao. Cuốn Essai sur la similitude des
langues et des
écritures orientales [Bàn về sự tương đồng trong
các ngôn ngữ và cách viết Đông
phương] c̣n dưới dạng bản thảo, được Giáo sư Elucian
Luro
nhắc đến năm 1872, và in lại trong Thành tích
biểu Hội Giáo dục Đông Dương (BSEI, tome XV, No. 1-2, 1er & 2è
trimestre
1940, tr. 73). Bản thảo Analyse
comparée
des
principales
langues
du
monde [Phân
tích tỉ đối các ngôn ngữ chính trên
thế giới] do ông Nguyễn Văn Tố nhắc đến năm 1937 trong
Thành
tích
biểu
Hội
Truyền
bá
Quốc
Ngữ
Bắc
Kỳ (BSEMT,
tome XVII, No. 1-2, Janvier-Juin
1937, tr. 37). Bản thảo Etude
sans
titre
sur
les
langues
de
la
Pennisule
indochinoise
[Nghiên cứu không có tựa đề về các ngôn
ngữ ở bán đảo Đông Dương] do ông Lê Thanh
nhắc đến trong cuốn Trương Vĩnh Kư, in tại Hà
Nội
năm 1941. (Có lẽ là tập ghi chép 33 trang
trao tặng cho Viện Khảo cổ Sài G̣n năm 1958). Tương
tự,
ba bản thảo Etude comparée sur les langues, les
écritures, les croyances et les moeurs de
l’ờIndochine [Nghiên
cứu
tỉ
đối
về
ngôn
ngữ,
chữ
viết,
tín
ngưỡng
và
phong
tục
Đông
Dương]; Combinaisons des systèmes
conventionnels des écritures idéographiques,
hiérogliphiques, phonétiques et alpha-bétiques
[Sự phối hợp những hệ thống qui ước về các lối chữ
viết hội
ư, kư hiệu (giống như chữ cổ Ê-gípt), ghi
âm và bằng mẫu tự Latin]; và Etude
comparée des écritures et des langues des trois
branches
linguistiques [Nghiên cứu tỉ đối về ba ngành
ngôn ngữ học] chỉ thấy ghi trong thư mục chép tay của
Petrus Key năm 1892, nhưng chưa ai được tham khảo.
H́nh dạng
sách hay bản thảo chưa hề thấy, nội dung sách hay bản
thảo chưa được đọc mà cứ nhắm mắt lại khen nức nở, sợ
có
thái quá chăng?
Đoạn nói
về “Nghiên cứu nguồn gốc chữ viết Việt Nam” của
Petrus Key,
ông Trung dẫn hai cuốn Sách mẹo Annam,
Abrégé grammaire annamite (1867, 1924) và Ecriture
en
Annam [Chữ viết ở An-Nam] để giới thiệu “thuyết”
của Petrus Key
rằng “chữ cổ Việt” vốn “ghi âm” [phonétique] hơn
“tượng
h́nh.” Lời vơ đoán này chẳng dựa trên
bằng chứng cụ thể nào ngoài câu tuyên bố vu
vơ như dấu khắc t́m thấy trên đá núi
Dahia. (Trương Vĩnh Kư, Sách mẹo An-Nam,
Abrégé grammaire annamite, [Sai Gon, 1867], phần mở
đầu;
và “écriture en Annam;” BSEI, année 1888, 1er
semestre, tr. 5; dẫn trong Nguyễn Văn Trung, 1993, tr.
143-4) Sợ rằng
đây chỉ là thứ lập luận . . . “mua vui cũng được một
và trống canh!” Chưa một tài liệu nào, kể cả
các bộ cổ sử nặng mang tính cách dựng quốc thống
của Ngô Sĩ Liên hay di tích khảo cổ, cho phép
tuyên bố nước cổ Việt đă có chữ viết giống như
những nét khắc trên đá “ở đỉnh núi Dahia?”
Dựa vào những câu phụ chú hoang tưởng [exotic] của
những học giả người Hán khi chú giải các cổ thư
như Kinh Thư và Sử Kư về sứ nước Việt Thường tiến cống
rùa vàng (đời vua Nghiêu, 2356-2255 TTL) hay chim
trĩ trắng (năm thứ sáu đời Chu Thành vương, 1115-1079
TTL), “chín lần” hay “ba lần” thông ngôn mới hiểu
được nhau, để đoan chắc hoặc phóng tưởng rằng người cổ
Việt
đă có chữ viết từ thế kỷ thứ V TTL (?) sợ rằng lối suy
luận ấy chẳng “science, conscience, modestie” chút
nào!
Nó là một thứ vơ đoán, trong nhiều
vơ đoán khác của Petrus Key rải rác trong
các sách c̣n lưu giữ được, tương tự như lời
phán “con nít từ nách chui ra.”
[Trước ông Petrus Key hơn bảy
trăm năm, Cheng Ch'iao (Trịnh Tiều, 1104-1162) dựa
theo huyền thoại
sứ Việt Thường (có người ước đoán
từ Nghệ An tới Quảng B́nh, Quảng
Trị hiện nay)
đến cống Chu Thành Vương (1115-1079 TTL) một con
chim
trĩ trắng (Shu (Waltham), tr. 199-200; Cương
Mục [Sài
G̣n], 1965, II:29-31) để tán vào tập sách
T'ung chih [Thông chí] của ḿnh rằng sứ Việt Thường
đă qua tới Trung nguyên vào đời vua
Đường-Nghiêu (2356-2256 TTL), cống “con rùa
ngàn năm trên lưng có chữ khoa đẩu.” Rồi ghi
thêm rằng vua Nghiêu dùng loại chữ ấy để soạn “lịch
rùa!” (Cương Mục [Sài G̣n], 1965, II:28-9). Hơn
trăm năm sau nữa, khi dùng Kinh Thư để viết Thông
Giám Tiền Biên–tức phần Tiền Biên cho cuốn Tư trị
Thông Giám của Tư Mă Quang (1019-1086)–Kim
Lư Tường (1232-1303) vẫn giữ chi tiết “rùa thần”
nhưng
loại bỏ các chi tiết chữ “khoa đẩu” và “lịch rùa”
của Trịnh Tiều trong sách Thông chí. Hiện nay,
tài liệu khảo cổ tiết lộ chữ “giáp cốt” (tức chữ
viết
trên mai rùa và xương thú) xuất hiện
vào khoảng giữa đời nhà Thương-Ân, tức sau triều
Bàn Canh. [Xem thêm bài Tư liệu lịch sử]
May mắn là thời
gian
Petrus Key c̣n sống, những di tích khảo
cổ chưa được phát hiện, bằng không
có thể sẽ có những loại
lư luận kiểu “hoa văn [h́nh khắc] trên
trống đồng Đông Sơn”
là “chữ cổ Việt theo dạng ghi âm!”
Mới đây, tại hải
ngoại,
nhờ tư liệu văn khố mới phát hiện
và có điều kiện nghiên cứu tác
phẩm cùng sách báo nguyên bản, các
nhà nghiên cứu đă tái dựng
gần đúng sự thực hơn về Petrus Key cùng
nhiều tác nhân thời Pháp xâm
chiếm Đại Nam. Sử dụng nhiều loại tài liệu,
kể cả
một số tư liệu văn khố do tôi sưu tập, Giáo sư Quang
khẳng
định ông Petrus Key không yêu nước. (Ngược lại,
Giáo sư Hứa Hoành, cựu giảng viên trường Vơ
bị Đà Lạt, tác giả nhiều biên khảo về miền Nam,
dù sử dụng phần tư liệu tương tự, lại kết luận Petrus
Key chưa
hẳn đă là Việt gian, mà c̣n yêu nước).
Tóm lại, trước năm
1996,
chúng ta biết rất ít về Petrus Key
ngoài những huyền thoại, cung văn tức tài liệu truyền
đơn, khẩu hiệu. Đă gọi là cung văn th́ dĩ
nhiên cái ǵ Petrus Key cũng tốt cũng hay. Những
người chê trách th́–ngoại trừ các ông
Nguyễn Sinh Duy, Nguyễn Đắc Xuân, hay Nguyễn Mạnh
Quang–chỉ
sử dụng tư liệu cũ và giải thích theo ḷng
yêu ghét hay quan điểm chính trị giai đoạn của họ.
Nhưng hiện nay, văn
khố thuộc địa Pháp cũng như Hội truyền giáo
Paris đă mở ra cho giới nghiên cứu, đa số những điều
người
Pháp viết về “công ơn khai hóa” của họ tại
Đông Dương bắt đầu bị sự thực lịch sử đào thải dần.
Những cung văn về các nhà đại ái quốc của
tân trào bảo hộ Pháp như Petrus Key hay Hiệp sĩ
Vatican Nguyễn Hữu Bài, Trần Bá Lộc, Ngô
Đ́nh Khả, Ngô Đ́nh Diệm, v.. v... cũng chịu
chung số phận khó tránh. Những tài liệu văn khố
mới được công bố này rất khả tín [authentique],
và không ai, nếu có đủ lư trí để suy
xét và sự lương thiện trí thức tối thiểu,
có thể bài bác. Vậy mà, thật đáng
buồn, đôi ba người vốn chẳng có bao lăm kiến thức sử
học,
lại đầy tư tâm, t́m cách bênh vực Petrus Key
bằng mọi giá, nhắm mắt lại mà đả kích những
tác giả công bố các tư liệu mới về
thông-ngôn-gia chính ngạch (chữ linguiste
trong thế kỷ XIX chỉ có nghĩa thông ngôn) kiêm
học giả miền Nam này!
Thuở thiếu
thời của Petrus
Key:
Những tư liệu
về thuở thiếu thời của Petrus Key đầy chi
tiết trái
ngược nhau.
Năm 1958,
Viên Đài & Nguyễn Đồng cho rằng
thân phụ Trương Vĩnh Kư là “Lănh binh
Truơng Chánh Thi,” (Bách Khoa [Saigon], số 40,
[1/9/1958], tr. 43) chết năm 1845 trong khi tùng sự ở
Nam Vang
(Ibid., tr. 43); năm 1846 mẹ (Nguyễn Thị Châu) ủy thác
cho
một giáo sĩ người Pháp có tên Việt là
“cố Long” (Ibid., tr. 44); năm 1847, Tự Đức lên ngôi,
cấm đạo gắt gao phải chạy sang Cao Miên (Ibid., tr.
44); năm 11
tuổi nói được 5 thứ tiếng (Ibid., tr. 44); năm 1852
được cố Long
hướng dẫn sang Đại chủng viện Pinang, và ghé qua
Sài G̣n gặp mẹ được vài giờ (Ibid., tr. 44); tại
Pinang học tiếng Anh, Nhật, Ấn (Ibid., tr. 45); năm
1858 mẹ chết, về
Cái Mơn thọ tang; ngày 28/12/1860, được Giám mục
Lefèbvre giới thiệu “giúp việc cho Đại úy thủy
quân” [sic] Jauréguiberry (Ibid., tr. 45). (Đại
tá J. D’Ariès được lệnh thay Trung tá
Jauréguiberry từ tháng 2/1860; chính thức
bàn giao vào tháng 4/1860]; Vũ Ngự Chiêu,
Các vua, I:124)
Mười sáu năm sau, nhà
chính khách tự nhận là “Đệ tứ Cộng Sản”
(Trotskyite) Hồ Hữu Tường, cho rằng Petrus Key sinh
trong một gia
đ́nh “công giáo” (Bách Khoa; N [404],
5/9/1974, tr.17), cha là “lănh binh Trương Chánh
Thi,” mẹ là Nguyễn Thị Châu (Ibid., tr. 17). Năm 1847,
được một linh mục nhận nuôi (Ibid., tr. 17). Sau khi
học tại
các trường đạo, Petrus Key nói thông thạo “10 thứ
tiếng khác nhau”: La-tinh, Pháp ngữ, Anh ngữ, Y pha
nho,
Hoa ngữ, Mă lai, Ấn độ ngữ, Nhật ngữ. (Ibid.,
tr.17,18) Năm
1858, mẹ chết; Petrus Key được phép về thọ tang mẹ
(Ibid.,
tr.18). Ngày 20/12/1860, khi người Pháp khánh
thành trường Thông ngôn; Petrus Key đứng đầu trường
này.( Ibid., tr.18)
Năm 1974, Phạm Long
Điền, qua
bài “Trương Vĩnh Kư trong quĩ đạo
xâm lăng văn hóa của thực dân Pháp”
(Bách Khoa Q [1974], tr. 45-54; & R [1974], tr.
32-42) cung
cấp một niên biểu khác: Năm 1842, khi mới 5 tuổi,
Petrus
Key đă theo Linh mục Tám của vùng Cái Mơn
(Bách Khoa Q [1974], tr.47); bốn năm sau, 1846, theo
Cố Long,
một Linh mục người Pháp (Ibid., tr.47); hai năm sau
nữa, 1848,
Cố Long đưa qua Pinhalu, Miên (Ibid., tr. 47); năm
1850, qua
Pinang, học trường Dulama (Ibid., tr. 47); năm 1857,
nghe mẹ từ trần,
rời Pinang về Nam Kỳ (Ibid., tr. 47-8); hai năm sau,
được Giám
mục Lefèbvre giới thiệu cho người Pháp. Rồi năm 1861,
Cố
Doan [Đoan] làm mai cho lấy vợ, Vương Thị Thọ, con
Vương Tấn
Nguơn, Hương chủ làng Nhơn gian, Chợ Quán.
Khoảng giữa thập niên
1990, tại
hải ngoại, Nguyễn Thanh Liêm cũng chép lại gần như
nguyên văn các chi tiết trên. Nào là
“lănh binh Trương Chánh Thi dưới thời Minh Mạng,”
“chết
năm [1845] trong khi đang đồn trú tại Nam Vang” (tr.
12); thuở
nhỏ Petrus Key học chữ Nho với thày “đồ Học,” được “cụ
Tám” xin mang về nuôi; rồi theo cố Long, cố Ḥa học
tiếng Latin và chữ Việt mới (tr. 12); năm 1848 qua học
ở
Miên, rồi qua Pinang; năm 1858, mẹ chết, về nước. (tr. 13)
Trong nước, năm 1993,
Nguyễn Văn Trấn
hầu như chỉ lập lại những lỗi lầm
của người đi trước.
Theo ông Trấn, Petrus Key sinh ngày 16-12-1837 tại
Cái Mơn, làng Vĩnh Thành, tổng Minh Lệ, huyện
Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc Bến Tre). (Trấn,
1993, tr. 9)
Cha là vơ quan dưới hai triều Minh Mạng và Thiệu
Trị, “làm sứ thần bên cạnh vua Cao Miên, đóng
quân ở phụ cận Nam Vang,” chẳng may chết v́ “ma
thiêng nước độc” khi Petrus Key mới có 3 tuổi. (sic) (Vua
Miên
Ang
Chan
chết
cuối
năm
1834,
từ
1834
tới
1841
chỉ
có
quận
chúa
Ang
May) Hai năm sau, Petrus Key học với một
ông đồ. Năm 1846 được một giáo mục An Nam là “cố
Tám” từng chịu ơn ông Trương Chánh Thi ghé
nhà, xin mang đi nuôi ăn học. Cố Tám chết, một linh
mục Pháp là cố Long đưa Petrus Key lên Nam Vang,
cho vào trường “Pô-nhia Lư” [Pinhalu] của cố Ḥa
(Belleveaux).( tr.9-10) Năm 1851, khi Petrus Key đă 14
tuổi, cố
Long đưa sang Pinang học “Séminaire général des
missions étrangères en Extrême-Orient”. Năm 1852,
làm tu sinh ở Pinang. Trường này có hơn 300 học
sinh, nhờ vậy Petrus Key học được tiếng Anh, tiếng
Nhật, tiếng Hindu
(tr. 12). Năm 1859, măn khóa 8 năm ở Pinang, “im lặng”
về
nước. Năm này, Pháp đă chiếm Đà Nẵng,
mẹ đă chết.( tr. 13) Dạy học ở Cái Nhum, rồi trốn
lên Sài G̣n, ở chung với Lefèbvre.( tr. 16)
Tháng 12/1859, trở thành thông ngôn của “quan
ba hải quân” (sic) Jauréguiberry.( tr. 17) Năm 1863
được
Phan Thanh Giản xin làm thông ngôn cho sứ
đoàn qua Pháp.( tr.24)
Khối văn chương được
nhiều người
nh́n nhận [established] về Petrus Key này
có vẻ bất ổn. Chúng ta thử lược
duyệt từng chi tiết từ phụ thân Petrus Key
tới những
đặc tính khác của ông.
Có Chăng
Một “Lănh Binh”
Trương Chánh Thi?
Đúng ngày
Thanksgiving 2000, một ông bạn già điện thoại
hỏi:
“Có chăng một ông Lănh binh Trương Chánh
Thi?” Trương Chánh Thi là người được ghi chép như
thân phụ ông Petrus Key.
Tôi không dám trả
lời ngay, hẹn xin trả lời sau khi đọc lại hồ sơ.
A. Theo một tài liệu,
năm 1891,
Petrus Key viết cuốn Généalogie de la Famille
de
P. Truong Vinh Ky tức Gia phả nhà Trương Vĩnh Kư. Bouchot
và
nhiều
tác
giả
đă
nhắc
đến
tập
này.
Tôi
chưa
đọc
nên
không
dám
có
ư
kiến.
Nhưng
tôi nghĩ Petrus Key, có lẽ không
nói cha ông là Lănh binh, mà chỉ ghi
cha ḿnh là “vơ quan.” Ngoài ra, thủ
bút của ông c̣n ghi “Trương Vĩnh Thế, thày
Bửu đỡ đầu, Trương Thị Gia, Bà Se Si La [hay Se Di La]
đỡ đầu,
Trương Vĩnh Nhi, Mr. Galy đỡ đầu.” (Nguyễn Văn Trung,
1993, tr. 62)
Không rơ Trương Vĩnh Thế, Trương Thị Gia hay Trương
Vĩnh
Nhi là ai, liên hệ với Petrus Key ra sao. Kết luận duy
nhất là trong họ Trương, ngoài Petrus Key, c̣n
có ba người khác được Hội truyền giáo nuôi.
B. Tác giả Henri
Cordier, trong
bài tưởng niệm Petrus Key đăng trên T’oung Pao
(Séries II, I, 1900, tr. 261-8), không cung cấp nhiều
chi
tiết về cha mẹ Petrus Key. Tương tự, tác giả Pierre
Khorat,
trong bài viết về 4 nhân vật Ki-tô bản xứ nổi danh
Đông Dương trên tờ Annales de la
Société des Missions Etrangères năm 1913, cũng
chỉ đề cập sơ sài về gia đ́nh Petrus Key (tr. 243-9).
C. Học giả Milton
E. Osborne,
người nghiên cứu khá kỹ lưỡng
về Trương
Vĩnh Kư, từng sử dụng các tư liệu gia
đ́nh họ Trương cũng như hồ
sơ Petrus Key
trong văn khố Pháp tại Sài G̣n để soạn bộ The
French in Cochinchina and Cambodia: Rule and
Response, 1859-1905
[Người Pháp ở Nam Kỳ và Cao Miên: Cai trị và
Phản ứng, 1859-1905], chỉ ghi một cách mơ hồ rằng cha
Petrus Key
là vơ quan, chết khi cậu mới 9 (chín) tuổi, tức
vào năm 1846. Osborne suy đoán rằng cha Petrus Key
là giáo dân Ki-tô, nhưng chức vơ quan
của ông ta đă bảo vệ được gia đ́nh trong cuộc
bài đạo Ki-tô. (Osborne 1969:95) Khoảng 30 năm sau,
hai
ông Nguyễn Văn Trấn và Nguyễn Văn Trung đều ghi nhận
cha
ông Petrus Key chỉ là “vơ quan.” (Lại có
tác giả cho rằng cha Petrus Key chỉ theo đạo sau khi
lấy vợ đạo
gốc).
D. Người đầu tiên nêu
lên chi tiết “lănh binh Trương Chánh
Thi” mà tôi được biết là hai
ông Viên Đài
và Nguyễn Đồng, trên Bách Khoa số 40
(1/9/1959) (tr. 43). Chẳng hiểu hai tác giả
này đă dựa theo sách nào, hay tự t́m
được chi tiết “lănh binh Trương Chánh Thi.”
Ông Hồ Hữu Tường lập
lại chi
tiết trên; nhưng v́ tác giả Phi Lạc Sang Tàu
không phải là nhà khảo cứu chuyên nghiệp, lại
không nói rơ lấy tài liệu từ đâu,
chẳng nên chú ư lắm. Mới đây, có
tác giả ở hải ngoại và trong nước lập lại chi tiết
này.
Nguyễn Thanh Liêm
th́ ghi “lănh binh Trương Chánh Thi”
thời Minh Mạng, chết tại Nam Vang năm 1845.
Tóm lại, theo các
tài liệu hiện hữu, ông Trương Chánh Thi là
một vơ quan và có thể đă lên tới chức
lănh binh, ông ta theo đạo Ki-tô, và chết
vào ba thời điểm: 1840, 1845 hay 1846.
E. Cũng may, khi soạn
bộ Các
Vua
Cuối
Nhà
Nguyễn,
1883-1945 (gồm 3 tập, đă xuất
bản năm 1999-2000) tôi ghi chép khá đầy đủ về bang
giao Việt Nam-Kampuchea (Chân Lạp) và những cuộc binh
biến
ở “Trấn Tây thành.” Theo sự hiểu biết của tôi, bộ Đại
Nam
Thực
Lục
Chính
Biên
[ĐNTLCB] thời Minh Mạng
(1820-1841) và Thiệu Trị (1841-1847) không hề nhắc đến
tên “Trương Chánh Thi.” Tôi c̣n kiểm lại cả
ba bản “Sách Dẫn” của bộ ĐNTLCB (trong tập 22 và 26)
mà không thấy tên này. Riêng Châu
bản
triều
Minh
Mạng th́ tôi mới chỉ được đọc bản Mục
Lục, tập II, do Trần Kính Ḥa dịch, Đại học Huế xuất
bản năm 1962. Cũng không thấy tên Trương Chánh Thi,
dĩ nhiên.
Để bảo đảm hơn cho câu
trả
lời của ḿnh, tôi t́m đọc những người mang họ
Trương ở miền Nam có dính líu đến Kampuchea (đổi
tên thành Cao Man dưới thời vua Thiệu Trị) hoặc xuất
hiện
tại Gia định thành.
1. Có ông “Trương
Văn
Thi” nào đó, nhưng ông ta là con cụ
Trương Minh Giảng, một đại thần từng Bảo hộ Chân Lạp
khá
lâu, trước khi cai quản “Trấn tây Thành” (tức
Kampuchea Chân Lạp trong thời gian bị nhà Nguyễn chiếm
đóng) và đă từ trần khi triệt thoái về tới
An Giang vào tháng Chín Tân Sửu
[15/10-12/11/1841] v́ buồn bực và xấu hổ. (ĐNTLCB, 23:351-52) Con cụ Giảng là Trương
Văn Thi
bị rút hàm thất phẩm. Ḍng dơi cụ Giảng
có Trương Minh Kư tự nhận là học tṛ Petrus
Key. Tôi chưa hề nghe ai nói Petrus Key có họ
hàng với cụ Trương Minh Giảng. Như thế, cái tên
Trương Văn Thi có thể gạch bỏ trong việc truy t́m
tông tích phụ thân ông Petrus Key.
2. Lại
có một ông “Trương Minh Lượng”
(cùng họ Trương). Ông này làm quyền tri
huyện Trà Vinh, tỉnh Vĩnh Long. Tháng Năm năm Đinh
Dậu [3/6-2/7/1837] Tri huyện Lượng tra tấn người đến
chết, phải trốn
chạy về Gia Định. (ĐNTLCB,
19:136-37) Không
ai nói thân phụ ông Petrus Key là sát
nhân. Hơn nữa, chữ “Minh” và “Chánh”, cũng như
“Thi” và “Lượng” khác nhau quá xa, không sử
quan nào lẫn lộn được. (Ngoại trừ trường hợp sau này
ông Trương Chánh Thi đổi tên)
3. Lại có Lănh
binh
thủy sư Trương Cầm, phụ thân lănh tụ nghĩa
quân Trương [Công] Định ở Gia Định trong giai đoạn
1861-1864. Phó lănh binh Định, tự xưng B́nh
Tây Sát Tả Đại tướng quân, chắc không
liên hệ ǵ đến Petrus Key, người thích gọi những
lănh tụ kháng Pháp như Trương Định,
Thiên hộ Vơ Văn Dương, Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân,
Tán Thuật, Phan Đ́nh Phùng, v.. v... là rebelles
(phiến loạn).
4. Tri phủ An
Biên
là Trương Công B́nh tử trận vào
tháng 9 Ất Tÿ [1845]. Tên ông này cũng
nên gạch bỏ v́ Tri phủ là một chức quan văn trung
cấp [lục-ngũ phẩm].
5. Có một Lănh
binh
họ Trương từng lập công lớn ở Trấn Tây
trong cuộc hành quân tái chiếm đất Chân
Lạp năm 1845 (tháng 9 Ất Tÿ), nhưng
tên ông ta là Trương Tiến.
Lănh binh Trương Tiến an toàn về nước, và
tháng 8/1947, vua Thiệu Trị cho khắc tên Lănh binh
Tiến lên một trong 12 khẩu thần công mới đúc xong để
tuyên dương công trạng cùng những Vơ Văn
Giải, Nguyễn Tri Phương, v.. v... (ĐNTLCB, 25:347,
26:341) Chẳng
hiểu ông Trương Tiến
này liên hệ ǵ đến Trương Chánh Thi hay
chăng? Tôi nghĩ là không. Ông Thi đă
chết năm 1840, 1845 hoặc 1846!
6. Trong số những
người chết trận
năm 1845 trên đất Chân Lạp người ta thấy
có Phó vệ úy Trương
Lư. (ĐNTLCB,
25:293) Ông
Trương
Lư này liên hệ ǵ đến Trương Chánh
Thi? Có lẽ cũng không. Hai chữ “Lư” và “Thi”
khác nhau xa, khó thể lẫn lộn. Hơn nữa, con ông
Trương Lư được tập ấm làm Cẩm y vệ, trong khi con
ông Trương Chánh Thi, nếu quả có nhân vật
này, làm con nuôi các giáo mục.
7. Lại
có tên Trương
Trịnh bị giết ở Vĩnh Long vào tháng 10 năm
Bính Ngọ [19/11-17/12/1846]. (ĐNTLCB, 26:165-6) Tôi nghĩ Trương Trịnh
không phải là
thân phụ ông Petrus Key, v́ y là một tướng
cướp.
F. Người bạn
già nói ông Trương Chánh Thi
làm quan dưới hai triều Minh Mạng (1820-1841) và Thiệu
Trị (1841-1847), nhưng lại bảo ông Thi chết “năm 1840”
[khác với đa số tài liệu khác, ghi ông Thi
chết năm 1845 hoặc 1846]. (Chi tiết này giống trong
sách
của Nguyễn Văn Trấn, 1993, tr. 9). Nếu thế ông Trương
Chánh Thi chắc chắn không thể phục vụ triều
Thiệu
Trị: Vua Thiệu Trị lên ngôi ngày 20
tháng Giêng Tân Sửu, tương đương với ngày 11/2/1841.
Vua Minh Mạng chết trước đó gần một
tháng vào buổi chiều ngày 28 tháng Chạp
Canh Tư (20/1/1841) (nghĩa là không thể chết
v́ té ngựa trong dịp lễ diễn binh thọ ngũ tuần như
Linh
mục Léon Pagès và các nhà truyền
giáo Ki-tô Vatican truyền tụng, v́ đại lễ ngũ tuần
đă chấm dứt hơn nửa năm trước).
Cách nào đi nữa,
không
có
tên
Trương
Chánh
Thi
dưới
hai
triều
Minh
Mạng
và
Thiệu
Trị.
G. Ông bạn
già c̣n nói ông Trương
Chánh Thi làm quan đến chức Lănh binh ở
Nam Vang, đại diện triều Nguyễn bên cạnh vua Chân Lạp
(Kampuchea).
1. Lănh binh
là chức vơ quan khá to. Thông
thường Lănh binh cầm đầu binh đội (biền binh) của
một tỉnh,
quan tước thường là Chánh hoặc Ṭng Tam
phẩm, hoặc có thể lên tới ṭng nhị phẩm
(Thanh-Nghệ). Dưới triều Minh Mạng, tháng sáu nhuận
năm
Ất Mùi [26/7- 23/8/ 1935], vua ra dụ định rơ việc bổ
nhiệm các lănh binh và phó lănh binh
như sau: 9 tỉnh to, quân lính nhiều (Quảng Nam, Quảng
Ngăi, Gia Định, Nghệ An, Hà Nội, Nam Định, Hải
Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây và Trấn Tây) đặt một
lănh binh và một phó lănh binh. 12 tỉnh
trung b́nh (B́nh Định, B́nh Thuận, Vĩnh Long,
An Giang), hoặc gần kinh kỳ hay ở những chỗ hiểm yếu
(Quảng Trị, Quảng
B́nh, Hà Tĩnh, Thanh Hoa, Ninh B́nh, Hưng
Yên, Lạng Sơn và Hà Tiên) chỉ đặt một
lănh binh quan. 9 tỉnh nhỏ mà quân số ít
(Phú Yên, Khánh Ḥa, Biên Ḥa,
Định Tường, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hưng
Hóa, Quảng Yên, Cao Bằng) th́ đặt một phó
lănh binh quan. Tỉnh nào có nhiều lính thủy
(Nghệ An, Thanh Hoa, Nam Định, Hà Nội) th́ đặt một
thủy sư phó lănh binh quan, dùng quan ṭng
tam phẩm. (ĐNTL,CB,
II, 17:20-22) Lănh
binh đều được ghi chép trong sử, v́ sử ghi chép
rơ sự thuyên chuyển, thăng cấp, giáng cấp của họ.
Dưới thời Thiệu Trị, lănh binh và phó lănh
binh c̣n được ban phát bài ngà có
khắc tên. Không được sử quan ghi tên, ông
Trương Chánh Thi khó thể mang quân chức Lănh
binh. (Năm 1835, tác vi phó lănh binh thành
Trấn Tây, trật tam phẩm, là Nguyễn Văn T́nh;
ĐNTL,CB, II, 17:21)
2. Tại Kampuchea ngày
nay
(Chân Lạp), từ năm 1837, Minh Mạng đă
quyết định
“đặt vào bản đồ” Việt Nam sau cuộc nổi loạn
của
giáo dân Ki-tô và lính Hồi
Lương, B́nh Thuận năm 1833-1835. Tháng Mười Đinh Dậu
[29/10-27/11/1837], triều đ́nh Huế chia
“Trấn
Tây Thành” làm 4 phủ. Hai phủ lớn Hải Tây,
Hải đông, đặt một tuyên phủ sứ (tam phẩm), 1 lănh
binh (ṭng tam phẩm), thuộc viên, 1 cơ lính lấy từ
Gia Định, Vĩnh Long. Phủ Sơn Định [Sơn Bốc cũ], lấy
phủ Mỹ
Lâm [Ca Lâm cũ], và 5 huyện khác, đặt nửa cơ
lính Phủ Quảng Biên, vẫn giữ án phủ sứ như cũ,
thêm một pḥng thủ úy, nửa cơ lính
trích từ Hà Tiên. Ngoài ra, cử thêm 20
đường quan tại 6 bộ đi làm tri huyện ở Trấn Tây.
(ĐNTLCB, II, 19:257-61) [Theo lời đề nghị của nhóm
Trương
Minh Giảng, Phạm Hữu Tâm, Trương Đăng Quế, Nguyễn Công
Hoán, Hà Duy Phiên, Nguyễn Trung Mậu, Hà
[Tôn] Quyền].
Ngoài ra c̣n có
ba
cơ
“An
Man” tại Nam Vang, gồm hầu hết người Chàm, mỗi
cơ
chỉ có 6, 7 cán bộ người Việt, kể cả một thông
ngôn. (Theo ĐNTLCB, vào tháng Một Mậu Tuất
[17/12/1838-14/1/1839], ba cơ An Man ở Trấn Tây phần
đông
là người Chàm Đồ bà ở nhờ đất Chân Lạp.
Hết ḷng trung thành với nhà Nguyễn, nên bị
thổ dân ghét. Vua mật dụ cho Trương Minh Giảng cân
nhắc họ; 20:262-65)
3. Hơn nữa,
nói đến chức
vụ “đại diện triều Nguyễn bên vua Chân Lạp,”
th́ phải xác định vua nào? Quốc vương Ang Chan
[Nặc ông Chăn] (1805-1834) hay Nữ chúa Ang May [Ngọc
Vân quận chúa] (1835-1837), con gái và người
kế vị Ang Chan năm 1835? Tôi đọc khá kỹ Đại Nam Thực
Lục Chính Biên hai triều Nặc Chăn và Ngọc
Vân, không thấy có ông Lănh binh người
Việt nào họ Trương ở Nam Vang hay Trấn Tây Thành
trước năm 1842.
. 5/10/1841: Phong
suất đội cơ An
Man Trấn Tây là Lâm Mục lên chức chánh
đội trưởng. (23:341-342)
Ngay cả đến giai
đoạn ngắn ngủi
của Ang Duong [Nặc Ong Giun] hay Ang Em [Nặc Yểm]
trong hai năm
1845-1846 cũng vậy.
Như thế, ít
nữa theo
sử quan nhà Nguyễn, không
hề có Lănh binh Trương Chánh Thi,
mà cũng chẳng có “thừa biện” Trương
Chánh Thi bên cạnh vua Chân Lạp. (Ông Nguyễn
Văn Trấn cũng nhắc đến chi
tiết “sứ thần” này)
4. Người Khmer
th́ không biết dùng giấy mực như người
Việt nên dĩ nhiên không thể ghi
tên “Lănh binh, đại diện triều
Nguyễn” Trương
Chánh Thi. Sau này, các học giả Pháp
giúp triều đ́nh “Cambodge” viết lại lịch sử,
nhưng cũng không thấy nhắc đến “thừa biện, lănh
binh”
Trương Chánh Thi. C̣n “sứ thần” bên cạnh vua
Miên có lẽ chỉ nằm trong trí tưởng tượng của những
người kể chuyện cổ tích.
Lướt qua sử liệu
triều Nguyễn, ta
thấy ngay đến các Cai đội, quản cơ, đội trưởng
hay
Phó Lănh binh c̣n được nêu
tên. Nếu quả thực có “Lănh binh” Trương
Chánh Thi, lại là thứ lănh binh v́ nước bỏ
ḿnh trên đất Kampuchea, hẳn không thể lọt sổ.
Như
thế, ông
“Lănh binh” Trương Chánh Thi không hiện
hữu. Phụ thân Petrus Key, nếu quả thực mang tên
Trương
Chánh Thi, có thể là vơ quan cấp nhỏ (cử
nhân vơ vào thời Thiệu Trị chỉ được hàm
Chánh hoặc Tùng lục phẩm), và nếu quả từng phục vụ
ở Trấn Tây, trong đạo binh An Man, th́ có lẽ
là người gốc Chàm, gốc Hoa, hay giữ chức thư lại,
thông ngôn (giống như đoạn đầu hoạn lộ của Petrus Key
với
đạo quân viễn chinh Pháp sau này). (Một giáo
chức miền Nam, ông Trần Thượng Thủ, nghĩ rằng Petrus
Key
có thể là người gốc Hoa, v́ họ Trương rất phổ
thông trong giới người Hoa tại miền Nam)
Đáng lưu ư
thêm rằng trong thư ra mắt Trung tá Hải quân
Jauréguiberry vào tháng 3/1859, Petrus Key chỉ
kư tên Petrus Key mà không có
tên Việt “Trương Vĩnh Kư” đi kèm như ông
thường dùng sau này. Trong thư ra mắt một cấp chỉ huy
Pháp (Grand Chef et vous tous)– để xin việc làm, kiểu
“cover letter” ở Mỹ, như ai đó lư luận–mà
không ghi thêm tên thực Trương Vĩnh Kư
là việc hơi khác thường. Có thể v́ một
lư do nào chưa biết, như muốn dấu bí mật đề
pḥng trường hợp thư bị lọt vào tay quan quân
nhà Nguyễn? Nhưng cũng có thể v́ ngày ấy
Petrus Key chỉ biết ḿnh có cái tên độc nhất
và vỏn vẹn hai chữ Petrus Key. Cách nào đi nữa,
bốn năm sau mới thấy chính thức xuất hiện thêm tên
Trương Vĩnh Kư. Và, từ đó, cái tên
Trương Chánh Thi, Nguyễn Thị Châu, v.. v.... Nói
cách khác, không thể không tự hỏi và
cần t́m hiểu những cái tên “Trương Vĩnh Kư”
và “Trương Chánh Thi” xuất hiện từ thời điểm nào?
Một trong những cách kiểm chứng khả tín nhất là
viết thư cho Collège général de Pinang, xin một
bản sao thông tín bạ (học bạ) của Petrus Key tại
đây. Việc này xin dành cho các nhà
“Petrus Key học.”
Nói cách khác,
nhân vật “Trương Chánh Thi,” “lănh binh,
thừa biện bên cạnh quốc vương Chân Lạp” hay
“sứ thần” ở gần Nam Vang chỉ hiện
hữu trong
trí tưởng của người đă công bố. Cũng tương
tự như huyền thoại ông Bùi Viện
“từng
qua Mỹ, được Tổng thống Ulysse Grant tiếp kiến”
huyễn truyền ở
Việt Nam bấy lâu và được lập lại trong hồi kư của
ông Bùi Diễm. (Xem Vũ Ngự Chiêu, “Nguyễn Ái
Quốc: Người Việt đầu tiên đến Mỹ?;” Hợp Lưu (Fountain
Valley,
CA), số 93, 94 (2007); Robert H. Miller, trong cuốn The
United
States and Vietnam, 1787-1941 (Washington, DC:
NDU, 1990), tr.
274-5n1). Hay, việc cụ Phan Châu Trinh bị “nhốt chung”
với Nguyễn
“Ô Pháp” tức Ái Quốc “ở ngục Santé,”
cùng những lời tuyên bố chẳng chút nào hợp
với khẩu khí của nhà chính trị cải lương họ Phan.
Đó là chưa kể những “bí ẩn lịch sử” như phụ
thân cụ Phan Bội Châu đă phải đổi tên “Sang”
của cụ thành “Châu” v́ “sợ phạm húy vua Duy
Tân [Vĩnh San]” trước ngày ông vua này ra đời
cả chục năm! (Xem Nguyễn Mạnh Quang, Thực chất Giáo
hội La
Mă, II:695-700; Chính Đạo, Hồ Chí Minh: Con
người & Huyền thoại, tập I (ấn bản 1997); hoặc Vũ
Ngự Chiêu,
Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, 1883-1945, tập II & III
(ấn
bản 2000))
Đáng buồn là những
công tŕnh “ziết sử” hay “bí ẩn” lịch sử loại
này không thiếu trong khối “nghiên cứu văn” Việt Nam.
Tại sao Petrus Key
làm con nuôi
các cố đạo?
Duyệt xét các cung văn
về Petrus Key, một vấn đề khiến người học
sử không
thể không thắc mắc: Đó là, tại sao
bà Nguyễn Thị Châu trao Petrus Key cho
các cố đạo nuôi?
Trước khi đi sâu vào
vấn
đề này, cần xác định vài thời điểm. Trước hết,
ông Petrus Key bắt đầu đi “trọ học” hay vào nhà
chúa Bl’ời hoặc tiểu chủng viện từ bao giờ? Thứ hai,
phụ
thân Petrus Key thực sự chết ngày nào? Cả hai
câu hỏi trên đều chưa có đáp án
rơ ràng.
Người nói
bà Nguyễn
Thị Châu trao Petrus Key, lúc mới 5 tuổi, cho giáo
mục Tám, và rồi sau khi ông này chết,
giáo sĩ Pháp có tên Việt là cố Long
nuôi. Như thế, từ năm 1842 Petrus Key đă xa mẹ. Nhưng
cũng
có tác giả ghi Petrus Key chỉ được các cố đạo
nuôi từ năm 1846, khi đă 9 tuổi.
Về ngày
phụ thân Petrus Key từ trần cũng vậy. Người
ghi năm
1845, người ghi năm 1846, lại cũng có người ghi
năm 1840.
Các nhà Petrus Key học tương lai cần giải quyết
hai
vấn đề tiên thiên trên trước khi bàn
về những chi tiết khác.
Hai vấn đề thời
điểm Petrus Key
được giao cho các cố đạo nuôi, và ngày phụ
thân ông từ trần rất quan trọng trong việc t́m hiểu
tại sao bà Nguyễn Thị Châu, thân mẫu ông
Petrus Key, gửi hay giao bán con cho các nhà
truyền giáo. Nếu việc gửi gấm hay giao bán này xảy
ra trước ngày ông Thi chết, sẽ nẩy sinh câu hỏi
khác: Phụ thân ông Petrus Key có được
thông báo, và đồng ư chăng, hay bà
Châu đă tự ư quyết định? Nếu phụ thân Petrus
Key chết trước ngày cậu được gủi cho các giáo sĩ
nuôi, vấn đề trở thành đơn giản hơn; v́ mọi quyết
định đều do bà Nguyễn Thị Châu.
Câu hỏi thứ nhất
khá phức tạp, đ̣i hỏi việc t́m ṭi vết
tích ông Trương Chánh Thi. Câu hỏi
thứ hai hạn chế trong ba giả thiết
cơ bản: (1)
bà Châu là người đạo gốc muốn gửi con
cho các giáo sĩ dạy bảo để sau này
có chức, có phận (như thày kẻ giảng,
giáo mục); (2) bà Châu v́ hoàn cảnh
kinh tế khó khăn, phải giao Petrus Key cho các
giáo sĩ nuôi; và, (3) v́ hoàn cảnh
khó khăn, bà Châu đă cải đạo, đồng thời giao
con cho nhà chúa Bl’ời.
Trước hết, chưa tài
liệu
nào cho phép khẳng định ông bà Trương
Chánh Thi-Nguyễn Thị Châu là tín đồ
Ki-tô giáo (khai sinh, giấy chứng nhận rửa tội, gia
phả,
người thân, v.. v...). Hy vọng những chuyên viên gia
phả học, như quí ông Vũ Hiệp, v.. v... sẽ giúp
khẳng định có hay không tư liệu hộ tịch của gia
đ́nh ông Trương Chánh Thi.
Nếu bà Nguyễn
Thị Châu không là tín đồ
Ki-tô, việc giao con cho các cố đạo nuôi thường
xảy ra trong trường hợp bất khả kháng
nào đó. Nên nhớ thời gian này,
vua Thiệu Trị và Tự Đức đang thi hành
chính sách cấm đạo. Gửi con cho các
nhà truyền giáo nuôi là một việc làm
nguy hiểm đến tính mạng như không. Cũng không một
bà mẹ thương con nào nghĩ rằng thày kẻ giảng, hay
giáo mục là người có chức, có phận trong
một chế độ áp dụng chính sách bài
Ki-tô. V́ càng có chức phận trong đạo,
càng bị h́nh phạt nặng nề; nhẹ th́ khắc chữ
lên mặt, lên trán, tập trung để giáo
hóa; nặng th́ có thể lên tới án lưu
đầy, tử h́nh. Trong số những hoàn cảnh bất khả
kháng, có hai trường hợp đáng suy nghĩ: Thứ nhất,
bà Châu quá nghèo khổ, đành giao cho
con cho các giáo mục nuôi cho bớt gánh nặng.
Hoặc, thứ hai, bà Châu đă “bán” con cho
các giáo sĩ, và bản thân có thể cũng
theo đạo, để được giúp đỡ về phương diện kinh tế.
Vào giữa
thế kỷ XIX,
“bán con” là một hủ tục quen thuộc
tại Đại Nam (cũng như Trung Hoa). Cho đến
thập
niên 1940, tức khoảng 100 năm sau ngày Petrus Key
làm con nuôi các cố đạo, vẫn c̣n tục lệ
bán con nói trên.
Trong khi đó,
v́ chính sách bài đạo của
nhà Nguyễn, các giáo
sĩ Ki-tô t́m đủ cách để gia tăng
số tín đồ. Trong kế hoạch gia tăng giáo
dân trên có việc dùng tài lợi mua
chuộc, nuôi dưỡng trẻ mồ côi, và mua
con nít của những gia đ́nh Lương nghèo
khổ (như ăn mày) để huấn luyện làm
thày kẻ giảng, và nếu đứa trẻ thông minh, có
thể huấn luyện làm giáo mục bản xứ. Tại Cao Miên,
số tiền các giáo sĩ bỏ ra để “rửa tội” cho mỗi người
ngoại đạo lên tới hơn 100 quan vào năm 1858. Cũng năm
này, tại các giáo phận, đại đa số những trẻ em
được rửa tội đều đă sắp chết. Số trẻ em mồ côi hoặc
con
nhà nghèo bán cho các nhà tu
hàng năm cũng khá quan trọng. (Xem Phụ Bản 2) Đa
số “các chú” trong các “nhà Chúa
Bl’ời” đều là cô nhi hay con nhà nghèo được
giáo sĩ bỏ tiền ra mua về.
Thêm vào đó,
từ năm 1840 tới 1845, t́nh h́nh Gia Định
thành cực kỳ bất an.
Loạn “Thổ dạy” lan
tràn khắp nơi. Vùng Cái Mơn của gia đ́nh
Petrus Key là một trong những địa phương bị thiệt hại
nặng nhất.
Phụ thân Petrus Key, nếu quả thực là một vơ quan
nhỏ, lương bổng chẳng bao lăm (khoảng trên dưới 3 quan
tiền, 3
phương gạo một tháng). Một khi từ trần, thân mẫu ông
có thể gặp nhiều khó khăn về sinh kế. (Theo một
nhân chứng Mỹ, Thiếu tá John White của Hải quân Mỹ,
người đă sống tại Gia Định thành gần 4 tháng
cuối năm 1819, đầu năm 1820, vợ con các quan chức nhỏ
đều
buôn bán phụ giúp ngân sách gia
đ́nh, và được trọng đăi hơn phụ nữ người Hoa)
Cả hai điều kiện
khách
quan và chủ quan, cung cũng như cầu,
đều
mở cửa cho những người cha mẹ nghèo giao
bán
con cho các cố đạo nuôi. Cho tới khi
có tài liệu chứng minh ngược lại,
chú bé Petrus Key có nhiều phần
trăm thuộc vào đa số “các chú”
nói trên. (Hy vọng trong một tương lai gần, sẽ có
được đầy đủ lư lịch và thông tín bạ của
Petrus Key tại trường Collège général de Pinang)
Petrus Key
và Ngoại Ngữ:
Không ai
có thể phủ nhận được một điều
là Petrus Key thuộc hạng thông ngôn tài
giỏi của người Pháp trong giai đoạn xâm phạm Đại Nam.
Mặc dù không có dịp làm giàu, nhưng
Petrus Key trở thành một biểu tượng của giới tân học
bản
xứ, và thuộc hạng quan to, chức lớn.
V́ thành đạt
này, những người ngưỡng mộ Petrus Key đă
vẽ chân cho rắn đến nhiều khi phi-nhân-hóa
ông. Người đọc sách sử không thể không tự hỏi
thực chăng chú bé 11 tuổi Trương Vĩnh Kư
nói thông thạo “5 thứ tiếng,” và sau này
thông thạo tới “26 thứ tiếng?” Thực chăng ông Petrus
Key
xứng danh là một nhà ngôn ngữ học (linguist), hay
chỉ là một thông ngôn (interpreter hay translator)
xuất sắc? (Cũng nên thêm rằng tiếng “linguiste”
vào thời gian này không có nghĩa là
nhà ngôn ngữ học mà chỉ dùng theo nghĩa hạn
hẹp là một người biết tiếng “Ô Lan” tức
Âu châu. Trong số những “linguistes” mà Thiếu
tá White sử dụng năm 1819 có Pasquale, một
người
Tagal lập nghiệp ở Sài G̣n, nói tiếng Portugal,
có vợ Việt, thuộc giới làm áp phe với các
tàu buôn ngoại quốc; Linh mục Antonio gốc
Italia; Mariano;
Linh mục Joseph, Vincente)
1. Khái niệm
về sự thông thạo một ngoại ngữ:
Theo Nguyễn Văn Trung,
hồ sơ cá nhân Petrus Key tại soái
phủ Sài G̣n ghi vào giữa thập niên
1870, ông biết 7 ngoại ngữ: Pháp, Anh, Tây Ban Nha
(Espagnol), I-ta-lia, Malay, Chân Lạp (Miên) và
Latin. (Nguyễn
Văn Trung,
1993, tr. 138, note)
Đây có lẽ do Petrus
Key tự khai hơn đă có một cuộc trắc nghiệm chính
thức. Ngoài ra, không thấy hai thứ chữ Hán-Việt
và Nôm.
Số ngoại
ngữ này
có thể tạm chấp nhận được. Nhưng thật
khó để tin Petrus Key thông thạo tới “15
sinh
ngữ, tử ngữ Âu châu và 11 sinh
ngữ Á châu” như một ông Pierre
Vieillard nào đó đă viết năm 1947. (Pierre
Vieillard, “Un grand patriote Pétrus Kư;” France-Asie,
số
15/2 và 15/3/1947; dẫn trong Nguyễn Văn Trung, 1993,
tr. 138)
a. Thời gian
huấn luyện cần
thiết:
Cá nhân tôi,
trong thời gian chuẩn bị chương tŕnh Sử Đông Nam
Á, từng học thêm hai ngoại ngữ Indonesian và
Thái tại Athens (Ohio) và Madison (Wisconsin). Dù
qua lớp “intensive course” (khóa cấp tốc, tức dồn hết
th́
giờ trong ngày để học một sinh ngữ), thường thường cần
từ 10
tuần tới 9 tháng để có thể nói, đọc và viết
một cách tạm đủ dùng, tức get around như
chào hỏi thông thường, đi chợ, hỏi đường xe cộ, đọc
vài tin báo đơn giản. Sau đó, cần sử dụng
ngôn ngữ trên qua các buổi nói chuyện với
người bản xứ, đọc sách báo, v.. v... trong vài ba
năm mới tiến đến mức trung b́nh.
Muốn thành
thạo được 26
thứ tiếng, Petrus Key phải bỏ ra ít nhất 20,
21 năm
huấn luyện liên lũy, đó là chưa kể thời
gian cần thiết để trau dồi thêm tại các
xă hội ngoại quốc trên cùng sách
báo địa phương. Nhưng, thực tế, Petrus Key chỉ
theo học
các trường đạo từ khoảng năm 1842 tới 1858. (Thời gian
huấn
luyện ở Penang thông thường kéo dài 3 năm). Suốt 15
hay 16 năm trên, cách nào để ông thông
thạo 26 thứ tiếng khi không có những lớp huấn luyện
chuyên môn? Tại các trường đạo ở Cái Mơn, Cao
Miên, hay Pinang, các giáo sĩ chỉ dạy ba thứ
ngôn ngữ chính: Pháp, Việt và Latin. Muốn
thông thạo “23” thứ tiếng khác, sợ rằng chẳng những
không đủ thời gian luyện tập, mà c̣n thiếu
giáo sư huấn luyện, và cũng không có đủ số
23 sinh ngữ hay tử ngữ khác mà học. Ngoài ra,
trong số 127 [141, hay 143] “tác phẩm” của ông phải
có dấu vết việc học tập các ngoại ngữ này. (Năm
1888, thư viện Nam kỳ chỉ có 88 cuốn sách của Petrus
Key.
Năm 1898, trong số sách tồn kho bà quả phụ Petrus Key
yêu cầu Pháp tiêu thụ giúp chỉ có 23
(hai mươi ba) tựa sách) Nhưng chưa một nhà nghiên
cứu nào, ở ngoại quốc hay trong nước, liệt kê và
dẫn chứng đầy đủ 26 thứ tiếng mà Petrus Key học tập
hay
thông thạo. Ngay đến việc “10 thứ tiếng” mà ông Hồ
Hữu Tường nêu lên, hay “15 thứ tiếng” mà ông
Nguyễn Thanh Liêm đề cập cũng không liệt kê và
chứng minh được đầy đủ. Và, Petrus Key, chẳng hiểu có
khiêm tốn hay chăng, cũng chỉ ghi trong hồ sơ cá
nhân ḿnh biết hoặc đă học 7 (bảy) ngoại ngữ.
(Nguyễn Văn Trung, 1993, tr. 138, note) Rất tiếc tôi
không
rơ Petrus Key có tự khai tŕnh độ đọc, viết
và nói của ḿnh hay chăng (như fair [vừa phải],
good [khá] hay excellent [thông thạo như người bản
xứ]).
b. Khả năng
hấp
thụ ngôn ngữ:
Các nhà ngôn
ngữ học huấn luyện chúng tôi cho biết người cực
kỳ
thông minh chỉ có thể thông thạo được 5 hay 6 thứ
tiếng là cùng. Có nhà thông
thái, như Giáo sư John Dower, lập gia đ́nh với một
phụ nữ Nhật, bỏ ra hơn 20 năm nghiên cứu về lịch sử
Nhật, nhưng
tâm sự với tôi là ông chưa dám
tuyên bố thông thạo tiếng Nhật. Nhiều học giả ngoại
quốc ở
Mỹ hai, ba chục năm mà nói và viết tiếng Anh vẫn
chưa hết dấu vết ngoại quốc.
Chưa
hề có ai
không từng được luyện nói mà có
thể nói một ngoại ngữ “thông thạo”; chưa học
văn
phạm một ngôn ngữ mà có thể
đọc hiểu hoặc viết một cách tường tận. Cho dẫu những
người
có trí nhớ phi thường, đến độ “graphic memory”
[trí nhớ như in], mà không được huấn luyện cũng
đành khoanh tay; giỏi lắm, lơm bơm vài ba
chữ, vài câu làm duyên.
c. Phương pháp
huấn luyện:
Vào hạ bán
thế kỷ XIX, các phương pháp dạy ngoại ngữ
c̣n đặt nặng vào phương pháp đọc-học,
tức học viên phải học thuộc ḷng từng chữ, từng câu,
từng đoạn, và ngoẹo đầu ngoẹo cổ tụng đọc như các học
viên của các tu viện Islam mà ai có dịp theo
dơi thời sự về phong trào Taliban ở Afghanistan mới
đây từng chứng kiến. Thời đó chưa có các
phương tiện luyện âm (audio), luyện h́nh (flash cards
hay
visual) hiện nay. Bởi vậy, muốn thông thạo (tức nói,
đọc
và viết) một ngoại ngữ ngoài tiếng mẹ đẻ không dễ.
Mặc dù người Pháp đă biết cách sử dụng
những phụ tá người bản xứ–tức các
répétiteurs người bản xứ trong các lớp học ngoại
ngữ–dẫu có thứ trí nhớ phi thường, học viên chỉ
có thể đọc thông thạo một ngoại ngữ, nhưng chưa hẳn
đă viết rành mạch và nói trôi chảy.
Trường hợp các sứ giả Việt phải bút đàm với quan
chức Trung Quốc, hay cụ Phan Bội Châu mượn giấy mực
“nói
chuyện” với Lương Khải Siêu trên đất Nhật–dù cụ
Châu từng đậu giải nguyên trường Nghệ và vào
Huế tọa giám chờ ngày thi Tiến sĩ–chỉ là
vài thí dụ cụ thể. Những di dân Việt trên thế
giới có lẽ từng tri nghiệm điều này bằng chính bản
thân ḿnh hơn phần tư thế kỷ qua. (Theo Tổng trú sứ
Pierre Rheinart, Linh mục Nguyễn Hoằng, một trong hai
thông
ngôn chính thức của vua Tự Đức tại Ty Thương Bạc,
là người biết được 4 thứ tiếng: Anh, Pháp, Nho và
chữ Việt mới)
d. Huấn luyện
viên:
Các nhà truyền
giáo thường được coi như những chuyên viên
về ngôn ngữ. Nhờ lănh thổ hoạt
động
bao trùm hoàn cầu, các chủng viện qui
tụ số huấn luyện viên ngôn
ngữ khá hùng hậu.
Tuy nhiên,
tại đại chủng
viện Pinang không có đủ số chuyên
viên để dạy bảo Petrus Key 26 thứ tiếng. Chương tŕnh
huấn
luyện cũng không đ̣i hỏi học sinh phải biết nhiều
ngoại
ngữ, và trên thực tế các học viên chỉ được
dạy bảo ba thứ tiếng: Pháp, Latin và chữ Việt sử dụng
mẫu
tự Latin.
2. Ngoại
ngữ Petrus Key
thông thạo:
Song song với danh
sách
số 7 ngoại ngữ liệt kê trong
hồ sơ cá nhân Petrus Key, một trong
những
nguồn tài liệu để t́m hiểu số ngoại
ngữ
mà Petrus Key thông thạo là chương
tŕnh huấn luyện của Collège général de
Pinang tức Đại Chủng viện Pinang mà cậu thanh
niên Petrus Key theo học từ khoảng 1855 tới 1858.
Theo tài liệu Hội
truyền
giáo Hải ngoại, trường này dạy hai thứ
tiếng chính: Pháp và Việt (sử
dụng mẫu tự Latin, tức quốc ngữ hiện nay). Ngoài ra,
học
viên c̣n được học triết lư Greek (Hy Lạp), thần học
và cổ ngữ Latin.
Chữ Việt
và Pháp có thể Petrus Key đă
bắt đầu học
từ thời ở với “cụ
Tám” ở Cái Mơn, hay cố Long,
cố Ḥa, và tiểu chủng viện Pinhalu (Cao
Miên). Như thế, vào năm 1855-1858, Petrus Key
có thể thông thạo hai thứ tiếng Pháp
và Việt ngữ mới, với tŕnh độ một học sinh Trung
học. Cổ ngữ La-tinh là tiếng thứ ba cậu thanh niên
Petrus
Key được huấn luyện tại Đại Chủng viện Pinang (tức bậc
trung học đệ
nhất cấp). Mặc dù phần lớn các học viên chỉ cần
biết nói vài ba câu Latin để làm lễ
phép bí tích hay rửa tội đă đủ, nhưng
Petrus Key có thể thành thạo v́ thông
tín bạ của Petrus Key chứng tỏ cậu là một học viên
xuất sắc. (Tuy nhiên, muốn tốt nghiệp đại chủng viện
thường
đ̣i hỏi phải có ḷng phục tùng tuyệt đối). [Năm
1858,
theo
Phó
Giám
mục
Borelle,
“chú
Kư”
cùng
một
chú
khác
về
tới
Cái
Mơn;
“chú”
thứ
hai này bị trục xuất khỏi Pinang v́
lư do hạnh kiểm, và trở thành một tay cờ bạc, trộm
cắp. “Chú Kư” th́ được tiến cử cho
Pháp làm thông ngôn]
V́ Pinang nằm
trong một
thuộc địa của Bri-tên, Petrus Key và đồng song
có thể được học thêm một số chữ và thành ngữ
tiếng Anh cổ thời. Trong thư viết vào tháng 3/1859 gửi
Hải quân Trung tá Jauréguiberry, Petrus Key
trích một câu ngạn ngữ: “The wearer knows very well
where
the shoe pincheth” [Kẻ đi giày mới biết chỗ nào xiết
thốn]. (Vũ
Ngự
Chiêu, Các vua cuối, I:130chú 32) Nhưng khả năng “nói và
viết” tiếng Anh th́ cần đặt dấu hỏi. Một dấu hỏi rất
lớn. Những
ai từng sống ở Mỹ, Os-tră-lia, Canada, hay Bri-tên có
thể
nghiệm chứng điều này. Dù ra sức học tập từ 5 tới 10
năm,
cũng chỉ đủ khả năng nói và đọc, viết tiếng Anh qua
loa
thôi. Khả năng nói tiếng Anh của Petrus Key, theo
ông Nguyễn Văn Tố, được một người Anh ghi nhận là
“nói với tôi bằng một thứ tiếng Anh rất thành thạo,
hơi pha giọng Pháp.” (Nguyễn Văn Tố, 1937, tr. 37, dẫn
trong
Nguyễn Văn Trung, 1993, tr. 139) Tiếng Anh phát âm
bằng
mũi, tiếng Pháp phát âm bằng cuống họng; bảo một
người nói tiếng Anh rất thành thạo, nhưng pha giọng
Pháp, khó thể là một lời khen. Giống như có
người đến Mỹ, muốn ăn thịt ḅ nướng [beefsteak], lại
nói
thành muốn ăn thứ “gậy đánh ḅ” (khô
ḅ) [beef-stick]! Đó là chưa nói đến
cuốn tự điển loại bỏ túi từ tiếng Pháp qua tiếng Anh,
ấn
bản năm 1812 của Thomas Nugent t́m thấy trong di vật
của Petrus
Key và được đem ra triển lăm năm 1933. Một người
thông thạo tiếng Anh, nói chi một nhà ngôn
ngữ học, ít khi dùng tự điển bỏ túi. Có lẽ
đây chỉ là món quà ai đó tặng cho
Petrus Key.
Pinang [đảo Dừa]
là một
ḥn đảo nằm về phía Tây của
bán đảo Mă Lai, nơi người Hoa và
thổ dân Mă Lai sống bằng kỹ nghệ khai
thác mỏ kẽm. Sau 5 năm sống tại đây, Petrus Key có
thể học thêm ít tiếng Malay (Mă lai), như apa
ká-pà? [ông mạnh giỏi?], Bay bay
sájà [Tốt, tốt lắm!]. Sau này, học
thêm để soạn những câu đàm thoại đơn giản; nhưng
cũng có thể chỉ phiên dịch từ một tác phẩm ngoại
quốc nào đó. Có lẽ v́ thế, hồ sơ cá
nhân ghi Petrus Kư biết tiếng Malay. Rất tiếc tôi
chưa có dịp nghiên cứu các sách viết về
tiếng Malay do Petrus Key soạn (nếu có) nên chưa thể
thẩm
định giá trị các sách trên, và từ
đó khả năng hiểu biết tiếng Malay của ông. Hy vọng sẽ
có một nhà ngôn ngữ học, hay Đông Nam
Á học nào t́m đọc các tác phẩm
trên.
V́ đa
số học
viên tại Pinang từ 1852 tới năm 1857
là người
Việt (117 người năm 1857), cơ hội để Petrus
Key học
thêm ngoại ngữ từ bạn đồng song rất
hiếm. Đa
số học viên không-phải-người-Việt đến từ Xiêm, Trung
Hoa, hoặc Lào. Nhờ vậy, Petrus Key có thể nói được
ít thổ âm của người Hoa (kiểu nị hảo búa hảo
[ông/bà khỏe không?], chịa muối [ăn
cháo], chịa mừng [ăn cơm]), hay ít tiếng thông dụng
Thái (Xiêm) và Lào (kiểu tham ngan yù
thí nải? [làm việc ở đâu?], pop-căn-mày!
[hẹn gặp lại]). Trong danh sách các tác
phẩm của Petrus Key đăng trên Bách Khoa, về gần cuối
đời
ông, người ta thấy liệt kê những cuốn Cours de
langue
malaise (1893), Vocabulaire francais-malais
(1894), Cours
de
langue
laotienne (1894), Vocabulaire
laotien-francais (1894), Guide
de
la
conversation
laotienne-francaise (1894), Cours
de
siamois (1889), Vocabulaire
francaise-siamois (1894), Guide
de
la
conversation
siamoise-francaise (1894). Nhưng chẳng hiểu
có ai đă thấy tận mắt những tập sách này
hay chưa? Chữ viết Thái (Xiêm) dựa theo tiếng Sanskrit
và Pali, không dễ nhớ. Ông Petrus Key đă viết
bằng chữ Thái nguyên gốc hay dựa theo lối phiên
âm theo kiểu ghi âm của các nhà ngôn
ngữ học ngoại quốc? Và những “tác phẩm” này–theo
Giáo sư Trương Bửu Lâm, Giám đốc Viện Khảo Cổ
Sài G̣n–thường chỉ dài khoảng từ một, hai trang
tới vài chục trang là cùng. Tổng cộng những trang
bút tích của Petrus Key về “ngôn ngữ Đông
Dương” chỉ có 33 trang. (Xem thêm bảng liệt kê
các tác phẩm của Petrus Key mà ông Trương
Vĩnh Tống gửi tặng Viện Khảo Cổ Sài G̣n trong Nguyễn
Văn
Trung, 1993, tr. 88-98) Và cũng nên ghi thêm nhu cầu
tiếng Thái hoặc Lào vào thời gian này;
v́ Lào mới bị sát nhập vào Liên bang
Đông Dương.
Về tiếng
Miến Điện
[Myanmar], đây là một sinh ngữ rất khó học cho
người ngoại quốc. Trên thế giới hiện nay chỉ có khoảng
100
học giả không-phải-người-Miến thông thạo tiếng Miến.
Chẳng
hiểu Petrus Key học tiếng Miến từ bao giờ mà trong năm
1892,
ông đă soạn được ba bộ sách dạy tiếng Miến: Cours
de
langue
birmane,
Vocabulaire
francais-birman,
Guide
de
la
conversation
birman[e]-francais[e]. Năm 1892, Petrus Key cho
biết
đă hoàn tất bản thảo “autographiés” [in thạch
bản]; (Nguyễn Văn Trung, op. cit., tr. 126). nhưng chẳng hiểu có ai
đă thấy tận mắt những
tập sách hay bản thảo này được ấn loát năm 1894
như Bách Khoa công bố? Sách dày bao
nhiêu trang? Nội dung ra sao? Sử dụng chữ Miến chính
gốc,
hay loại chữ Miến đă phiên âm theo Tây phương?
Chưa được tham
khảo các
tác phẩm trên, nên tôi chưa thể có
ư kiến. Nhưng tưởng cũng cần nêu lên 2 nhận
xét sơ khởi nhỏ:
(1) Nếu tin được bảng
liệt
kê trong Bách Khoa đă đề cập,
chỉ trong năm 1894, Petrus Key hoàn tất bản thảo
hoặc cho
ra đời tới 43 tác phẩm, kể cả
bộ tự điển
Pháp-Việt lớn, tự điển tam ngữ Hán-Pháp-Việt,
cùng một tập Nhân vật chí các triều đại
Việt. Như thế, Petrus Key, ở tuổi 56-57, cứ khoảng 10
ngày
hoàn tất một tác phẩm (bản thảo). Không rơ
mỗi tác phẩm dày bao nhiêu trang, nhưng nếu trung
b́nh mỗi nghiên cứu khoảng 100 trang, chỉ ngồi chép
lại thôi cũng khó thực hiện nổi 43 cuốn, cho dẫu đă
làm việc nhiều năm. C̣n những ghi chú một
vài trang, chép từ một cuốn tự điển hay một biên
khảo của các tác giả ngoại quốc nào đó (như
nhiều tác giả Việt thường làm), mà tôn xưng
thành “tác phẩm” th́ sợ rằng cung văn quá
đáng.
(2) Thứ hai, mặc
dù năm 1892, Petrus Key nhắc đến ba [3] tựa
tự điển
Pháp-Việt lớn, tự điển tam ngữ Hán-Pháp-Việt,
và tập Nhân vật chí các triều đại Việt,
nhưng danh sách do Giáo sư Trương Bửu Lâm
thành lập tại Viện Khảo Cổ Sài G̣n năm 1958
không thấy các tựa sách này. Thư viện Quốc
Gia Pháp (Francois Mitterrand) th́ chỉ có tập Tự
điển
Pháp-Việt in năm 1878, và tập Tự điển
Pháp-Việt nhỏ, ấn bản năm 1884 và 1920. Văn khố
Kho
Lưu trữ Quốc Gia II tại Sài G̣n cho biết Petrus
c̣n hoàn tất bộ tự điển Annamite-francais
[Việt-Pháp]. Chưa ai t́m thấy hai tập tự điển
tam ngữ
Hán-Pháp-Việt, và tập Nhân vật chí
các triều đại Việt. Sách bị tuyệt bản chăng? Hay chưa
hề
ra đời? Hy vọng các nhà ngôn ngữ học hoặc
Đông Nam Á học t́m ra và làm việc
trên các tác phẩm này, nếu có, để
xác định công tŕnh của Petrus Key.
“Hoa ngữ,” chắc Petrus
Kư chỉ
học thêm sau này, v́ những năm đầu chiếm
đóng Sài G̣n, soái phủ Pháp vẫn phải
trông cậy ở các tay “nho” Tôn Thọ “Ba” Tường,
Trần Tử Ca hay Hiếu. Và ngay chính Petrus Key cũng
trông cậy ở “Ba” Tường” mỗi khi đụng chạm đến chữ Nho
(Hán-Việt). Có thể ông Petrus Key đă được
học một số chữ Hán-Việt (nghĩa là chữ Trung Quốc đọc
theo
lối người Việt) hồi nhỏ, rồi sau đó mới tự học thêm cả
chữ
Hán-Việt và Nôm trong thập niên 1860.
Măi tới năm 1875-1876, mới thấy Petrus Key bắt đầu
viết về
cách học chữ Hán (đọc theo kiểu người Việt), cho học
sinh
lớp đồng ấu. Cũng từ thời gian này người ta không thấy
tên nửa Latin, nửa Anh ngữ “Petrus Key” nữa, mà xuất
hiện
tên “Sĩ Tải” Trương Vĩnh Kư. Tại thư viện Francois
Mitterand (Paris) thấy có tập Huấn mông khúc
ca: Sách dạy trẻ nhỏ học chữ Nhu (1884), Tam
tự kinh
quốc ngữ diễn ca (1884), Đại Nam cuốc sử kư
diễn ca
của Lê Ngô Cát (1875). Rồi năm 1888, Petrus Key được
giao phụ trách dạy hai lớp chữ Nho và chữ Miên.
Và năm 1896, Petrus Key yêu cầu Pháp mua ủng hộ
2,000 cuốn Minh Tâm Bửu Giám [Le précieux
miroir du coeur].
“Ấn độ ngữ” có tới
hàng
trăm thứ tiếng (dialects) khác nhau, và nguyên
những loại tiếng chính của Liên bang India [Ấn độ]
đă có tới bốn năm thứ (Hindu, Urdu, Tamil, Sanskrit,
Pali, v.. v...). Bảo Petrus Key biết nói “Ấn độ ngữ”
chẳng hiểu
ông Hồ Hữu Tường và các tác giả khác
muốn nói ông Petrus Key lưu loát cả trăm thứ tiếng
trên, hay loại ngôn ngữ đặc thù nào
(thí dụ như tiếng Hindu hay tiếng nói của dân
Chettya, tức Chà và xét-ti, chuyên môn
gác cổng tư dinh quan lớn Pháp, làm mă
tà, mật thám, gác tù hay cho vay lời cắt cổ
ở Sài G̣n?) (Xem
Hồ
Hữu
Tường,
“Hiện
tượng
Trương
Vĩnh
Kư;”
Bách
Khoa
(Sài
G̣n),
M
[1974],
tr.
15-22)
Danh sách các tác
phẩm của Petrus Key trong Bách Khoa liệt kê năm
1894
ông Petrus Key hoàn tất 8 tác phẩm Cours de
langue tamoule, Guide de conversation
tamoul[e]-francais[e], Cours de
langue indoustane, Vocabulaire francais-indoustan,
Guide de la
conversation indoustan[e]-francais[e], Cours de
ciampois, Vocabulaire
francais-ciampois, Guide de la conversation
ciampoise-francaise.
Những tựa sách này được chính tay Petrus Key ghi
là “autographiés” [in thạch bản] năm 1892.
Nhưng
chưa thấy ai cho biết tác phẩm này hiện tàng trữ ở
đâu, và cũng chưa ai phân tích nội dung
các tác phẩm trên. Đặt vấn đề triệt để hơn,
thực chăng những tác phẩm này hiện hữu? Câu trả lời
xin dành cho những nhà Petrus Key học. (Tưởng nên
lập lại, trong mục “Ecritures et langues
indochinoises” [chữ
viết và tiếng nói Đông Dương], Viện Khảo Cổ
Sài G̣n chỉ ghi 33 trang bút tích của
Petrus Key về chữ Nôm, Quốc ngữ, Trung Quốc [viết và
nói], Miên, Xiêm, Chiêm Thành,
Lào và Mă Lai; Nguyễn Văn Trung, 1993, tr. 95).
(Có
lẽ Petrus Key
học được tiếng Miên ở đất Miên
(kiểu tâu
tê? [đi đâu thế?], tâu sa [đi chợ]) [từ
nhỏ ở Vĩnh Long và Miên, nên năm 1888, khi đang đảm
nhiệm việc dạy tiếng Miên tại trường Chasseloup
Laubat, Petrus
Key viết thư xin thêm một phụ tá người Miên để
giúp học sinh luyện giọng]).
Tiếng Y pha nho
[Spanish hay
Espagnol], không hiểu Petrus Key học ở đâu;
nhưng chắc chắn bản dịch thư vua Tự Đức gửi
Nữ hoàng Espania là bằng tiếng Pháp,
có kư tên Trương Vĩnh Kư. Khi ra
thông dịch ở Huế năm 1870, th́ Petrus Key
vẫn
dịch bằng tiếng Pháp. Và nếu biết loại tiếng Y pha
nho,
hẳn Petrus Key đă viết một cuốn sách dạy đàm
thoại, làm một cuốn tự điển kiểu bỏ túi hay những
“notes”
vài ba trang như tất cả những loại ngôn ngữ Petrus Key
đă tự học. Hoặc trong tủ sách gia đ́nh phải
có tự điển và văn phạm về loại chữ này. Chỉ hơi
ngạc nhiên là theo tài liệu văn khố Pháp, hồ
sơ cá nhân Petrus Key tại Soái phủ Sài
G̣n năm 1872, 1874, 1875 ghi rằng Petrus Key biết
tiếng Espania.
(Nguyễn Văn Trung, 1993, tr. 138, note) Đây có lẽ do
Petrus Key tự khai (v́ từng theo viên chức Pháp
tháp tùng sứ đoàn Phan Thanh Giản tới Madrid
ít tuần) hơn đă qua một cuộc trắc nghiệm chính
thức.
“Nhật ngữ” th́ khó
tin,
nếu chẳng phải hoang tưởng. Hồ sơ cá nhân Petrus Key
thuộc
Nha Nội chính Soái phủ Sài G̣n không
ghi ông biết tiếng Nhật. (Nguyễn Văn Trung, 1993, tr.
138, note)
Kho sách gia đ́nh mang ra bán năm 1898 hay đấu xảo
năm 1933 cũng không thấy có tự điển, sách dạy văn
phạm hay bất cứ dấu vết (như ghi chú, v.. v... ) nào
về
ngoại ngữ này. Người đầu tiên ghi Petrus Key “nói”
thạo tiếng Nhật là Pierre Vieillard vào năm 1947. Theo
tài liệu tôi được tham khảo, các nhà truyền
giáo không dạy tiếng Nhật ở Collège
général de Pinang, và cũng chẳng có dấu vết
nào của chủng sinh Nhật tại đây. Sau khi người sáng
lập ḍng Tên (Jesuites) là Francois Xavier đến Nhật
giảng đạo, triều đ́nh Nhật đi đến kết luận rằng Ki-tô
giáo nguy hiểm cho chế độ, nên trục xuất tất cả các
nhà truyền giáo Tây phương và ra lệnh cấm
đạo. Giáo dân Ki-tô đầu tiên bị giết năm 1597.
Khi giáo sĩ và giáo dân nổi loạn, các
lănh chúa Nhật bèn xuống tay mạnh. Vào năm
1613-1615, một số giáo sĩ Tây phương và giáo
dân Nhật sống sót phải chạy trốn tới Philippines và
Hội An [Faifo] lập nghiệp. Tới năm 1624, không c̣n một
tín đồ Ki-tô hay nhà truyền giáo nào
trên đất Phù Tang. (Hồng Lam & Léopold
Cadière, Lịch sử đạo Thiên chúa ở Việt Nam [Huế:
Đại Việt thiện bản, 1944], tr. 167 [phần tiếng Việt])
Bởi thế, Hội
Truyền giáo Hải ngoại Pháp không có nhu cầu
dạy và học tiếng Nhật. Hơn nữa, Petrus Key tự liệt kê
đă xuất bản sách dạy tiếng Xiêm, Miên
vào cuối thập niên 1880, rồi từ năm 1893 sách dạy
tiếng Lào, Malay, Tamoule (Tamil?), Miến Điện,
Ciampois
(Chàm) mà chẳng thấy cuốn dạy đàm thoại Nhật ngữ
hay danh từ Nhật nào. (Nếu có biết tiếng Nhật, th́
có lẽ chỉ dăm tiếng chào hỏi làm vui; kiểu Ohio!)
Tóm lại, khi trong
tuổi thanh
xuân, Petrus Key có thể biết được năm,
sáu thứ tiếng. Sau này, Petrus Key nghiên cứu
thêm chữ Hán và chữ Nôm,
và có thể biết (đọc, viết hoặc
nói) được 7, 8 thứ tiếng là cùng.
(Nguyễn Văn Trung, 1993, tr. 138) Nhưng nếu nói thông
thạo, th́ chỉ khoảng 3, 4 thứ tiếng (Pháp, Việt, Việt
Hán và chữ Nôm). Chỉ ngần ấy đă đủ là
một học giả trong thế kỷ XIX và XX!
Đáng lưu ư nhất
trong số tác phẩm của Petrus Key là các cuốn Mẹo
luật
dạy
tiếng
Pha-lang-sa:
tóm
lại
vắn
vắn
để
dạy
học
tṛ
mới
nhập
trường (1872), và Abrégé
de
grammaire
annamite
[Sách
mẹo
An-Nam] (1867, 1924).
Đây không phải là những nghiên cứu
nghiêm túc thuộc lănh vực ngôn ngữ học,
mà chỉ là những bài giảng dạy trong lớp cho
các học sinh mới khai tâm. Phần văn phạm tiếng Pháp
là tổng hợp kiến thức của tác giả “tóm lại vắn vắn
để dạy học tṛ mới nhập trường.” Phần văn phạm tiếng
Việt mới
ít nhiều có sự đóng góp của ông,
trong nỗ lực đưa chữ Việt mới (dựa trên mẫu tự Latin)
từ
khuôn viên các chủng viện ra ngoài xă
hội, hầu thay thế hẳn chữ Hán-Việt. Sách lược
này do Hội truyền giáo đề ra, nhưng các viên
chức bảo hộ Pháp cực lực chống đối, nhấn mạnh vào
việc
dạy chữ Pháp.
Thêm nữa,
v́ Petrus
Key là một trong những người bản xứ tiên
phong
học hỏi rồi giảng dạy hai thứ tiếng
này ở Sài G̣n, hai tác phẩm
trên của ông chỉ có giá trị lịch sử, giống
như các tác phẩm đương thời của Hùinh Tịnh Paulus
Của, v.. v... Gọi chúng bằng những đại ngôn như
“sách nghiên cứu về ngôn ngữ học” sợ rằng
không chỉnh.
Đó là chưa
kể “thuyết” của Petrus Key in ở phần mở đầu cuốn
Abrégé
de
grammaire
annamite
[Sách
mẹo
An-Nam] (1867, 1924), rằng
người Việt đă có chữ viết kiểu “ghi âm” từ thế kỷ
thứ V TTL–một lời vơ đoán không có bằng
chứng khả tín nào để yểm trợ.[ Xem đoạn sau]
Ngoài ra, tiếng Pháp
hay
tiếng Việt là hai sinh ngữ, luôn luôn biến đổi về từ
ngữ, thành ngữ, cũng như cách cấu trúc. Các
sách về văn phạm của Petrus Key hầu như chẳng c̣n ảnh
hưởng nào với quốc ngữ, và cũng không thể sử dụng
cho “học tṛ mới nhập trường” Pháp ngữ hiện nay.
Những “tác phẩm” dài
vài trang (không quá vài chục trang) ghi vắn
tắt về sử kư và địa dư của Petrus Key th́ hầu như
chẳng c̣n chút giá trị nào; ngoại trừ ở
thời điểm khai sinh của chúng, để nạp cho cấp chỉ huy
quân
sự Pháp, hay huấn luyện viên chức Pháp-Việt. Ngay
đến cuốn Cours d’histoire annamite [Bài giảng sử
An-nam-nít] của Petrus Key, gồm 2 tập, do chính
quyền
Pháp in trong khoảng 1875-1877 [1879?] (hiện lưu trữ
tại Thư
viện Quốc gia Pháp và Sài G̣n) th́
không những thiếu phương pháp biên soạn, mà
c̣n nhiều sai lầm về dữ kiện, với những lời phê
b́nh vơ đoán, khó thể coi là một bộ
thông sử nghiêm túc. [Xem phần sau]
“Tham Chánh” trong
Tân
Trào
Trước năm 1996, nhiều
người tin rằng
Petrus Key chỉ bắt đầu làm thông ngôn cho
Pháp từ ngày 20/12/1860. Lá
thư viết vào cuối tháng 3/1859 gửi Trung
tá Jauréguiberry và một số tư liệu khác do
tôi phát hiện trong dịp làm việc tại Văn Khố Hải
Quân Pháp tại Chateau de Vincennes năm 1996 không
những phủ nhận niềm tin này mà c̣n khiến
chúng ta phải xét lại đoạn đời “tham chánh” của
Petrus Key dưới một ánh sáng khác.
Trước hết, đừng quên
nghị quyết của Ủy Ban Cochinchine vào tháng
5/1857. Theo tinh thần Nghị quyết này, Pháp
cần
biểu dương lực lượng ở Đại Nam, thiết lập một tân
trào với ṇng cốt là “các thày kẻ
giảng, với sự ủng hộ của 600,000 giáo dân Ki-tô.”
(SHM [Vincennes], GG2-44, carton 3, GG2-99, carton 2;
Nguyên Vũ,
Paris Xuân 1996, tr. 213; Vũ Ngự Chiêu, Các vua
cuối, I:74) Petrus Key rời Pinang vào năm 1857 hoặc
1858, trở
lại Cái Mơn của Linh mục Borrelle (Giám mục
Lefèbvre đang ở Chợ Quán để cố vấn cho quan Tướng
Pháp), và chờ đợi để phục vụ “những nhà giải
phóng được Thiên Chúa gửi xuống cứu độ giáo
dân An Nam.” V́ Trung tá Jauréguiberry
không tin tưởng Lefèbvre và từng lên
án Lefèbvre phá hoại việc thương thuyết một
ḥa ước, nên Petrus Key chưa được trọng dụng ngay.
Nhưng
Petrus Key vẫn được làm thông ngôn ở Chợ
Quán, với lương 20 đồng một tháng. Trong một phiếu
tŕnh lên Rigault de Genouilly, Jauréguiberry cho
biết một thông ngôn tên “Petrus” phải uống thuốc
quinine để chữa trị bệnh sốt rét, và ông ta định
đưa “Petrus” ra Đà Nẵng để thẩm vấn các quan
viên Việt bị Pháp bắt giữ. Tháng 6/1859, Petrus Key
tháp tùng Linh mục Legrand de la Liraye (cố Trường) ra
Đà Nẵng làm thông ngôn cho Louis Jules
Lafont, tùy viên của Rigault de Genouilly, khi thương
thuyết với Nguyễn Tri Phương về việc kư Hiệp định
nhưng
không thành công. (Vũ Ngự Chiêu, Các vua
cuối, I:106-7) Từ sau
ngày này, Petrus Key trở lại Sài G̣n, tiếp
tục làm việc cho ban thông dịch của Jauréguiberry
(dưới quyền Cố Trường, tức Th. Le Grand de la Liraye).
Sau khi Đại tá J.
d’Ariès [Dariès] thay Jauréguiberry làm
chỉ huy trưởng Sài G̣n vào mùa
Xuân 1860, Petrus Key tiếp tục “tham
chánh” với
chức vụ thông ngôn. Nhưng d’Ariès chẳng mấy
thiện cảm với Petrus Key v́ tính hạnh cũng như
việc
Petrus Key đ̣i lương quá cao (110 đồng một tháng
vào tháng 5/1861; so với lương xă trưởng 21 đồng,
thông ngôn thường là 20 đồng, nho 7 đồng, và
cảnh sát 3 đồng vào năm 1859). Nếu tin được
d’Ariès, Petrus Key từng bị sa thải khỏi Nha nội chính
[hay Nội trị] v́ kiêu ngạo và không biết tự
khép ḿnh trong khuôn khổ (thư ngày 21
và 28/5/1861 gửi Léonard Charner). Tuy nhiên,
v́ cần thông ngôn, các viên chức
Pháp vẫn phải trông cậy ở các cố đạo và
thày kẻ giảng bỏ tu mà họ chẳng trọng vọng hay
kính phục ǵ. [Một Đề đốc Pháp sau này
nhận xét, “những cái tên Latin của chúng
tŕnh ra sự lường bịp, man trá và tham nhũng đặc
thù Á đông.” (Pallu de la Barrière 1888:158)]
Các tư liệu văn
khố Pháp không cho biết rơ vai
tṛ của Petrus Key trong cuộc thương thuyết Hiệp
ước cắt ba
tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp năm 1862. Không
rơ Petrus Key giữ nhiệm vụ ǵ khi theo Thiếu tá
Charles Simon ra Huế vào tháng 4/1862, chỉ biết sứ
mệnh
chính của Simon là thuyết phục triều Nguyễn về tối hậu
thư của Thống đốc Louis Bonard (11/1861-4/1863): Kư
ḥa
ước hay sẽ mất luôn Bắc Kỳ vào tay “Lê Duy Minh
[Pedro Tạ Văn Phụng].” Cũng nên thêm rằng theo các
Giáo sĩ, quan tướng Pháp đă gạt bỏ các
giáo sĩ và nhóm thày kẻ giảng thông
ngôn [như Petrus Key, Nguyễn Trường Tộ, v.. v..] trong
đợt thương
thuyết cuối cùng; và phải sử dụng người Hoa thông
dịch để bảo mật và tránh sự phá phách của
các cố đạo. (Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, I:149-50.
Tôi chưa được đọc báo cáo ngày 22/4/1862 của
Petrus Key, dẫn trong Nguyễn Văn Trung, 1993:75)
V́ thế, Petrus
Key được
cử qua dạy tại trường Thông Ngôn mà không
làm việc trực tiếp với cựu Linh mục Théophile Legrand
de
la Liraye (cố Trường) hay Gabriel Aubaret, một chuyên
viên
Hán ngữ, nữa.
Petrus Key
và Sứ Đoàn
Phan Thanh Giản
(1863-1864)
Trong tâm bút Paris:
Xuân
1996, tôi c̣n công bố tài liệu
về việc năm 1863, khi phái đoàn Phan Thanh Giản qua
Pháp xin điều đ́nh việc chuộc lại ba tỉnh miền
Đông Nam Kỳ, ông Petrus Key là thành
viên của phái bộ hướng dẫn Pháp, do Trung tá
Henri Rieunier cầm đầu, mà không phải là
thông ngôn của sứ đoàn nhà Nguyễn. Một
phóng ảnh đă được in lại trong cuốn Hồ Chí Minh,
1892-1969, tập I (1997, tr. 68), và
Các vua cuối nhà Nguyễn, tập I (1999, tr. 297).
Cho tới năm 1996,
nhiều người vẫn tin
rằng năm 1863 “Phan Thanh Giản yêu cầu Trương Vĩnh Kư
làm thông ngôn cho phái đoàn đi Paris
và Madrid.” (Nguyễn Văn Trấn, 1993, tr. 24) Thực ra,
chi tiết
ông Petrus Key thuộc phái bộ Pháp tháp
tùng sứ đoàn Phan Thanh Giản đă được công bố
bằng Pháp ngữ từ năm 1919 và rồi Việt ngữ mới ở
Sài G̣n từ năm 1960.
Từ năm 1919
và 1921,
tờ Bulletin de Amis du Vieux Hue (BAVH,
Thành
tích biểu của Hội Những ngụi bạn của cố đô Huế)
đă có những loạt bài dịch tập Nhu Tây sứ
tŕnh nhật kư của Phan Thanh Giản và Phạm
Phú Thứ. Các tài liệu này đều xác
nhận thông ngôn chính của sứ đoàn Nguyễn
là Linh mục Nguyễn Hoằng. Petrus Key và Tôn Thọ
Tường là phụ tá của Trung tá Aubaret, thông
dịch viên chính thức cho sứ đoàn Phan Thanh Giản
trong thời gian tại Paris và Madrid. Năm 1918-1919,
Cửu phẩm
Ngô Đ́nh Diệm (1897-1963) tại Tân Thơ Viện Huế
dịch và giới thiệu một phần báo cáo Phan Thanh
Giản-Phạm Phú Thứ. Hai năm sau, Trần Xuân Toạn và
Nguyễn Đ́nh Hoè dịch thêm phần c̣n lại,
đăng trên BAVH năm 1921. (Xem, “L’Ambassade de Phan
Thanh Gian,”
traduit par Trần Xuân Toạn et Nguyễn Đ́nh Ḥe;
BAVH (1921), pp. 147-187, 243-281; hay A. Delvaux,
BAVH (1926), pp.
69-80).
Báo Văn Đàn
[của nhóm Tinh Việt Văn Đoàn?] từng đăng bản
dịch “Tây Hành Nhật Kư” [Nhật kư đi
Tây] của cụ Phạm Phú Thứ, một
phó sứ của Phan Thanh Giản, đă tŕnh
lên vua Tự Đức ngày 31/3/1864. Theo tài
liệu này:
Ngày 1-2/7/1863,
triều đ́nh bổ sung danh sách phái bộ,
thêm hai người thông ngôn [một người tên Nguyễn
Văn Trường bị chết dọc đường].
Về phía
Pháp, bổ sung thêm 4 người, trong đó
có Trương Vĩnh Kư làm thông
ngôn, Tôn Thọ Tường làm kư lục. (Hải Ngọc sao lục,
in lại trong Phạm
Phú Thú với tư tưởng canh tân [Đà Nẵng:
1995], tr. 166-67).
Thập niên 1970, Nguyễn
Huy Oanh
cũng tŕnh làng một biên khảo
khá ông phu về Phan Thanh Giản, tổng
hợp được hầu hết các tài liệu đă
xuất bản về Phan Thanh Giản. Ngoài một số văn bản
Hán ngữ giá trị từ Nguyễn Triều Châu Bản, được
Pierre Daudin và Lê Văn Phúc (tức Lê Thọ
Xuân) sưu tập từ thập niên 1940, Nguyễn Huy Oanh cũng
dịch
đăng nguyên văn danh sách hai phái đoàn Việt
Nam và phái đoàn Soái phủ Sài
G̣n, có nhiệm vụ hướng dẫn và giúp đỡ sứ
đoàn Việt.
Không được đọc
các
tài liệu trên, hoặc đọc mà không
hiểu, cho tới năm 2001, tại hải ngoại vẫn có
người
cả đoan rằng chính sứ thần Phan Thanh
Giản
đích thân xin ông Petrus Key tham gia
sứ đoàn Nguyễn, và nhắm mắt lại “phán” rằng
tài liệu văn khố tôi công bố là “sai lầm.”
Tôi không nêu tên những người này,
v́ không cần thiết. Điều đáng nói ở
đây là sự phản ứng do tư tâm và cảm
tính trên, dù dễ hiểu, nhưng không thể chấp
nhận được ở những người từng tốt nghiệp Đại học. Trước
hết, những
người này chưa từng nghiên cứu về sử, và kiến thức
sử chỉ là tổng hợp những tư liệu đầy rẫy sai lầm của
các
tác giả và nhà truyền giáo trước đây
(như không một giáo dân nào tiếp tay Francis
Garnier trong cuộc đánh chiếm Hà Nội và Bắc Kỳ năm
1873 [sic]). Thứ hai, do một nguyên nhân thầm kín
nào đó, họ mất đi sự lương thiện tối thiểu cần thiết
của
người trí thức và người cầm bút trong một cuộc
tranh luận: Muốn chỉ trích hay đả phá một phát
hiện lịch sử nào, cần trưng dẫn những tài liệu rơ
ràng, hiển nhiên (thí dụ như trong trường hợp
này, văn thư của Phan Thanh Giản gửi các quan tướng
Pháp, hoặc tŕnh báo lên vua Tự Đức về
việc xin đích danh Petrus Key, hay ban khen của Tự Đức
sau
khi hoàn tất sứ mệnh). Ví thử kiến thức có bị
ô nhiễm v́ những sách báo cũ từ trước đến
nay kiểu Petrus Key làm thông ngôn trong phái
đoàn Phan Thanh Giản, hay “đích thân Phan Thanh
Giản xin Petrus Key đi làm thông ngôn,” th́
cũng cần vận dụng khả năng suy luận để tự hỏi tại sao
trong số những
người qua Pháp làm thông ngôn lại có
thêm những Petrus [San], Ba Tường, Hiếu, Trần Văn
Luông
[Long], Simon Của, v.. v... mà sử sách cũ, ngoại trừ
tư
liệu của Phạm Phú Thứ, không hề chép đến?
Và, cũng nên tự hỏi, chẳng lẽ Rieunier hay Aubaret
“sai
lầm” khi làm báo cáo xin lập phái
đoàn thông ngôn qua Pháp năm 1863? Hoặc, nếu
có cơ hội, nên ḍ hỏi xem quốc sử nhà Nguyễn
có ghi chép ǵ về việc này hay chăng.
Đó là sự thận trọng tối thiểu cần thiết của người
trí thức để tránh mắc phải lỗi lầm hồ đồ. Thứ ba,
v́ tư tâm, họ đă chỉ đọc sử và phản ứng về
những phát hiện tư liệu mới theo quan điểm cá nhân
hay lập trường tôn giáo hoặc chính trị, đưa ra
những cảm nhận không những chỉ thiếu lư lẽ và những
lời hô hoán, rẫy rụa của người bị giam hăm trong
hầm tối đă lâu bỗng dưng bị đưa ra trước bầu trời rực
nắng.
V́ tập đi
sứ của Phạm Phú Thứ chưa được
phiên
dịch toàn bộ ra Việt ngữ mới, chỉ thấy
có tên Aubaret là người thường
xuyên liên lạc với phái bộ Việt. Điều
này có nghĩa, khi về tới Pháp, Rieunier
được chính thức nghỉ phép, và phái
đoàn thông dịch do Aubaret cầm đầu, với các phụ
tá người Việt như Petrus Key, “Ba” Tường, v.. v...,
giữ việc
liên lạc giữa Bộ Ngoại Giao Pháp và sứ đoàn.
Chi tiết sứ bộ Việt từ Marseille qua Madrid phải giảm
bớt 5 người để
nhường chỗ cho Aubaret, Petrus Key, Ba Tường cùng hai
người
khác của soái phủ Sài G̣n cũng là
một bằng chứng cho thấy sự khác biệt nhau giữa hai sứ
đoàn Huế và soái phủ Pháp tại Sài
G̣n. (Sứ đoàn Nguyễn phải rút lại c̣n 20
người để khỏi chật chội; Trần Xuân Toạn 1921:279).
Ngoài
ra, tên Trương Vĩnh Kư c̣n xuất hiện trong nhật
kư của Phạm Phú Thứ khi sứ đoàn được chính
phủ Espania mời đến thăm Roma một tuần, từ ngày 1 tới
ngày 7/12/1863: Ngày 2/12/1863, theo Phan Phú Thứ,
“Phái bộ đưa Trương Vĩnh Kư vào thăm thành
Roma và gặp Giáo hoàng.” (Ibid., tr. 175)
Cách nào đi nữa,
cần khẳng định rằng “Những người
An-nam-mít ở Nam
Kỳ thuộc Pháp đi qua Pháp cùng với
sứ đoàn của vua Tự Đức [Annamites de la
Cochinchine francaise allant en France avec
l’ambassade du Roi Tu
Duc],” trong phái đoàn Rieunier, gồm có
nhất đẳng thông ngôn Petrus Key Trương Vĩnh Kư,
Giáo sư trường thông ngôn Pháp; đệ nhị đẳng
thông ngôn Petrus [San]; hai nho (lettré) Tôn
Thọ “Ba” Tường (Phủ Tân B́nh), và Hiếu (nho thuộc
Bộ Tổng Tham mưu); hai học sinh trường Giám mục
d’Adran, Trần
Văn Luông [Long], con Trần Tử Ca, và Simon Của.
Ngoài ra, c̣n 3 người hầu, kể cả Pedro Trần Quang
Diệu.
Họ không thuộc sứ đoàn Phan Thanh Giản (Xem Vũ Ngự
Chiêu, Các vua, tập I, tr. 161, 163-4, 186chú49;
Chính Đạo, Hồ Chí Minh, tập I, tr. 68)
21/6/1863: Phan Thanh
Giản
vào chào từ biệt Tự Đức. Hiệp biện đại học sĩ Giản
làm Chánh sứ qua Pháp (để đáp lễ việc
Bonard tới Huế và quà tặng của Napolén III).
Cùng đi có Phạm Phú Thứ, Tả Tham tri Bộ Lại,
làm Phó sứ; Ngụy Khắc Đản, án sát Quảng
Nam (gốc Nghệ An), làm Bồi sứ, và hơn 50 tùy
tùng.
Mục đích chính
là điều đ́nh sửa lại Ḥa ước
5/6/1862, nhất là chuộc lại ba tỉnh
miền Đông theo kiểu Bri-tên đối
xử với
nhà Thanh. (Danh sách sứ đoàn trong
Oanh, 1971:175-76)
Khoản 3: Lấy lại ba tỉnh
miền Đông sau khi trả tiền bồi thường
chiến
phí (indemnities) [chịu cắt nhượng thành Sài
G̣n, Định Tường, Thủ Dầu Một và Côn
Lôn theo kiểu Bri-tên
và nhà Thanh]; “nếu có phải
bù thêm số bạc nhiều ít bao
nhiêu, nước tôi cũng yên ḷng lo liệu chu
thỏa.” [22-3]
Khoản 8: Xin kéo dài
thời hạn trả tiền bồi thường chiến phí [4 triệu
Mỹ Kim]
thành 20 năm; [25] (ĐNTLCB, IV, 30:22-4).
Theo Phan Thanh Giản,
“chỉ biết
hết ḷng, hết sức mà thôi;” chưa biết
kết quả ra sao. Nếu thất bại, hy vọng vẫn
tạo được cảm
t́nh trong những liên hệ tương
lai.” [30:25]
Tự Đức ứa nước mắt nhắn
nhủ
phải hết sức. Không nên tin cậy bọn thông ngôn.
Đưng qú lạy khi triều kiến, mà áp dụng theo
lệ Tây phương. (ĐNTLCB, IV, 30:21-5)
22/6/1863: Phan Thanh
Giản
(Hiệp biện Đại học sĩ) xuống tàu Echo vào Sài
G̣n. (Ngô Đ́nh Diệm, “L’Ambassade de Phan Thanh
Gian (1863-1864); BAVH, Vol VI, No. 1bis & 2
(Avril-June 1919), tr.
161).
25/6/1863: Sứ đoàn
Phan
Thanh Giản tới Sài G̣n. (Ibid., tr.25) [Xem
4/7/1863]
26/6/1863: Rieunier
tới thăm sứ
đoàn Phan Thanh Giản. Cho biết sẽ tháp tùng
phái đoàn qua Pháp để hướng dẫn. Ba chánh
phó sứ phải trả tiền vé tàu 536 đồng [piastre] mỗi
người; 10 quan tùy tùng 241 đồng mỗi người; những
người
c̣n lại 121 đồng. Tiền hành lư hết 2,250 đồng.
Tiền chi phí xe lửa là 1,000 đồng. Tổng số chi phí
là 13,980 đồng. Mỗi đồng tương đương với 7 đồng 2
phân.
(Ngô Đ́nh Diệm, 1919, tr. 167)
Mấy
ngày sau, Phan Thanh Giản chọn Linh mục Nguyễn Hoằng
làm
thông ngôn. Thông ngôn thứ hai
là Nguyễn Văn Trường, bị chết
dọc đường.
(Ngô Đ́nh Diệm, 1919, tr. 170, 185)
1/7/1863: Petrus “Key”
Trương
Vĩnh Kư, thông ngôn hạng nhất, và 3 người
Việt khác, kể cả Tôn Thọ Tường, nho sĩ hạng nhất,
được cử
tháp tùng phái đoàn Pháp, do Hải
quân Trung tá Henri Rieunier (Lư A Nhi) hướng dẫn.
Gabriel Aubaret [A
Bá Lư] cũng có mặt với phương vị
thông ngôn. (Danh sách chính thức
phái đoàn thông ngôn gồm Petrus Key &
Petrus [Nguyễn Văn] San, giáo sư trường Thông
ngôn;
hai “nho [lettrés]” (Ba [Tôn Thọ] Tường, Phủ
Tân-b́nh, và [Quan Văn] Hiếu; hai học sinh trường
Mgr D'Adran là Trần Văn Lương, con Huyện Ca, và
Simon
Của; cùng 3 người hầu, kể cả Pedro (Trần Quang
Diêu); SHM
(Vincennes),
GG2
198,
carton
1.
Xem
thêm
Oanh
1974:174-92;
Osborne
1969:6).
2/7/1863 [17/5
Quí Hợi]:
SÀI G̉N: De la Grandière mời sứ đoàn dự dạ
tiệc. Giới thiệu phái đoàn Rieunier, với Trương Vĩnh
Kư, [Paulus] San, Tôn Thọ Tường, Quan Văn Hiệu
[Hiếu].
(Ngô Đ́nh Diệm, “L’Ambassade de Phan Thanh Gian
(1863-1864); BAVH, Vol VI, No. 1bis & 2
(Avril-June 1919), tr. 171).
4/7/1863 [19/5
Quí Hợi]:
Tàu Européen nhổ neo ra khơi, mang theo sứ đoàn
Phan Thanh Giản.
[Tiện
đây,
cũng
cần
bác
bỏ ngay
“huyền
thoại” Phan
Thanh
Giản
cầm
đầu
sứ đoàn
của
vua
Minh
Mạng
qua
Pháp
năm
1839-1840? Theo Đại Nam Chính Biên
Liệt Truyện (truyện Phan Thanh Giản) cũng
như Đại Nam Thực
Lục, Chính Biên, phái đoàn này
chỉ có hai quan Nguyễn là Tư vụ Trần
Viết Xương
và thư lại Tôn Thất Thường (hay Liễu), cùng hai
thông ngôn. Họ dùng tàu của triều đ́nh
qua Giang-lưu-ba [Djakarta] vào tháng 10 Kỷ Hợi,
tức
trong khoảng 6/11-5/12/1839, trên tàu Thụy Long
của Tham
tri Đào Trí Phú. Từ Djakarta, sứ đoàn
đáp tàu Tây phương để qua Âu châu quan
sát, ghi chép cẩn thận mọi sự mọi việc để về báo
cáo, và mua hàng hóa. (ĐNTLCB, II,
21:230-31) Thời gian này, Phan Thanh Giản ở trong
nội địa
Đại Nam, và không thể theo phái đoàn
trên. Tài liệu các nhà truyền giáo
mà tôi có cơ hội tham khảo th́ chỉ ghi nhận
là khi tới Paris vào cuối năm 1840, sứ đoàn Nguyễn
c̣n ba [3] người. (Lettre Commune (Paris),
16/4/1841).
Không thấy nêu tên thành viên sứ
đoàn. [Xem thêm A. Delvaux, “L’Ambassade de Minh
Mang a
Louis Philippe, 1839 à 1841;” BAVH (10-12/1928),
pp. 257-64]
Đào Tạo Thông
Ngôn
Từ Pháp
trở về,
Petrus Key vẫn tiếp tục nghề thông ngôn cho
Soái phủ Pháp (v́ tiền bạc,
dĩ nhiên, nhưng cũng v́ lập trường đồng
hóa quyền lợi cá nhân với quyền lợi nước
Pháp ở Đại Nam). Nhưng vai tṛ Petrus Key
ngày một thăng tiến. Năm 1866, theo một tác giả,
Petrus
Key được cử làm Giám đốc trường thông ngôn
(Collège des Interprètes). (Phạm Long Điền, “Những
khám phá mới về Gia Định Báo;” Bách
Khoa M [số 403] (1974), tr. 33-37; N [số. 404] (1974),
tr. 23-30). Làm việc tại đây khoảng 2
năm, ngày 2/11/1868, Petrus Key xin từ chức v́ đụng
chạm
với Giám đốc Sở Nội chính là Paulin Vial. (Ibid., tr. 34)
Trường Thông Ngôn
này, tưởng nên thêm, nhằm đào tạo
thông ngôn cho các địa phương. Ngoài
việc giúp các đạo quân viễn chinh Pháp
(như thông dịch, thu lượm tin tức t́nh báo, v.. v... ) họ c̣n có nhiệm vụ
truyền bá chữ “quốc
ngữ mới.”
Triều đ́nh
Huế cũng
lựa chọn một số thiếu niên thông minh gửi vào
Sài G̣n cho Petrus Key huấn luyện.
Và đây là lần đầu tiên
tên Petrus Key, đúng hơn, Trương Vĩnh Kư, được ghi
chép trong Đại Nam Thực Lục, Chính Biên. (Xem
thêm
Châu
bản
Tự
Đức,
ngày
1/12
TĐ
XXII,
CB
337,
tờ
185-188;
LTTƯ
2)
Nhà Báo
Ngày 16/9/1869, XLTV
Thống đốc
Sài G̣n là Đề đốc Maurice G. H.
Ohier (4/1868-12/1869) kư Nghị định số 298 bổ nhiệm
Petrus Key
làm “Chánh tổng tài” [Chủ biên] Gia
Định Báo. (Phạm Long Điền, “Gia Định
Báo;” Bách Khoa M [số 403], 1974, tr. 34-5) Tuần
báo này xuất bản năm 1865, phát không trong
các làng mạc để phổ biến chính sách của
Pháp. (Ibid., tr. 36; Courrier de Saigon, số
7,
5/4/1865) Báo xuất bản tới cuối năm 1909, và đ́nh
bản từ ngày 1/1/1910. Trong số những Chủ biên cuối
cùng có Diệp Văn Cương (21/5/1908-18/9/1908). (Lê
Văn Cẩn, “Góp ư với ông Phạm Long Điền về Gia
định báo;” Bách Khoa, số P, 1974, tr. 73-4) Thư viện
Quốc
Gia Pháp có một sưu tập khá đầy đủ tựa báo
này, từ năm 1866. (Năm 2000, chỉ c̣n từ năm 1867)
Trong khi trông coi
tờ Gia
Định Báo, năm 1872, Petrus Key được Thống đốc Jules
Dupré (4/1871-3/1874) thăng lên hàm tri huyện
hạng nhất. (BK, N, tr. 20) Ít lâu sau, khi Elucian
Luro
thành lập trường Tập sự Hành chánh thuộc địa
[Collège des Stagiaires], Petrus Key được điều về đây
dạy
tiếng Việt và những môn liên hệ đến lịch sử, phong
tục, địa lư cho các viên chức Pháp-Việt.
Năm 1888, Petrus Key
(lúc
này đổi tên thành Petrus J.B. Trương Vĩnh
Kư) xuất bản một tờ học báo lấy tên
Miscellanées ou Lectures instructives pour les
élèves des écoles primaires, communales,
cantonales et les familles (Thông Loại Khóa Tŕnh).
Báo ra hàng tháng, từ tháng 1/1888 tới
tháng 10/1889, được 18 số. (Nguyễn Văn Trung,
1993:169-205)
Chuyến Đi Bắc
Kỳ Năm
1876 [Ất Hợi]
Năm 1876, Petrus Key
được soái
phủ Sài G̣n cử ra Bắc thi hành một nhiệm
vụ bí mật. Ngày 28/4/1876, Petrus Key viết
một
báo cáo khá dài cho Đô đốc
[Charles Duperré, 12/1874-10/1877] qua trung gian
Regnault de
Premesnil [Chánh văn pḥng của Duperré].” (Bouchot, pp. 34-41).
Theo học
giả Osborne, báo
cáo này có thể t́m thấy trong Bảo
tàng viện Petrus Key ở Sài G̣n. Năm 1881, Petrus
Key cũng viết lại bằng tiếng Việt, cho in dưới tựa Voyage
au
Tonking en 1876 - Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi. Tuy
nhiên,
phần báo cáo chính trị bị cắt bỏ, măi sau
ngày Petrus Key chết mới được công bố. (Tựa sách
này lưu trữ trong thư viện Mitterand, Paris; và dịch
qua
Anh ngữ, với tựa P.J.B. Truong Vinh Ky, Voyage to
Tonking in the
Year At Hoi (1876), trans. by P. J. Honey
(London: 1982).
Chuyến đi
bí mật của
Petrus Key này khiến có người kết án
Petrus Key “làm gián điệp” cho Pháp.
Nhưng có thể đây chỉ là một
chuyến du khảo miền Bắc, sau khi triều Huế đă kư Hiệp
ước
Giáp Tuất (15/3/1874) nhượng đứt sáu tỉnh miền Nam cho
Pháp. Không hiểu chuyến đi này liên hệ
ǵ đến lời phản kháng mạnh mẽ của Giám mục Paul
Puginier và giới giáo sĩ về việc mà họ gọi
là sự phản bội của ông Paul Philastre hay dự án
ép triều Nguyễn tu chính Ḥa ước 1874 của
Duperré hay chăng? (Xem
Vũ
Ngự
Chiêu,
Các
vua
cuối,
I:244-8) Trong
chuyến
đi năm 1876, Petrus Key
được tiếp xúc rất nhiều người. Thoạt tiên là
Lănh sự Hải Pḥng, tức Y sĩ Hải quân Louis Turc,
một cựu Đốc lư Sài G̣n. Rồi đến Tổng đốc Hải
Yên Phạm Phú Thứ, người từng biết Petrus Key khi qua
Pháp năm 1863-1864. Linh mục Trần Lục, Chánh xứ
Phát Diệm, cánh tay bản xứ của Giám mục
Puginier–người tuyển mộ cho Francis Garnier từ 12,000
tới 14,000
lính đánh thuê trong cuộc xâm chiếm Bắc Kỳ
năm 1873, mà đa số là giáo dân Ki-tô
như Hồ Văn Vạn, Phạm Quang Diệu, Nguyễn Quí Cát, Lê
Văn Tốn, Nguyễn Tích, v.. v... (ĐNTLCB, IV, 33:83-5; Vũ Ngự
Chiêu, Các vua cuối, I:225-226)–cũng dẫn Petrus Key tới tận
Thanh
Hóa, Ninh B́nh, Kẻ Sở. Thông điệp, hay lời
khuyên của Petrus Key với các giới chức Việt là
hăy hợp tác chân thành với người
Pháp, đưa cả hai tay mà nắm lấy họ. Nguyên văn như
sau:
Thưa quí ngài,
tôi trả lời . .
. . quí Ngài chỉ cần
có ḷng tin
tưởng ở các đồng minh đáng kính của chúng
ta [tức người Pháp] và nương tựa hết sức vào họ để
mà tự đứng dậy, nhưng cần thẳng thắn, không một hậu
ư, không có những mưu mẹo bí mật, đưa cả hai
tay cho họ mà không chỉ đưa ra một tay, tay kia dấu
lại.
(Nguyên văn: “Messieurs,
ai-je
repliqué, . . . . vous n’avez qu’à avoir
confiance en vos illustres alliés [les Francais]
et à
vous appuyer sincèrement sur eux pour vous
relever, mais
franchement, sans arrière-pensée, sans secret
combinaison, leur donner les deux mains et non pas
en livrer une et
réserver l’autre;” Báo cáo ngày
28/4/1876, P. Truong Vinh Ky gửi Duperré. Phạm Thế
Ngữ chỉ dịch
lại một phần báo cáo trên, [Phạm Thế Ngữ, tr. 72]
nên chỉ hiểu “một nửa” quan điểm chính trị của
Petrus Key.
Nguyễn Văn Trấn cũng lược dịch phần nào; Trấn 1993,
tr. 40-1).
Trọng tâm báo cáo
chính trị của Petrus Key là cả người
Bắc
kỳ lẫn Pháp đều hưởng lợi nếu Pháp bành trướng ảnh
hưởng ra miền Bắc. (Truong Vinh Ky, Voyage
to Tonking,
1982:122-25). Vấn đề cần tra cứu thêm là liên hệ
giữa Petrus Key với nhóm Paulus Thy, tức Lê Bá
Đỉnh, và Constantin, Pène, v.. v... trong âm
mưu biến thông ngôn Lê Bá Đinh (Paulus
Thy) thành Lê Gia Hưng, con cháu nhà
Lê, sẽ khởi nghĩa ngày 6/11/1879 với niên hiệu Ứng
Thuận–mà triều đ́nh Huế, v́ lư do
riêng, cho là “những lới nói vu vơ của
Mô-răng,” rồi cách chức Phú Thứ v́ tội
“hoang báo” và dung dưỡng cho thuộc hạ chở gạo tư về
Quảng Nam. (CAOM (Aix), Indochine AF, 14/A 30(31);
GGI, d. 11939;
ĐNTLCB, IV, 34:262, 35:13, 88; Nguyen The Anh,
1992:39-40. Xem
thêm đoạn nói về “Ẩn sĩ ở Huế” infra)
Petrus Key cũng nêu
lên
t́nh trạng Lương-Giáo nghi ngờ, thù hận lẫn
nhau, và tiết lộ nhiều giáo mục bản
xứ đă hành động quá đáng trong
lúc trả thù, báo oán (tức vụ Văn
thân nổi dạy và vụ nổi loạn của Hồ Văn
Vạn
cùng nhóm lính đánh thuê cũ của
Garnier). Điều này chứng tỏ quan điểm tôn giáo
của Petrus Key đă rộng răi hơn 18 năm trước, hoặc
các giáo mục giáo dân miền Bắc dưới trướng
Puginier c̣n bảo thủ và quá khích hơn cả
Petrus Key.
Đáng lưu ư và
cần nhấn mạnh rằng Petrus Key, với phương vị một đặc
sứ của
Pháp, gốc nước Nam Kỳ thuộc Pháp, dùng những tiếng
như “rebelles” [ngụy, tức giặc hay làm
loạn] để
diễn tả các tổ chức và cá nhân kháng
Pháp ở miền Bắc. Và đây không phải là
lần đầu hay cuối cùng. [Người học sử Việt không thể
không nghĩ đến Lê Tắc với những tiếng như “bạn
nghịch,” “phản,” hay “yêu đảng”
trong An Nam
Chí Lược hơn 500 năm trước khi nói về Hai Bà
Trưng, v.. v...]
Chẳng hiểu Duperré,
lúc ấy đang nghỉ phép ở
Paris,
nhận được báo cáo của Petrus Key ngày
nào. Chỉ biết ngày 1/6/1876, khi Duperré sắp
lên đường trở lại Đông Dương, Bộ trưởng Hải Quân
& Thuộc Địa chỉ thị là không được can thiệp
vào Bắc Kỳ và phải ngăn cản các giáo sĩ
làm loạn hay khôi phục nhà Lê. (AMAE (Paris), Documents
Diplomatiques, I, tr. 55-7; Vũ Ngự Chiêu, Các vua
cuối,
I:248)
Những ai c̣n hoài nghi
về lập trường chính trị của Petrus Key không
thể không đọc báo cáo này.
Nó bộc lộ rơ ràng quyết tâm
của Petrus Key: phục vụ Pháp, không một chút
hậu ư. Lập trường này đă nhiều
lần được Petrus Key viết thành văn. Thư gửi
Paulin Vial
ngày 3/10/1868 chỉ là một thí dụ ngoài
báo cáo năm 1876 vừa lược dẫn. Cho đến lúc gần
cuối đời, Petrus Key vẫn không thay đổi lập trường:
Ông
muốn dạy dỗ cho các thế hệ thanh thiếu niên Việt “đưa
cả
hai tay nắm lấy người Pháp mà đứng lên.”
“Ẩn sĩ” ở Huế
(1886)
Thời gian làm việc tại
Viện
Cơ Mật Huế năm 1886 có
lẽ là giai đoạn vàng son nhất của Petrus
Key.
Ư định đưa Petrus Key
ra Huế để
lập một hạt nhân những người đồng hóa quyền lợi bản
thân với quyền lợi Đại Pháp đă được
nghiên cứu ở Paris từ năm 1885, sau biến cố đêm mồng 4
rạng
ngày 5/7/1885 ở Huế, tức Phụ chính Tôn Thất Thuyết
tấn công quân Pháp, đưa ấu vương Hàm Nghi
(1885-1888) đi kháng chiến. Ngày 28/10/1885, Bộ trưởng
chiến tranh Pháp là Tướng Boulanger đề cử Petrus Key
với
Tướng Roussel de Courcy để phụ giúp Đồng Khánh
(1885-1889)–người được Giám mục Caspar và Puginier ủng
hộ
lên làm vua để “phục hưng ḍng chính thống”
và biến Hàm Nghi thành một “chú bé
chạy trốn lang thang”, hầu lấy đi uy thế của phong
trào Cần
Vương [Giúp vua]. Tuy nhiên, de Courcy không muốn sử
dụng Petrus Key, người mà theo ông ta từng dính
líu vào vụ giặc biển Tạ Văn Phụng ở Bắc Kỳ
(1861-1865),
và chủ trương Pháp nên rút bỏ Bắc Kỳ gạo,
tập trung giữ vùng Bắc Kỳ biển trong hai năm
1879-1880
của Linh mục Peine [Pène?] Siéfert. (SHAT [Vincennes], 10H
xxx) Nhưng
khi de Courcy xin hồi hương,
và Paul Bert được cử làm Tổng Trú Sứ Đại Nam,
cả Petrus Key lẫn Peine-Siéfert đều được trọng dụng.
Ngày
12/4/1886, Bert cử Petrus Key vào làm việc trong Viện
Cơ
Mật Huế. Trong gần nửa năm tại Huế, “ẩn sĩ” Petrus Key
và Linh
mục Peine-Seifert là cặp bài trùng gây
nên nhiều chống đối trong giới quan lại. Linh mục
Nguyễn
Hoàng [Hoằng], người lo việc thông ngôn khá
lâu ở triều đ́nh, bị đuổi ra Thanh Hóa, rồi chết ở
đây.
Theo tài liệu quốc
sử Nguyễn, tháng 3 Bính Tuất [4/4-3/5/1886],
Đồng Khánh phong “ẩn sĩ” Petrus Key [lúc
này đă lấy tên Sĩ Tải Trương Vĩnh
Kư] làm Hàn Lâm Thị giảng học
sĩ [ṭng tứ phẩm].( ĐNTL,CB, 37:148) Hai tháng sau, Petrus
Key được
thêm chức Tham tá Cơ Mật Viện cùng với Thị giảng
Nguyễn Trọng Tạo. Tháng 8 Bính Tuất [29/8-27/9/1886],
Soái phủ Sài G̣n tăng cường thêm cho
nhóm thông ngôn miền Nam Diệp Văn Cương và
Trương Vĩnh Thế (có họ với Petrus Key). Đồng Khánh
phong cho họ chức Hàn Lâm Viện kiểm thảo [ṭng thất
phẩm].( ĐNTL,CB,
37:196-197)
Nhiệm vụ chính
của Petrus
Key trong giai đoạn này là nắm gọn vua Đồng
Khánh–dạy bảo vua phải biết đưa hai tay ra nắm
lấy người
Pháp, và lựa chọn vào Viện Cơ Mật những
người đồng hóa quyền lợi bản thân với quyền lợi nước
Pháp. Ngoài ra, Tổng trú sứ Bert muốn Petrus Key
khuyên dụ Đồng Khánh kư một qui ước tách
biệt Bắc Kỳ khỏi Huế, thành lập chức Kinh Lược Sứ Bắc
Kỳ,
có toàn quyền thay mặt triều đ́nh xử lư mọi
việc. (Dụ ngày 3/6/1886) Nguyễn Hữu Độ được cử vào
chức vụ này. Đổi lại, Bert chính thức hủy bỏ Qui ước
30/7/1885, tức qui ước đặt phần lănh thổ c̣n lại của
Đại Nam dưới chế độ quân quản Pháp, và cho
phép 12 tỉnh An-Nam được nhiều quyền tự trị hơn. (ĐNTL,CB, 37:108; Vũ
Ngự
Chiêu, Các vua cuối, tập II. Xem thêm thư
ngày 25/9/1886, Bert gửi Petrus Key; Trấn, 1993, tr.
83-84). Việc
sử dụng Hoàng Kế
Viêm, một lăo tướng trụ cột của nhà Nguyễn tại Bắc
Kỳ trước năm 1883, để “an phủ” [chiêu hồi] các lực
lượng
Cần Vương là một thành quả khác của Petrus Key.
Tuy nhiên, chủ trương
đứng
ngoài cuộc tranh chấp Giáo-Lương của Bert và
Petrus Key không được sự tán thưởng của giới giáo
sĩ. Giáo sĩ và giáo dân bất chấp lệnh “an
phủ” của Bert, tiếp tục bắt giết các thủ lĩnh Cần
Vương về
hàng, kể cả thày dạy cũ của Đồng Khánh
là Trần Văn Dữ. Thư ngày 5/10/1886 mà Petrus Key
gửi cho Bert phần nào phản ảnh sứ mệnh khó khăn của
ḿnh. (Xem
thêm
thư ngày 19/1/1887, Petrus Key gửi Noel Pardon;
Nguyễn Văn Trấn, 1993, tr. 96-98; Osborne 1969:134-35)
Dẫu vậy, Bert
vẫn đề
nghị Paris ban thưởng cho Petrus Key một tấm Đệầ
Ngũ Đẳng
Bắc đẩu Bội tinh, loại huân chương cao quí của nước
Pháp mà rất ít người, kể cả sĩ quan và
viên chức Pháp, được phong tặng. (Thư ngày 25/9/1886,
Bert gửi
Petrus Key; Nguyễn Văn Trấn, 1993, tr. 83-84) Trong số rất hiếm
người Việt được
ân thưởng Bắc đẩu Bội Tinh c̣n có Huyện Sỹ, Trần
Bá Lộc, Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, Trần Lục,
Ngô Đ́nh Khả, Nguyễn Hữu Bài, v.. v....
Không hề vào sinh ra tử, chỉ với số vốn liếng chữ
Pháp và Latin hấp thụ được từ trường Collège
général de Pinang và ng̣i bút của
ḿnh, Petrus Key đă cấy xuống hạt mầm của kế hoạch
tách hẳn Bắc Kỳ khỏi An-Nam mà đến năm 1897 người
Pháp mới thực hiện được qua nhóm Nguyễn
Thân-Ngô Đ́nh Khả. (Vũ Ngự Chiêu, Các vua
cuối, II:542-43)
Cái chết đột ngột
của Bert
vào tháng 11/1886 chấm dứt vĩnh viễn vai tṛ
chính trị của Petrus Key tại Huế. Nhưng giai đoạn ngắn
ngủi
mà Petrus Key làm “ẩn sĩ” ở kinh đô lưu lại những
kỷ niệm chẳng mấy tốt đẹp. Sau này, ngày 10/4/1892,
Phủ
Phụ Chính của Thành Thái (1889-1907) gửi
công văn cho Jean de Lanessan yêu cầu Toàn quyền
Pháp đừng bao giờ gửi ra Trung Kỳ những nhân vật như
Petrus Key, Diệp Văn Cương, thông phán Nguyễn Trọng
Tạo
hay kư lục Lê Duy Hinh, v.. v... (Người dịch thư
này từ Hán ngữ qua Pháp ngữ là Ngô
Đ́nh Khả; Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, II:534,
593chú 43).
Mùa Xuân năm 1888,
Petrus
Key lại có dịp tiếp tay Pháp mở rộng
biên giới Đông Dương. Tháng 4/1888, Petrus
Key qua Bangkok để thi hành một sứ mệnh đặc biệt.
Trong
báo cáo vào tháng 5/1888, Petrus Key
yêu cầu người Pháp khuyến khích triều Nguyễn
tuyên bố các xứ Nam Chưởng [Luang Prabang], Vạn Tượng
[Viêng Chăn], v.. v... vốn là chư hầu của Đại Nam, ba
năm cống hiến một lần, hầu chống lại đ̣i hỏi lănh thổ
của
Xiêm La. (Bouchot,
tr.
91-97; bản dịch “Những năm cuối cùng của cuộc đời
Pétrus Kư” của Tân Văn Hồng; Nguyễn Thanh
Liêm, op. cit., tr. 107-11) Cũng trong thời gian
này,
Toàn quyền Pháp cho lệnh triều Đồng Khánh lục
lọi văn khố, t́m bất cứ tài liệu nào về chủ quyền
của Đại Nam trên đất Lào. Nhờ vậy, Lào được
sát nhập vào Đông Dương như “xứ” (pays) thứ
năm. Tháng 7/1893, Pháp gửi chiến hạm ngược sông
Chaophraya lên Bangkok, uy hiếp chính phủ
Chulalongkorn
(1868-1910). May mắn cho Chulalongkorn, v́ cả Bri-tên
và Pháp muốn duy tŕ Xiêm La (Syam) như một
trái độn, nên năm 1896, hai bên kư Hiệp ước
tôn trọng chủ quyền của Xiêm. Đổi lại, Xiêm La
nh́n nhận biên giới hiện nay.
Tóm lại, thời gian
ở Huế nói riêng, và suốt gần 40 năm
phục vụ chế độ Bảo hộ Pháp, Petrus Key
luôn
luôn bày tỏ một ḷng yêu nước nồng
nàn. Nhưng là ḷng yêu nước
Pháp, tổ quốc mới của ông.
Petrus Key
và Vụ án
Tống Thị
Quyên-Hoàng tôn Đán
Mới đây khi
hiệu đính hai cuốn Việt Nam Niên Biểu,
Tập II-A: Các tôn giáo và II-B: Các
tổ
chức
chính
trị (đang in) tôi có dịp duyệt
xét lại vài chi tiết trong tập Cours d’histoire
annamite à l’usage des écoles de la
Basse-Cochinchine [Bài
giảng
sử
kư
An-nam-mít
dùng
cho
các
trường
ở
Nam
Kỳ
thấp]
(2
tập,
Sài
G̣n:
1875-1877[1879])
của
Petrus Key.
[Trọn bộ sách này
hiện lưu giữ tại Thư viện Quốc Gia Pháp
(Mitterand)
ở quận XIII, Paris. Hơn 10 năm trước, tôi chỉ
ghi
chép những nét chính; năm 2001 nhờ Luật sư Trần
Thanh Hiệp làm giúp phóng ảnh, nhưng sách
đă quá cũ, nên Luật sư Hiệp đă ưu ái
chép giúp lại những trang cần thiết, từ trang 257
tới
261, vừa đủ sử dụng cho phần này. Đầu năm 2002, cháu
Vũ Thái Dũng t́m được bản sao không toàn vẹn
của tập II từ Sài G̣n. Đọc kỹ những trang
chót, tôi nghĩ tập này phải in năm 1879,
không phải 1877 như đă ghi ở đầu sách]
Trong tập Cours
d’histoire
annamite nói trên, Petrus Key thuật lại rằng
theo lời
đồn vua Minh Mạng “đi lại” với chị dâu góa (tức Tống
Thị
Quyên, vợ Hoàng tử Cảnh), khi chị có thai,
bèn kết tội lăng chạ và ghép án tử
h́nh, chết chung với hai đứa con trai [Hoàng tôn
Đán tức Mỹ Đường, và Mỹ Thùy]. Lại
c̣n phụ chú rằng vua cho chọn “tam ban triều điển”: tự
tử
bằng thuốc độc, thắt cổ, hoặc dao găm.
[Nguyên văn: Son frère
Cảnh était mort, laissant deux fils; leur perte fut
résolu. Minh Mang, dit-on, eut des relations
avec la veuve
de son frère et la rendit enceinte. Quand la
grossesse fut
apparante, il l’ờa condamné à mort pour inceste,
elle et
ses deux fils, ses deux propres neveux. Il leur
accorda cependant la
faveur de choix du genre de mort.( 1)
1. Cette faveur,
appelé tam ban triều điển, consiste
à envoyer au condamné
priviligé trois engins de destruction: (1)
trois
mètres de soie rose pour s’étrangler ou se
prendre; (2)
un verre de poison pour boire; (3) un sabre pour
se couper la gorge. (II:259-60)]
Petrus Key nhận xét
rằng
đây là một “tội ác”
v́ Minh Mạng là người có bản
chất “ác độc, lạnh lẽo, tối tăm và gian xảo”
[nature
méchante, froide, sombre et fausse].( II:260)
Mặc dù Trần Trọng
Kim
đă bài bác tin đồn (dit-on) này (VNSL,
II:187), một số nhà truyền giáo vẫn sao
chép lại, và dời ngày Hoàng
tôn Đán bị giết từ 1824 tới 1835. (Xem, Phan Phát Huồn,
Việt Nam
Giáo Sử [1965], I:300-1). Năm 1993, ông “Bảy” Trấn cũng
lập lại nguyên vẹn
chi tiết “loạn luân” và “giết người bịt miệng” trong
một
biên khảo về Petrus Kư. (1993, tr. 51).
Trước hết, phải khẳng
định: Theo Đại
Nam
Thực
Lục,
Chính
Biên và Đại Nam
Chính Biên Liệt Truyện, của Quốc sử quán triều
Nguyễn chỉ có Tống Thị Quyên, vợ góa Hoàng
tử Cảnh, bị d́m nước chết trong năm Giáp Thân
(1824). Người thi hành bản án này là Tổng
trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt (cũng người được
các giáo sĩ và Petrus Key mô tả như chống
lại vua Minh Mạng, ủng hộ Hoàng tôn Đán, những
lời vơ đoán trái ngược với sử nhà Nguyễn),
mới từ thành Phiên An (Sài G̣n) ra Huế dự
thượng thọ của Hoàng Thái hậu (mẹ sinh Minh Mạng).
Hoàng tôn Đán [Mỹ Đường] bị phế làm
thứ dân, dời nhà khỏi Hoàng thành từ
tháng 12 Giáp Thân [19/1-17/2/1825], và cấm
không được vào chầu. (ĐNTL,CB, II, 7:104-5; ĐNLT, CB
q. 2 (truyện Anh Duệ
Hoàng thái tử) & 23 (truyện Lê Văn Duyệt hạ)
[1993], II:49, 396 [Việt ngữ]). Đán bị đặt trong t́nh trạng
giám
sát thường xuyên, và năm 1849 mới chết giữa
lúc kinh đô bị bệnh thời khí. (ĐNTL,CB, q. 2 [1993],
II:52-4). Nói cách khác,
Minh Mạng không “thủ tiêu” Đán
như Petrus Key và các giáo sĩ tung tin đồn. Em
Đán là Thái B́nh Công Mỹ
Thùy chết “bệnh” năm 1826 [tháng Bảy Bính Tuất,
4/8-1/9/1826], khi đang bị quân lính kiện. (ĐNTL,CB, II, 8:76) Tháng Tám Bính
Tuất [9/1826], Minh Mạng cho Lệ Chung, con Mỹ Đường,
mới 6 tuổi,
được tước Ứng Ḥa hầu để giữ hương hỏa Thái tử Cảnh. (ĐNTL,CB, II, 8:97)
Khi sơ thảo
cuốn Các
vua
cuối
nhà
Nguyễn, tôi đă sử dụng tài
liệu của các nhà truyền giáo. Nay xin viết
rơ lại, và hy vọng độc giả chưa có phần
“Đính chính” sửa chữa giúp ấn bản năm 1999
(tập I) như sau:
tr.
52,
ḍng 8-9: “Việc Minh Mạng giết chết
mẹ ruột
Đán là Tống Thị Quyên rồi biếm Mỹ
Đường làm thường dân vào năm 1824 . . . .”
tr.
57,
ḍng 17-19: “Bởi thế sau khi giết Tống
thị (vợ Cảnh) và biếm Hoàng
tôn Đán làm thường dân, ngày
12/2/1825, vua mật chỉ cho Tổng Đốc Quảng
Nam:”
Vụ án Nguyễn
Văn
Thành (1758-1817)
Nhân đây cũng
bàn thêm việc liên quan giữa vụ án Nguyễn Văn
Thành cùng cuộc tranh chấp ngôi vua giữa
Hoàng tôn Đán (?-1849, cháu đích
tôn Gia Long) và Hoàng tử Đảm (1791-1841,
Hoàng tử thứ tư), tức vua Minh Mạng.
Petrus Key và các
giáo sĩ chép rằng “Nguyễn Văn Thiềng” [Thành]
“Phó vương (Vice Roi) ở Bắc Kỳ” bị Minh Mạng
(1820-1841) giết
v́ một bức thơ giả mang dấu ấn của Thiềng. Lê Văn
Duyệt
“ngán ngẫm” trước cảnh này, xin vào Gia Định
đánh giặc. (Cours
d’histoire annamite, 1877[?],tome II, tr. 261; Trấn
1993, tr. 51-2).
Câu
chuyện “cổ tích” mà Petrus Key
chép bằng tiếng “Pha Lang
Sa” để “kiếng” cho “học
tṛ các trường đất Nam ḱ” trên (Xem
thư ngày 25/2/1875 của P.J. Truong Vinh Ky,
ở phần đầu tập I, Cours d’histoire annamite;
Nguyễn Văn Trấn,
1993, tr. 32), dĩ nhiên, khác xa với sử
liệu Nguyễn. Cuộc thanh trừng phe ủng hộ Hoàng tôn
Đán (như cha con Nguyễn Văn Thành) xảy ra dưới triều
Gia Long (1802-1820). Lê Văn Duyệt (1754-1832), Phạm
Đăng
Hưng và Nguyễn Hữu Nghi thủ diễn vai tṛ quan trọng
trong
cuộc thanh trừng này. Ba năm sau, khi vua Gia Long từ
trần,
Đông Cung Thái tử Đảm lên nối ngôi,
tức vua Minh Mạng (1820-1841). Hai người được Gia Long
chọn để nhận di
chiếu là Phạm Đăng Hưng (nhạc phụ của Thiệu Trị,
1841-1847)
và Lê Văn Duyệt. Sau khi lên ngôi, để thưởng
công cho Lê Văn Duyệt, Minh Mạng cử Tả quân Duyệt
làm Tổng trấn Gia Định lần thứ hai từ tháng 5 Canh
Th́n (11/6-9/7/1820).
Petrus Key và các
giáo sĩ, với thành kiến tiên thiên
là các vua nhà Nguyễn thuộc
loại “ác quỉ,” muốn hậu thế tin rằng
Minh Mạng
muốn tru diệt công thần, ḍng dơi họ Lê
và tất cả những người chống đối để bảo vệ ngôi báu.
Bởi thế, Petrus Key cho Lê Văn Duyệt “chứng kiến tận
mắt” cảnh
Minh Mạng bầy kế lấy trộm ấn “Phó vương (Vice Roi) Bắc
Kỳ” của
Chưởng Trung quân “Nguyễn Văn Thiềng” [Thành] rồi viết
ra
một thư giả nhân danh Thiềng và các con kêu
gọi dân chúng làm loạn, hầu lấy cớ giết hại cả hai
cha con “Thiềng.” Phần Lê Văn Duyệt, nhờ may mắn hơn,
t́m
thấy kẻ ăn trộm ấn của ḿnh nên thoát chết, chỉ bị
gửi vào Gia định thành để dẹp loạn. (Cours d’ờhistoire
annamite, 1877
[?],II:260-1; Trấn 1993, tr. 51-2)
Trong hơn một trang
“sử” nhằm chứng
minh “bản chất gian ác” của vua Minh Mạng trên
chỉ có một nửa sự kiện xảy ra, đó
là việc Tả quân Duyệt bị mất
trộm ấn
năm 1816. C̣n lại, hoàn toàn sai lạc.
1. Thứ nhất, khi xảy
ra vụ án
Nguyễn Văn Thành (kéo dài từ năm 1815 tới 1817),
Minh Mạng chưa lên làm vua. (Vũ Ngự Chiêu, Các vua
cuối, tập I, tr. 83n38)
2. Thứ hai, Nguyễn Văn
Thành
hay Lê Văn Duyệt chẳng bao giờ được tước “Vice Roi”
[Phó
vương] (ngay từ năm 1886, Paul Bert đă từng chất vấn
Petrus Key
về việc này). (Nguyễn
Văn
Trấn,
1993,
tr.
72-3)
3. Thứ ba, Nguyễn Văn
Thành,
cựu Tổng trấn Bắc thành, đă rời Hà Nội từ năm
1810, sau khi mang quan tài mẹ về Huế chôn cất. Sau
đó được giao việc biên soạn Bộ luật Gia Long, và
rồi giữ chức Chưởng Trung quân, tức cầm đầu quân đội.
Như
thế, không thể có việc Nguyễn Văn Thành bị trộm ấn
tín “Vice Roi” để đóng vào lá thư giả
kêu gọi làm loạn nào đó.
4. Thứ tư, theo sử nhà
Nguyễn,
vụ án Nguyễn Văn Thành khởi sự từ một bài thơ của
con Nguyễn Văn Thành, tức Cử nhân Nguyễn Văn Thuyên
(khóa 1813). Sau đó, đến việc Lê Duy Hoán
khai rằng từng nhận được thơ Thuyên xúi làm loạn. Lê
Văn
Duyệt
chứng
kiến
tận
mắt
vụ
án
này
không
phải trong cảnh đồng hội, đồng thuyền với Nguyễn Văn
Thành,
mà là người chủ chốt (cùng với Phạm Đăng Hưng
và Nguyễn Hữu Nghi) buộc Nguyễn Văn Thành vào tội
chết. [Xem
phần sau]
5. Thứ năm, việc mất
ấn Tả quân
(mà không phải ấn “Vice Roi”) của Lê Văn Duyệt năm
1816 có liên quan đến vụ án Nguyễn Văn
Thành. Người ăn cắp ấn, một tên Hựu nào đó,
khai rằng Nguyễn Văn Thành xúi y làm bậy; Lê
Văn Duyệt tâu lên Gia Long, nhưng vua bỏ qua v́
không đủ chứng cớ. (ĐNTL,CB,
I,
4:302)
6. Thứ sáu, sau khi
kết
thúc vụ án Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt
được cử ra vùng Nghệ An-Hà Tĩnh dẹp giặc, không
được trở lại Gia Định thành như Petrus Key viết.
Chưởng hữu
quân Nguyễn Văn Nhân vẫn giữ ấn Tổng trấn Gia Định. (ĐNTL,CB, I, 4:391) Sau đó, đến lượt
Nguyễn Huỳnh
Đức, và rồi khi Đức chết bệnh, Nguyễn Văn Nhân lại
làm Tổng trấn cho tới mùa Hè 1820.
7. Thứ bảy, tháng
1/1820, khi
vua Gia Long ốm nặng, Phạm Đăng Hưng và Lê Văn Duyệt
được đón nhận di chiếu lập Thái tử Đảm lên
ngôi, tức vua Minh Mạng. Lê Văn Duyệt c̣n được giao
nắm ngũ quân thần sách để bảo đảm an ninh kinh
thành. (ĐNTL,CB,
I,
4:398)
8. Thứ tám, sau ngày
Minh Mạng lên ngôi, Lê Văn Duyệt mới được cử
làm Tổng trấn Gia Định lần thứ hai từ tháng 5 Canh
Th́n [11/6-9/7/1820], với toàn quyền hành động để
đương đầu với loạn Sư Kế ở Chân Lạp.
Đưa ra 8 lỗi lầm của
Petrus Key
trong hai trang thông sử (đúng hơn cổ tích) bằng
tiếng Pháp, chúng tôi không muốn “đạp một
cánh cửa mở rộng để bước vào nhà.” Chẳng một người
học sử nào dám tự hào ḿnh không phạm
lỗi lầm về kỹ thuật hoặc dữ kiện. Hơn nữa, hơn một
trăm năm trước,
Petrus Key không có khoảng cách thời gian vừa phải
như chúng ta để sưu tra và so sánh các tư
liệu. Petrus Key cũng không phải là một sử gia
chuyên nghiệp (dù Petrus Key tự xưng là “historien
fidèle et consciencieux”), và chỉ viết những bài
giảng “sử” trên do nhu cầu giảng dạy tiếng Pháp và
tuyên dương công ơn nước Pháp tại Nam Kỳ.
Sở dĩ phải
lạm bàn
về sự sai lầm của Petrus Key v́ đây
không phải là những sai lầm thuần kỹ thuật
hoặc
thiếu tư liệu (chỉ nội tập II đă
có vài trăm lỗi kỹ thuật về ngày
tháng, sử kiện), mà đôi chỗ đă sai
lầm đầy chủ ư. Petrus Key chép việc “Minh Mạng” ám
hại công thần hoặc nhà vua thông dâm với chị
dâu và giết hại hai cháu ruột, chỉ nhắm mục
đích chứng minh hoặc tố cáo bản chất gian ác (sa
nature perverse) của ông vua thứ hai triều Nguyễn,
người nổi danh
là đàn áp Ki-tô giáo. (II:260)
Để t́m hiểu sự thù
ghét giữa Minh Mạng và các nhà truyền
giáo, cần lược duyệt lại giai đoạn từ khi nhà Tây
Sơn (1778-1802) tiêu diệt chúa Nguyễn (1600-1777),
làm chủ Đàng Trong.
Sau khi hai chúa
Nguyễn cuối
cùng bị Tây Sơn giết hại ở Gia Định, từ năm 1777 hoặc
1780, Pierre Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) đă
quyết định ủng hộ Hoàng thân Nguyễn Chủng (Noăn tức
Anh) chống lại nhà Tây Sơn. Mặc dù không ưa
đạo Ki-tô, sau khi Pigneau de Béhaine chết (1799), Gia
Long vẫn cho các giáo sĩ tự do hoạt động. Nhưng
giáo sĩ Pháp chưa thỏa măn. Ra công vận
động, giúp tài lực (cho Nguyễn Chủng vay 270,000 đồng
Mexico), nhân lực (tuyển mộ lính đánh thuê
Tây phương, đặc biệt là Pháp), và khí
giới cùng tàu chiến đưa Nguyễn Chủng lên
ngôi, họ muốn vua Gia Long phải trả ơn bằng cách trọng
đăi giáo dân Ki-tô. Nhưng vừa lên
ngôi chưa đầy hai năm, ngày 4/3/1804 (tháng
Giêng Giáp Tí, 11/2-11/3/1804), từ Thanh Hoa, Gia
Long ban chỉ dụ không được sửa chữa nhà thờ, chùa
chiền v.. v.. nếu không được phép của các quan địa
phương. Nếu vi phạm, xă trưởng phải bị đầy đi xứ xa,
dân
th́ sung làm dịch phu, nhẹ th́ đánh roi hay
trượng, “để bớt tổn phí cho dân, mà giữ phong tục
thuần hậu.” (ĐNTLCB,
I, 3:162-69) Vua cũng ra
Dụ chê bai thuyết thiên đường, địa ngục, nước phép
của Ki-tô giáo:
“Lại như đạo Gia tô
là tôn giáo nước khác truyền vào nước
ta, bịa đặt ra thuyết thiên đường địa ngục khiến kẻ
ngu phu ngu
phụ chạy vạy như điên, tiêm nhiễm thành quen,
mê mà không biết. Từ nay về sau, dân
các tổng xă nào có nhà thờ Gia
tô đổ nát th́ phải tŕnh quan trấn mới được
tu bổ, dựng nhà thờ mới th́ đều cấm.” (ĐNTL,CB,
3:168-69. Theo các giáo sĩ, vua cấm cả sửa chữa
nhà thờ; Louvet, La Cochinchine religieuse, II:16-9;
Huồn 1965,
I:267-68).
Thất vọng về Gia
Long, các
giáo sĩ nuôi tham vọng đầu tư vào con Thái
tử Cảnh (đă chết v́ bệnh đậu mùa năm 1801), tức
Hoàng tôn Đán (Mỹ Đường), và
công khai chống lại Hoàng tử Đảm (tức Hiệu), người
được sự yểm trợ của phe nho sĩ bảo thủ trong triều
(như Phạm Đăng
Hưng, Thượng thư Bộ Lễ).
Trong số những
người ủng
hộ Hoàng tôn Đán có
Nguyễn Văn Thành. Nguyễn Văn Thành gốc Thừa Thiên,
sau tổ tiên rời vào Gia Định. Trước theo cha
chống Tây Sơn ở Sông Cầu, rồi theo Nguyễn
Chủng
qua Xiêm La, giúp quân Xiêm đánh
thắng Miến Điện. (ĐNTC,CB ghi Thành không qua
Xiêm La lần thứ nhất, trốn tránh trong dân gian, khi
Nguyễn Chủng đưa quân Xiêm về mới ra ṭng
quân). Năm 1802, sau khi nhà Tây Sơn bị diệt, đứng
đầu sổ công thần, được phong chức Tổng trấn Bắc thành.
Năm
1810, nhân mẹ chết, mang quan tài về Huế, được giao
soạn
lại luật pháp (tức Luật Gia Long, nhưng sau bị lấy tên
ra), rồi nắm giữ binh lực (Chưởng Trung quân).
Quyền cao, chức trọng,
Nguyễn Văn
Thành không lo bảo vệ tính mạng, lại xen
vào việc phế lập, từ năm 1805 nhiều lần xin
vua lập
Thái tử, và nhấn mạnh vào vấn đề chính
thống, tức muốn lập ḍng trưởng. Gia Long chưa có
quyết
định dứt khoát v́ chính phi (Tống Thị Lan, mẹ
Thái tử Cảnh) c̣n sống, và vua nghi ngờ Nguyễn Văn
Thành có dụng tâm. Một lần vua giận nói:
Hắn muốn dựng vua nhỏ để
dễ khống
chế, ngày sau có thể chẹt họng, vỗ lưng chăng. Ta
há tối tăm lầm lẫn, không biết đắn đo nên chẳng, vội
nghe lời hắn mà không v́ xă tắc chọn người
sao?
Từ đó
hễ vào
chầu là Nguyễn Văn Thành chỉ xin dựng
Thái tử. Vua nín lặng. Nguyễn Văn Thành biết vua
không vừa ư, ḷng sinh ngờ sợ.
Số phận của
Nguyễn Văn
Thành và nhóm pḥ Hoàng
tôn Đán bắt đầu xuống dốc từ sau
cái chết của Hoàng hậu Tống Thị Lan vào
tháng Tháng Hai Giáp Tuất [20/2-20/3/1814]. Gia
Long cho Hoàng tử Đảm làm chủ tế với
danh vị con nuôi của Tống Hoàng hậu. Nguyễn Văn
Thành cực lực phản đối, nêu lư do Hoàng
tôn Đán (cháu đích tôn, thuộc
ḍng trưởng) làm chủ tế mới phải đạo. Gia Long
không đổi ư, nói con theo mệnh cha để tế mẹ
là việc danh chính, ngôn thuận, có ǵ
mà không nên. Nguyễn Văn Thành có
ư không bằng ḷng. (ĐNTLCB, I, 4:213-14; ĐNCBLT,
II, q. 21; 1993, II:368-69)
Tháng Sáu Ất Hợi
[7/7/1815], Gia Long gọi Lê Văn Duyệt
về kinh, tạm giao
cho Trương Tấn Bửu quyền Tổng trấn Gia Định. (Tháng
Giêng Bính Tư [29/1-27/2/1816], Tổng trấn Bắc
thành là Nguyễn Huỳnh Đức chính thức thay
Duyệt làm Tổng trấn Gia Định; ĐNTLCB, I, 4:252, 270)
Chuyến hồi kinh này của Lê Văn Duyệt có lẽ để đối
phó với phe Nguyễn Văn Thành. (Điều này chứng
tỏ Lê Văn Duyệt không cùng phe với Thành như
các giáo sĩ đồn đại, và Petrus Key trung
thành ghi vào tập bài giảng cổ tích của
ḿnh)
Nguyên có người
hào khách cũ của con Nguyễn Văn Thành, tức
Cử nhân Thuyên, là Nguyễn Trương Hiệu
tố cáo với Thiêm sự H́nh bộ Nguyễn
Hữu Nghi rằng Thuyên chiêu mộ tân khách,
âm mưu làm loạn. Theo Hiệu, Thuyên từng sai Hiệu
mang thơ mời gọi bọn Nguyễn Văn Khuê, Nguyễn Đức Nhuận
ở
vùng Nghệ An, lời lẽ rất bội nghịch.
Văn
đạo
Ái
châu đa
tuấn
kiệt
Hư
hoài
trắc
tịch
dục
cầu
ti
Vô
tâm
cửu
bảo
Kinh
sơn
phác
Thiện
tướng
phưong
tri
Kư bắc
kỳ
U
cốc hữu hương thiên lư viễn
Cao
cương
minh
phượng
cửu
cao
tri
Thử
hồi
nhuợc đắc
trung
sơn
tể
Nghi bèn khuyên Hiệu
mang
bài thơ tố cáo với Lê Văn Duyệt.
Vốn không ưa Nguyễn Văn Thành từ lâu, Lê Văn
Duyệt mang bài thơ nạp lên vua Gia Long, nhưng vua
chưa
muốn tra cứu. Tay chân Lê Văn Duyệt bèn xúi
Hiệu dùng bài thơ trên làm tiền
Thuyên. Thuyên phải kư giấy nợ với Hiệu. Có
lần Hiệu c̣n chặn đường Nguyễn Văn Thành đưa giấy nợ
của
Thuyên đ̣i tiền. Nguyễn Văn Thành bèn cho
bắt cả Hiệu và Thuyên, giao sang phủ Quảng Đức tra
hỏi, rồi đích thân tŕnh bày sự việc
lên Gia Long. Vua cho đ́nh thần bàn nghị. Hiệu viện
dẫn một môn khách khác của Thuyên là
Đỗ Văn Chương làm chứng, nhưng Chương đă bỏ
vào Gia Định. Tháng Chạp Ất Hợi
[30/12/1815-28/1/1816], vua tạm tha Thuyên, và cho
lệnh
bắt Chương về Huế đối chất. (ĐNTLCB, I,4:267-9) Tháng Hai Bính Tư
[28/2-28/3/1816], Kư lục Quảng Trị là Nguyễn Duy
Ḥa dâng sớ hạch tội Nguyễn Văn Thành, nhưng Tham
tri H́nh bộ Vơ Trinh bênh vực, nên vua tạm
gác. (ĐNTLCB
I,
4:275-76)
Dẫu vậy Gia
Long bắt đầu chán ghét Nguyễn Văn Thành. Sau lễ
Nam Giao, không cho vào chầu nữa. Hai người trong phe
Nguyễn Văn Thành là Tham tri bộ H́nh Vơ
Trinh và Chưởng cơ Tống Phước Ngoạn cũng bị hạ ngục v́
tội xúi người “làm chứng gian” rằng Hiệu vốn là
tịch sĩ của Nguyễn Hữu Nghi, với ư bênh vực Thuyên. (ĐNTLCB I, 4:277)
Qua tháng Ba Bính
Tư [29/3-26/4/1816], Gia Long quyết định
lập Đảm làm Đông cung Thái
tử. (ĐNTLCB
I,
4:278-80) Tháng Tư
Bính Tư [27/4/1816], Phạm Đăng Hưng hỏi cung Đỗ
Văn Chương, Chương xác nhận lời khai của Hiệu, nhưng
Thuyên chưa chịu nhận tội. Vua bèn
giao Thuyên cho Lê Văn Duyệt tra hỏi, Thuyên mới chịu
nhận. Nguyễn Văn Thành cũng dâng sớ xin chịu tội. Vua
bèn hạ lệnh tống giam Thuyên vào ngục, nhưng chỉ
thu ấn Chưởng Trung quân của Thành. Chưởng Hữu quân
Nguyễn Văn Nhân–có con gái là vợ Thái
tử Đảm–tạm lănh ấn Chưởng Trung quân, cho đến
ngày Trương Tấn Bửu thay Thành. (ĐNTLCB I, 4:283-84, 300)
Sau khi Đảm được cử
làm
Thái tử (ngày 5/7/1816; ĐNTLCB, I, 4:288), triều
đ́nh bắt đầu luận tội hai cha con Nguyễn Văn Thành. (ĐNTL,CB, I, 4:292-93)
Tháng Mười Bính
Tư [19/11-18/12/1816], bỗng xảy ra vụ
Lê Văn Duyệt bị mất ấn Tả quân.
Thủ phạm ăn cắp ấn tự nhận do
Nguyễn Văn
Thành xúi bẩy. Vua không tin. (ĐNTLCB, I, 4:302)
Tháng Một Bính
Tư [19/12/1816-16/1/1817], Gia Long cho lệnh bắt
Lê Duy Hoán v́ tội mưu phản. Khi
bị dẫn giải về Huế, quan chức Bộ H́nh
lấy cung
thêm. Hoán khai rằng Thuyên từng gửi thư cho
Hoán, xúi làm phản. (ĐNTLCB, I, 4: 304-5,
319). Thuyên cố chối tội, nhưng Lê Văn Duyệt
làm cho Thuyên phải nhận. Tháng Năm Đinh Sửu
[15/6-13/7/1817], Gia Long tống giam Nguyễn Văn Thành
và
các con. Mặc dù quyết không nhận tội, Nguyễn Văn
Thành uống thuốc độc tự tử, chỉ để lại một tờ biểu
minh oan,
có câu “sớm rèn, tối đúc, đặt
thành sự cực ác cho cha con tôi, không biết
tố cáo vào đâu được, chỉ chết đi mà
thôi.” Đọc xong tờ biểu, Gia Long ̣a
khóc, dụ rằng: “Văn Thành từ lúc trẻ theo trẫm vất
vả, có công lao to. Nay nhất đán đến nỗi chết, trẫm
không bảo hộ được, ấy là trẫm kém đức.”( ĐNTLCB, I, 4:321;
ĐNCBLT,
II, 1993, II:371) Rồi
cho chôn cất tử tế. Thuyên và Lê Duy
Hoán bị làm án chém. Hiệu được thưởng 500
quan tiền. (ĐNTLCB, I
4:321-22; ĐNCBLT, q.21; QTCBTY 1971:92). Các con Nguyễn Văn
Thành
đều được tha. Riêng Nguyễn Văn Hàm sau theo Bế Văn Cận
tức
Nguyễn Hựu [“Lê Văn”] Khôi làm loạn, chỉ huy lực
lượng Ki-tô giáo ở Phiên An (Sài G̣n).
V́ thế con cháu Nguyễn Văn Thành đều bị truy giết.
Măi tới năm 1848, Vũ Xuân Cẩn dâng sớ xin truy
xét công trạng Nguyễn Văn Thành; nên Tự
Đức (1848-1883) cho con là Loại làm chủ quân
Cai đội. (ĐNTLCB,
IV,
27:76-7,119-20)
Tóm lại, những
vụ án Nguyễn Văn Thành hay Tống Thị
Quyên-Mỹ Đường chỉ là cái
cớ cho các giáo sĩ đả kích vua Minh
Mạng, bất chấp sự thực. Từ năm 1816, sau khi Gia Long
chọn Hoàng
tử Đảm làm Thái tử, các giáo sĩ
và giáo dân công khai chống lại quyết định
này. Không những tung tin Gia Long giết Hoàng tử
Cảnh (như lời chứng của Giám mục Francois Pellerin
trước Ủy Ban
Cochinchine ở Paris vào tháng 5/1857), họ c̣n
cáo buộc Minh Mạng (Hoàng tử Đảm) đă
“soán ngôi” của cháu. Cái chết của cha con
Nguyễn Văn Thành năm 1817 được bịa đặt ra là xảy ra
dưới
triều Minh Mạng. Cuộc thảm sát Tống thị Quyên, vợ
Cảnh,
năm 1824 và biếm Mỹ Đường (Hoàng tôn
Đán) thành thường dân vào đầu năm 1825
v́ tội “thông gian với mẹ đẻ”–cùng cái chết
của Mỹ Thùy, con thứ hai Thái tử Cảnh, vào
tháng 8/1826 [tháng Bảy Bính Tuất]–lập tức trở
thành thứ “bí ẩn cung đ́nh” là Minh Mạng
“đi lại” với chị dâu góa, rồi khi chị dâu mang thai,
bèn “giết chị dâu và hai cháu” để che dấu
tội loạn luân! V́ không có bằng chứng, lại
lẫn lộn về ngày tháng, sự kiện, các giáo sĩ
và Petrus Key chỉ việc thêm vào “theo lời đồn”
(dit-on) là tự cảm thấy phủi sạch tay trách nhiệm!
Trang bị bằng các
Thánh lệnh đi xâm chiếm và cải đạo
các vùng đất “mọi rợ” chưa nằm trong tay hay
chưa được một quân vương Ki-tô nào
tự nhận là sở hữu, các giáo
sĩ Pháp nghĩ đến việc dùng vơ lực
lật đổ nhà Nguyễn. Năm 1833, nhân dịp Nguyễn
Hựu
(“Lê Văn”) Khôi nổi dạy ở miền Nam, Linh mục
Joseph
Marchand [Mă Song hay Du], v́ lư do nào
đó, cũng “có mặt” trong thành Phiên An, với
khoảng 100 giáo dân Ki-tô, dưới sự chỉ huy của
Nguyễn Văn Hàm (con Nguyễn văn Thành).
Khôi, theo Đại Nam
Chính Biên Liệt Truyện, tên thật Bế Văn Cận,
nguyên là con một thổ tù đất Cao Bằng. (Xin xem
thêm ĐNCBLT, truyện Nông Văn Vân, v́
h́nh như có sự trùng hợp hai tên Bế Văn
Cận). Khi mộ quân đánh dẹp ở Nghệ An, Khôi được cho
mang họ Nguyễn Hựu. Năm 1820, theo Tổng đốc Duyệt vào
Gia
Định thành, được trọng dụng. Tám năm sau, lên
tới chức Phó vệ úy vệ Minh Nghĩa. Sau khi Tổng đốc
Duyệt
chết năm 1832, Tổng đốc An-Biên Nguyễn Văn Quế và Bố
chính Bạch Văn Nguyên đàn hịch tội Khôi
là đă lợi dụng binh quyền khai thác gỗ làm
của tư. Ngày 6/7/1833 (18/5 Quí Tị) Khôi
cùng đồng đảng trong các cơ binh Bắc thuận và Hồi
lương nổi lên giết Bố chính Nguyên, chiếm
thành Phiên-An, rồi giết luôn Tổng đốc Quế. Sau
đó, đánh chiếm khắp 6 tỉnh miền Nam. Trước hết, nêu
danh nghĩa pḥ Lê, rồi tuyên bố trả thù cho
Lê Văn Duyệt. Giáo dân Ki-tô tham gia cuộc nổi
dạy gửi đại diện qua gặp Giám mục Taberd, lúc ấy đang
ẩn
náu ở Chantabun (Xiêm La), yêu cầu vận động
Xiêm và các nước Tây Âu tiếp sức. Họ
c̣n định giương cờ Constantine (có h́nh chữ thập)
để biểu lộ tinh thần “thập tự quân (crusade)” của cuộc
nổi dạy,
nhưng Marchand không đồng ư. Quan quân nhà
Nguyễn bắt được sứ đoàn này, với tang chứng rơ
ràng.
V́ đă
có mật ước với Khôi, đầu năm 1834 Xiêm La
nêu danh nghĩa pḥ trợ Khôi, phái 5
đạo quân xâm phạm vùng Hà Tiên,
Châu Đốc của Việt Nam, đồng thời tiến đánh Chân
Lạp và Lào, theo thế trong công ngoại kích.
Nhờ một số danh tướng như Nguyễn Xuân, Trương Minh
Giảng, v..
v..., và nhất là Thái Công Triều, một phản
tướng mới xin qui phục triều đ́nh, quan quân Nguyễn
đẩy
lui được giặc Xiêm. Nhưng dù Khôi chết v́
bệnh phù thủng năm 1834, măi hơn một năm sau quân
Nguyễn mới tái chiếm được Phiên An ngày 8/9/1835
(16/7 Ất Mùi). Quan quân giết chết tại trận 559 người,
kể
cả ba con của Khôi. Trong số 1,278 người bị bắt có
Nguyễn
Văn Trắm, Marchand và Phó tế Nguyễn Văn Phúc
[Phước], cai quản họ đạo Chợ Quán, cùng gần 100
giáo dân. Được hỏa tốc báo tin ngày
13/9, Minh Mạng cho lệnh “đào mả Khôi, đâm
nát xương cốt rồi chia ném vào nhà cầu 6
tỉnh, thịt cắt thành từng miếng cho chó ăn(?),đầu
lâu đóng ḥm gửi về kinh cùng 6 trọng phạm
[Marchand, Nguyễn Văn Trắm, Lê Bá Minh, Đỗ Văn Dự, Lưu
Tín, và “Lê Văn” Viên, con Khôi, mới 7
tuổi].” Tất cả các phạm nhân trong thành
Phiên An và ṭng phạm, “không cứ già
trẻ trai gái ở vài dặm ngoài thành đều
chém ngay, rồi đào một hố to [ở Chí Ḥa]
vất thây lấp đất, chồng đá làm g̣ dựng bia
khắc “nơi bọn nghịch tặc bị giết để tỏ ḷng quốc
pháp,”
sau thường gọi là “Mả Ngụy.” Trên đường giải giao ra
Huế,
Trắm t́m được cách móc cổ tự tử. Marchand
và bốn người khác bị kết án lăng tŕ [xẻo
từng miếng thịt cho tới chết]. Minh Mạng cũng xuống
lệnh thẳng tay giết
hại giáo mục Ki-tô từ ngày Khôi nổi loạn
và bắt được mật thư xin cầu viện nước Xiêm.
Muốn lợi dụng cuộc làm
loạn của
Khôi để loại bỏ thế lực “đuôi to
khó vẫy” của Lê Văn Duyệt, (ĐNCBLT, 21:137-38) từ năm
1833, Minh Mạng đă đổi Khôi sang họ Lê để tiện việc
trừng phạt như phá bỏ mộ bia Tả quân Duyệt, bắt giam
cả
con nuôi (Lê Văn Yên) và họ hàng
Lê Văn Duyệt. Con cháu Đán (tức Mỹ Đường)
lại bị xóa tên trong sổ tôn thất. Theo quốc sử
nhà Nguyễn, măi tới đầu đời Tự Đức (1848) Tả
quân Duyệt mới được xóa bỏ mọi tội trạng. (ĐNCBLT, q.
23 [Lê Văn Duyệt, hạ], (1993), 2:402-5; q. 45 [truyện
các
nghịch thần], (1993), 4:475-98; ĐNTL,CB, II, 2:213-16,
238-44, 266,
273, 278, 286-88, 317-18, 335-38, 396, 401; 13:16-8,
25-6, 107-15;
16:205, 158-63, 168, 265-66, 271-72, 322; và
17:46-56,154-56).
Tài liệu các
nhà truyền giáo tŕnh bày khác
với quốc sử Nguyễn: Khôi nổi loạn ngày 18/5/1833
(sic); quân Nguyễn hạ thành Phiên An
ngày 8/9/1835; Minh Mạng cho lệnh xử tử 1,940 người,
kể cả 64
“giặc” Ki-tô, chôn chung vào một Mả Ngụy. Marchand
bị đóng cũi giải về Huế cùng 4 người khác.
Marchand bị giết ngày 30/11/1835; v́ các tướng
giặc bị bắt khai rằng Khôi định nổi lên để lập Hoàng
tôn Đán làm vua, nên Minh Mạng “chắc
chắn” giết chết Đán năm này. (Huồn 1965, I:299-300,311) Petrus Key th́ ghi
1,137 người
bị xử tử, chôn chung trong Mả Ngụy. (Cours d’histoire,
II:265-6) Thành Sài G̣n do
Olivier dựng lên từ thập niên 1790 cũng bị xan thành
b́nh địa. (Ibid., II:267)
Người đọc sử đời
sau, hoặc người
muốn nghiên cứu về sự nghiệp văn học của
Petrus Key,
không thể không tạm ngừng ở đoạn viết
về Minh Mạng này cùng bản án
Hoàng tôn Đán và Nguyễn Văn
Thành để đặt câu hỏi: Tại sao?
Một trong những câu
trả lời
là Petrus Key không biết ǵ nhiều về lịch sử thời
cận đại hay hiện đại. Dăm ba trang “sử” khác để dạy
cho học
tṛ miền Nam về các vua Thiệu Trị và Tự Đức
chứng tỏ điều này. Thí dụ như Petrus Key thuật lại
rằng
Thiệu Trị lấy cả hai d́ cháu nhà họ Phạm;
cháu sinh ra “Hoàng Nhậm,” d́ sinh ra
“Hoàng Bảo;” sau khi Thiệu Trị chết, “Hoàng Nhậm” được
lên ngôi, “Hoàng Bảo” nổi loạn, bị thắt cổ chết
trong tù. Tự Đức thừa hưởng những cơn nóng giận của
cha là Thiệu Trị, và bản chất tàn bạo của
ông nội, tức Minh Mạng [héritier de la colère de
Thieu Tri et dont le tempérament semble plus se
rapprocher de
celui de Minh Mang] (Ibid., II:272-73), v.. v...
Chẳng
cần
đợi
tới
năm
2010
chúng
ta
mới
biết
các
con
vua
Thiệu
Trị
đều
mang
tên đệm Hường hay Hồng mà không
phải Hoàng. (Xem
Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, tập I, chương I & II)
Vụ án Hường
Bảo cũng
không đơn giản như cách diễn tả “[Hường] Bảo nổi loạn,
bị
thắt cổ chết trong tù.” (Ibid., II:272) Nó
liên
hệ
chân
rết
đến
cuộc
đương
đầu
sắt
máu
giữa
các
giáo
sĩ
và
triều
Nguyễn
từ năm 1833. Quan
trọng hơn, ít nhất trong thập niên đầu tiên,
ông vua trẻ tuổi, tật bệnh Tự Đức hoàn toàn bị
mẹ ruột, tức Thái hậu Từ Dụ (hay “cô Hằng gốc G̣
Công” của Petrus Key [Ibid.,
II:272]),
và
các đại thần đầy quyền lực như nhóm Trương Đăng Quế,
Lâm Duy Hiệp [Thiếp], Vơ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương
khống
chế.
Đáng lưu ư là
những chi tiết của Petrus Key về Tự Đức giống hệt
lập luận
các nhà truyền giáo, phần lớn dựa theo tin đồn do
chính họ phao ra. Bởi thế, không thể không
hoài nghi Petrus Key đă bị các giáo sĩ
Pháp chi phối nặng nề, hoặc nhồi sọ; hễ đả kích được
Minh
Mạng và các vua nhà Nguyễn là ra tay ngay
(Giống như sự trao đổi những lời nhục mạ giữa hai phe
Quốc Gia
và Cộng Sản từ năm 1945 tới nay).
Nhưng cũng
có thể Petrus Key chẳng hề bận tâm đến
sự
thực lịch sử, góp nhặt tin đồn và dùng trí
tưởng tượng của ḿnh, hư cấu thành những truyện cổ
tích bằng Pháp ngữ, nhằm phục vụ mục tiêu
chính trị giai đoạn của Hội truyền giáo và
Soái phủ Sài G̣n. Nên truyền đơn, khẩu hiệu
được khoác cho lớp xiêm áo “histoire” [lịch sử].
Trong
thư mở đầu bằng Việt
ngữ gửi các học tṛ đất Nam Kỳ, đề
ngày 25/2/1875 ở phần đầu tập I cuốn Cours
d’histoire
annamite, Petrus Key viết (bằng chữ Việt mới):
Dùng tiếng Pha lang sa
là tiếng đă rộng mà lại hay
mà chép chuyện nước ta cho anh em coi cho
quen
thuộc tiếng ấy, trông rằng lấy cái tiếng anh em
đang lo
học mà thuật lại truyện anh em đă biết th́ sẽ
giúp anh em cho dễ thông ư tứ léo lắt
và hiểu rơ cốt cách tiếng ấy hơn.
Như thế,
mục đích
chính của Petrus Key tự nhận chỉ là “chép
chuyện nước ta” cho các học sinh luyện thêm Pháp
ngữ. Nhưng thực chăng học tṛ Nam Kỳ ngày ấy “biết”
những
loại “tin đồn” mà Petrus Key “dịch” qua tiếng Pháp
bàn luận sơ lược ở đoạn trên? Thực chăng học tṛ
đất Nam Kỳ của thập niên 1870 “biết” rằng lịch sử Việt
chia
làm ba thời đại: (1) Từ 2874 trước năm Jesus Christ ra
đời tới
năm Jesus sinh ra gọi là thời đại Thượng cổ; (2) từ
năm sinh của
Jesus Christ tới năm 966 là thời kỳ chuyển tiếp
(période
de transition); và (3) từ năm 968 tới nhà Nguyễn gọi
là thời hiện đại (temps moderne)? Cái năm số “0” hay
số
“1” này–tức năm mà nhiều người tin là năm sinh của
Jesus Christ–chẳng hề dính nhập đến một biến cố quan
trọng
nào ở cổ Việt; và Jesus Christ hay các nước
Tây phương cũng chưa hề biết về, nói chi có ảnh
hưởng đến, những “xứ mọi rợ” không hề hiện hữu bên
ngoài trái đất h́nh vuông tại Âu
châu. (Cho tới đầu thế kỷ XV dân Âu châu vẫn
c̣n tin chuyện tiếng hát nhân ngư và vực
thẳm đầy sương mù bên ngoài ranh giới trái
đất h́nh vuông) Một giả thuyết để nghiên cứu
thêm [working thesis] có thể là Petrus Key
nuôi dụng tâm viết lại và phân chia lịch sử
Việt theo lịch sử truyền giáo Ki-tô Vatican, như một
dấu
mốc văn hóa của tân trào.
Một
điểm độc đáo
khác là Petrus Key không hề
nhắc đến những cuộc kháng chiến của dân quân
miền Nam trong cuộc xâm lăng của Pháp; mà chỉ ca
ngợi các quan Tướng Pháp đă khiến dân Nam Kỳ
thương yêu và kính trọng. Tội nghiệp cho hồn
thiêng của những anh hùng dân tộc như Thiên Hộ
Dương, Trương [Công] Định, Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân,
v.. v... cùng hàng chục ngàn anh hùng
vô danh khác. Việc người Pháp chiếm đóng ba
tỉnh miền Tây năm 1867 được biện minh là do các
tỉnh này đă gây nên “những rắc rối thường
trực và sâu xa” cho ba tỉnh miền Đông của
Pháp. (Ibid.,
II:276)
[Một độc
giả
vô danh nào đó hạ bút phê vào
dưới đoạn văn trên như sau: “Hay quá!”]
Ngoài vấn đề
phân định giai đoạn ḍng sử Việt, phần
thông tin tương đối chính xác là những
đoạn có lẽ rút ra từ Đại Việt
Sử Kư Toàn Thư của
Ngô Sĩ Liên và các sử
quan nhà Lê. Tuy nhiên, ngày
tháng phần lớn sai lầm–tác giả không biết rằng
tháng cuối của năm âm lịch thường lấn sang năm mới
tây lịch. Thí dụ như Lư Chiêu Hoàng
nhường ngôi cho chồng ngày 20/1/1226, mà
không phải 1225; quân Trịnh tiến vào Huế trong
tháng 1/1775 mà không phải 1774 [tr. 181]; Lê
Dụ Tông cai trị từ 1505 tới 1506 mà không phải 1505
[tr.37]; hai chúa Nguyễn cuối cùng chết năm 1777,
không phải 1776 [tr. 184]. Nhiều nữa. Petrus Key đáng
lẽ
phải hiểu rằng viết những bài sử lớp đồng ấu hay tiểu
học rất
khó khăn v́ cần được viết một cách nghiêm
túc và chính xác, nhưng lại cần đơn giản
cho đối tượng dễ thu nhận.
Để tạm kết thúc về mục
tiêu viết “sử” của Petrus Key, xin trích thêm đoạn
kết của cuốn Cours d’histoire annamite:
Đề đốc Lafont lên thay
Đềả đốc Duperré ngày 16/10/1877. Giống như những
người tiền nhiệm, ông đă tích cực áp dụng
những biện pháp mà ông tin rằng đích
đáng để bảo đảm ḥa b́nh và thịnh vượng cho
đất mới của Pháp. Ông rời chính quyền thuộc địa
ngày 7/6/1879.
Ông [Lafont] chấm dứt một
loạt
các Thống đốc quân sự mà sự tận tâm,
nghị lực và sự khôn khéo thận trọng đă cho
phép b́nh định gần như toàn thể xứ này
trong ṿng 20 năm, đă khiến cho dân
chúng của đất Nam Kỳ xưa thương yêu và kính
trọng những nhà bảo hộ mới của họ, quốc gia mới
của họ;
và cuối cùng tạo điều kiện để thực hiện một việc
làm đáng kể và lợi ích cho tiền đồ của xứ
ta là sự thành lập chính phủ dân sự của
ông Le Myre de Vilers, nhiệm chức từ ngày 7/6/1879.
[Nguyên
văn:
Le Contre-Amiral Lafont succeda au
Contre-Amiral
Duperré le 16 Octobre 1877. Comme ses
prédécesseurs, il s’ờoccupa activement des mesures
qu’ờil
croyait les plus propres à assurer la paix et la
prospérité de la nouvelle terre francaise. Il a
quitté le gouvernement de la colonie le 7 juin
1879.
Avec
lui
prend
fin
la
série
de
gouverneurs
militaires
dont
le
dévouement,
l’énergie
et
la
prudente
habileté
ont
permis
d’arriver
en vingt années à peine à la
complète pacification du pays, à faire aimer et
respecter
aux habitants de l’ancien pays de Nam-kỳ leurs
nouveaux protecteurs,
leur nouvelle patrie; à rendre possible enfin et
capable
d’exercer une action considérable et bienfaisante
sur les
destinées du pays, le gouvernement civil, inauguré
le 7
juin 1879 par M. Le Myre de Vilers. (Ibid., II:277-78)
Chỉ
một đoạn kết
này–có lẽ đă được thêm
vào ở phút chót, hoặc ở lần tái
bản năm 1879–tự nó nói lên quan điểm chính
trị của Petrus Key.
Tóm lại, v́ nhu
cầu
tài liệu huấn luyện các thông ngôn
và cổ vơ việc “bảo hộ”
và “b́nh định” của Pháp, Cours
d’histoire annamite của Petrus Key không những
thiếu phương
pháp sưu tầm tài liệu, thiếu phương pháp viết sử,
mà c̣n thiếu sự khách quan cần thiết. Thật
khó thấy một dấu vết nhỏ của “science, conscience,
modestie” như
Nguyễn Văn Tố–người cùng Linh mục Léopold Cadière
chịu trách nhiệm soạn thảo bộ Lịch sử đạo Thiên
chúa ở Việt Nam năm 1944–đă ca ngợi.
Năm
1877
[1879],
trong
tập
sách
lịch
sử
bằng
Pháp
ngữ dành
cho
các
trường
ở Nam
Kỳ,
Petrus
Trương
Vĩnh
Kư dùng tiếng “Tonquinois”để
chỉ người Đường Ngoài [Tonquin]. Có
lẽ chữ Tonkin và Tokinois, Annam
và Annamites chưa thông dụng. Những người chủ
trương
“tự trị” sau này thường dùng “người Bắc” để chỉ cả
dân miền bắc Trung Kỳ; Idem., Cours d’histoire
annamite à
l’usage des écoles de la Basse-Cochinchine, 2 vols
(Sai Gon:
Imprimerie du gouvernement, 1877 [1879], pp. 144
[Tonquinois], 181 [Les
Tonquinois en Cochinchine], 179 [Đường Ngoài
[Tonquin] v/s
Đường Trong [Cochinchine], [249 [Gia Long, roi de
Cochinchine)
Đây
có
lẽ
là ấn
bản
thứ
hai,
v́
ở
hai
trang
cuối,
Petrus
Key
nhắc
đến
Lafont
ở
Sài G̣n từ 16/10/1877
đến 7/6/1879 [pp. 277-78]
Kết từ:
Dù muốn
dù không, Petrus Key đă thủ vai một
tác nhân lịch sử, gắn liền với cuộc xâm lăng của
Pháp. Khởi đầu sự nghiệp bằng
nghề thông
ngôn cho quân viễn chinh Pháp, 26 năm sau, Petrus
Key xuất hiện tại Huế như một “ẩn
sĩ” đặc
phái viên tín cẩn của Tổng Trú sứ Bert, giữa
lúc ngọn lửa Cần Vương (rebelles, theo lối diễn tả của
Petrus
Key) đang hừng hực từ B́nh Thuận tới Hà Nội. Sau
đó, phục vụ tại một số Hội đồng bản xứ Nam Kỳ.
Trong ḍng lịch
sử quốc
dân, v́ lư do nào đi nữa,
Petrus Key và số thông ngôn hay quan lại đương
thời–cùng những Trần Bá Lộc, Huỳnh Công Tấn, Trần
Lục, Vũ Văn Báo, Hoàng Cao Khải, Ngô
Đ́nh Khả, Nguyễn Hữu Bài, Nguyễn Thân, Cao
Xuân Dục, v.. v...– sẽ được xếp hạng chung là hợp
tác với Pháp từ buổi đầu. Cách này hay
cách khác, họ đă trở thành và được
người Pháp nh́n nhận như những khai quốc
công thần của chế độ Bảo hộ Pháp.
Trường hợp Petrus Key,
công
tŕnh sáng tác và trước tác
khá đồ sộ, lại có cả sách bằng
Pháp ngữ, nhưng chưa ai thực sự kiểm
kê và lượng giá toàn bộ
công tŕnh của ông. Cần những nhà ngôn
ngữ học chuyên nghiệp–không bị ràng buộc bởi mục
tiêu chính trị giai đoạn hay ḷng yêu
ghét cá nhân, và đủ can đảm gạt bỏ thứ
lư luận viển vông về những bản thảo không c̣n
lưu truyền–làm việc trong một thời gian trên các
tác phẩm c̣n lại của Petrus Key, mới đủ căn bản để
lượng
giá. Petrus Key, tôi nghĩ, chỉ là một thông
ngôn giỏi và được tin cậy trong thời ông, hơn một
nhà ngôn ngữ học.
Riêng tác phẩm
khá dày của Petrus Key về “bài giảng sử”
bằng Pháp ngữ, khó thể gọi là một
công tŕnh sử học. Nó không có được
giá trị của những cuốn thông sử như bộ Đại Nam Quốc Sử
Diễn Ca của Lê Ngô Cát mà Petrus Key sử dụng
để viết từ thời Thượng cổ tới nhà Lê, hay Việt Nam Sử
Lược
của Trần Trọng Kim. Đa số chi tiết đều là tin đồn,
ngày tháng hỗn loạn. Khoảng thời gian từ nhà
Tây Sơn đến vua Tự Đức–v́ sử dụng truyền khẩu sử của
các nhà truyền giáo Pháp và
trên quan điểm hợp thức hóa tân trào–đầy rẫy
sai lầm kỹ thuật cũng như sai lầm có tư tâm, bất chấp
sự
thực lịch sử. Nét độc đáo duy nhất là Petrus Key
lấy năm sinh của Jesus Christ–đúng hơn, năm khởi đầu
Tây
lịch (thường gọi là dương lịch hay công
nguyên)–làm một dấu mốc phân chia thời đại của
ḍng lịch sử Việt. Sự phân chia này không
những vô nghĩa, phi lư, chẳng dính nhập ǵ
với ḍng sử cổ Việt, mà c̣n hàm chứa tư
tâm về tôn giáo hoặc thiết lập “tân
trào” của Petrus Key. (Hy vọng rằng sẽ không có ai
cung văn rằng Petrus Key đă biết sử dụng phương pháp
“so
sánh sử thế giới” [comparative world history] qua việc
phân chia thời đại nói trên)
Về những tựa
sách
khác, dù phẩm chất của khối tác phẩm
này ra sao đi nữa, chúng trực hay gián tiếp
là công cụ của kế hoạch xâm lăng văn
hóa của Pháp và các
nhà truyền giáo. (Là một công chức
của chế độ Bảo hộ Pháp, Petrus Key được
trả
lương để soạn thảo chúng, hay được bảo trợ bằng cách
mua
sách để sử dụng trong các lớp học). Và khi
biên soạn các sách trên, Petrus Key chỉ nhằm
chủ đích “biến đổi và đồng hóa dân
An-nam-mít” thành người Pháp, và nhồi sọ
thanh thiếu niên Việt ḷng biết ơn công khai
hóa của Pháp. (Thư ngày 12/1/1882, Petrus Key gửi Hội đồng
Quản hạt;
Phiên họp năm 1882 của Conseil Colonial, 15/11/1882,
tr. 14-5;
Osborne 1969:137; Bùi Kha, “Trương Vĩnh Kư là
ai?;” Giao Điểm, số 42 (Hè 2001), tr. 54-5)
Nhưng cũng cần nhấn
mạnh,
muốn đánh giá vai tṛ lịch sử của Petrus Key,
phải đặt Petrus Key vào khoảng không thời mà
ông ta đang sống, hơn chỉ sử dụng những khuôn thành
kiến, phê b́nh cứng ngắc chính trị tính của
thế hệ chúng ta như xấu và tốt, “ái quốc” hay
“Việt gian.”
Đánh giá về vai
tṛ văn hóa và giáo dục của Petrus Key,
cũng cần thật công tâm, lư luận và sử dụng
tài liệu một cách khoa học. Việc chữ quốc ngữ [tức
quốc
âm, theo chữ cái Latin] hiện nay được chấp nhận,
không có nghĩa những người sáng chế ra nó, ở
dạng thức rất đơn sơ, phải được tôn xưng để “uống nước
nhớ
nguồn.” Các giáo sĩ Portugal đă chỉ phát
minh ra chữ quốc âm hiện nay cho mục đích truyền
giáo của họ. Cũng cần khẳng định thêm Alexandre
de
Rhodes không phải là người sáng chế ra chữ “quốc
ngữ.” Trước Rhodes đă có ít nhất
vài linh mục khác. Thêm nữa, những tác phẩm
quốc ngữ đầu tiên của Petrus Key hay “Hùinh Tịnh”
Paulus
Của, v.. v... tự bản chất cũng chẳng khác ǵ những
tác phẩm của nhóm Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, v..
v...
sau này. Họ đă ăn lương chính phủ Bảo hộ
Pháp để soạn thảo, phổ biến, ấn hành, hoặc hoàn
tất chúng với mục đích thương mại (bán cho
chính phủ Bảo hộ Pháp). Nên cũng thật dễ hiểu khi
Petrus Key và nhiều người đương thời đứng trên quan
điểm
của người Pháp mà nói về “sự b́nh định xứ
Nam Kỳ,” “những nhà bảo hộ mới,” hay “quốc gia mới”
(nước
Pháp). Nhưng quả thực có vẻ khó nghe khi Petrus
Key tảng lờ cuộc kháng chiến chống Pháp hay gọi những
lănh tụ kháng chiến là “rebelles” [phiến loạn]
trong các báo cáo bằng Pháp ngữ. Giống như
Lê Tắc nhiều thế kỷ trước từng liệt kê các anh
hùng dân tộc như Trưng Trắc, Triệu Ẩu, Lư Bí
(Bôn) v.. v... vào hàng ngũ “Bạn nghịch” [những kẻ
phản nghịch].
[“Trắc
oán,
dữ muội
Trưng
Nhị
phản,
công
lược
lục
thập
ngũ
thành,
tự lập
vi
vương,
Mă
Viện
trảm
chi;” “Cửu
Chân,
Quân Ninh huyện nữ tử, thiếu
bất giá, nhũ trường tam xích,
trí ư bối ngoại, trước kim hạt xỉ
lư,
thừa tượng đấu dữ địch chiến, cư sơn
trung, tụ đảng vi đạo,
Giao châu thứ sử Lục Duệ tru chi;” “Bí phản, Tư
bôn
Quảng châu. Bí tiếm hiệu, trí quan kiến Vạn
Xuân đài cư chi;” Lê Tắc, An Nam Chí
Lược, bản dịch Trần Kính Ḥa (Huế: Viện Đại học Huế,
1961), tr. 240-41]
Khoảng 50, 60 năm sau,
một đạo
hữu của Petrus Key là Ngô Đ́nh Thục, xuất
thân từ một gia đ́nh trung gian bản xứ tại miền Trung,
cũng lập lại tiếng “rebelles” này để chỉ phong trào
Cần
Vương của cụ Phan Đ́nh Phùng và khoe
thành tích hăn mă cho chế độ Pháp
của cha ḿnh là Ngô Đ́nh Khả,
chánh thông ngôn của Ṭa Khâm sứ Huế. (Chính Đạo, VNNB, I-A:
1939-1946 [Houston: Văn Hóa, 1996], tr. 200)
Nói cho cùng lư,
Petrus Key và bao người đồng thời khác
chỉ là sản phẩm của chế độ thực
dân
Âu châu nói chung, và trực hoặc
gián tiếp là nạn nhân của chính
sách thực dân Ki-tô/vật bản của Pháp.
Chính v́ thế mà mới có những trăn trở cuối
đời Petrus Key về “công và tội,” khi thức ngộ được
rằng
dẫu có “đưa cả hai tay ra mà nắm lấy người Pháp”
th́ ḿnh vẫn chỉ một thứ “người bản xứ được khai
hóa” để phục vụ quyền lợi Pháp và Hội truyền
giáo. Bài học “người bản xứ được khai hóa,” “văn
minh hóa” hay “Pháp hóa” này quốc dân
Việt sẽ c̣n phải suy gẫm suốt thế kỷ XXI, nếu không
phải
lâu hơn.
Houston,
11/2000-Việt Nam,
1/2005-Houston, 2/2010
Nguyên Vũ
©
2002, 2010 by Chieu N. Vu
All Rights Reserved
Phụ Bản:
Phụ Bản I
MỘT SỐ
TƯ LIỆU MỚI
A. Chủng viện Pinang
[Collège Général
de Pinang]:
Đàng Trong
Tây: 4; (Col. Géné., 340A:22).
Nhận thêm: 28
học sinh; (Col. Gené., 340A:38).
22/4/1857:
Trong
số 149 học sinh ở Penang, 117 người
thuộc Cochinchine,
và đa số thuộc địa phận của
Cuénot. (LC
22/4/1857:5)
Nguyên
Sohier
đă
gửi
18
người.
(Laigre
gửi
Osouf;
AME
(Paris),
340A:168)
B. UB Cochinchine: Phiên họp
thứ bảy
(18/5/1857).
1.
Vấn
đề “pháp lư” (droit): UB Cochinchine
nh́n nhận rằng trên quan điểm luật pháp thông
thường, hiệp ước 1787 quá “bất toàn
vẹn” (trop imparfait) để đ̣i hỏi việc thực thi
chặt chẽ.
Tuy nhiên, không thể hiểu lầm ảnh hưởng của Giám mục
d'Adran, những sĩ quan Pháp, và sự yểm trợ của vua
Louis
XVI trên những biến cố mà Nguyễn Ánh và
những người kế vị đă hưởng lợi, UB Cochinchine có
ư kiến là Hiệp ước 1787 có một giá trị
nào đó.
2.
Nước
Pháp cần thiết lập nền bảo hộ (protectorat) Đại
Nam, v́ các cường quốc Âờu Mỹ đang
chiếm cứ hầu hết Á Châu,
và biên cương Âu Châu gần
như đă ổn định.
4.
Đại
Nam có đất đai ph́ nhiêu, nhiều
tài nguyên thiên nhiên.
5.
Sử dụng
các “thày
giảng”
(catéchistes)
để
thiết
lập
một
guồng
máy
hành
chính
tân
trào,
với
sự trợ lực
của
600,000
giáo
dân
Ki-tô.
6.
Thiết
lập một đoàn quân viễn chinh khoảng 2,600
người, với chi phí 4 triệu quan (GG2 44, carton
3).
III. Hoạt
động của các
giáo sĩ:
27/12/1857:
Vatican: Pie IX cho
phong thánh 94 người: 83 Triều tiên, 5
Cochinchinois, 2
Tonkinois, 3 Trung Hoa, và 1 ở Océanie
(LC
15/7/1858:48).
1858: Theo một tài
liệu
Pháp, từ 1833 tới 1858, nhà Nguyễn giết
hại 7
giám mục (1 Pháp, 6 Tây Ban Nha) và 15 linh
mục (gồm 12 Pháp). (“L'Indochine;” CAOM [Aix],
INF, carton
368, d. 3924).
T́nh trạng các
giáo phận:
-
Đàng Ngoài Tây: 2 GM (Retord), 8 LM
(missionaires), 1 trường (collège, 180 học sinh), 81
LM
(prêtres) bản xứ. Ngân quĩ: 33,536 francs
-
Đàng Ngoài Nam: 1 GM (Gauthier), 4 LM, 1 trường: 90
học tṛ, 47 LM bản xứ. Ngân quĩ: 19750 francs.
-
Đàng Trong Bắc: 2 GM (Pellerin), 1 LM, 15 LM bản xứ.
Ngân quĩ: 23,575.
-
Đàng Trong Đông: 1 GM (Cuenot), 5 LM
và 6 tháng của Roy, 23 LM bản xứ. Ngân quĩ:
20,085 francs.
-
Đàng Trong Tây: 1 GM (Lefèbvre), 4 LM, 21 LM
bản xứ. Ngân quĩ: 19010 francs.
-
Cambodge: 1 GM (Miche?), 4 LM, 1 trường. Ngân quĩ:
26245 francs
(LC 1858, tr. 42-43)
Sẽ
đi
nhận
nhiệm
sở:
Puginier,
Paul
Francois,
d'Alby,
qua
Tây
Đàng
Ngoài
(LC
1858:47).
24/10/1858:
Tourane: Giám
mục Pellerin viết thư giới thiệu Petrus với
Jauréguiberry
[để giúp phỏng vấn tù binh?]. Petrus c̣n bị
bệnh. Pellerin yêu cầu cho Petrus tiếp tục uống rượu
vang
có quinine.
14/2/1859:
Giám
mục
Lefèbvre
của Đàng
Trong
Nam
(Cochinchine
Méridionale)
lên
tàu
trú ẩn,
và tiếp
tay
quân
Pháp.
*** 6/3/1859: Giám
mục
Lefèbvre báo cáo là đă
có thông dịch viên [Petrus Key], nhưng bị đau
chưa tới đồn Pháp được. (GG2 99:2)
24/3/1859: Linh mục
Henri Borelle
viết thư cho Giám mục Lefèbvre, nói
gián điệp của triều Nguyễn đă xâm nhập
quanh Lefèbvre, dù Giáo hay Lương.
Tại
Long
Hồ và Mỹ Tho, quan lại gia tăng các
biện pháp chống lại giáo dân, nhất là
các giáo dân không được di chuyển v́
quan lại đặt thập tự giá tại các trạm thuế. Người
Lương
cũng không dám đi mua bán v́ quan lại trưng
thu thuyền bè. Lúa chín không gặt được
v́ mưa. Dân chúng, kể cả người Lương, đều muốn
quân Pháp xuống ổn định t́nh h́nh. Theo họ
chỉ cần hai tàu chiến Pháp đă đủ. (GG2 99:2)
“Chú Kư” [Petrus Key] đă lên đường, nhưng
không hiểu đă đến được Gia Định hay chưa. Chú
Kư đă về tới Vĩnh Long năm 1858. (Không thấy nhắc
ǵ đến mẹ hay gia đ́nh) [Xem 6/3/1859]
Giám Mục Tsauropolis
[Lefèbvre]
Bẩm Đức Cha:
Ngày hôm kia, Cha
[Nguyễn
Văn] Lựu (một trong những giáo mục của chúng ta)
đă chuyển cho tôi thư [Honorée] ngày 15
của Đức Cha mà ông ta cũng đă trao
tận tay cho Giám mục Pernot, và Cha Lựu đă trở lại
đây với hồi âm của giáo hữu của Ngài. Bởi
thế, mặc dù bị cúm nhẹ [pas mal grippé], tôi
tự nhủ phải có bổn phận viết đôi ḍng. Có vẻ
là chúng tôi đang bị kết án phải chôn
chân chịu hành hạ ở đây [rester en purgatoire]
vài tháng nữa, cho đến lúc mà tàu
chiến của chúng ta có thể mang đến tự do cho chúng
tôi. Nếu chỉ có chúng tôi bị khổ sở, cũng
chẳng khó khăn ǵ để giữ ǵn đạo hạnh. Nhưng những
tín đồ tội nghiệp đang [sẽ] rơi vào t́nh trạng cực
kỳ gian nan v́ các quan viên đang nghiến xiết
hàm răng chống lại tín đồ Da-tô mănh liệt
hơn bao giờ hết, và không ngừng tuyên bố rằng
chúng ta là nguồn gốc của mọi thảm bại mà họ
gánh chịu ở Gia Định (Sài G̣n). Có vẻ
là những người vây quanh Ngài không
chú tâm vừa đủ trong việc canh chừng bọn gián điệp
của triều đ́nh đang luồn lách tới sát Ngài.
Trong số này có kẻ được Đại nhân ban phước
và đă hôn kính nhẫn [Giám mục] của
Ngài, và chúng tŕnh bày Ngài
như một nhà Bảo hộ lớn [vĩ đại] của tất cả những kẻ
đào
ngũ [transfuges], dù là tín đồ Da Tô, hay
ngoại đạo, bên cạnh người Pháp. Chúng đă
báo cáo với các quan lại những cộng tác
[dịch vụ] mà người Da tô [Xtiens] đă cống hiến cho
người Pháp và các ông quan này
đă thề là sẽ trả thù trên đầu tất cả
dân Da tô, chẳng cần phân biệt khinh trọng. Mỗi
ngày, họ đưa về các tỉnh Mỹ Tho và Long Hồ [Vĩnh
Long] những biện pháp ngày càng nghiêm ngặt
chống lại tín đồ Da tô và trên hết kiểm
soát gắt gao. Chỉ cần hơi nghi ngờ thôi là họ tra
tấn liền. Ngày hôm qua ông Huyện Ba Vát
[Xát?] đột ngột đến xét nhà Cả Lễ và điều
tra, khám xét tỉ mỉ, rồi trở về cũng đột ngột như khi
đến.
Tôi không hiểu quan
Huyện
có nghĩ rằng ông ta có
thể t́m ra nổi một giáo sĩ Âu Châu
[“Thầy Tây”] hay một đạo trường bổn quốc [giáo
mục
bản xứ], hay lấy cớ rằng thầy Quang đă
bị buộc tội
là từng qua “học bên Tây”, dù rằng họ chưa
bắt giữ [Thầy Quang].
Đau khổ nhất là tất cả
các tín đồ Da Tô không được phép di
chuyển, dù chỉ để t́m thực phẩm cho năm nay,
v́ người ta đă đặt thánh giá tại các
trạm kiểm soát thuế; số trạm thuế cũng đă gia tăng
nhiều
lần. Ngay đến những người lương thiện cũng không dám
mạo
hiểm đi buôn bán v́ các quan đă trưng
thu tất cả tàu thuyền của dân. Lúa đă
chín, có thể rụng xuống gốc v́ người làm
mùa và người mua đều đau khổ, và chẳng thiếu
ǵ người lương đă bày tỏ ư muốn thấy
tàu Tây sớm đến đánh chiếm các tỉnh để chấm
dứt cảnh lính tráng cướp bóc, tàn
phá ruộng vườn, và chấm dứt mọi vấn đề [việc].
Trước đây
Cả Thiện
và một số người nh́n xa thấy rộng
có ư kiến rằng nếu các tầu chiến
chỉ đến để chiếm các tỉnh và rồi đặt
chúng ta ở đó họ cảm thấy tốt hơn là không
dính líu, nhưng ngày nay họ thích chịu đựng
các hậu quả vô chính phủ hơn là chịu đựng sự
oán giận [retentissment] của ông Thượng, người chắc
chắn
sẽ trút mọi sự tức giận lên đầu giáo dân Da
tô.
Tại đây, ai nấy
đều run sợ
cho tính mạng họ. Trong khi mà nếu các tỉnh bị
tàn phá, và nếu có phương tiện đưa xuống
đây 1 hay 2 chiến hạm, người ta chẳng mong ǵ hơn
là ngăn chặn ăn cướp và mỗi làng sẽ có 1 cơ
quan hành chính riêng, và nếu giáo
dân Da tô [được ở lại làng cũ] thoát khỏi
cảnh săn giết, thương mại sẽ bắt đầu trở lại và mỗi
gia
đ́nh sẽ có khả năng sản xuất thực phẩm đủ dùng
trong năm. Ngay đến những người lương cũng sẽ tri ơn
Pháp. Tại
đây, các làng xă không c̣n vựa
lúa nữa, người ta phải đi vay mượn. Và trong cả họ đạo
người ta chỉ c̣n khoảng 400 hộc [mesures] lúa. Nếu
có được 1 con đường khả dụng từ đây đến Gia Định,
Đức Cha Pernot có thể lên tâm sự với Ngài
v́ tôi lo rằng vị thế của Ngài rất nặng nề, nhưng
đó là điều chưa làm được cho tới khi Đại
nhân đă chiếm được con Rạch Cắt, ở đó có 1
đạo quân [Việt]. Bến Lức, Sơn Cần Đốt, Vũng Già
và Rạch Chanh G̣ Đen. Tại tất cả các đồn
trên đều có 1 đạo quân và 1 cây
thánh giá để bước qua, như 1 điều kiện bắt buộc [sine
que
non] để có thể đi qua. Tôi không rơ
chú Kư (người thông ngôn) có thể đến
được chỗ Ngài hay chăng nhưng tôi biết rằng chú ta
suưt nữa đă bị bắt ở 1 trong những đồn trên
và chú ta sẽ rất vui mừng khi người ta cho chú
tiếp tục đi bằng đường bộ.
Thật may mắn
là Chỉ huy trưởng Jauréguiberry,
có lẽ do ông ta được đào tạo khá
hơn [tout pourtant qu’ờil est soit de meilleure
composition], và
đối xử với Ngài dễ dăi [déférence] hơn
là Đề đốc, điều này có thể có
ích cho chúng ta trong các tỉnh dưới. C̣n
lại, Đức Cha có thể tin được rằng tôi đặt kỳ vọng
trên sự đoàn kết chặt chẽ của tất cả thành
viên khổ sở trong họ đạo. V́ tôi không
chút hoài nghi rằng Giáo hội chẳng bao giờ bỏ
dân [....].Sự kiên nhẫn cho phép Ngài chỉ huy
tàu đến cứu giúp chúng tôi.
Trong khi chờ đợi
thượng đế chiếu
cố sức khỏe Ngài và những phương tiện để bồi
hoàn lại [de réparer in quantum], sự không
hành động có nghĩa là sự kết án tất cả
các nhân viên của họ đạo...
Đức Cha cao cả
Kẻ tôi
tớ hèn
mọn và vâng lời nhất
H[enri] Borelle, Tổng
Quản lư
[Viết thêm]
Cha Thường vẫn
bị đau
và có thể chết trong tù nếu
không sớm được phóng thích.
Cha
Quí bị cướp
[indisposé] khá nặng, nhưng đă
khá hơn tất cả các cha [confesseurs]
khác thuộc 3 tỉnh.
Những việc
chối đạo
[apostasies] xảy ra hàng ngày v́ tất
cả các tín đồ Da tô một khi
bị bắt, hoặc ở trạm kiểm soát thuế,
hoặc tại
làng xă, đều bị ép chối đạo [faux pas] v́
sợ chết hay bị tra tấn trong những t́nh cảnh hiện
nay.
Hai
chú Bộ và Đính, tôi bắt
buộc phải gửi trả về gia đ́nh v́ hai
chú này không giữ được lời
thệ [vocation]. Đây là 2 đối tượng
bị
mất.
(Chú Cam [?]cùng
về với chú Kư năm ngoái [1858] hiện trở
thành tay nghiện cờ bạc và ăn trộm lớn, và
tôi cũng chẳng ngạc nhiên lắm. Chú ta đă từng
bị trừng phạt ở trường Pinang v́ tội trộm cắp).
Tôi tin rằng 8
lá thư gửi ra ngoại quốc nhân dịp người
đưa
thư Khiêm, có phải vậy không thưa Đức Cha?
Tất cả những họ đạo ở hai tỉnh trên họ có dịp tham
gia
vào việc người Pháp có mặt ở Cá Trê?
Liệu các giáo mục có được tham gia vào
guồng máy hành chính như dự định trước?
Ở đây, tất cả chúng
tôi đều bị kết án biệt lập tuyệt đối. Chẳng có 1
huyện nào ở đó người ta dám gọi giáo
dân Da-tô lên để dự lễ sinh tế (?)
28/3/1859:
Giám
Mục
Lefèbvre
báo
cáo
với
Jauréguiberry
là khoảng
2,000-2,500
quân
Nguyễn
tập
trung
tại
vùng
Lăng
Cha
Cả.
(GG2
99:2)
29/3/1859:
Sài-G̣n,
sáng
sớm:
Jauréguiberry
cho
một
toán
thám
báo
thị
sát
nhánh
sông
dẫn
tới
Bazar
Chinois.
-
Trả lời một lá thư của Lefèbvre,
Jauréguiberry than phiền là chẳng cung cấp tin
tức
giá trị nào về lực lượng địch,
khoảng
cách, các chướng ngại vật, các địa điểm.
Các giáo dân bản xứ cũng chỉ kể lại những chuyện
mông lung (vague), trái ngược nhau
(contradictoires), sai
lầm (erroné) đến độ chẳng có thể tin tưởng được
(qu'il
impossible de leur accorder la moindre confiance;
GG2 99:1).
30/3/1859:
Sài-G̣n:
Lefèbvre
viết
thư cho
Jauréguiberry,
tố
cáo “Biện
Xương” từng
tham
dự những
vụ
đốt
nhà và làm
tiền.
(GG2
99:2)
Thứ
Bảy,
2/4/1859:
Sài-G̣n:
Jauréguiberry
chỉ thị cho
tổ chức
lễ mỗi
sáng
chủ nhật
tại
đồn
Sài-g̣n
hay
trên
tàu
Durance.
(GG2
99:1)
Thứ Bảy,
2/4/1859:
Jauréguiberry báo cáo t́nh trạng chung
ở Sài-G̣n.
Có
80
quân
nhân
phải
nghỉ
bệnh.
Quân
Việt
đang
tập
trung
khoảng
10,000
người
quanh
khu
vực
Lăng
Cha Cả, có voi trận.
Đăờ bắt giữ một số Hoa kiều v́ tội cung cấp thực
phẩm
cho Pháp.
Số
dân
quanh
đồn
Pháp
ngày
một
gia
tăng.
Tuy
nhiên,
thiếu
thực
phẩm
tươi.
Có
người
tới
đề
nghị
cung
cấp
50
cu-li
để
di
tản
thương
binh
hay
khuân
vác
đồ
vật,
nhưng Jauréguiberry thoái
thác. Jauréguiberry cũng thoái thác việc
cung cấp vơ khí.
Gửi
kèm
theo báo
cáo “lá thư dài, chẳng
có ǵ quan trọng, của viên thông
ngôn đă chờ đợi bấy lâu (Petrus Key),” và bản
dịch một số cáo thị của quan lại Việt trong tuần qua
(GG2 99:1).
Trong
thư đề
tháng
3/1859,
gửi
“Grand
Chef
et
Vous
Tous,
très
honorables
officiers
de
la
flotte
francaise” này,
Petrus
Key
[dược
biết và tự nhận như
Trương Vĩnh Kư sau này] viết:
Ayez pitié de
nous;
Ayez pitié de nous. Vous êtes nos
libérateurs
et la main des ennemis nous a touchés! Hala! The
wearer knows
very well where the shoe pincheth (?).Nous
savons aussi que “qui trop
embrasse mal étreint;” Et cependant nos
souffrances nous
poussent à invoquer votre puissance et à vous
exposer du
fond du coeur tout ce que je vient de soumettre
à votre prudence
et à votre sagesse.” (GG2 99:2).
“J'ai
recu
les piques que vous avez bien voulu m'envoyer mais,
avant d'en
faire usage je tacherai d'être mieux édifié sur le
degré de confiance que l'on peut accorder aux
Chrétiens
annamites.– S'il faut en croire ces derniers, les
forces de
l'armée ennemie vont chaque jour en croissant seize
mille
hommes. Sont, dit-on, échelonnés entre un point
fortifié situé à 1/2 lieue au S.O. de la Citadelle
et le tombeau de Mgr d'Adran! Ces troupes s'avancent
fréquemment
jusque dans les villages bordant la rivière afin
d'empecher les
populations de nous apporter des vivres frais. On
prétend
même que des Chinois dénoncés comme ayant entretenu
des relations avec nous, ont été saisis et mis à
mort. – Un chrétien indigène est venu se mettre à
ma disposition pour nous conduire à Bien hoà.
D'après lui, on trouve à basse mer, dans l'endroit
le
moins profond, 9m30 d'eau. Les annamites qui
retirent de cette
localité les armes et les munitions dont ils ont
besoin, ont
établi sur le bras de la rivière y conduisant deux
barrages et six fortins.
J'ai
été
visiter hier, avec l'Alarme et l'El Cano, la
Sous-Préfecture au Nord de Saigon détruite par M. le
Chef
d'Etat-Major. Je n'ai appercu, ni sur ma route ni
aux environs de la
ville, aucune trace de fortifications et de brulôts.
8/4/1859:
Sài-G̣n:
Jauréguiberry
viết
cho
Chef
d'Etat-Major:
“Je
crois
avec
vous
qu'il
ne
faut
accorder
qu'une
confiance
très
limitée
aux
renseignements fournis par l'Evêque. Aussi
n'ai-je
pas
cru
devoir
accéder
aux
nombreuses
et
déraisonables
demandes
d'expédition
qu'il
ma
faites
depuis
le
départ
de l'Amiral. Il est pour moi évident que
tous les missionnaires sans exception ont un but non
avoué qu'il
veulent atteindre en nous compromettant de telle
sorte que nous ne
puissions plus reculer (GG2 99:1).
Trước
khi
lên đường trở lại Tourane, Rigault de
Genouilly
đă quyết định:
1.
Không
chấp thuận cho các giáo dân được
chia bất cứ phần lănh thổ nào dưới
sự che
chở của đại bác Pháp; nhưng cho
họ mượn
tạm [l'emprunt] các nhà cửa và đất
gần đó.
16/4/1859:
Sài-G̣n:
Lefèbvre, Giám mục d'Isauropolis, thư cho
Jauréguiberry.
- Borelle
là phụ tá của Lefèbre, phụ
trách bốn tỉnh Tây Nam Nam kỳ.
- Nếu
t́nh trạng này tiếp tục, giáo dân
Ki-tô sẽ bị chết đói v́ lệnh cấm di chuyển.
-
Người ta bắt đầu than thở rằng người Pháp
không
đến đây để giải cứu giáo dân Ki-tô khỏi
sự đàn áp, mà chỉ đến để t́m
những lợi nhuận nhất thời. Yêu cầu Jauréguiberry cho
biết
rơ hơn ư định của Pháp: Đềạ Đốc Rigault de
Genouilly sẽ đánh Huế ngay hay c̣n chần chừ? Quan
lại
Việt đang tập trung tài sản ở Sa-đéc, cửa ngơ
vào Châu-đốc, và muốn bỏ rơi các tỉnh miền
Đông.
-
Một
cố đạo bị bắt ở Mỹ-tho với một
giáo
dân. Ba người khác đến thăm họ cũng bị bắt
luôn. Như thế, tổng số tù nhân Ki-tô ở Mỹ-tho
lên tới 20 người; Long-hồ, 4; và, Châu-đốc, 13.
Rigault
de
Genouilly
than
phiền rằng
giáo
dân
Ki-tô
không
tích
cực
yểm
trợ
là
không
đúng:
Việc
đ̣i
hỏi
100
cu-li bản xứ chuyển đến trưa ngày
Chủ-nhật, Lefèbvre phải cho lệnh làng Chợ-quán,
và ngày thứ Hai, lệnh này mới được niêm yết,
rồi ngày thứ Tư mới có đủ 100 người, kể cả đàn
bà, trẻ con. Lại có lộn xộn về vấn đề trả tiền
công, và thái độ không đẹp của các
thủy thủ và binh sĩ. (GG2 99:2)
-
Jauréguiberry trả lời: Sẽ chuyển cho
Rigault de
Genouilly tóm lược lá thư của Borelle.
Muốn
thấy ḷng tốt của giáo dân Việt chứng tỏ bằng
hành động hơn lời nói. “Jusqu'à présent lis
sont loin d'avoir mérité nos éloges.”
-
Sẽ trả cho mỗi cu-li một ligature một
ngày, gấp 3 lần
giá thông thường. (GG2 99:1)
5/6/1859: Tourane:
Théophile
Le Grand de la Liraye viết cho Libois.
Báo
tin
Linh
mục
Galy
đă
lên đường
ra
Bắc
bằng
thuyền,
cho
một
sứ mệnh
đặc
biệt
nào đó
của
Giám
mục
Gauthier. Galy cùng một chủ thuyền đă ra khơi, tới
đảo Ḥn Mắt hay Nhăn Sơn [ngoài khơi Nghệ An], cho
một sứ mệnh nào đó. Trước khi ra đi, Galy gặp
Rigault de
Genouilly. Theo Le Grand de la Liraye, đa số các
giáo sĩ
ở Đại Nam đều muốn lật đổ Tự Đức, chiếm đóng Việt
Nam.
Họ yểm trở nhóm người như Tạ Văn Phụng để thực hiện
mục
đích, và chống lại việc thương thuyết một ḥa ước.
Le
Grand
de la Liraye cho biết Pierre Phụng mới viết
thư cho biết
sẽ qua Macao, v́ y đă bị thất sủng
với GM
Pellerin. Le Grand de la Liraye sợ rằng Phụng
rồi sẽ lợi dụng danh
tiếng Đềả đốc Rigault de Genouilly như hắn đă lợi
dụng
tên tuổi Retord trước đây, tung ra những cáo thị,
với đầy đủ ấn tín [mạo danh họ Lê]. Yêu cầu Libois
bảo thẳng với Phụng điều trên. (SME, tr. 93)
Nguyên Vũ
© 2002,
2010 by Chieu
N. Vu
All Rights Reserved
Giới
Thiệu Sử Gia Nguyên Vũ
Tiến Sĩ Vũ Ngự
Chiêu
(ảnh của PBase.com)
Chính
Đạo là một
trong hai bút danh của Vũ Ngự Chiêu.
Bút danh kia là Nguyên
Vũ, rất nổi tiếng ở Miền Nam
trước năm 1975. Trước 1975, Vũ Ngự Chiêu
phục vụ trong binh
chủng Pháo Binh Dù, QLVNCH, và đă có
hơn 20 tác phẩm xuất bản. Sau khi ra hải
ngoại, ông vừa
tiếp tục cầm bút vừa đeo đuổi việc học. Tốt
nghiệp Tiến Sĩ Sử
tại Đại Học Wisconsin-Madison năm 1984, sau
khi cùng gia
đ́nh di chuyển về Houston, ông là Giám Đốc
nhà xuất bản Văn Hóa và tốt nghiệp Tiến Sĩ
Luật
tại Đại Học Houston năm 1999.
Những
tác
phẩm
của
Vũ
Ngự
Chiêu
xuất
hiện
trước
năm
1975
dưới
bút
danh
Nguyên
Vũ gồm có Đời
Pháo Thủ (bút kư), Những Cái Chết Vô
Danh (tập truyện), Trở Về Từ Cơi Chết
(truyện), Ṿng Tay
Lửa (trường thiên), Thềm Địa Ngục (truyện),
Đêm Hưu Chiến
(truyện), Sau Bảy Năm Ở Lính (bút kư), Đêm
Da Vàng (trường thiên), v.v. Tại hải
ngoại, Vũ Ngự
Chiêu đă in thêm các tập Xuân buồn
thảm: Cuộc Sụp Đổ của Nam Việt Nam (bút kư),
Trận Chiến
Chưa Tàn (truyện), Giặc Cờ Đỏ (trường thiên),
cùng
hai tâm bút Paris: Xuân 1996, và Ngàn
Năm Soi Mặt.
Về
nghiên
cứu
sử
học,
ông
đă
in
ba
tác
phẩm
bằng
tiếng
Anh
dưới
tên
thực, và 10 biên khảo bằng
Việt ngữ với bút danh Chính Đạo. Biên khảo duy
nhất
bằng Việt ngữ kư tên thực của ông là bộ
Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, 1883-1945, gồm ba
tập. Những
tác phẩm kư tên Chính Đạo thường được viết
cho độc giả không chuyên môn, dễ đọc hơn,
không
quá khô khan như các biên khảo đúng
yêu sách bác học.
Ông
vừa
xuất
bản
tác
phẩm
mới
nhất
với
tựa
đề
Cuộc
Thánh
Chiến
Chống
Cộng,
1945-1975, tập I, gồm 5 phần: Sơ lược
tiểu sử Tổng thống Jean Baptiste Ngô Đ́nh Diệm
(1897-1963); Từ Điện Biên Phủ tới Geneva; Cuộc
truất phế Bảo Đại;
Mùa Phật Đản đẫm máu (1963); và “Phiến Cộng”
trong
Dinh Gia Long.
Sau
năm
1975
ở
hải
ngoại,
có
những
ḍng
thác
ngụy
tạo
ngụy
biện
nhằm
vặn
méo sử kiện để chạy tội và biện
minh cho sự vô minh của ḿnh, Vũ Ngự Chiêu đă
dần dần xuất hiện như một nhà sử học
khai sáng
và can trường. Giá trị tinh thần của người trí
thức không chỉ là tôn trọng sự thật mà
c̣n nói lên sự thật và chấp nhận hậu quả của
quyết định can trường đó. Đó là một sự đổi đời
tâm linh có ư nghĩa đă h́nh
thành nơi Vũ Ngự Chiêu. Huyền thoại và huyễn
mị
lịch sử đă làm cho người Việt xa nhau, chỉ có
sự
thật mới làm cho người Việt gần lại với nhau,
trong t́nh
dân tộc, nghĩa đồng bào. Những tác phẩm mới
của Vũ
Ngự Chiêu là một đóng góp sáng
giá và có ư nghĩa trong chiều hướng
đó.
Trích
Từ
: http://www.chuyenluan.net
|
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Góp phần nghiên
cứu về Trương Vĩnh Kư
www.vietnamvanhien.net
Email: thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ
biến
những biên khảo, sáng tác và ư kiến
của quư vị và các bạn nhằm mục
đích
bảo tồn di sản văn hóa và phục hồi nền an lạc
& tự chủ của Việt tộc.
Trở
lên đầu trang
Trở
Lại Trang Mặt
|