HẢI CHIẾN HOÀNG SA 19-1-1974
Trích
dẫn trong HOÀNG SA TRƯỜNG SA CỦA VIỆT NAM
PHẠM
TRẦN ANH
Sáng ngày 19
Tháng Giêng năm 1974, 15 chiến sĩ Việt Nam trên chiến
hạm Lư Thường Kiệt khi thấy chiến hạm Trung Quốc trúng
đạn, họ đă cùng hát lên bài “Việt Nam! Việt Nam!” Sau
cùng, các chiến sĩ đó đă hy sinh, nhưng người Việt Nam
sẽ không bao giờ quên.
ANH HÙNG DÂN TỘC NGỤY VĂN THÀ
Hạm Trưởng Hộ Tống Hạm Nhựt
Tảo, HQ.10
Tuy để mất Hoàng Sa vào tay Trung Cộng nhưng
Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa đă chiến thắng lẫy lừng Hải
quân TC với tổn thất ít so với hải quân TC:
- Tàu HQ 10 bị ch́m, 3
chiếc khác bị thương nhẹ.
- 58 chiến sĩ Hải quân đă
anh dũng hy sinh (Cấp bậc cao nhất là Hải quân Thiếu Tá
Ngụy văn Thà) và 14 nhân viên dân sự đang làm việc trên
đảo.
Trong khi đó, măc dù chiếm đóng được Hoàng Sa nhưng
Trung Cộng tuyên truyền che giấu thiệt hại nặng nề của
họ: "Tuy nhiên, chiến thắng nào cũng phải trả giá. Về
phía ta, tổng cộng có 18 người tử trận trong số này 1
Hạm Trưởng và 67 người khác bị thương. T-389 bị hư hại
nặng, nếu không kịp ủi vào băi san hô chắc chắn sẽ bị
ch́m. Ba chiến hạm khác đều bị trúng đạn, thiệt hại
trung b́nh".
Thế nhưng, theo sự tiết lộ mới đây của chính một
viên sĩ quan hải quân TC tham chiến ở Hoàng Sa th́
nguyên bộ chỉ huy Hạm đội Nam Hải bị tiêu diệt gồm 11
chiến hạm do Đô Đốc Hải quân Phương Quang Kính, Tư lệnh
phó Hạm đội, Tư lệnh mặt trận và bộ tham mưu hành quân
gồm 1 đại tá và 4 Trung tá đều là Hạm Trưởng, 2 Thiếu Tá
và 7 sĩ quan cấp úy bị tử
thương.
DIỄN TIẾN
TRẬN THƯ HÙNG LỊCH SỬ 19-1-1974
Ngày 19-01-1974, báo chí, hệ thống
truyền thanh và truyền h́nh VNCH đồng loạt tường thuật
về trận hải chiến lịch sử tại quần đảo Hoàng Sa giữa
Hải Quân VNCH và Hải Quân Trung Cộng. Trận thử lửa đầy
gian nguy này nhằm chống lại đế quốc Trung Cộng xâm
lăng phần lănh thổ thân yêu của Việt Nam, nhưng chỉ có
các chiến sĩ Hải Quân VNCH hào hùng bất khuất lâm
trận. Ngày 17-01-1974, 15 chiến sĩ Hải Quân VNCH thuộc
Tuần Dương Hạm Lư Thường Kiệt (HQ.16) cùng các toán
Người Nhái và Biệt Hải đă đổ bộ lên quần đảo Hoàng Sa
v́ được tin một số quân Trung Cộng lén đóng trên đó.
Các chiến sĩ Hải Quân VNCH cắm hết cờ trên đảo và chờ
lệnh. Lúc đó, phản lực cơ của TC gầm thét trên trời
cao, và tàu của TC xuất hiện ở ngoài biển khơi.
Ngày
19-01-1974,
trận
thư
hùng
hải
chiến
bắt
đầu.
Khoảng
10
giờ
sáng,
các
chiến
hạm
của
TC bắt đầu vây các chiếm hạm của Hải Quân VNCH. Cùng lúc
đó, tàu TC đổ hàng chục Đại Đội lên đảo và giao tranh
với quân trú đóng pḥng thủ của ta. Đến khoảng 10 giờ 25
phút, tàu Hải Quân ta được lệnh nă hải pháo vào tàu của
TC. Chỉ trong ṿng 5 phút đầu, Hộ tống hạm Nhựt Tảo
(HQ.10) đă bắn trúng hầm máy của chiến hạm Trung Cộng
mang số 396 nên tàu bừng bừng bốc cháy. Tiếp theo đó,
hàng loạt đạn hải pháo khác của HQ.16, HQ.4 và HQ.5 đă
bắn trúng tàu địch mang số 271, đài radar bị găy, mất
tay lái, quay ṿng ṿng rồi lủi vào băi san hô để tự
hủy. Các thủy thủ của tàu này phải nhảy xuống biển để
đào thoát. Thêm một chiến hạm thứ hai mang số 274 bị
trúng đạn phát hỏa dữ dội. Rồi chiến hạm thứ tư (số 389)
của địch cũng bị chung số phận.
Bị thất bại nặng nề trong màn đầu hải chiến nên
quân Trung Cộng lồng lộn lên, lập tức tăng cường thêm
nhiều chiến hạm khác để gỡ gạc. Hai chiến hạm địch mang
số 281 và 282 dồn hết hỏa lực vào HQ.10 để trả thù.
Chẳng may, HQ.10 bị trúng đạn nơi pḥng máy chánh nên
tàu bị nghiêng sang hữu hạm. Hạm phó (HQ Đại Úy Nguyễn
Thành Trí) bị thương nặng, một số chiến sĩ đă hy sinh.
Nhưng Hạm Trưởng (HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà) và thủy thủ
đoàn c̣n lại không hề nao núng. Các chiến
sĩ Hải quân vừa tự cứu thương, cứu hỏa, vừa dồn hỏa
lực chống trả 2 chiến hạm địch (281, 282). Đang lúc
không may, , một trái phá của địch bắn trúng đài chỉ
huy HQ.10. Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà và HSI CK Đinh
Hoàng Mai bị thương nặng, chiến hạm bị liệt máy và
nghiêng tới mức nguy hiểm nên Hạm Trưởng Thà ra lệnh
cho nhân viên đào thoát trên 4 chiếc bè cứu cấp. Hạm
Phó Trí xin ở lại nhưng không được Hạm Trưởng Thà chấp
thuận v́ Hạm Phó phải đi với nhân viên. Chỉ có HSI Mai
được ở lại v́ HSI Mai tha thiết muốn được noi gương
Hạm Trưởng chết theo chiến hạm Nhựt Tảo. V́ Hạm Phó
Trí bị thương khá nặng nên ông đă kiệt sức trên bè,
đành phải thủy táng. Hai mươi hai thủy thủ c̣n lại đă
được thương thuyền Ḥa Lan Skopionella cứu vớt 4 ngày
sau đó. Trận hải chiến kéo dài hơn một tiếng đồng hồ.
Ngoài một chiến hạm địch đă ch́m sâu trong ḷng biển
lạnh, c̣n ba chiếc khác đang ngùn ngụt bốc cháy phải
ủi băi và bị phá hủy sau đó. (Trích trong Hải chiến
Hoàng Sa 1974)
Hành
động can trường của Thiếu tá Hạm trưởng Ngụy văn Thà c̣n
sống măi trong ḷng chúng ta. Tấm gương Hy sinh dũng
liệt của Hải quân Thiếu tá Ngụy văn Thà quả xứng đáng là
anh hùng của dân tộc Việt, hậu duệ của những vĩ nhân anh
hùng dân tộc Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo. “Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà bị thương, quyết ở
lại trên tàu. Ba đoàn viên tên Lê Văn Tây, Đinh
Hoàng Mai và Phạm Anh Dũng đă hy sinh ở lại bắn chặn
tàu Trung Cộng để đồng đội an toàn rời khỏi chiến
hạm. HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà và ba đoàn viên đă can
đảm trong truyền thống "chết theo tàu" và để lại bao
nhớ tiếc đau thương cho những người ở lại.
Cố Trung-Tá. Thà được tưởng thưởng 13 huy
chương các loại, trong dó có Hải quân huân chương và
Bảo quốc Huân chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành
Dương-liễu (truy-tặng)”. Hành động can trường
chiến đấu, dũng cảm chết theo tàu của anh hùng Ngụy
văn Thà không những đi vào lịch sử Việt Nam mà c̣n ghi
vào quân sử thế giới nữa.
Tuần Dương Hạm Trần Khánh Dư
vua biển Đông
Hạm
Trưởng
Ngụy văn Thà sống chết cùng HQ 10.
Ngày 14 tháng 3 năm
1988, Trung Cộng tấn công chiếm cứ 6 đảo ở Trường Sa
đánh ch́m 2 tàu, 1 chiếc bị hư hại nặng, 64 chiến sĩ
HQCSVN hy sinh … trong đó có 3 thuyền trưởng và 1 lữ
đoàn phó lữ đoàn 64 nhưng CSVN đă không dám công bố:
*Trần Đức
Thông, lữ đoàn phó Lữ đoàn 146
*Lê Lệnh Sơn, thuyền trưởng HQ-605
*Vũ Phi Trừ, thuyền trưởng HQ-604
*Vũ Huy Lễ, thuyền trưởng HQ-505
*Nha
Trang HQ-505 (ex-USN USS Jerome County (LST-848) landing ship)
*Keo Ngua HQ-604 (ex-USN USS PGM-68) motor gun boat
*Kim Qui HQ-605 (ex-USN USS PGM-59) motor gun boat
*HQ-505
hư hỏng nặng
*HQ-604 ch́m
*HQ-605
ch́m
*64 chết (kể cả mất tích)
*40 bị bắt (sau đó 9 được tha về)
*11 bị thương
VĂN TẾ
ANH HÙNG TỬ
SĨ HOÀNG SA
30 năm ngày giỗ Trận hải
chiến Hoàng Sa 19 Tháng 1 Năm 1974
Đây
Hoàng
Sa. Đây Hoàng Sa
Trận hải chiến lẫy lừng trong lịch sử
Bảo vệ quốc gia - Vẹn toàn lănh thổ
Vinh quang thay - Hải lực Việt oai hùng
Giữa biển khơi, bao chiến sĩ hy sinh
Máu tô thắm dệt thành trang hùng sử
Ba mươi năm xưa
Một ngày rực lửa
Trung Cộng ngang tàng
Xua chiến hạm tính nuốt trôi đảo Việt
Nào Soái Hạm, Trục Lôi, Hộ Tống
Nào Phi Tiễn Đĩnh, nào Hải Vận Hạm chở quân
Tiến ầm ầm, dậy sóng biển Đông
Hải đội xung kích Hải Quân ta
Trực chỉ Hoàng Sa
Quần đảo hoang sơ, ẩn hiện khói sương mờ
Nằm án ngữ nơi bao lơn nước Việt
Lănh hải xa, bao đời ông cha ta trấn thủ
Bia đá rành rành, văn bản vẫn c̣n ghi
Thế mà nay, quân xâm lược ŕnh ṃ
Giống cuồng khấu, ôm giấc mơ Nam tiến
Ta sẵn sàng nghênh chiến
Dàn đội h́nh quần thảo một phen
Quyết không hổ danh
Hậu duệ Ngô Quyền, Trần Quốc Tuiấn
Lực lượng ta:
Trần Khánh Dư Khu Trục Hạm
Trần B́nh Trọng, Lư Thường Kiệt Tuần Dương Hạm
Nhật Tảo Hộ Tống Hạm oai phong
Biển động sóng cuồng
Súng gầm khạc lửa
Chiến hạm địch quay cuồng bốc cháy
Bộ Tham Mưu tan xác banh thây
Đô Đốc, Tá, Úy, Hạ Sĩ Quan, Đoàn Viên
Thương vong vô số kể
Địch cố thoát ṿng vây
Điên cuồng chống trả
Hộ Tống Hạm Nhật Tảo trúng pháo địch
Lửa cháy bùng thượng từng kiến trúc
Ổ súng ngả nghiêng
Đài chỉ huy tan nát
Trung Tá Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà
Dáng dấp thư sinh - Chỉ huy quyết liệt
Dạn dầy hải nghiệp - Sói biển phong sương
Bị trọng thương, quyết theo tầu vào ḷng biển
Thiếu Tá Hạm Phó Nguyễn Thành Trí
Trọng thương nhưng tinh thần bất khuất
Xin được chết theo tầu
Hạm trưởng lắc đầu:
''Anh phải đi
Xuồng đào thoát cần một vị chỉ huy
Hăy để một ḿnh tôi ở lại''
Ôi khẳng khái
Những anh hùng biển cả
32 Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Đoàn Viên đă vị quốc vong
thân.
Chiến sĩ Hải Quân
Kiên cường bắn tới viên đạn cuối
Trước khi ch́m vào ḷng biển Mẹ mênh mông
Ngày hôm nay, 19 tháng Giêng năm 2011
Nhớ ngày các anh em đă xả thân v́ Tổ Quốc
Lũ chúng tôi, bạn bè cùng trang lứa
Quân chủng Hải Quân, t́nh chiến hữu năm xưa
Trước bàn thờ bài vị trang nghiêm
Ba mươi bảy năm ngày giỗ trận
Thắp nén nhang thơm tưởng niệm
Dâng ly rượu lễ chí thành
Cúi mong các bạn hiển linh
Hồn thiêng về đây chứng giám
Xin được nghiêng ḿnh
vinh danh những anh linh tử sĩ
oai hùng:
Hải Quân Trung Tá Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà
Hải Quân Thiếu Tá Hạm Phó Nguyễn Thành Trí
Hải Quân Trung Úy Vũ Văn Bang
Trung Úy Cơ Khí Ngô Chí Thành
Trung Úy CK Hàng Hải Thương Thuyền
Huỳnh Duy Thạch
Hải Quân Trung Úy Vũ Đ́nh Huân
Hải Quân Trung Úy Nguyễn Văn Đông
Hải Quân Thiếu Úy Lê Văn Đơn
Một Hải Quân Thiếu Úy vô danh
Hải Quân Thiếu Úy Nguyễn Phúc xạ
Thượng Sĩ Quản Nội Trưởng Châu
Thượng Sĩ Vận Chuyển Lễ
Trung Sĩ Cơ Khí Nguyễn Tấn Sĩ
Trung Sĩ Thám Xuất Lê Anh Dũng
Trung sĩ Điện Tử Trung
Trung Sĩ Giám Lộ Vương Thương
Trung Sĩ Quản Kho Tuấn
Trung Sĩ Trọng Pháo Nam
Hạ sĩ Vận Chuyển Lê Văn Tây
Hạ Sĩ Trọng Pháo Trứ
Hạ sĩ Trọng Pháo Hùng
Hạ sĩ Giám Lộ Ngô Văn Ơn
Hạ sĩ Vận Chuyển Trứ
Hạ Sĩ Nguyễn Thành Danh
Hạ Sĩ Quản Kho Nguyễn Văn Duyên
Hạ sĩ Đỗ Văn Long
Thủy thủ Trọng Pháo Đức
Thủy thủ Điện Tử Thanh
Thủy thủ Trọng Pháo Thi Văn Sinh
Thủy thủ Trọng Pháo Mến
Thủy thủ Cơ Khí Đinh Hoàng Mai
Và hai mươi sáu chiến hữu Hải Quân mất tích
Nhớ chư linh xưa
Tung hoành dọc ngang - Biển Đông vùng vẫy
Lướt sóng ḱnh ngư - Giữ ǵn lănh hải
Hỡi ơi
Nào ngờ biển Đông sóng dậy
Hải âu gẫy cánh trùng dương
Các anh đi
Để nhớ để thương
Cho mẹ, cho cha, cho vợ, cho con
Cho bạn bề các cấp
Gương tuẫn quốc, muôn đời ghi công nghiệp
Ḷng hy sinh, sáng măi đến ngàn thu
Trước bàn thờ
Đèn nến lung linh
Hương trầm ngào ngạt
Hồn linh thiêng
về chứng giám ḷng thành
Con Rồng cháu Lạc hy sinh
Xứng danh Liệt Tổ, Liệt Tông
Tổ Quốc muôn đời ghi nhớ
Thượng Hưởng
Trần
Quán Niệm và Phạm Tứ Lang
( hợp soạn Ngày 1 tháng 1 năm
2004)
NGƯỜI
ANH HÙNG HỌ NGỤY
Trung Tá Ngụy
Văn Thà 1943-1974
Người
yêu nước không thể nào là ngụy
Người chết v́ nước như anh
không thể nào là ngụy
Nhưng anh Là Ngụy Văn
Thà (*)
Anh, Hạm trưởng
chiến hạm Nhật Tảo
Lao thẳng vào tàu giặc cướp
Tên anh c̣n măi với Hoàng
Sa
Biển vật ḿnh thét đại bác
Giặc bủa vây chiến dịch
biển người
Lửa dựng
trời d́m tàu giặc
Máu anh cùng đồng đội ngời
ngời
Ôm chặt tàu, Ôm chặt đảo
Anh hóa thành Tổ Quốc giữa
trùng khơi
Gió mùa đông
bắc gào khóc
Ngụy Văn Thà
Măi măi neo tàu vào quần
đảo
Tổ Quốc ngoài Hoàng Sa
Trận chiến ba mươi phút
Tượng đài anh là phong ba
Đỉnh sóng khói hương nghi
ngút
Biển để tang anh bằng sóng
bạc đầu
Quần đảo
nhấp nhô mộ phần liệt sĩ
Linh hồn anh hú gọi đất
liền
Ngụy Văn Thà
Tên anh không phải bài ca
Tên anh là lời thề độc:
Phải giành lại Hoàng Sa
Sóng vẫn vồ lấy đảo…
Sài G̣n 15-9-2009
Trần
Mạnh Hảo
Nguồn:
http://www.phamtrananh.net
Ngụy
Văn Thà
Ngụy Văn Thà
(1943–1974) là
một sĩ quan Hải
quân Việt Nam Cộng Ḥa, Thuyền
trưởng hộ tống hạm
Nhựt Tảo HQ-10, tử trận trong hải
chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1
năm 1974
và được truy phong hàm Trung
tá Hải quân.
Tiểu sử
Ông sinh ngày 16 tháng 1
năm 1943
tại Trảng Bàng, Tây Ninh. Ở độ
tuổi trưởng thành, ông gia nhập lực lượng Hải
quân Việt Nam Cộng ḥa và theo học khóa 12
Trường Sĩ quan Hải quân Việt Nam Cộng ḥa tại Nha
Trang. Ông tốt nghiệp khóa Đệ nhất Song
ngư, ngành Chỉ huy vào tháng 3 năm 1964 với
cấp bậc thiếu úy.
Sau khi tốt nghiệp, ông thực tập trên hải vận
hạm LST-1166/MSS-2 Washtenaw County thuộc Hạm
đội 7 của Hoa Kỳ. Trong
thời gian phục vụ trên một số chiến hạm của Hạm
đội Hải
Quân Việt nam Cộng Ḥa, ông lần lượt đảm
nhận các chức vụ:
Ông được chính phủ Việt Nam Cộng ḥa tặng
thưởng 13 huy
chương đủ loại, trong số đó có Đệ ngũ Đẳng
Bảo
quốc Huân chương kèm Anh
dũng Bội tinh với nhành dương liễu.
Trận đánh cuối cùng
Ngày 18 tháng 1
năm 1974,
hộ tống hạm Nhựt Tảo HQ-10 do Thiếu tá
Ngụy Văn Thà chỉ huy đang tuần tiễu tại vùng
biển Đà Nẵng
th́ được lệnh hành quân trực chỉ Quần đảo Hoàng
Sa, tiếp ứng lực lượng hải đội Việt Nam
Cộng ḥa tại đây. Bấy giờ, tàu HQ-10
đang có một máy chính và radar hải hành đang ở
trạng thái hư hỏng không sử dụng được[1].
Lúc 10 giờ 22 phút sáng ngày 19 tháng
1 năm 1974,
trận giao chiến giữa lực lượng Hải quân Việt Nam
Cộng ḥa và Hải
quân Trung Quốc đă nổ ra. Phía Trung Quốc,
hai chiến hạm Trung Quốc mang số 389 và 396 đồng
loại tấn công thẳng vào soái hạm của Việt Nam
Cộng ḥa là chiếc tuần
dương hạm Lư Thường Kiệt HQ-16. HQ-10
lập tức can thiệp, pháo kích dữ dội, bắn trúng
đài chỉ huy của tàu 389 và làm cháy pḥng máy
khiến 389 bị hư hại nặng, không thể điều khiển
được nữa. Các tàu Trung Quốc 389 và 396 chuyển
làn nhắm vào HQ-10 và phản pháo. HQ-10
bị bắn trúng tháp pháo và buồn điều khiển, làm
thuyền trưởng và thuyền phó Nguyễn
Thành Trí bị thương nặng, tay lái không
c̣n điều khiển được nữa và HQ-10 cũng bị
rơi vào t́nh trạng bị trôi dạt như 389.
[2]
Trước t́nh h́nh tàu bị hư hại nặng, thuyền
trưởng Ngụy Văn Thà ra lệnh cho thủy thủ đoàn
dùng bè đào thoát, nhưng một số pháo thủ và ông
tiếp tục ở lại bắn vào tàu Trung Quốc. Cả hai 389
và 396 đều bị HQ-10 bắn hư hại
nặng; 389 dạt vào một băi
san hô, và 396 bị HQ-10
bắn trúng hầm máy không c̣n khả năng chiến đấu.[3]
Tới 11 giờ 49 phút, khi các chiến hạm khác của
Việt Nam Cộng ḥa đă rút khỏi vùng giao chiến,
hai chiến hạm Trung Quốc là 281 và 282
tiến vào vùng Hoàng Sa và tập trung hỏa lực bắn
vào HQ-10. Hộ tống hạm Nhựt Tảo
ch́m cùng thuyền trưởng và một số thủy thủ ở vị
trí cách 2,5 hải lư
về hướng Nam băi ngầm Sơn dương (Antelope Reef),
lúc 14 giờ 52 phút ngày 19 tháng 1
năm 1974.[4]
Sau khi Thiếu tá Ngụy Văn Thà tử trận, chính
phủ Việt Nam Cộng ḥa đă truy tặng Đệ ngũ Đẳng Bảo
quốc
Huân chương kèm Anh
dũng Bội tinh với nhành dương liễu và truy
phong ông lên hàm Trung tá Hải quân.
Nguồn: http://vi.wikipedia.org
|
HQ 16 Và Trận Hải
Chiến Hoàng Sa
Đào Dân, C/N
2010/01
Để cùng thắp một nén hương ḷng, nghiêng
ḿnh tưởng nhớ đến
Anh Linh các chiến
sĩ oai hùng của Hải Quân/QLVNCH,
đă anh dũng hy sinh
đánh bọn xâm lăng Tàu cộng,
để bảo vệ bờ cơi
lănh hải của Tổ Quốc
trên quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa.
Tàu HQ10 : 46 Tử-Sĩ
Cố HQ Trung Tá Ngụy Văn Thà, Hạm
Trưởng
Lời
người viết : Bài viết này ghi lại những ǵ mà
người viết có thể nhớ được qua 20 năm dâu biển. Trí
nhớ, tầm nh́n đều bị giới hạn, nên chắc chắn có
nhiều sơ sót, đặc biệt ở phần tài liệu. Xin quư bạn
đọc tha thứ và nếu cần sửa sai cho. Cám ơn".
LTS
: Tác giả Đào Dân, tốt nghiệp khoá 18 SQHQ/NT. Đơn
vị cuối cùng là Tuần Dương Hạm Lư Thường Kiệt HQ16.
Ông đă hiện diện trên chiến hạm lúc xảy ra trận hải
chiến Hoàng Sa giữa HQ/VNCH và kẻ thù truyền kiếp TC
ngày 19/01/1974.
Đào Dân
*
* * * *
Sáng
15/01/1974,
tàu
tách
bến
Tiên
Sa.
Những
tia
nắng
yếu
ớt của một ngày cuối Đông đang cố gắng chọc thủng màn
mây trắng dày để toả ánh sáng xuống mặt biển xanh ŕ
trước mặt. Gió Đông-Bắc cấp 2. Biển không động, nhưng
khi bắt đầu quay mũi, tàu cũng lắc lư dữ dội. Bên
phải, ngọn hải-đăng Sơn-Chà đă tắt, các tháp nhọn từ
từ nhú lên sau dăy núi đen ng̣m, trông như các đinh
nhọn, chĩa mũi lên trời. Tại đây đáng lẽ tàu chuẩn bị
quay phải, xuôi Nam kết thúc một chuyến công tác như
lịch tŕnh. Nhưng không, tàu tiếp tục Đông tiến, trực
chỉ Hoàng Sa. Vậy là niềm vui của thuỷ thủ đoàn chợt
tắt, bỏ cái ước mơ của một chiều dạo phố Sài G̣n bên
người yêu lại cho tuần sau. Hy vọng thế bởi v́ chuyến
hải hành phụ trội này dự trù kéo dài không quá 5 ngày.
Và sau đó, tàu sẽ thảnh thơi nằm sửa chữa ở cầu B, để
cho đám con có th́ giờ thụ thưởng cái đầm ấm và an-vui
bên gia đ́nh cho một cái tết hoà-b́nh đầu tiên.
Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc, người trực
tiếp chỉ huy trận đánh.
Chúng
tôi
nhận
được
lệnh
đi
Hoàng-Sa
khi
cả
tàu
đang nô-nức chuẩn bị lên đường về Sá G̣n. Hôm qua,
ban Ẩm Thực đă đi chợ xong, dầu nước đă nhận đầy đủ.
Vậy mà, đùng một cái, buổi tối lại nhận lệnh mới. Sáng
mai, HQ 16 phải chở ra Hoàng Sa một phái đoàn của Bộ
Tư Lệnh Vùng 1 Chiến Thuật, nhằm khảo sát để thiết lập
một phi trường cho C130 có thể đáp. Có lẽ đây là một
mục tiêu lớn và lâu dài của chính phủ. Chúng tôi không
biết. Phái đoàn gồm 6 người : 1 Thiếu Tá trưởng đoàn,
1 cố vấn Mỹ mặc áo dân sự, 2 Trung Uư cùng 2 Trung
Sĩ thuộc ngành công binh. Đối với tôi chuyến đi
nào cũng thú vị, nhất là đây là lần đầu tiên có dịp
ghé thăm Hoàng Sa, những hải đảo xa xôi cuối cùng của
Tổ Quốc, sau chuyến công tác Trường Sa cách đây 2
tháng. Vả chăng, cũng c̣n đến 20 ngày nữa mới đến Tết,
th́ dầu mất đi 1 tuần lễ trước đó cho một dịp lăng du
cũng chẳng nhằm nḥ ǵ. Những năm trước, khi c̣n phục
vụ trên một Hộ Tống Hạm (PCE), chuyến công tác nào
cũng trên 2 tháng, có chuyến đến 100 ngày. Hồi đó,
những lần trở lại Sài G̣n, tàu đă què quặt, lê lết,
rên rĩ dưới tấm thân tàn ta và một thuỷ thủ đoàn ră
rời. Bây giờ với Tuần Duyên Hạm Lư Thường Kiệt QHQ 16
bề thế, vững chăi, trọng tải lớn, tầm hoạt động dài,
mới được tân trang để nhận lănh từ Guam về, số lượng
sĩ quan và thuỷ thủ đoàn đông hơn, nhưng trái lại thời
gian công tác lại ngắn hơn chỉ 30 ngày. Thế cho nên
tôi vững tâm lên đường. Ra khơi, cho "biết mặt trùng
dương", cho có dịp "ghé những bến bờ, có những xóm
dừa, chiều nhuộm vàng làn tóc ngây thơ".
Tàu
chạy
với
vận
tốc
tối
đa,
2
máy
tiến
full, có thể đạt tới 16 knots. Nhưng gặp gió Đông Bắc,
dù không mạnh lắm, nhưng cũng có thể làm cho tàu chậm
lại, và độ dạt cũng khá lớn. Chỉ ít giờ đầu sau khi
rời vùng biển Đà Nẵng, những ngọn núi cao chót vót của
Tiên Sa, Hải Vân bắt đầu mờ dần. Sau khi khuất hẳn,
chúng tôi chuyển từ hàng hải cận duyên qua hàng hải
viễn duyên, từ mắt thường qua radar và cuối cùng là
Loran để định vị trí con tàu. Sĩ quan trưởng phiên bắt
đầu làm con thoi từ đài chỉ huy xuống pḥng Loran để
kiểm tra lại vị trí phỏng định và chỉnh lại hải tŕnh.
Cả ngày hôm đó trời nắng nhẹ, gió Đông Bắc cũng nhẹ
nhàng thổi mang theo vị mặn của nước biển thấm đầy áo
quần, mặt mũi, tóc tai. Tàu vẫn nhẹ nhàng lướt sóng,
miệt mài đi giữa những âm thanh ngọt ngào của biển cả.
Trên boong tàu, các hạ sĩ quan và thuỷ thủ ngành trọng
pháo, vận chuyển đang lăng xăng với công việc thừơng
lệ, gơ sét, lau chùi, sơn và vô dầu mỡ. Chẳng mấy ai
băn khoăn v́ đă trễ hẹn cho một ngày về, và cũng chẳng
ai buồn nhớ đến câu thơ muôn thở của kiếp hải hồ :
Năm
năm
gơ
sét
đau
ḷng
lính
Gơ sét năm năm sét vẫn c̣n.
Dưới
hầm
máy,
nhân
viên
cơ
điện
khí
cùng
với
Đại Uư Hiệp và các sĩ quan phụ tá loay quay bên những
cỗ máy. Hai máy điện của hữu hạm đang trục trặc, tạm
ngưng hoạt động.Máy ép gió nằm cùng bên cũng bị hư.
Mọi hoạt động của tàu là nhờ vào phía tả hạm. Dầu sao
tàu cũng đă qua hơn một tháng công tác ở cái vùng biển
khốn khổ giá lạnh này. Quân số cũng chỉ c̣n lại khoảng
hai phần ba, nghĩa là chỉ trên 100 mạng, sau khi đă
thay phiên nhau đi phép mấy đợt mà chẳng ai trở lại
tŕnh diện v́ tàu cũng sắp về. Hiện giờ có lẽ họ đă
tŕnh diện ở Bộ Tư Lệnh Hạm Đội chờ "phương tiện",
nhưng thực tế là chờ đón tàu về như những người khác.
Bằng mọi giá, tàu vẫn phải hoàn thành công tác, và mọi
công việc trên chiến hạm cứ tiếp tục chạy đều.
Đa số sĩ
quan trên chiến hạm đều c̣n trẻ, chưa quá 30, độc thân
vui tính, kể cả sôi nổi nhiệt t́nh, một số ít th́ rất
to miệng, trong đó phải kể đến Trần Văn Bính khoá 19,
Nguyễn Hữu Công khoá 20 cơ khí, và Đoàn Viết Ất khoá
4/OCS. Trong giờ nghỉ trưa hoặc tối, pḥng ăn sĩ quan
lúc nào cũng trở thành một băi chiến trường với nước
bọt văng tung toé ; với Ra-my, xập xám, domino ; với
khói thuốc, hơi cà phê và hơi người. Giữa những tiếng
nói, tiếng cười, tiếng căi cọ, ồn ào như chợ vỡ là
tiếng vo vo, rè rè của bốn cái máy lạnh chạy hết tốc
lực, được gắn 4 góc pḥng. Hạm Trưởng, Trung Tá Lê Văn
Thự, khoá 10 là một người khắc khổ, khó tính nhưng
không nạt đùa mà nói năng có phần hoà hoăn. Chuyến
này, ông đang bận với 2 ông khách (cố vấn và ông
TT/BB), lại có pḥng ăn riêng, nên cái giang sơn của
đám sĩ quan trẻ trở thành tự do vô cùng. Nhất là trong
đám đi phép lại có Hạm phó Thiếu Tá Trần Văn Hoa Em.
Giang sơn chúng tôi hiện chỉ c̣n Đại Uư Hiệp khoá 14
(cơ khí trưởng) là thâm niên hiện diện. Là một người
trắng trẻo, cao ráo, đẹp trai, tính t́nh lại cởi mở,
ôn tồn, Đại Uư Hiệp c̣n là sĩ quan sẵn sàng hội nhập
vào mọi cuộc vui của đám đàn em. Cũng xập xám, domino
; cũng đấu đá bỡn cợt. Ngược lại, sĩ quan đệ tam, Đại
Uư Nam, khoá 15, nhỏ con và trầm lặng. Tuy vui vẻ dễ
dăi nhưng ít khi nhập cuộc. Trước mọi bốc đồng năng nổ
của chúng tôi, Đại Uư Nam chỉ ngồi nh́n, mỉm cười.
Thành ra, cái pḥng ăn rộng thênh thang trên HQ 16 trở
thành nơi tự do và thoải mái cho đám sĩ quan lau nhau
cỡ Trung Uư, Thiếu Uư sau mọi nhiệm sở và công việc.
Từ sau hiệp định Paris, số sĩ quan được đào tạo từ ḷ
Nha Trang và OCS được chuyển về rất đông, vượt xa bảng
cấp số. Chả bù với thời gian lúc tôi mới được thuyên
chuyển về Hộ Tống hạm Chí Linh HQ 11 vào khoảng tháng
10/1970, cả một chiếc PCE tối tân nhất thời đó, người
Hạm Trưởng và cơ khí trưởng, kiếm cho đủ sĩ quan làm 3
trưởng phiên là đủ mệt. Hạm phó gần như do tôi xử lư
thường vụ sau khi xuống tàu chưa được 1 tuần. Xuống
tàu, làm phụ tá cho Hạm Phó Nguyễn Tường đúng 1 chuyến
công tác 4 ngày trên biển cả là ông ta đi luôn, để lại
cho tôi cả phiên, cả tàu trong khi tôi chỉ được coi
như mới ra trường. V́ rằng sau khi đi thực tập đệ thất
hạm đội về là làm cán bộ cho tiểu đoàn sinh viên OCS,
một quân trường nối dài. Vậy đó, vậy mà giờ đây trên
HQ 16, có đến 22 sĩ quan trên 14 ở bảng cấp số. Các
thiếu uư và chuẩn uư được chuyển về ngủ ở pḥng ngủ
thượng sĩ. Hạm phó đương nhiên miễn đi quart, trưởng
phiên lúc nào cũng có 2, 3 sĩ quan phụ tá.
Chúng
tôi
đến
Hoàng
Sa
khi
trời
tối.
Trăng
thượng
tuần mờ mờ ở phía Tây, sắp tắt. Len lỏi giữa những đảo
nhỏ đầy những băi san hô ngầm bao bọc chung quanh, với
tầm nh́n hạn chế, chúng tôi phải rất thận trọng đưa
tàu đến trước đảo Pattern (hay thừơng được gọi là
Hoàng Sa), thả trôi cách đảo 1 hải lư về phía Nam.
Trong bóng tối mờ mờ, giữa mặt biển mênh mông, chập
chùng một màu xanh biếc đang chuyển dần sang một màu
tối sẫm, nổi lên ba vành đai cát vàng ôm lấy ba cḥm
cây thấp tè ở giữa. Nếu chỉ nh́n lên một đảo ở trước
mặt, h́nh ảnh đó trông cũng quen thuộc như khi tàu đi
qua một vùng xóm làng ven biển nào đó của miền Nam với
đất phù sa và rừng tràm, rừng đước. Không thấy ǵ rơ
nét, nhưng chúng tôi cũng h́nh dung ra được những nét
hân hoan của đoàn quân trú đóng trên đảo khi được
chúng tôi báo tin là sẽ có một phái đoàn viếng thăm
đảo vào ngày mai. Với những người mà đă mấy tháng trời
như bị lưu đày giữa đảo hoang, làm bạn với chim cá,
th́ sự hiện diện của chiếc tàu và đoàn khảo sát là một
biến cố trong đại trong thời gian ở đảo.
Hoàng
Sa
là
tên
bằng
tiếng
Việt
Nam
để
gọi
chung một quần đảo gồm nhiều đảo rất nhỏ nằm ngoài
khơi 2 tỉnh Thừa Thiên - Quảng Nam, cách bờ biển nước
ta khoảng chừng 350 km. Quần đảo có 2 nhóm. Một nhóm
nằm phía Đông Bắc, có tên gọi là Amphibious đă bị TC
chiếm giữ đâu khoảng từ năm 1956-1957 ǵ đó. Nhóm 2
nằm hướng Tây Nam Croissant, thuộc chu quyền trực tiếp
của Việt Nam Cộng Hoà, có tên là Croissant, gồm 1 đảo
lớn nhất tức đảo Pattern mà tàu chúng tôi đang đậu.
Đảo dài khoảng 1, 5 mile, bề ngang khoảng 1 cây số.
Phía Nam, hơi chếch về bên trái là 2 đảo Robert và
Money, cách Pattern khoảng 3, 4 hải lư. Xa hơn nữa,
khoảng 7, 8 hải lư và chếch về bên phải là 2 đảo Duy
Mộng (Duymont) và Quang Hoà (Duncant). Nằm một ḿnh lẻ
loi giữa biển khơi bát ngát, phía Tây Nam của Pattern,
cách đó chừng 15 hải lư là đảo Tri Tôn (Triton). Ngoài
ra c̣n nhiều đảo nhỏ khác như những ḥn đá khổng lồ
nổi trên mặt nước, không tên, không tuổi, nằm răi rác
đây đó ; đặc biệt nhiều là bên cạnh nhóm Quang Hoà và
Duy Mộng. Giữa vùng biển rộng mênh mông, những đảo nhỏ
nhô lên như những dấu chấm trên hải đồ, và con người,
một trung đội Địa phương quân, thuộc quân số tỉnh
Quảng Nam, đóng lọt thỏm trên một đảo độc nhất, đảo
Pattern, cùng 1 ông trưởng đài khí tượng, sẽ cảm thấy
bé bỏng chừng nào trước cái bao la của biển cả, của
trời xanh. Cặp mắt họ làm sao vượt ra khỏi khu vực
đóng quân, doanh trại, nơi ăn chốn ở, và những lần câu
cá nhặt trứng chim. Tâm hồn họ không thoát khỏi niềm
ước mơ được có tầu tiếp tế, được có người đến thăm,
nhận những lá thư, đọc câu chuyện t́nh hay chưởng. C̣n
trí óc th́ mong chờ đến ngày hết hạn, có đơn vị khác
thay thế, để cho họ qua khỏi giới hạn của 6 tháng lưu
đày. Nhiệm vụ của họ cũng không phải là một hành động
quân sự tích cực, mà như một thủ tục, sự hiện diện của
họ như một cột mốc để tuyên bố chủ quyền. Thế cho nên
khi chúng tôi phát hiện, th́ quân đội TC đă chiếm 2
đảo Duy Mộng và Quang Hoà không biết đă bao lâu rồi.
Trên đó chúng đă đặt đài quan sát, xây dựng doanh
trại, và theo báo cáo của nhóm người nhái đổ bộ trong
ngày cuộc chiến xảy ra th́ có cả một tiểu đoàn lính
trú đóng. Có thể là sau khi hoàn tất chương tŕnh trên
2 ḥn đảo phía Nam, chúng mới mon men lên phía Bắc, dự
trù làm nốt đảo Money và Robert bên nách của Hoàng Sa.
Nếu chúng không dùng chính sách tằm ăn dâu này, mà chỉ
bằng ḷng với khu vực phía Nam đó, th́ có lẽ lịch sử
đă đổi khác. Tàu chúng tôi sẽ lặng lẽ trở về Đà Nẵng
để về Sài G̣n, sẽ không có trận hải chiến Hoàng Sa,
trận hải chiến độc nhất trong lịch sử của Hải Quân
Việt Nam Cộng Hoà, và đảo Hoàng Sa (Pattern) có lẽ sẽ
không rơi vào tay TC.
Buổi
sáng
ngày
16/01/1974,
chúng
tôi
chuẩn
bị
một
xuồng
đổ bộ và 4 nhân viên, trong đó có một hạ sĩ quan vận
chuyển, chở 6 ngừơi của phái đoàn lên đảo rồi sau đó
đem xuống về tàu. Công tác hoàn tất tốt đẹp. Thế là
những người khác của chúng tôi đă giă từ và theo dự
trù sau vài ngày, chúng tôi sẽ vào đón họ để đưa trả
họ lại cho Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Chiến Thuật. Ngày hôm đó
nắng đẹp và có vẻ chói chang hơn hôm trước. Trời trong
xanh. Tàu chúng tôi vẫn trong t́nh trạng thả trôi
trong vùng biển yên lặng. Không một ngọn gió nào, sóng
vẫn lăn tăn, và vùng biển êm như mặt hồ. Tôi nhận
quart trưa 1200 - 1500 H. Không có việc ǵ làm, chỉ
theo dơi t́nh trạng trôi của tàu, nếu cần điều chỉnh
lại chút đỉnh. việc đổ bộ đă hoàn tất vào buổi sáng.
Hạm trưởng xuống nghỉ trưa. Các sĩ quan phụ tá và nhân
viên đi quart tụ lại nói chuyện phiếm. Tôi ngồi lên
thành tàu, bên cạnh khẩu đại liên 30 và ngay dưới chân
phía sau lưng, ở tầng dưới có buồng lái, là một ổ
đại bác 20 ly đôi đang nằm trong bọc bạt. Buổi trưa
hơi nóng, lại không có việc ǵ làm, chuyện tṛ rồi
cũng hết hứng thú. Im lặng lại trở về sau khi mỗi
người dăn ra một góc, lơ đăng nh́n trời. Tôi cũng im
lặng thả từng hơi khói thuốc Bastos ra trước mặt, lơ
lửng cuộn thành ṿng tṛn rồi tan vào khoảng hư không,
trí óc bổng trở nên phiêu đảng bồng bềnh.
Bỗng
tôi
chú
ư
ở
trước
mặt
đảo
Robert,
ngang hông chiến hạm, một chiếc tàu đang lửng lơ bên
cạnh đảo. Chiếc tàu nhỏ, cỡ bằng những chiếc tàu đánh
cá Đài Loan mà tôi thường gặp trong vùng biển cận
duyên. Tôi cũng cho đây là tàu đánh cá, nhưng hơi lạ
là nó vào sát bờ quá. Mà tàu đánh cá nào lại không
biết đây là hải phận Việt Nam, trong khi chúng tôi,
anh khổng lồ HQ 16 và Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ đang bay phất
phới ? Tôi nói thầm, đi đâu cũng gặp mấy người Đài
Loan cả. Nhưng khi đưa ống nḥm lên nh́n, nó không
giống với những chiếc tàu đánh cá thường gặp. Thân nó
hơi ngắn so với bề ngang to bề, đài chỉ huy lại có vẻ
bề thế như một chiếc tàu quân sự. Tàu lại sơn màu tối,
như màu ô-liu, phía đuôi có treo cờ tuy không trông rơ
màu sắc. Lúc đó, mọi người trên đài chỉ huy chẳng ai
quan tâm về sự hiện diện của tàu đánh cá, nhưng v́
ngạc nhiên, tôi cho lệnh giám lộ viên đánh đèn để hỏi
và đồng thời cho nổ máy, quay mũi, trực chỉ phía Nam.
Có lẽ v́ trời nắng, mọi người nghỉ trưa nên ánh sáng
đèn scott không đánh động được ai. Tàu địch vẫn im
lặng, h́nh như không bắt được tín hiệu. Sau khi hội ư
với Hạm Trưởng, tôi cho khai hoả khẩu đại liên 30, vừa
để gợi sự chú ư, vừa có ư đuổi nó ra xa khỏi đảo.
Tiếng súng nổ đ̣n dă giữa buổi trưa yên tĩnh dường như
làm cả tàu thức giấc nhưng đối tượng vẫn không nhúc
nhích. Bao nhiêu ống nḥm đổ đồn vào nó, và khi tàu
đến gần hơn, nền cờ đỏ và 5 ngôi sao vàng ở ngay góc
làm cho tôi hơi khựng lại. Tàu TC. Sự phát giác này là
một điều gây ngạc nhiên cho nhiều người. Hầu hết đều
cho là tàu đánh cá của Đài Loan, hay nếu ai có trí
tưởng tượng phong phú hơn, cho là tàu đánh cá Liên Sô
để đi ḍ thám như chúng tôi thường gặp khi thực tập
trên Đệ Thất Hạm Đội. Chưa ai nghĩ đây là tàu TC và
càng không ai nghĩ xa hơn đến dă tâm xâm lược của TC.
Khi Hạm Trưởng lên đài chỉ huy th́ chúng tôi đă gần
nhau lắm rồi, chưa đầy 500 m. Mọi người đă thấy rơ cờ
TC bằng mắt thường. Hạm Trưởng khẩn báo về Trung Tâm
Hành Quân Hải Quân Đà Nẵng và xin chĩ thị, đồng thời
cho nhân viên dùng tay, dùng cờ, dùng máy phóng thanh
phát bằng tiếng Tàu để yêu cầu nó ra khỏi hải phận
Việt Nam. Mặc dù chúng tôi không nhận được sự trả lời
nào, cũng không thực hiện lời yêu cầu của chúng tôi,
nhưng sự xuất hiện của chúng tôi có lẽ cũng khuấy động
sự yên lặng cố hữu ĺ lợm của tàu TC. Hàng chục nhân
viên lên boong tàu nh́n sang chúng tôi, kỳ lạ, xoi mói
và ngạc nhiên. Phần đông mặc áo thun trắng quần cụt.
Một số mặc áo quần bộ đội TC, màu ô-liu nhạt hơn màu
tàu.
Cũng
vậy,
sự
hiện
diện
của
tàu
TC
đảo
lộn hết mọi công tác hàng ngày. Hạm Trưởng chú tâm đến
tàu địch cùng liên lạc với Vùng 1 Duyên Hải, sĩ quan
th́ tụ tập từng nhóm bàn tán đủ mọi giả thuyết. Nhân
viên đứng đầy một bên lan can tàu nh́n sang như đang
nh́n một quái vật. Trong khi đó trên đài chỉ huy vẫn
oang oang phát ra từng chập những lời lẽ bằng tiếng TC
yêu cầu ra khỏi hải phận Việt Nam. Luc đầu là cuộc đối
thoại với người câm nhưng sau đó, họ cũng dùng loa
phóng thanh cầm tay để yêu cầu ngược lại, chúng tôi
phải rời khỏi hải phận TC. Cứ như vậy mà tiếp tục suốt
cả buổi chiều mà chẳng bên nào nhượng bộ. Đêm đó chúng
tôi đành bỏ dở chương tŕnh phát thanh để chạy ra xa
hơn đễ giữ an toàn cho chiến hạm. Và cũng từ đêm đó,
nếp sinh hoạt trong pḥng ăn cũng thay đổi tuy tiếng
nói cười vẫn oang oang như lệnh vỡ. Những tṛ chơi cũ
như xập xám, domino ế khách. Các sĩ quan quay quần
quanh bàn ăn để tiếp nối những cuộc thảo luận "trời ơi
đất hỡi" về việc xuất hiện của tàu TC. Buổi sáng ngày
17/01/1974, bổn cũ được soạn lại, Nghĩa là cũng máy
phóng thanh, phát ra và trả lời, cũng mấy anh thuỷ thủ
gốc Chợ Lớn làm xướng ngôn viên. Chỉ khác một điều là
thêm một tàu đánh cá khác xuất hiện cạnh đảo Money. và
trăm lá cờ TC được cắm răi rác dọc bờ biển trên vùng
cát trắng. Chỉ có đảo Rorbert mà tàu tôi ở gần là c̣n
trinh bạch, chưa bị hoen ố bởi cái rừng cờ màu máu đó.
Chúng tôi cũng không hiểu là có phải cờ đó được cắm
trong đêm hay đă nhiều ngày qua, nhưng dầu sao giả
thuyết được cắm trong đêm cùng với sự xuất hiện của
tàu thứ hai có vẻ đúng đắn. Khoảng 2 giờ chiều hôm đó,
khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 nhập vùng cùng 1 trung
đội người nhái. Hạm Trưởng là Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu
San, đă từng một thời là Hạm Trưởng HQ 11 khi tôi phục
vụ trên đó. Có lẽ ông đă nhận được mật lệnh và kế
hoạch từ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I, nên vừa nhập vùng,
ông đă hành động ngay. HQ 4 từ phía Nam đảo Money chạy
lên, HQ 16 từ đảo Pattern xuống, chúng tôi như hai
gọng kềm kẹp chặt hai chiếc tàu đánh cá nhỏ bé của TC
vào giữa. Có lẽ cũng ngán chúng tôi sẽ có thái độ khác
với những ngày qua, chiếc thứ hai từ đảo Money chạy
lên họp cùng chiếc thứ nhất và ra xa khỏi đảo Robert
khoảng hơn 1 hải lư. Thế là gọng kềm lại siết chặt
hơn. Cuộc chiến bằng nước bọt lại bùng nổ dữ dội. Mặc
dù cỏ vẻ e dè, 2 chiếc tàu TC vẫn ngoan cố bám vùng,
và vẫn trả lời chúng tôi bằng giọng điệu cố hữu : "Hăy
ra khỏi hải phận TC". Bốn chiếc tàu, 2 lớn ở ngoài, 2
nhỏ ở giữa vẫn thả trôi b́nh yên để mặc cho con người
đấu khẩu. Có lẽ không c̣n kiên nhẫn được nữa, HQ 4 nổ
máy đâm thẳng ngang hông tàu địch, đẩy nó ra khơi. v́
vận tốc chậm, có lẽ khoảng 2 máy tiến 1, nên không có
thiệt hại nào cho bên địch, nếu có, có lẽ bát đũa nồi
nêu cơm nước bị đổ bể tùm lum trong pḥng ăn và nhà
bếp. trước thái độ quyết liệt của HQ 4, tàu TC đành
nhượng bộ, mở máy, từ từ tăng tốc độ chạy về phía Nam
của 2 đảo Duy Mộng và Quang Hoà, để lại chiến trường
một vùng nước bọt trắng xoá. Chúng tôi toàn thắng mà
không tốn một viên đạn (chỉ tốn một cái húc của Trung
Tá Vũ Hữu San).
Đến
đây
người
viết
cần
phải
ngừng
lại
một
chút vừa để hoan nghênh Trung Tá San vừa để ghi lại
cảm nghĩ và óc phán đoán của chính ḿnh về kết quả của
trận hải chiến Hoàng Sa cùng thái độ của TC, sau những
mười mấy năm lăn lộn trong gông cùm của xă hội chủ
nghĩa. Theo tôi, sau ngày họp thượng đỉnh với Tổng
Thống Nixon tại Bắc Kinh. TC bắt đầu có tham vọng bành
trướng thế lực ở biển Đông. Việc chiếm đóng hai đảo
Duy Mộng và Quang Hoà đă chứng minh điều đó. Tuy nhiên
TC không muốn dùng vơ lực để giải quyết tranh chấp v́
e ngại Mỹ, nên dùng chính sách tầm ăn dâu, nghĩa là
điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa. Nghĩa là những đảo
nào không có ai chiếm cứ, TC sẽ đến thiết lập các căn
cứ, và mọi chuyện sẽ trở thành chuyện đă rồi. Do đó,
nếu sau khi đuổi 2 tàu đánh cá TC đi khỏi 2 đảo Robert
và Money, Việt Nam Cộng Hoà cứ cho quân đội ra xây
dựng trên đó, giữ đảo, dùng ngoại giao để công kích,
th́ tuy không lấy lại được 2 đảo Duy Mộng và Quang
Hoà, cũng không mất luôn 3 đảo lớn nhất vùng là
Pattern, Robert, Money, và vĩnh viễn Hoàng Sa không
bao giờ trở lại chủ quyền Việt Nam. Sau này TC cũng
dùng chính sách tương tự để xâm chiếm các đảo nhỏ ở
Trường Sa, nghĩa là các nơi chưa có ai trấn đóng, và
cũng v́ tự ái như thời Việt Nam Cộng Hoà, Cộng Sản
Việt Nam đă gây ra cuộc hải chiến với TC, để từ đó
Trung Cọng chiếm luôn một số đảo nữa.
Trở
lại
chiều
ngày
17/01/1974.
Sau
khi
"đánh
tan"
2 tàu TC đi, HQ 4 cho đổ bộ khoảng 20 người nhái lên
đảo Money, thu dọn cờ TC, cắm cờ Việt Nam Cộng Hoà, và
HQ 16 chuẩn bị 1 xuồng đổ bộ 15 nhân viên cơ hữu lên
đảo Robert ngay tối hôm đó. 15 nhân viên này phần lớn
được lựa chọn trong ngành trọng pháo, mang theo súng
ống, đạn dựơc cá nhân đầy đủ, cùng thực phẩm khô dùng
trong vài ba ngày. Toán đổ bộ do Hải Quân Trung Uư Lâm
Trí Liêm Chí Huy. Liêm vốn là sĩ quan khoá 10 OCS, sau
khi về nước, phục vụ phần lớn tại giang đoàn, do đó
được Hạm Trưởng chọn lựa v́ hy vọng rằng Liêm sẽ có
kinh nghiệm trên đất liền nhiều hơn là trên chiến hạm.
Kết quả cho thấy sự chọn lựa này rất đứng đắn, v́ sau
khi tàu 16 buộc phải rời vùng mà không thể bốc toán đổ
bộ của Liêm, Liêm đă chỉ huy toán vượt biển trên xuồng
đổ bộ và sau 15 ngày đói khát, đă được ngư dân Qui
Nhơn cứu sống. Chỉ một người chết sau khi đă lên
thuyền ngư dân. Súng ống, máy truyền tin được đem về
đơn vị đầy đủ. Trong ngày vượt thoát, toán đổ bộ chỉ
c̣n 2 ngày lương khô và 1 can 18 lít nước đă dùng gần
hết sau 2 ngày trên đảo. Toàn bộ 15 người - kể cả
người đă chết - được thăng thưởng 1 cấp. Liêm được
thăng đại uư nhiệm chức sau chưa đầy 1 năm mang lon
Trung Uư.
Khoảng
6
giờ
chiều
ngày
17/01/1974,
lúc
đó
trời
c̣n
lại vài tia nắng yếu ớt chiếu răi rác trên mặt biển
xanh rờn, 2 chiến hạm thực thụ của hải quân TC xuất
hiện. Căn cứ theo sự quan sát lúc đó và trong ngày
giao chiến, chúng thuộc loại Konstrat của Liên Sô chế
tạo, dài khoảng gần 100 mét, nghĩa là gần bằng HQ 16,
nhưng bề ngang hẹp hơn. Vận tốc tối đa khoảng gần 30
knots, nghĩa là gần gấp đôi HQ 16. Trang bị cũng không
có ǵ tối tân lắm. 1 khẩu đại bác 100 ly trước mũi, 2
khẩu đại bác 37.6 ly hai bên về phía trước và h́nh như
1 khẩu phía sau. C̣n ngoài ra là loại súng nhỏ. So
sánh về hoả lực th́ bên ta có phần trội hơn. HQ 16 có
1 khẩu 5" (127) trước mũi. Sau đó là 2 khảu 40 ly đôi
và 1 đại bác 40 ly đơn ở sau lái. Không kể 2 dàn đại
bác 20 ly đôi bên hông pḥng lái ngay dưới đài chỉ
huy, 2 dàn 20 ly đơn ở sân thượng phía sau, cùng 5
khẩusúng cối 81 ly. Hai chiến hạm này sau khi nhập
vùng, cũng chỉ về lẩn quẩn ở hai đảo Quang Hoà và Duy
Mộng. Không thấy có hành động khiêu chiến, nhưng chúng
chắc chắn giữ bằng được 2đảo đó mà hành động nghênh
cản của chúng vào ngày hôm sau đă chứng tỏ điều đó.
Bữa
cơm
tối
ngày
17/01/1974,
pḥng
ăn
sĩ
quan
có vẻ trang nghiêm hơn lệ thường. Những tiếng nói cười
cũng ít đi, tiếng hỏi đáp có vẻ cố hạ giọng chỉ vừa đủ
cho người đối diện nghe. Không khí như ngưng lại dành
chỗ cho loa phóng thanh phát đi bản tin hàng ngày.
Cũng trái với lệ thường, bản tuyên cáo của chính phủ
VNCH về vấn đề Hoàng Sa được đọc trước bản tin đầu
giờ. Trong bản tuyên cáo đó, bộ Ngoại giao thay mặt
chính phủ và nhân dân Việt Nam tuyên bố Hoàng Sa là
vùng lănh thổ không thể chuyển nhượng của ḿnh, căn cứ
trên thực tại và các chứng cứ trong lịch sử, đồng thời
tố cáo trước dư luận quốc tế việc lấn chiếm 2 đảo
Quang Hoà và Duy Mộng của TC. Sau cùng, để giải quyết
vấn đề, chính phủ VNCH đề nghị cả 2 cùng đưa vấn đề ra
xét xử trước toà án quốc tế La Haye. Mọi người cũng cố
ư lắng nghe bản tin thời sự và chiến sự trong ngày.
Như một sự ṭ ṃ cố hữu, ai cũng muốn biết đài phát
thanh nói như thế nào về hoạt động của chính ḿnh,
những người đang đối diện với kẻ thù giữa đêm đông
trong vùng biển xa khơi này. Tôi không nhớ rơ chi tiết
bản tin, nhưng cái tên tuần dương hạm Lư Thường Kiệt
được đài phát thanh nhắc nhở nhiều lần. Và chính sự
nhắc nhở đó đă gợi cho một sĩ quan nào đó một sự so
sánh tuy không chuẩn xác nhưng nghe đầy hào khí :
-
Ngày xưa vị anh hùng Lư Thường Kiệt đem quân đánh
Tống, ngày nay lại tuần dương hạm Lư Thường Kiệt cũng
sẽ sẵn sàng đuổi quân TC ra khỏi Hoàng Sa.
Câu
nói
vô
t́nh
bỗng
nhiên
phá
vỡ
cái
vẻ
trang
nghiêm tạm thời và cái sinh hoạt sôi động của pḥng ăn
trở lại trạng thái nhộn nhịp như cũ. Mọi người thay
nhau bàn luận về những việc hiện tại, cùng kể lại
những bài học lịch sử đánh Tống b́nh Nguyên đuổi Minh
của những vị anh hùng thời trước. Và nhờ đó, nhiệt
t́nh của tuổi trẻ được dịp bốc cao như thử chúng tôi
sắp sửa biến thành những anh hùng.
Sáng
ngày
18/01/1974,
HQ5
hiện
diện
trong
vùng
như
một
sự tăng cường cần thiết. Đây là một tuần dương hạm
cùng loại với HQ16 (Whec) do một vị Trung Tá (Lê Văn
Thự) chỉ huy. Cùng đi trên HQ5 là Hải quân Đại Tá Hà
Văn Ngạc, chỉ huy trưởng Hải đội 3 tuần dương trực
thuộc Bộ Tư lệnh Hạm Đội, được chỉ định làm Tư lệnh
lực lượng đặc nhiệm Hoàng Sa. Như vậy, lực lượng hiện
có 3 chiến hạm (HQ4 -HQ5-HQ16) và sẽ có thêm Hộ tống
hạm Nhật Tảo (HQ10) đang trên đường đến nhập vùng. Sự
hiện diện của một vị sĩ quan cao cấp đă từng tu nghiệp
ở đại học hải chiến Hoa Kỳ làm cho chúng tôi thêm tin
tưởng. Có lẽ để thực hiện cái sở học của ḿnh, nên sau
khi nhập vùng và nhận quyền chỉ huy, Đại Tá Ngạc đă
hội ư cùng các Hạm trưởng qua máy truyền tin và ngay
buổi trưa hôm đó, h́nh thành một kế hoạch mà tôi tạm
gọi là "phô diễn lực lượng" sẽ khởi sự vào buổi chiều.
Có lẽ kế hoạch chỉ là để thăm ḍ khả năng của các
chiến hạm hơn là một cuộc hành quân, bởi v́ trong kế
hoạch, mặc dù các chiến hạm đều ở trong nhiệm sở tác
chiến nhưng mọi khẩu pháo đều được quay cao 45 độ.
Chúng tôi thực hiện kế hoạch thao diễn với ḷng hăm hở
được một dịp thực tập vận chuyển chiến thuật mà từ lâu
đă bỏ quên sau khi rời khỏi ghế nhà trường. Những ư
niệm về đội h́nh hàng dọc, hàng ngang ; những màu cờ
của Golf, Code ; những quay phải quay trái ; những vận
tốc cùng hướng đi biểu kiến ; tất cả sẽ được tái tạo
lại trong một buổi chiều đẹp trời. Với 3 chiến hạm,
lực lượng của chúng tôi trông ra có vẻ hùng dũng lắm
rồi. Đi đầu là hai tuần dương hạm bệ vệ (HQ16 rồi đến
HQ5), nước sơn c̣n mới với hai khẩu đại pháo 127 ly,
rồi sau cùng HQ4 tuy nhỏ con nhưng cũng nhanh nhẹn và
đặc biệt lại c̣n mang hơi hướm hiện đại của một khu
trục hạm của Hải Quân Hoa Kỳ. Bắt đầu chiến dịch với
ba rừng cờ phất phới trên ba cột buồm, lồng lộng trong
gió chiều và trong nắng vàng cuối đông. Những dàn ra
đa khổng lồ đang quay chầm chậm vừa làm nhiệm vụ trấn
thủ vừa cung cấp dữ kiện để đo khoảng cách và vận tốc
của tàu địch. Trên đài chỉ huy, các giám lộ viên có
tay nghề cao nhất đang chờ lệnh và sẵn sàng thực hiện
những khẩu lệnh của Hạm trưởng liên quan đến cờ đèn và
giải thích cùng báo cáo những hiệu kỳ của soái hạm.
Chúng tôi tiến theo đội h́nh hàng dọc, từ phía nam đảo
Pattle và trực chỉ 160 độ về hai đảo Quang Hoà -
Duy Mộng. Tất cả cùng hai máy tiến 2, cách khoảng 500
mét, đàng hoàng tiến về phía địch như những hiệp sĩ
thời trung cổ. Khi vừa chạy được 1 hải lư, hai chiến
hạm TC mang số hiệu 300 đang nằm im trong vùng biển,
cùng nổ máy tăng tốc và cũng theo đội h́nh hàng dọc
tiến đến hướng chúng tôi. Chiến hạm của chúng chạy rất
nhanh, có lẽ 2 máy tiến full, nên để lại đằng sau
những bọt nước trắng xoá và tạo ra những làn sóng bập
bềnh. Tuy nhiên, cả đội h́nh chúng tôi vẫn b́nh thản
tiến theo lộ tŕnh. Khi đến cách chúng tôi chừng dưới
một hải lư, chiếc đi đầu bỗng quay trái, được một đoạn
ngắn là quay trở ngược chiều (180 độ) chạy băng ngang
trước mũi HQ16. Chỉ vừa qua khỏi, chúng lại lộn ngược
trở lại về phía phải để làm một đường ngang khác. Và
chiếc sau cũng lặp lại những động tác y như vậy để rồi
cuối cùng cái đường dăng ngang của chúng chỉ cách mủi
tàu chúng tôi chưa tới 150 mét. V́ chúng chạy với vận
tốc tối đa, mà chúng tôi đo được 28 gút, khoảng cách
lại quá gần nên những lượn sóng do chúng tạo ra làm
tàu chúng tôi bồng bềnh như có gió mạnh. Cái hàng rào
tưởng tượng mà chúng dăng ngang làm chúng tôi thấy khó
xử. Không thể xử dụng vơ lực, cũng khó tiến thêm v́ có
thể đụng chạm. Cuối cùng, chúng tôi được lệnh quay mũi
theo hàng dọc trở về hướng Bắc. Kế hoạch "phô diện lực
lượng" thế là hoàn tất, và mặc dầu không rơ hết ư đồ
của vị Tư lệnh lực lượng, chúng tôi đều cảm thấy hài
ḷng với một vài dữ kiện có thể nắm được, đó là sự
quyết tâm của các chiến hạm ta trong việc bảo vệ
lănh-hải. Chúng tôi cũng thấy cái lợi thế vận tốc gần
gấp đôi của các chiến hạm địch (28/16) để đề pḥng.
Buổi
tối,
ngay
vùng
biển
phía
bắc,
giữa
vùng
ḷng
chảo của các đảo bao bọc, chỉ có một ḿnh HQ16 đơn độc
trấn đóng với một quân số chỉ hơn trăm người, HQ4 và
HQ5 cùng trở về phía nam của hai đảo Quang Hoà, Duy
Mộng, để rồi khoảng 10 giờ tối, HQ10 tới nơi và nhập
với HQ16 trở thành phân đội 1 do HQ Trung Tá Lê Văn
Thự (Hạm trưởng HQ16) chỉ huy. HQ4 và HQ5 là phân đội
2 do Hạm Trưởng HQ4 chỉ huy. Tất cả đều dưới quyền chỉ
huy thống nhất của Đại tá Ngạc, tư lệnh lực lượng đặc
nhiệm. HQ10 là một hộ tống hạm (PCE) dài khoảng 60 mét
với một quân số trên 70 người theo bảng cấp số. Được
trang bị một đại bác 76,2 ly ở trước mũi và 2 đại bác
40 ly đơn ở boong trên sau lái. Vận tốc tối đa là 13
gút. Hạm Trưởng là Hải Quản Thiếu Tá Nguỵ Văn Thà,
h́nh như khoá 12 và Hạm phó là Hải quân Đại uư Nguyễn
Thành Trí khoá 17. Đại uư Trí mới về làm hạm phó HQ10
chỉ trong ṿng 3 tháng sau khi tốt nghiệp khoá 2/73
trung cấp chuyên nghiệp Hải quân tại Trung tâm Huấn
luyện Hải quân Sài G̣n. HQ10 đến giữa lúc chúng tôi
đang cảm thấy cô độc giữa các ḥn đảo xung quanh và
làm chúng tôi an tâm phần nào.
Thực
ra,
sự
phân
chia
thành
phân
đội
cũng
như lệnh bổ nhiệm các phân đội trưởng chỉ chính thức
được ban hành cùng với lệnh hành quân do tư lệnh LLDN
/ Hoàng Sa gởi cho các chiến hạm vào khoảng 12 giờ đêm
18/01/1974. Mục đích của cuộc hành quân này là chúng
tôi sẽ tái chiếm 2 đảo Quang Hoà và Duy Mộng vào ngày
hôm sau (19/01/1974) và chúng tôi sẽ phải hoàn tất mọi
sự chuẩn bị để sẵn sàng tác chiến trước 6 giờ sáng.
Nhiệm vụ chính của phân đội 2 là đổ bộ khoảng một
trung đội người nhái lên đảo và nhiệm vụ của phân đội
1 (HQ16 + HQ10) là yểm trợ hoả lực. Tuy nhiên, ngoài
việc phản công phân nhiệm, phần ghi chú cuối cùng
trong lệnh hành quân có hai câu mang đầy mâu thuẫn :
Tái chiếm hai đảo bằng bất cứ giá nào nhưng tránh tối
đa việc xử dụng hoả lực. Sự mâu thuẫn này đă gây ra
một cuộc bàn căi khá sôi nổi và mất không ít thời gian
vào lúc một nhóm chúng tôi ngồi canh câu lạc bộ của
chiến hạm để uống cà phê buổi sáng. Cuối cùng chúng
tôi tạm đưa ra một kết luận rằng đây chỉ một đ̣n chiến
tranh tâm lư để làm an ḷng các sĩ quan và chiến sĩ
thuộc quyền.
Chúng
tôi
bị
đánh
thức
dậy
lúc
khoảng
1
giờ
sáng ngày 19/01/1974 và được lệnh tập họp tại pḥng ăn
đoàn viên. Hầu hết mọi người vẫn c̣n ngái ngủ hoặc
đang mệt mỏi v́ vừa giao ca xong lúc 12 giờ nên pḥng
ăn đông người mà vẫn yên lặng. Hơn nữa, lần tập họp
bất thường giữa đêm khuya trong cái không khí căng
thẳng và đầy thuốc súng này th́ ai cũng hiểu là có
chuyện. Và chuyện ǵ khác hơn là sự báo trước của một
cuộc chiến sắp mở màn ? Thời gian chờ đợi Hạm trưởng
đến không dài và các cửa pḥng đều đóng kín nhưng tôi
tự nhiên thấy lạnh. Cơn lạnh cuồn cuộn bốc ra từ bao
tử, lan dần đến ngực, bụng và toàn châu thân. Tôi ngần
ngại nh́n mọi người v́ cảm thấy không lẽ ḿnh quá hèn
nhát. Để trấn tĩnh, tôi vươn vai ngáp dài rồi đưa tay
che miệng, sau đó lôi thuốc Bastos ra hút. Châm được
điếu thuốc trên ngọn lửa của cái bật lửa zippo mà tôi
cảm thấy khó khăn v́ h́nh như ngọn lửa rung rinh trên
bàn tay run rẩy. Hít được khói thuốc vào tận buồng
phổi để thấy ḿnh dễ chịu hơn đôi chút, tôi tập trung
tư tưởng để tự ḿnh thắng được nỗi sợ hăi và hèn nhát
bằng niềm kiêu hănh của một sĩ quan hải quân và nhờ đó
giúp cho ḿnh đứng vững.
Hạm
trưởng
đến
vừa
đúng
lúc
cho
tôi
có
dịp đứng dậy hô "vào hàng, phắc" dù là lúc nửa đêm.
Tiếng hô làm cho ḿnh thêm can đảm và cái lạnh không
biết biến đi tự lúc nào. Với cái áo Jacket xanh khoác
ngoài bộ quân phục màu nước biển, Hạm trưởng nom có vẻ
mệt mỏi. Chính sự mệt mỏi này cùng với cái vẻ lè phè
khi ông lê đôi dép Nhật tạo một sự gần gũi hơn so với
thường ngày. Ông tóm tắt nội dung lệnh hành quân và ra
lệnh cho toàn thể mọi người cố gắng vận chuyển hết đạn
dược từ các kho lên đặt cạnh các ụ súng v́ sự thiếu
hụt quân số (đi phép và đổ bộ lên đảo) có thể cản trở
rất nhiều trong việc tiếp tế đạn dược trong thời gian
lâm chiến. Ông cũng yêu cầu Quản nội trưởng cùng tôi
(SQ nội vụ) sắp xếp lại toàn bộ các nhiệm sở cho phù
hợp với nhu cầu t́nh h́nh quân số lúc đó. Nhân viên
trọng pháo bây giờ không c̣n được một nửa nên số này
ưu tiên dành cho đại bác 127 ly ở trước mũi và Trung
Uư Đoàn Viết Ất, sĩ quan trọng pháo làm trưởng khẩu.
Đích thân Hạm trưởng chỉ định tôi làm sĩ quan Hải hành
và Đại uư Nam, Trưởng khối hành quân phụ trách pḥng
CIC (Trung tâm hành quân thông báo).
Phải
mất
hơn
2
giờ
việc
vận
chuyển
đạn
dược mới hoàn tất. Mọi người, sĩ quan, hạ sĩ quan và
đoàn viên, trừ những người đang đi "quart", đều lăn xả
vào công việc. Khiêng, vác, bưng. Cả một chiến hạm rầm
rập tiếng chân người chen lẫn tiếng vỏ đạn, thùng đạn
chạm vào nhau hay vào thân tàu, sàn tàu, hợp thành một
âm thanh hỗn độn. Đèn đuốc được thắp sáng mọi nơi
nhưng những ngọn đèn ở ngoài th́ được che chắn cẩn
thận để tránh sự nghi ngờ của địch. Chính nhờ những
hoạt động năng nổ này làm mọi người quên đi nỗi lo âu
cho số phận của ḿnh vào ngày mai khi cuộc chiến bắt
đầu, đẩy lùi lại phía sau nỗi sợ hăi, tính hèn nhát,
cũng như những thắc mắc suy tưởng.
Tôi
trở
lại
pḥng
ăn
đoàn
viên
sau
khi
xong
việc, đến câu lạc bộ mua một ly cà phê rồi cùng một số
sĩ quan khác ngồi ngay đó nói chuyện. Không ai trong
nhóm này muốn trở về pḥng để phải đối diện với thực
tại đáng lo, rồi sinh ra bi quan chán nản để trở thành
một tên hèn nhát. Chúng tôi nói mọi chuyện, từ nỗi
thắc mắc về lệnh hành quân đến những câu chọc cười vô
thưởng vô phạt. Nhưng đă không c̣n những tràng cười
khoái trá mà chỉ c̣n là những nụ cười thật nhẹ, có
chút gượng gạo nữa. Rồi lên pḥng ăn sĩ quan, húp từng
muỗng cháo nóng mà nhân viên nhà bếp mang lại đây,
cũng lại cái không khí hơi thiếu tự nhiên dù ai cũng
cố dấu kín tâm sự chính ḿnh. Chỉ biết cố gắng hoà lẫn
vào đám đông để khỏi đối diện với chính ḿnh với bao
bất trắc của sáng ngày. Rồi tôi lên tiếng, cố đùa :
- Đây có thể là tô cháo cuối cùng và vừa rồi có thể là
ly cà phê cuối cùng.
Nói
xong
câu
này,
không
ai
cười,
nhưng
trong
tôi
bỗng
biến đổi. Một nỗi trống vắng, xa lạ xâm chiếm tâm
hồn.Như không c̣n là tôi, không c̣n cần thiết ǵ nữa.
Không c̣n ham muốn điều ǵ, kể cả sự sống. Không c̣n
sợ hăi điều ǵ, kể cả cái chết. Không luyến thương
vương vấn ai, kể cả mẹ già. Không thèm ăn, không thèm
hút. Không thèm ǵ hết.
Đúng
7
giờ,
c̣i
nhiệm
sở
tác
chiến
vang
lên
dồn dập, đồng thời ở mọi góc pḥng, tiếng loa phóng
thanh liên tục phát ra từ đài chỉ huy : "Tất cả mọi
người vào nhiệm sở tác chiến". Tôi chạy vội về pḥng
ngủ, lấy một gói thuốc Bastos bỏ túi, mang áo phao,
đội nón sắt chạy lên đài chỉ huy. Hạm trưởng đứng đó,
cũng áo phao nón sắt, và ống nḥm đeo trên cổ đang cầm
lên để quan sát tàu địch. Sau đuôi HQ16 là HQ10 đang
chạy theo đội h́nh hàng dọc với 2 máy tiến 1. Về phía
nam, hai chiếc tàu TC có số hiệu 300 đang ở mặt bắc
của đảo Quang Hoà, Duy Mộng và ở phía tây nam là 2
chiếc số hiệu 200 có lẽ mới nhập vùng đêm qua. Cả bốn
chiến hạm địch cùng chạy chậm gần hai đảo, làm thành
một ṿng bán nguyệt. Xa hơn về phía nam là HQ4 và HQ5
giờ này có lẽ cùng đang trong t́nh trạng chuẩn bị tác
chiến. Trên HQ16, mọi người đang lục tục chạy vào vị
trí của ḿnh. Trước mũi, nắp đậy của lỗ quan sát của
khẩu pháo 127 ly bật tung và ngoi lên cái đầu của
Trung Uư Ất trưởng khẩu. Ất đội một nón sắt rộng vành
có trang bị ống nghe nội bộ úp vào lỗ tai. Trên đó một
tầng là khẩu 40 ly đôi dang được mở bọc bạt, ṇng bắt
đầu quay phải trái, lên xuống để điều chỉnh. Trong hai
ṇng, 4 kẹp đạn sáng chói đang chồng thành 2 cặp song
song nhau. Cùng tầng đó, ngay hai bên hông đài chỉ huy
là 2 khẩu 20 ly đôi cũng đang được lắp đạn. Sau đó,
tiếng báo cáo từ pḥng CIC của Đại uư Nam vang lên
từng chặp. Vừa lên đài chỉ huy, tôi nhận định vị trí
rồi làm cái "point" đầu tiên của một sĩ quan hải hành,
sau đó kiểm tra lại sổ hải hành, đọc lướt qua những
diễn biến được ghi lại trong đêm. Một hạ sĩ quan giám
lộ đang cầm bút sẵn sàng ghi chép vào đó những mệnh
lệnh của Hạm trưởng, những báo cáo của pḥng CIC,
pḥng truyền tin cùng những diễn biến quan trọng xảy
ra. Công việc bận rộn với những hoạt cảnh trước mắt đă
hoàn toàn xoá tan trong tôi cái cảm giác trống không
trong pḥng ăn, nỗi lo sợ và cái lạnh trong pḥng họp.
Cũng như mọi người, tôi hoà nhập vào nhiệm vụ, vào đám
đông, bỏ quên ḿnh để trở thành một mắt xích của một
guồng máy đang quay đều.
Trong
ṿng
hơn
một
tiếng
rưỡi
đồng
hồ
sau
đó, hầu như không có ǵ xảy ra cho chiến hạm. Những
báo cáo, chỉ thị cứ tiếp tục được truyền đến và đi.
Tiếng rè rè của máy truyền tin PCR 25 đặt bên cạnh
thỉnh thoảng lại phát ra tiếng nói của những giới chức
thẩm quyền từ các chiến hạm bạn. Cả 2 phân đội cũng
đang chạy ṿng ṿng, chầm chậm quanh khu vực mà ḿnh
trấn thủ, trong khi hai phân đội của địch cũng như
đang được chia ra để thành h́nh từng cặp đối diện.
Riêng tôi, cứ 15 phút lại làm một "point", kiểm soát
sơ qua về những ǵ mà hạ sĩ quan giám lộ đă ghi trong
sổ hải hành.
Khoảng
hơn
9
giờ,
HQ16
nhận
được
lệnh
cùng
với HQ10 yểm trợ cho HQ4 đổ bộ người nhái lên đảo (tôi
không nhớ là đảo nào) bằng cách cả 2 chiếc chúng tôi
làm một cuộc diễn hành hàng dọc nhắm thẳng hai đảo
tiến tới làm như thể chúng tôi sẵn sàng áp sát đảo để
đổ bộ hay tấn công ǵ đó. Có lẽ đây là cái kế "dương
đông kích tây" của Tư lệnh lực lượng, nhờ đó phân tán
được chiến hạm địch và có thể tạo sự chú ư của hai
chiến hạm địch phía dưới để thừa cơ HQ4 đổ bộ. Lệnh
th́ phải thi hành, nhưng riêng tôi nhận xét th́ kế này
không thành công bao nhiêu v́ hai chiến hạm số hiệu
200 của TC ở mặt tây nam sẽ không cần được điều động
lên mặt bắc v́ với lực lượng tương đương, 2 chiếc số
hiệu 300 cũng đủ cầm chân chúng tôi. Tuy nhiên tôi
không rơ bằng cách nào mà sau đó khoảng hơn 30 phút,
HQ4 báo cáo là đă đổ bộ xong toán người nhái lên đảo.
Và từ đó, trên tần số thường lệ của máy PRC 25 lại
vang lên thêm tiếng của một đơn vị bạn đang nằm ngay
trong ḷng địch. Tôi thấy rằng việc đổ bộ thành công
này quả là một kỳ công của HQ4 bởi v́ nó diễn ra trước
mũi của hai chiến hạm TC mà chỉ bằng những chiếc xuồng
đổ bộ được chèo bằng tay. - phía trên, khi chúng tôi
nhận được lệnh tiến về phiá đảo, HQ10 h́nh như có vẻ
chần chừ v́ khoảng cách giữa chúng tôi ngày càng xa và
Hạm Trưởng HQ16 đă nhiều lần thúc dục HQ10 phải chạy
sát nhau hơn. Khi chúng tôi chạy được nửa đường, hai
chiến hạm TC bắt đầu tăng tốc chạy ra ngăn cản. Lúc đó
là gần 10 giờ. Chúng chạy thật nhanh đến phía chúng
tôi rồi lại quay mũi, chạy hàng dọc ngang qua trước
mũi tàu HQ16 để làm thành cái đầu của chữ T mà chúng
tôi là thân chữ T - Và mọi chuyện xảy ra lại giống
chiều hôm qua nếu như HQ16 không ngoan cố cứ tiếp tục
thẳng tiến. Có lẽ thấy rằng khó có thể ngăn cản nổi
chúng tôi mà không xảy ra một vụ đụng tàu bất ngờ và
nguy hiểm, một chiếc đă chủ động chạy ra xa hơn rồi
quay lại với một ṿng rộng hơn để mũi tàu không băng
ngang trước mũi tàu HQ16 mà lại đâm thẳng vào hông
phải chúng tôi với một góc 90ậ. Lúc đó tôi đang đứng
ngay la bàn hữu hạm, tầng dưới là cabin Hạm trưởng,
phía ngoài của cabin là khẩu đại bác 20 ly đôi với hai
nồi đạn đang nằm trên giá và ṇng súng th́ lúc nào
cũng chĩa thẳng vào tàu địch. Tàu địch lúc đó đang
tiến về phía HQ16 với vận tốc 15 gút và vận tốc của
HQ16 chỉ khoảng 6.7 gút. Nh́n chiếc tàu địch đang sừng
sững tiến về phía ḿnh, nhắm đúng vào chỗ ḿnh đang
đứng, trong tôi không c̣n là nỗi lo sợ, không c̣n là
sự hoảng hốt, chỉ thấy như thân ḿnh bay bổng lên, nhẹ
tênh và các phản ứng hầu như chết lặng đi một lúc. Tôi
gh́ mạnh hai tay, nắm vào thành tàu, cố giữ vững thế
đứng và tạo sự b́nh thản trên khuôn mặt như một kẻ
bàng quang đứng nh́n. Khi c̣n cách nhau khoảng 20 mét,
tôi nghe tiếng Hạm trưởng : "Lấy hết tay lái bên
trái". và tôi cũng đoán rằng tàu địch cũng đang lấy
hết tay laí bên phải, nên khi hai chiếc chạm nhau, mũi
tàu địch đâm vào một góc rất nhỏ, quệt dài theo hông
bên phải cho đến mũi tàu. Hai chiếc song song chạy như
đang cập vào nhau và tôi có cảm giác nếu như tôi đưa
bàn tay ra là có thể với tới một bàn tay cũng đưa ra
từ bên tàu địch. Mũi nhọn của chiếc neo hữu hạm HQ16
móc vào bè đào thoát của địch làm nó rơi xuống biển.
Tôi nghe một cái rùng ḿnh nhẹ của HQ16 nhưng tàu địch
th́ cḥng chành như có sóng lớn làm một tên - h́nh như
sĩ quan - té nghiêng vào thành tàu, c̣n một tay đầu
bếp té ngửa đưa bốn vó lên trời khi đang ṃ ra boong
chính. Hai tay y lúc đó đang bưng một rổ cà chua -
Cùng với người, những trái cà chua đỏ mọng rớt xuống
lăn long lóc trên sàn. Khi hai tàu hoàn toàn tách
nhau, không hiểu sao tên sĩ quan bị té lại rút súng
ngắn ra chĩa lên trời bắn một phát. Cái đụng chạm bất
thần và ngắn ngủi dường như làm cả tàu ngơ ngẩn bàng
hoàng như vừa trải qua một cơn ác mộng - Chúng tôi
cũng không hiểu sao các xạ thủ vẫn b́nh thản nh́n sự
việc xảy ra mà không hoảng hốt bóp c̣. Chỉ một sự sai
sót xảy ra, cả một chiến hạm địch sẽ hứng nguyên cả
nhiều tràng đại bác 20 ly, mà không những cuộc chiến
mở màn một cách đẫm máu và chúng tôi ở đài chỉ huy chỉ
cách có 2 mét cũng không tránh được thương vong.
Biến
cố
qua
đi,
tôi
mới
định
thần
và
trở về với công việc. Sau đó HQ16 và HQ10 quay mũi trở
về hướng bắc v́ đă nhận được tin toán đổ bộ người nhái
đă hoàn toàn xâm nhập đảo qua máy CR 25. Những tiếng
báo cáo của họ về t́nh h́nh trên đảo nghe rơ mồn một.
Đại khái là TC đă xây dựng trên đó những công sự pḥng
thủ kiên cố và một đài quan sát, được bảo vệ bởi gần
một tiểu đoàn quân trú đóng. Toán đổ bộ cũng yêu cầu
Tư lệnh LLDN cho phép được thay đổi kế hoạch để họ có
thể xử dụng hoả lực để chiếm đảo. Họ cũng e sợ rằng
việc tránh xử dụng hoả lực có thể làm cho họ hoàn toàn
bị bắt sống bởi một quân số địch vượt trội khi họ tiến
vào. Cho đến lúc này t́nh thế đă có vẻ gay go v́ mục
đích của cuộc hành quân sẽ không đạt được nếu không nổ
súng. Nhưng nếu thế th́ mọi chiến hạm đều phải nhập
cuộc và một cuộc hải chiến khốc liệt sẽ mở màn, rất
trái với tinh thần của lệnh hành quân. Vả chăng, việc
khai chiến sẽ không nằm trong thẩm quyền của một vị Tư
lệnh chiến dịch, cũng không hẳn ở một vị Đô Đốc Tư
lệnh Hải quân, mà chắc chắn phải xuất phát từ vị Tư
lệnh tối cao của quân đội.
Vậy
mà,
chỉ
chừng
chưa
đầy
10
phút
sau
đó, chúng tôi nhận được lệnh của vị Tư lệnh / LLĐN yêu
cầu HQ16 và HQ10 chuẩn bị để tác xạ lên đảo để yểm trợ
cho toán người nhái đang bắt đầu tiến vào. Trong khi
đó HQ4 và HQ5 sẽ tác xạ trực tiếp vào tàu địch. Tôi
nhận thấy rằng hiện tại nếu cuộc chiến xảy ra, t́nh
thế đă chia làm 2 khu vực rơ rệt. HQ16 và HQ10 đang ở
mặt tây Bắc của đảo, đang đối đầu với hai chiến hạm
địch hiệu số 300. - mặt tây nam, HQ4 và HQ5 trực diện
với hai chiến hạm khác. Khoảng cách giữa 4 chiến hạm
VNCH có lẽ c̣n xa hơn 10 hải lư. Nếu chúng tôi, HQ16
và HQ10, chỉ chú tâm bắn lên đảo, hai chiến hạm 300 sẽ
dễ dàng làm thịt chúng tôi. Và chúng tôi sẽ trở thành
tấm bia cho chúng tập bắn. Với khoảng cách như vậy HQ4
và HQ5 đâu đủ sức để yểm trợ ḿnh, đó là chưa kể họ
c̣n phải lo liệu kẻ thù trước mặt, chưa chắc đă làm ǵ
được chúng. Ngoài ra, c̣n cần phải có một tầm nh́n
rộng răi hơn để thấy rằng, với một trận chiến giữa
biển khơi, ai làm chủ mặt biển, kẻ đó sẽ làm chủ đất
liền. Sá ǵ một tiểu đoàn quân trú đóng chỉ được trang
bị súng cầm tay nếu 4 cái gai trước mắt đă được thanh
toán xong ? Ư nghĩ đó của tôi tức thời được tŕnh bày
lên Hạm trưởng và ông rất đồng ư. Sau đó ông trao đổi
với Đại tá Ngạc để xin cho HQ16 và HQ10 được đánh phủ
đầu 2 chiến hạm địch. Ông không đồng ư lúc đầu và tôi
v́ bận công việc không nghe rơ ư kiến phản bác của
ông. Hạm trưởng vẫn không chịu và cuộc mặc cả dài đến
hơn 5 phút rồi đi đến một biện pháp dung hoà. HQ10 tác
xạ lên đảo và HQ16 sẽ tác xạ yểm trợ, bắn vào chiếc
nào gần nhất. Đây rơ ràng chưa phải là giải pháp tối
ưu nhưng trước mệnh lệnh của cấp trên, chúng tôi phải
thi hành. Và, tiếng súng của HQ10 trở thành tiếng súng
lệnh để các chiến hạm bắt đầu cuộc hải chiến. Để có
thể dễ dàng nổ súng, HQ10 từ sau lái tách qua bên phải
để hai chiếc chạy song song hướng mũi về 2 đảo, nếu
khi nào cảm thấy thuận tiện là HQ10 sẽ khai hoả. Trong
khi đó, toán người nhái trên đảo đă báo cáo là có xung
đột với địch và sau nhiều lần yêu cầu cho nổ súng, họ
báo cáo là có một sĩ quan người nhái bị giết. Không
thể chần chờ được nữa, Tư lệnh lực lượng hối thúc HQ
10 nổ súng ngay.
Tất
cả
mọi
người
trên
đài
chỉ
huy
đều
tập trung chú ư vào HQ10 chờ lệnh khai hoả và tất cả
các ổ trọng pháo trước mũi cũng như bên hữu hạm đều
nhắm vào chiến hạm địch gần nhất, cách chúng tôi
khoảng hơn 2 hải lư. Sau một tiếng nổ ầm từ khẩu 76.2
ly của HQ10 và tiếng la của Hạm trưởng "tác xạ", cả
chiến hạm như bị giật lùi v́ tiếng khai hoả của đại
pháo 127 ly. Những người trên đài chỉ huy chú tâm đến
nỗi ai cũng có cảm tưởng ḿnh nh́n thấy được đường đi
của viên đại bác đầu tiên. Rồi tiếng nổ dồn dập của
khẩu đại bác 40 ly đôi trước mũi và khẩu 40 ly đơn sau
lái hữu hạm, cùng với tiếng nổ liên hồi của đại bác 20
ly làm thành một hoà âm khó tả. Khói thuốc súng từ
trước mũi, sau lái, boong trên phía sau và ngay đài
chỉ huy phía dưới bay lên làm mờ cả một vùng trời trên
chiến hạm. Ngửi mùi khói đang bay ấy, con người ḿnh
như được kích thích bởi một cái ǵ, hăng hái hơn,
nhanh nhạy hơn, can đảm hơn. Những tiếng nổ đinh tai
nhức óc vang rền khắp chốn cũng tạo thêm một niềm tin
mới, niềm tin của sự chiến thắng.
Từ
lỗ tṛn của ổ đại bác 127 ly trước mũi, Trung Uư Ất đă
đứng hẳn người lên, nhô cả thân ḿnh lên trên ụ súng
để tận mắt chứng kiến kết quả của những viên đạn đang
nổ, điều chỉnh những sai sót. Tiếng oang oang thường
ngày của Ất được dịp phát ra từ đó mà ở đài chỉ huy
chúng tôi nghe được : "Lên hai độ", "xuống một độ",
"bên phải", "bên trái một chút". Cả đài chỉ huy cùng
chăm chú theo dơi từng viên đại pháo nổ xung quanh tàu
địch, bỗng ồ lên như ong vỡ tổ : "Trúng rồi" Tôi nh́n
lên, chếch về phía bên phải mũi tàu, một chiến hạm
địch đang bốc khói. Có lẽ đó là khói của viên đạn nổ
tung ngay đài chỉ huy v́ sau đó, dường như hoạt động
của tàu này có phần chậm lại - Tôi nh́n ra xung quanh
chiến hạm ḿnh, hàng trăm viên đạn nổ lơm chỏm giữa
nước. Phía trước, phía sau, tả hạm, hữu hạm. Đạn nổ
đều khắp làm tôi mường tượng như đang ở giữa một trận
mưa đá khổng lồ. Nhưng sao chiến hạm vẫn b́nh yên vô
sự như có một sự che chở thiêng liêng nào ? Tôi bỗng
nh́n lại về phía trước, khẩu đại bác 40 ly đôi đang
chĩa mũi lên trời mà nhả đạn liên tiếp. Tôi chỉ tay
cho Hạm trưởng, rồi như một phản ứng kỳ diệu, tôi chạy
xuống hai lần cầu thang ngoài trời, hấp tấp leo lên
cạnh xạ thủ chiều cao. Tôi dựng đầu anh ta dậy, không
nói ǵ cả, chỉ cho anh ta thấy tàu địch, bắt hạ mũi
súng xuống và nh́n thẳng vào lỗ nhắm. Anh ta quay lại
nh́n tôi rồi làm theo lệnh. Tôi an tâm chạy ngựơc trở
lại đài chỉ huy giữa lúc cuộc bắn giết đang diễn ra
sôi động và khốc liệt giữa tiếng pháo nổ ầm ầm. Trên
đó, ai vẫn làm công việc của người đó, một cách b́nh
thản. Bỗng tôi nh́n thấy HQ10 đang nằm b́nh yên giữa
biển khơi cách HQ16 khoảng một hải lư bên hữu hạm.
Nhấp nhô giữa biển là một vài đốm nhỏ như những tấm
ván nổi lềnh bềnh. Chúng tôi đoán rằng HQ10 đă đào
thoát nhưng không rơ lư do v́ không nghe tiếng báo cáo
nào về t́nh trạng của tàu. Chỉ biết thế mà không c̣n
th́ giờ thắc mắc bởi sự chú tâm độc nhất của ḿnh bây
giờ là chiến đấu trong khi không c̣n khả năng nào để
cứu vớt đồng đội. Rồi giọng anh truyền tin nội bộ báo
cáo : Tŕnh Hạm trưởng, kho đạn 127 ly trước mũi bị
thủng một lỗ.
-
Nước có vào kho không ?
Anh
liên
lạc
lặp
lại
câu
hỏi
cho
sân
mũi, rồi trả lời :
- Có, nhưng ít thôi. Chỉ khi nào mũi tàu chúi xuống
th́ nước có vào chút đỉnh.
- Cô lập pḥng đó lại.
Không
biết
bao
lâu
sau
đó,
giữa
khói
đạn
mịt
mù, tiếng báo cáo từ hầm máy vang lên qua máy phóng
thanh, có vẻ hốt hoảng :
- Hầm máy tả hạm bị thủng một lỗ lớn, nước vào rất
mạnh. Tiếng Hạm Trưởng :
- C̣n ǵ nữa không, báo cáo.
- Một máy điện bị phá huỷ, Trung Sĩ điện khí Xuân bị
trọng thương.
- Gọi y tá đem lên băng bó gấp.
Ngừng
một
lát
:
- Toàn hầm máy chỗ nào cũng bị điện giật cả. Tất cả
đều đă rời khỏi hầm ... báo cáo Hạm trưởng, tàu sắp
ch́m.
Nghe
lời
báo
cáo
sau
cùng,
cả
đài
chỉ
huy lặng đi một phút, và cùng nhận thấy tàu hơi
nghiêng về phía tả hạm, rồi t́nh trạng nghiêng càng
ngày càng lớn. Hạm Trưởng ra lệnh lấy hết tay lái qua
trái, làm một ṿng để quay ngược tàu chạy về hướng bắc
để rời xa vùng chiến trận. Các ổ trọng pháo 40 ly sau
lái bây giờ được tăng cường hoạt động ở cả hai phía.
Đồng thời, ông chụp vội lấy micro và ra lệnh : "Tất cả
chiến hạm vào nhiệm sở đào thoát :. Ông lặp lại 3, 4
lần câu nói rồi đến bên tay lái, điều khiển tàu thay
nhân viên lái đi vào nhiệm sở của ḿnh - Tiếng chân
rầm rập mọi nơi vang lên có vẻ nhanh hơn lúc có c̣i
nhiệm sở tác chiến buổi sáng. Đài chỉ huy trong một
phút bỗng vắng tanh vắng ngắt. Tôi chợt nhớ lại số
tiền 100 ngàn đồng của bà mợ ở Đà Nẵng nhờ đem vào cho
chú em đang theo học đại học ở Sài G̣n. Tôi chạy thật
vội về pḥng, nhưng đừơng cầu thang tối thui. Tàu lại
nghiêng khá lớn nên việc di chuyển càng khó khăn thêm.
Ṃ mẫm số tiền để trong tủ không khoá, lấy thêm 1 gói
Bastos, tất cả đút váo áo phía dưới bụng, tôi chạy
ngược lên đài chỉ huy mà ḷng bỗng thấy sợ v́ sự dại
dột của ḿnh v́ tôi đang liên tưởng đến cái chết của
một người bạn cùng khoá trên HQ 225 ở Năm Căn vào năm
nào.
Trên
đó,
Hạm
trưởng
đang
nặng
nhọc
lái
tàu,
bên
cạnh
là Đoàn Viết Ất. Cả hai không nói ǵ. Nh́n cái dáng
cao gầy của ông đứng trước tay lái trong khung cảnh
vắng lặng của đài chỉ huy, tôi như cảm thấy hết nỗi cô
đơn của ông, của một Hạm trưởng đang trong t́nh trạng
tuyệt vọng ; nhưng trên nét mặt phong trần và đôi mắt
đăm chiêu vẫn chứng tỏ nét kiêu hùng. Dáng đứng chơ vơ
đó gây cho tôi một ấn tượng rơ nét và cho đến bây giờ,
trong tôi vẫn dấy lên một niềm đồng cảm, mến phục. Đó
là dáng đứng mang đầy vẻ hănh diện một cách đau
thương, ngạo nghễ một cách lưu luyến, và chấp nhận một
cách đàng hoàng. Đó là dáng đứng mang vẻ tự trọng và
kiêu hănh của một Hạm trưởng, của một sĩ quan ngành
chỉ huy đă được vinh dự mang trên ngực bánh xe vận
chuyển với hàng chữ : "Matre post deum" (Hàng chữ này
có thể viết sai, ai biết xin sửa lại) ; đă được tôi
luyện từ quân trường, từ 10 năm lặn lộn trên biển cả,
từ hải quy và tập quán hải quân. Nó đă thấm vào tim,
vào óc, vào máu, vào thịt, vào từng tế bào. Nó luân
lưu trong huyết quản, nó hằn sâu trong tiềm thức, nó
trộn lẫn trong ư nghĩ và cuối cùng thể hiện trong dáng
đứng chơ vơ, cô độc nhưng vững chăi như bức tượng
đồng.
Từ
dưới cầu thang, bên trái bỗng chui lên một sĩ quan,
Đại uư Hiệp, cơ khí trưởng của chiến hạm. Ông chào Hạm
trưởng rồi nói :
- Tại sao Hạm trưởng lại cho nhiệm sở đào thoát ? Hầm
máy tả hạm bị ngập nhưng tôi đă đích thân khoá kín,
tàu vẫn c̣n chạy được mặc dù là chỉ một chân.
- Th́ chính anh cho người báo cáo là tàu sắp ch́m !
- Đâu có, tôi chỉ nói là nước vào rất nhanh và t́nh
trạng rất nguy hiểm. Đó là v́ điện giật lung tung làm
toàn nhân viên hầm máy phải chạy tán loạn.
Đôi
mắt
Hạm
Trưởng
sáng
lên,
nét
vui
mừng
thể
hiện qua từng lời khi ông nói vào micro : "Giải tán
nhiệm sở đào thoát, giải tán nhiệm sở đào thoát".
Cho
đến
bấy
giờ,
tàu
đă
chạy
về
đến
gần đảo Pattle, cách chiến hạm địch chừng 5, 6 hải lư
và chúng cũng không đuổi theo. Tôi nh́n lại vùng chiến
trận một lần cuối khi cảm thấy tàu đă khá an toàn. Tít
mù xa, HQ4 và HQ5 đang là hai nét mờ mờ ẩn hiện dưới
làn hơi nước bốc lên do cái nóng của mặt trời làm nḥe
nhoẹt h́nh ảnh. Có lẽ họ đă rời xa tàu địch từ khá lâu
rồi. Gần hơn là HQ10 vẫn b́nh yên nằm như trong t́nh
trạng thả trôi trong một vùng nước lặng gió, và bên
cạnh, một chiếc tàu TC cũng trong t́nh trạng tương tự
nằm song song bên nhau như đôi bạn đời tri kỷ chưa có
một lần thù hận. Nghĩa là nhân viên của cả hai chiếc
đă đào thoát khỏi tàu hay một số khá đông đă chết.
HQ
16 cũng đang trong t́nh trạng bi đát. V́ một hầm máy
chủ lực ở tả hạm đă bị ngập làm bất khiển dụng 2 máy
chính, 2 máy điện độc nhất c̣n lại, và cũng một máy ép
gió độc nhất c̣n lại. Tàu đă mất điện hoàn toàn. Cả
chiếc tàu trở thành một hầm tối như trong một hang
động hoang sơ nào đó. Thỉnh thoảng một vài tia sáng
của đèn pin quét qua quét lại ḍ đường của một nhân
viên đang đi làm việc. Radar ngừng chạy, mất liên lạc
truyền tin với các đơn vị bạn làm cho HQ4, HQ5 và Bộ
Tư lệnh Hải quân vùng I cứ ngỡ rằng HQ16 cũng đă đào
thoát hay ch́m sâu dưới ḷng đại dương. La bàn điện
mất điện nên tàu phải xử dụng la bàn từ như một chiến
thuyền nào đó có từ thế kỷ thứ 18 về trước. Khó khăn
nhất cho tàu vẫn là tay lái điện. Tàu hiện tại chỉ
chạy với một chân nên nếu có đủ tay lái điện, việc lái
tàu cũng đă là một khó khăn nhất là khi vượt qua giữa
vùng san hô bao bọc quanh đảo. Vậy mà bánh lái tại đài
chỉ huy không hoạt động nên chiến hạm phải điều động
những nhân viên to con khỏe mạnh xuống hầm bánh lái để
trực tiếp quay bằng tay cái bánh lái khổng lồ. Thế cho
nên đường đi của tàu không phải là một đường thẳng,
nhưng là một đường chữ chi ngoằn nghèo như h́nh con
rắn. Nh́n dăy bọt nước uốn lượn phía sau đuôi tàu,
người giàu tưởng tượng sẽ ví chiếc tàu như một vũ nữ
đang uốn éo thân ḿnh trong một bản boléro lả lướt.
Một tin buồn chợt đến khi chúng tôi ở đài chỉ huy đang
chăm chú theo dơi Hạm trưởng đích thân lái tàu rời
khỏi eo biển nguy hiểm và các nhân viên cơ điện khí
của Đại uư Hiệp đang tận t́nh sửa chữa 1 trong 2 máy
điện của hầm máy hữu hạm : Đó là tin Trung Sĩ điện khí
Xuân từ trần v́ cánh tay phải đứt mất làm mất máu quá
nhiều. Anh đă được Trung Uư Bính và các y tá vuốt mắt
cùng đọc kinh cầu nguyện cho anh dù không rơ anh theo
tôn giáo nào. Trung Sĩ Xuân là chiến sĩ đầu tiên của
HQ16 hy sinh cho sự độc lập và sự bảo vệ chủ quyền của
tổ quốc. Đây là niềm đau chung cho cả tàu nhưng có lẽ
niềm ân hận nhất cho cả tàu là việc bỏ lại 15 đồng đội
trên đảo Robert mà không có cách ǵ đưa về được. Đó
không phải v́ TC đánh đàng sau mà chỉ v́ tàu không thể
ngừng được do việc máy ép gió hữu hạm hư từ lâu mà máy
bên tả hạm th́ đang uống đầy nước. Nếu ngừng, tàu sẽ
ngừng hẳn và sẽ làm mồi cho TC v́ không c̣n đủ gió để
khởi động. Thế cho nên sau khi lái ra khỏi vùng biển
của Hoàng Sa và giao cho các sĩ quan trưởng phiên tiếp
tục tiến về đất liền, Hạm trưởng đă dùng máy PRC 25 -
Máy truyền tin độc nhất c̣n hoạt động. - để liên lạc
và nói chuyện với Trung Uư Liêm trên đảo. Sau khi
thông báo t́nh h́nh bất khả kháng của chiến hạm, ông
đă động viên anh em hăy dùng bè đào thoát, cố gắng
vượt ra khỏi vùng trước khi TC tới chiếm, đồng thời
yêu cầu mọi người thông cảm cho sự bất lực của ông.
Giữa hai sự chọn lựa ; ông phải đưa cả trăm người trở
về an toàn. Càng nói, trông ông càng đau đớn và khi
nh́n đôi mắt đỏ hoe của ông, chúng tôi đă vội quay đi
để cầm giữ những giọt nước mắt khỏi trào ra hai bên
khoé.
Đến
khoảng
5
giờ
chiều,
một
máy
điện
đă
được sửa chữa xong. Cả tàu vỗ tay reo ḥ khi ánh sáng
tràn ngập chiến hạm, như ánh sáng đă lấp loé trong
ḷng chúng tôi một hy vọng được trở về khi tàu vượt
qua khỏi eo biển nguy hiểm đó. Tin tức HQ16 xuất hiện
qua máy truyền tin cũng đă được toàn Bộ Tư lệnh Hải
quân vùng I Duyên hải đón chào một như chiến thắng.
Đào Dân, Lên Lưới 19/01/2008
Nguồn:
http://www.congdongnguoiviet.fr
Ngụy Văn Thà
Kính
dâng
người
anh
hùng
Ngụy
văn
Thà
Hơn ba mươi năm từ ngày tuẫn tiét
Linh hồn anh có lẽ vẫn c̣n đây
Nơi đảo xa với gió mạnh sóng dầy
Anh đă chết mà ḷng đầy uất hận
Tôi biết thế v́ ngày anh tử trận
Thấy thù ngoài và thấy cả giặc trong
Nỗi đắng cay anh có giữ trong ḷng
Khi có kẻ dâng quê ḿnh cho giặc
Đời Trần xưa có kẻ hèn Ích Tắc
Thời của anh có gă Phạm văn Đồng
Bạch Đằng xưa nay lại có biển Đông
Kẻ thù cũ và tṛ đời cũng cũ
Nơi đảo hoang nay mây mù vần vũ
Vắng bóng anh nên giặc lại về đây
Bọn người kia cúi mặt trước quan thầy
Quân bán nước mà xưng ḿnh Ái Quốc!
Caubay
San Diego, Dec 12, 2007
Nguồn: http://www.vantuyen.net
Hào
Quang cho Ngụy Văn Thà
Tác
Giả: Ngọc Giao Nguyễn Đ́nh Nhạc
Anh
Thà, Ngụy Văn Thà!
Được hung tin như tóe lửa tại Hoàng Sa,
Tàu địch đắm mà tàu anh cũng đắm.
Trong băo lửa, máu biển khơi anh đỏ thắm.
Chết theo tàu, ôi hạm trưởng, ôi anh ơi.
Được tin anh như xé ruột nói không lời.
Khi tỉnh dậy mới chắc anh theo Thánh Tổ!
Em
quá khổ, lụy tràn nḥe áo sổ,
Thi hài đâu để nước mắt em lau?
Thi hài đâu để con trẻ lạy lần sau?
Để nghe ngóng, anh nói ǵ phải trả?
Để chiêm bái, hận thù em quyết trả,
Diệt Tàu ô, Tàu cộng mới hả gan!
Rượt đuổi về như chó chạy đến Hải Nam,
Cho khiếp đảm đảo Hoàng Sa dũng cảm!
Em
qủa phụ: Ngụy văn Thà; thê thảm,
Tuổi c̣n xanh mới được số ba mươi,
Mới cùng nhau, tay nắm chửa buông lơi,
Mới hỏi vặn, nụ ai cười trên áo trắng?
Mới cù lét, cơng con ḅ đi tắm,
Mới kinh nghi, nhẹ hỏi: kính thưa anh,
Sao đăm đăm, nét giận phá tan thành?
Anh không nói, bây giờ anh mới nói!
Thảo nào lúc trước khi vào một cơi,
Tráng sĩ khứ hề, bất phục hoàn!
Treo gươm đại sảnh, nét hân hoan,
Anh đi hải chiến không cần kiếm,
Bắn nát Tàu ô giữ đảo Hoàng.
Giờ
đây đáy biển đảo Hoàng Sa,
Em xuống cùng anh, sống một nhà,
Thủy lộ xem chừng em biết lắm,
Em đem ba trẻ để gần cha!
Anh
Thà, Anh hỡi, Ngụy văn Thà,
Tỉnh dậy em buồn nhỏ lệ sa,
Tượng đá là em, tay dắt trẻ,
Vọng phu em gọi, bớ Hoàng Sa!
Anh
Thà, Anh hỡi, Ngụy Văn Thà,
Đáy biển trồi lên, trẻ gặp cha,
"Quả phụ" em quăng tṛng biển Bắc
"Vọng phu" em thả, giữ Hoàng Sa!
Anh
Thà, trả kiếm, hỡi anh Thà!
Biển động, tàu Mao sắp sửa ra,
Nhựt Tảo sửa chưa mau nổi lại,
Bắn tan hạm giặc đoạt Hoàng Sa!
Ngọc Giao Nguyễn Đ́nh
Nhạc
Tân Hiệp ngày 9 tháng 2 năm 1974
"
Cuối hàng thế kỷ thứ hai mươi,
Chống
giữ Hoàng Sa có lắm người ..."
Nguồn:
http://www.vantuyen.net
"Tổ Quốc Đại Dương" quyết
bảo vệ
V́ nước, quên ḿnh:
Bậc anh hùng
Tinh thần bất khuất và
hào hùng của anh hùng Ngụy
Văn Thà và những chiến sỹ Hải
Quân Việt Nam Cộng Ḥa tham chiến bảo vệ Hoàng Sa
bất diệt.
Trang mạng Việt Nam Văn
Hiến
Trang
: Hải Chiến Hoàng Sa
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email:
thuky@vietnamvanhien.net
Trang mạng Việt Nam Văn
Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc. Thắp
sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến hầu phục
hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.
|