Việt
Nam Văn Hiến
Năm
Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
Hịch Tướng Sĩ
Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn
Đức Hưng Đạo Vương
Ta
thường nghe: Kỷ Tín đem
mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa
lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt
than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay
để cứu nạn cho nước. Kính Đức một chàng tuổi trẻ,
thân phò Thái Tông thoát khỏi
vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa,
miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa
các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời
nào chẳng có ? Ví thử mấy người đó cứ khư
khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết
hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách
cùng trời đất muôn đời bất hủ được ?
Các ngươi vốn
dòng võ tướng, không hiểu văn
nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước
hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên
mà nói: Vương Công Kiên là người thế
nào ? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người
thế nào ? Vậy mà đem thành Điếu Ngư nhỏ tày
cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm
vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn
sâu ! Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào ?
Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế
nào ? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa
xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong
khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát
đến nay còn lưu tiếng tốt !
Huống chi, ta
cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc,
lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại
nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều
mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê
chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà
đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn
cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc
vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác
nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi
tai họa về sau.
Ta thường tới bữa
quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như
cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn
gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta
phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa,
cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở
lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền,
không có mặc thì ta cho áo; không
có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước;
lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho
thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì
cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng
nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng,
Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có
kém gì?
Nay các ngươi
ngồi nhìn chủ nhục mà không
biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn.
Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà
không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ
ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi
gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm
thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia
đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ.
Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc
nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc
quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê
giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát
tràn sang thì cựa gà trống không đủ
đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không
đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều
không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con
bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của
dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay
không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon
không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt
không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa
tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng
nào ! Chẳng những thái ấp của ta không còn
mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác;
chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi
cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông
ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha
ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng
những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng
nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh
các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại
trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa
thích, phỏng có được chăng ?
Nay ta bảo thật
các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới
đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh
nóng mà thổi rau nguội" làm sợ. Phải huấn luyện
quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như
Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ,
có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm
rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhaị Như thế chẳng những thái
ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các
ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm
êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi
sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói
nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn
mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này
thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau
còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai
một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu
truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui
chơi, phỏng có được không ?
Nay ta chọn lọc binh
pháp các nhà hợp thành
một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết
chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo,
thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách
này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là
nghịch thù.
Vì sao vậy ?
Giặc Mông Thát với ta là kẻ
thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ
điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung,
lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay
mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không
mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên
nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi
nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa ?
Cho nên ta viết
bài hịch này để các ngươi
hiểu rõ bụng ta.
Huệ Chi
Chú
thích
Kỷ Tín: tướng của Hán Cao Tổ Lưu Bang. Khi Lưu Bang bị
Hạng Vũ vây ở Huỳnh Dương, Kỷ Tín giả làm
Hán Cao Tổ ra hàng, bị Hạng Vũ thiêu chết.
Hán Cao Tổ nhờ thế mới thoát được.
Do Vu: tướng của Sở Chiêu Vương thời Xuân Thu. Theo Tả
Truyện, Sở Chiêu Vương bị nước Ngô đánh phải
lánh sang phương Đông, một đêm bị cướp vây
đánh. Do Vu đã chìa lưng ra đỡ giáo cho vua
mình.
Dự Nhượng: gia thần của Trí Bá thời Chiến Quốc.
Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết, Dự Nhượng bèn nuốt
than cho khác giọng đi, giả làm hành khất, mưu
giết Tương Tử để báo thù cho chủ.
Thân Khoái: quan giữ ao cá của Tề Trang Công
thời Xuân Thu. Trang Công bị Thôi Trữ giết,
Thân Khoái bèn chết theo chủ.
Kính Đức: tức Uất Trì Cung đời Đường. Khi Đường
Thái Tông (bấy giờ còn là Tần Vương
Lý Thế Dân) bị Vương Thế Sung vây, ông
đã lấy mình che chở, hộ vệ cho Thái Tông
chạy thoát.
Cảo Khanh: họ Nhan, một bề tôi trung của nhà Đường. Khi An
Lộc Sơn nổi loạn, đánh đuổi Đường Huyền Tông và
Dương Quý Phi, ông đã cả gan chưởi mắng An Lộc Sơn
và bị cắt lưỡi.
Vương Công Kiên: tướng tài nhà Tống, giữ Hợp
Châu, lãnh đạo quân dân Tống cầm cự với
quân Mông Cổ do Mông Kha chỉ huy ở núi Điếu
Ngư suốt bốn tháng trời. Mông Kha cuối cùng bị loạn
tên chết, quân Mông Cổ đành phải rút
lui.
Điếu Ngư: tên ngọn núi hiểm trở ở Tứ Xuyên, ba mặt
nhìn xuống sông. Đời Tống, Dư Giới đắp thành ở
đó.
Mông Kha: tức Mongka, anh của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt,
làm Đại Hãn Mông Cổ từ năm 1251. Mông Kha
trực tiếp chỉ huy cuộc viễn chinh sang Trung Quốc và các
nước phía Đông. Ông bị tử trận năm 1259 dưới
chân thành Điếu Ngư trong cuộc vây hãm đội
quân Tống do Vương Công Kiên chỉ huy.
Cốt Đãi Ngột Lang: tức Uriyangqadai, tướng giỏi của Mông
Cổ, con của viên tướng nổi tiếng Subutai. Cốt Đãi Ngột
Lang nhận lệnh của Mông Kha, cùng Hốt Tất Liệt đánh
chiếm nước Nam Chiếu. Cốt Đãi Ngột Lang cũng là
viên tướng chỉ huy đạo quân Mông Cổ xâm lược
Đại Việt lần thứ nhất (1258).
Xích Tu Tư: chép Xích theo Hoàng Việt Văn
Tuyển. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép Cân. Hai
chữ gần giống nhau, không biết quyển nào chép nhầm.
Hiện nay, chưa có tài liệu nào nói
gì về viên tướng này, và việc khôi
phục lại tên Mông Cổ từ Hán tự cũng không phải
là chuyện đơn giản.
Nam Chiếu: nước nhỏ nằm ở khoảng giữa tỉnh Tứ Xuyên và
Vân Nam ngày nay; thủ đô là Đại Lý,
thuộc Vân Nam.
Hốt Tất Liệt: tức Qubilai, em ruột và là tướng của
Mông Kha. Sau khi Mông Kha tử trận ở Điếu Ngư, Hốt Tất Liệt
tự xưng làm Đại Hãn ở Khai Bình, khiến xảy ra cuộc
nội chiến tranh giành ngôi báu với em ruột
là Ariq-Buka. Năm 1264, Ariq-Buka đầu hàng, Hốt Tất Liệt
bèn dời đô về Yên Kinh (tức Bắc Kinh ngày
nay), xưng Nguyên Thế Tổ, lập nên nhà Nguyên.
Vân Nam Vương: tức Hugaci hay Thoát Hoan, con ruột Hốt Tất
Liệt, được phong làm Vân Nam Vương năm 1267 với nhiệm vụ
khống chế các dân tộc thiểu số vùng này cũng
như mở rộng biên cương nhà Nguyên về phía
Nam. Thoát Hoan là người chỉ huy quân Nguyên
xâm lược Đại Việt lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm
1287-1288.
nghìn thây ta bọc trong da ngựa: điển tích lấy từ
câu nói của viên tướng khét tiếng Mã
Viện đời Hán chép trong Hậu Hán Thư -- Đại trượng
phu dương tử ư cương trường, dĩ mã cách khỏa thi nhĩ. Bậc
đại trượng phu nên chết ở giữa chiến trường, lấy da ngựa
mà bọc thây.
thái thường: tên loại nhạc triều đình dùng
trong những buổi tế lễ quan trọng ở tông miếu. Bấy giờ là
thời kỳ ngoại giao căng thẳng giữa ta và quân
Nguyên, trong những buổi yến tiệc tiếp sứ Nguyên, triều
đình nhà Trần nhiều khi phải buộc dùng đến nhạc
thái thường để mua vui cho sứ giả. Trần Quốc Tuấn xem đó
là một điều nhục nhã.
thái ấp: phần đất vua Trần phong cho các vương hầu.
đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ: từ câu văn trong Hán Thư --
phù bão hỏa, thố chi tích tân chi hạ nhi tẩm
kỳ thượng, hỏa vị cập nhiên nhân vị chi an. Ôm mồi
lửa, đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp
cháy vẫn cho là yên.
kiềng canh nóng mà thổi rau nguội: xuất xứ từ một
câu văn trong Sở Từ -- trừng ư canh nhi xuy tê hề. Người bị
bỏng vì canh nóng, trong lòng đã e sợ sẵn,
dù gặp rau nguội đi nữa, cũng vẫn thổi như thường.
Bàng Mông: danh tướng đời nhà Hạ, có
tài bắn cung trăm phát trăm trúng.
Hậu Nghệ: một nhân vật bắn cung giỏi nữa trong thần thoại Trung
Quốc.
Cảo Nhai: nơi trú ngụ của các vua chư hầu khi vào
chầu vua Hán ở Trường An.
mãi mãi vững bền: nguyên văn chữ Hán
là vĩnh vi thanh chiên. Sách Thế Thuyết chép
chuyện Vương Tử Kính đêm nằm ngủ thấy bọn trộm vào
nhà "sạch sành sanh vét" mọi vật. Ông từ tốn
bảo chúng rằng: cái nệm xanh (thanh chiên)
này là đồ cũ của nhà ta, các ngươi
làm ơn để lại. Tác giả dùng điển tích
này để chỉ những của cải được lưu truyền từ đời này sang
đời khác.
Binh Thư Yếu Lược: tức Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược, nay đã
thất truyền. Tác phẩm với đầu đề tương tự được lưu truyền hiện
nay không phải là văn bản thực thụ, trong đó
có vài đoạn chép các trận đánh thời
Lê Nguyễn sau này.
dẹp yên nghịch tặc: nguyên văn chữ Hán là
bình lỗ chi hậu . Các dịch giả Dương Quảng Hàm,
Trần Trọng Kim đoán Bình Lỗ là tên đất ở
đâu đó vùng Phù Lỗ thuộc tỉnh Vĩnh
Phú ngày nay. Ở đây, chúng tôi theo
Ngô Tất Tố và Phan Kế Bính dịch thoát
là bình định nghịch tặc nói chung.
Hịch Tướng Sĩ
Thể Thơ : Song Thất
Lục Bát
Trong thời quân
Nguyên sang xâm chiếm nước ta, sau
hội nghị quân sự ở Vạn Kiếp để bàn định kế chống giặc
Nguyên, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn viết "hịch" cho phổ biến
trong dân chúng để hiệu triệu các tướng sĩ
và nhân dân hãy cương quyết chống xâm
lăng. Nội dung bài hịch được cử nhân Nguyễn văn
Bình dịch thành lối song thất lục bát như sau:
Xưa Kỷ Tín liều
thân chịu chết,
Cứu Hán Vuơng thoát khỏi Hoàng
Dương
Do Vu cháu Sở Chiêu Vương,
Giơ lưng đỡ giáo tìm đường cứu vua. (4)
Kìa Dự Nhượng thuở xưa người Tấn,
Từng nuốt than lận đận phục thù.
Kìa Thân Khoái một Tể Phu,
Chặt tay theo nạn với thu vua Tề. (8)
Quan nhỏ nhưa Uất Trì Kính Đức,
Giúp Thái Tông khỏi bước
trùng vi.
Cảo Khanh quan ở biên thùy,
Già mồm chửi giặc không hề tiếc
thân. (12)
Bậc nghĩa sĩ trung thần từ trước,
Từng diệt thân cứu nước có nhiều.
Những người kia nếu chẳng liều,
Chết suông như đám nữ lưu xó
nhà. (16)
Còn danh tiếng đâu mà chép
lại,
Cùng kiền khôn truyền mãi
không ngần.
Các ngươi dòng dõi vũ thần,
Xưa này nào có hiểu văn nghĩa
gì. (20)
Nghe câu chuyện bán nghi bán
tin,
Sự muôn năm nhắc đến chi vay ?
Nay ta hãy nói cho hay,
Thử xem Tống, Thát truyện này ra sao ?
(24)
Vương Công Kiên người nào thế
vậy ?
Tướng Nguyễn Văn Lập ấy người nào ?
Điếu ngư thằng bé tẻo teo,
Chống quân Mông Cổ ồn ào trăm
muôn. (28)
Khiến quân Tống thắng luôn mấy trận,
Đến bây giờ dân vẫn hàm
ân.
Ngột Lang là tướng Đốc Quân,
Với Tỳ tướng Xích là nhân phẩm
nào ? (32)
Ngoài muôn dặm quản bao nước độc,
Trong mấy ngày phá rốc quân
Nam.
Lòng vua Thát Đát đã cam,
Đ^'n nay lừng lẫy tiếng thơm nhường nào ? (36)
Ta với ngươi sinh vào đời loạn,
Vừa gặp bao cơn vận hạn gian nan.
Sứ Nguyên lai vãng bao lần,
Mọi nơi đường sá muôn vàn
nôn nao. (40)
Triều đình bị cú diều soi mói,
Tể tướng thì lang sói rẻ khinh.
Mượn oai Hốt Liệt tranh giành,
Lấy bao của báu chưa đành lòng
tham. (44)
Cậy thế chúa Vân Nam nạt nã,
Đòi bạc vàng hết cả kho ta.
Thịt nuôi hùm đói mãi a ?
Sao cho thoát khỏi lo xa sau này. (48)
Ta đây những hàng ngày
quên bữa,
Lúc đêm thâu ngồi dựa gối
kiêu.
Giọt châu tầm tã tuôn trào,
Như nung gan sắt, như bào lòng son. (52)
Chí nhừng muốn moi gan lấy tiết,
Lòng những toan xẻ thịt vằm da.
Dù thân dầu với cỏ hoa,
Dù da ngựa bọc thân đà cũng vui.
(56)
Các người vốn là người môn
thuộc
Được trông nom mọi việc binh cơ,
Áo không, ta cỡi áo cho,
Cơm không, ta sẻ cơm no cho lòng. (60)
Quan nhỏ thì ta phong chức cả,
Lộc ít thì ta trả lương thêm.
Đi sông, ta cấp cho thuyền,
Đi đường, ta cũng lệnh truyền ngựa đi. (64)
Cho cầm quân an nguy cùng lối,
Cho nằm yên, vui nói cùng
hàng.
So Vương Kiên với Ngột Lang,
Đãi chư Tỳ tướng mọi người kém chi. (68)
Nếu vua nhục ngươi thì chẳng đoái,
Mà nước nguy, ngươi lại làm ngơ,
Đừng hầu tướng giặc không dơ,
Nghe ca thết sứ vẫn trơ táo ngồi (72)
Khi gà chọi, khi thời cờ bạc,
Cuộc vui chơi, gỡ gạc đủ trò.
Ruộng vườn muôn sự ấm no,
Vợ con vui thú riêng cho một mình.
(76)
Ham lập nghiệp, quên tình
nhà, nước,
Mãi đi săn, nhác việc ngăn, ngừa.
Rượu chè hôm sớm say sưa,
Hát hay, đàn ngọt sớm trưa thỏa
lòng (80)
Đúng có lúc quân
Mông, Thát tới,
Cựa gà không chọc nỗi áo da,
Những nghề cờ bạc tinh ma,
Phải đâu kế hoạch của nhà cầm quân
? (84)
Ruộng nương nào đủ phần chuộc mạng,
Vợ con nào đủ cáng quân nhu ?
Của đâu chuốc được đầu thù ?
Chó săn đâu đủ sức khua giặc trời ? (88)
Rượu ngon khó làm mồi bã
giặc,
Hát hay không làm điếc tai
thù.
Bây giờ chẳng sót lắm ru ?
Vua tôi bị trói gô một đàn !
(92)
Tước ấp ta bị tan nát cả,
Bổng lộc người cũng chẳng còn gì
Gia đình ta bị đuổi đi,
Vợ ngươi cũng phải đến khi nhục nhằn (96)
Tông xã ta, địch quân
xéo đi,
Phần mộ ngươi cũng bị quật lên.
Đời ta khổ nhục liên miên,
Cái tên nhơ nhuốc lưu truyền mãi
sau ! (100)
Nhà các ngươi cũng đều mang tiếng,
Không khỏi làm những tướng bị thua.
Các ngươi đang lúc bây giờ,
Muốn mong vui thích như xưa được nào ?
(104)
Lời ta nhũ thấp ca ngươi nhớ,
Phải coi nằm trên lửa là nguy.
Kiềng canh đưa cũng thổi xùy,
Luyện quân sĩ tốt tập nghề đao cung. (108)
Khiến ai nấy nức lòng mạnh mẽ,
Sức Bàn Mông, Hậu Nghệ cũng ham.
Bêu đầu Hốt Liệt cho cam,
Phơi luôn thịt chúa Vân Nam
bên đường. (112
Tước ấp ta chăn thường ấm chỗ,
Bổng lộc ngươi hưởng có trọn đời
Gia đình ta được yên vui,
Vợ con ngươi cũng lo đời trăm năm. (116)
Tông miếu ta nghìn năm hương lửa,
Tổ tiên ngươi muôn thuở cương thường,
Ta đây phỉ chí bồng tang,
Các ngươi dường cũng vẻ vang vô
cùng. (120)
Huy hiệu ta tôn sùng mãi
mãi
Tính danh ngươi ghi với sử xanh.
Bấy giờ vui thú linh đình,
Các ngươi đều muốn buồn tênh được
nào ? (124)
Này binh pháp soạn theo đời trước,
Là "Binh Thư Yếu Lược" ban ra,
Các ngươi theo đúng sách ta,
Ấy là thần, chủ một nhà từ xưa. (128)
Nếu bỏ sách thờ ơ lời dạy,
Ấy kẻ thù đã mấy đời nay,
Tại sao mà lại thế vầy ?
Là thù không đội trời này
được chung. (132)
Nếu các ngươi lòng không
biết hổ,
Không coi đều "sát Lỗ" là cần,
Lại không vâng dạy luyện quân,
Ấy là quay giáo, bó thân
quy hàng. (136)
Giặn yên rồi còn mang tiếng
mãi,
Mặt mũi nào đứng với ca cao đây ?
Muốn ngươi hiểu rõ lòng đây,
Vậy nên thảo bức hịch nầy cho nghe. (140)
Nhờ có
bài Hịch trên đây mà quân
Nam đã toàn thắng quân Mông Cổ hết sức vẻ
vang, lưu lại cho hậu thế một kỳ công hiển hách bia truyền
vạn đại.
Nguyên văn :
Dụ Chu Tỳ Tướng
Hịch Văn
Dư thường văn chi: Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát
Cao Đế; Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương. Dự Nhượng thốn
thán nhi phục chủ thù; Thân Khoái đoạn
tí nhi phó quốc nạn. Kính Đức nhất tiểu sinh
dã, thân dực Thái Tông nhi đắc miễn Thế Sung
chi vi; Cảo Khanh nhất viễn thần dã, khẩu mạ Lộc Sơn nhi bất
tòng nghịch tặc chi kế. Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân
tử quốc hà đại vô chi ? Thiết sử sổ tử khu khu vi nhi nữ
tử chi thái, đồ tử dũ hạ, ô năng danh thùy
trúc bạch, dữ thiên địa tương vi bất hủ tai !
Nhữ đẳng thế vi tướng chủng, bất hiểu văn nghĩa, kỳ văn kỳ thuyết, nghi
tín tương bán. Cổ tiên chi sự cô trí
vật luận. Kim dư dĩ Tống, Thát chi sự ngôn chi: Vương
Công Kiên hà nhân dã ? Kỳ tỳ tướng
Nguyễn Văn Lập hựu hà nhân dã ? Dĩ Điếu Ngư tỏa tỏa
đẩu đại chi thành, đương Mông Kha đường đường bách
vạn chi phong, sử Tống chi sinh linh chí kim thụ tứ ! Cốt
Đãi Ngột Lang hà nhân dã ? Kỳ tỳ tướng
Xích Tu Tư hựu hà nhân dã ? Mạo chướng lệ ư
vạn lý chi đồ, quệ Nam Chiếu ư sổ tuần chi khoảnh, sử
Thát chi quân trưởng chí kim lưu danh !
Huống dư dữ nhữ đẳng, sinh ư nhiễu nhương chi thu; trưởng ư gian nan
chi tế. Thiết kiến ngụy sứ vãng lai, đạo đồ bàng ngọ.
Trạo hào ô chi thốn thiệt nhi lăng nhục triều đình;
ủy khuyển dương chi xích khu nhi cứ ngạo tể phụ. Thác Hốt
Tất Liệt chi lệnh nhi sách ngọc bạch, dĩ sự vô dĩ chi tru
cầu; giả Vân Nam Vương chi hiệu nhi khu kim ngân, dĩ kiệt
hữu hạn chi thảng khố. Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ, ninh năng miễn
di hậu hoạn dã tai ?
Dư thường lâm xan vong thực, trung dạ phủ chẩm, thế tứ giao di,
tâm phúc như đảo. Thường dĩ vị năng thực nhục tẩm
bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã. Tuy dư chi bách
thân, cao ư thảo dã; dư chi thiên thi, khỏa ư
mã cách, diệc nguyện vi chi.
Nhữ đẳng cửu cư môn hạ, chưởng ác binh quyền. Vô y
giả tắc ý chi dĩ y; vô thực giả tắc tự chi dĩ thực. Quan
ti giả tắc thiên kỳ tước; lộc bạc giả tắc cấp kỳ bổng. Thủy
hành cấp chu; lục hành cấp mã. Ủy chi dĩ binh tắc
sinh tử đồng kỳ sở vi; tiến chi tại tẩm, tắc tiếu ngữ đồng kỳ sở lạc.
Kỳ thị Công Kiên chi vi thiên tì, Ngột Lang
chi vi phó nhị, diệc vị hạ nhĩ.
Sưu Tầm
|