TỰA
Ngay tự đầu thế kỷ
này nhiều nhà nghiên
cứu đã nhận ra rằng Đông Nam Á có một nền
văn hóa đặc trưng nhưng chưa được tìm hiểu thấu
đáo, và tự đấy đã lác đác xuất hiện
dăm ba công trình liên hệ thuộc khảo cổ, cổ nghệ, cổ
sử học, nhân chủng học… nhưng còn triết lý hay
cái nhìn bao trùm để tìm ra ý nghĩa
thâm sâu thì chưa có và đó
là điều chúng tôi muốn đóng góp phần
nào.
Trong
khi tìm kiến tạo nền triết nói trên xuyên qua
khảo cổ, huyền thoại, xãhội học, thói tục học v.v…
chúng tôi đã nhận ra nguồn gốc các dân
tộc Đông Nam Á lẫn vào với nguồn gốc nước
Tàu. Kết quả là chúng tôi đã
dùng định đề, nguyên lý và tài liệu
của cả Việt lẫn Tàu để kiến tạo một nền triết mới nên về
phương diện nguồn gốc thì tôi gọi là triết Việt
Nho. Nho (hay Khổng giáo) đứng thay cho Tàu một
bên, bên này là Việt.
Chữ
Việt dùng trong bộ sách này không có
ý chỉ Việt Nam, nhưng chỉ cái học mà học giả
Needham (II, 117) gọi là liên đoàn huynh đệ
các dân thổ trước đã cư ngụ trong toàn
cõi nước Tàu trước cả khi người Tàu xét như
là một dân tộc xuất hiện. Liên đoàn
này được người Tàu gọi bằng rất nhiều tên
khác nhau tuỳ từng thời như:
Viêm
tộc, Nhật Chủng,
Tam
Miêu, Cửu Lê,
Man,
Di, Nhung, Địch,
hay
Tứ Di hoặc Cửu Di hay Tứ Hải,
và
nhất là Bách Việt.
Tên
Việt này được dùng cuối cùng cũng như bao gồm
nhiều địa vực và nhóm người như U Việt, Mân Việt,
Bộc Việt, Lạc Việt v.v… nên tôi dùng tên
này để chỉ toàn khối. Đó cũng là theo lối
nhiều học giả. Thí dụ sử gia Eberhard khi kể về sáu trung
tâm văn hóa cổ sơ của Tàu thì có đến
ba được đặt dưới tên Việt (Need I.89).
Tóm
lại Việt chỉ khối rất lớn người thổ trước đã cư ngụ đầu
tiên trên nước Tàu. Đó chính là
những tổ xa xưa của không những các dân tộc hay bộ
lạc ở Đông Nam Á mà còn cả của Nhật Bản, Đại
Hàn, và Tây Tạng, một phần Mãn Châu…
Hơn thế nữa có thể đến 60-70 phần trăm người Tàu cũng
nói được là đều do cùng một gốc nọ. Học giả
H.Maspero nói người Tàu là ngành bắc của
đại khối đó (C.A 17), họ làm nên cái
mà học giả Granet gọi là nước Tàu thôn
xã nó khác xa với nước Tàu thành
thị: Tàu thành thị theo Hán nho, đang khi
Tàu thôn xã theo Việt nho. Đó là nước
Tàu mà học giả H. Maspero bảo có họ hàng
văn hóa (parentés de culture) với các chi tộc miền
Nam như Thái, Lôlô, Mèo, Mường, An Nam… (C.A
15-18).
Đối
với đại gia đình văn hóa đó thì Việt Nam
chỉ là một thành phần, nhưng nhờ hoàn cảnh sử địa
đặc biệt nên gọi được là ngã ba các văn
minh, cũng như có thể coi như nơi ký thác, hoặc
là người kế thừa nền văn hóa của đại gia đình. Do
đấy thiết nghĩ có thể dùng Việt Nam làm khởi điểm
phần nào trên bước đường tìm hiểu nền văn
hóa của đại tộc, vàluôn cả Nho sơ thuỷ nữa.
Đó
là thứ Nho mà tôi cho là trung thực,
nên tôi gọi là Nguyên nho hay Việt nho để
phân biệt với Nho hàn lâm cũng gọi là
Hán nho. Cho tới nay người ta chỉ biết có Hán nho
còn Việt nho đã lu mờ hẳn. Nay muốn tìm ra
nguyên nho nọ tất phải tìm hiểu Việt như nguồn cội. Điều
này chưa được các học giả chú tâm, và
đó là điểm chúng tôi muốn góp phần
nào ở đây.
Tôi
xin nói rõ: chúng tôi chuyên về triết,
vì thế những suy tư triết là phần chính,
còn việc sưu khảo là tuỳ hay nói đúng hơn
chúng tôi chỉ dùng những dữ kiện đã được
các nhà chuyên môn sưu khảo sẵn làm
như phương tiện để trình bày triết lý an vi của
tôi, do đấy đem lại cho những dự kiện được dùng một
ý nghĩa mới mà tôi nghĩ là trung thực hơn
với tinh thần của toàn khối gọi là Việt nho… Như vậy
chúng tôi không là nhà sưu khảo,
có chăng là đã gián tiếp gợi ra một hướng
mới về sưu khảo. Và lúc ấy hơn một trăm chương trong bộ
sách này có thể trở nên bấy nhiêu đề
tài luận án còn chờ đợi được thực hiện và
đó là việc dành lại cho các nhà
chuyên môn về khảo cổ, cổ sử, nhân chủng, thói
tục, xã hội… Chúng tôi chỉ đứng về văn hóa
và một cách tổng quát nên chỉ coi Tàu
và Việt là hai thực thể văn hóa với những dấu hiệu
biệt trưng sẽ nói đến ở chương 4 (4.2). Vậy xin gảy ra
ngoài mọi suy tư chính trị hay chủng tộc, mà chỉ
coi Tàu và Việt như đại diện cho hai mô thức văn
hóa: cả hai có đến quá nửa mẫu số chung, tức cả
hai đều nông nghiệp, chỉ khác biệt về độ lượng du mục pha
vào.
Tàu
nhiều chất du mục hơn Việt, hãy giả sử một con số là
Tàu có đến 4 chỉ số du mục, nông chỉ còn 6;
Việt trái lại chỉ độ 1 du, còn 9 nông. Dầu vậy mẫu
số chung là nông vẫn còn nổi hơn. Đã thế cả
đến người cũng quá nửa là chung như đã nói
trên là đến 60-70% Tàu là gốc Việt.
Có thể nói là càng lui về trước thì
Tàu càng nhỏ dần, cho đến lúc đầu thì chưa
có Tàu mới có các thổ dân trước, sau
sẽ mang tên Việt. Tôi muốn xem Việt đã đóng
góp những gì vào việc hình thành Nho
để từ đó thiết lập nền triết lý mới mà tôi
gọi là An Vi, một thứ nhân bản toàn diện.
Chúng
tôi nghĩ là đã có đủ dữ kiện để đưa ra
mô thức hay cơ cấu của nền triết lý mới nọ mặc dầu về chi
tiết thì tất sẽ còn dần dần được khám phá
thêm rất nhiều. Nhưng nhiều tới đâu thiết nghĩ cũng
không có tính căn bản đủ để thay đổi cái
mô thức chung kia nữa, có chăng chỉ là thêm
bớt hay sử đổi tí chi tiết mà thôi, còn về
đại thể tức về cơ cấu nền tảng thì An Vi đã là một
nền triết ổn định. Đó là cái nhìn mới về
Nho, nhìn từ nguồn gốc của nó là Việt, được
bày tỏ bằng huyền thoại, huyền số v.v… Đó là tinh
hoa văn hóa của toàn khối Việt và Nho mà
trong hơn hai ngàn năm qua đã bị lu mờ nay được khai quật
lên để hy vọng có thể lại làm ngọn đuốc soi đường
cho toàn cõi Đông Nam Á và cả
Đông Á nữa, hơn thế còn hy vọng có thể
góp phần vào việc thống nhất nhân loại trong thời
kỳ đang tới.
Việc
làm này chúng tôi đã khởi công
từ quãng năm 1954 cho tới 1975 và đã viết mười
sách về An Vi, rồi tiếp đến mười sách khác về Việt
nho. Từ 1976 tời nay tôi tiếp tục viết và sẽ trình
bày trong bộ An Vi đợt mới gồm 7 tập kể dưới.
Độc
giả sẽ gặp một số lặp lại. Xin được bày giãi đôi
điều. Có hai thứ lặp lại: một thứ bắt buộc vì nó
thuộc phương pháp triết Đông, là triết cơ thể (cũng
là toàn thể) không chia ra những phần rời nhau như
luận lý, siêu hình, tâm lý,
chính trị. Vì thế mỗi bài đều nói hầu như
về tất cả, nên rất nhiều điểm không nói đến tận
cùng ở một bài được. Độc giả nếu chưa thỏa mãn về
điểm nào thì chờ đến một bài sau, điều đó
sẽ được bàn tới nữa, vì thế mà có lặp lại,
nhưng lặp lại mà vẫn mới, vì vị trí cũng như thể
tài khác, khiến cho mỗi bài, mỗi triệt ví
được như những nhát búa mới giáng lên đầu
cùng một cái danh (cũ) để đanh ngập ngập sâu
mãi vào lòng gỗ. Đó là đường lối
Kinh Dịch gọi là “đồng quy nhi thù đồ” đường thì
khác nhau nhưng bao giờ cũng về một mối như được biểu thị bằng
64 quẻ đặt chung quanh thái cực viên đồ; các quẻ
khác nhau nhưng quẻ nào cũng châu đầu về
thái cực. Bởi thế mà bó buộc có lặp lại: sự
lặp lại ở đây chính là linh hồn của việc truyền
đạt: “la répétition est l’âme de l’enseignement”.
Nhưng
còn một thứ lặp lại do khuyết điểm, không biết
chúng tôi tránh được bao nhiêu nên phải
xin độc giả thông cảm vì đã phải làm việc
trơ trọi một mình, không có sự giúp đỡ của
đồng chí hướng, không cả sách vở. Thế mà
còn gặp phải gặp đủ thứ trở ngại: những cơn bệnh kéo
dài, việc dời chỗ ở liên miên, cộng với sự trục trặc
trong việc đánh máy, xuất bản, cũng như tìm
tài liệu. Tất cả làm đứt quãng việc trước
tác: dòng tư tương chưa được bày tỏ rốt ráo
theo nhan đề sách: đành bỏ dở. Thế là rồi phải
bù bằng cách tuỳ hứng, tuỳ gặp chút tài
liệu, hay dịp bó buộc nào đó thì viết một
vài hoặc dăm ba bài: chẳng nhớ rõ trước đã
viết gì… Bởi thế đôi khi mắc sự lặp lại không cần
thiết, nay nếu bỏ đi thì sợ có hại cho sự tiến diễn của
bài viết. Đã vậy khi xem lại thì mỗi lần lặp lại
vẫn có ít dữ kiện hoặc suy tư mới thêm vào
nên không nỡ bỏ. Vậy xin độc giả thông cảm và
khi gặp thì xin chấp nhận như một việc coi lại sự vật đã
xem rồi nhưng nay xem lại ở một không thời mới.
Hy
vọng thế nên tôi thu thập các bài linh tinh
vào bốn tập (1, 3, 5, 6) làm một thứ phụ trương đặc biệt
thành ra có lúc phụ trương dày hơn
chính sách, âu cũng là cái sẹo của
cuộc di tản. Đã vậy các chương không ăn với nhau
cách mạch lạc lắm. Có bài viết sau lại đặt trườc,
không theo được nhịp sinh thành của dòng tư tưởng.
Do vậy đôi khi gặp những bài trục trặc hoặc nói
phớt qua những điều lẽ ra phải nói kỹ hơn, với dẫn chứng đầy đủ
hơn, gặp trường hợp đó xin độc giả đọc lướt qua hoặc là
bỏ hẳn, sau khi đã đọc hết sách hoặc toàn bộ sẽ
trở lại lúc ấy sẽ thấy bài viết xuất hiện ra cách
dễ dàng, cũng như sẽ thấy các dẫn chứng đầy đủ hơn.
Những
tập này cùng với các sách được ghi số theo
chương triệt chỉ cốt làm cho dễ việc quy chiếu, nhất là
với bản tiếng Anh nếu sau này có được. Các
sách tiếp nối như sau:
Hùng
Việt Sử Ca: kể như phần dẫn nhập vào toàn bộ,
ghi số từ 1-20.
Kinh
Hùng Khải Triết: sẽ ghi số từ 21-30 (đã được
Thanh Niên Quốc Gia xuất bản rồi).
Pho
tượng đẹp nhất của Việt tộc: coi như phụ chương Kinh
Hùng, số ghi từ 31-50.
Sứ
điệp Trống đồng: sẽ ghi số từ 51-70. (đã đem xếp chữ tự
hơn ba năm nay).
Văn
Lang vũ bộ: kể như phụ trương Sứ Điệp, ghi số từ 71-90.
Phong
thái An Vi: kể như phần dẫn vào Đạo Nội, ghi số
từ 91-100.
Trùng
phùng Đạo Nội: nói về đường tu luyện tâm
linh, ghi số từ 101-110.
Chương
1
NHỮNG
ĐIỀU KIỆN ĐỂ MỘT NƯỚC THÀNH “VĂN HIẾN CHI BANG”
Cái
làm nên một dân tộc là bộ sách của
dân tộc ấy. Thiếu bộ sách nọ không thể có
dân tộc trung thực mà chỉ là một đoàn lũ
chung sống với nhau trên cùng một mảnh đất với những
liên hệ chính trị, kinh tế, binh bị… Phải có
sách mới thực có yếu tố trường tồn làm như sợi
dây nối các thế hệ xưa với hiện nay thành một thực
thể thống nhất về tinh thần, có vậy mới là dân tộc
đích thực. Sách càng lớn dân tộc càng
to. Nhưng sách lớn không đo bằng số lượng mà bằng
mức độ tâm linh được tàng ẩn trong sách và
làm như linh hồn sống động của dân, nghĩa là bao
nhiêu những việc quan trọng của con người trong nước đều quy
chiếu vào đó như trung tâm. càng giàu
chất tâm linh sách càng lớn lao và dân
tộc càng vĩ đại, vĩ đại đến cấp siêu việt thì nước
được gọi là có văn hiến (văn hiến chi bang). Như vậy muốn
được gọi là văn hiến thì phải có những văn kiện
cao quý, cao quý đến độ khiến được những phần tử tinh anh
trong dân hi hiến thân tâm mình cho cái
văn đó. những người này vì thế gọi là hi
hiền, hi thánh hay là “hiền nhân quân tử”.
Nói vắn tắt muốn nước là “văn hiến chi bang” thì
nước phải có Văn và Hiến (hiến tức hiền).
Vậy xin hỏi Việt tộc có
sách chăng? Có đáng gọi là dân tộc
chăng? Thưa không mà có. Không vì chưa
có văn tự riêng, đã không chữ viết thì
lấy gì mà có sách. Nhưng vậy mà lại
có, đó là những “Kinh vô tự” tức những văn
kiện được biểu hiện bằng dăm ba bộ số với một mớ huyền thoại và
vô số tục ngữ ca dao. Các số này gọi là
huyền số, nó không dùng để đo đếm mà
dùng để biểu thị cái khác vì vậy
chúng làm nên những tiêu điểm khách
quan nhưng câm nín nên cần đến những huyền thoại
làm như những lời nói lên ý nghĩa. Vậy tuy
không có chữ nhưng còn có truyền khẩu
mà nội dung là huyền thoại nên kể là
có.
Hỏi
chỉ có số như vậy có đủ giá trị chăng? Thưa
quá đủ vì đây đang nói về giá trị văn
hóa thuộc tinh thần. Mà tinh thần đi ngược với vật chất.
Với vật chất càng to càng hay. Còn với tinh thần
thì càng bé càng quý: bé cho
đến số Không thì quý vô cùng.
Vì thết tất cả các triết lý Đông phương đều
đặt nền trên chữ Không. Ấn Độ là Thái Hư,
Lão Tử là Cốc Thần (hang trống), Nho là vô
thanh vô xú, Việt là Trống (trong chữ trống đồng)
muốn nói bằng Nho thì đó là Hư Tâm,
cũng là hư linh tức cái tâm có hư có
trống rỗng thì mới đạt được linh thiêng. Tóm lại
tất cả đều đặt quan trọng và chữ Không, nên
giá trị phải tim về phía đó, và đó
là bí quyết làm cho nước nên văn hiến, tức
là có nền văn hóa giàu chất tâm linh.
Để
nói lên điều nọ chúng ta có thể dùng
bảng Tứ Linh làm thí dụ để biểu lộ quan niệm linh
thiêng của Việt Nho nằm trong chỗ hư tâm.
(Hinh vẽ Bảng Tứ Linh)
Xem
bảng tứ linh ta thấy con người được đặt vào giữa bốn con vật:
hai con dương có lông là Phượng và Lân
(Lân là lông mao, Phượng là lông vũ)
hai con âm có vảy là Li và Quy: Li là
rồng vàng không có ngà nhưng có vảy,
còn Quy thì có mu. Con người ở giữa không
có mu không có vảy, không có
lông vũ cũng chẳng có lông mao hoàn
toàn khoả thân: tức là trần trụi (Need II, 269).
Chính nhờ chỗ trần trụi đó mà người được
làm chủ tịch 4 con vật linh kia. Bốn con đã linh
mà con người còn linh hơn gọi là “nhân linh
ư vạn vật”. Ấy chỉ vì chữ khỏa. Nhân vật điển hình
trong vụ này là Chử Đồng Tử, không có cả đến
cái khố, nhờ vậy mà Chử Đồng Tử đứng vào
hàng hi thánh hi hiền tức là những cột trụ cho văn
hiến. Đó là nhờ đã trút bỏ hết những
cái thuộc trần trược.
Trở
lại bộ sách dân tộc xin hỏi có bao nhiêu
sách và những sách nào? Hãy nhắc
lại: các sách Việt toàn là kinh không
chữ chỉ biểu hiện bằng bộ số vài ba. Sau khi nghiên cứu
mới thấy bộ số đó quả là một thứ con chấm chủ quyền
đã đóng vào vô số văn kiện, điển chương,
lược đồ, di vật, hiện vật, nên có thể nói đó
là bấy nhiêu sách dân tộc. Tuy nhiên
vì con chấm đóng hẳn xuống nghĩa là biến dạng
nhiều cách nên khó nhận diện, chỉ sau khi đọc
toàn bộ mới thấy rõ. Ỡ đây xin kể tạm vài ba
quyển thôi, một là sách ước gậy thần của
Hùng Vương, hai là sách Tản Viên Ba
Vì, ba là Lạc Thư, tất cả đều thành bởi 4 bộ số
2-3, 5, 9. Đó là những sách có tên.
Còn không tên thì vô số: như cái
trống, cái đình, cái nhà sàn,
cái giếng và vô số vật dụng khác đều
hàm tàng các số 2-3, đôi khi cả 5, 9 nữa.
Cũng phải kể tới những huyền thoại mà nét đặc trưng
là vắn tắt hết sức chỉ một vài dòng như truyện “Nữ
Thần Mộc dậy anh em Lộ Bàn, Lộ Bộc biết làm nhà
chữ Đinh”, vắn tắt có thế nhưng ý nghĩa lại bao la
vô tận. Quả đúng như câu châm ngôn triết
“nội hàm càng nhỏ ngoại hàm càng to”. Nội
hàm rút vào cùng cực thì tỏa ra cũng
cùng cực. Nội hàm rút vào còn
có một chữ Trống thì tỏa ra man vàn. Viết cả một
quyển lớn về trống đồng vẫn thấy chưa nói hết. Nhưng nhiều tới
đâu cũng vẫn giữ mối liên hệ ngầam làm nên một
cái quán triệt nội tại rất mạnh nói được là
có tính cách cơ thể.
Trong
các kinh vô tự phải kể đến quyển Kinh Dịch. Vì
nó có một địa vị đặc biệt ở chỗ có chân
trên cả hai bình diện là văn và tự, tức vừa
vô tự là không có chữ mà chỉ có
số, vì thế gọi là văn; vừa có chữ nên gọi
là tự (là các hệ từ). Truy tầm theo lối sinh
thành thì thấy Kinh Dịch có đến 5 giai đoạn (theo
tam phần thư).
Giai
đoạn 1 là Dịch thiên nhiên hay đạo Dịch của
Trời Đất tức hồn Dịch gặp được trong các huyền thoại đầy chất
lưỡng hợp như truyện ông cồ bà cộc, núi sông,
nước lửa, tiên rồng…
Giai
đoạn 2 là của Phục Hy thành bởi nét đứt -
- nét liền – ghép thành 8 quẻ đơn, mỗi quẻ
có 3 nét. Đó là gồm bộ số 2, 3, 5.
Giai
đoạn 3 của ông Đại Vũ đúc 9 đỉnh tức thêm
vào vòng trong 5 số sinh, 4 số thành nữa là
9, cũng gọi là Cửu lạc (số 9 của dân Lạc).
Giai
đoạn 4 Dịch của Văn Vương bắt đầu có văn tự đó
là những lời giải nghĩa 64 quẻ gọi hào từ.
Giai
đoạn 5 gọi là của Khổng Tử có thêm thập
dưc nổi nhất trong đó là hệ từ đại truyện có
giá trị triết lý siêu hình.
Xưa
nay người ta chỉ biết có giai đoạn 4 và hầu hết nó
đã trở thành sách bói toán và
tán nhảm. Còn giai đoạn 5 được chú ý
chút ít. Chí như 3 giai đoạn trước thì hầu
như không ai nói gì tới và đấy là chỗ
cắt nghĩa sự sa đọa của Nho là vì Đạo là
cái chi linh thiêng siêu việt không thể
dùng ngôn từ hữu hạn mà nói được,
“nói được thì không phải đạo thường hằng nữa”
mà chỉ là đạo phù phiếm thuộc xã hội.
Vì thế “trí giả bất ngôn” người biết đạo
không nói mà chỉ dùng một hai dấu hiệu,
vài ba con số để chỉ thị rồi im lặng. Đấy là lý do
tại sao các đạo lý Đông phương quý chữ Trống
Rỗng, Hư Tâm, Vô Thể… Và vì thế Kinh Dịch
khởi đầu chỉ có hai số 2 và 3, đến sau mới thêm lời
vào. Vậy mà các thế hệ sau lại chú ý
nhiều về lời thành ra chỉ chuyên ngành ngọn
mà bỏ gốc. Nay muốn tìm lại mối Đạo Uyên
Nguyên thì phải học về các số trong Kinh Dịch.
Ý
NGHĨA CÁC
HUYỀN SỐ
Muốn
tìm ra ý nghĩa các số ta hãy căn cứ
trên Kinh Dịch. Kinh Dịch chia các số theo những lối cấn
phải biết để sau đoán ý.
Trước
là số Đất chỉ bằng các số chẵn là 2, 4, 6, 8. Nếu
vẽ ra hình sẽ là nét ngang – hoặc hình
vuông
-
Số Trời chỉ bằng các số lẻ 1, 3, 5, 7, 9. Vẽ rà
hình là nét
dọc hoặc hình
tròn
Lại
chia ra vòng trong và vòng ngoài.
Vòng trong gồm 5 số từ 1-5 gọi là số sinh. Vòng
ngoài gồm 4 số từ 6-9 gọi là số thành.
Văn
hóa nào có nhiều số 4 là thiên về Địa
có thể gọi là duy vật với hình ngang – hay
vuông
Chính
trị đặt trên mẫu du mục: có giai cấp, liên hệ người
là chủ nô. Còn thiên về số 1 là
nghiêng vê Thiên có thể gọi là duy
tâm linh, hình là nét dọc hay
tròn. Xã hội cũng du mục: có đẳng cấp
và cũng chủ nô. Đây chỉ là kiểu phân
loại tiên thiên chưa được áp dụng. Đó sẽ
là việc được làm trong toàn sách, chỉ cần
nói rằng trong thực tế văn hóa nào cũng có
rất nhiều những sửa sai nên nó làm cho khó
nhận diện. Lại theo luật “hai thái cực ở liền ngõ”: “les
extrémités se touchent”, nên văn hóa ưa
dùng số 4 cũng dùng số 1 (nguyên lý đồng
nhất) còn văn hóa ưa dùng số 1 cũng lại
dùng số đất như số 4. Vì thế có những bộ số 1-4
hay 4-1.
Việt
nho thì dùng bộ số 2-3. Việt nói “vài ba”
2-3. Tàu nói “tham lưỡng” 3-2. Hai số cộng với nhau
thành 5, số ngũ hành. Đó là bộ số chỉ trỏ
sự quân bình vũ trụ: trời 3 đất 2. Vẽ ra hình
là thập tự nhai + gồm nét ngang là 2 Đất cộng với
nét dọc là 3 Trời thành ngũ hành là
số 5. Hoặc cũng vẽ là (hình) tức tròn trên
vuông dưới hay (hình) là tròn bao lấy
vuông. Xã hội theo quy chế bình sản không
có chế độ nô lệ. Nếu hỏi ai là chủ bộ số 2-3
này trứơc thì đó là Việt. Vì cả khảo
cổ (nét song trùng) lẫn huyền thoại (tiên rồng) đều
nói lên điều đó. Đây chỉ nói có
số 2, vì nó là đầu mối cho các số nền tảng
sau:
Thí
dụ:
Số
3 là hai số 1+2
Số
5 là hai số 2+3
Số
9 là hai số 5+4
Các
bộ số cứ đi đôi (2) như vậy, nên số 2 vừa căn bản lại vừa
đặc trưng để nhận diện.
Trong
thực tế thì phải nói cả Việt lẫn Tàu đều là
chủ. Việt chủ ở đợt số sinh gọi là văn hóa. Tàu
chủ ở đợt số thành gọi là văn minh. Nói
khác Việt thai nghén ra những tượng ý, thí
dụ bánh dầy bánh chưng. Còn Tàu thì
hoàn chỉnh tượng ý đó bằng đổ khuôn lời, gọi
là công thức hóa. Bánh dầy bánh chưng
của Việt trở thành câu “thiên viên địa phương”
của nho. Còn rắn với thuồng luồng của Việt trở thành con
long của Tàu, nhà sàn trở thành Tam
tài… Do đó tôi đặt thứ tự Việt nho tức Việt trước
Nho (khi Nho hiểu là Tàu). Đây là vấn đề rắc
rối sẽ phải nhờ đến sự trợ lực của các khoa tân nhân
văn như khảo cổ, dân tộc học, cổ sử để phân xử.
Ở
đây xin tạm thông qua để đi đến hệ quả là muốn
tìm ra đâu là Nho trung thực tức Nho chưa xa
lìa số sinh của nó thì phải kể đến yếu tố Việt.
Nói cụ thể là phải kể đến huyền thoại và huyền số
nữa, nếu không sẽ trật đường.
Sau
đây là một thí dụ đi trật đường. Trên
đã nói bộ số nền tảng của Việt Nho là vài
ba. Trong thời thai nghén văn tự còn gọi là thời
chữ chân chim hay con quăng thì số hai đất được biểu thị
bằng 2 nét ngang = còn số 3 trời biểu thị bằng 3 gạch
thẳng /// cả hai hợp lại thành chữ kỳ (căn = radical 113).
Vì hai bộ số này là linh thiêng nên
dùng căn kỳ đi với các chữ gì chỉ linh
thiêng như:
Tế
(chữ hán)
Lễ
Thần
Thiền
Kỳ
Hựu
v.v
Nhưng
sau người ta quen viết tháo thì (chữ hán)
thành ra (hán) tức chỉ còn có 4
nét (thay vì 5 nét) vậy là sa đọa ra số đất
lúc nào rồi mà không một ai ý thức
điều nọ nữa.
Thí
dụ nữa là hủ nho bỏ lơ số sinh mà chuyên nhiều về
số thành là bát quái và 64 quẻ. Do
thế Nho là một nền đạo lý quân bình
siêu đẳng đi lần vào chỗ suy vi bị bẻ quặt. Nay muốn
tìm ra mối đạo uyên nguyên thì đó cả
là một công trình bao la đòi phải có
sự đóng góp của nhiều ngành chuyên
môn. Ở đây tôi đứng về triết, cố gắng tìm lại
phần nào bằng chú tâm đến bộ số “vài ba,
tham lưỡng” và công ti, hay là 2, 3 và 5, 9.
Cái bí quyết thành “văn hiến chi bang” nằm trong
mấy con huyền số nọ. Nói khác đây là nhằm
khai quật phần tâm linh trong nền văn hiến nước nhà.
Đó là công việc mà bộ sách này
nhằm đóng góp.
Riêng
về Tàu với Việt mà tôi gọi là Việt nho
thì chỉ xin hiểu là 2 thực thể hoàn toàn
văn hóa, xin gảy ra ngoài mọi suy luận thuộc chũng tộc
hay chính trị, để chỉ chú ý đến có văn
hóa mà thôi. Theo đó thì Việt chỉ tất
cả các dân đã cư ngụ trong nước Tàu trước
khi có dân tộc Tàu. Việt Nam chỉ là một chi
trong cái khối lớn lao đó. Có chăng là chi
được coi như kế thừa nền văn hóa của khối Đại Việt, đối với
Tàu xuất hiện về sau: cả hai nơi đều tổ chức xã hội theo
mẫu nông nghiệp, nhưng Việt thì còn giữ
nguyên chất nhiều hơn, hãy tạm gọi là 9 nông
1 du. Còn Tàu thì 6 nông 4 du. Do vậy
có một số nét khác biệt làm cho Tàu
nói chung không quân bình bằng Việt.
Thí dụ về vật biểu, Tàu chỉ có Rồng đang khi Việt
có cả Rồng lẫn Tiên, nhân đó Việt trọng
bên tả, nổi về văn hóa (tinh thần), Tàu trọng
bên hữu nổi về văn minh (vật chất). Còn nhiều chi tiết lắm
sẽ đề cập dần trong toàn bộ.
Bây
giờ ta hãy đi thêm một bước chi tiết hơn về bộ sách
dân tộc này trong bài sau là Mỏ Nhiên
Liệu và Phương pháp của Việt nho.
Chương 2
PHƯƠNG
PHÁP VÀ NHỮNG MỎ NHIÊN LIỆU
TRIẾT VIỆT
Triết
Việt là tinh hoa của văn hóa Việt. Văn hóa
này được truyền thừa trong ba thực thể vĩ đại.
Một
là những huyền thoại mà quyển Kinh Hùng là
đại biểu chói chang.
Hai
là trống đồng đại biểu cho Cổ Nghệ cũng như khảo cổ.
Ba
là làng xã Việt, chứng nhân sống cho nền văn
hóa nọ.
Ba
thực thể đó làm nên hệ thống quy chiếu rất trung
thực: ai muốn trình bày văn hóa hay triết Việt đều
phải coi đó như cái toàn thể rất cần thiết để quy
định nội dung chi tiết của văn hóa nọ, một nền văn hóa
chưa được diễn đạt bằng lời trực chỉ, nếu không theo sát
hệ thống quy chiếu sẽ dễ lạc ra ngoài bằng gán nghĩa xa
lạ với thực thể cổ xưa.
Để
dễ vận dụng cái toàn thể đó ta có thể quy
vào 4 chữ từ, tượng, số, chế.
Từ
là một chùm huyền thoại như Kinh Hùng. Khi căn cứ
vào một nhóm huyền thoại như vậy lời giải nghĩa
không sợ bị coi là tự tiện hoặc ăn may nhờ truyện nọ bổ
túc và làm chứng cho truyện kia. Một đức
tính gặp được trong nhiều truyện tất nhiên không
phải là ngẫu nhĩ lẻ loi mà là những đức
tính thông thường. Thấy được như vậy ta có thể đoan
chắc đó là những đức của dân tộc không phải
của cá nhân. Sự thâu thập chỉ làm cách
vô thức nhưng đã được 15 truyện liền nhau nói
lên cùng một tinh thần dân chủ, nên kể
là một chứng từ vô giá, một may mắn phi thường.
Vì vậy chúng tôi gọi 15 truyện nọ là Kinh.
Tượng
và Số cũng nói lên cùng một điều nhưng
cách khác: những biểu tượng truyện tích
có lâu đời đến độ đã được trừu tượng thành
lược đồ, số độ, tượng hình, và rất phổ biến chứng tỏ
chúng đã được lập đi lặp lại nhiều thể cách.
Chúng tôi sẽ nói dài hơn cũng như năng
dùng số độ vì nó giúp cho việc tìm
nguồn có được tiêu điểm quý giá để thấu tận
gốc rễ. Đã vậy nó còn giúp trình
bày các nét đặc trưng hơn hết: nó trặt trờ
ngay ra bằng những con số, tức là một bước cao về độ
chính xác.
Chế
nói đây là thể chế, thói tục, những phương
thức sống… tất cả đều được giữ lại trong cái làng Việt
Nam, nên là những bằng chứng sống động. Sau đây xin
đi vào một vài chi tiết về ba thực thể nọ.
Trước
hết là quyển Kinh Hùng, nét đặc trưng uy nghi của
nó là nhân chủ tính đuợc trình
bày bằng huyền thoại, nên ít được nhìn ra.
Những người duy lý cho đó là truyện thần
quái trâu ma. Bước lên một đợt người ta đi
“tìm ra” ý nghĩa lịch sử trong đó. Điều này
không hẳn sai, nhưng nếu chỉ có thể thì chỉ mới
chạm đến chân lông bộ truyện. Vì thực sự nó
không là sử ký mà là huyền sử. Hơn
thế nữa phải gọi là nhân thoại, vì con người
làm chủ trong những truyện đó, khác xa với thần
thoại nơi con người chỉ đóng vai tuỳ phụ, hầu hết còn
là nạn nhân, vì thế thần thoại không được gọi
là nhân thoại, cũng như không được gọi là
huyền sử. Vì nói tới sử là nói tới những
việc của con người, con người chỉ là người khi làm chủ,
tự do động ưng theo cung cách tự nội phát xuất:
còn nếu do thần giật dây thì chưa là
nhân chủ nên cũng chưa có sử. Sau đây
là một số tựa đề của huyền sử Việt cũng gọi là Kinh
Hùng.
Truyện
Tiên Âu Cơ gặp Bố Lạc đẻ con theo tục điểu (bằng trứng).
Truyện
bánh trời bánh đất hay hình tượng vuông
tròn.
Truyện
trầu cau hay là trời đất giao thoa sinh ra sắc đỏ (quẻ li) chỉ
văn minh.
Truyện
Ngọc Long Toại nói về hai hòn ngọc đực cái
có từ thưở trời đất khai mở, tượng ý thai nghén ra
phạm trù âm dương.
Sơn
Tinh Thuỷ Tinh: lưỡng hợp tính trong thế cạnh tranh.
Đầm
nhất Dạ: con vua lấy người nghèo khó: hai thái cực
giao thoa trên mặt xã hội, dân chủ cùng cực.
Truyện
Việt Tỉnh Cương lược đồ hóa sự giao thoa trên bằng khung
chữ tỉnh. Lược đồ mẫu cho Hồng Phạm cửu trù, Hà Đồ Lạc
Thư, Minh Đường.
Truyện
Kim Quy là một trong 4 vật linh giúp Vua Việt xây
thành Cổ Loa.
Tất
cả các truyện đều nói lên nét lưỡng hợp
tính (dual unit) hợp với bầu khí môi sinh tinh thần
của khu vực, nên các nhà khảo cổ gọi là
nét đặc trưng của Đông Nam Á.
TRỐNG ĐỒNG
Cũng
nói lên cùng một đề tài như Kinh
Hùng, nhưng bằng hình tượng và số độ. Xem
lên mặt trống nét đập vào mắt ta hơn cả là
bộ số 2-3. Số 2 thì lu bù tự đực cái (dê đực
dê cái), chẵn lẻ; mái nhà một chim bên
kia hai chim, nhỏ to (chim to chim nhỏ), mặt trống chia hai mảnh
bán nguyệt, rồi đôi chẵn đôi lẻ (6-8 chim hay
là 3 đôi và 4 đôi); ngang dọc: mặt trống
ngang, tang trống dọc chỉ đất trời người. Số hai trong chim rồng được
trừu tượng hóa bằng hai gạch chạy song song trong có chấm
dải (hình)
(Hình
trống đồng ngọc lữ)
Các chấm dải chỉ linh lực
phát xuất rất nhiều xung quanh 2 bộ 4 trống đang được giã
bằng chày đứng. Ở đây được đặt dải ra ở giữa hai vạch chạy
song song vòng quanh hiện vật. Đó là hai hạn từ
hay gọi là năng sở (chủ từ và đối tượng) còn mối
tương liên luôn luôn ở giữa, không
nghiêng sang bên nào để khỏi đốc ra duy tâm
hay duy vật, nhưng luôn ở giữa: luôn luôn là
tương quan tức cái gì thuộc linh lực, energy mà ở
đây có thể hiểu là con người được định nghĩa
là đức trời đức đất, nên con người được quan niệm
là một tác năng (agent) là tổ triết lý an
vi, vì tác động luôn luôn ở trên thế
tốt nhất được biểu lộ cụ thể bằng điệu vũ là luôn
luôn di động trong thế tưng bừng vui tươi.
Tôi
nhấn mạnh chữ Tương Quan vì then chốt của cơ cấu luận là
không đặt nặng trên năng hay sở mà trên tương
quan. Việt Nho được nhìn nhận là cơ cấu uyên
nguyên nên không lạ chi nó đã nhấn mạnh
trên tương quan; để có tương quan phải có hai hạn
từ (two terms). Nét này đã xuất hiện rất sớm ngay
từ thời đá mới trong các dấu Bắc Sơn ở tại hai
hàng chạy song song “marque bacsonienne qui consiste en deux
traits paralelles!”. Hoa văn này sẽ truyền qua Phùng
Nguyên thành những nét song trùng chạy
trên đồ gốm, rồi đến giai đoạn Đông Sơn được đưa vào
Trống đồng và phát huy cùng cực trong 4
vòng rồi vòng tiếp tuyến (hình)
đã
trở thành nét đặc trưng của Đông Nam Á
mà Việt Nam là khu nữu (central axis).
Đã
có số 2 tất phải có số 3 ở giữa để chỉ thị mối tương
quan. Số 2 là năng và sở, số 3 là tương quan…
Số
3 trong trống đồng là những tam giác gốc có 14
cánh quay vào chỉ sinh và 14 cánh quay ra
chỉ sáng (tâm) (2*14=28 là số ngày trong
tháng trăng). Đó là hình ảnh yoni trong
có linga được tôn thờ trong giai đoạn tôn
giáo phong nhiêu tượng trưng cho nguồn sinh lực (đạo sinh
sinh trong Kinh Dịch) tỏa sinh và sáng xuống vũ trụ (sẽ
bàn rộng trong Sứ Điệp). Điều đó được biểu thị bằng
vô số tam giác nhỏ bao ngoài cùng xếp
thành hai dẫy đối đầu, để diễn tả nguyên lý
chí trung hòa: đi vào cùng cực như tam
giác gốc thì ngoại hàm cũng bao cùng cực,
các tam giác nhỏ bao khắp mặt trống, tức sức sinh sống tự
sáng ra lan tỏa cũng trong vũ trụ.
Ngoài
số 3 được diễn tả cách đồ sộ bằng cảnh thái hòa
trên mặt trống nơi trời, đất, người hòa hợp do con người
làm trung gian:
Trời
là mặt trời ở giữa
Đất
là các vòng vũ ngoài cùng gồm chim
và nai…
Người
ở giữa đóng vai liên lạc. Đó chính là
chữ Tương viết hoa. Đấy là bề mặt, hàng ngang.
Số
3 cũng được diễn tả ở hàng dọc gồm tang, thân, chân.
Tang
chỉ trời.
Thân
chỉ người.
Chân
chỉ đất.
Đã
có 2 và 3 tất phải có 5
Số
5 thành bởi 4 vòng bán nguyệt của hai vòng
cộng với vòng trong cùng của tam giác gốc được coi
là Đại Ngã. Hoặc cộng với vòng ngoài
cùng là đại diện cho tam giác vòng trong.
Số 9 do cộng số 5 trên với số 4 ngoài cùng
là 4 quai. Đừng tưởng 4 quai chỉ có mục tiêu
ích dụng mà chính ra nó chơi vai trò
huyền số: trong thạp Đào Thịnh có 4 đôi trai
gái đang giao hợp chỉ rõ điều đó.
Về
cái làng Việt thì nên coi đó
là chính cái bọc của mẹ Âu Cơ nói đến
trong truyện đầu Kinh Hùng: Tiên rồng giao thoa đẻ ra
cái bọc trăm con, tất cả có một lối sống bình
đẳng, tự do an vui, y như quang cảnh diễn trên mặt trống.
Làng Việt cũng có hội hè đình đám
như vậy. Về điểm này không thể nói quá vắn
tắt, cùng lắm cũng phải một bài dài như đã
viết trong quyển Sứ Điệp. Xin xem ở đó (đã trích
in trong quyển Hồn Nước).
Đại
để đó là ba nguồn mạch để triết Việt múc
nhiên liệu đặng kiến tạo triết mới sao cho hợp tinh hoa xưa
mà cũng hợp cho cảm quan thời đại. Cả ba nói lên
hai điều, thứ nhất là phương pháp thì nó
rất hợp với các khoa tân nhân văn như khảo cổ,
xã hội học, phong tục học, uyên tâm (tâm
lý các miền sâu), cơ cấu luận… nên rất hợp
nhu cầu mới đang mong muốn một thứ triết lý cụ thể khác
lối lý trí quá trừu tượng. Thứ đến là
nó rất trung thực vì vừa có huyền thoại lại
có cổ vật ghi lại đích đáng. Đàng
khác được chứng minh cách cụ thể bằng lối sống thực của
dân chúng với những phong tục, tập quán, thể lệ,
định chế của làng.
Ngoài
ra vì nó dùng số độ được ghi trong cổ vật (thuộc
khảo cổ) nên có tiêu điểm rất vững để đi tìm
sâu vào dĩ vãng. Sau đây là thí
dụ về niên đại.
NIÊN
ĐẠI TRIẾT VIỆT
Có
thể căn cứ vào trống đồng mà tính. Trống đồng xuất
hiện vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất. Y cứ trên
hoa văn chủ đạo của trống là hai chỉ chạy dài ta thấy hoa
văn nọ cũng gặp được trong các đồ gốm tìm được ở
Phùng Nguyên, một di chỉ ở tỉnh Phú Thọ Bắc Việt
ước lượng chung quanh 3000 năm tr.cn. Trên nữa thì gặp
thời đá mới Bắc Sơn với những hòn cuội mài nhẵn
thường có hai gạch chạy song song, những đá cuội
này có rất nhiều nên đựơc khảo cổ gọi là dấu
Bắc Sơn như đã nói trên. Các nhà khảo
cổ chưa biết ý nghĩa ra sao. Chúng tôi căn cứ
trên cái toàn thể là nét lưỡng hợp
trong huyền thoại, và hoa văn chủ đạo ở Đông Sơn với
Phùng Nguyên kết luận rằng đó là dấu ghi đầu
tiên của lưỡng hợp tính. Vì đặc tính
này là của Việt nên kết luận được rằng dấu vết văn
hóa Việt đã xuất hiện tự đời Bắc Sơn quãng 5000
tr.cn. Người Việt quen nói bốn ngàn năm văn hiến.
Câu này xưa rồi, bây giờ tính theo khoa học
phải nói ít ra bảy ngàn năm. Đó là
đại lược nguồn gốc văn hóa Việt mà sự xuất hiện có
kiểm chứng bằng khả cổ hẳn hòi phải vào quãng bảy
ngàn năm trước đây. Như vậy cũng hợp với huyền thoại
nói nước Việt có trước Tàu. Việt xuất hiện
vào thời Hoàng Kỷ; Tàu xuất hiện vào thời
Đế Kỷ. Do đó nghiên cứu về văn hóa Việt sẽ
giúp đẩy Nho học đi xa hơn một quãng: quãng từ
Khổng Tử lui lại tới Phục Hy Nữ Oa, thời đó gọi là Việt
Nho.
VIỆT NHO
Nho
đây hiểu là văn hóa Tàu quen gọi là
confucianism hoặc ju (Việt nói là Nho). Phân
tích Nho nguyên thuỷ ta thấy nó chính
là sự công thức hóa Việt Đạo… Nghĩa là Nho
không nói gì khác với nội dung Việt
lý, chỉ khác hình thức: Việt nói bằng
hình bằng số, Nho nói bằng văn tự, tôi gọi
đó là công thức hóa. Công lớn của Nho
là đã công thức hóa nội dung Việt lý
cách khéo dị thường. Hai lâu đài nổi nhất
của công việc nọ là Kinh Dịch và sách Trung
Dung.
Kinh
Dịch chính là công thức hóa nét song
trùng lưỡng hợp: số 2.
Trung
Dung nói lên nhân chủ tính của văn hóa
Việt. Nó công thức hóa Trời, Người, Đất trên
mặt trống thành thuyết tam tài: đặt con người ngang
hàng cùng trời đất. Đó là công thức
số 3. Các vòng vũ tả nhậm thuận thiên được
công thức thành thuyết ngũ hành nghĩa là
hành theo hướng ngũ: mà ngũ là thiên, cũng
là Đại Ngã Tâm Linh được định nghĩa là
thiên mệnh “Thiên mệnh chi vị tính” (chỗ này
chưa thể rõ được xin đợi quảng diễn dài). Như vậy Kinh
Dịch và Trung Dung có thể coi là đại diện cho Nho,
đặt liền sau Việt mà lâu đài văn hóa
là Trống Đồng, Làng Nước, Kinh Hùng. Ba thực thể
đó cùng với Kinh Dịch và sách Trung Dung
làm nên điển chương của Việt Nho, nó ăn khớp với
nhau như một cơ thể. Ta có thể khởi tự bất cứ cái
nào trong năm thực thể đó cũng đi đến kết quả như nhau.
Dùng cả năm thì sự chứng minh trở nên chói
sáng, không nguồn gốc văn hóa nào bì
kịp sự chính xác như vậy. Những bài sau đây
chỉ là những quảng diễn luôn luôn vần vũ trong năm
điển chương nọ, nếu sự thu thập có lỏng lẻo, những ghi
chú có thưa thớt nhưng chúng đã dựa
vào năm điểm trên làm căn cứ chính nên
vẫn hưởng một sự quán xuyến nội tại dàm sánh vai
với sự chính xác minh hiển khách quan (khoa
nhân văn cần sự quán xuyến nội tại, khoa học cơ khí
cần sự chính xác khách quan).
Bài
này có vẻ quá khô khan, vì chỉ
có ý giới thiệu đường lối và nhiên liệu để
độc giả thấy trước sự nghiêm túc của công việc hầu
yên tâm theo dõi, rồi dần dần tất cả sẽ sáng
ra: cả về an vi lẫn Việt nho. Cả hai là một nhưng xét về
nguồn gốc hay nơi phát xuất thì gọi là Việt nho.
Việt nhiều Nho ít. Còn khi xét về kết quả hay nội
dung thì gọi là An vi. An vi nằm giữa Hữu vi và
Vô vi, An vi hội nhập cả ngoại lẫn nội.
Chương
3
SỬ
TRÌNH HÌNH THÀNH VĂN HÓA VIỆT
Theo huyền sử thì bờ
cõi Việt là hai
châu Kinh và Dương cũng gọi là Xích Quỷ
(nước của Lộc Tục cha của Lạc Long Quân) tức miền châu thổ
sông Dương Tử và Hoài Giang. Nhiều người cho
đó là truyện biến ngôn chứ làm gì
nước rộng đến thế. Nhưng nếu xét kỹ thì đây mới
là châu thổ nước Văn Lang, trước nữa còn một thời
gọi là Viêm bang thì bờ cõi còn lan
lên trên cả sông Lạc và sông
Hoàng Hà. Thật quá bao la nhưng có thực
và bài này muốn đặt lên đó một
cái nhìn cai quát để cắm một hai mốc thời gian.
Nhưng xin nói trước đây không là sử địa
mà là mấy nét sơ sái phác họa lại
khuôn mặt của cái nền văn hóa cổ sơ của Việt, cũng
có thể gọi là của Tàu nữa, nhưng ban đầu
Tàu chỉ có phần nhỏ còn phần căn bản là của
Việt.
Ta hãy chia
quá trình hình
thành văn hóa này làm năm đoạn như sau:
Giai đoạn khởi đầu
là Hoàng
Việt hay Viêm Việt gồm khắp nước Tàu.
Giai đoạn hai
là Hùng Việt của
Văn Lang.
Giai đoạn ba
là Bách Việt từ
Giang tô, Chiết giang trở xuống.
Giai đoạn bốn
là Nam Việt gồm lưỡng
Việt (lưỡng Quảng).
Giai đoạn năm
là Lạc Việt thu
vào Bắc Việt.
Sự phân chi
này căn cứ trên những
tên cổ sử, và những dữ kiện văn hóa nông
nghiệp. Phải nhận ngay rằng sự phân chia này rất lỏng lẻo,
cũng như tên gọi mỗi thời có thể khác. Nhưng xin
tạm nhận để làm tiêu điểm mà tựa. Ta hãy
lên sổ những dữ kiện của nền văn hóa đó:
Việt
Tàu
về vật chất
- Lúa ruộng
nước
- Ruộng khô
- Đi
thuyền -
Đi ngựa
- Có trống
đồng
- Trống da
- Nhà
sàn -
Nhà hang
- Ăn
trầu -
Không ăn trầu
- Có cung và
nỏ
v.v… -
Có cung không nỏ.
Về
tinh thần
- Huyền thoại lưỡng
hợp -
0
- Địa vị đàn
bà
cao
- Địa vị đàn bà thấp
- Trọng bên
tả
- Trọng bên hữu
- Vẽ mình
v.v… -
Không vẽ mình
- Đeo lông chim khi
múa
- Không đeo
Trên đây
là những dữ kiện có để lại
ấn tích trong cả khảo cổ, cổ sử lẫn dân tộc học và
truyện tích… nên bám sát những dữ kiện
đó là có được những tiêu chuẩn vững nhất.
Những dữ kiện đó có thể chia hai loại, một thuộc
môi sinh vật chất như lúa ruộng nước… Ta tóm
vào lối viết chữ Việt cổ với bộ mễ gọi là Việt mễ. Loại
hai thuộc tinh thần như huyền thoại có tính cách
lưỡng hợp, ta tóm vào chữ Việt siêu: như vậy chữ
Việt rất quan trọng vì nói lên nét đặc trưng
văn hóa Việt hơn hết, đó là động tính hay
nét song trùng. Các nhà khoa học gọi
đó là nét lưỡng hợp (dual unit) và bảo
là nét đặc trưng văn hóa của miền Đông Nam
Á. Đây là nét quan trọng nền tảng sẽ trở
nên mối đầu của Kinh Dịch và cũng là nền cho
tên Việt siêu: tức là đi từ có tới
không, từ sáng tới tối, từ rắn tới mềm… như sẽ bàn
dài về sau. Ở đây chỉ ghi chú tên Việt
có tính bao trùm và cao siêu nhất.
Bây giờ hãy
lược qua các giai đoạn như
đã tạm chia ở trên. Trước hết là giai đoạn sơ
nguyên thì có những truyện Bàn Cổ, Toại
Nhân, Hữu Sào… Đây là giai đoạn chấm
phá ghi lại mấy nét lớn của văn hóa như
tính tự lập tự cường trong Bàn Cổ. Toại Nhân chỉ
giai đoạn phát minh ra việc dùng lửa. Còn Hữu
Sào là giai đoạn biết làm nhà: trước hết
là tổ trên cây, sau là nhà sàn.
Cả ba trang huyền sử trên này sẽ lưu ảnh hưởng quyết liệt
trên các giai đoạn sau: Bàn Cổ là nhân
chủ tính. Toại Nhân là quẻ li đi với tên
Viêm Bang. Hữu Sào đi với nhà sàn sau sẽ chi
Tam tài… Toàn là những dữ kiện quan trọng trong
văn hóa Việt. Ở đây hãy ghi nét đặc trưng
là không có sáng thế ký kiểu thần
thoại, mà chỉ là truyện những anh hùng văn
hóa. Tôi gọi đó là nhân thoại.
Nhân thoại là nét đặc trưng vĩ đại phân biệt
với các nền văn hóa khác thường khởi đầu bằng thần
thoại, nên không đạt nhân chủ tính như với
nhân thoại.
Biết thế rồi bây giờ
ta lược qua các giai đoạn
sau:
Giai đoạn nhất
gọi là Hoàng
Việt hay Viêm Việt. Đây là giai đoạn thờ mặt trời
mà ấn tích còn sót lại là tên
Xích Quỷ hiểu quỷ làm chủ, còn xích
là tinh hoa của cái gì, đây là tinh
hoa của thời thờ mặt trời. Cũng trong ý đó nước ta nhận
quẻ li (lửa đỏ của mặt trời) cũng như chim chu tước (con trĩ đỏ),
cùng trong liên hệ đó là tên “Thần
châu xích huyện” mà sau Châu Diễn dùng
để gọi nước Tàu. Vua ở giai đoạn này là Viêm
Đế Thần Nông, cũng có tên là Liệt Sơn. Thời
này chưa có gì gọi là Tàu hết. Nếu
có thì cũng chỉ là dăm ba bộ lạc trong cả trăm cả
ngàn bộ lạc khác. Nếu muốn nối Tàu vào
thì phải gọi Thần Nôn là tổ chung của cả Việt lẫn
Tàu. Chính trong ý đó mà nhà
Hán khi mới lên ngôi cũng tự xưng Viêm Man,
Viêm Hán và cũng tế Si Vưu. Si Vưu dòng
dõi Thần Nông. Thần Nôn cùng với Phục Hy Nữ
Oa làm thành Tam Hoàng. Vì thế Si Vưu cũng
cùng dòng máu với Viêm Việt hay Hoàng
Việt (chỗ này sẽ bàn rộng trong bài phân
tích máu Việt).
Giai đoạn hai
là Hùng Việt của
Văn Lang quốc. Đây là giai đoạn thành lập văn
hóa riêng của Việt. Trong sách “Hùng Vương
sự tích ngọc phả cổ truyền” có lời rằng “Vua Kinh Dương
Vương vâng chỉ phụng mệnh trời về núi Nam Miên Sơn
lập đô ở phía Hoan Châu thuộc Nghệ An xứ”. Trong
câu trên nên chú ý đến chữ nghệ vừa
nói về nguồn gốc văn hóa, vừa nói lên
nét đặc trưng của văn hóa đó. Người miền Nam quen
nói đạo nghệ, tức đặt phương trình giữa đạo và nghệ
Nghệ = Đạo hay Đạo = Nghệ
Phương trình
này còn gặp thấy trong kinh
Thư chương Vũ Cống, học giả Legge đã nhận xét chữ nghệ
dùng như chữ đạo, như trong hai câu sau: câu 29,
“Hoài Nghi kỹ nghệ” tr. 105, và câu 23 “Duy Tri Kỳ
Đạo” tr.102 (dịch nghĩa: sông Hoài và sông
Nghi đi theo đường của nó; câu 23: sông Duy
và Tri cũng theo đường nó!). Theo cổ tự thì chữ
nghệ viết như thập xéo X. Đó cũng là chữ ngũ X,
mà ngũ hành cũng là đạo hoặc nói đạo Việt
Nho tóm trong ngũ hành cũng vậy. Vì thế chữ nghệ
phải làm nền tảng cho các chữ Văn (hán), hay Giao
Chỉ (chữ hán) cả hai có bộ nghệ nằm dưới. Còn
tượng linh là hình Nữ Oa Phục Hy quấn lấy đuôi nhau
(đuôi ông giao (chỉ) với đuôi bà). Vì
những ấn tích này thấy cả trong huyền thoại lẫn trong
dân gian cũng như cổ thư, cổ tự… nên ta biết mấy phương
trình trên kia không là tán tự,
mà chính là những ẩn tích đích thực
còn sót lại của loại chữ cổ gọi là “điểu tự”- chữ
chân chin, còn hoàn toàn tượng hình,
nên là những ấn tích rất quý. Vậy những ấn
tích đó nói lên nét song trùng
nguyên thủy của đạo Việt mà sau này các
nhà khảo cổ gọi là lưỡng hợp (dual unit). Chính
nét đó làm nên đặc trưng của Văn Lang quốc,
tức là tổ quốc của văn hóa Việt. Văn hóa đó
đã được thiết lập trong thời Hoàng Việt.
Thời này có
thể chia 2. Một là Hồng
Bàng Kỷ cũng gọi là Hoàng Việt, hai là thời
Hùng Kỷ với tên Văn Lang. Nước Tàu theo huyền thoại
khởi đầu với Hiên Viên thuộc giai đoạn này nhưng sau
họ Hồng Bàng “182” năm, nên gọi là Đế Kỷ. Chữ đế
chỉ ngũ đế là:
Đế Thiếu Hao
Đế Chuyên Húc
Đế Cốc
Đế Nghiêu
Đế Thuấn
Đó không
là nhân vật lịch sử
mà chỉ là những mẫu mực tiên thiên được
sáng chế về sau theo cơ cấu Ngũ hành để tiếp nối với Tam
hoàng ở giai đoạn khai nguyên thành ra “Tam
hoàng ngũ đế”. Đế cũng có thể hàm ngụ nghĩa “chinh
phục”, hiểu là Hoa tộc “chinh phục” Văn Lang của Việt tộc. Cuộc
chinh phục này mở đầu bằng Đế Hiên Viên nhưng người
ta hay gọi là Hoàng Đế. Chữ Hoàng nối với Tam
hoàng còn đế nối với ngũ Đế. Đế mới là
chính nên người ta quen nói Hiên Viên
xuất hiện tự đế kỷ.
Giai đoạn ba
Bách Việt. Đây
là giai đoạn mà truyền thuyết kể rằng: “Hoàng Đế
chiến Si Vưu”… Tức Hoàng Việt bị Hoa tộc đẩy lùi bước đầu
tiên. Dân Việt bắt đầu được gọi là Tam Miêu
và Cửu Lê tức bằng số: số quan trọng nhất là 3 với
luỹ nhân của nó là 9 (3*3=9) số 9= Cửu Lê
là tên liên đoàn các dân thổ
trước tức Việt, còn số 3= Tam Miêu kể như bộ lạc chỉ huy
tất cả. Từ đó sẽ nảy ra tên Bách Việt. Chữ
Bách chỉ có nghĩa là nhiều, như Bách
tính là nhiều họ, nhưng theo bầu khí văn
hóa thì có thể hiểu theo cơ cấu là con số
100 của Hà Đồ (45) và Lạc Thư (55) cộng lại, cũng như Lạc
Thư có nghĩa thông thường là sách của
sông Lạc, nhưng theo đồng văn thì hiểu là
sách của Lạc Việt (đây là tên đầu tiên
gọi theo tên sông. Về sau nam tiến thì di cư
tên này xuống Bắc Việt). Lạc Thư là hậu thân
của Cửu Lạc, mà Cửu Lạc có họ Cửu với Cửu thiên
huyền nữ, một tên khác của nữ thần mộc (hành mộc số
3) nên cũng là nữ thần của Tam Miêu và Cửu
Lê. Đấy là ý chính của Bách Việt,
còn nghĩa thông thường là nhiều thì xin kể
ra ít tên:
Phía đông
là:
Di Việt
Vùng Giang Tô
Điểu Việt
U Việt (Chiết Giang)
Dương Việt (Giang Tây)
Đông Việt (Quảng
Đông cũng gọi là Nam Việt)
Lạc Việt (Bắc Việt)
Phía tây
là:
Việt Thường (Trung Việt)
Tây Việt
Vân Nam
Âu Việt
Bộc Việt
Châu Kinh
Mân Việt
Mấy tên địa danh cũng
như tên chi tộc chỉ
nên hiểu cách hết sức co giãn chứ không
có ý đặt bờ cõi ranh giới gì cả, chẳng qua
là tạm dùng để mang theo vài ý niệm lơ mơ
thôi. Vì thời gian gồm nhiều cuộc thiên di,
nên không thể có bờ cõi rõ rệt.
Giai đoạn bốn
Nam Việt. Chỉ còn lại
có lưỡng Việt là 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây
mà vua Quang Trung tính đòi lại. Giai đoạn
này Việt đã mất thêm ba nước Ngô, Việt,
và Sở cũng gọi là Kinh Man tức là Mân Việt,
Bộc Việt… Đây là giai đoạn nửa thuộc huyền sử, nửa thuộc
sử ký. Huyền sử thì như Hùng Vương với Thục
Phán, Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, còn sử thì như Triệu
Đà với hai Bà Trưng… Đây là giai đoạn suy vi
của Văn Lang quốc.
(Hình bản đồ
nước Tàu về đời nhà Tần)
Giai đoạn năm
Lạc Việt. Thu gọn vào
Bắc Việt và Trung Việt gồm cả Việt Thường. Đây là
giai đoạn nam tiến cuối cùng, Bách Việt chỉ còn
lại mảnh đất nhỏ là nước Việt Nam hiện nay gọi là Lạc
Việt, xét như đại diện cho Bách Việt theo cả hai nghĩa
chủng tộc và dân tộc. Chủng tộc thì là sự
kết đúc của nhiều chi tộc như Môn Khmer, Thái,
Mèo, Mường, Cổ Việt tức những người Sở, Ngô, Việt. Huyền
sử tóm vào hai ngành là chim họ mẹ
và rồng họ cha. Chim ở phía Tây như Mân Việt,
Bộc Việt, Tây Việt, Việt Thường, còn rồng ở về phía
đông như Lạc Việt đại diện cho cả U Việt, Đông Việt, Nam
Việt… Về khảo cổ thì Đông có thể là di chỉ
Long Sơn hay Thành tự Nhai với cái lịch thời danh.
Còn phía Tây thì lấy Ngưỡng Thiều làm
cứ. Hai đàng đổ xuống gặp nhau ở Bắc Việt để làm
nên người Việt ngày nay. Đây là giai đoạn
chung đúc các chi tộc lần cuối cùng. Trước kia
đã có nhiều cuộc đúc rồi xảy ra ở miền Kinh Dương
Vương và trên nữa là lúc Hoàng Đế
đánh Si Vưu. Đó là những ý niệm về sự pha
giống giữa các chi trải qua nhiều ngàn năm nhiều lần
khó lòng phân rõ. Dầu sao đó cũng
là việc của nhân chủng học. Còn ở đây chỉ
nói về dân tộc tức là về văn hóa truyện tinh
thần, không cần bờ cõi theo sử địa, mà chỉ cần
những yếu tố văn hóa như tả nhậm, trống Đồng, ruộng nước…
Trên đây
là 5 giai đoạn rất lờ mờ (với bờ
cõi trồi sụt) đặt ra chỉ cốt làm tiêu điểm cho
ý tưởng, nó muốn nói lên rằng văn học từ
trước tới nay mới nghiên cứu có giai đoạn 5 và một
nửa giai đoạn 4. Còn Việt Nho tính nghiên cứu cả 5
giai đoạn, luôn cả phần mở đầu là Bàn Cổ với Toại
Nhân và Hữu Sào. Đó là điều ngược với
tự trước tới nay nên có biết bao điều phải được chứng minh
như sẽ làm trong các chương sau.
Chương
4
THỜI
ĐẠI
HOÀNG VIỆT
Đối với người Việt
Hùng Vương là tiên tổ.
Hồng Bàng là cao tằng. Muốn biết rõ về Hùng
Vương với nước Văn Lang tất phải tìm hiểu về Hồng Bàng
kỷ. Đây là việc rất diệu vợi vì tài liệu
đã hiếm hoi lại lờ mờ như bị đêm tối bao phủ nên gọi
là huyền sử. Sau đây là mấy dòng huyền sử về
Hồng Bàng.
“ Cháu ba đời vua
Thần Nông là Đế Minh
tuần thú phương Nam gặp Vụ Tiên trên núi Ngũ
Lĩnh đẻ ra Lộc Tục phong cho làm vua hai châu Kinh
và Dương lập ra nước Xích Quỷ. Anh Lộc Tục tên
là Đế Nghi cai trị phương Bắc. Đế Nghi muốn bắt chước Đế Minh
trong việc tuần thú nên trao nước lại cho Si Vưu rồi
cùng với vợ là Âu Cơ tuần thú phương Nam,
sau để vợ ở lại hành tại và đi đâu không
biết. Âu Cơ lấy Lạc Long Quân con của Lộc Tục đẻ được một
trăm con, 50 con theo mẹ lên núi lập ra nước Văn Lang,
còn 50 con nữa theo cha xuống biển”. Đó là vốn
liếng về “tiền sử” nước ta. Thật là ít ỏi và lờ mờ
nên không lạ chi trải qua bao đời không một ai buồn
để ý đến còn coi là hoang đường đáng phải
thải bỏ là khác. Tuy nhiên ngày nay được
trang bị đầy đủ hơn với những khoa tân nhân văn như
uyên tâm, cơ cấu, khảo cổ ta có thể làm một
cuộc thám hiểm có tính cách siêu khoa
học để thử tìm ra ít ý nghĩa tàng ẩn
đàng sau những mẩu truyện lu mờ nọ.
Xem bao trùm lịch sử
văn hóa lòai người
quyển Civ. I 264 đã chia ra ba thời.
Việc thời nhất là
hình thành sáng
tạo ra những tư tưởng nền móng, có thể gọi là buổi
bình minh với những ánh chiêu dương tạo dựng hay
gọi là Hòang kỷ.
Việc thời hai phát
triển và công thức
hóa những điều đã được sáng tạo trước. Ta
hãy gọi là Đế kỷ.
Việc thời ba là thừa
tự, truyền bá và
suy vi, hãy tạm gọi là mạt kỷ.
Đối với văn minh Lưỡng
Hà cho đến nay được coi
là nơi phát nguyên ra văn minh lòai người
thì
Thời sáng tạo
là Sumer
Thời phát triển
và công thức là
Babylon
Thời thừa tự truyền
bá, suy vi là Assyria
Với La Hy thì thời
sáng tạo là Crete
Thời phát triển đổ
khuôn là Greece
Thời truyền bá suy
vi là Roma.
Theo trên ta
có thể nói với Việt Nho thời
sáng tạo là Hòang Việt
Thời đổ khuôn
là nguyên nho, nổi nhất đời
nhà Chu.
Thời truyền bá
và suy thóai là
Hán Nho. Hoặc nói cách khác:
Thời Hòang Việt
là tinh thần
Thời Chu là văn
hó
Thời Hán là
chính trị (xem thư tịch ở số
9.13)
Ba thời đó
không phân ranh rõ nhưng
ăn ngoàm vào nhau như có thể thấy trong bảng sau:
Thời I
Hoàng Việt gồm Tam
Hoàng – 4480 (dấu trừ (-4) là 4 tr.cn) gồm Hồng
Bàng Thị -2879.
Tiếp tới Hùng kỷ tận
cùng vào lối thế kỷ
thứ ba tr.cn. Đang lúc đó Tàu đời Chu đã
khởi tự thế kỷ 12, nhưng truyền thuyết thì lại đẩy Tàu
tới Hoàng Đế tức 28 thế kỷ trước. Như vậy đủ thấy tính
cách cài răng lược của ba thời. Do đó ai muốn truy
căn về nguồn gốc văn hóa Việt bó buộc phải nghiên
cứu về nguồn gố c văn hóa Tàu mà ở đây
tôi gọi là Nho. Việt Tàu sẽ là Việt Nho.
Vì cái làm nên nước Tàu là văn
hóa chứ không chủng tộc như học giả quốc tế đã
công nhận như thế, mà điều đáng quý nhất
trong văn hóa Tàu là Nho, nên nói Nho
là nói Tàu.
Ta hãy dùng
khảo cổ để lên sổ sơ
sái nguồn gốc của hai nền văn hóa Việt, Nho. Theo
đó thì thời Hòang Việt có thể thấy dấu vết
ở hai di chỉ thời danh ở mạn Bắc nước Tàu là Ngưỡng Thiều
trong tỉnh Thiểm Tây và Long Sơn ở vùng Sơn
Đông. Long sơn nổi bật với cái lịch có ba
chân hai tai rõ ràng thuộc về văn hóa Việt.
(Hình cái
lịch)
Cái lịch đời
tân thạch, ngang thời Phùng
Nguyên. Ngay từ lúc đó đã thấy có số
3-2 vài ba tham lưỡng xuất hiện (3 chân hai tai) thấy đầy
ở Đông Sơn, và các đỉnh sau này.
Chỉ còn Ngưỡng Thiều
là có sự do dự
nhưng theo một số công trình nghiên cứu mới nhất
thì Ngưỡng Thiều cũng do miền Nam ảnh hưởng lên (Cradle 38
và 342). Ong Needham cũng ghi nhận Ngưỡng Thiều do phía
Nam (Need I. 25).
Trên đất Việt
thì nhờ lối cơ cấu ta nói
được là văn hóa Hòang Việt đã xuất hiện từ
thời đại đá mới Bắc Sơn, là vì ý tưởng
nguyên lý lưỡng hợp (dual unit thấy ở Bắc Sơn, với
số 2 trong 2 đường gạch song song); số 3 nhân chủ cũng như số 5
tâm linh gặp được ở Phùng Nguyên (bộ ba cái
chạc và các thứ bình có ba chân) số 5
(tức 2+3) thấy được trong mộ có 5 hòn sỏi mà ba
hòn mài nhẵn hai hòn để thô. Bộ số
này được chú ý vì có nhiều thể chế
đi kèm thí dụ nghi lễ bắn tên lúc trẻ sơ
sinh, trong 5 tên, bắn 3 giữ 2, nhà 3 căn 2 chái.
Có truyện Polynesien nói đến 3 thúng khôn
với 2 hòn đá (Primitive 304). Cũng số 5 nhưng kép
nửa dưới (số 2 đất kép thành 4) thì ra bộ số 3-4
hay là hình tròn vuông như bánh trời
tròn, bánh đất vuông, trống trời trống đất (trống 6
mặt chỉ trời = 6 là 3 đôi; trống 8 mặt chỉ đất: 8
là 4 đôi). Cặp 6-8 có phản chiếu trên mặt
trống đồng Ngọc Lữ (trong 6 chim và 8 chim) và có
thể ngờ là căn để cho lối văn lục bát. Đó
là vài ấn tích mà cơ cấu giúp ta ghi
dấu sự xuất hiện của thời Hòang Việt, thời này sẽ
kéo dài tới lúc Tần Hòang chiếm ba nước
Việt, Ngô, Sở. Còn bên ta là lúc Triệu
Đà chiếm nước Au Lạc vào thế kỷ thứ ba tr.cn.
Thời II
thuộc nguyên Nho tức Nho
còn gắn liền với Việt như hài nhi chưa cắt giây
rốn. Nếu kể theo truyền thuyết thì phải nói Nho có
từ Hòang Đế (Đế kỷ = -2697) xuyên qua Nghiêu Thuấn
xuống tới ba nhà Hạ, Thương, Chu tức từ thế k ỷ 28 đến 3 tr.cn.
Đó là theo truyền thuyết, còn theo cổ sử
thì phải kể tự cuối đời Đông Chu là thời đã
chế tạo ra các truyền thuyết về nguồn gốc nước Tàu với
các nhân vật Hòang Đế, Nghiêu, Thuấn, Hạ, Vũ…
Điều này đã được chứng minh do các khoa cổ sử
và khảo cổ với hậu quả là cổ sử Tàu chỉ có
thế kể từ nhà Thương vì khảo cổ chỉ có thể đẩy đến
đấy (trên nữa là nhà Hạ (1) rồi Nghiêu, Thuấn
và Hòang Đế không tìm được dấu vết
gì). Vậy mà về nhà Thương thì khoa học thấy
Tàu giống Việt. Quyển Tiền sử (Prehistoric 10) nói
vùng Thái Bình Dương và mạn nam Trung Quốc
cùng một nền văn hóa. Quyển Man’s Conquest nhận định
Ngưỡng Thiều và Long Sơn gây ra nhà Thương (Pacific
158). Hai Di chỉ này xúyt xoát vào thời
truyền thuyết cho là nhà Hạ, nhưng thực sự thì
nó lêntới thời Phục Hy Nữ Oa (-4480) và cả hai đều
chị ảnh hưởng quyết liệt từ miền Nam. Theo truyền thuyết thì
nên ghi vào thời này những huyền thọai về ông
Vũ lấy vợ Việt và việc ông đúc 9 đỉnh, cũng như lời
ghi trong thiên Vũ cống rằng châu Từ (miền sông
Hòai) cống lông trĩ ngũ sắc (C.A. 97) lấy từ núi Vũ
(Vũ quyến hạ địch, chữ hạ đây có nghĩa là ngũ sắc)
và nên ghi cả những câu như “những người Man Di,
Đông Di cắt tóc vẽ mình” (bị phát văn
thân” và “Nam Man điêu đề giao chỉ” (xâm
trán vẽ mình Li Ki 296). Tất cả những câu đó
chứa đựng bằng chứng nguồn cội văn hóa Việt. Riêng
câu “châu Từ cống lông trĩ ngũ sắc” còn được
phản ánh trong Kinh Hùng truyện cống bạch trĩ.
Do vậy mà nói
nghệ thuật nhà Thương với
Việt giống nhau. Nhà khảo cổ người Nga ông Kisselev cũng
nhận như thế (Vietnam 10). Trong quyển Indochina ông Groslier
cũng nói Đông Sơn với Tàu chiến quốc là một
(Groslier 28) Borneo cùng một văn hóa với sông
Hoài vì người ta tìm được ở đây nhiều ấn
tích thí dụ như lòai chim trĩ phương nam mà
người ta quen gọi là thuộc nhà Hán (hình
chu tước). Phương chi đến nhà Thương thì còn giống
Việt biết bao. Tàu Việt cùng chung một nền văn
hóa. Vậy hỏi ai học với ai? Xưa nay người ta đều cho là
Việt học của Tàu. Đó là nhìn theo lối văn
minh và chính trị nhà Hán. Còn nếu
nhìn theo lối tố nguyên sinh thành
(génétique) tứ c ngược lên tới thời Hoàng
Việt thì rõ ràng Tàu lấy của Việt.
(Hình Chu tước)
Chu tước –Oiseau rouge
embleme du midi: được kể là một
trong những thành tựu đẹp nhất thuật chạm trổ Tàu
tìm thấy trong một ngôi một ở Tứ Xuyên (đời
Hán). Một chân giơ ra trước, chân kia đứng thẳng.
Cánh và đầu giật về sau, ngực giơ lên làm
cho chim có dáng đang tiến cách quyền uy cao
thượng.
Sau đây là
ít thí dụ.
Bà Giản Địch tổ
nhà Thương sinh con theo lối
Việt tức có mang do nuốt trứng chim huyền điểu (con én
đưa thoi tức có mang trong dịp hát trống quân kiểu
Việt). Đã vậy chính bà là gái Di
Việt, sách nói là con gái Hữu Nhung (Shang,
3) mà Nhung với Hòai Di là một (State Craft, 199).
Trong quyển Pacific (Pacific 158) có nhắc đến luận án của
học giả Bayard chủ trương phương Nam (Non Nok Tha) ảnh hưởng lên
Tàu, vì Tàu mượn những danh từ kim khí
và lúa gạo của phương Nam. Nhà ngữ lý học
Benedict cũng hỗ trợ luận đề này bằng nhiều đóng
góp về ngôn ngữ. Vì thế không lạ khi thấy
ông Needham (I. 27) nói nhà Thương chịu ảnh hưởng
phương Nam (được phản ánh trong truyện Việt Tỉnh Cương)
và cho khá đầy đủ chi tiết.
Ta có thể chứng minh
điều đó bằng khảo
sát điển chương tiêu biểu nhất của nhà Thương
đó là diễn đề Thao Thiết (hình) gặp lu bù
trên các đồ đồng. Thao Thiết có thể nói
là một cố gắng của Hoa tộc hội nhập văn hóa Việt tộc,
vì Thao Thiết chính là của Việt với tên Tam
Miêu, vì Tam Miêu cũng có tên là
Thao Thiết (D. 233). Nền của văn Thao Thiết là bò
và hổ nhưng các nhà nghiên cứu không
dám xác nhận là bò hay là hổ hoặc
giống gì vì nó không rõ.
(Hình Thao Thiết)
Ta có thể cho
là hổ nhưng dưới ảnh hưởng mạnh
mẽ của Việt thì hổ báo phảti biến dạng ra bò nhưng
phần nào còn giống hổ nên gọi là “hổ
phù”. Gọi là hổ chứ hiền khô: đã không
làm hại con bảo trợ cho người là khác (xem Sứ Điệp
chương VIII đầy đủ hình mới dễ hiểu). Đó là ảnh
hưởng rõ rệt của văn hóa Viêm Việt. Hổ ở các
nơi du mục thì giết người, ở đây bảo trợ cho người
và nhận sống hài hòa với các giống
khác. Đến cuối đời nhà Chu thì hổ phù bị
coi là quái đản và cho mang tên là
Thao Thiết với nghĩa là kẻ háu ăn (Sullivan 35). Kể cũng
đáng tội nếu xét về yếu tố hổ, nhưng văn Thao Thiết cũng
có yếu tố chim và rồng và những yếu tố này
đã biến ra văn Quỳ Long để cuối cùng ra Long. Cho
nên văn Thao Thiết chính là bản ráp của long
tức là tiến trình biến thể văn hóa: ban đầu văn
minh du mục chiếm văn hóa Việt mà truyền thuyết ghi
là Hòang Đế chiếm màu vàng của Si Vưu (D.
548), nên hổ làm nền văn Thao Thiết, nhưng rồi Việt ảnh
hưởng ngược lại nên hổ trở nên giống bò và
trở nên “hổ phù” kém giá. Còn phần
tinh hoa của Thao Thiết tức yếu tố của Việt thì biến ra văn quỳ
long nửa rồng nửa chim, để sau cùng biến ra long. Cả ba điển
chương trên đều là những tổng hợp của hai nền văn
hóa Việt Tàu. Trong Thao Thiết Tàu đóng
góp hổ, nhưng sau hổ xuống giá thì đến quỳ long
là nền Việt, Tàu chỉ tô tạo bề ngòai. Cuối
cùng là long cũng là một thứ hợp thể gồm rắn, giao
long, chim ưng, cá, nai, bò, lạc đà… nên
nói bán ráp của long là quỳ long. Xem mấy
mẫu đề này (Thao Thiết, quỳ long, long) ta thấy ảnh hưởng văn
hóa Hòang Việt nổi bật: đó là chữ
Hòa. Hòa được cả thú dữ như hổ, với những giống
bay trên trời như chim, hoặc lặn sâu dưới đáy bể như
long.
(Hình Văn quỳ
long)
Riêng về hình
thể thì quỳ long là
một thứ chim nhưng lại có đèo thêm tên long
(quỳ long) như vậy văn quỳ long kể là một bước dò đường
để biểu hiện sự nối kết hai dòng máu tiên và
rồng. Một thể thiện hiếm hoi trong nền văn hóa nhân loại.
Về long thì nên nhớ nó là hậu quả giao thoa
của xã long và giao long, cả hai đều là long,
nhưng mạn Bắc tức các dân vùng Hà Nam, Hồ
Bắc, Hồ Nam (châu Kinh) thờ xà long, còn dân
Đông Nam Á thì thờ giao long (các nhà
khảo cổ gọi là thuồng luồng và nhận xét thuồng
luông cũng như chim nước là mẫu đề riêng biệt của
các dân Đông Nam Á). Đến đời chiến quốc
thì xà long và giao long hội nhập làm ra
long: giao long đóng góp 4 chân với móng
chim, xà long góp cái mình dài,
làm nên một dạng thức mới phức tạp nói lên
tổng hợp tính cao độ gồm cả chim trời lẫn cá bể
(móng chim ưng, vảy cá v.v…)
Tóm lại xem tiến
trình Thao Thiết biến thể ra
quỳ long rồi long đủ biết Tàu chịu ảnh hưởng Việt xiết bao. Học
giả Groslier (p.15) nói người Tàu chính là
người Việt ở mạn Bắc (hiểu là mạn Bắc nước Tàu).
Có thể hỏi tại sao không nói người Việt là
Tàu mạn Nam. Thưa nói thế là đã đi sang
thời sử ký và chính trị tức là thời mới,
lúc mà Hán tộc đã nuốt trọn ba nước Sở,
Ngô, Việt của Việt tộoc mang tên là Man và
Di, nhờ đó nước Tàu đã trở thành mênh
mông. Còn nếu vượt qua thời mới để lên thời
tiên Tần thì khác, vì lúc ấy nước
Tàu còn bé hơn đất Bách Việt. Trong quyển
Chine Esprit et Socíeté ông Speiser (21) cho
là đời Thương nước Tàu mới rộng 12000 km2 (400*300), tức
còn bé hơn Bắc Việt (164.000 km2). Nếu xét về
chủng tộc thì rât phiền tạp nên các
nhà nghiên cứu đều nói nước Tàu thành
nên bởi những người không phải là Tàu, tức
không do yếu tố chủng tộc mà do yếu tố văn hóa. Vậy
văn hóa là điều khá rõ nét và
trường tồn đến độ có thể theo dõi tiến trình biến
thể như ta vừa xem về văn Thao Thiết và Long. Thế mà về
văn hóa thì chỉ thấy Tàu lấy của Việt mà
thôi. Câu này mới nghe có vẻ trái sự
thực là bởi ta chỉ quen lịch sử mà không biết đến
huyền sử, tức là chỉ biết Tàu có tự đời
Hán. Các truyền thuyết về thời khuyết sử của Tàu
như Hòang Đế, Nghiêu, Thuấn, Hạ, cả nhiều truyện
nhà Thương và nhà Chu nữa đều do các học
giả đời nhà Hán chế tạo ra, tuy có dựa trên
ít nhiều lưu truyền cổ đại nhưng những lưu truyền đó
không xa hơn cuối đời Đông Chu, lúc mà tinh
thần chỉ huy sự biến chế đã nghiêng mạnh sang chính
trị đủ làm lu mờ các yếu tố văn hóa, phương chi
các yếu tố tâm linh đời Hòang Việt còn bị lu
mờ hơn nữa. Vì thế vẽ lại cái môi sinh tinh thần
của Hồng Bàng với ba thời k ỳ của văn hóa Việt là
bài học cần thiết để người Việt mửa hết các điều
Hán nho đã áp đặt: từ sử Tàu cho đến kinh
sách. Rồi dùng phương pháp phân chất
máu của Việt tộc để đi tìm lại nền móng văn
hóa siêu linh của mình.
Tóm lại thời khai
sinh của văn hóa Việt bị bao
trùm bởi lịch sử và nhất là huyền thoại của Việt
nhưng đã bị làm ra “của Tàu” nên đó
là một cái rừng rậm thâm u cần dùng cơ cấu
và sự phân chất máu văn hóa để minh định yếu
tố nào là của Việt, đâu là của Tàu.
Khi nắm vững hai chìa khóa nọ (cơ cấu với các bộ
số 2, 3, 5 và chất máu TR.) lúc ấy chúng ta
sẽ phăng lần ra được những lối đi thênh thang với những
cái nhìn bao quát chỉ đường. Đó là
phận sử triết. Còn việc đi vào chi tiết có
tính cách văn học sẽ là công trình
lớn lao cần thiết có tính cách văn học sẽ
là công trình lớn lao cần nhiều nhà
chuyên môn đủ ngành tự khảo cổ, cổ sử qua xã
hội học, thói tục, thể chế… Vì thế đặc biệt trong
bài này chúng tôi có ghi thư tịch kỹ
hơn để cống hiến những người mới bước vào và để chứng tỏ
câu nói Việt trước Nho (tức Nho bởi Việt) có đầy đủ
chứng tích khoa học càng ngày càng
chói chang. Tài liệu ghi trong bài chỉ là
phần nhỏ.
Chương 5
THỬ
MÁU VĂN HÓA VIỆT
Huyền sử là một loại
sử có biên cương ẩn
hiện trùm lên cả sử ký lẫn cổ sử và tiền sử,
nó không có những chứng liệu đích xác
như sử ký vì phần nhiều nó phải tìm chất
liệu trong huyền thoại là thứ mà ý nghĩa
lùng bùng như cao su ai kéo chiều nào cũng
được. Vì thế việc giải nghĩa huyền sử vốn đã là
truyện khó, còn trở nên khớ hơn thập phần phức tạp
vì các huyền thoại đã hầu hết bị giật ra khỏi
môi sinh thần của chúng, bị chặt bét ra,
ghép lại lộn xông: râu ông cắm cằm bà
là truyện rất thường. Vì thế chẳng mấy khi dùng
được huyền thoại y nguyên, mà phải giầy công so đo
kê cứu.
Để chứng minh điều
đó, nhân tiện cũnglà
nhắn gửi những ai muốn đi vào huyền sử phải gia tăng chăm
chú trong việc thâu thập tài liệu: phải đọc nhiều
đã vậy nhưng nhất là đừng đọc bản tóm, vì
bản tóm đánh mất hầu hết những mối liên hệ nằm ngầm
thường ẩn trong những tiểu tiết thoạt nhìn tưởng như vô
tích sự. (1)
(1) Đó là
lối thường tình của
các người viết luận án. Phải đọc nhiều quá
nên mỗi thứ chỉ mở Index analylique đọc thoáng qua, để
có cớ viết các bảng thư tịch cho dài. Nhưng thư
tịch dài có là bảo chứng cho giá trị luận
án đâu. Các luận án hầu hết là rất
ít giá trị, chỉ vì lối hời hợt đó.
Sách triết ít cho bản thư tịch và index analytique
là vì lý do nọ.
Bài này sẽ
đưa ra ít thí dụ, phần
lớn xoáy vào Si Vưu một “nhân vật” bị hiểu lầm
nhiều nhất, nhưng lại đóng vai trò lớn trong khúc
quanh lịch sử của Viêm Việt. Si Vưu có tên được ghi
ngay trang đầu huyền sử nước ta rằng “Đế Nghi muốn bắt chước Đế Minh
trong việc tuần thú phương nam nên trao nước lại cho Si
Vưu rồi lên đường nam tiến”. (Xem Kinh Hùng số 3)
Như vậy thì Si Vưu
là họ hàng
nhà, cớ sao trong dĩ vãng lại bị coi là giống
ác độc? Cần phải tìm cho ra nguyên uỷ vụ
này. Để làm điều đó ta hãy thử dùng
một phương pháp mà tôi gọi là thử máu
văn hóa xem Việt có loại máu nào? Si Vưu
có cùng loại máu với Việt tộc chăng? Đây
chính là lối nhận họ văn hóa một cách khoa
học hơn hết.
Muốn thử máu Việt
tộc thì dễ, vì huyền
sử nói nước Việt thuộc “mẹ tiên cha rồng” (long phụ
tiên mẫu). Như vậy nếu nói cho có vẽ khoa học
thì đó là loại máu TR.(tiên rồng) tức
là loại máu cao trọng và siêu việt hơn hết,
nên tiên đựơc chỉ bằng một loại ngỗng trời (Hồng) cũng gọi
là thiên nga: hàm ý bay thấu tới trời.
Đó là dòng máu mẹ.
Còn dòng
máu cha rồng thì lặn
sâu tới tận đáy bể: tức không còn thể
sâu hơn được, nên trong huyền sử đấy đại dương thường được
dùng để chỉ thị những chân lý sâu xa nhất.
Muốn nhận họ ta chỉ việc xem ai có dòng máu TR
thì nhận là có họ không sợ sai; nhưng trong
thực tế sự vụ lại không dễ dàng như vậy vì
xuyên qua nhiều hoàn cản dòng máu TR
đã biến thể rất nhiều thí dụ về Si Vưu là loại
máu SV nhưng cũng có tên QH hay LM… Vậy trước hết
ta hãy phân chất máu SV của Si Vưu coi thử
có họ với dòng máu TR chăng. Rồi lần lượt tới loại
máu QH và LM.
Điều trước hết ta thấy Si
Vưu thuộc dòng dõi
Thần Nông, đầu cũng có sừng y như Thần Nông,
nên nhờ Thần Nông có họ Khương (chữ hán). Chữ
Khương có bộ dương trên với hai cái ngà. Vậy
là văn hóa nông nghiệp lúa mễ. Đó
là điều hợp đầu tiên với dòng máu TR.
Điều thứ hai Si Vưu cũng
có tên khác
là Thao Thiết sinh bởi ông Quỳ và bà Huyền
Thê, như vậy là thuộc loại máu QH, tức họ
máu hàng dọc với loại máu TR. Vì Quỳ cũng
là rồng, Huyền Thê cùng họ với huyền điểu thuộc
tiên, nên nói ông Quỳ lấy bà Huyền
Thê cũng như nói Âu Cơ lấy Lạc Long Quân: hai
loại máu QH và TR. Có bản đọc Li Vưu thì
cũng không xa vì Li là rồng vàng, còn
Vưu là thượng thặng “par excellence”: nói về người
đàn bà tuyệt đẹp người ta dùng chữ vưu vật. Như
vậy Li Vưu là rồng vàng thuộc Hoàng Việt
(Hoàng có nghĩa là Vàng). Cũng trong
vòng chữ li, Si Vưu còn gọi là Li Mị với nghĩa
là thần đầm ao (li) và thần núi (mị) như vậy
là nói kiểu khác hai chữ non nước hoặc tiên
rồng: li là rồng, mị là tiên (tiên ở
trên núi).
Về chữ li mị này
(chữ hán) có sự rắc rối
vì người Tàu đọc là Si Mị. Từ điển Từ Nguyên
cho cách đọc là “sách y thiết như si chi
vân” và giải nghĩa rằng “theo thuyết xưa thì li
giống như rồng vàng, không ngà”. Còn người
Việt ta lại đọc Li Mị. Người xưa khắc hình thứ rồng này
vào đầu cột nhà và gọi là Li đầu. Người
Tàu đọc Si đầu, ai phải? Theo luật chung thì chữ
kép có hai bộ phận, một bộ là để hội ý, một
bộ là hài thanh: như chữ li thì có bộ
trùng (hán) hội ý chỉ con vật, còn li
là phần hình thanh. Vậy đọc li là phải. Tại sao
Tàu đọc Si căn cứ trên bộ trùng mà
Tàu phát âm gần như si. Vậy chữ li bỏ đi đâu?
Cho nên ta suy đoán được rằng đó chẳng qua
là cái thuật chiến tranh chính trị, chiến tranh
tâm lý. Li Mị là thủ lãnh các
dân Man Di nên thay vì Li Mị thì đọc
là Si và gắn liền vào Mị (hán) viết với bộ
quỷ cho thêm bệ rạc để chỉ những tinh quỷ trên núi,
theo đó ta có thể hiểu Si mị chính là li mị
bắt nguồn từ những kháng chiến ẩn nấp trên núi để
chống Hoa tộc xâm lăng, coi như “xuất quỷ nhập thần”. Còn
nghĩa đơn sơ thì hiểu được là con rồng vàng (li)
của dân Mị (nhớ Mị là họ rất lớn trong Sở, tức là
Kinh Man, Kinh Việt, cũng là họ lớn trong nước Văn Lang). Ta đọc
Mỵ Nương, người Mường đọc là Mễ Nàng gì đó.
Vì sự biến thái của ngôn ngữ, nhiều khi do sự cố
ý của kẻ thắng nên sau con cháu không nhận ra
được họ hàng giữa Việt tiên rồng với Si Vưu, Li Vưu, Li
Mị. Khác tên nhưng cũng họ máu. Và xin đề
nghị từ nay ta sẽ đọc Li Vưu.
Cũng trong ý đồ
đánh lạc hướng nọ chữ
Bàn trong tên Lộ Bàn Lộ Bộc có liên hệ
với Bàng, Bành, Bà, Ba (Hồng Bàng,
Bành tổ, Bành Lãi, Hồ Bà Dương cũng đọc Ba
Dương) phát nguồn từ rồng quận khúc có tên
là Bàn Quỳ, lại bị đèo theo một âm là
phiên để chỉ những sâu bọ bên dưới chum (lu) lọ
là để nhằm hạ đối phương. Các thể rồng khác của
Việt đều bị hạ như vậy. Quỳ là rồng đầm ao thì bị
Hoàng Đế bắt lột da bưng trống! Lúc ấy Tàu chưa
nhận rồng làm vật biểu, rồng mới là của Việt nên bị
khinh khi. Tuy nhiên truy căn thấu đáo mới nhận ra Li Vưu
thuộc dòng máu rồng tiên nên loại màu
LV này cũng là họ máu hàng dọc với loại
máu TR.
Li Vưu còn là
tên một ca đoàn
trưởng, một vũ đoàn gồm 81 người, có khi 72. Trong
đoàn vũ có một người mang cái nõ bự.
Rõ ràng là hình ảnh đoàn vũ trong
trống đồng cũng có cái nõ bự. Nõ là
khí dụng riêng của Việt tộc có nói đến trong
truyện thần KimQuy. Tàu lúc xưa mới có cung, chỉ
có đòn ngang, phải có thêm đòn dọc
nữa như chữ Đinh T mới ra nõ. Chữ nỏ là do phiên
âm tiếng Việt: nõ, ná. Tự điển Từ Nguyên
có cho Si Vưu sáng tạo ra dao, kích, và đại
nõ. Dao đây là thứ dao cong cũng gọi là
Côn Ngô dùng trong việc tế tự, nó cùng
loại với cái phủ việt cũng lưỡi cong (hình phủ việt).
Kích cũng tên là cái qua đã
bàn trong Sứ Điệp với bộ hình vài ba.
(Hình phủ việt)
Còn rất nhiều truyện
về Li Vưu, nhưng bằng ấy tưởng
tạm đủ để chứng minh Li Vưu cùng một dòng máu TR
như Việt tộc, cùng bộ cơ cấu “vài ba”. Nên nhớ
bài vũ đầu tiên của Việt nho có tên là
“lưỡng lưỡng tam tam” chính là bài vũ Li Vưu, căn
cứ trên bộ số nền tảng “vài ba tham lưỡng” đó.
Li Vưu cũng còn được
gọi là nhà
lãnh đạo của Tam Miêu một chi dẫn đầu của Cửu Lê
mà Cửu Lê là toàn khối người Thổ trước
(Viêm tộc) đã cư ngụ rải rác trên toàn
cõi nước Tàu lâu, rất lâu trước khi người
Tàu xuất hiện như một dân tộc. Đoàn vũ có 81
người đó là 9*9 = 81; căn 9 là 3. Còn 72
là 8 hàng vũ 9 người. Chữ Tam trong Tam Miêu
nên hiểu là số 3 căn của 9 (Cửu Lê) tức cùng
loại cơ cấu “vài ba tham lưỡng” và 3-9 được cụ thể
vào 3 hồi 9 tiếng trống vẫn được khua lên trước mọi cuộc
hội hè của Viêm Việt. Chữ miêu theo nghĩa
nguyên thuỷ là mạ, chỉ nông nghiệp ruộng nước
(lúa mễ) có gieo mạ. Lúc mễ mọc ở Đông Nam
trước sau đã lan lên tận mạn Bắc Tàu, rồi do
đó đôi khi có nghĩa chung chỉ cốc loại vì
tính chất phổ quát của nó.
Thế nghĩa là đất Tam
Miêu cũng chính
là đất của Văn Lang và nó trải ra cực kỳ rộng
có thể nói khắp cõi nước Tàu, mãi
cho tới sau này trong các sách Tả truyện, Chiến
Quốc Sách… vẫn còn thấy Tam Miêu chiếm cứ
toàn vùng Hồ Bành Lãi, Động Đình,
Vân Sơn, Thái Hồ tức hợp với hai châu Kinh và
Dương của Lộc Tục xưa. Nhưng trước nữa theo Kinh Thư thì thấy Li
Vưu được thờ ở Sơn Đông, ở nước Tề, lan cả lên Mãn
Châu; phía Tây thì lan đến núi Tam
Nguỵ vùng Cam Túc, tức toàn cõi nước
Tàu. Vì thế các học giả đời nay gọi Tam Miêu
hay Cửu Lê là liên đoàn các dân
hoặc liên bang các dân: Confraternities of people,
Confederation of people. Need II. 117. Tự điển Từ Nguyên dẫn
sách Lễ Ký (theo lời giải nghĩa họ Trịnh) gọi Tam
Miêu là Li Vưu và sách Thượng Thư Khổng
Truyện cho Li Vưu là Cửu Lê, rồi cho hai sách
đó bất đồng. Sự thực rất đồng tức Li Vưu hay Tam Miêu
là chi lãnh đạo của Cửu Lê (3*3=9). Lê, Lộ
(Bàn) Lạc, Lai cùng một họ. Ta có thể gọi gồm tất
cả các thứ dân đó vào hai chữ Tứ Hải hay Tứ
Di, rồi sau biến ra Bách Việt… đều chỉ toàn khối
các dân cư ngụ trong nước Tàu đã có
lâu trước dân tộc Tàu.
Huyền thoại nói
dân tộc Tàu đã
xuất hiện với Hoàng Đế. Các nhà khoa học nay cho
đó chỉ là sự hoàn toàn bị đặt (pure
phantasy, Legge) vì không tìm được di vật khảo cổ
nào chứng minh. Nhưng ta có thể cấp cho Hoàng Đế
một thẻ căn cước theo lối huyền sử để giúp vào việc hiểu
biết hơn về mẫu người đại diện văn hóa nông nghiệp
Đông Nam là Li Vưu, tức coi Hoàng Đế là một
mẫu người đại diện cho nền văn minh du mục phát xuất từ
Tây Bắc. Theo sách Trúc Thư Kỷ Niên
thì Hoàng Đế có tên là Hữu
Hùng và Hiền Viên. Cả ba tên đều nói
lên tính chất du mục xâm lăng. Thứ nhất là
chữ đế chỉ đế quốc, chiếm đoạt. Thứ hai đến chữ hùng là
con gấu: rõ ràng du mục vì du mục thường nhận
ác thú làm vật tổ, những bức chạm trổ người
có hình hổ tìm được ở Sơn Đông hẳn phải
có liên hệ với Hữu Hùng ở đây. Thứ ba
Hiên Viên tuy là tên núi mà cũng
có nghĩa là xe nói lên liên hệ với
công và thương gắn liền với du mục, y như sĩ, nông
đi với nông nghiệp. Sách Thế Bản gán cho
Hoàng Đế nhiều phát minh, điều đó rất đáng
ngờ, nhưng có điều chắc là ông khởi đưa vào
Tàu 2 yếu tố văn minh, một là luật hình đối nội,
hai là chiến tranh chiếm đoạt đối ngoại (Kwang I. 216). Xin nhớ
văn minh ở đây hiểu trong liên hệ với thành thị,
còn văn hóa hiểu liên hệ với nông nghiệp,
nông thôn (Civ. I. 2). Theo đó thì Hiên
Viên chinh phục Li Vưu tức là du mục lấn át văn
hóa nông nghiệp; thị xã lấn át nông
thôn v.v…
Chắc vì lý do
sâu xa này mà
Hiên Viên có tên là Phong Long tức thần
sét (lôi công). Ông có được một người
con gái đặt tên là Nữ Thần Bạt chủ về đại hạn.
Rõ ràng là những dấu chống Li Vưu vốn có
hai thần gió và mưa phụ tá chỉ nông nghiệp
ruộng nước sợ đại hạn cần mưa. Đó là những khía
cạnh đối kháng của hai nền văn hóa mà hai trận
tuyến đã khởi từ xa xưa: một bên Hoàng Đế đại diện
văn minh, bên kia là Li Vưu đại diện văn hóa.
Nói theo Hoàng Đế đại diện kỹ thuật còn Li Vưu đại
diện tình người (nhân bản). Vì thế trận tuyến
đó sẽ còn diễn dài dài vì là
cuộc chiến thuộc văn hóa: bên nông bên du
chẳng bao giờ hết được. Về mặt quân sự Hoàng Đế đã
giết Li Vưu, đã đánh tan Tam Miêu, vậy mà
cho đến “cháu 5 đời” là Nghiêu vẫn còn bị
phiền hà với Tam Miêu. Ông Thuấn cũng phải
đánh dẹp và cho là xong, thế mà đến đời
ông Vũ còn phải cất quân đi đánh Tam
Miêu nữa và thua, đành trở về mặc áo
lông chim rồi dùng cái mộc và giáo
mà múa: lúc ấy Tam Miêu mới chịu phục. Như
vậy có nghĩa là ông Vũ phải múa theo kiểu
Tam Miêu, tức có mang lông chim khi múa,
nói vắn tắt là phải theo văn hóa Tam Miêu. Y
như trước kia Hiên Viên cũng thế, các nhà
khoa học cho là Hiên Viên đã tiếp thu
phù hiệu và biểu tượng với các kỹ thuật của Li
Vưu, nhờ đó mà Hoàng Đế “trở nên nhà
sáng tạo đủ điều” nào là đúc đồng,
đúc trống, nào là làm nhà, dệt vải…
Sự thực không phải là sáng tạo mà chỉ
là “tiếp thu” của Li Vưu.
Đại để đó là
hậu quả chiến cuộc giữa Hiên
Viên du mục và Li Vưu nông nghiệp. Được thua, thua
được lẫn lộn, trận tuyến thì rộng lớn không những về
quân sự; chiếm đất chiếm người, mà còn kéo
theo mặt trận tâm lý chiến: hai bên cố bới xấu nhau
nên Li Vưu bị đọc là Si Vưu và bị chê
là “ngu đần”, “hay gây rối” là “quái vật”…
Đang khi theo một dòng lưu truyền khác thì Li Vưu
lại là Thiên tử, là lá cờ hướng đạo,
là thần đáng đựơc tôn thờ. Hán Cao Tổ khi
mới lên ngôi cũng còn tế Li Vưu. Như vậy chẳng qua
là truyện được làm vua thua làm giặc. Li Vưu thua
nên tên bị bôi bẩn thỉu như Mỹ nguỵ ngày nay
vậy.
Tuy nhiên Việt tộc
cũng mở mặt trân tâm
lý chiến đánh vào tim gan giặc xâm lăng, tức
là đánh vào cái hồn, cái vật tổ của
Hiên Viên. Chỉ xin kể ra một vụ chính về chim
cú. Chim cú được phe Hoàng Đế thờ và đặt
làm thánh quan thầy các thợ luyện kim khí
mà Hiên Viên đứng “đầu”. Xem ra chim cú
chính là vật tổ vì được Hoàng Đế ăn thịt
theo nghi lễ để được tham dự phần linh lực của nó. Vậy nhưng
Việt tộc tuyên truyền thế nào mà về sau cú
biến ra cú vọ, ra “quỷ điểu” có tiếng là ban
đêm hay lần mò đi bắt trẻ sơ sanh và làm hại
các bà mới đẻ. Quỷ điều có 10 đầu nhưng bị
chó ăn mất một nên sợ chó lắm (1). Vì thế để
đề phòng chim cú người ta phải kéo tai chó
cho nó kêu, hoặc đập cửa đập giường. Với trẻ sơ sinh
thì người ta bôi lên trán nó vạch đỏ
để xua đuổi chim cú (có thể tục xâm trán
(điêu đề) phát xuất từ đó) hoặc bán con cho
thần, thánh, tiên, phật để được nhờ sự che chở.
(1) Chó
nói ở đây có
liên hệ với chó Bàn Hồ là vật tổ của
các chi Dao ở Vân Nam, Quý Châu và
các chi Mán… Tộc phả của họ ghi rằng: Thời xưa vua Hải
Đảo đánh nhau với vua Lục Địa. Vua Lục Địa treo giải ai giết
được vua Hải Đảo thì gả công chú cho. Chó
Bàn Hồ của vua liều đi, bơi tới hải đảo, được vua Hải Đảo đưa về
nuôi, nó lừa dịp cắn chết vua Hải Đảo, tha đầu trở về
và vua Lục Địa phải gả công chúa cho. Chó
Bàn Hồ đón công chúa về Dương Châu,
sinh được 10 con tức 10 bộ lạc Dao mà con trưởng là họ
Bàn. Sau vì bên Tàu mất mùa nên
con cháu Bàn Hồ phải di cư qua Việt Nam. Vì thế
khi ai chết đều làm bè chuối tiễn về Dương Châu,
nơi đây có từ đường thờ công chúa đứng cạnh
con chó Bàn Hồ. Do tích này mà
các cô gái Dao hay thêu cái đầu con
chó trên cổ áo. Ở Tứ Xuyên giáp giới
Vân Nam có một bộ lạc được gọi là người lai
chó. Chắc vì mối liên hệ với họ Bàn.
Mà Bàn Hồ nằm trong khối Viêm Việt nên cũng
có liên hệ với Rồng. Con cháu Li Vưu có
người gọi là Cẩu Long (chó rồng) là vì
liên hệ ngầm đó.
Lại còn truyện sợ
Phong Long mới ác. Ta
đã biết Phong Long là tên của Hiên Viên
thế mà tâm lý chiến của Việt trình
bày thế nào khiến các bà mới đẻ rất sợ
phong long. Việt Nam có câu “sinh dữ tử lành” theo
nghĩa các người mới sanh hay mang lại sự không may cho
ngừơi khác gọi là phong long. Vì thế sau khi sinh
đầy cữ phải đi đổ phong long bằng cách mua một vật gì:
đồng tiền do sản phụ trả ra có mang theo phong long, tức những
sự không may mắn. Nếu giữa đường ai gặp sản phụ thì gọi
là “chạm phong long”: ngày ấy làm cái
gì cũng hỏng, đi thì tất trược, buôn bán tất
ế. Muốn trút độc lại phải đi đổ phong long. Thế là dần
dần chim cú trở nên xấu xa: trong Kinh Thi bài thơ
Si Hiêu (số 155 Bân Phong) có câu:
Cú cơi cú
hỡi.
Cú đã bắt con
ta
Xin đừng phá
nhà ta
“Si hiêu, si
hiêu
ký thủ ngã tử
vô diệt ngã
thất”.
Việc có tính
cách phá nhà
hơn cả là tội bất hiếu, vậy mà cú là chim
mang tiếng bất hiếu: dám ăn thịt mẹ cha. Xưa chửi ai là
cú là câu thóa mạ nặng hơn hết. Điều
đó là do ám chỉ văn minh du mục không coi
trọng chữ hiếu. Chính vì sự tuyên truyền bền bỉ như
vậy nên đến đời nhà Châu không còn
dám coi trọng chim cú nữa. Nhà vua còn bắt
các quan phải ăn cháo chim cú lấy cớ là để
tránh tội bất hiếu bất trung (ông Creel cho là tục
này có từ đời Hán). Rồi Tàu nhận vật biểu
rồng: còn bao vật biểu của Tàu trước như hùm,
cú, cá… đều lần lượt bị đào thải. Vậy có
nghĩa là kết quả trận chiến kéo dài nhiều
ngàn năm với hậu quả là Việt tộc bị mất đất, mất
dân, mất tiếng của nhiều phát minh nhưng xét về văn
hóa thì Việt có thắng: thắng được một nửa nghĩa
là Tàu phải nhận rồng, còn thiếu chim tiên
(thiếu nguyên lý mẹ) nên Hán nho kể là
khập khiễng: có máu R thiếu máu T. Chỉ có
họ cha thiếu họ mẹ.
Kết luận là
chúng ta có những bằng chứng
cụ thể về tiên và rồng. Rồng là giao long,
xà long, Bàn, Quỳ. Còn tiên là
các loại chim nước mà dẫn đầu là Hồng Hộc với họ
Hồng Bàng, nên kể là có tiêu điểm vững
chắc để đẩy cuộc nghiên cứu xa hơn sang phần đất Trung Hoa cổ
đại; phải nghiên cứu lại toàn bộ cổ sử và tiền sử
nước Tàu từ tiên Tần về trước. Tuy đây là
việc rất nặng nhọc nhưng bõ công, vì đó
chính là nghiên cứu về nguồn gốc của một nền văn
hóa nông nghiệp thuấn tuý nhất, ơn ích hơn
hết cho con người mà Việt Nam lại có may mắn là kẻ
thừa tự có bằng khoán chói chang là trống
đồng Ngọc Lữ với Kinh Hùng, trong hai lâu đài ấy
có đầy ấn tích về tiên (chim) và rồng
Chương 6
TỪ
VIỆT
MỄ TỚI VIỆT THƯỜNG
Trên thế giới tưởng
không một dân tộc
nào gắn bó với văn hóa nông nghiệp
thâm sâu như dân tộc Việt, thâm sâu đến
độ đưa tinh hoa nông nghiệp lên làm đồ trang sức cao
cả, cũng như lấy nó làm dạng tự cho tên nước, hơn
nữa còn dùng làm danh tính. Tôi tạm
gọi giai đọan này là Việt Mễ. Nhưng rồi vì nghịch
cảnh con cháu đã quên trọn vẹn giai đọan khởi thủy
này, có thể coi như chạy trốn nên sẽ kêu
là Việt Tẩu, chính nó là đầu mối gây
nên cảnh nước mất nhà tan. Trước tình thế đó
chúng ta phải làm chi? Thưa phải mở ra giai đoạn mới gọi
là Việt Siêu để cố đạt tới Việt Thường. Vậy bây giờ
chúng ta đi vào nghiên cứu sơ qua về ba giai đoạn
trên.
VIỆT
MỄ
Hình cổ nhân
chi tượng trong Kinh Thư,
Ích tắc. Phấn Mễ số 22. Phủ Việt số 27.
Việt Mễ nói
lên tinh thần nông nghiệp
cách công khai nên chúng ta còn
có thể ghi lại một số điển chương. Trước hết là bảng
trang sức chỉ uy quyền mà Kinh Thư kêu là “Cổ
nhân chi tượng” (Thiên Ích Tắc, 4) gồm 12 điển
thì trong đó có phấn mễ (chữ hán) như xem
trong hình kèm theo (một bảng đầy tính chất Việt =
vì con số 3 hiện hình trong tất cả các vật, phấn
mễ lại tổ chức theo lối Loa Thành với 9 vòng, và
nhất là Phủ Việt với lưỡi cong cong. Nếu nghiên cứu cả
thời gian xuất hiện với không gian phân bố và
ý nghĩa của bảng trên thì đó là một
đề án rất thú vị.
Điều đó giúp
ta hiểu được tại sao viết chữ Việt
(hán) với bỗ mễ (hán), lấy mễ làm trung tâm
của quốc hiệu. Còn vòng ngòai nhái lại
hình mà có học giả cho là cái phủ
việt (hình trên số 27.
Chữ mễ còn được
dùng để chỉ danh tính
gọi là họ Mỵ là họ nổi nhất trong nước Sở. Nước Sở
là tên cuối cùng đời Xuân Thu Chiến Quốc chỉ
cái miền trước kia kêu là Kinh Sở, trước nữa
kêu là Kinh Việt, trước nữa là Châu Kinh,
cùng với Châu Dương làm thành nước của
ông cố Lộc Tục lấy hiệu là Kinh Dương Vương tức là
vua hai xứ Kinh và Dương và quê hương của
Bách Việt ở giai đoạn rút lui lần thứ hai hay ba.
Chính vì mối liên hệ đất tổ này mà họ
Mỵ còn lưu lại trong huyền sử nước ta dưới danh hiệu là
Mỵ Nương cũng đọc là Mễ Nàng và ta vẫnt hấy
bóng Mỵ Nương lờn vờn bên cạnh Hùng Vương là
để biểu thị cho nền minh triết nông nghiệp vốn gắn liền với
nguyên lý mẹ mà một trong các dấu bên
ngòai là tụ c Tả Nhậm như sẽ bàn rộng về sau.
Ở đây chỉ nhắc qua để
làm như mốc thời gian cho
giai đoạn thiết lập cơ sở tinh thần dân tộc dưới danh hiệu Văn
Lang. Văn Lang là một lá cờ tiên phong cho những
đức tính cao quý nhất của loài người mà
những hiện thực bên ngòai thì như là gieo
gặt, làm nhà, dệt vải, đồ gốm… Còn những bước
vòng trong là đức tự lập, tự cường đựơc un đúc do
tinh thần nông nghiệp là tự lực cánh sinh để thay
thế sự ỷ lại của thời săn hái. Săn hái ăn sẵn, nông
nghiệp tự “tay làm hàm nhai”, nên từ săn hái
bước vào nông nghiệp đòi phải có nhiều đức
tính tự lực, tự cường. Tiêu biểu tinh thần mới này
là Hùng Vương, một danh hiệu bao trùm đức tự cường
cao độ với những đức tính khác như tự do, tự phát
triển và bình đẳng được biểu lộ trong nền thống nhất tinh
thần đặt trên chế độ bình sản, khiến cho không
có chế độ nô lệ kiểu bên có bên
không. Huyền sử nói mẹ Au Cơ vứt bọc trứng ra đồng
mà trăm con đều phương trưởng tức hàm ngụ chế độ
bình sản: ai cũng được có phần tài sản. Đó
là đại khái mấy nét định tính nước Văn
Lang, cần nói thêm rằng nó vẫn còn là
lý tưởng của nhân lọai cho tới tận nay. Hiện tất cả
các triết gia nhân bản đang tranh đấu ráo riết cho
lòai người có được bấy nhiêu thôi, mặc dầu
phương tiện và hòan cảnh có khác, nhưng
lý tưởng thì đã cao vời vợi, nên tiền
nhân ví với tầm bay cao của chim Hồng chim Hộc gọi
bóng là họ Hồng Bàng “xuất hiện năm 2879 tr.cn”.
Đây chỉ là niên hiệu huyền sử phải hiểu cách
co giãn, mà trong thực tế nên đưa lên xa hơn
là hạ thấp. Vì khoa khảo cổ mỗi ngày gặp
thêm dấu vết chứng tỏ nền văn hóa này đã
có từ lâu lắm, ít nhất cũng từ đợt Bắc Sơn với
nét song trùng của nó đã xuất hiện từ lối
7-9 ngàn năm. Giai đoạn Văn Lang này đã chấm dứt
với nhát gươm oan nghiệt của An Dương Vương giáng xuống
đầu Mỵ Châu.
VIỆT TẨU (chữ
hán)
Chữ tẩu có ý
dùng để nói
lên sự bỏ chạy cả về vật chất lẫn tinh thần. Vật chất là
những bước Viêm Việt rút lui khỏi địa bàn tổ. Địa
bàn tổ này ở bước một là tòan cõi
nước Tàu với những người cư ngụ đầu tiên mang danh hiệu
là Viêm tộc rồi Cửu Lê với Tam Miêu. Đó
chỉ là những danh xưng tổng quát chỉ liên
đoàn các dân thổ trước dưới quyền lãnh đạo
của Li Vưu cùng nằm trong liên hệ văn hóa
nông nghiệp biểu thị bằng bộ điền (chữ hán = chữ
miêu kép bởi điền và thảo). Dân tộc Trung Hoa
mớ xuất hiện sau tự Đế kỷ, với vụ “Hòang Đế Chiến Si Vưu” rồi
lớn mạnh dần lên, đó là bước tẩu lền đầu của Việt.
Bước hai Bách Việt
còn giữ được vùng Nam
là Hà Nam Hồ Bắc và ăn chéo lên
phía Đông, như những nước Lỗ, Tề, Yên với
vùng Thái Sơn… còn nói tiếng của Lạc Địch
là những chi của Việt tộc. Nhưng về sau cũng bị đuổi nữa để bước
cuối cùng còn lại có vùng Lưỡng Việt
mà vua Quang Trung toan đòi lại gồm hai tỉnh Quảng
Đông và Quảng Tây. Đây là nghĩa vật
chất của chữ tẩu. Còn nghĩa tinh thần là vụ Việt tộc
quên dần bản gốc là siêu lên chỗ văn minh tinh
thần gọi là hỏa đức ở phương nam (quẻ li) để đi vay mượn hết mọi
cái của Tàu từ chữ viết đến chính trị, kinh tế
v.v… Khởi thủy vụ đó là từ Triệu Đà, mà
việc tiêu biểu hơn hết vụ Mã Viện thâu thập trống
đồng là điển chương văn hóa cao nhất của Lạc Việt nay bị
đúc chảy ra mất hình dạng cũ để đổ vào khuôn
du mục Bắc phương biểu thị bằng ngựa (Hồ) “Hồ mã tê Bắc
Phong”. Từ đấy nước ta cũng quay trọn vẹn về phía Bắc để mượn
văn minh Tàu gồm mấy yếu tố chính là nhà
nước, pháp luật, quân đội, chữ viết và thành
thị. Mấy yếu tố này tuy đã manh nha ở giai đoạn văn
hóa, nhưng chưa hình hiện quyết liệt như ở đợt văn minh,
nhất là chữ nho, mà đạo lý trung thực của
nó chính là Việt Đạo đã được công
thức hóa (điểm này rắc rối chờ xem Sứ Điệp Trống Đồng)
và đó là liên hệ nằm ngầm giúp cho sự
đón nhận văn minh Trung Quốc trổ nên êm thắm, đến
đỗi sự quên gốc đã trải dài trên hai
ngàn năm mà hầu như không có phản ứng. Cả
đến mấy truyện về họ Hồng Bàng, về nước Văn Lang đều bị coi
là quái đản, kể cả người thâu thập cũng đặt
tên sách là “Lĩnh Nam Trích Quái”.
Cuộc vong bổn này còn trầm trọng hơn nữa khi tiếp cận với
văn minh Thái Tây tì những truyện trong Lĩnh
Nam bị hiểu thấp xuống đến trình độ “khoa học” nên nhiều
người đổ xô đi tìm xem trong thế giới kim cổ có
người đàn bà nào đẻ trứng chăng (chưa dám
nghĩ đến để một phát mà được trăm trứng). Có
dân nào mà cơ thể học chứng minh được là hai
ngón chân cái giao nhau. Làm sao 18 đời
Hùng Vương kéo dài được hơn hai ngàn năm
v.v… Vì tìm không ra nên cối tuột, cho
là chuyện nhảm rồi nhân tiện mạt sát chữ nho
mà không ngờ rằng chữ nho chính là một rong
những đầu mối giúp tìm về địa bàn tổ.
Thực dân Pháp
cảm thấy rõ điều ấy,
nên quyết tâm phá nho, họ biết rằng bao lâu
unho giao còn tồn tại thì không thể nào đồng
hóa nổi người Việt Nam. Nghe đâu mới đây bên
Pháp có ra đời một sách trong có nhắc tới
vụ này nhan đề là Les missions et leur protectorat
gì đó của De Lanessan (?). Trước sự tấn công “khoa
học” như thế, trong giới trí thức Việt nhiều người từ khỏan 1930
trở đi đã muốn đoạn tuyệt với văn hóa cũ, muốn quên
hẳn gốc tổ để “tự lực văn đoàn”. Ngừơi thì cho rằng
dòng dõi ta là Tàu, kẻ khác cho
là Indônêdiêng, người khác nữa
thì bảo nguồn gốc Việt Nam là Mã Lai, còn
một số cũng gọi là tìm về văn hóa dân tộc
nhưng chỉ tìm tới nhà Lý, cùng lắm
lên tới Triệu Đà tức không ra khỏi giai đoạn vong
bổn nên quanh quẩn vòng ngoài không sao trở
lại được quê tổ. Chính vì thế khi quyển Việt
Lý Tố Nguyên nói lên mấy sự thực khác
trước, nhất là nhấn mạnh về nguồn gốc văn hóa xét
như là xuất hiện trước nho giáo, Kinh Dịch thí dụ
không thể phát xuất từ Bắc phương được v.v… thì bị
đả kích nặng nề. Tất cả sự đả kích đó đều
là tang chứng của sự chạy trốn khỏi nguồn gốc nước nhà
đã khởi tự An Dương Vương rồi đến thời mới trở nên quyết
liệt đến độ đặt mình trọn vẹn vào quỹ đạo Thái
Tây gây nên nhát gươm thứ haigiáng
xuống đầu miêu duệ của Mỵ Châu ngày 30/4/1975 cũng
có đủ: kẻ thì máu chảy, kẻ thì mất đầu, một
số nhỏ thì rẽ nước chạy vào biển… Y hệt. Vậy là
tan nát hết chăng? Thưa không vì còn
có Việt Thường nữa.
VIỆT
THƯỜNG
Xưa kia tôi cứ tưởng
chữ thường trong tên Việt
Thường có nghĩa là thường hằng là văn hóa
Việt sẽ trường tồn mãi mãi, vì thế tôi muốn
viết chữ thường là thường hằng (hán). Nhưng khi đọc chữ
nho lại thấy viết chữ thường y xiêm (hán). Tôi đặt
câu hỏi phải chăng người xưa viết lầm hay có ngụ ý
gì đây?
Và tôi nghĩa
là đã tìm ra
câu đáp trong khi nghiên cứu trồng đồng, vì
trên mặt trống có tạc hình đoàn vũ trang sức
tòan bằng lông chim. Nhìn đi ngắm lại đòan
vũ để tìm ra ẩn ý làm tôi liên tưởng
đến bài “nghê thường vũ y khúc” (hán). Ban
đầu tôi không chú ý lắm vì các
sách đều nói đó là tên bài
các tiên ca múa trên cung quảng hàm do
vua Đường Minh Hoàng đã thấy khi được tiên cho vua
lên chơi trên cung quảng. Nhưng xét lại thì
đó chỉ là truyền thuyết không lấy gì
làm căn cứ. Vì thế tôi lại xem xét kỹ từng
chữ trong tên bài vũ thì thấy nó hợp với
đoàn vũ Trống Đồng từng điểm như sau:
Nghê: màu đỏ
ráng tức màu hồng
lúc rạng đông.
Thường là xiêm
y. Nghê thường là
xiêm bằng lông chim có màu sắc ráng
(màu đỏ hồng).
Vũ là lông
chim. Theo sự xếp đặt trong nguyệt
lệnh thì lông chim là vũ đi với nông nghiệp
ngược với lông mao con thú đi với du mục. (chữ Vũ Sơn
thuộc Tam Miêu (Việt) nên cũng đọc Miêu Sơn, rồi
vì vần thơ đọc Miêu ra Mao, nên vô ý dễ
lẫn với lông mao con thú).
Vì vậy khi dân
nông nghiệp (Tam
Miêu) múa thì bao giờ cũng mang lông chim,
chim đó có khi là chu tước một giống chim trĩ
tiêu biểu phương Nam. Chữ chu đây không là
thuộc nhà Chu mà là chu đỏ lửa, đỏ mặt trời, học
giả dịch là pheasant vermillon. Vỉ ngưởi ta thấy hình
chim nhiều trong nghệ thuật nhà Hán, nên một số
tác giả kêu là con tước nhà Hán
chính ra là con tước đỏ. Cũng có khi gọi là
địch như trong tiếng “địch y”. Chữ địch đây có nghĩa
là ngũ sắc, địch y như vậy có nghĩa là áo
bằng lông chim ngũ sắc. Đó là thứ xiêm y
mà tổ tiên Việt đã mặc trong khi ca vũ, hai
đàng gắn chặt với nhau đến độ vũ y đã trở nên con
dấu bản quyền hễ đâu có ca múa với xiêm
áo bằng lông chim thì đấy là bằng
khoán chủ quyền văn hóa Việt. Như vậy bài
“Nghê Thường Vũ Y Khúc” có phải là của Việt
chăng? Nếu theo truyền thuyết Đường Minh Hòang thì
không. Nhưng nếu xét theo lịch sử thì ta có
quyền quả quyết đó đúng là bài vũ
trên trống đồng mà không mang tiếng nhận vơ,
vì bên kia chỉ có một giấc mơ của một ông vua
vào thế kỷ thứ bảy. Còn đàng này là
chứng tích cổ sử cũng như khảo cổ gần hai chục thế kỷ trước.
Khảo cổ là trống đồng đã có vào đầu
thiên niên kỷ tr.cn, còn cổ sử là đòan
vũ của Li Vưu với các sử liệu khac mỗi khi nhắc đến vũ là
phải có lông chim, cho nên muốn đúng tinh
thần khoa học phải xử cho Việt được. Và do vậy chữ Việt Thường
(xiêm y) chính là con dấu chủ quyền bài
hát đó.
Tại sao có một
bài hát mà phải
giữ chủ quyền? Thưa vì bài ca vũ đó biểu lộ Đạo
Việt một triết lý tác hành, nên biểu thị
bằng vũ bằng ca. Ca vũ là tác động An Vi hơn hết, tức
không nhằm lợi ích vật chất mà chỉ là việc
tu luyện đạo để được lên tiên, nên dùng biểu
hiệu chim vì chim bay cao. Vì vậy tiên đã
được đồng hóa với chim nên khi tu đắc đạo gọi là vũ
hóa trở nên có cánh. Đó là dầu
lọai máu TR của Việt nên có đầy đủ trong trống
đồng. Yếu tố T (tiên) thì là chim tràn đầy
trên mặt trống, còn yếu tô R thì nằm bao
quanh tang trống (tức là 6 thuyền rồng). Phải hiểu chữ rồng đồng
nghĩa với thuyền. Thuyền rồng có nghĩa là thuyền
đã biến ra rồng.
Đó là triết
lý (hay đạo) lạc quan
tràn ngập mà vũ trụ quan gọi là con tạo, hoặc
“hóa nhi đa hí lộng”. Hí lộng (chơi vui nô
đùa) là hành động an vi nhất, cao cả nhất của con
người, vì chơi thực không màng chi tới lợi
ích mà chỉ là chơi là nô đùa
hí lộng. Xin nhắc lại lời sách Hùng Vương sự
Tích Ngọc Phả Cổ Truyền nói rằng “Vua Kinh Dương Vương
lập đô ở phía Hoan Châu thuộc Nghệ An xứ”. Câu
này nói lên hai điều: một là đạo Việt được
quan niệm như nghệ thuật. Cứu cánh của nghệ thuật là
hòa cái vô biên vào cái hữu
hạn. Nói khác dùng một vật thể nào
đó để biểu hiện cái không thể biểu hiện gọi
là linh, là thần, là vô biên.
Sách xưa nói Kinh Dương Vương đóng đô ở
“Nghệ An xứ” có lần đi du thuyền đã tới tận Động
Đình Hồ. Đó là huyền sử để chỉ Kinh Vương quả
là Nghệ tổ, vì đạt tới cùng đích nghệ thuật
là hòa tròn với vuông, hòa
thiên với địa, địa vuông chỉ bằng đình vuông
(hay chữ nhật) chỉ cái gì có hình thể.
Còn thiên viên là hồ (tròn) chỉ trời,
chỉ vô biên.
Điều hai là đạo
đó là đạo tích
cực gây an vui hoan lạc. Huyền sử kể “lập đô ở phía
Hoan Châu” là muốn nói lên điều đó.
Mấy tên cổ của nước ta cũng hàm tàng ý
đó như Di là an vui, Lạc là hoan lạc. Đây
chỉ một sự an vui hoan lạc siêu hình có tính
cách trường tồn hằng hữu vì thế Việt Thường y xiêm
chính là biểu hiệu Việt thường hằng hữu vậy.
Tóm lại chữ thường
trong Việt Thường nói đến
đạo Việt là đạo tiên rồng mà hậu quả là an
vui hoan lạc. Đó là nền triết siêu Việt mà
con người gặp được trên những chặng tu cao để tiến tới cõi
bất tử.
Ý
NGHĨA CHỮ HOÀNG TRONG HAI TIẾNG HOÀNG VIỆT
Ý nghĩa chữ
Hoàng tìm thấy trong hai văn
kiện quan trọng nhất của Việt nho: một là Hoàng Cực
(trong lược đồ ngũ hành) quen dịch là sự hoàn hảo
cao trọng nhất (la perfection royale). Thứ đến là trong huyền
thoại Tam Hoàng là Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông.
Đó không là những nhân vật lịch sử mà
là những dạng thức tối sơ của một đạo lý mà sau
này Nho sẽ công thức hóa thành thuyết Tam
tài: Thiên, Địa, Nhân.
Thiên được đại biểu
trong vai Phục Hy có họ
Phong là gió (trời).
Địa trong vài Thần
Nông đầu bò để
cày ruộng (đất).
Nhân trong vai Nữ Oa
đang bồng trong tay thập tự nhai
để chỉ con người đại ngã được định nghĩa là đức của trời
cùng đất. Trời nét dọc, Đất nét ngang làm
thành thập tự nhai trong tay Linh mẫu Nữ Oa.
Đây là cơ cấu
uyên nguyên của nền
nhân chủ, một nền triết đã giải thoát con người
khỏi những trăng trói của dị đoan để con người hiện thực được
quyền làm người, tự làm chủ lấy vận hệ mình,
tìm được đủ túc lý ngay nơi mình để
làm người khỏi cần đến ngoại viên, nhưng đường đường một
vị trượng phu. Đó là đại để ý nghĩa chữ
Hoàng, nó chỉ mức độ cao cả hơn hết của chí thiện
y như trong nước thì vua là cao trọng hơn cả, một thứ cao
cả toàn bị không cần đến tha lực.
Bây giờ ta hãy
xem chữ Hoàng Việt
có liên hệ nào chăng với chữ Hoàng nọ.
Và ta thưa được là có lắm, đó là
liên hệ họ máu hàng dọc. Chứng cớ là
vào thời khai sáng nước Văn Lang, Lạc Long Quân
đã diệt Hồ tinh, Mộc tinh, Ngư tinh. Đó là loại
danh chỉ các thứ dị đoan đã khống chế giam giữ con người
khắp nơi trong cảnh vong thân không để cho ngoi lên
được bậc nhân chủ. Trái lại nhờ vua cha đã
phá hết mọi trở ngại nên vua con là Hùng
Vương đã có thể kiến tạo một nền nhân chủ
toàn triệt có tầm vóc lớn như vũ trụ, được biểu
thị bằng cặp bánh Trời Đất với ẩn nghĩalà con người sẽ
tránh được nạn vong thân bằng học nền nhân đạo nọ.
Nhờ vậy mà con cháu có những mẫu người như
Thánh Dóng làm nhưng việc đáng mặt
là “Xung Thiên Thần Vương”, với cô Liên nối
trời cùng đất trong truyện trầu cau. Cau đứng thẳng chỉ trời,
đá vôi nằm dưới là đất. Cô Liên
hóa thành cây leo chung quanh liên lạc cả hai
lại thành hình đỏ thắm. Đó là mấy
nét chấm phá vẽ lại cái sơ đồ của Đạo Việt khi mới
xuất hiện, sau này nó sẽ lu mờ đi hầu như tắt hẳn, đến
nỗi ai cũng cho Phục Hy, Nữ Oa là người Tàu. Đó
là một sự lầm truyền kiếp đã gây ra tự đời
nhà Chu đầu nhà Hán do những người nặng óc
thần tiên đề cao Đạo Lão, rồi tôn vinh Hiên
Viên làm Tị tổ văn minh Tàu. Tư Mã
Thiên đã mở đầu sử nước Tàu với Hiên
Viên Hoàng Đế mà không với Nghiêu Thuấn
như kinh Thư. Tuy rất nhiều Nho gia đã bài bác Tư
Mã Thiên về điều đó nhưngvì sự phê
bình không thấu triệt nên cuối cùng bộ ba Tam
Hoàng bị Tàu hóa. Vì thế ở đây phải
dùng phương pháp huyền sử để phanh phui một vụ đạo văn
khổng lồ trong lịch sử văn học Việt Nho.
Vụ đó mở đầu bằng
Hiên Viên được
gán cho tên là Hoàng Đế bằng cách
xóa bỏ tên Nữ Oa đi để đưa Hiên Viên
vào với danh hiệu Hoàng Đế. Đây là một việc
đánh tráo mà dọc dài 25 thế kỷ không
một ai ngờ, mãi cho tới nay mới có một số học giả
hé nhìn thấy nhưng lại bị chính quyền như Tưởng
Giới Thạch đã làm vào quãng 1920 khi cấm
phát triển phong trào thu thập những truyền kỳ cổ
tích thần thoại Tàu. Vì qua sự phân
tích các huyền thoại về khai quốc chính quyền nhận
thấy sự nguy hại cho hào quang vinh hiển vẫn bao quanh những
trang sử Tàu khi các tên tuổi như Phục Hy, Nữ Oa
v.v… đều được nhận ra là các thần tượng hay vật tổ của
các bộ lạc thổ trước. Ấy là lúc cuộc khai quật của
các học giả mới ở đợt văn học, cổ sử, chứ chưa đi tới đợt triết
mà đã vậy. (xem thư tịch ởo dưới số 10.12)
Hôm nay chúng
tôi sẽ tiếp tục việc
trên bằng dùng phương pháp huyền sử và cơ
cấu. Trước hết hãy xét tên Hoàng Đế.
Đó là một mâu thuẫn tố cáo sự chiếm đoạt,
chữ Hiên Viên chỉ là đế không thể là
Hoàng. Chữ Hoàng đi với hoàng cực là sự
trọn hảo cùng cực, mà cho được thế thì phải vượt
qua các đợt vòng ngoài (to have) để nhập trung
cung (to be). Trung cung cùng với thần là một, mà
thần vô phương không đâu không có, cần
chi phải chiếm đoạt, phải lập đế quốc, mà vẫn làm được
các việc lớn lao có tầm vóc vũ trụ, như Tam
Hoàng biểu lộ rõ rệt không hề xâm chiếm của
ai. Trái lại Hiên Viên xuất hiện với đạo quân
hổ, bào, hùng, bi, đã giết Thần Nông, diệt
quân Li Vưu ở Trác Lộc máu chảy hàng trăm
dặm: hoàn toàn là đế (quốc) có chi
hoàng đâu mà nói hoàng đế? Nói
đế là thò cái đuôi đế quốc ra rồi đó.
Sau này vì Tam Hoàng bị Tàu hóa,
nên chữ đế được dùng nhiều đến độ lấn át chữ
hoàng. Thay vì nói Hoàng Đạo thì
người ta nói Đế Đạo. Nói Hoàng Đạo thì dễ
bị lộ, vì có Hoàng Việt đó, nó sẽ
hỏi tại sao Hoàng Đạo lại không là của Hoàng
Việt mà là của Tàu. Vì thế mà chữ Đế
được thịnh hành trong bộ ba: Đế đạo, vương đạo, bá đạo.
Gọi thế là đã
bị lầm theo óc đế quốc
chiếm đoạt của Hiên Viên đẩy Nữ Oa ra khỏi bộ Tam
Hoàng. Thế là đi đời Tam Hoàng. Vì
Hoàng Đạo cũng là Hoàng Cực mà cho được vậy
thì ngoài dương phải có âm trong, âm
đây biểu thị bằng Nữ Oa đóng vai nguyên lý mẹ
cách huy hoàng với những tác động có tầm
vóc vũ trụ (vì vậy mới đáng tên nguyên
lý mẹ) nay bị đẩy ra đưa Hiên Viên đực rựa
vào thì còn chi là đạo, mà chỉ
còn là một thứ duy nào đó, ở đây
là duy dương thiếu nước, vì Hiên Viên đi với
Nữ Thần Bạt là thần coi về đại hạn: thế là Hoàng
Việt bị đoạt mất hồn. Đây là một vụ xâm chiếm
lớn lao đến nỗi Thượng Đế cũng bị luôn. Các sách
sau này khi viết chữ hoàng thiên thượng đế
thì toàn viết chữ hoàng bạch vương (chữ
hán) mà không dám viết hoàng
lúa chín (hoặc ruộng (hán) công (hán)
hợp lại ra hoàng (hán)). Đấy là một tội phạm
thượng tày trời vì dám đẩy Thượng Đế ra rìa
phía Tây (bạch đế trấn Tây thổ) để chỗ cho
Hiên Viên, lấy cớ rằng Hiên Viên cai trị theo
thổ đức, nên phải viết hoàng trung cung (thổ là
trung cung của ngũ hành). Thôi thì cũng tạm cho qua
vì vào ở cung Thượng Đế mong để được nhờ hồng phúc
của trời. Đàng này vào được rồi hạ bệ luôn
cả trời, bắt trời phải mang áo của bạch đế tức bắt trời coi
có góc tây của trời. Ấy là chưa nói
đến cái chữ hoàng bạch vương lúc xưa còn bị
xấu lây vì nó giống chữ tội xưa. Sau này Tần
Thuỷ Hoàng không chịu được bắt lập ra chữ tội mới
là tứ phi (hán) thay cho chữ tội cũ (hán) giống
chữ hoàng (Need I. 28). Trời mà còn bị xử tệ đến
thế, huống chi Hoàng Việt thì sức mấy mà được viết
với chữ hoàng cực, hoàng trung cung màu lúa
chín với “ruộng công” theo lược đồ chữ tỉnh tức là
giếng của Việt, thế là người xưa khi viết Hoàng Việt lại
phải hạ chữ hoàng bạch vương. Vậy là Việt bị mất tổ
mà không ai dám nghĩ tới, dù chỉ
thoáng qua rằng Tam Hoàng là tị tổ của
Hoàng Việt. Vì thế ngày nay muốn phanh phui vụ
này thì cần phải dùng phương pháp thử
máu của huyền sử và cơ cấu luận mới xong cho.
Trong một bài
khác chúng tôi
đã mổ xẻ văn hóa của Việt tộc và thấy rằng
đó là loại máu T.R (Tiên Rồng). Chúng
tôi đã phải chứng minh bằng cả khảo cổ lẫn một chuỗi những
huyền thoại để chứng tỏ rằng loại máu T.R không phải một
sự ngẫu nhiên hoặc chỉ là một câu chuyện văn chương
phù phiếm mà chính là cái gì
căn cốt nhất ví như khí huyết đã đem lại sự sống
mãnh liệt cho văn hóa Việt. Bây giờ muốn biết Nữ Oa
Phục Hy có phải là của Việt chăng thì chỉ cần thử
máu: hễ cùng dòng máu T.R là
đúng Việt. Trước hết về Phục Hy thì dễ thấy vì
tên tự của Phục Hy là Thương Tinh nghĩa là
rông xanh tức là máu họ R. không ai chối
cãi được.
Nữ Oa thì có
phần khúc mắc một
chút nhưng tìm kỹ thì cũng thấy bà thuộc
loại máu T. Ta biết tiên được biểu thị bằng chim, vậy
mà Nữ Oa sinh ở Đồ Sơn cũng có tên là Vũ Sơn
(chữ vũ (hán) là lông chim) trong châu Phượng
Tường (phượng là chim phượng). Nhiều sách nói Đồ
Sơn chính là Cối Kê kinh đô Việt Chiết Giang.
Nhưng trong phạm vi huyền sử không cần xác định nơi cho
bằng xem ẩn nghĩa, lúc ấy ta sẽ thấy Vũ Sơn, Phượng Tường cũng
là một loại tên chung như Bạch Hạc ởo Phong Châu của
Âu Cơ Nghi Mẫu. Như vậy thì Nữ Oa là bà nội
cùng dòng máu họ tiên; rõ hơn nữa
là khi bà tịch thìhóa ra chim Tinh Vệ tha
đá lấp bể Đông, có sách nói à
để hả giận vì bể làm bà chết đuối. Nói vậy
là lầm theo Hiên Viên tìm cách triệt
hạ uy tín của bà để nhẹ cái tội chiếm đoạt của
mình chứ làm sao mà bà chết đuối được,
bà thường xuyên xuống biển để gặp rồng xanh, nên
đuôi đã hành cá hoặc rắn (rồng) sức mấy
mà chết đuối, chỉ vì mối tình thâm hậu
vô cùng với rồng xanh nên khi chết không nỡ để
cho rồng xanh cô độc, nên hóa ra chim tha đá
bỏ xuống biển để cho hai mối trời (đá) đất (biển) được giao
thoa. Nói cụ thể là để bảo vệ con người đại ngã
được biểu thị trong quẻ kiền của Kinh Dịch là long đức,
thành ra chim Tinh Vệ nghĩa là chim (bảo) vệ tinh tức
là Thanh Tinh (rồng xanh). Vậy chim Tinh Vệ tha đá lấp bể
đông chỉ là một hình ảnh đầy thi vị để cụ thể
hóa thập tự nhai được bồng trong tay Nữ Oa lúc sinh thời
(lúc đang quấn đuôi bà đuôi ông). Với
Phục Hy thì Nữ Oa là vợ mà đồng thời cũng
là em. Đây lại là thêm một bằng chứng rằng
Phục Hy Nữ Oa là người cổ Việt vì anh em lấy nhau
là mô dạng huyền thoại của Đông Nam Á,
mà dấu vết còn sót lại nơi các dân
Mon Khmer, bên ta có tích nàng Tô Thị
lấy anh đến khi anh bỏ đi thì Tô Thị ở nhà chờ mong
biến thành đá. Bên Nhật anh em Izanagi va Izanami.
Bên An Độ là cặp đôi Yama và Yami…
Vậy là giải quyết
xong vụ thử máu Nữ Oa Phục Hy
cả hai cùng một loại máu T.R. như Âu Cơ Lạc Long
Quân, nên kết luận được Phục Hy Nữ Oa chính
là tị tổ của Hoàng Việt. Chúng minh như vậy quả
đã vững vàng. Tuy nhiên cần đẩy xa hơn để
nghiên cứu về động ứng và tác hành xem “mang
máu anh hùng con cháu có khỏi làm hư
máu anh hùng” = có còn giữ được tính
chất tinh tuyền của Tam Hoàng tị tổ chăng?
Xin nhắc lại Hoàng
là giai đoạn an vi
nguyên thủy nó ở tại đặt căn để trên con người tự
lực tự cường, biết hiện thực hết các chiều kích của con
người Đại Ngã Tâm Linh được biểu thị bằng những tác
động lớn lao như vá trời, lấp biển. Vậy ở đây trong
dòng dõi Việt ta cũng thấy những tác động xứng
đáng họ Hoàng như các ông khổng lồ Việt,
ông thì chống Trời, ông thì san Đất, cắn
núi, húi sạch rừng… không thiếu gì những
tác động mênh mông như Trời cùng Đất.
Đó là những việc tạo ra cho con người một hình ảnh
Đại Ngã Tâm Linh của mình, xứng đáng đứng
ngang hàng với Trời cùng Đất để nói được
“Ta cùng Trời Đất ba
ngôi sánh
Trời Đất Ta đây đủ
hóa công”.
Nói được là
con cháu không giống
lông thì cũng giống cánh: không một cử động
nào làm ta phải hổ ngươi. Đó quả là một nền
nhân chủ trọn hảo. Vậy mà nền nhân chủ an
nhiên tự tại nọ ta được thấy vẽ lại trong văn hóa Việt với
họ Hồng Bàng với Lạc Long Quân lấy Âu Cơ tức họ
máu hàng dọc của loại máu T.R đặt nền trong con
người. Nhưng sau này khi văn hóa Tàu thành
hình hẳn ở nhà Chu, thì nền tảng đặt sang
Thiên mệnh và Thiên chí. Vậy là mở đầu
nguy cơ có thể đặt nền ra ngoài con người rồi đó.
Nhưng rồi những người ý thức đã phản pháp lại
trong câu nói “thiên mệnh chi vị tính” với
ý nghĩa rằng thiên mệnh đây không nên
hiểu lên trời hay dưới đất, mà thiên mệnh là
chính tính con người. Do lý do đó mà
tôi đã ghép chữ Nho vào Việt thành ra
“Việt Nho”, vì trong những điểm nền tảng thì Nho
nguyên thủy đã duy trì được Việt đạo như thí
dụ câu nói mở đầu sách Trung Dung vừa trưng ở
trên rằng “Thiên mệnh chi vị tính”.
Theo Chu Nho thì
thiên mệnh ở trên trời
và đã ban cho vua để mang lại đức chính thống.
Việt Nho cãi lại rằng: thiên mệnh không ở trên
trời nhưng nằm ngay trong con người, nơi sâu thẳm nhất, cốt
cách nhất đó là tính con người. Còn
biết bao câu nói khác không thể kể hết ở
đây (xem Sứ Điệp chương bàn về Nho công thức
hóa nội dung Việt). Xem xét Nho nguyên thuỷ rồi sẽ
thấy rõ toàn bộ cuộc cách mạng của Nho ở tại phục
hoạt tinh hoa của Hoàng Việt, một đạo lý đem lại cho con
người tính cách an nhiên tự tại vì đã
khám phá ra nguồn suối muôn sự lành ngay nơi
lòng mình, gọi bóng là Việt Tỉnh, khỏi cần
đi chinh phục ở ngoài. Tất cả những điều này được
bàn dài trong quyển Kinh Hùng cho nên
có thể nói là đã được minh chứng tạm đủ để
phần thượng tầng cơ cấu gồm Phục Hy Nữ Oa, bây giờ xin bàn
đến hạ tầng cơ sở đại diện bằng Thần Nông.
THẦN
NÔNG
Huyền sử nước ta được nối
với Tam Hoàng bằng truyện
cháu ba đời vua Thần Nông là Đế Minh tuần
thú phương nam gặp Vụ Tiên trên núi Ngũ Lĩnh
v.v… Nhiều người nay kỵ Tàu đến cực độ nên cho đó
là cái lầm truyền kiếp do các cụ xưa có
ý móc sử nước nhà vào với Tàu cho
nước mình được oai lây. Nhưng xem lại thì đó
là oan cho các cụ và chính sự đổ oan
đó mới là cái lầm truyền kiếp, cái lầm vong
bản. Ai đã nghiên cứu về cổ sử Tàu cũng sẽ nhận ra
rằng văn hóa Tàu mới có từ đời Chu (thế kỷ 12
tr.cn) nhưng rồi vì tự ái dân tộc quá
khích, nên đã tạo ra nhân vật Hoàng đế
để cướp ghế điền tổ của Thần Nông để dân cho ông
Khí, được nâng lên bậc Thần, gọi là Hậu Tắc
(the Lord of Millet). Thế là từ đấy Hậu Tắc ăn hớt cả tên
tuổi lẫn tế tự của Thần Nông vì từ nhà Chu,
Tàu chỉ tế có Hậu Tắc mà không tế Thần
Nông nữa. Xã tắc chiếm chỗ của Thổ thần ở nông
thôn: Thần nông chịu lẩn quất trong hai cặp chữ thổ thần
và nông thôn đó.
Vậy Tắc là chi? Thưa
là một thứ
lúa(panicum) nên cũng là nông nghiệp, nhưng
thuộc loại ruộng khô (lại thiếu nước như Hoàng Đế), chỉ
phát triển nhiều ở vùng Tây Bắc nước Tàu
(Cam Túc và Thiểm Tây) nơi có đất
vàng (loess), còn phần rất lớn nước Tàu (đến 80,
90%) là ruộng nước với lúa mễ, chữ nho kêu
là đạo. Khi kể về ngũ cốc thì bao giờ cũng nói đạo
đầu trước hết (Đạo, thử, tắc, mạch, thục). Thử cùng một loại với
tắc (panicum) cũng như thục là một lại của mạch. Thứ tự
đó bao hàm ý rằng Thần nông mới là
chính còn Hậu tắc vừa nhỏ bé vừ đến sau mới
xía vào mà lại còn đòi độc chiếm
ý như Hoàng Đế đã xía vào chiếm ghế
Nữ Oa vậy.
Chỉ phân tích
sơo sơ thế đủ thấy rằng Tam
Hoàng là của Hoàng Việt, hoặc nói cho thanh
nhã là tổ chung của cả Việt lẫn Tàu cổ sơ, thế
nhưng vì óc đế (quốc) chiếm đoạt che lấp nên
các đời sau không thấy được nữa cái vai trò
sáng lập của Thần nông. Trong văn hóa lưu truyền
có câu “Thần nông nhân miêu nhi
giáo”, Thần nông thiết lập giáo hóa
trên nền tảng cây mạ, tức trên nền tảng ruộng nước,
vì thế mà xưa ki bộ canh nông gọi là Tư Đồ
cũng là bộ giáo dục luôn. Nói vậy nghĩa
là văn hóa Tàu phần gọi là nho hoàn
toàn phát xuất từ nông nghiệp ruộng nước trải ra
trên 80, 90% nước Tàu, nhất là miền Đông Nam
kể cả hai lễ trọng đại nhất là Phong Thiện biểu thị cho
nét song trùng sơ thuỷ (tế trời đất) nói là
có tự đời Vô Hoài tức là lâu đời
không còn nhớ tên vị sáng lập được nữa, nhưng
cũng phát xuất tự miền núi Thái Sơn với ruộng
nước.
Vậy thì nền văn
hóa phát xuất tự nước
đó là của ai nếu không là của Việt tộc, nhất
là Lạc Việt, nên nhớ Lạc thư đã ghi sẵn tên
Lạc (Việt) vào trong rồi, xưa nữa thì có tên
là Cửu Lạc. Và nên nhớ trong cái nõn
chữ Việt xưa chính là chữ mễ mà mễ là kết
tinh của lúc ruộng nước. Sau này chữ Việt với bộ tẩu với
nghĩa là siêu việt thì không có
gì nghịch lý hết. Vì văn hóa nông
nghiệp đã có sức siêu lên tận bậc tâm
linh, y như Nữ Oa có thể bay lên trời mà còn
vá trời nữa, siêu việt đến thế là cùng.
Thiết tưởng bàn như
vậy đã tạm chỉ cho thấy nội
dung chữ Hoàng là chi, và biết đại khái
nó thuộc về Việt tộc như thế nào. Tuy nhiên
vì nói kiểu cơ cấu với huyền thoại Nữ Oa Phục Hy sợ rằng
nhiều ngừơi sẽ hỏi tại sao đang lúc nước mất nhà tan cần
phải lo cứu gấp đồng bào, nghĩ đến việc phục quốc mà lại
phí giờ đi tranh luận xem Nữ Oa là người Tàu hay
Việt. Xin thưa rằng trên đây không phải là vấn
đề chỉ có tầm mức hàn lâm sách vở
dành cho những lúc trà dư tửu hậu mà
chính là vấn đề có liên hệ đến vận mệnh quốc
gia dân tộc, bởi vì nếu không giải quyết xong vấn đề
nọ (Nữ Oa là Việt hay Tàu) thì khó thể kiến
tạo được nền chủ đạo hữu hiệu. Bởi Nữ Oa đây là
nguyên lý mẹ mà thiếu nó thì triết
lý đốc ra duy dương rồi sẽ duy vật mà hiện chúng
ta đang là nạn nhân. Chính vì vậy mà
mất nước, và mai đây nói đến phục quốc mà
thiếu một chủ đạo thì rồi lại chỉ lẩn quẩn ở tầm mức
chính trị vọng ngoại thiếu căn bản thâm sâu của
dân tộc thì cuộc phục quốc chưa trọn vẹn.
Vì thế muốn
có chủ đạo thì phải thiết
lập được một nền quốc học. Bỏ qua Việt nho mà đòi lập nổi
quốc học thì chỉ là điều mơ mộng. Trong dịp tôi cho
xuất bản quyển Vấn Đề Quốc Học có một bài báo ở
một đại học nọ đặt câu hỏi tại sao thời buổi quốc tế này
mà còn nói tới nho vốn là cái chi cũ
rích, sao không nghiên cứu các nền triết
lý trên thế giới để kiến tạo cho mình một nền quốc
học tân tiến v.v…
Tôi không buồn
trả lời vì thực tế
đã trả lời rồi đó cho những ai biết quan sát: Mao
Trạch Đông và Hồ Chí Minh đã thiết lập xong
quốc học có tính cách quốc tế hẳn hoi rồi
đó, quốc tế quá xá đến độ càn quét
cái học của tiền nhân của dân tộc: nên cũng đi
vào lối Hiên Viên đẩy Nữ Oa ra ngoài để trở
thành đực rựa duy dương tức tẩy sạch mọi tình người. Hậu
quả đã trở nên quá khủng khiếp: cả một vùng
Đông Nam Á đã bao đời an bình dưới
bóng Nữ Oa nghi mẫu thì nay đang rên xiết với
cái học vong bổn duy dương đực rựa.
Ngoài ra còn
biết bao người khác
nghiên cứu triết học quốc tế đều đã tận tình tận
lực nhưng cuối cùng cũng chỉ đưa ra được vài quyển
sách trừu tượng xa môi sinh tinh thần đất nước tức
là vô tình đã giúp vào việc bỏ
bên dân nước để đi lo nghĩa vụ quốc tế. Đó là
những chứng nhân đang nói lên cách
hùng hồn rằng chỉ còn có con đường hy vọng cho
quê nước là trở lại với văn hóa dân tộc mới
tìm ra chỉ đạo cân đối: muốn cho cuộc trở về thấu đến gốc
ngọn cùng tột thì không thể không nói
tới Tam Hoàng với Hoàng Việt. Vì thế mà vấn
đề nọ mới coi tưởng là cổ mà hóa kim, tưởng
là quái đản mà hoá thiết thực, cái
thực nóng bỏng của quê hương đang quằn quại trong
muôn trùng thống khổ rất cần được giải phóng khỏi
cái chủ đạo thiếu tình người biểu thị bằng Nữ Oa Âu
Cơ nên đã làm sụp mất trời che đất chở. Vì
thế cần phải mời nghi mẫu mau mau trở lại nấu đá ngũ hành
để trát lại trời nghiêng, kê lại đất lệch cho con
cháu được nhờ.
Chương 8
BÀN
VỀ CỔ SỬ TÀU
Tiền sử nước ta diễn ra
mãi tận bên Tàu,
lẫn lộn cả với nguồn gốc nước Tàu, nay muốn nghiên cứu về
nguồn gốc văn hóa Việt không thể không nhìn
qua cổ sử Tàu, nhưng cũng không thể nào chấp nhận y
nguyên các pho cổ sử do người Tàu chép chẳng
hạn bổ Sử Ký Tư Mã Thiên, hay bộ Tiền Hán
Thư của Ban Cô, mà phải xét lại toàn bộ dưới
ánh sáng khoa khảo cổ, cũng như các khoa tân
nhân văn: dân tộc học, xã hội học, cổ thuật học… để
từ đó kiến tạo lại một cổ sử Tàu theo lối sinh
thành (génétique) khác hẳn lối tĩnh chỉ từ
trước tới nay ở tại lấy cái khung đời Tần Hán chiếu ngược
lên thời khai sinh, trái lại cần phải điều chỉnh
toàn triệt, có vậy mới thấy rõ hơn nguồn gốc văn
hóa nước nhà. Nhưng đó là một việc
dài hơi không ai đủ khả năng làm một mình,
mà cần sự cộng tác của nhiều nhà chuyên
môn mới có thể đi vào chi tiết và
chính xác được. Bài sau đây chỉ có
ý đưa ra cái nhìn tổng quát về một số điểm
để gợi ý.
1. Tên nước Tàu.
Trước hết là
tên Tàu. Tôi chưa gặp
được bài nào nghiên cứu về nguồn gốc danh hiệu
này, vì người Tàu hình như không bao
giờ rớ tới tên Tàu, với họ phải là Trung Hoa, Trung
Quốc, hoặc là người Hán, Đường… kia.
Tìm trong cổ sử chỉ
thấy có hai chữ coi được
nhu gốc tích, một là chữ Đào Đường có nghĩa
là nung đồ gốm và là tên đất phong của vua
Nghiêu mà theo kinh Thư thì Nghiêu là
thuỷ tổ. Như vậy chữ Tàu do Đào Đường chăng? Người
Tàu đọc đào là Tào, rồi ta biến ra
Tàu? Vì có một chữ tào chỉ nơi nuôi
súc vật như ngựa mà ta đọc là tàu ngựa:
“một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”. Bách Việt
cũng có tên Bách Bộc, là đất ở nam kinh
Châu, có thể vì sự lân cận đó
mà người Việt gọi lân bang là người Tàu hay
nước Tàu. Y như sau này vì lân cận với nước
Ngô mà ta gọi Tàu là Ngô, chứ
Tàu không bao giờ gọi mình là Ngô cả.
Gánh vàng đi
đổ sông Ngô.
Trong ca dao đôi lần
nhắc đến chữ Tào:
“Sa cơ mới phải luỵ
Tào
Những so tài sức
thì tao kém gì.”
Câu trên
có thể thoát ra do khẩu
khí những vị như Hưng Đạo hay Quang Trung đánh cho
Tàu chạy có cờ, mà rồi vẫn phải sai sứ đi cống. Bề
ngoài cống nhưng trong bụng thì nói “những so
tài sức thì tao kém gì”. Chữ Tào
làm liên tưởng tới chữ Tào Khê trong ca dao:
Đêm đêm tưởng
dạng ngân hà:
Bóng sao tinh đẩu
đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng
dạ chẳng mòn;
Tào Khê nước
chảy lòng còn trơ
trơ.
Câu này đọc
lên nghe lòng hiu hắt
như đang ở mạn Bắc lòng đầy những mối tiếc thương một cái
gì, một mảnh quê hương đã mất, những mong lấy lại
được liền, mà nay đã ba năm tức lâu rồi mà
vẫn chưa. Tuy vậy không sao quên được. Tào
này có lẽ ở mạn Tây Nam Sơn Đông (C.A. 81)
và là tên xa xưa. Còn một Tào
Khê nữa ở huyện khúc Giang tỉnh Quảng Đông có
chùa Bảo Lâm nơi tổ Huệ Năng hoằng pháp, có
thể là tên di cư của Tào Khê gốc cũ chăng?
Đó là đại để
vài tên liên hệ
với chữ Tàu, người Hy Lạp viết về Tàu thì ghi
là Tauga nhưng có người bảo không do Tàu
mà do Tabghaj- cách phiên âm Ả Rập của chữ
Thát Bạt (Need I. 169). Khi nghiên cứu về cổ sử tôi
ưa dùng tên Tàu vì ngoài vụ tên
đó có hơi hướng với du mục do hai chữ tàu
là tàu ngựa và đào là lò nung
gốm, nó còn liên hệ với sự bé nhỏ của nước
Tàu mới nhú mọc. Sự bé nhỏ này cần để trước
mặt, nếu không sẽ bị cái hình ảnh khổng lồ đời Tần
Hán làm hoảng sợ rồi cái gì rõ
là của nhà cũng không dám nhận. Nước
vua Nghiêu chỉ mới quãng một làng một tổng của ta,
cùng lắm là một huyện. Vì sau này
mãi đến đầu đời Thương mà nước cũng mới bằng một phủ rộng
độ một hai trăm dặm (Civ I. 85). Sau này mới chinh phục mở rộng
ra dần.
Nhân tiện xin
nói luôn tới chữ Chine,
China mà Âu Mỹ dùng để chỉ Tàu. Chữ
này còn gần với chữ Tàu hơn vì nó
nói lên nước Tần. Tần cũng mới là một bá
trong ngũ bá. Thứ đến cũng nói lên óc du mục
đế quốc. Nói vậy không có ý bỏ hai chữ Trung
Quốc hay Trung Hoa, vẫn phải giữ lại cho bộ ngoại giao cùng lắm
thì khi viết về sử Tàu từ Tần Hán trở đi.
Còn nói về cổ sử thì tên Tàu vẫn
nên dùng vì nó có phần đúng
nhất với thực trạng: nó nói lên sự bé nhỏ
và lân cận với nước Việt cổ đại vươn mình
mãi tận Bắc Kinh.
2.
Niên hiệu.
Niên hiệu đích
xác nước Tàu mới
có từ năm 721, năm khai mở sách Xuân Thu, sau
đó người ta tính ngược lên tới Nghiêu Thuấn,
rồi sau tới cả Hoàng Đế nữa, cuối cùng lại ngược
lên nữa tới cả Thần Nông năm –2737 (lưu truyền cho
là năm –3320) Phục Hy –2852 (lưu truyền –4480). Sự tính
ngược này có nhiều điều vô lý.
Trước hết là
sách Trúc Thư Kỷ Niên
(viết vào thế kỷ thứ ba trước rồi lạc mất sau tìm ra được
trong một cổ mộ) đưa ra niên hiệu khác với kinh Thư sụt đi
suýt soát hai trăm năm. Thứ đến là các
niên hiệu gán cho Phục Hy, Thần Nông quá
muộn, khảo cổ tìm ra dấu vết văn hóa lối 4, 5 ngàn
năm tr.cn ở cả hai di chỉ Long Sơn và Ngưỡng Thiều đều đã
lâu 5 ngàn năm là ít, nay lại mới tìm
ra đợt trước cả Ngưỡng Thiều và Long Sơn hơn 3, 4 ngàn
năm như văn hóa Đại Bôn Khanh có liên hệ với
Hòa Bình toả ra ở Quảng Tây lên đến
Đài Loan (xem The Archeology of Ancient China by Kwang Chih
Chang 3 Rd, edition Yale Univ. Press 1978 p.512).
Thứ ba là gảy bỏ mất
một lưu truyền dài
hàng nhiều ngàn năm thuộc thời mà một hai học giả
gọi là Sinic, còn tôi gọi là Viêm
Việt. Chữ Bách Việt cũng còn là muộn vì ban
đầu chỉ có những tên Tam Miêu, Cửu Lê, Cửu Di,
Tứ Di, Nhung, Địch, Man, Di. Thế nhưng tất cả lại có những
nét văn hóa giống nhau như tả nhậm (tứ di tả nhậm)
xâm minh, đeo lông chim khi múa… và tất cả
thuộc nông nghiệp lúa mễ (lúa tắc (1) chỉ là
thiểu số). Vậy mấy nét ấy nằm rõ trong tên Việt cổ
(hán) viết với bộ mễ (hán). Nền nông nghiệp
này cũng như thói tả nhậm và mặc lông chim
được ghi trong trống đồng mà sử sách Trung Quốc đều
công nhận chủ nhân là Lạc Việt, cũng như nơi
phát xuất chính của trống đồng được phát hiện ở
nước Việt.
Chú thích:
Lúa mễ ruộng ướt miền Nam.
Miền Bắc ruộng khô, lúa Tắc tên chung chỉ lúa
mì, miến v.v… của Tàu mạn Bắc.
Vì thế tôi gọi
lưu truyền xa xưa đó
là của Việt tộc và đề nghị phải dùng niên
hiệu lưu truyền cho Phục Hy, Thần Nông chứ không để
các nhà khoa học hạ thấp xuống rồi móc nối
vào cổ sử Tàu, nó chẳng khoa học chút
nào cả: nhận nó chỉ là giúp vào việc
chôn táng nguồn gốc văn hóa Việt tộc mà
thôi.
Nói cơ sở thế để
thấy rằng đem huyền số cơ cấu để lịch
sử hóa thì chỉ là bày bịa vô nền.
Đây cũng là lý do tại sao các nhà
nghiên cứu người Tàu ngày nay không
còn dám nói đến “ngũ thiên niên sử”.
Trong cuộc cách mạng văn hóa do Trần Độc Tú
và Hồ Thích khởi xướng vào quãng 1920
thì có nhóm trí thức rút sử của họ
xuống 4 ngàn năm. Cố Hiệt Cương cho rằng nếu gạn lọc cả những
điều đáng nghi trong các sách gọi là sử
chính thức (không phải nguỵ thư) thì có lẽ
chỉ còn 2 ngàn năm.
Đó có thể
là lập trường quá
đáng y như ngũ thiên niên sử. Chính sử
Tàu chỉ có từ năm 721 tr.cn. Còn văn hóa
Tàu được thai nghén từ đời Thương tức từ thế kỷ 17 tr.cn
trên nữa không có chứng tích gì bảo
đảm, chỉ còn một mớ truyền thuyết như Bàn Cổ, Phục Hy, Nữ
Oa, Thần Nông thì hầu chắc là lấy của Việt tộc như
đã bàn trên và sẽ bàn thêm ở
chương X và XI.
Ngược với Việt Nam
nói 4 ngà năm văn hiến
còn là ít, vì căn cứ vào họ Hồng
Bàng với lối múa đeo lông chim làm cứ để
tìm ngược lên thì thấy xa lắm, nói được
là cho tới Phục Hy Nữ Oa đều có chứng từ khảo cổ (sẽ
bàn dịp khác). Không hiểu câu 4 ngàn
năm văn hiến xuất hiện lúc nào, chứ nếu xuất hiện
vào đời Trưng Triệu cũng không sợ bị cải chính,
và nếu thế thì nay phải nói 6 ngàn năm văn
hiến. Sáu hay hơn nữa cũng chẳng sao miễn tìm ra ấn
tích để chứng minh cho nội dung ấy, mà nét
đó đã tìm được tự văn hóa Bắc Sơn lối 5000
tr.cn.
3. Người Tàu là ai
Chưa thể biết là ai,
nhưng điều quan trọng cần phải
thải bỏ là cái quan niệm thông thường cho người
Tàu là một chủng tộc riêng biệt, rõ rệt
khác với tứ di chung quanh. Đó là điều
ngày nay không một nhà nghiên cứu đứng đắn
nào dám nhận nữa, mà chỉ coi Tàu là
tập hợp bởi rất nhiều sắc dân với những tên dị biệt như Tam
Miêu, Cửu Lê, Di, Địch, Man, Nhung, Việt… rồi sau
thêm Mông, Mãn, Tạng, Kim, Hồ… nhưng nói
chung thì là Cổ Việt, hoặc nói theo các
nhà nghiên cứu thì Cổ Tàu là Sinic.
Trong quyển Chine Antique (17) ông Henri Maspéro cho
Tàu chỉ là những người Cổ Việt ở mạn Bắc và nay
nằm trong danh xưng Hán, khi nhà Hán mới lên
còn tế tổ của Việt là Si Vưu, và cũng có
lúc xưng mình là Hán Man là
Viêm Hán như kiểu Viêm Việt. Tuy nhiên
vào quãng nhà Hán thì Viêm
Việt đã bị đồng hóa quá nhiều không
còn ai nhận ra được nữa. Muốn nhận diện phần nào phải
vượt lên quãng nhà Chu và Thương. Khi
Võ Vương nhà Chu giao chiến với vua Trụ thì Kinh
Thư nói quân nhà Thương gồm toàn Di (Thụ
(tên vua Trụ) hữu ức Di nhân. Thái thệ, câu
16). Còn bên Chu cũng thế với quân mang các
tên Dung, Thục, Khương, Mâu, Vi, Lữ, Bành, Bộc (Mục
thệ, câu 3). Đó toàn là Việt mang những
tên khác nhau vì thuộc chi khác. Đừng tưởng
đó toàn là quân lính còn cấp
cấp chỉ huy là người Tàu. Đó là ý
nghĩ sau này, chứ càng về trước càng không
thấy có kỳ thị. Khi ông Thái Bá (bố Văn
Vương) đi xuống miền sau này sẽ là nước Ngô
thì ông không ngần ngại cắt tóc, xâm
mình, đóng khố. Không hề có kỳ thị,
mãi tới sau này mà các vua tuyển cung phi
hoàng hậu cũng chỉ lấy sắc đẹp làm tiêu chuẩn, chứ
không hề kể đến sắc dân. Tấn Văn Công lấy một
phát 4 vợ toàn người Nhung (tức là Di). Còn
thế lực các bà thì khỏi nói, đưa người
nhà vào các chức quan trọng. Bố Tần Thuỷ
Hoàng xưng là Tử Sở vì mẹ nuôi là
người nước Sở.
Nhiều nhà
nghiên cứu nay đi đến kết luận rằng
cho đến nhà Thương thì Tàu còn là
Việt. Nhà Thương mới vừa ra khỏi trình độ bộ lạc
và mới lập thành nước Tàu về chính trị
và văn minh như quân đội, chữ viết, thành thị,
nhà nước. Còn về văn hóa chưa đóng
góp chi đặc biệt. Tất cả lập lại của Việt tộc. Còn thực
đóng góp về văn hóa thì phải kể từ
nhà Chu, một nhà phát xuất từ miền Thiểm Tây
mang ít nhiều máu Turc, đã chinh phục miền Cổ Việt
mà sử gọi là nhà Thương. Vậy nên việc chinh
phục này rất quan trọng, nó cũng xảy ra một trật với vụ
Aryen vào chinh phục Ấn Độ và cả hai đã biến cải
văn hóa bản thổ cho ra khác trước (nước Cao Ly cũng được
thành lập trong giai đoạn này). Cho nên ông
Trương Quang Trực viết trong quyển The Archeology of Ancient China rằng
nhà Chu thắng nhà Thương kể như Tây Hạ thắng
Đông Di vậy (p.383, 3 edition, New Haven 1978). Vậy văn
hóa gọi là Tàu chỉ hiện lên rõ
nét từ nhà Chu: vì chất du mục được đưa vào
Nho làm cho Việt Đạo đốc ra Hán nho sau này.
Hán nho tuy manh nha ở nhà Thương nhưng phát triển
mạnh từ nhà Chu: gồm mấy nét đặc trưng như thiên về
quân đội, đề cao vua, đưa ra quan niệm thiên mệnh để thần
thánh hóa dòng họ… Như vậy là đã đưa
đặt quyền bính lên trời rồi. Với Việt tộc xưa thì
quyền bính thuộc về người có đức, có tài
cán, có uy tín. Nay nhà Chu đưa thiên
mệnh ra thay thế tức bỏ uy tín cá nhân để đặt nền
sang uy quyền dòng tộc, thiên mệnh. Đó là
tìm nền tảng bên ngoài con người và do sự
liện hệ nằm ngầm sẽ cai trị theo lối du mục là dùng luật
pháp nhất là luật hình vì nó
tiêu biểu lối du mục hơn hết.
Luật
hình
Ở đây xin nói
tới Chu Mục Công như được
ghi lại trong quyển “Mục Thiên Tử truyện”. Các nhà
khoa học ngày nay đều cho đó là một quyển tiểu
thuyết không có giá trị lịch sử, nhưng vớ triết
thì nó lại có giá trị văn hóa. Yếu
tố nổi nhất trong truyện là vụ Mục Công đến chầu Tây
Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu tuy có tiếng là con trời
nhưng mang trong mình đầy yếu tố du mục như có răng
hùm, đuôi báo, coi về các bệnh dịch hạch,
vậy mà Mục Công xướng họa thơ với bà (bà hay
ông?) thì hẳn rằng những bài thơ đó phải
mang âm hưởng du mục chuyên chế. Ta đoán được thế
vì kinh Thư có ghi lại trong thiên “Lữ Hình”
nói về hình luật do Mục Công thực hiện. Mở đầu
thiên bằng những lời lên án nặng nề Si Vưu vì
đã dùng ngũ hình một cách tàn bạo.
Tưởng là nói vậy rồi bãi bỏ hay ít ra
rút nhẹ, ai dè Mục Vương đã đưa ra vô số tội
phải chịu cực hình lên tới ba ngàn nố. Trong
đó có
500 trường hợp bị chặt
chân
300 trường hợp bị hoạn
200 trường hợp bị giết
1000 trường hợp bị cắt mũi
hoặc thích chữ vào
mặt.
Chính vì sự
tàn khốc như vậy nên
ngày nay nhiều học giả đặt vấn đề tại sao một thiên
sách sặc mùi du mục tàn bạo đến thế lại được Khổng
Tử đưa vào Kinh Thư. Có người hồ nghi cho là
không phải Khổng Tử đưa vào mà do lúc Tần
đốt sách rồi lúc Hán lập lại thì cho
vào. Dù sao thì gốc tích thiên ấy
là do nhà Chu không ai chối cãi (về rất
nhiều điểm nữa đã bàn nơi khác xin miễn lập lại).
Như vậy phải lấy nhà Chu làm khởi điểm cho văn hóa
Tàu, nhà Thương là thời chuyển tiếp như biến
thôn làng hòa bình thành ra thị
xã hiếu chiến… Còn trước nữa chỉ là Việt, tuy
đã có những làn sóng du mục tràn
vào đước dán nhãn hiệu là Hoàng Đế,
là Nghiêu, là Vũ thì đấy là những
liều lượng du mục nhỏ nên tất cả bị Việt tộc cải hóa, chưa
đủ sức làm ra một dân tộc mới. Điều đó chỉ xảy đến
đời Thương Chu, và chỉ có tự Chu mới thực sự có
Tàu xét như một dân tộc đối với Việt.
Tại
sao Việt lại bị
chinh phục.
Thưa có nhiều
lý do trước hết là do du
mục xâm chiếm, nắm được quyền hành nên đoạt
thâu dễ dàng, đó là sự thường đến nỗi luật
chung làm như hai nhịp thay đổi làm nên lịch sử
nhân loại, một bình một loạn. Thời bình học thuật
phát triển, thời loạn chiến tranh phát triển (Civ. 117).
Ông Will Durant đã viết “nổi về quân sự là
mạn Bắc: Aryens đổ xuống Dravidiens, người Acheans và Dorians
xuống chinh phục Cretans và Egeans, người Germans đổ xuống
Romans, người Lombards xuống Italians, người Anh đổ xuống thế giới.
Mãi mãi thế, phương Bắc sản xuất người thiện chiến
và cai trị; phương Nam sản xuất nghệ sĩ và thánh
nhân, và kẻ hiền lành ăn tự trời” (Civ I. 397).
Luật chung đó cũng xảy ra ở đất Tàu, người Tàu
là Bắc, người Việt là Nam.
Đã vậy người
Tàu có được một công
cụ hết sức hiệu nghiệm đó là chữ Nho, một chữ tượng
ý không những đẹp nhất và thành công
nhất hoàn cầu, vì mỗi chữ đọc khác nhau tuỳ mỗi
nơi, nhưng trông vào lại hiểu nhau liền. Vì vậy chữ
nho trở thành yếu tố thống nhất kinh khủng không một nền
văn hóa nào bì kịp. Các nhà
nghiên cứu về Tàu đều phải công nhận rằng nước
Tàu mà còn đến ngày nay và to lớn
thống nhất như vậy là nhờ có chữ nho. Đấy là
nói về mặt ngoài “tượng ý”. Còn ý
đó là chi thì lại là nền nhân bản của
Hoàng Việt đã được thành lập cách huy
hoàng và trung thực đến độ đáng xưng là
nhân chủ. Vậy mà chữ nho đã hội nhập được nền
nhân chủ nọ nên mang trong mình một uy tín
bất dịch giúp cho Tàu vừa được thống nhất, vừa được tiếng
là chủ nhân ông của chữ nho. Đang khi đó Việt
tộc bị tước đoạt, mất chữ nho không còn cách
nào ghi chép thành ra một mình Tàu
ghi chép sự kiện xa xưa thì tất nhiên bao sự kiện
đều trở nên của Tàu hết trọi.
Đó là kể sơ
qua vài ba sự kiện bó
buộc chúng ta phải làm lại cổ sử của Tàu,
vì nó là việc cần thiết trong việc tìm hiểu
về nguồn gốc và sự chính truyền của nền văn hóa
Việt tộc. Bài này cũng là để trả lời một
vài ông tiến sĩ non nớt mới du học về nước dịp tôi
cho ra quyển Việt Lý Tố Nguyên đảo ngược các điều
tin tưởng trước, mấy vị đó phàn nàn tại sao
tôi lại làm hư thiếu niên, nói những điều
trái với sách vở xưa nay như vậy?
Chương 9
VỤ HIẾP
DÂM LỊCH SỬ LỚN NHẤT CHƯA ĐƯỢC TUYÊN ÁN
Bàn về văn minh Hy
Lạp ông W. Durant có
mở đầu một câu “khó có thể thiết lập một nền văn
minh mà không cướp phá, cũng như khó
có thể duy trì văn minh mà không phải
dùng đến nô lệ” (Civ II.10). Đó là câu
đáng ghi nhớ vì nó thực cho hết mọi nền văn minh.
Chữ văn minh ở đây xin được hiểu theo nghĩa chuyên biệt
ngược lại văn hóa. Văn hóa đi với nông nghiệp vốn
tính hiền dịu và tổ hợp theo lối thôn làng
được cai trị bằng tục lệ. Văn minh trái lại đi với thành
thị, quân đội, nhà nước, pháp luật. Phân biệt
này tỏ ra rất thuận tiện trong việc tìm về nguồn gốc,
nhất là trong khảo cổ, nên được dùng nhiều trong bộ
triết lý An Vi này.
Hôm nay xin
nói về một vụ cướp đoạt lớn nhất
mà văn minh Tàu đã phạm đối với văn hóa
Việt: đó là vụ Nữ Oa Thái Mẫu bị Hoàng Đế
hiếp. Sự vụ rất phiền toái cần được một lần phanh phui để thấy
rõ cổ sử Tàu ra sao, Việt bị ăn hiếp như thế nào.
Ta đã biết ba cột
cái của Việt là số 2,
3, 5 nho công thức thành âm dương, tam tài,
ngũ hành. Đó là những ý niệm bao la trừu
tượng đã được cụ thể hóa bằng đặt cho những tên
huyền sử: Tam tài trở nên Tam Hoàng là Phục
Hy, Nữ Oa, Thần Nông đại diện cho trời, đất, người. Người chỉ
bằng Nữ Oa trong tay cầm cái quy + cũng gọi là thập tự
nhai thành bởi hai nét ngang dọc, nét ngang chỉ
đất, nét dọc chỉ trời, hai nét hợp lại chỉ Người được
định nghĩa là Thiên Địa chi đức. Còn ngũ
hành được cụ thể hóa bằng Ngũ Đế là Thái
Hạo, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Trong
bảng ngũ hành, hành Thổ quý nhất do địa vị trung
ương, được xếp đặt như sau:
Thủy
Kim
Thổ Mộc
Hỏa
Đó là lối xếp
cơ cấu với ý nghĩa
siêu hình dành cho Thổ địa vị siêu lên
khỏi bốn hành chung quanh để chỉ Con Người Đại Ngã
làm chủ vũ trụ. Đó là lý tưởng, còn
trong thực trạng ngũ hành cũng như âm dương đã bị
lạm dụng theo nghĩa ma thuật dị đoan.
Ngũ hành cũng được
dùng vào lịch sử để
làm dáng cho triều đại, bắt họ với những tổ huy
hoàng. Theo đó quý nhất là Tam
Hòang, thứ nhì là hành Thổ, thứ ba mới tới
4 hành xung quanh. Con người ai chả sính làm đẹp
cho dòng tộc, người Tàu cũng theo luật đó, nhưng
đã nổi bật trong vụ này vì có thuyết Tam
Hoàng và Ngũ Đế trợ lực: gia phả quý nhất
là móc nối được với Tam Hoàng, nếu không
được thế cũng phải cố níu lấy một Đế nào đó mới
chắc có Thiên mệnh trước mặt dân chúng
vì các Đế kế tiếp theo thứ tự tiên thiên ngũ
hành, nên móc nối dòng tộc vào được
ngũ đế là chứng minh được thiên mệnh cho dòng tộc.
Triều đại nào lên ngôi đúng vào
hành Thổ thì sang vô cùng. Vậy ta hãy
xem các triều đại xếp đặt theo thứ tự các hành,
các hành theo thứ tự các mùa như sau:
Mộc chỉ
mùa
Xuân
màu xanh
Hỏa chỉ
mùa
Hạ
màu đỏ
Thổ chỉ
mùa
Tứ
Quý
màu vàng
Kim chỉ
mùa
Thu
màu trắng
Thủy chỉ
mùa
Đông
màu đen
Đó là thứ tự
vòng sinh: Kim sinh Thủy,
Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ. Ngũ Đế đầu tiên xếp
theo vòng sinh này mở đầu bằng Thiếu Hạo cũng gọi
là Kim Thiên. Ngược lại thứ tự khắc: Thủy khắc hỏa, Hỏa
khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ. Cuối đời Chu đã bắt
đầu lập lệ đặt gia phả triều đại, nhà nào cũng cố
móc nối với một ông lớn như Nghiêu Thuấn,
Chuyên Húc, Hoàng Đế. Tư Mã Thiên
có lẽ vì nể Đạo Lão đã dùng
vòng kháng khắc đặt Hoàng Đế lên đầu ở
hành Thổ, ông Granet gọi đó là tội gian lận
bắt được quả tang đổi huyền thoại ra sử ký. Theo bảng này
nhà Chu ở vào hành Hỏa, dùng màu đỏ
(màu Chu). Nhà Hán kế tiếp Chu phải là
hành Thủy (thủy khắc hỏa) nhưng hành Thủy tầm thường
không xứng với nhà Hán đã mở mang bờ
cõi rộng lớn chưa từng có trong lịch sử Tàu, vậy
phải xoay trở thế nào cho được hành Thổ. Khó chi
đâu chỉ việc đẩy Tần Thủy Hoàng ra, chữ Thủy vừa có
nghĩa là thứ nhất mà cũng có nghĩa là nước:
Tần Hòang thờ Hà Bá. Vậy khắc Thủy phải là
Thổ. Thế là nhà Hán diệt Tần nhận hành Thổ,
đúng điềm triệu xuất hiện khi lên ngôi trong
đó có sâu đất (Thổ) vô kể!
Tuy sự tráo trở
đó gọi được là
xuôi, vì thứ tự Ngũ Đế trước chưa phổ biến lắm, nhưng cũng
không qua mắt được một số Nho gia trong đó có Lưu
Hàm và con là Lưu HƯởng đã lập lại bảng
sinh với hai điều đổi mới, một là đẩy xa hơn: các người
trước như Trâu Diễn hoặc Tư Mã Thiên chỉ đi đến
Hoàng Đế là tận cùng. Trái lại cha con Lưu
Hâm gồm cả Thần Nông và Phục Hy vào nữa. Hai
là thêm vào một ít triều đại tùy bằng
“hành thủy đệm” để cho dễ xếp chỗ ngon cho thần tượng của
ông như sau:
HÀNH
NHÀ CAI TRỊ
Mộc
Phục Hy
(Thủy
đệm)
Cung Công
Hỏa
Thần Nông
Thổ
Hoàng Đế
Kim
Thiếu Hạo (Kim Tân)
Thủy
Chuyên Húc
Mộc
Đế Cốc
(Thủy
đệm)
Đế Chí
Hỏa
Đế Nghiêu
Thổ
Đế Thuấn
Kim
Hạ Vũ
Thủy
Thương
Mộc
Chu
(Thủy
đệm)
Tần
Hỏa
Hán
Thổ
Vương Mãng
Theo bảng trên
Hán bị mất ghế Thổ phải ra ngồi
ghế Hỏa, làm sao được Hán triều hoan nghênh, Lưu
Hâm súyt bị thiệt mạng là thế. Nhưng khi Vương
Mãng lên nắm chính quyền liền tuyên dương
bảng trên vì mình được vào trung cung
hành Thổ (Hỏa Hán sinh Thổ Vương Mãn), thế
là sang hơn nhà Hán: không thèm
móc nối Đế Nghiêu như Hán nữa mà với
Hoàng Đế, tức lên một bậc: tự Đế nhảy lên
Hoàng! Hoàng Đế trị theo Thổ đức, Vương Mãng cũng
trị theo Thổ đức với màu vàng chói. Nay ta
phân tích thì thấy rõ sự giả tạo, nhưng xưa
ít ai nhận ra nhất là khi Vương Mãn đổ thì
lưu truyền đã ăn sâu lại được biên cả vào
Tiền Hán Thư, thế là bảng trên được công nhận
chính thức, được tin tưởng cho đến đầu thế kỷ hai mươi
không một ai đặt vấn đề.
Trong bảng trên ta
thấy Hoàng Đế được tôn
vinh cùng cực: vừa lên bậc Hoàng, còn Đế
thì ở địa vị Thổ. Không thể tôn vinh Hoàng Đế
hơn được nữa. Hoàng Đế được tôn vinh tức là
dân Tàu được lên theo, được tôn vinh đến
cùng tột nên Lưu Hướng có đổi bảng khắc ra bảng
sinh, có đưa thêm vào nhiều cải cách cũng
vẫn theo Tư Mã Thiên dành chỗ tốt nhất cho
Hoàng Đế. Điều đó không lạ: dân nào
cũng có thể làm thế nhưng ở đây sự tôn vinh
kéo theo một sự ăn hiếp là đẩy Nữ Oa ra để có chỗ
trống cho Hiên Viên được tham dự vào đợt
Hoàng, nhưng đây là vụ ăn cướp không kịp cạo
số. Vì theo huyền thọai Tàu không bao giờ có
tên Hoàng, mà chỉ có Việt mới gọi là
Hoàng Việt. Việt bắt đầu bằng Hoàng kỷ, Tàu khởi ở
Đế kỷ. Vậy chữ Hoàng thêm vào cho Hiên
Viên là giả tạo, đồ nghề giả tạo là thuyết Tam
tài, ngũ hành. Đấy là điểm một.
Điểm hai sự giả tạo nọ
làm mất tính chất
cân đối âm dương ở bộ ba đầu là lưỡng long chầu
nguyệt: Nguyệt là Nữ Oa làm nguyên lý mẹ ngự
giữa hai long là Phục Hy và Thần Nông theo luật
Kinh Dịch “quả vi chủ” (ít làm chủ) được biểu thị bằng
quẻ li của Việt tộc. Phục Hy và Thần Nông là hai
hào dương phải nhường chức chủ tịch cho Nữ Oa ở giữa. Cả ba đều
là Việt. Theo phương pháp phân tích
máu văn hóa thì Phục Hy, Nữ Oa đều họ tiên
rồng. Phục Hy có họ phong (gió: liên tưởng tới
chim) cũng có tên gọi là Thanh Tinh, rồng xanh,
cũng họ rồng như Lạc Long Quân. Còn Nữ Oa sinh tại Đồ Sơn
tên cũ của Cối Kê kinh đô Việt Chiết Giang,
lúc qua đời hóa thành chim Tinh Vệ (cùng họ
tiên (chim) như Au Cơ). Huyền thoại nói: chim Tinh Vệ tha
đá “lấp bể Đông” vì đã chết đuối ở bể.
Đó là nói liều, vì Nữ Oa có nghĩa
là loài ở dưới nước (nhái, ốc, cá) ta gặp
hình bà đầu người mình rắn, hoặc cá…
làm sao chết đuối được; bà tha đá bỏ xuống biển
là dấu nhớ thương Phục Hy, nhớ thương Thanh Tinh. Chữ Tinh Vệ
nói lên sự muốn duy trì bảo vệ mối liên hệ
với Thanh Tinh tức với rồng xanh, vì đó là
liên hệ nền tảng. Huyền sử nói bà là em hoặc
vợ của Phục Hy, cả hai chữ chỉ tỏ mối tình thắm thiết, đồng thời
nói lên mẫu đề huyền thoại một số dân Đông Nam
Á anh em lấy nhau. Thêm một lẽ Nữ Oa thuộc văn hóa
Đông Nam của Việt tộc. Mối liên hệ thắm thiết ấy bị
Hoàng Đế phá vỡ, đẩy Nữ Oa ra ngoài, tức văn minh
bỏ nguyên lý mẹ để trở nên duy dương du mục.
Đó là tính chất nổi trong văn minh Tàu.
Tàu thờ Hậu Tắc
(Lord Millet) làm điền tổ. Tắc
là lúa ruộng khô (pannicled millet) đối với mễ
(oriza sativa), ruộng nước mà điền tổ là Thần Nông.
Thần Nông bị đẩy do Hậu Tắc (thành ra xã tắc)
thì vào ẩn ở nông thôn. Nông thôn
là tổ của văn hóa, duy trì nguyên lý
mẹ. Còn văn minh ở tỉnh thành chú ý
nguyên lý cha. Văn minh du mục thắng thì
nguyên lý mẹ bơ vơ mất chỗ đứng, chỉ còn
cách bù trừ bằng lương tri: nói bóng
là gửi những viên đá xuống biển đối với việc đội
đá vá trời. Đá chỉ nơi ở của chim tiên ở
trên núi (đá) tức ở giữa trời cùng đất để
làm mối liên hệ với cả hai: cả trời (đội đá
vá trời) cả đất chỉ bằng nước bằng hình trên trống
đồng, chim âu (cơ) lao xuống miệng rồng đặt cái hôn
sâu thẳm, cái hôn giao cấu để sinh ra trăm con đang
nhởn nhơ múa hát trên thuyền. Vậy thì Tinh
Vệ không có ý lấp bể Đông mà là
cố nối lại phần nào mối liên hệ đằm thắm cũ, nó
phảng phất 4 câu thơ do tiềm thức cộng thông linh hứng qua
ngọn bút tài tình của thi bá Nguyễn Du:
“Ngọn triều non bạc
trùng trùng
Vời trông còn
tưởng bóng hồng lúc
gieo.
Tình thương bể thắm
lạ điều
Mà hồn Tinh Vệ biết
theo chốn nào.”
Đó! Hồn Tinh Vệ
không tha đá lấp bể,
mà là gửi cánh hồng về thăm chồng để phần
nào cố duy trì “tình thương bể thẳm” là
nguyên lý mẹ. Nhờ sự cố gắng tha đá bỏ bể đó
mà văn hóa Việt Nho chưa đến nỗi đốc ra đực rực tức
còn giữ được phần nào nguyên lý mẹ như sự
mềm dịu, nhu nhã đi với tình người. Còn văn minh
do Hoàng Đế lãnh đạo vì đẩy Nữ Oa ra thì
Tam Hòang trở nên đực rựa: ba cái đực rựa
thì quả là duy dương, văn minh trở nên du mục,
võ biền, chuyên chế. Người lập ra bảng này cũng cảm
thấy có sự bất ổn nên thêm tên Cộng Công
tuy dòng dõi Thần Nông nhưng đã làm
nứt trời khổ công Nữ Oa phải vá đi vá lại,
nên phải kể là Việt gian không thể thay thế Nữ Oa
được. Vả Cộng Công là đực rựa thêm vào
thì ra 4 góc: mất cả chữ ba cao trọng của Tam
Hoàng. Vì thế bảng trên không được công
nhận khắp hết.
Ta thấy trong các
sách Tàu kể thứ tự Tam
Hoàng Ngũ Đế không hợp nhau. Ngũ Đế có Huỳnh Đế,
Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Tam
Hoàng thì có Toại Nhân, Phục Hy, Nữ Oa. Mỗi
sách có bảng riêng (1). Đây là
bài tổng quát không tiện đi vào chi tiết,
chỉ cần biết có sự khác biệt trong các sách
để không ngạc nhiên khi nghiên cứu. Sự dị biệt chỉ
nói lên chứng tích của vụ ăn hiếp. Cần ghi nhận nữa
là vụ ăn hiếp này có tầm ảnh hưởng vô
biên vì nó không là trò chơi
gia phả vô tội vạ mà là đại diện cho trào
lưu chung của nhân loại là văn minh du mục đàn
áp văn hóa nông nghiệp, và tự đấy đã
chôn táng nguyên lý mẹ mà chúng
ta cần phải phục hoạt (xin bài Còn Mẹ trong Kinh
Hùng). Đó là một việc dài hơi. Ở đây
ta hãy nhận định tóm lược rằng sử Tàu chỉ
đáng tin cậy là tự năm 721 trên nữa thì nhận
tạm được đến nhà Thương, ngoại giả đều là huyền thoại,
đừng tin là lịch sử, cần phải phân biệt thực hư vì
điều này rất quan trọng đến việc tìm về nguồn gốc văn
hóa Việt tộc.
(1) Ông Eberhard
có lên sổ được cả
trăm bảng khác nhau như bảng của nhóm Am Dương, của Hồng
phạm của Trâu Diễn, của Nguyệt Lệnh, của Tố Văn (Hoàng đế
nội kinh) của Lễ ký v.v… Need II. 264
Việt nho chỉ có
ý bênh vực con người
chống lại du mục đã hiện thân vào du mục, và
du mục bên Viễn Đông đã bắt tay phần nào với
Táu nên Tàu đã vô tình tư sản
hóa những mẫu mực của Việt. Năm 1919 Tàu làm cuộc
cách mạng văn hóa tưng bừng ở tại dùng tiếng Bạch
thoại thường dân làm ngôn ngữ văn học, nhân
đó nhiều nhóm nhiều đại học đã đi tìm lại
những chuyện cổ tích, những huyền thoại của thôn
dân, của các sắc tộc thiểu số, thu thập và in ra
nhiều ngàn truyện xưa, nhưng sau Tưởng Giới Thạch đã chặn
đứng trào lưu đó, một trong các lý do
có lẽ chính cốt là sự tìm kiếm đó
làm lu mờo hoặc phá hủy hẳn những trang đầu oai nghi của
“ngũ thiên niên sử Tàu”, vì các
Hoàng Đế cao cả bị ánh sáng khoa học soi
vào thì chỉ còn là những anh hùng
thần thoại nghĩa là giả tạo (Hoàng Đế thí dụ) hoặc
là những vật tổ của các bộ lạc man Di. (xem chi tiết
trong quyển Folktales of China by Wolfram Eberhard. The University of
Chicago 1965 p.XXXIV).
Vua Quang Trung xưa
có giấc mơ đòi lại hai tỉnh
Lưỡng Việt đã bị gọi bằng tên không liên hệ
đến chủ quyền cũ nay đổi ra Quảng Đông Quảng Tây. Ta cần
nối chí Quang Trung trong lãnh vực tinh thần là
thâu hồi lại chủ quyền của các truyện huyền sử đã
bị coi là của Tàu: như truyện Bàn Cổ, Tam
Hoàng… Hiện bầu khí rất thuận lợi vì được sự trợ
lực của các khoa học tân nhân văn: khảo cổ,
dân tộc học, nhân tộc học, xã hội học, cổ sử, cổ
nghệ, cơ cấu luận. Do đó từ 1970 năm xuất bản quyển Việt
Lý Tố Nguyên tới nay tôi đã viết rất nhiều,
quan trọng nhất là Sứ Điệp Trống Đồng. Nhưng xem lại thấy lực
bất tòng tâm: cánh đồng mênh mông
mà phương tiện và sức không đủ, nên chỉ xin
coi các sách trên là mấy tiếng kèn ra
trận gửi đến các nhà chuyên môn mai hậu để
hợp lực viết lại những trang sử thời sơ khai của nước nhà, những
trang sử đầy ứ chất văn hóa cao cả mà bấy nay chưa được
khai quật đúng cung cách.
Hiện thế giới đang
có những cố gắng khai quật như vậy
nhưng sự việc không được sai trái như đối với Việt Nho.
Bởi văn hóa Việt đã có lâu đời được
thành lập vững bền trước khi Hòang Đế xâm nhập
nên đã để lại ấn tích sâu đâm trong
dân gian, nhờ đó nhà nghiên cứu có
được nhiều tiêu điểm đánh dấu bước đường truy căn. Sau
đây chỉ xin đưa ra tục tả nhậm làm thí dụ.
Tả nhậm nghĩa siêu
hình là hướng theo
trời, là chỉ “tình thương bể thẳm”. Kinh Thư nói
“Tứ Di tả nhậm”. Bốn Di theo tục tả nhậm. Bốn Di cũng là tứ hải
theo sách Nhĩ Nhã là bốn dân quanh nước
Tàu tức là Việt tộc. Tiền nhân cất nhà
có lể thượng đòn dông, lấy hướng Đông
làm trọng (tức là tả nhậm). Con gái ở phòng
Đông, con trai ở phòng Tây, đó là theo
lúc Nữ Oa còn làm nội tướng. Các điển
chương như Lạc Thư, trống đồng đều tả nhậm (tiến theo vòng tay
tả). Kinh điển Nho chứa đầy lộn xộn khi đề cao tả, lúc đề cao
hữu (như đã bàn trong Việt Lý Tố Nguyên)
những sự lộn xộn đó là những ấn tích quý
hóa cho việc truy tầm nguồn gốc. Đại để ban đầu Hoa tộc đề cao
bên hữu, khinh dể bên tả, gọi là trái (tay
trái) là hèn (tả đạo là tà đạo)
nhưng sau bị Việt cảm hóa dần dần: coi trọng bên tả, khi
tiếp khách thì để khách bên Đông tức
bên tả là có ý trọng kính. Đi đường
đàn bà bên tả đàn ông bên hữu
(nam tử do hữu, nữ tử do tả. Lễ ký III. 515). Sau còn coi
trọng bên tả bên Đông đến độ dành phòng
Đông cho Thái tử kế vị gọi là Đông cung
Thái tử. Nay ta quen nói nam tả nữ hữu là vô
tình đi theo Hán nho. Chứ theo Lạc Thư thì về ngay
bên hữu “nam tử do hữu”, chàng ràng bên tả
làm chi đây, chực theo đóm Hoàng Đế ăn
tàn du mục hay sao?
Tóm lại vì
văn hóa Việt xuất hiện
lâu đời trước, đã để lại những rễ lớn như Lạc Thư, trống
đồng, tục tả nhậm, gái ở phòng bên tả… nên
nguyên lý mẹ vẫn còn họat động được phần
nào. Huyền sử chỉ bằng tích:
Nữ Oa đội đá
vá trời, tha đá lấp bể.
Au Cơ nghi mẫu lâu
lâu gặp Lạc Long Quân
trên cánh đồng Tương.
Ngưu Lang Chức Nữ mỗi năm
có hội…
Do vậy việc “Phục Việt” trở
thành một ngành
nghiên cứu đầy hứng thú có bằng chứng thi vị
mà vững chắc. Hơn nữa đó cũng là làm việc
đóng góp tích cực vào nền văn hóa
lòai người đang cố gắng làm sống lại nguyên
lý mẹ để tẩm nhuận cho nền văn minh hiện đại đượm thêm
tình người.
Chương 10
HAI
LÃO, BA CÔ VỚI MỘT TRÒ
Một trò là
Hiên Viên Hoàng Đế
Hai lão là
Lão Bành hay
Bành Tổ và Dung Thành.
Ba cô là Tố
Nữ, Thái Nữ, Huyền Nữ.
Còn giáo
trình là quẻ Ký
Tế để dạy cách làm tình sao cho được trọn hảo. Hậu
quả của bài học dục nọ sẽ ra sao? Đó là ba tiết
mục sẽ được bàn trong chương này.
Trước hết bàn về
người học và thành phần
giáo sư. Người học là Hiên Viên. Một khi
Hiên Viên chiếm được chỗ trung cung của Nữ Oa xong liền tự
phong cho mình chức Hoàng Đế, rồi một trong những việc
đầu tiên là lo hội nhập nền văn hóa của Nữ Oa. Muốn
học thì phải đi rước thầy. Thầy đó là “Hai
lão Ba cô”.
Đây là một
trang huyền sử hay nói mộc mạc
là một huyền thoại được đặt ra quãng cuối nhà Chu
nhằm đề cao Hoàng Đế, nhưng dưới tiềm thức thì
trái ngược đó là nói lên việc
Hoàng Đế thâu nhận văn hóa của Viêm Việt.
Điều này được ghi
lại bằng nhiều truyện đã nhắc
đến trong quyển Việt Lý nhất là câu nói
“Tác nhật Hoàng Đế đắc Si Vưu nhi minh ư thiên đạo”
= “ngày xưa Hoàng Đế được Si Vưu thì sáng
ra (hay biết được) về đạo Trời”. Nói đạo Trời là
cái gì lạ đối với Hoàng Đế mới biết có đạo
Đất. Nói khác là Hiên Viên thuộc văn
hóa du mục ngầm chỉ trong tên Hiên Viên
(hán) là một thứ xe, nên cả hai tên đều viết
với bộ xa (hán) xe đi với “công thương” bên du mục,
cũng như “sĩ nông” bên Viêm Việt. Hiên
Viên còn biểu lộ tính chất du mục trong số 4 khi
chiến Si Vưu: Hiên Viên dẫn đạo quân có
tên 4 con ác thú là hổ, báo,
hùng, bi (Leg III. 108). Thời sau người Tàu đặt lễ giỗ tổ
Hiên Viên vào mồng 4 tháng 4 hẳn có
liên hệ tiềm thức với vụ con số 4 này, con số ruột của
Hiên Viên. Đó là những căn cứu để gọi
Hiên Viên là du mục.
Đến nay thêm một bằng
chứng chói chang
khác trong vụ Hiên Viên rước thầy về học Kinh Dịch;
tất cả đều nói lên rõ sự vụ là văn minh du
mục của Hiên Viên được văn hóa nông nghiệp của
Viêm Việt tẩm nhuận ra sao. Điều đó được hàm
tàng ngay trong thành ngữ vài ba. Vài
là hai lão, ba là ba cô.
Hai lão là
Lão Bành hay
Bành Tổ với Dung Thành. Cả hai tên đều ngầm chỉ
Viêm Việt. Chữ Bành cùng họ với Bàng (Hồng
Bàng) Bàn (Lộ Bàn) Bà, Ba (hồ Bà
Dương cũng đọc Ba Dương). Còn Dung là trung dung diễn
bằng số 2-3 ở giữa hai thái cực chỉ bằng số 1 và 4. 4 với
1 không thể gặp nhau vì có 2, 3 ở giữa. Còn
2 với 3 liền ngõ, và ở giữa nên chỉ đạo Trung Dung
tức đứng giữa 2 thái quá 1-4. Trong hai lão một vị
có tên Dung Thành, ta đoán được đó
là tên tiêu biểu để chỉ người hiện thực được đạo
Trung Dung, là đạo lý ruột hay lý tưởng của Việt
nho. Dung Thành đôi khi cũng mang tên là
Thái Bá thì đó chẳng qua cũng là
Bá, Ba, Bà, Bành, Ban như đã nói
trên. Trong quyển sách thuốc “Hoàng Đế nội kinh”
hoặc “Hoàng Đế tố vấn” hay nhắc đến Thái Bá, coi
như phát ngôn nhân của Tố Nữ. Đây nói
hai lão, hay vài lão, vì số lão
có vẻ uyển chuyển không hẳn hai mà vài
vì có lúc thêm Thái Bá:
có phải là người thứ ba hay chỉ là một tên
khác của Bành Lão hay Dung Thành?
Không rô lắm nhưng địa vị các ông kém
các bà thì rõ, vì các
ông chỉ là phụ giáo, còn giáo
chính ngạch là Ba cô. Vì thế các
khóa trình lưu lại phần lớn mang tên Ba cô
như Tố Nữ Kinh, Huyền Nữ Kinh Diệu Pháp hoặc Tố Nữ Diệu Luận. Ba
cô đây chẳng chi khác hơn là nguyên
lý mẹ chỉ bằng những tên huyền sử là:
Tố nữ
Thái nữ
Huyền nữ
H. Maspéro dịch Tố
nữ là “fille de simplesse”.
Ong Van Gulik (105) đề nghị fille de candeur, Thái nữ dịch La
fille choisie. Huyền nữ: La fille aux Cheveux de Jais (tóc đen
nháy) (Gulik 107). Con số hai lão ba cô biểu thị
văn hóa của Viêm Việt. Viêm số 2 chỉ lửa đỏ hay quẻ
li (li là mặt trời) nên cũng gọi chung là
Xích đạo và chỉ phương nam. Còn Việt là số
3 (tự 2 vượt lên 3) màu xanh, hành mộc, số 3, chỉ
phương đông. Cả hai dồn lại thành Đông Nam,
nói bằng số là 3-2, hay 2-3. Dân Viêm Việt
thường có tục “điều đề” vẽ trán. Một lưu truyền
nói rằng nhiều chi vẽ trán xanh đỏ, gọi là
“xích văn lục tự” nghĩa là văn thì đỏ mà
chữ thì xanh. Nếu thế chắc học đã vẽ theo bộ chữ kỳ
(hán) đã nói ở trên (2.11) là hai
nét ngang trên, ba nét dọc dưới. Điều đó
làm liên tưởng tời hai lão ba cô ở đầu
bài.
Tóm lại đây
là lần đầu tiên được
ghi lại về việc du mục Tây Bắc tiếp thu văn hóa nông
nghiệp Đông Nam. Vì là lần đầu tiên
nói quá ư “huyền sử” nghĩa là hàm
tàng một cách âm u. Ta có thể kể một
vài lần nữa về sau như vụ ông Vũ đúc 9 đỉnh tức
đúc hai văn hóa lại một: văn minh du mục số 4 với văn
hóa Đông Nam (2+3) số 5 thành ra con số 9,
nên gọi là đúc 9 đỉnh. Ong làm được vậy
là nhờ có bà thầy, gọi bóng là “lấy
được vợ Việt”. Thực ra sách nói là lấy vợ ở Đồ Sơn
“thú vu Đồ Sơn, chữ hán” (Kinh Thư, Ích Tắc,
câu 8 Leg.III. 85). Nhưng Đồ Sơn trước nữa gọi là Cối
Kê hoặc nữa đều ở vùng Châu Từ miền Hoài
Giang cũng là “quê” bà Nữ Oa, vì vậy
nói lấy vợ Việt cho giản tiện.
Lần thứ ba nhắc đến việc du
mục tiếp thu văn hóa
nông nghiệp là khi Văn Vương nhà Chu rước thầy
tên Dục Hùng là người đứng đầu đất Kinh tức Kinh
Man, địa bàn tổ của Bộc Việt, Lạc Việt…
Đại để đó là
những trang huyền sư3 nói
lên vụ văn hóa Đông Nam của Viêm Việt biến cải
văn minh Tây Bắc của Hiên Viên ra sao.
Bây giờ bàn
đền bài vở xem “Hai
lão Ba cô” dạy gì? Thưa dạy có một
bài là dục, nói cho văn vẽ một chút
là làm tình. Nói xiết chặt hơn nữa
là dạy “quẻ ký tế” trong Kinh Dịch. Đó là
quẻ thứ 63 áp chót kép bởi quẻ Khảm và quẻ
Li. Ký Tế thường dịch là “đã xong”, làm
trọn, còn ở đây có nghĩa là dạy sao để việc
giao cấu được trọn hảo. Học giả Van Gulik dịch là l’union
parfaite (Gulik 63) và nhận xét thêm: các
sách về dục tính đều tựa trên quẻ này, hơn
nữa nói được quẻ này là nên tảng tư tưởng
của Tàu, tức của Việt nho. Vì đây là nền
tảng minh triết của Việt Nho nên ta hay đưa ra ít
hình ảnh quen dùng để ghi đậm nét. Trước hết
là hình I (mượn từ Van Gulik 66) về quẻ Ký Tế.
(Hình 1 Về quẻ
Ký Tế)
Bảng có đề 4
câu chữ nho rằng:
Khảm tượng lai điền.
Li quái thành
ách.
Thiên địa định vị:
Phản bổn hoàn
nguyên.
Hai câu dưới tương
đối dễ hiểu mà ý lại
cao xa tức nói truyện giao cấu mà cuối cùng dẫn
tới “thiên địa vị yên” thì vạn vật được trở về nguồn
cội. Còn hai câu trên rắc rối ở chữ điền và
ách. Điền là làm cho đầy, hoặc động cựa êm
êm. Còn ách (1) nghĩa là cái
ách quàng cổ con vật kéo xe, kéo
cày. Tiếng La tinh là jugum. Hôn phối gọi là
conjugum. Chữ “con” chỉ cùng. Conjugum là cùng
kéo ách. Quẻ Khảm chỉ con trai thứ nên đại diện cho
Nam, còn quẻ Li chỉ thứ nữ nên đại diện cho Nữ. Nhưng
đôi khi ta thấy lộn ngược Khảm Nữ, Li Nam là tại
xét cái “đức”, cái power. Khảm là nước,
còn Li lửa. Nên nghĩa giao thoa như vậy là truyện
thường trong Kinh Dịch.
(1) Bản khắc
không được rõ. Có thể
là chữ loát hay ách. Tôi chọn chữ ách
xem ra hợp hơn.
Bài học trên
còn được minh họa bằng đồ
biểu: Long hổ giao cấu đồ, cũng mượn từ Gulik 118.
(Hình 2 Long hổ
giao cấu đồ)
Bạch diện lang quân
kị bạch hổ.
Thanh y nữ tử khóa
thanh long.
Duyên hồng đỉnh
biên tương kiến hậu.
Nhất thời khai tỏa tại kỳ
trung.
Nghĩa:
Chàng mặt trắng cỡi
bạch hổ
Nàng áo xanh
cỡi rồng xanh
Chì sa bên
đỉnh sẽ thấy quả
Một thời khai mở ở
bên trong
Chì= con trai, dan
sa (mercury)= con gái. Chữ
mặt trắng thêm vào để chỉ màu trắng phương
tây cũng như chữ Bạch hổ tượng trưng tây bắc. Hành
mộc màu xanh nguyên lý mẹ, phương đông. Hoặc
một hình ảnh khác là Nữ Oa Phục Hy quấn lấy
đuôi nhau.
(Hình 3 Nữ Oa
& Phục Hy)
Nữ Oa cầm thập tự nhai cũng
gọi là Quy
Phục Hy cầm thước
vuông gọi là Củ.
Còn nếu nói
thanh cao nữa cho hợp câu
“thiên địa định vị” thì là hình bát
quái do vua Phục Hy vạch ra gọi là tiên thiên
bát quái
(Hình 4
Tiên thiên bát
quái)
1. Kiền 2.
Đòai 3. Li 4.
Chấn 5. Tốn 6. Khảm 7. Cấn 8. Khôn
xem hình trên
ta thấy mỗi quẻ đối nhau chan
chát 1-8, 2-7, 3-6, 4-5.
Đó là bản
tóm Kinh Dịch, vì 64
quẻ đều thành bởi hai quẻ đơn chồng lên nhau: một nằm
trên “khom khom cật” một nằm dưới “ngửa ngửa lòng”.
Bây giờ bàn
đến hậu quả của bài học “kỳ
cục” nọ. Đây là chỗ các người thanh giáo
có thể đặt câu hỏi nghiêm nghị rằng: kinh với
sách gì mà toàn nói tầm bậy vậy
cà? Cả một đoàn giáo sự chọn lọc kỹ lưỡng để đưa
đến triều đình dạy một vị Hoàng Đế cao cả, mà đem
truyện bù cú ra nói là cái nghĩa
chi. Các cụ chửi cũng có lý do vì thế
“bên trong còn lắm điều hay” hay hơn nhiều mà
tôi không dám nói tới (để dịp khác
có lẽ) chỉ xin nói sơ qua về hậu quả của bài học
(duyên hống đỉnh biên tương kiến hậu).
Có một điều
mà các học giả quốc tế hầu
như đồng thanh công nhận là đang khi các văn minh
đồng thời với Tàu thì hoặc đã chết ngóm từ
lâu như Sumer, Babylon, Egypt, Greece, Roma, hoặc đã biến
đổi nhiều như An Độ, Au Tây, chỉ có Tàu là
còn y nguyên về nền tảng và vẫn thịnh đạt vẫn vươn
lên, với một nền văn hóa có sức quy tụ đặc sắc, vậy
xin hỏi bí quyết đó tự đâu? Ong Gulik cho là
tại người Tàu đã khéo léo duy trì
được sự cân bằng giữa yếu tố nam và nữ và điều
đó ngay từ đầu kỷ nguyên của chúng ta (Gulik 412
và 414). Câu nhận xét đó quả là
đúng nên chúng ta sẽ đào sâu
thêm.
Trước hết là
câu giữ được quân bình
từ đầu thì rất đúng vì chúng ta đã
thấy ngay từ đầu một đoàn giáo chức đã biểu lộ sự
quân bình ngay trong thành phần của mình
là 2 nam 3 nữ, tức con huyền số vài ba của Việt tộc
đó.
Thứ đến là đề
tài đưa ra hàm chứa một sự
quân bình không đứt đoạn, tượng trưng bằng quẻ
ký tế. 63 quẻ kia cũng đều có nét song
trùng như tế: tức một quẻ trên một quẻ dưới, nghĩa
là bài học không bao giờ rời xa cái vụ
làm tình. Đấy chính là Đạo Trời Đất
đã xuất hiện ngay từ thưở khai thiên lập địa có bao
giờ bị đứt quãng đâu. Nếu đứt quãng thì
chúng ta đâu có ở đây để mà kẻ viết
người đọc.
Việt nho nhằm ngay
vào cái chỗ đó
mà lập đạo, sau này sách Trung Dung (câu 12)
tuyên bố “quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ”. Đấy
là điều kỳ lạ: đạo gì mà bắt đầu ngay chỗ
lôi thôi nọ. Quả là kỳ lạ vìhầu khắp thế giới
ít ra hai nền văn hóa lớn là Âu Tây
và Ấn Độ không nói tới vụ đó nữa Âu
còn cho đó là hư hỏng, nói đến là
hèn hạ, là tội lỗi? Ai đúng ai sai? Đây
là chỗ mà nhiều triết gia và dân tộc học
đang bù đầu tìm lý do tại sao cơ quan sinh dục ban
đầu được hết mọi dân cổ sơ thờ lạy mà đến nay mới
nói đến thì đã đỏ mặt cho là không
đúng đắn để khỏi nói là hư hỏng! Nhưng ai
đây mới thực là hư hỏng. Có phải những người bị
lên án là hư hỏng hay chính những người
lên án mới đích thực là hư hỏng tức
làm đảo lộn một trật tự thiên nhiên: cái được
tôn thờ lại bị đảo ngược thành cái phải huý
kị? Tại sao vậy?
Người ta đã đưa ra
đủ giả thuyết, riêng triết
lý An Vi thì thấy đó là tại thiếu
nét song trùng tức không biết nhìn
toàn bộ, mà đã vội ngưng tụ lại ở một điểm
nào đó. Hãy lấy một thí dụ nhỏ nằm trong
trào lưu lớn nọ là con rùa: xa xưa ngay tự đời An
người Tàu cũng tôn thờ rùa như một trong tứ linh.
Thế mà tại sao tự đời Minh về sau thì lại coi là
tục. Không còn gì thóa mạ cho bằng gọi ai
là rùa đen. Đó là lời chửi tục tĩu nhất
(bên Nhật cũng như bên Việt không bị vạ nên vẫn
kính rùa). Riêng vụ này thì có
lý do lịch sử là tại người Mông Cổ khinh tất cả
những gì của Tàu, đã vậy còn đẩy quẻ
Ký tế đến chỗ thái thậm; sự vụ xảy ra đại lược như sau:
quân Nguyên theo Phật giáo Tây Tạng, bên
đó có lối thiền bằng giao cấu. Người ta tạc tượng nam
thần đang giao hợp bằng cách ôm vào lòng một
thần nữ, các tượng đó gọi là Yab Yum. Tàu
dịch là Lạc Phật. Các đôi tân hôn cưới
xong thì đến đảnh lễ Phật rồi lên sờ vào cái
nút cửa Phật để học bài “sinh dục”! (Gulik 324).
Quá đáng
là thế, nên một khi người
Tàu lấy lại được độc lập liền phản đối đập phá om
sòm. Do sự phản động quá mạnh đó mà mắc
vào cái lỗi xem một phần thay vì cái
nhìn thanh thản an vi cách bao trùm. Nếu
nhìn bao trùm toàn thể sự vật, ở đây
là toàn thể con rùa cả mu lẫn chân
thì có thể vươn lên ý nghĩ mu tròn
chỉ trời, 4 chân (vuông) chỉ đất; còn nhìn
theo lối chấp ý thì chỉ chú mục vào
có cái đầu, rồi nghĩ đến cái dương vật lúc
này đã bị tục hóa. Thế là có
màn đảo lộn “tự vật thánh ra vật tục” rồi kinh tởm tục,
thế là bỏ hẳn. Cũng may nhờ bài học thâm sâu
của “hai lão với ba cô” nên tuy cũng mắc bệnh, nhưng
mới là sốt rét vỡ da, chưa đến nỗi nhập lý
gây nên bệnh trầm trọng cả tâm lý lẫn
siêu hình là chọn một bỏ một tức sự nhìn
nghiêng hẳn vào những cái bé nhỏ, khiến cho
văn hóa trụt mất bên âm cũng gọi là
nguyên lý mẹ và trở nên duy dương đực rựa,
gây nên tai họa tày trời cho nhân loại
ngày nay.
Riêng văn hóa
Tàu vẫn còn giữ được
phần nào sự cân đối giữa âm và dương
nên vẫn trường tồn không cần thay đổi nền tảng. Bí
quyết phải tìm ở đâu?
Hãy trở lại với
cái phallus để tìm căn
do: hỏi tại sao bên Tàu nó không bị hạ bệ tức
không bao giờ nó bị gọi là “củ tội” mà vẫn
giữ tên là chày ngọc (ngọc hành) với sự cao
quý? Tôi cho rằng bí quyết nằm trong chữ Việt với
nghĩa là Việt lên, siêu vượt. Chứ ban đầu trong giai
đoạn tôn giáo phong nhiêu thì quẻ ký
tế cũng được thực hiện đậm nét lắm như ta thấy tỏ trên
cái nắp thạp Đào Thịnh (tỉnh Yên Bái) bốn
đôi đang làm tình cách trọng thể với dương
vật to quá cỡ thợ mộc (hình 5).
(Hình 5 Thạp
Đào Thịnh (tỉnh Yên
Bái))
Nhưng rồi nhờ việt
tính nó đã biến thể
nhiều cách như hình hai giao long đang Giao chỉ (giao hai
tay) hình 6.
(Hình 6 Giao
long)
Hoặc như hình Nữ Oa
Phục Hy quấn đuôi nhau để
rồi biến dần ra thanh thoát hơn nữa như
Cá nước chim trời,
Số chẵn số lẻ
Gạch đứt gạch liền.
Rồi những gạch chồng
lên nhau thành quẻ đơn. Rồi
cứ hai quẻ đơn chồng lên nhau thành ra 64 quẻ kép.
Rồi biến thể lần nữa
thì ra thập tự nhai + thẳng hay
thập tự nhai chéo X. Thập tự chéo này hóa
ra chữ nghệ. Chữ nghệ làm nền tảng cho chữ văn trong Văn Lang
hay giao trong giao chỉ, rồi vô số biểu tượng khác cũng
như lược đồ tự phiền toái như Hà Đồ Lạc Thư minh đường,
nguyệt lệnh cho đến vòng con giáp và bao danh từ
như vũ trụ, núi sông, nước lửa, tiên rồng…
Tràn ngập vào nền văn hóa Việt nho đến độ trở
nên cơ cấu uyên nguyên của nền văn hóa
đó đem lại cho nó một sử cân bằng siêu tuyệt.
Đang khi hầu hết các
văn hóa vì thiếu
chữ dịch, chữ biến thể ccứ để phallus nguyên con mà thờ
thì đến một lúc nào, con người bị chi phối
vì một ý niệm tư riêng nào nên coi sự
thờ phallus là chướng liền bỏ tuột thế là trở nên
duy dương đực rựa. Không duy tâm thì cũng duy vật.
Xem thế đủ biết bài học của hai lão ba cô thực
là quan trọng vô cùng, nó là tinh hoa
của Kinh Dịch, nền móng của văn hóa Đông Nam. Nhờ
đó mà âm dương vật vẫn được duy trì, nhiều
khi còn đem treo cả bên cạnh bàn thờ để tôn
kính mà chẳng ai lấy làm lòng, vì
nó đã được biến thể, có thể nói là
trở nên trừu tượng để thah thoát vươn lên làm
đà tiến đến chỗ cao siêu cùng cực như đất trời, rồi
cuối cùng đến chỗ chỉ Có với Không tức đi đến
quân bình siêu linh. Nói khác
là từ chỗ “rất thấp” nam nữ giao hợp mà bò
lên tắp tít tới chỗ siêu hình có
không, không có: “hữu vô tương sinh”
Vô là âm
Hữu là dương
tức là nét
song trùng ở đợt sâu xa
nhất bao trùm cả vũ trụ hơn hết. Đó là nhờ
tác động Việt. Chính nhờ tác động Việt nọ
mà Tàu duy trì được sự quân bình nền
tảng, làm cho văn hóa trở nên trường tồn.
Đó là đại để
khóa trình của “hai
lão ba cô dạy một trò” nó vừa muốn chứng tỏ
sự vụ văn hóa Viêm Việt đã cải tổ, nhuần nhã
hóa văn minh du mục Bắc phương, vừa nói lên sự hiệu
nghiệm ơn ích của bài học, mới coi tưởng như trò
đùa mà kỳ thực là đặt căn bản trên nền
móng cực kỳ vững mạnh. Nhờ đó mà văn minh
Tàu còn giữ được chất nông nghiệp với nguyên
lý mẹ đến 60% còn Việt đến 90% là do bà
thầy (đội tên Nữ Thần Mộc) dạy làm chữ đinh, thanh hơn quẻ
ký tế một độ (xem bài Pho Tượng Đẹp nhất của Việt tộc
(41)).
Chương 11
HUYỀN SỬ
CŨNG LÀ HÙNG SỬ
Huyền sử là sử chiều
sâu, nên cũng gọi
là sử hàng dọc, vì thọc sâu vào
ý nghĩa của sự việc; trái với sử ký gọi là
hàng ngang vì nó bò lan trên sự kiện:
nó nhằm ghi các biến cố cá thể nghĩa là chỉ
xảy ra một lần nên nó bám sát phạm
trù không gian và thời gian, địa danh và
niên hiệu vì thế trở thành quan trọng. Huyền sử
trái lại vượt thời gian không gian, vì với sự kiện
nó chỉ nhằm ý nghĩa là cái gì phổ
quát. Huyền sử nhằm gợi lại cái dạng thức tinh thần,
cái hồn của một dân, cái đường lối sống căn bản của
dân ấy, cho nên chính thực nó là một
nền minh triết, hay đạo lý nhưng khác minh triết ở chỗ
dùng huyền thoại. Minh triết nói thẳng, nói vắn
gọn bằng những câu châm ngôn tục ngữ, trái lại
huyền sử dùng biểu tượng như đồ biểu, độ số, huyền thoại. Sở dĩ
gọi là sử vì các huyền thoại phần nào dựa
trên sự kiện lịch sử, nhưng lại gọi là huyền vì
những sự kiện đó không cần thật hết bởi nó
đã bị tổng quát hóa nghĩa là đã được
róc hết khỏi mọi phạm trù không gian và thời
gian, để chỉ còn chú ý đến ý nghĩa, nhưng
ý nghĩa không được nói lên cách trực
chỉ, mà lại gửi gấm vào số, vào tên gọi
thí dụ 18 đời Hùng Vương, nếu đọc theo lối huyền sử
thì ta sẽ không tìm xem thực sự có 18 đời
Hùng trải dài trên hơn hai ngàn năm chăng,
nhưng sẽ tìm hiểu ý nghĩa sao đây, đạo lý
nào ẩn tàng trong số 18, ẩn trong tên Hùng,
ta sẽ tìm xem vũ trụ quan 18 đời Hùng ra sao, thuộc
nhân sinh quan nào? Vũ trụ quan thì có động
có tĩnh về thời gian, có tả có hữu về không
gian.
Nhân sinh quan
thì có chủ có
nô tức là nhân chủ hay vật chủ… Những câu trả
lời cho những loại câu hỏi trên sẽ làm nên
chân trời quy định ý nghĩa của huyền sử. Hiểu đúng
được thì huyền sử sẽ giúp tìm ra được tâm
hồn người xưa, dọi nhiều tia sáng vào những huyền thoại
vẫn tưởng là vô nghĩa, đem lại cho sử trình tiến
hóa của dân tộc một nền thống nhất lẫm liệt, một chiều
kích u linh siêu việt cũng như đem đến cho những
tiêu điểm vững chắc, những phân biệt thấu triệt mà
sử ký hay cả khảo cổ không sao cung ứng nổi. Tuy
nhiên hiểu được huyền sử cách đúng mức là
việc diệu vợi vì huyền sử bao gồm ý nghĩa siêu linh
của đạo lý, củacon người Đại Ngã Tâm Linh vượt tầm
lý trí suy luận, nên phải dùng những lời
bày tỏ gián tiếp.
Hỏi tại sao không
nói thẳng mà lại
nói quanh co rắc rối như vậy? Thưa trong chu trình tiến
hóa con người có lúc lên lúc xuống.
Lúc xuống thì lẩn sâu vào vật chất mà
Truyền Thống quen gọi là mạt kỳ, thời ấy đạo lý
nào, triết lý hay tôn giáo nào cũng
sa đọa. Huyền sử cũng là hậu quả của một sự sa đọa nhưng tương
đối nhẹ nhất vì nó dùng nhân thoại, tức
còn duy trì niềm tin con người làm chủ tuy chỉ
còn bằng biểu tượng (quên hầu hết hiện thực) ngược với
thần thoại như trong hầu hết các văn hóa và đạo
lý. Nơi thần thoại con người mất trọn nhân chủ tính
kể cả bằng biểu tượng. Nói vậy nghĩa là muốn có
huyền sử phải có nhân thoại, vì sử là sử ghi
chép việc của người chứ con vật không có sử. Thế
mà trong thần thoại con người chưa hẳn là người, mới
là trò chơi của thần minh, một đối tượng, một vật thể,
nên kể là chưa có sử, nói huyền sử là
guợng ép. Những miền chưa đạt được nhân chủ không
có huyền sử mà chỉ có vô sử rồi sử
ký. Sử ký dễ đốc ra duy sử, mà duy sử là
con đẻ của duy lý, là luồng tư duy chối bỏ cõi
siêu nhiên không biết chi đến thế giới tâm linh
nữa, hay nếu có thì cũng quan niệm theo những phạm
trù hiện tượng duy vật mà đã duy vật là
đánh mất nhân tính còn đâu chủ quyền
về vận hệ mình mà gọi được là nhân chủ.
Đã không có nhân chủ làm sao có
được huyền sử. Xem thế đủ biết sự giải nghĩa huyền sử là việc
khó khăn diệu vợi. Sự nhận thức những cái khó khăn
đó sẽ giúp vào việc giải nghĩa huyền sử.
Để được vậy ta hãy
nhìn bao trùm sử
trình của tâm thức con người trên đường tiến
hóa: ở đợt thấp nhất chỉ có sự vật, lên một đợt nữa
là sự kiện, lên nữa là ý niệm, tiếp đến
là cơ cấu và các mối tương quan. Sau cùng
đến chữ Tương viết hoa. Các sự việc cũng như mọi biến cố
bày ra trước mắt ta thì có muôn vàn,
đó là sự vật. Khi ta chú ý đến một số sự
vật, một số biến cố thì những cái đó trở nên
sự kiện. Khi ta đem sự kiện đó róc hết những cái
bám vào chung quanh như các phạm trù
không gian và thời gian với các tuỳ thể của
nó thì là ý niệ, ý niệm như vậy chỉ
còn là cái khung của sự kiện, nó đã
trở nên trừu tượng, mất hết những phẩm tính khả
giác như mùi vị, màu sắc, tức mất tính chất
tình tứ có khả năng lay động tâm hồn. Nhưng
bù lại ý niệm trở nên dụng cụ chuyên biệt của
cái nhìn trong suốt, có khả năng liên hệ với
các sự kiện khác. Cái nhìn càng
trong sáng, càng cất lên cao thì càng
nhìn ra được những mối liên hệ nằm ngầm. Chính sự
nhìn ra những mối liên hệ này quyết định các
bước tiến của con người. Con vật không tiến vì
chúng nhìn ra rất ít liên hệ. Nếu ta treo
mấy quả chuối ở chỗ cao, hoặc ở nơi ngăn cách, và để
những đồ khều quả chuối ở quanh đó thì nhiều con vật chịu
đói chứ không biết dùng que lấy chuối mà ăn,
chỉ có một vài loài khỉ là biết lấy quen
khều chuối, có con biết lấy ghế để ở một góc nhà
đưa lại gần cửa sổ đứng lên để chui ra ngoài. Con người
nhìn ra nhiều tương quan hơn nên chế tạo ra rất nhiều đồ
vật đủ loại để làm nên các bước tiến lên
đài văn minh: đồ đá cũ rồi đá mới, nông
nghiệp rồi kỹ nghệ, công nghiệp rồi điện tử… Mỗi bước tiến
thành bởi những liên hệ được khám phá. Trong
phạm vi thuần tuý lý thuyết cũng vậy: tự ý niệm ra
tư tưởng, từ tư tưởng ra ý thức hệ, tứ ý thức hệ ra cơ
cấu…
Tóm lại sự vật chỉ
có cơ cấu đối với tâm
trí ở một trình độ thức giác nào đó.
Vũ trụ mà không có thức giác của con người
thì không có cơ cấu với các phẩm chất,
các giá trị đi kèm. Sự vật nọ kia có
giá trị là do cái nhìn của con người
gán cho, nhìn thấp trong đợt vô thức chỉ thấy
có sự vật, nhìn lên cáo dần thì sự
vật biến ra sự kiện rồi ra ý niệm, sau cùng là cơ
cấu với các liên hệ của nó. Cuối cùng phải
nhảy ra khỏi vòng vây của lý trí mới thấy
mối Tương Quan nằm ngầm nối kết hết mọi sự vật vào một
liên hệ căn bản ràng buộc tất cả trời, đất, người
thành một thể (thiên địa vạn vật nhất thể). Kinh
Hùng gọi đợt này là Cánh Đồng Tương. Phải
đạt đến Cánh Đồng Tương mới mong hiểu được ý nghĩa huyền
sử.
Phác họa sơ qua con
đường tiến của tâm thức con
người như thế để dễ thấy rằng huyền sử là một khoa học cao cả
nên sự giải nghĩa phải được chú trọng nghiêm chỉnh
vô cùng. Sau đây chúng ta sẽ dượt qua
ít điểu kiện phải có để giải nghĩa huyền sử áp
dụng vào Kinh Hùng được coi là một huyền sử thượng
thặng, nên Hùng sử cũng chính là Huyền sử.
LUẬT
QUAN TRỌNG ĐỂ
GIẢI NGHĨA HUYỀN SỬ
Luật đó là
phải quy chiếu vào cái
toàn thể, vào cái môi sinh tinh thần của
những huyền thoại để tìm ra ý nghĩa: tức phải chú
ý đến cả vũ trụ quan lẫn nhân sinh quan: các
ý nghĩa gán cho huyền thoại không được đi ra
ngoài cái toàn bộ nọ. Để cụ thể hóa
khuôn mặt của cái toàn thể, triết lý An Vi
đưa ra 4 tiêu điểm là từ, tượng, số, chế.
Từ
là lời nói, ở đây
hiểu là các huyền thoại thuộc thời sơ nguyên, nhiều
khi có cả sáng thế ký (cosmogony) như truyện
Bàn Cổ. Với Lạc Việt thì căn bổn hơn hết là 15
truyện trong Kinh Hùng. Ta sẽ hỏi Kinh Hùng có
Nhân Chủ tính chăng và ta sẽ phải ngạc nhiên
một cách kinh hãi và thích thú
là tất cả 15 truyện mang đậm tính chất nhân chủ.
Thế mà không phải một hai truyện lẻ tẻ tản mát,
nhưng là một chuỗi 15 truyện được thâu lượm vào
thời duy sử nghĩa là vào thời đã quên
ý nghĩa huyền sử. Điều đó chứng tỏ tính chất lẫm
liệt của nhân chủ tính trong các truyện. Mở đầu
không có thần thoại nào hết mà đi liền
vào nhân thoại tức là các anh hùng
văn hóa có đầy hoạt lực để tranh đấu với thần thoại với
bái vật. Về điểm này không có gì
hùng tráng hơn ba vĩ tích của Lac Long Quân
khi diệt Hồ tinh, Ngư tinh, Mộc tinh đặng dành lại quyền
làm chủ cho con người. Tiết Liệu xếp đặt trời đất, tức
bánh trời để trên bánh đất, làm liên
tưởng đến ông nội Bàn Cổ đã tạo lập ra đất trời.
Đó là nền nhân chủ đến cùng cực mà
biểu lộ bình dân của riêng chi Lạc Việt là
Thánh Dóng, cũng có tên là Xung
Thiên Thần Vương. Các huyền thoại này được thu thập
vào quyển Kinh Hùng. Nên Kinh Hùng đại
diện cho Lời (Từ).
Tượng
thì có những cặp
đôi: uy nghi cũng có, mà cận nhân tình
cũng có như: nước lửa, núi sông, ông Cồ
bà Cộc, ông Đùng bà Đà… những cặp đối
đó đã kết tinh lại trong cặp đôi Tiên Rồng
với tính cách thi vị mênh mông, một cặp
đôi đầy biến ảo và thấu nhập vào hết các
ngõ ngách của cuộc sống: từ mỹ thuật cho đến thể chế,
ngôn từ, thói tục… tha hồ cho con cháu tìm
hiểu.
Cặp tượng này sẽ
kép nét lên
mà ra bánh dầy bánh chưng hay là
tròn vuông tương hội. Những tượng này đã
được đúc kết lại trong Trống Đồng nơi các cặp đồi được
biểu lộ cách huy hoàng như chim với nai, con dài
con vắn, con đi lẻ con đi cặp hai, con đực con cái… Mặt trống
chia ra hai mảnh, rồi mỗi bên là lẻ chẵn (nóc
nhà một chim bên kia hai chim) vòng sát
ngoài có 3 đôi chim bên kia, 4 đôi
bên này. Đó là cặp số 2-3 kép
lên thành 3-4, 3 tròn 4 vuông, số của
bán trời bánh đất. Như vậy Trống Đồng phải đươc coi
là cái Tượng chói chang của huyền sử nước Việt.
Số. Về số
thì phải tìm trong
tượng, phổ biến hơn cả là số 2 với vũ trụ quan động: muốn động
phải có 2, có âm có dương chứ duy dương hay
duy âm đều bất động. Vì thế số 2 được quan trọng
hóa bằng diễn tả ra rất nhiều cặp đôi như núi
sông, nước lửa, đất trời, đực cái…
Số 3 chỉ con người
nhân chủ tức không lệ thuộc
vào bên nào: không duy dương cũng không
duy âm, không duy trời cũng không duy đất nhưng đứng
giữa kiêm cả hai nên là Ba. Số 3 được biểu thị trong
trống Đồng bằng các hình tam giác gốc (xem Sứ Điệp
Giải rộng) và ẩn trong hai mảnh trống ấp lấy mặt trời ngự ở
trung cung thành ra ba, hai mảnh là lưỡng nghi,
còn trung cung là vầng thái dương đóng vai
thái cực.
Số 5 là 2 và
3 cộng lại thành ra ngũ
hành. Ngũ hành là bộ số có ý nghĩa
siêu linh nhưng đã bị quên trọn. Vậy ý nghĩa
đó nằm trong hai bộ số 3 và 2. Số 3 chỉ con người đầy
tác động tính nên gọi là một trong tam
tài (tài là tác). Số 2 chỉ lưỡng thê=
hai đời sống, một của thế giới hiện tượng, một nữa của thế giới
siêu linh mà xưa kia kêu là “hình nhi
thượng” tức bên trên hình tượng. Cần con người phải
sang qua sông để đáo bỉ ngạn, Kinh Dịch kêu
là “lội qua sông lớn” (thiệp đại xuyên). Phải hiện
thực được bước lội qua sông này mới tới cõi con
người Đại Ngã. Vì thế ở những cuộc hát trống
quân sơ nguyên có cuộc “lội qua sông”: khi hai
cô cậu ưng nhau rồi thì lội qua sông để làm
động tác truyền sinh đặng sinh ra con người nhân chủ. Do
ý nghĩa vòng vo như thế nên hành ngũ (trong
ngũ hành) có tính cách u linh trống rỗng
như đã bàn kỹ trong quyển Sứ Điệp.
Sau ngũ hành
là mấy bộ số kép
khác như số 9. Đó là do 3*3 mà ra, rồi số
18 là 2*9: 18 đời Hùng Vương, 18 ngàn năm của
Bàn Cổ, 18 thước cao của con ngựa Thánh Dóng, 18
đôi chim ở vòng ngoài cùng của Trống Đồng…
Các số này
sau được kết tinh vào Kinh
Dịch mà khởi thuỷ là “kinh vô tự” vì chỉ
dùng toàn số 2, 3, 5, 9 (nó chỉ trở nên kinh
hữu tự từ lúc Tàu hóa tức Dịch gọi là của
Văn Vương và Khổng Tử). Vậy là ta có thể coi Kinh
Dịch như nơi kết tinh của số.
Chế
là các thể chế, tục lệ
mà nơi tập trung sống động là cái làng
Việt. Làng là một nấc thang đi lên nước nên
tiền nhân nối liền làng vào nước gọi là
làng nước, cũng như đã nối liền nhà với nước gọi
là nhà nước. Nối liền như thế là không cho
phep quan niệm nước tách biệt khỏi nhà như trong lối
chuyên chế quen lấy thế nước để bóp nghẹt tỉnh nhà,
trái lại phải quan niệm nước theo mẫu mực nhà. Xưa vua
quan được gọi là cha mẹ dân (phụ mẫu chi dân)
là theo ý đó; cũng như ta thấy lối xưng hô
trong gia đình áp dụng cho hết mọi người trong nước cũng
vì ý đó. Dù với người không quen ta
cũng xưng là bà, ông, anh, chị, chú,
bác mà sâu xa hơn cả là hai chữ đồng
bào. Để được gọi mọi người trong nước là đồng bào
thì phải có huyền thoại bọc trứng Âu Cơ để chỉ mọi
người cùng chung một mẹ sống trong tình nhà
là đùm bọc, san sẻ, yêu thương, bình sản,
lấy chữ hòa làm lý tưởng. Người ta cũng có
thể gọi mọi người cùng nước là đồng hương nhấn mạnh
trên đất nước (quê hương) nhưng tiền nhân ta
đã chọn hai chữ đồng bào là nhấn trên mẹ
(đất mẹ) để đặt nổi mối tình người, tình nhà,
tình nước. Hiện nay người mình đang có khuynh
hướng dùng chữ đồng hương thay cho đồng bào. Dùng
thế có thể vì nghe hay hơn, mới hơn, “văn minh” hơn
là chữ đồng bào, nhưng xét sâu xa thì
gọi thế là do sự dẫn dắt của tiềm thức cộng thông
không cho phép dùng hai chữ đồng bào nữa,
bởi vì truyện mẹ đẻ trăm con đã bị cho là
quái đản trâu ma: tình nước tình nhà
hiện đang bị phá huỷ tận gốc. Vậy thì nên gọi
là đồng hương nghĩa là những người cùng sống trong
một mảnh đất như nhau: nơi ràng buộc nhau chỉ còn
là đất đai bên ngoài, hoàn toàn vật
chất chứ còn đâu nữa tình người, tình gia
tộc sâu thẳm tự hơn bốn ngàn năm mà được
phép gọi là đồng bào. Đó là một
thí dụ hiểu sai, còn mấy điểm hiểu sai nữa rất trầm trọng
sẽ được bàn tới trong ghi chú của bài
Hùng Việt Sử Ca ở chương dưới.
Đại để muốn tìm ra
ý nghĩa của huyền sử
thì phải quy chiếu vào cái toàn thể.
Cái toàn thể đó chia ra bốn mục: từ, tượng, số,
chế. Cả bốn đều có nơi kết tinh đó là:
Kinh Hùng cho Từ
Trống Đồng cho Tượng
Kinh Dịch cho Số
Thôn làng cho
Chế.
Với 4 kết tinh đó,
huyền sử Việt đã vươn
lên trên hết mọi huyền sử để trở thành một Huyền sử
thượng thặng và do vậy có thể nói Huyền sử cũng
là Hùng sử.
Ý
NGHĨA CHỮ
HÙNG
Bây giờ chúng
ta hướng suy tư vào chữ
Hùng vì là chữ then chốt trong huyền sử nước ta.
Muốn hiểu chữ Hùng cho đúng nghĩa phải vượt qua những
nghĩa thường nghiệm như hùng dũng trong chiến trường, hay trong
những công việc nguy hiểm như ta thường hiểu về các anh
hùng. Đó chỉ là những nghĩa luân lý
thông thường chưa phải là chính. Nghĩa chính
phải là nghĩa chỉ sự thắng chính mình, khó
hơn thắng kẻ địch gấp bội. Thắng quân thù có thể
chỉ là cái thắng khí huyết. Anh hùng trung
thực khó hơn nhiều: phải là thắng chính
mình để nắm vận mạng mình, để tự đạo, tự đạt, tự
thành = self-achievement, rồi từ đó tiến lên nghĩa
siêu linh ở đợt Tam tài đứng ngang cùng trời đất.
Nếu trời là chủ, đất là chủ thì người cũng
là chủ, như một ông vua độc lập không ỷ lại
vào trời hay đất nhưng tự mình làm chủ lấy
mình đó gọi là nhân chủ. Đó mới
là ý nghĩa chữ Hùng trung thực. Đó mới
là đợt cao nhất kể cả trên cấp tối cao siêu linh,
nên con người phải mất bao thời gian mới đạt tới sự hiểu biết nọ.
Hãy lấy cặp đôi sông núi mà xét
thì thấy hai cặp sông núi đối đáp mà
ở đầu nền văn hóa nào cũng thấy xuất hiện, nhưng rồi
thừong núi chỉ là nơi ngự trị của thần linh, còn
sông thì thường có Hà Bá như
bên Tàu. Núi Olympia bên Hy Lạp, núi
Meru bên Ấn Độ toàn là nơi ngự trị của thần minh
nghĩa là thuộc đợt bái vật, nó đè nặng
trên con người như ta thấy rõ trong đền núi Đế
Thiên, có đền, có núi, có sự chết (để
quàn xác vua) có cõi âm ti… tất cả
những yếu tố đó tập hợp lại đè trên lưng con người
(xem bài IV trong Sứ Điệp) biểu hiện bằng sự vắng bóng
tượng thần nữ, y như thần nam Lokesvara bên Ấn, đến khi sang đất
Việt nho được thở bầu khí nhân chủ mới biến thể ra thần Nữ
Quan Thế Âm đầy tình mẹ. Đó là hậu quả của
đức Hùng siêu linh. Nhờ có đức nọ nên
núi trở thành nơi ở của tiên mẫu gọi bóng
là Phong Châu, còn nước trở thành nơi ở của
Long phụ, cả hai gặp nhau trên Cánh Đồng Tương để sinh ra
con Hùng mà bản chất là vua từ trên cấp tối
thượng nghĩa là vua sán cùng trời đất.
Cho nên mấy chữ “mẹ
tiên cha rồng” đã
hàm tàng sẵn một sử trình đi lên của
nhân chủ vừa được phác họa. Còn cần phải xem
tính chất của kẻ cư ngụ. Ở những nền văn hóa du mục
thường là những con ác thú được chọn làm
vật tổ như sư tử bên Babylon, bò đực bên Hy Lạp, rắn
bên Ấn Độ… Tất cả đểu đóng vai thần lấn át con
người: đấy là bước một.
Bước hai là bỏ
ác thú dính
sát vào đất để nhận chim đó là bước tiến
hơn, vì chim bay được lên trời cao hơn thú một bậc,
nhưng cũng còn là vật tổ.
Bước cuối cùng chim
trở nên vật biểu,
không còn là vật tổ nữa, vì người đã
lấy lại quyền làm chủ, làm nhân chủ, nên chim
phải lùi xuống làm vật biểu và phải bàn
giao cái đức tính của chim sang người như có
cánh, bay cao, đẻ trứng, trong sạch (cò trắng, hạc
trắng). Người mà có những đức tính của chim
thì phải mang tên khác đó là
tiên. Bước này mới thấy thực sự xảy ra ở trong sử Việt tộc
nơi chim trĩ chuyển sang chim Hồng Hộc, cũng có tên
là thiên nga để chỉ sự bay cao tận trời. Nhưng Hồng, Hộc
hay hạc lại là những loại chim nước có thể hội
thông được với rồng vốn ở thuỷ phủ, tức là xuống đến
đáy biển chỗ cùng cực thấp, vậy mà cũng giao hội
được với chỗ cực cao cho nên sự giao hội này gọi là
“Giao Chỉ”, chữ Chỉ viết hoa để chỉ trời đất giao hội. Đó
là bước căn bản làm nên con người nhân chủ
được định nghĩa là sự giao hội của đức trời đức đất: “nhân
giả kỳ thiên địa chi đức”. Đấy quả là một cuộc thái
hòa quá ư họa hiếm. Nhiều nơi chỉ đọng lại ở đợt
ác thú không có chim. Ít nơi
có chim như ở văn minh Ấn Độ có chim Garuda và rắn
Naga đã phác họa ra hai nét tiên rồng nhưng
rồi chim săn rắn nghĩa là đối kháng, không xảy ra
vụ gặp nhau trên Cánh Đồng Tương như mẹ Âu với bố
Lạc. Vậy cũng còn cao hơn các văn minh kia chỉ có
một con duy nhất và thường là loài 4 chân
như sư tử, gấu, voi, bò đực… đôi khi lên đến đợt
chim thì dừng lại ở đó như chim ưng ăn thịt, hay chim
cú của Hoàng Đế mới chán: sa vào tội ăn
thịt mẹ cha. Như vậy hiện tượng Tiên Mẫu Long Phụ gặp nhau
trên Cánh Đồng Tương quả là họa hiếm: có thể
nói là độc nhất vô nhị. Chữ Tương viết hoa để chỉ
một bước tiến vượt bậc là nhìn ra được mối liên hệ
ngầm giữa trời cùng đất. Đó là cái
nhìn thấu triệt. Phải vượt đợt hiện tượng mới thấy được
liên hệ siêu hình giữa người với trời đất, nên
Tương quan đó phải được viết hoa. Vì thế mà Tương
quan này rất hiếm. Vậy mà Tiên Rồng gặp nhau khắng
khít và cách phong phú được diễn tả bằng sự
đẻ một trăm con! Sai mắn biết mấy là cuộc gặp gỡ của mẹ
tiên cha rồng trên Cánh Đồng Tương.
Như vậy tên
Hùng Vương bao hàm cả một
tiến trình từ vật đến chim, từ chim duy dương đến chim nước để
đi đến người, để ngừơi thành Tiên trên núi
Phong Châu hay Ngũ lĩnh tức một quá trình biến
núi của thầnlinh thành nơi ở của con người, con người
chia nhau làm chủ cả nước cả non: cả non Nhân lẫn nước
Trí để đẻ ra con Hùng. Hùng lên ngôi
vua: vua chính mình cũng như vua nước vua non, vua ngang
với Trời cùng Đất và vì vậy xứng đáng
làm vai then chốt của Hùng sử cũng là Huyền sử.
Theo đó thì
huyền sử họa hiếm dường bao,
vì huyền sử là sử của con người Đại Ngã Tâm
Linh. Nếu không đạt đợt đại ngã mà chỉ ở lì
lại đợt con vật thì không có sử. Có
lên đến đợt lý trí của phàm ngã
thì cũng chỉ mới có sử ký, phải vươn lên đợt
tâm linh mới có huyền sử. Vì sự hiếm hoi như vậy
nên Hùng Vương hầu như là trường hợp hạn hữu trong
lịch sử văn hóa loài người, vì thế ta có
thể nói Hùng Việt Sử Ca cũng chính là Huyền
Việt Sử Ca. Nói khác nước Việt là nước
thiêng tiên rồng: giàu chất tâm linh hơn cả.
Ngày nào con người biết trở lại nguồn cội của mình
sẽ thấy cái kho tàng quý vô biên
tàng ẩn trong những trang huyền sử của nước Việt. Trong dĩ
vãng dù con cháu đã mất ý thức về
chiều sâu nọ, nhưng ơn ích trên bình diện
xã hội cũng còn rất đáng nể. Sau này Nho
đã nhờ công thức Việt Đạo mà được tiếng khen
là đã đưa vào sử trính nhân loại một
sự biến đổi lớn lao nhất, đó là một con người có
nhân cách phổ biến, một kẻ sĩ mẫu mực, một người
quý phái tinh thần có lẽ lần đầu tiên xuất
hiên trên mặt đất như ông Lewis Mumford đã
nói (trong quyển Transformation of Man. Edit. Harper and Row,
N.Y. 1965 p.72): “Confucius brought about a change of the greatest
magnitude… a universal personality, the archetypal scholar and
gentleman: perhaps the first rounded incarnation of this type”. Mẫu
người này đã sáng lập ra một lối nhân trị
dựa trên đức tính không đâu có hết
nên học giả Fairbank đã dùng từ ethocracy để chỉ
lối cai trị đặt nền trên đạo lý tâm linh này
(xem Chinese Thought and Institutions by John K. Fairbank, Universisty
Chicago Press, 1959 p.7)
THỜI
ĐẠI CỦA HUYỀN
SỬ
Đã nói rằng
huyền sử vượt phạm trù thời
gian không gian nên các niên hiệu địa danh
không giữ vai trò chính như trong sử ký, tuy
nhiên nó vẫn là một loại sử cần đến một số
tiêu điểm mập mờ thấp thoáng, với niên đại và
biên cương hết sức co giãn. Vì thế ta cũng
nên xét đến niên đại coi như những mốc lớn chỉ sự
trước sau (ordre de grandeur) với một không gian trồi sụt (nghĩa
là bờ cõi biến đổi qua bao ngàn năm nên
biên giới Châu Kinh với Châu Dương (của Man với Di)
có thể sai chạy cả ngàn cây số là ít).
Vậy huyền sử nước ta khởi
đầu từ Thần Nông “cháu
ba đời vua Thần Nông tuần thú phương Nam”. Tuy đây
chỉ là một câu vắn tắt nhưng lại chứa cả một nội dung
dài dằng dặc mất hút vào đêm tối dĩ
vãng và cả hàng nhiều ngàn năm, nó
gói ghém tính chất căn bản của nền văn hóa
nước ta: là nông nghiệp, ngược với văn minh du mục đặt
tên sự săn bắt như các nước miền Lưỡng Hà hoặc
vùng thảo nguyên. Các vùng này sau
đã bị tinh thần du mục lấn át tuy cũng có
nông nghiệp nhưng là lúa tắc (tắc và thử
thuộc loại lúa mạch, lúa miến) như của Tàu
lúc xuất hiện với ông Hậu Tắc (the prince of millet).
Thần Nông cũng
có tên là Viêm
Đế, dân gọi là Viêm tộc, nước là Viêm
bang, kinh Phật dịch là “Nhật chủng” thuộc hỏa đức (quẻ li) với
chim trĩ thuần hoả bay theo hướng mặt trời. Đó là loại
chim của Việt lúc còn thờ mặt trời, nên có
sách xưa gọi chim trĩ là “tuỳ dương Việt trĩ” = con chim
trĩ của chủng Việt bay theo hướng mặt trời Viêm Đế, Viêm
tộc, Viêm bang là thuộc giai đoạn này. Vậy đừng lầm
lẫn cho Viêm Đế là khác với Thần Nông, cũng
đừng nghĩ Thần Nông là người Tàu. Thần Nông
chính là điền tổ của Viêm tộc chứ không phải
của người Tàu. Người Tàu sau này đã đưa
ông Hậu Tắc ra làm điền tổ. Đó là chuyện
mãi về sau cuối đời Đông Chu.
Thần Nông ở
vùng Thái Sơn nên
còn có tên là “Liệt Sơn” (núi Oanh
Liệt). Liệt Sơn cũng là quê hương của Phục Hy, vì
thế Phục Hy còn mang tên là thanh tinh= rồng xanh,
ý nói ở phía Đông cùng với Nữ Oa
quê ở Đồ Sơn (cùng quê bà vợ ông Vũ).
Đồ Sơn là tên cũ của Cối Kê (kinh đô Việt
Chiết Giang) cũng gọi là Miêu Sơn (đôi khi đọc mao
sơn cho hợp vần thơ) tức liên hệ với Tam Miêu, Cửu
Lê. Đấy là thời một, thời Viêm tộc còn ở rải
rác khắp miền đất mênh mông mà sau này
là nước Tàu. Thời Viêm tộc được kết thúc
vào quãng giữa thiên niên kỷ thứ bốn trước.
Truyền thống ghi niên đại Thần Nông là năm 3320-3080
tr.cn (không nên nhận niên đại “khoa học” 2737
vì họ không kể đến Viêm tộc). Niên đại lưu
truyền không có tính cách xác
đáng của sử ký, nhưng dùng được cho huyền sử để
chỉ sự trước sau. Đây là chặng đầu của huyền sử nước ta
được nối với đại chủng Viêm tộc mà giai đoạn sáng
thế ký là Bàn Cổ (Bàn Cổ của Việt tộc xem
ghi chú trong đầu quyển Nhân Chủ) rồi mới tiếp đến giai
đoạn Tam Hoàng trong đó có Thần Nông. Nếu
không kể Bàn Cổ với các ông Hữu Sào…
thì Tam Hoàng là giai đoạn đầu, Việt tộc xuất hiện
tự đấy gọi là Hoàng kỷ. Còn Tàu xuất hiện
vào thời sau gọi là Đế kỷ với Hoàng Đế.
Chặng hai xảy ra khi
“Hoàng Đế chiến Si Vưu” tức
là manh nha sự xuất hiện của dân Tàu xét như
một dân tộc. Hoàng Đế (-2697) đại diện cho Hoa tộc khởi
đầu nổi lên xâm lấn đất của Li (Si) Vưu. Chính
là Li Vưu (Li là rồng vàng như trong câu
Lân Li Quy Phượng). Hoàng Đế chiến với Li Vưu tức
là chiến với Thần Nông, dân của Li Vưu gọilà
Cửu Lê, đó là một phần dân của Viêm
tộc. Vì sự xâm lăng này mà có cuộc
“Nam tiến” hoặc muốn nói là rút lui về miền Nam
cũng được. Đại biểu của trào Nam tiến là Đế Minh
dánh dấu sự Việt tộc tách khỏi đại khối Viêm tộc
xảy ra vào thời Đế Minh gặp Vụ Tiên lập ra họ Hồng
Bàng.
Niên đại họ Hồng
Bàng được truyền lại là
năm Nhâm tuất (2879) trước cả Hoàng Đế và hơn thế
nữa bao gồm cả ba chặng trên (Thần Nông, Đế Minh, Hồng
Bàng). (1)
(1) Các chữ
Lê (Cửu Lê), Lộ (Lộ
Bàn cũng đọc Ban, Lộ Bộc), Lộc (Lộc Tục), Lãm
(Sùng Lãm), Lạc (Lạc Long, Lạc Địch, Lạc Việt), Lai (Đế
Lai, Lai Di…), Lang (Văn Lang) dùng chủ âm “L”.
Đó là một thứ
tiêu điểm vi vu trong
đêm trường của thời khuyết sử, nhưng tạm dùng được trong
phạm vi huyền sử nơi mà địa danh cũng như niên hiệu cần
được hiểu cách rất co giãn. Niên hiệu 2879 cho việc
sáng lập họ Hồng Bàng nên dùng hơn là
niên hiệu của Nghiêu Thuấn (2333-2148) vì đây
cũng là những huyền thoại. Nghiêu Thuấn không
có chút chi thuộc sử ký mà chỉ là
những “nhân vật” huyền sử do óc của Khổng Tử sản sinh,
nên phải xét “máu văn hóa” chứ không
xét máu chủng tộc và lúc ấy mới thấy
đó là những dạng thức đầu tiên của Việt Nho.
Ông Thuấn nổi nhất về hai điểm là chữ hiếu và nhạc
thiều thì cả hai thuộc dòng Viêm Việt, nhất
là nhạc thì Thuấn dùng ông Quỳ là
người Viêm Việt. Sách Sơn Hải Kinh cho Quỳ với Long
là một. Ông Quỳ chỉnh đốn lại luật ngũ âm, lục luật.
Nên nhớ sử Tàu chỉ đáng tin có từ năm 721,
trước nữa toàn truyện hư cấu suy luận, càng về xưa
càng trở nên hư cấu, không được như sử Việt
có huyền sử mà Trống Đồng còn ghi tang chứng rực
rỡ về tiên rồng, tức là về Hồng Bàng và Thần
Nông (chim Hồng và giã gạo). Ta quen nói
Việt Nam có bốn ngàn năm văn hiến, chẳng biết câu
này xuất hiện thời nào chứ nếu nay mà nói
thì phải kể tự Hồng Bàng nghĩa là “năm ngàn
năm” tức là đã lâu đời lắm, trước Nho nhiều. Nho
cùng lắm thuộc Nghiêu Thuấn. Trái lại Việt
đã có tự Hoàng kỷ mà tang chứng còn
tràn ngập. Một nước đáng gọi là văn hiến chi bang
hay là nước có nền văn hóa lớn lao là khi
trong nước còn tàng chứa nhiều di tích của
thánh nhân cũng như những điển chương rực rỡ. Theo
đó thì quả nước Việt xứng đáng là nước văn
hiến vì kiểm kê được đủ mặt điển chương kiêm đủ từ,
tượng, số, chế: từ thì có nhân thoại, khảo cổ
có trống đồng, số thì có Kinh Dịch, thể chế
thì có làng nước, một thể chế còn sống
cách sung mãn.
Chính với ý
niệm lâu dài về thời
gian, với ý tưởng thâm sâu về huyền nghĩa đó
mà hôm nay chúng ta cung kính đọc lại
ít trang đầu của huyền sử trích tự quyển “Đại Nam Quốc Sử
Diễn Ca” một sách đã phần nào được bao quanh bởi
hào quang của thời gian (quãng vài trăm năm nay)
và số đông tác giả tức được kể là công
trình tập thể quãng 5, 6 người (trong đó có
ông Lê Ngô Cát và Phạm Đình
Toái). Vì bản này theo tài liệu cảu quyển
Lĩnh Nam Trích Quái là sách được thâu
lượm vào thế kỷ 15 nên đã có nhiều sự hiểu
lầm huyền sử (huyền sử bị hiểu trên đợt sử ký) nên
cần thêm phần ghi chú để chỉnh lại ít điều sai
chạy.
Chương 12
HUYỀN
VIỆT SỬ CA
Kể từ thời mở Viêm
Bang,
Sơ đầu có họ Hồng
Bàng mới ra.
Cháu đời Viêm
Đế thứ
ba, (1)
Nối dòng Hỏa Đức gọi
là Đế
Minh.
(2)
Quang phong khi giá
nam
hành, (3)
Hay đâu Mai Lĩnh
duyên sinh Lam
Kiều. (4)
Vụ Tiên vừa thủa
đào
yêu, (5)
Xe loan nối gót tơ
điều kết
duyên. (6)
Dòng thần
sánh với người tiên,
Tinh anh nhóm lại,
thánh hiền nói ra.
Phong làm quân
trưởng nước
ta, (7)
Tên là Lộc Tục
hiệu là Kinh Dương.
Hóa cơ dựng mối
luân
thường, (8)
Động đình sớm kết
với nàng thần
long. (9)
Bến hoa ứng vẻ lưu
hồng. (10)
Sinh con là hiệu Lạc
Long trị
vì. (11)
Lạc Long lại sánh
Âu
Ky,
(12)
Trăm trai điềm ứng
hùng bi lạ
thường. (13)
Quy sơn, quy hải
khác người biệt
ly.
(14)
Lạc Long về chốn Nam thuỳ,
Âu Cơ sang nẻo Ba
Vì Tản Viên.
Chủ trương chọn một con
hiền,
(15)
Sửa sang việc nước nối
lên ngôi rồng.
Hùng Vương đô
ở Châu
Phong, (16)
Ấy nơi Bạch Hạc hợp
dòng Theo giang.
Đặt tên là
nước Văn Lang,
Chia mười lăm bộ bản chương
cũng liền.
Phong Châu,
Phúc Lộc, Chu Diên.
Nhận trong địa chí
về miền Sơn Tây.
Định Yên, Hà
Nội đổi thay,
Ấy châu Giao Chỉ xưa
nay còn truyền,
Tân Hưng là
cõi Hưng, Tuyền,
Vũ Ninh tỉnh Bắc, Dương
Tuyền tỉnh Đông.
Thái, Cao hai tỉnh
hỗn đồng,
Ay là Vũ Định tiếp
miền biên manh.
Hoài Hoan: Nghệ; Cửu
Chân: Thanh.
Việt Thường là
cõi Trị, Bình trung
châu.
Lạng là Lục Hải
thượng du,
Xa khơi Ninh Hải thuộc
vào Quảng Yên.
Bình Văn, Cửu Đức
còn tên,
Mà trong cương giới
sơn xuyên chưa tường,
Trước sau đều gọi
Hùng Vương,
Vua thường nối hiệu
quân thường nối tên.
Lạc Hầu là tường
điều nguyên,
Vũ là Lạc Tướng giữ
quyền quân
cơ. (17)
Đặt quan “Bố Chính”
hữu tu:
Chức danh một bực đẳng uy
một
loài. (18)
Vừa khi phong khí sơ
khai,
Trinh nguyên xảy
đã gặp đời Đế
Nghiêu. (19)
Bình nguyên
nhật nguyệt rạng kiêu,
Tấm lòng quỳ hoắc
cũng đều hướng dương.
Thần quy đem tiến
Đào Đường
Bắc Nam từ đấy bang giao
là
đầu.
(20)
Dõi truyền một mối
xa
thư,
(21)
Nước non đầm ấm mây
mưa thái bình.
Vua đời ngang với Chu
Thành,
Bốn phương biển lặng, trời
thanh một
màu. (22)
Thử thăm Trung Quốc thế
nào:
Lại đem bạch trĩ dân
vào Chu Vương.
Ba trùng dịch lộ
chưa tường.
Ban xe tí ngọ chỉ
đường nan nguy.
Nhân khi vận nước gặp
nguy.
Vũ Ninh có giặc mới
đi cầu tài.
Làng Phù Đổng
có một người,
Sinh ra chẳng nói
chẳng cười trơ
trơ, (23)
Những ngờ oan trái
bao giờ,
Nào hay thần tướng
đợi chờ phong vân.
Nghe vua cầu tướng ra
quân,
Thoắt ngồi, thoắt
nói muôn phần khích
ngang.
Lời thưa mẹ dạ cần vương:
Lấy trung làm hiếu
một đường phân minh.
Sứ về tâu trước
thiên đình,
Gươm vàng ngựa sắt
đề binh tiến vào.
Trận mây theo ngọn cờ
đào,
Ra uy sấm sét nửa
chiều giặc tan.
Ao nhung cởi lại Linh San,
Thoắt đã
thoát nợ trần hoàn lên
tiên.
Lại nghe trong thưở Lạc
Hùng,
Mỵ Châu có ả
tư phong khác thường
Gần xa nức tiếng cung
trang,
Thừa long ai kẻ động
sàng sánh vai.
Bỗng đâu vừa thấy hai
người,
Một Sơn Tinh với một
loài Thuỷ Tinh.
Cầu hôn đều gửi tấc
thành.
Hùng Vương mới
phán sự tình một hai:
Sính nghi ước kịp
ngày mai,
Ai mau chân trước
đính lời hứa anh.
Trống lầu vừa mới tan canh,
Kiệu hoa đã thấy Sơn
Tinh chực ngoài.
Ước sao lại cứ như lời,
Xe loan trăm cỗ đưa người
nghi gia.
Cung đàn tiếng địch
xa xa,
Vui về non Tản oán
ra bể Tần.
Thuỷ Tinh lỡ bước chậm
chân,
Đùng đùng nổi
giận đem ân làm
thù:
Mưa tuôn gió
thổi mịt mù,
Ao ào rừng nọ,
ù ù núi kia.
Sơn Thần hóa
phép cũng ghê:
Lưới giăng dòng Nhi,
phên che ngàn
Đoài.
Núi cao sông
cũng còn dài,
Năm năm báo
oán đời đời đánh ghen.
Bổ di còn truyện
Trích
tiên, (23)
Có người họ Chử ở
miền Khoái Châu.
Ra vào nương
náu Hà Châu,
Phong trần đã trải
mấy thâu cùng
người. (24)
Tiên Dung gặp buổi đi
chơi,
Gió đưa Đằng
Các buồm xuôi Nhị Hà,
Chử Đồng ẩn chốn
bình sa,
Biết đâu gặp gỡ lại
là túc duyên.
Thừa lương nàng mới
dừng thuyền,
Vây màn tắm
mát kề liền bên
sông:
Người thục nữ, kẻ
tiên đồng.
Tình cờ ai biết vợ
chồng duyên ưa.
Giận con ra thói
mây mưa,
Hùng Vương truyền
lệnh thuyền đưa bắt về.
Non sông đã
trót lời thề,
Hai người một phút
hóa về Bồng châu,
Đông An Dạ Trạch
đâu đâu,
Khói hương nghi
ngút truyền sau muôn đời.
Bể dâu biến đổi cơ
trời,
Mà so Hồng Lạc
lâu dài ai hơn?
Kể vua mười tám đời
truyền,
Hai ngàn năm lẻ vững
bền khôn lay.
Một dòng phụ đạo xưa
nay, (25)
Trước ngang Đường Đế sau
tày Noãn Vương.
GHI CHÚ
Theo sách “Sưu Thần
Ký” của Can Bảo đời Tấn
thì Thần Nông có một chiếc roi thần, thường
dùng roi đánh vào các loại thảo mộc
thì các dược tính của cây cối đều hiện
lên rõ ràng, nhờ vậy mà Thần Nông
thiết lập được nền y dược cho Việt tộc. Về sau người Tàu quy cho
Hoàng Đế trong sách gọi là Hòang Đế Nội
Kinh, mà chính ra là thuộc Hoàng Việt. Roi
thần của Vua Thần Nông hay gậy thần của vua Hùng đều chỉ
nền minh triết nông nghiệp đã được “cơ cấu” hóa
thành những số 2, 3, 5, 9… vì thế có chỗ gậy thần
có 9 đốt.
Hỏa đức chỉ phương Nam,
là gốc cho những danh xưng
Xích đạo, Viêm bang, Viêm Việt. Đức của hỏa
là nóng và sáng, sáng là minh
nên cháu ba đời Viêm Đế phải là Minh,
sáng lắm, chinh phục được sự sáng thì gọi
là Đế Minh. Do đó nước ta nhận quẻ li hay màu đỏ
để chỉ siêu văn minh. Chim trĩ đỏ vào giai đọan
này. Số 3 là số ruột của Việt tộc, căn của số 9: gậy 9
đốt là thế. Chúc Dong là quan coi lửa đời Thần
Nông cũng thuộc Viêm tộc là do liên hệ với Hỏa
Đức.
Quan phong: quan sát
phong tục.
Giá là xa
giá: xe vua. Nam hành
tiến về phương Nam, cuộc Nam tiến. Bắc Nam có giao thoa
nên có Bắc tiến cũng như Nam tiến tùy thời đại
và phương diện.
Mai Lĩnh là một ngọn
núi trong dẫy Ngũ Lĩnh
mà địa vực rất xê dịch xưa kia là miền Côi
Kê.
Duyên sinh lam kiều:
sánh duyên
cùng người đẹp. Người đẹp đó là Vụ Tiên kết
duyên cùng Đế Minh.
Thưở đào yêu:
chỉ thời kỳ trẻ đẹp như hoa
đào đang nở (Thi Quốc Phong bài “đào chi yêu
yêu”).
Xe loan: xe của
Hoàng Hậu có gắn chim phượng
mái gọi là loan, tức cũng là chim trĩ.
Quân trưởng nước ta:
vua đứng đầu nước ta gọi là
Lộc Tục hiệu là Kinh Dương Vương, tức là vua Châu
Kinh và Châu Dương. Châu Kinh cũng gọi là
Kinh Man hay Bộc Châu sau thành Kinh Sở rồi Sở nay
là vùng Hồ Nam. Châu Dương là vùng
Giang Nam có thể kiêm cả Giang Tô, sông
Hoài, Châu Từ… Nếu người Châu Kinh gọi là Man
thì người Châu Dương gọi là Di, nói giồn lại
thành Man Di. Cặp từ này gợi ý hèn
kém man rợ là tại sau này, chứ xưa kia đó
là hai ngành sáng tạo văn hóa Việt Nho,
nhất là người Di mà trong sử hay nói đến bằng
nhiều tên: Hòai Di, Đông Di, Lai Di… và nhất
là Tứ Di là tên nhiều lúc thay cho Tứ Hải.
Theo sách Nhĩ Nhã thì tứ hải là 4 giống
người ở chung quanh Hoa Tộc, cho nên Tứ Hải hay Tứ Di cũng
là Việt tộc. Vậy xin đặc biệt chú ý đến Đông
Di, Hoài Di… tới Châu Từ và sông Hòai
vì nó bao gồm cả quê bà Nữ Oa, Vụ
Tiên… và nhiều huyền thoại cũng như cổ nghệ cùng
dòng với Đông Sơn sẽ năng nói tới khi bàn về
cổ nghệ.
Hóa cơ: đặt nền
móng cho phong hóa.
Đây chỉ là ảnh hưởng hỗ tương từ Bắc xuống Nam sau lan ảnh
hưởng từ Nam lên Bắc.
Động Đình Hồ trong
tỉnh Hồ Nam rất lớn, giữa có
nhiều đảo nhỏ, nhân đấy hồ trở nên tượng của cơ cấu triết
với ba tiếng động đình hồ. Động là các hang động
trên đảo chỉ sự trống rỗng (hư tâm), có đình
vuông (hay chữ nhật) chỉ đất, hồ tròn chỉ trời.
Đúng là hình tròn vuông hòa
trộn, quả là hợp làm nơi dòng thần lấy con
gái Long Vương (hai chữ tiên rồng giao thoa, nên
có lúc tiên trên núi, lúc xuống
thủy phủ). Khi nói Động Đình Hồ là cái
nôi nước Việt thì cần hiểu theo nghĩa huyền sử tròn
vuông, trời đất giao kết này.
Lưu hồng: cầu vòng
đỏ rực. Nhân tính
có người đàn bà nằm mộng thấy cầu vồng đỏ
trôi trên sông Hoa sau sinh ra con làm vua.
Kinh Dương Vương kết
duyên với Long Nữ sinh con
là Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân:
tức là vua rồng của dân Lạc (Lạc Việt). Nên hiểu
rộng ra là tất cả các đôi trai gái lấy nhau,
hiện thực cuộc pha giống bắc nam (tiên rồng) hay sâu hơn
là giao chỉ trời cùng đất.
Lạc Long Quân lấy Au
Cơ (đọc Ky cho hợp vần). Au
có thể là Tây Au thuộc chi Thái miền
Tây ở Vân Nam hay Tứ Xuyên. Nghĩa uyên
nguyên là chim hải âu một giống chim nước mà
các nhà khảo cổ nhận thấy là mẫu đề (decorative
motif) Đông Nam Á, và trong Hùng sử được
dùng như đại diện Tiên (nhớ phương trình chim =
tiên).
Hình ảnh cái
bọc trăm trứng (nõan
bào) đẹp tuyệt vời nhưng sử gia đã mất ý thức hạ
thấp huyền sử xuống đợt sử ký nên không hiểu được,
thành ra viết 4 câu ngớ ngẩn đã bỏ không lấy
vào bản văn:
“Noãn bào
dù truyện hoang đường
Vì xem huyền điểu
sinh Thương khác gì.
Đến điều tan hợp cũng kỳ,
Há vì thủy
hỏa sinh ly như lời.”
Nếu không hiểu truyện
noãn bào là
lấy truyện tùy biện lý cho truyện chính. Vì
huyền điểu là của bà Giản Địch đẻ ra tổ nhà
Thương. Bà là người Nhung Di, nên nằm trong văn
hóa chim của Việt tộc.
Quy sơn quy hải: về
núi về biển, 50 con theo mẹ
lên núi, 50 con theo cha xuống biển… Đây chỉ
là một chút sử liệu nhưng chở theo cả một cơ cấu
là con số 3 (núi Ba vì). Số 3 tượng hình
tròn (viên) nhưng lại tản ra (nên gọi là Tản
Viên) kẻ lên núi người xuống biển.
“Chọn một con hiền”
đó là giải pháp
trung dung giữa kế tử và kế hiền. Đây tuy kế tử nhưng cũng
là kế hiền tức chọn con nhưng là con đáp ứng được
tiêu chuẩn tài đức, mà tài đức cao nhất
là hiểu được con người là sự giao hội của trời
cùng đất, nói bóng là tròn
vuông, nói cụ thể là làm bánh dầy
bánh chưng.
“Hùng Vương đô
ở Phong Châu”… các
địa danh ở đây thường được hiểu sát vào một nơi
nào đó ở vùng Bắc Việt nhưng đó chỉ
là nghĩa phụ, nghĩa áp dụng. Còn nghĩa
chính phải là những đức tính của danh từ,
vì vậy danh từ không còn là địa danh cho
bằng là đức tính. Tất cả các tên khác
như Văn Lang, Việt tộc, Hùng Vương đều phải hiểu vậy mới ra
huyền sử nhất là chữ Việt Nam là siêu Việt
lên chỗ sáng chỗ siêu văn minh (hỏa đức).
Thao Giang là một
đoạn sông Hồng (nhị hà)
ý nghĩa nằm trong chữ Hồng (Bàng) hoặc Nhị Hà
là con số 2.
Văn Lang là nước
theo tôn chỉ văn mà
không võ (du mục). Địa vực có thể lan rộng khắp
nước Tàu trước lúc người Tàu xuất hiện như một
dân tộc. Thời Hùng Vương tức thời rút về miền Nam
đợt I nước Việt cũng còn trải rộng cả trên vùng hai
châu Kinh và Dương. Các cổ sử gia thường hiểu gọn
vào Bắc Việt từ Phú Thọ, Sơn Tây, Yên
Bái xuống tới Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị…
thì đó là nghĩa chính trị và sử
kí thuộc đợt co rút. Theo nghĩa văn hiến thì Văn
Lang cần mở rộng lên tới Động Đình, hơn thế nữa
toàn cõi nước Tàu lúc Việt tộc chưa phải
rút trước sức lấn át của Hoa tộc mà theo huyền sử
chỉ xảy ra với Hiên Viên, tức sau Hoàng Đế. Vậy
mà người Việt đã quên trọn chỉ thu gọn mình
vào có Bắc Việt thôi. Tưởng nên nhắc lại
tên Việt hãy còn nằm rải rác khắp nước
Tàu từ Bộc Việt ở vùng cực Bắc với Lai, Lạc, Bành.
Còn tự Chiết Giang trở xuống thì Chiết Giang là U
Việt, Giang Tây là Dương Việt, Quảng Tây là
Au Việt, Bắc Việt là Lạc Việt, Trung Việt là Việt Thường.
Điều nguyên là
giữ việc chính trị, đối
với quân sự gọi là quân cơ.
Đẳng uy là đẳng cấp
(bậc) và uy quyền.
Trinh nguyên chỉ thời
đại Thái bình của
nước Văn Lang cũng đồi thời với Đế Nghiêu (2357) đóng
đô ở Bình Nguyên cũng còn nằm trong quỹ đạo
Văn Lang, nên cũng nương theo nguyên lý lưỡng nhất
tính (dual unit) mà ở đây chỉ bằng nhật nguyệt,
và nhất là bằng hoa quỳ và hoa hoắc đều là
giống hướng dương: hướng theo mặt trời. Đó là hoa của
nước Văn Lang nhân làm quốc hoa từ lúc còn
thờ mặt trời, và được ghi lại cách huy hoàng
trên mặt trống đồng, nơi các đoàn vũ đều vận
hành theo hướng mặt trời (chờ xem bài Trống Đồng Chiếc
Hoa Quỳ Vĩ Đại trong tập Văn Lang Vũ Bộ). Chú ý đời
Nghiêu 2357 là lúc Văn Lang đã thịnh,
không phải thời Hồng Bàng khai quốc đã lâu
trước.
Đây bỏ 6 câu
nói về việc vẽ giao long
trên thân mình để khi xuống nước đánh
cá khỏi bị giao long làm hại. Nói vậy là
hiểu sai huyền sử, hạ thấp tục văn thân (vẽ hình giao long
trên mình) xuống đợt lợi hành, mà
chính ra phải hiểu trên đợt an hành tức vẽ
hình giao long (vật tổ) để mình đồng hóa với vật
tổ. Nghi lễ Văn Thân được hiện thực trong lễ Thành Đinh
(vẽ mình là một thứ chứng minh thư đã làm
lễ thành đinh) cùng với nhiều nghi lễ khác để
nhiều người chị lễ chứng tỏ đức hùng cường là đức căn bản
để mình đồng hóa với giao long (tổ phụ) đặng trở
nên nhân chủ. Về sau ý nghĩa này đựơc đưa
vào Kinh Dịch với 6 thể rồng để chỉ các chặng tiến của
con người trên đường tâm linh. Ý nghĩa thâm
sâu cao cả còn để ấn tích chói chang lại
trong lễ thành đinh và Kinh Dịch rõ ràng
thế mà còn bị óc duy sử hiểu sai, huống chi
các tiêu biểu khác như cái bọc trăm trứng
nói ở trên. Nếu biết hiểu theo huyền sử nghĩa là
phải so đo với nhiều nơi khác thì sẽ thấy sự giải nghĩa
tránh nạn giao long là lố bịch, vì trên miền
Altai cũng xâm mình hươu nai. Ở Lào cũng có
xâm mình rồng. Ai xâm mình rồi thì
được coi là có can đảm được vào ở chùa…
chẳng có liên hệ gì tới đánh cá hết.
Vậy xâm mình rồng chỉ có nghĩa là nhận vật
biểu rồng cho bên nam (họ cha) y như bên nữ mặc áo
có lông hồng (trĩ) chỉ họ mẹ vậy.
Xa thư. Đây là
hai chữ khéo vô
cùng để nói lên nét tiêu biểu của hai
nền văn hóa Tàu Việt. Xa là xe, thư là
sách. Đó là hậu quả đầu tiên của hai miền
Bắc Nam. Bắc chỉ Hoa tộc ghé theo du mục mà dấu hiệu
là xe và ngựa (nhớ tên Hoàng Đế là
Hiên Viên có nghĩa là xe); còn Nam
là Văn Lang Quốc thì quốc bửu phải là sách.
Xin nhớ sách ước gậy thần của Hùng Vương. Phương Nam
thường dùng thuyền thay vì xe, nên nhiều học giả
phân ra hai nước Tàu: một Tàu đi xe (ngựa) mạn Bắc,
một Tàu đi thuyền mạn Nam. Đến thời Nghiêu, Bắc Nam bắt
đầu giao thiệp trao đổi văn hóa (Hoàng Đế mới lấn
át Việt chứ chưa có trao đổi văn hóa). Bắc đưa ra
xe, Nam đưa ra sách. Sách đây là “Kinh
vô tự” tức Kinh Dịch, không có chữ vì ở 3 đợt
phôi thai chỉ gồm tòan biểu tượng. Tóm lại Bắc Nam
giao thiệp từ đời Nghiêu và đã trao đổi hai bửu bối
rất xứng hợp cho hai nền văn hóa, du mục đưa ra xe (Bắc).
Còn Nam là văn hiến chi bang nên đưa ra sách
Kinh Dịch được biểu thị bằng rùa trên lưng có 64
chấm (64 quẻ).
Chuyện trao đổi “thư xa”
còn lặp lại nhiều lần,
thí dụ đời nhà An sang chiếm nước ta lấy được ngọc Long
Toại như được kể lại trong Kinh Hùng số 44, hoặc truyện
Phù Đổng Thiên Vương và truyện Việt Tỉnh Cương (số
79) biểu lộ rõ tính chất du mục (xâm lấn) cả về văn
hóa biểu thị bằng sự việc lấy được ngọc Long Toại (một biểu
tượng khác của Kinh Dịch vì ngọc Long Toại có cặp
đôi sống mái), tức âm dương, nền tảng chính
của Kinh Dịch. Trong huyền sử ca không nhắc tới chuyện này
nhưng nhắc truyện Bạch trĩ (Kinh Hùng 71) xảy ra đời Chu
Thành Vương bên Tàu (năm 1110 tr.cn) Hùng
Vương muốn thăm dò động tĩnh Trung Quốc mới lấy cớ cống chim
Bạch trĩ. Trung Quốc đáp lễ bằng xe Tí Ngọ. Hai vật trao
đổi cũng giống trước, một đàng văn là chim bạch trĩ. Trĩ
là chim tổ của Việt tộc trong thời còn thờ mặt trời. Xin
nhớ câu “tùy dương Việt trĩ”. Chim phượng (hoàng)
đều vẽ theo hình chim trĩ nên nhiều học giả đồng
hóa phượng với trĩ). Còn Trung Quốc trao đổi xe Tí
Ngọ: Tí bắc, Ngọ nam tức xe có gắn địa bàn hay kim
chỉ nam. Vật trao đổi vẫn là xe như lần đầu, nhưng lần
này đã có tiến bộ là sáng chế ra địa
bàn. Dầu vậy văn hóa chưa sâu nên chưa hiểu
được ý nghĩa đồ “cống” của phương Nam. Nói bóng
là ba tầng thông ngôn mà không hiểu
nhau. Lần trước đời An xuống chiếm ngọc Long Toại rồi nằm chết
chôn ở đó cũng có nghĩa là không hiểu
nổi nét song trùng của Việt tộc, nói là bị
chết chôn ở đó.
Từ câu 65 đến
câu 80 kể truyện minh sư của triết
ly An Vi là Thánh Dóng sinh ra 3 năm không
biết nói, nhưng lại biết làm, làm quá cỡ,
đấy là an vi (làm cùng cực hợp với Kinh Vô
Tự = không nói nhưng làm làm, sinh sinh,
hóa hóa). Khi dẹp giặc An rồi không ở lại hưởng lộc
nhưng lên núi Sóc Sơn để hóa (đó
là an vi, không bị sự đời trì kéo).
Vì thế Sóc Sơn cũng gọi là Linh Sơn. Núi
đó ở miền An Việt, quê hương của triết lý An Vi,
là triết Nhân chủ xây trên số 3 (số của người)
kép lên thành 9, 9 đi ra rồi 9 đi vào
thành 18 nên Thánh Dóng cưỡi ngựa cao 18
thước… Mấy số trong này nói lên rõ
tính chất huyền sử, chớ có đem óc duy sử
vào mà hỏi có với không, vì thế
nên bỏ câu sau số 80:
“Miếu đình
còn dấu cố viên
Chẳng hay truyện cũ lưu
truyền có không?”
Nếu hiểu đúng
thì có vô
cùng, có rất thâm sâu.
Câu 65 bản cũ viết
là
“Sáu đời Hùng
vận vừa suy”
Kinh Hùng nhận bản
văn nói Hùng Vương
thứ 3 mà không thứ 6, vì số 3 ý nghĩa hơn
(hợp số 3 căn bổn của Việt) vì thế đổi và chữa cho
câu văn trở nên chung chung “nhân khi vận nước gặp
nguy” chứ không phải vừa suy. Hùng Vương thứ 3 mà
suy sao?
Bổ đi = thêm
vào. Mấy thâu là mấy
thu, đọc thâu vì vần thơ.
Từ câu 84 đến
câu 107 kể truyện Sơn Tinh, Thủy
Tinh tranh hơn gây nên bao tang tóc. Đó
có thể là hình bóng sự chia rẽ về cuối
Hùng anh em trên núi dưới biển chống nhau. Tiếp tới
truyện Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử tuy hai người cách bậc
nhưng vẫn hòa hợp thành vợ chồng được trời chúc
phúc cho về Bồng Châu (đảo của tiên ở gọi là
Bồng Lai). Hai truyện trên nhấn mạnh đến nét song
trùng nguyên thủy của văn hóa Việt: một âm
một dương vốn phải đi với nhau, thế mà lòai người chẳng
mấy khi đạt được. Ngay đối với Lạc Việt đã xây văn
hóa trên “lưỡng hợp tính”, với mẹ tiên cha
rồng vậy mà còn có lúc đổ vỡ như Sơn Tinh,
Thủy Tinh, nhưng cũng có trường đi đến thái hòa
mặc cho địa vị xa cách cũng vẫn đạt được Bồng Lai tiên
cảnh. Chính hai yếu tố âm dương đó đã mở đầu
cho cuộc tiến hóa thiên địa, mở đầu cho bao cuộc đổi thay
trong thiên hạ. Trong đó có hợp có chia.
Đó cũng là sử mệnh của nước ta tự đây chi rẽ
hoài. Dầu vậy cuối cùng Hồng Lạc vững bền.
“Bể dâu biến đổi cơ
trời
Mà so Hồng Lạc
lâu dài ai hơn.”
Thưa khó có
ai hơn, vì nền văn
hóa này đã xây trên tiết nhịp của trời
đất cách huy hòang bằng chim Hồng (hộc) cũng gọi
là thiên nga và Lạc Long Quânở thủy phủ chỉ
đất. Nên cứu cánh của Đạo Việt phải là “phối
thiên phối địa” gọi vắn là Giao Chỉ hai chỉ trời chỉ đất
giao nhau. Đất trời giao hội là luật phổ biến thì
tiên rồng cũng gọi là Hồng Lạc làm sao không
dài, hết 9 ra rồi 9 vào là 18.
Kể vua mười tám đời
truyền,
Hai ngàn năm lẻ vững
bền không lay.
Một dòng phụ đạo xưa
nay,
Trước ngang Đường Đế sau
tày Noãn Vương.
Hồng Bàng kể từ năm
2879 nhưng Văn Lang lúc
thịnh đạt lại kể ngang với Đường Đế là vua Nghiêu Thuấn
(2333). Đời Hùng Vương đã chuyển sang phụ hệ, trước
đó thì mẫu hệ xem ra còn mạnh, Au Cơ còn
cưới rể: Đế Lai về nhà vợ. Noãn Vương là vua cuối
cùng nhà Châu lên ngôi năm 314, mất năm
259 cũng xuýt soát thời Thục Phán phá nước
Văn Lang lập ra nhà Thục (259-207) rồi tới Triệu Đà
207-137 tr.cn. Các sách sử cũ của ta chỉ bắt đầu từ
Triêu Đà v.v… Còn thời Hồng Bàng lại bỏ qua,
nếu không coi là “trâu ma thần quái”
PHI
LỘ HAI CHƯƠNG
SAU
Văn Thao Thiết là
diễn đề chủ đạo của cổ nghệ đời
Thương tức cũng là ấn tích sự thành hình
của Nho giáo. Rất nhiều học giả quốc tế đã nghiên
cứu rất sâu rộng về hoa văn này nhưng chưa ai đọc ra
ý nghĩa. Sở dĩ có chuyện đó là vì
Văn Thao hàm chứa một truyện chưa được nhìn ra đó
là tiến trình biến cải của văn hóa Tàu từ
du mục sang nông nghiệp (của Việt tộc). Quyển Sứ Điệp đã
nói lên ý nghĩa đó (đọc chương VII). Văn
Thao Thiết gồm nhiều giai đoạn: từ bạch hổ biến ra hổ phù, trong
đoạn này hổ biến dần ra bò (tức từ du mục biến sang
nông nghiệp). Rồi từ hổ phù biến ra quỳ long (nửa chim nửa
rồng) sau cùng tan rã ra để biến ra long hoặc chim
riêng rẽ. Những điều này đã được bàn giải
trong quyển Sứ Điệp (chương VII).
Sau đó chúng
tôi lại khám
phá thấy rằng chính ngay lối viết danh hiệu Hùng
Vương cũng có tàng ẩn tiến trình chuyển hóa
kia. Để sự nhận thức về nguồn gốc văn hóa dân tộc được
sâu xa và đích xác hơn tập này sẽ
bàn về tiến trình trên với nhiều tư liệu mới. Độc
giả sẽ theo dõi bằng hình ảnh khảo cổ tiến trình
Việt đạo thai nghén ra nguyên nho cách cụ thể,
nên tuy cao sâu mà không phải duy tâm
không tưởng như nhiều người sợ.
Tập này nhằm đặt
vài mốc lớn về nguồn gốc văn
hóa nước nhà giúp vào việc thải bỏ những
yếu tố cổ sử xưa hầu hết sai lạc hay ít ra cũng là hạn
hẹp bất toàn.
Chương 13
CHIỀU
SÂU CỦA DANH HIỆU HÙNG VƯƠNG
Với những người Việt
thì Hùng Vương là
tên riêng của tổ, nhưng đó chỉ là hậu quả của
sự thành công trong việc đề cao một đức tính trổi
vượt làm như mẫu mực hướng dẫn dân nước. Rồi do sự gọi
lâu đời nên chỉ nghĩ đến Hùng Vương như nhân
vật lịch sử mà sao lãng nội dung của danh từ chung chỉ
đường hướng văn hóa đặc biệt. Vì thế ngày nay muốn
thấy ý nghĩa nguyên thuỷ của danh xưng nọ cần phải
ôn lại bằng cái nhìn bao quát toàn
cuộc tiến hóa nhân loại để thấy vị trí của danh
hiệu anh hùng hoặc hùng vương đứng ở giai đoạn
nào.
Khởi đầu khi mới xuất hiện
con người ở trong hang hốc, sống
bằng săn hái và tụ tập thành những nhóm nhỏ
như bộ lạc, thị tộc… Tình trạng này kéo dài
rất lâu cho tới lúc của ăn thưa dần, không đủ
nuôi sống số người ngày một gia tăng. Sự việc đó
đòi con người phải từ bỏ săn hái để tụ làm ra của
ăn: đó là thời kỳ bước vào nông nghiệp, chăn
nuôi, làm nhà, dệt áo… Vậy đó
là một khúc quanh rất quan trọng của giống người
mà các nhà khảo cổ đặt vào thời đại
đá mới. Thời này đòi hỏi một thứ lãnh đạo
mới rộng hơn xưa để thực hiện những công việc có
tính cách lớn lao như đắp đê, dẫn thuỷ nhập điền
hoặc chống ngoại xâm. Đó là những việc vượt tầm sức
của thị tộc. Chỉ cần một tổ phụ của đại gia đình hay gia tộc
đã đủ. Nhưng rồi tổ hợp gia đình trở nên quá
bé nhỏ không đủ cho đợt tiến mới rộng lớn hơn. Cần phải đi
đến một cấp tổ hợp lớn như bộ tộc, một bước sửa soạn để thành
quốc gia, cần cấp lãnh đạo. Chính trong giai đoạn bộ tộc
nọ mà người ta thấy nảy sinh ra hai loại người lãnh đạo
là anh hùng và vua. Vua là người nắm binh
quyền thường hiện thực bằng võ lực. Song song với vua có
tư tế nắm quyền lực về tôn giáo. Khi nào vua
kiêm luôn chức tư tế thượng phẩm thì là vua
thần. Vua dựa trên quân đội, còn tư tế dựa
trên thần quyền, cả hai giồn lại một thì thành
nhà chuyên chế có đủ uy quyền nô lệ
hóa con người cả thân lẫn tâm. Chế độ này
kéo dài làm nảy sinh ra nơi người bị trị
tính ỷ lại, ỷ lại là một thứ lười sâu xa bao gồm sự
mất tin tưởng vào nội lực của con người, giao phó cho kẻ
thống trị toàn quyền định đoạt về vận hệ của mình. Điều
đó có nghĩa trầm trọng là chấp nhận thân
phận vật hóa, không còn biết đến quyền làm
người. Vì con người đạt được nhân tính hay
không thì quan trọng nhất là đức hùng
tâm dũng khí. Thời sa đọa thì các thuyết
lý và đạo giáo đều suy vi vì điểmỷ lại
này. Đó là hậu quả của các chế độ
chuyên chế tóm vào hai chữ vua thần.
Bên cạnh vua thần lại
có một thứ uy quyền
khác gọi là anh hùng. Đây là những
người có quyền lực phi thường làm được những việc vĩ đại
mà người thường không dám mơ tưởng tới.
Chính những việc cao cả ấy hé mở cho con người thấy được
phần nào hình ảnh lớn lao của con người toàn diện,
vì vậy người ta thường gán cho những vị một thứ uy quyền
siêu vượt không hẳn là thầnquyền nhưng rất mầu nhiệm
tương đương với thần quyền nhưng đặt nơi chính con người. Điều
đó nói lên chiều kích con người lớn lao cao
cả vượt xa tầm vóc xác thân đến độ đặt ngang
cùng trời đất. Nhà lãnh đạo anh hùng
không dựa trên quyền bính võ lực nhưng
trên uy quyền, nên chính thức không phải
là thống trị mà chỉ cai trị tức điều hợp công
tác chung và nhất là xuất hiện như gương mẫu cho
mọi người. Khi loại người lãnh đạo này nắm quyền
bính trong tay thì gọi là Hùng Vương tức
vừa là thủ lãnh như vua, nhưng không dựa trên
võ biền mà dựa trên tài đức vượt bực tạm gọi
là anh hùng văn hóa (ngược với bên võ
biền của vua thần). Vì vậy công nghiệp để lại toàn
là những việc thuộc văn hóa tâm linh cao cả,
nói bóng là nối trời với đất như truyện
bánh dầy bánh chưng, truyện Thánh Dóng,
truyện trầu cau v.v… Như vậy anh hùng thuộc về văn hóa
và thường đặt nền trên nông nghiệp, phát xuất
từ thị tộc hay ít ra vẫn giữ những đức tính gắn liền với
thị tộc như đặt căn bản trên dòng tộc, lấy gia đình
làm đơn vị, tức là đặt trên tình người.
Đó là xã hội tình ngược với xã hội
lý của vua thần thuộc về du mục đặt nền trên luật
pháp nghiêm minh, lấy chiến tranh chinh phục làm
quốc sách. Lối du mục này đề cao tù trưởng tận
trời xanh để sửa soạn tâm hồn người bị trị sẵn sàng
vâng phục một cách tối mặt vì thế bắt toàn
đàn tôn thờ mình như thần thánh, nên
gọi là vua thần. Đó là khuôn mẫu của
óc chuyên chế mà ta thấy xuất hiện khắp nơi nhất
là ở Babylon, Assyria, Egypte… Tất cả đều xây dựng
trên sự người bóc lột người.
Con đường Hùng Vương
thì khác hẳn,
không đi lối chinh phục bằng võ biền nhưng bằng uy
tín gọi là thần phục, nghĩa là được người ta suy
phục vì tinh thần, vì uy tín của nhà
lãnh đạo, nên người suy phục vẫn còn là
người với đầy đủ tự do nhân phẩm. Dấu hiệu của thần phục
là huyền thuật. Dùng hai chữ huyền thuật là
nói theo thời xa xưa, hễ cái gì vượt xa hơn mức
thông thường thì liền được gán cho một hào
quang óng ánh kỳ lạ. Huyền thuật của Hùng Vương
nước ta được kêu là sách ước gậy thần. Khi
nghiên cứu theo các khoa tân nhân văn nay
thì ta nhận ra rằng sách ước gậy thần chính
là kết tinh nền minh triết nông nghiệp vốn gắn liền với
lịch số nên hay dùng huyền số: như gậy thần có 9
đốt, sách ước có 3 trang. Đó là gốc của nền
văn minh nông nghiệp, một thứ tổ hợp theo mẫu gia đình:
người trong nước coi nhau như anh em. Nói theo nay thì
là một lối nhân chủ sơ nguyên, nó giàu
nội dung hơn chế độ dân chủ ngày nay ở chỗ lấy tình
nhà làm mẫu nước, lấy lối xưng hô thuộc gia
đình để bao trùm mọi mối nhân luân: bất kỳ ai
xa lạ cũng gọi bằng cách thân mật như người trong gia tộc:
bà, con, cô, bác… Xa xưa loại anh hùng văn
hóa đã xuất hiện khắp nơi nhưng sau bị du mục lấn
át chỉ còn sót lại lẻ tẻ đôi nơi không
mấy đáng kể. Nhưng may thay trong miền Việt tộc còn
khá nhiều và có thời đã kế tiếp nhau cai
trị cách liên tục đủ sức in dấu lại trên nếp sống
bằng những huyền thoại, huyền số để làm nên một thứ minh
triết gọi là Hùng Vương mà Việt tộc có
cái may mắn trở thành kẻ thừa kế và đại diện. Do
đấy mà loại danh chung trở thành biệt danh tức nói
đến Hùng Vương thì ta có quyền nghĩ ngay đến vua
nước Văn Lang của Việt tộc, là vì Việt tộc có may
mắn giữ lại được nhiều nhất ý nghĩa trung thực của hai chữ anh
hùng; nhưng chính ra Hùng Vương với nước Văn Lang
vẫn là loại danh chỉ đường lối lãnh đạo dùng văn
trị nên nước được gọi là Văn Lang, dân con được gọi
là “trai hùng gái đảm”, bất kỳ ở đâu nếu
hiện thực văn trị cũng gọi được là Văn Lang với vua Hùng.
Đó là bước
tiến cao cả của con người trên
chu trình tiến về nhân chủ tính. Xét theo
các bức họa còn để dấu lại trong các hang động của
người thái cổ thì dấu hiệu của anh hùng thường
là loài mang cánh chim gọi là vũ, ngược với
bên du mục là loài mang lông thú dữ
gọi là mao. Hễ du mục tiến mạnh ở nơi nào thì
trong các hang và nhất là cổ nghệ ta thấy nổi bật
lên hình các mãnh thú: sư tử,
hùm, báo, bi, làm át hẳn loại người
có cánh chim. Trong các hang thời đá mới
cũng thấy hình vật có cánh nhưng thưa dần
và phần nhiều chỉ còn lại như trang trí. Đó
là dấu chim đã mất vai trò vật tổ rồi, bị
đày xuống làm đồ trang trí. Loại có
cánh chỉ xuất hiện nhiều bên Đông Nam Á, nhất
là với Việt tộc mà nơi quy tụ chói chang hơn cả
là họ Hồng Bàng với Trống Đồng làm điển chương,
nơi quy tụ của những con người “có cánh” (mang
cánh chim) với vai trò cao cả: vật tổ hoặc vật biểu.
Hình người
tiên có lông chim
nên gọi là vũ hóa. Vũ là lông chim đối
Mao là lông thú.
Hồng Bàng thị lấy
ngay tên chim Hồng làm
họ, rồi đến các tiên mẫu đều mang tên chim như
Âu Cơ là Hải Âu, Vụ Tiên là vịt trời,
Lộ Bàn là cò trắng v.v… Đây là
lý do tại sao trên mặt trống ta thấy tràn đầy chim:
cả thuyền, chày giã, cả nhà đều được gắn
lông chim. Coi thường ta không để ý nhưng nếu xem
trong thế đối chiếu với du mục đề cao thú dữ sẽ dễ nhận ra
giá trị tinh thần của những hình chim kia: nó
làm nổi bật lên liên hệ giữa chim vớ hùng
nên chữ hùng trong tên Hùng Vương phải viết
với bộ chuy là chim mà không viết hùng gấu
như sẽ nói trong chương sau về Hiên Viên. Như vậy ta
thấy Hùng Vương quả là anh hùng thượng thặng. Anh
Hùng viết hoa tức Hùng từ trong tên tuổi, từ trong
tính chất, cũng như trong lối xuất hiện: mẹ Âu không
những mang tên chim mà còn đẻ con theo lối chim
(tục điểu) = đẻ trứng rồi ấp.
(Hình)
Trên đây
là nói về danh xưng
và biểu hiệu. Bây giờ cần xét đến công việc
của Hùng Vương, hay là xét tới cung cách
hành xử của ngài xem danh có nội dung xứng hợp
chăng, và sung sướng thay ta cũng thấy cung cách của
Hùng Vương khác hẳn con đường vua thần: không đặt
nặng vấn đề pháp luật, quân đội (chỉ đến lúc chống
xâm lăng mới hô toàn dân đứng lên, về
sau lối đó biến ra truyện Thánh Dóng). Đấy
là điểm một.
Điểm hai là
bãi bỏ lối vua thần ưa dùng
lừa đảo, đề cao quỷ mị. Trái lại quỷ mị ở đây bị
phá bỏ như được biểu thị trong ba vĩ tích của Lạc Long
Quân là diệt Hồ tinh, Ngư tinh, Mộc tinh. Đó
toàn là những quỷ mị của thời bái vật được
phía vua thần khai thác triệt để hầu khống chế con người
tới tận tâm can trí tuệ. Ngược lại bên Hùng
Vương thì Lạc Long Quân phá hết để đến vua con được
rảnh tay xây nền nhân chủ viên mạn tức đạo làm
người ung dung không bị những quỷ mị kia khống chế, vì thế
tôi gọi là An Vi. Thuyết đó được biểu thị
cách rất thú vi trong bánh trời bánh đất
áp lên nhau làm thành của nuôi con
người. Nhờ của nuôi có tính cách vũ trụ nọ
mà con người trong văn hóa Viêt tộc có sức
lớn lên bằng chiều kích vũ trụ với cái tâm
bao la mà Kinh Dịch kêu là “vũ trụ chi tâm”.
Về sau Nho giáo đã công thức hóa bằng
câu dịnh nghĩa con người là Đức Trời Đức Đất giao hội
(giao chỉ) “nhân giả kỳ thiên địa chi đức”.
Đó là một
câu định nghĩa chân thực
tràn đầy nội dung của con người Đại Ngã mà cụ thể
là những người tự cường tự lực của con cháu Hùng
Vương ta quen gọi là trai hùng gái đảm làm
nên một dân tộc mà học giả Paul Mus gọi là
“một dân tộc anh hùng không có anh
hùng ca”. Đây là câu khen ngợi chí
lý nhưng không mấy ai hiểu hết ý nghĩa là
vì người Việt đã lầm theo cái lầm của văn minh du
mục đề cao sức mạnh võ biền hoàn toàn sinh
lý không cần lưu ý chi tới nội dung để xét
cặn kẽ mọi mặt như xét xem mục đích có cao thượng
cùng chăng. Sự lầm này được cô đọng vào việc
dùng chữ anh hùng để dịch chữ epic có nghĩa
là võ ca (Võ công ca). Sự dịch lầm có
phản chiếu một sự vô tình đề cao óc du mục được
chiếu giải vào những áng văn chương kêu là
epic như Iliade của Hy Lạp hay Ramayana của Ấn Độ. Phải công nhận
rằng văn chương trong epic thực là oai phong bi tráng,
nhưng hỏi có một cái gì cao cả đâu: bởi
không phải chống xâm lăng, cũng không phải vì
dân vì nước, mà chỉ nhằm những mục tiêu
riêng rẽ.
Iliade kể chuyện chiến
chinh để báo thù cho vua
Menelaus mà bà vợ đẹp tuyệt vời bị Paris bên Troy
cướp; sự lãnh đạo của Agamemnon không vượt tầm chiến
thuật: đánh cách nào để nắm vững thắng lợi.
Các nhân vật thì rất xa với tự cường tự lực:
toàn như những thằng phổng do thần giật dây, động ứng theo
cảm xúc nhất thời chứ không thấy lý tưởng gì
cao cả. Vậy mà Tây Âu cũng gọi là hero. Tiếng
này có nhiều nghĩa mà nghĩa nổi hơn cả là
người nổi về dũng cảm về sức mạnh, do đó chữ hero cũng được
dùng để chi cái sandwich bự. Một nghĩa nữa là
kép mùi tức là vai chánh trong một tuồng
hát hay tiểu thuyết. Cuối cùng chữ hero cũng có
nghĩa cao cả nhưng lại bị coi thường. Đó là đầu mối cho
sự dùng bậy bạ: dịch epic bằng anh hùng ca mà thực
ra chỉ là võ ca.
Trong võ ca Ramayana
của Ấn Độ tuy không thiếu
ý tưởng cao siêu về minh triết, đạo tâm, luật
pháp… nhưng đó là những phần thêm vào
sau chứ mở đầu cũng giống Iliade là chàng Ravana cướp
đoạt nàng Sita và việc dành lại Sita cho Ravana
không mang đến cho dân Ayodhya cái thớ gì cả.
Còn bầu khí thì cũng võ biền man rợ được
cô đọng trong câu Bhima nguyền rủa Dushasana “Tao sẽ bổ tim
mày ra để uống máu mày”. Việt cộng đã
mù quáng theo bài học nuôi dưỡng óc
căm thù đó trong câu hát “thề phân
thây uống máu quân thù” cái óc
khiến kẻ thắng trận lên mặt kiêu căng phách lối, hạ
nhục đối phương đến cùng triệt kèm theo những cảm nghĩ
thấp hèn tiểu nhân. Toàn truyện Iliade xoay quanh
sự giận hờn của Achille đến nỗi có thể dịch epic là “tức
khí ca”, “oán hờn ca” cùng lắm thì
là “dũng khí ca” cũng được. Có suy xét như
vậy mới hiểu được lối nói của Paul Mus rằng “người Việt
là một dân anh hùng không có anh
hùng ca” là câu khen tặng tuyệt vời: tức là
con người hùng của Việt tộc không tạo tên tuổi bằng
võ biền bằng chinh phục, nhưng bằng cố hiện thực việc lớn lao
cho dân, cho nước, cho hoàn vũ.
“Vũ trụ chi gian giai phận
sự
Nam nhi đáo thử thị
anh hùng”.
Đó là đại để
ý nghĩa hai chữ Hùng
Vương mà chúng ta chỉ còn cảm thấy mập mờ thấp
thoáng. Một vì quálâu đời nên danh
xưng giảm sức tác động. Hai vì đã bị du mục lấn
át. Các nơi khác óc du mục đã
chôn táng hẳn tinh thần Hùng Vương, còn ở
Việt tộc tuy tinh thần đó không bị chôn táng
nhưng cũng bị cướp đoạt và lấn át hóa ra lu mờ.
Tuy nhiên vì nội lực rất thâm hậu nên
đã khôngbị huỷ diệt, trái lại đã đủ sức phục
hoạt để cảm hóa óc du mục.
Hiện nay con người đang
giẫy giụa trong tình trạng tha
hóa do sự lấnát của óc du mục chuyên chế. Bi
trạng đó đang đi đến cùng cực. Theo Kinh Dịch thì
“cùng tắc biến, biến tắc thông”! rồi đây con người
sẽ có cơ lấy lại quyền làm người theo đúng nghĩa
tròn đầy viên mãn. Lúc ấy danh nghĩa
Hùng Vương sẽ lấp lánh trên vòm trời
siêu thức của con người để con người từ bỏ tật ỷ lại vào
tha lực để mạnh dạn đi vào con đường tự cường tự lực của
Nhân chủ.
Chương 14
TỪ
HÙNG GẤU TỚI HÙNG CHIM
Chữ Hùng trong
Hùng Vương viết với bộ chuy chỉ
về loài chim ngắn đuôi. Đó là truyện dễ hiểu
vì Hùng Vương là con của mẹ tiên cha rồng,
mà vì yếu tố mẹ còn mạnh nên con mang họ
chim là phải. Nhưng xét ở thời sơ khai thì
Hùng cũng có họ với gấu, chứng cớ là Hùng
Vương sinh ở cung dần, cung thứ ba chỉ loài hùm, gấu,
báo nên nói là sinh ra tháng 3. Như
vậty thì sao. Chỗ này có thể giải nghĩa hai lối:
một theo tâm linh, sinh ở cung dần để có được được đức
hùng cường của cung dần, đặng tiến lên bậc nhân chủ,
vì “nhân sinh ư dần”. Nếu Hùng Vương đạt đạo
nhân chủ tất phải sinh ở cung dần. Lối giải nghĩa này rất
hợp đồng văn.
Nhưng còn một lối
giải thích khác cũng
có thể chấp nhận được đó là ở thời nguyên
thuỷ dòng tộc Hùng Vương cũng đã trải qua giai
đoạn du mục hoặc nhẹ hơn là săn bắt, nên có thời
đã nhận gấu hoặc một hai loại tương tự làm vật tổ, thế
rồi sau tiến hóa dần dần leo lên đến hùng chim.
Chẳng biết có xảy ra thế hay không nhưng trong cổ sử
và cổ nghệ còn gặp ấn tích của tiến trình
biến thể đó. Có phải đó là tiến
trình biến thể của Hùng Vuơng hay chỉ làtiến
trình biến thể củaHiên Viên (chỉ Tàu) ban đầu
có óc du mục họ gấu (bạch hổ) nhưng sau gặp văn
hóa Viêm Việt đã biến thể dần để cuối cùng
nhậnvật biểu của Việt là rồng (long). Dù của Hùng
Vương hay Hiên Viên đàng nào cũng là
việc ơn ích khi theo dõi cuộc biến thể nọ. Bài
này sẽ thử phác họa lại tiến trình đó.
Nên nhớ lại ban đầu
Hiên Viên cũng
có họ Hùng. Sách Đông Chu Liệt Quốc viết:
“xưa kia cả Hoàng Đế lẫn Viêm Đế đều là con
cháu của Thiếu Điển Hùng Quốc Quân”. Câu
nói trên có điểm lúng túng bất ổn.
Một là đặt Hoàng Đế trước Viêm Đế. Viêm Đế
có trước cả đến ba bốn trăm năm sao lại đặt ngược như vậy. Thứ
đến Viêm Đế chủ nông nghiệp thuộc họ hùng chim tại
sao hùng gấu của Hoàng Đế lại chen vào đây.
Chỗ này có
thể trả lời là Hùng
Vương đại diện cho ngành nông nghiệp đã tiến mạnh
trên đường nhân chủ. Thoạt kỳ thuỷ Hùng Vương cũng
là hùng gấu, sinh ở cung dần chỉ chung loại hùm,
gấu, hổ. Nhưng rồi hổ biến thể hóa lân, ra chó gọi
là Bàn Hồ tức con hồ của họ Bàng, hay Bành,
Ban… sau này tên Việt tẩu viếtvới bộ tuất có thể
hàm tàng mối liên hệ này. Chữ tuất chỉ
chòm sao chó, nên là loại rất chung thuỷ
và còn gần với hổ, hay hùm mà trong
các đảo Thái Bình Dương như Bornéo chẳng
hạn gọi là Aso. Các nhà khoa học có khi
kêu là long cẩu hoặc aso-dog, mà cũng có thể
là hùm aso-tiger (1). Ta nên nhớ đây
là giai đoạn còn đang hình thành trong bầu
khí biến dịch thì các vật tổ không có
hình thái cố định nên hổ ra cá, ra ba ba,
rồi ra chim như ta sẽ thấy sau về hùng chim của ta. Còn
hùng gấu của Hoàng Đế vì mang đậm tính chất
du mục banđầu nên đi với họ gấu rõ và lâu
hơn.
(1) Prehistoric Man.
Lommel p.80
Ta biết Hiên
Viên xuất hiện với đội quân
“hổ, báo, hùng, bi” là đã thò
đuôi du mục ra rồi. Tính của du mục là chinh phục
là chiếm đất, chiếm người và nhất là chiếm cả văn
hóa nông nghiệp. Vì thế quen gọi Tàu xuất
hiện từ đế kỷ tức với Hiên Viên cũng xưng là
Hoàng Đế, nhưng đúng ra chỉ được xưng là Đế.
Còn xưng Hoàng là chiếm đoạt. Huyền thoại
nói là Hiên Viên chiếm sắc vàng
(hoàng) của Li Vưu. Hoàng đây hiểu là
màu lúa mễ chín vàng và hiểu cao
lên là màu trung cung cao cả. Đó là
màu thuộc thời Viêm Việt đi trước, nước Việt xuất hiện ở
thời Tam Hoàng nên gọi là Hoàng Việt. Nền
văn hóa này đã có bộ cơ cấu vĩ đại
là nét song trùng số 2 với thuyết Tam tài
số 3, vớ ngũ hành số 5, cửu lạc số 9. Người xưa đã “huyền
sử hóa” bộ cơ cấu nọ bằng các anh hùng văn
hóa: nét song trùng là Phục Hy Nữ Oa, rồi
Tam tài trở nên Tam Hoàng là thêm Thần
Nông vào nữa thành Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông.
Sau đó mới đến ngũ “đế” tuy cũng tiếp nối tinh thần nông
nghiệp nhưng kém Tam Hoàng một bực, vì Tam
Hoàng thuộc vòng trong, ngũ đế thuộc vòng
ngoài.
Người sau nhại lại hai
vòng này bằng
vòng ngoài lịch sử là Tam Vương (Hạ, Thương, Chu)
ngũ bá (Tề, Tấn, Sở, Tần, Việt). Nói vậy đủ biết Tam
Hoàng Ngũ Đế chỉ cơ câu tiên thiên không
chứa nội dung lịch sử: không có ý kể lại những biến
cố đã thực sự xảy ra, mà chỉ cốt đưa ra cái dạng
thức sơ nguyên của Việt Đạo, vậy mà dám đem
dùng như sử thì rất dễ sai lạc. Hiên Viên
đã không hiểu được điều đó nên theo
lòng ham hố danh vọng muốn đeo lon Hoàng mà thực
ra chỉ là Đế. Đế thì quá rõ rồi không
thể xóa bỏ được; thành tích chiếm đoạt còn
đó. Hiên Viên phải giữ nguyên chữ Đế nhưng
quàng thêm chữ Hoàng vào thành ra
Hoàng Đế. Thực là mâu thuẫn vì Đế là
chinh phục, xâm lăng; còn Hoàng là
đàng hoàng không xâm chiếm mà chỉ dung
uy tín linh thiêng. Thế nhưng Hiên Viên
đã bất kể nên chiếm đoạt luôn chữ Hoàng (1).
Làm thế nào? Gảy Nữ Oa ra rồi chễm chệ vào ngồi
giữa. Vì vậy mới có vụ Hoàng Đế đặt trước
Viêm Đế: đó là tội thuộc chính trị.
(1) Hiên
Viên phải hiểu là những sử
gia đời Hán đã nguỵ tạo nên vai Hoàng Đế để
chiếm công vi tư: chiếm thành tích của gốc chủng
ViêmViệt làm của riêng chi Viêm Hán.
Tội hai thuộc triết
lý là duy dương: Tam
Hoàng cũ có âm dương, âm là Nữ Oa ngự
giữa hai dương để làm chủ tức là nguyên lý
mẹ nay bị Hiên Viên gảy ra để chiếm cho nên Tam
Hoàng thành ra đực rựa: Tam Hoàng đốc ra đế tuốt
luốt. Thế là Hùng gấu của Hiên Viên lấn
át hẳn Hùng chim của Văn Lang quốc. Tội Hiên
Viên còn nhiều lắm xin để gịp khác kẻo bài
dài quá.
Ở đây chỉ xin hỏi
liệu rồi Hùng chim có
quật lại được Hùng gấu chăng? Thưa có như ta đọc thấy
trong huyền thoại về ông Cổn. Ông Cổn là cha
ông Vũ được ông Thuấn sai đi “trị thuỷ” nhưng ông
thất bại vì đã đắp đê ngăn nước làm
chìm mất ngũ hành, bởi thế ông bị cức tử trên
núi Vũ Sơn. Nói Vũ Sơn cũng được hay nói
“núi chim” tức là núi của Viêm Việt
là một. Cho nên nói ông Cổn bị cức tử
trên núi Vũ Sơn là nói lên tinh thần
du mục của ông Cổn bị diệt bởi tinh thần Hùng chim. Truyện
kể tiếp rằng xác ông Cổn bị vất xuống vực thẳm lâu
ngày biến thành một thuỷ loại mà các học
giả không thể xác định là cá hay là
gì. Sách Nhĩ Nhã chương 16 viết như chữ
Hùng gấu nhưng chỉ có ba chấm nên kẻ thì đọc
Hùng, người đọc nai hoặc năng. Có người nói
đó là một giống cá, người khác bảo
là ba ba, hoặc một giống rồng. Thực ra thì nó
là một “thuỷ loại” trong quá trình biến thể từ gấu
qua cá, rồi ba ba để cuối cùng ghé qua rồng.
Vì lẽ đó dòng gõi nhà Hạ (con
ông Cổn) thường tế gia tiên bằng rồng hơn là bằng
gấu hay cá. Sự phân vân này đã xảy ra
vì đây là một sự chuyển hóa từ Hùng
gấu đến Hùng chim xuyên qua cuộc thay đổi cơ cấu như sau:
trước hết gấu Cổn rụng hết một chân còn ba. Theo cơ cấu
thì đó là từ vật chất lên tinh thần
nói hình bóng là từ đất lên trời,
nói theo siêu hình là từ không gian số
4 chuyền qua thời gian số 3, cùng một quá trình
như cóc 4 chân nhưng từ ngày lên chức
Câu ông Trời thì mất một chân. Thực ra
nói mất không đúng, phải nói là
trút đi được một chân: vì số 4 là số du mục,
phải thải bỏ mới ra ba tức tiến lên tinh thần nông nghiệp
thời trời số 3.
Ở hai văn minh Lưỡng
Hà và Hy Lạp không
có vụ chuyển hóa này (từ không gian số 4
sang thời gian số 3), mà chỉ có số 4 sấp một, nên
duy vật ròng kémViêm Việt chỗ đó). Như vậy
nếu cần gọi tên thuỷ loại kia cách sát thực hơn cả
thì hùng ba chân chính là con ba ba.
Nếu dịch ra tiếng Pháp thì xin cố giữ được tiếng ba,
thí dụ đừng dịch là Tortue molle mà nên dịch
là tortue à trois pattes chẳng hạn, tức phải hiểu ba ba
theo nghĩa huyền sử: ba ba là chín thì mới ra “cửu
lạc”. Hoặc ông Cổn có rụng đi một chân còn
lại ba thì con ông là Vũ mới đúc nổi cửu (9)
đỉnh, tức cùng cơ cấu với vụ Hùng Vương được cưu mang 3
năm 3 tháng, hoặc Hùng Vương thứ 3 truyền ngôi cho
công tử thứ 9, hoặc tục nước ta xưa cứ để mồng 3 tháng 3
thì ăn bánh trôi nước (xem Vân Đài
Loại Ngữ tr.470).
Tuy lưu truyền nói
ông Cổn hóa ra con ba
ba là đúng nhưng chưa đi hết quá trình biến
cải. Vì thế ở trên tôi đã dùng danh từ
thuỷ loại, tức một sinh vật sống dưới nước, nhưng lại thuộc dòng
lưỡng thê (amphibious) nên cũng có thể sống
trên bờ. Vì thế đó là giống ba ba đặc biệt,
cứ đến Hạ Chí thì biến ra rắn, rồi đến Đông
Chí hóa ra chim trĩ. Quý vị thấy chưa máu
Tiên Rồng của Lạc Việt đã trào lên rồi
đó: máu tiên trong chim trĩ, máu rồng trong
rắn. Thế là sau một chuỗi chuyển hóa Hùng gấu trở
nên Hùng chim tức du mục được cải hóa ra nông
nghiệp. Điều ấy chứng tỏ rằng văn hóa của Lạc Hồng, của con
cháu Hùng Vương có nội lực rất sung mãn, đủ
sức nhiều lần cải hóa được kẻ xâm lăng nặng óc
chiếm đoạt. Sử Tàu không chi khác hơn là
những cuộc du mục xâm lăng, khởi đầu trấn át tinh thần
nông nghiệp, nhưng rồi tinh thần này lại dần dần trồi
lên đến độ có thể cải hóa kẻ xâm lăng, để rồi
lại bị đợt xâm lăng khác.
Đợt hiện nay tràn
đến dưới danh hiệu cộng sản
đã dẫm nát tinh thần nhân chủ Việt tộc nhưng hiện
đã tỏ ra dấu suy tàn, rồi cũng sẽ đi vào giai đoạn
bị giải thể.
Sau đây là một
truyện được thâu lượm trong
Vân Đài Loại Ngữ (tr.535).
Truyện rằng: “Ở khúc
sông làng Vĩnh lại
huyện Sơn vi, và sông Mạc giang huyện Tam nông cũng
có cá anh vũ mà không béo. Cá
ấy ở sông Việt trì lại ngon lắm, cứ đến tiết tháng
đông lạnh mới có, không biết nó đi đâu?
Còn từ sông Bạch Hạc trở xuống không có một
con nào: vì cá ấy chỉ ở đến giới hạn sông
Việt trì thôi”. Thuyết ấy thật vô lý. Tục
truyền rằng: “đời xưa, ở biền giới tỉnh Hưng hóa, có một
cây ngô đồng cao ngất trời, rễ cây ăn xuyên
sang tận Trung Quốc. Mỗi khi cơn gió vàng (gió
Thu) nổi lên, thì lá cây ngô đồng ấy
rụng, bay sang tận trước cung điện vua Ngô. Vua Ngô hỏi sứ
nước Nam mới biết chuyện, bèn sai Lý Bạch cưỡi ngựa sang
tận nơi trấn áp”. Lý Bạch yểm xong, khi trở về, để một tờ
giấy cho một bà lão già, và dặn rằng: “Đợi
đến ngày mồng 10 tháng 3, gián tờ giấy ấy
lên ngô đồng”. Bà lão quên ngày
dặn; mới đến đầu tháng 3 đã vội đem tờ giấy ấy dán
vào cây ngô đồng, một lúc thì
cây ấy đổ. Một cánh cây ấy bay đi, đè chết
Lý Bạch ở giữa đường. Chỗ gốc cây thì sâu
hoằm, thành cái hang, thông sang mãi tận cửa
sông đất Trung Quốc, cho nên cá anh vũ ở sông
ấy sang nước Nam. Cứ mùa đông lạnh rét thì
nó sang, đến mùa Xuân mùa Hạ thì lại
về”.
Lê Quý
Đôn bàn về cá anh vũ
cho là thực vô lý. Nói vậy vì
không biết đến huyền sử. Nếu hiểu theo huyền sử khi thấy
cá anh vũ là giống cá mồm cong mà đó
(đã nhắc đến ở trang trước 534) thì đúng là
cá Việt, nên chỉ béo tốt khi sống trong ao Việt
(Việt Trì) còn ở Bạch Hạ không có con
nào, vì cá đã biến ra chim hạc (hồng cũng
là hạc) mà tu đến lúc lông trắng (bạch hạc)
thì lên tiên chứ còn ở lại ao làm
gì. Tu mà giũ sạh bụi trần thì gọi là trở
nên trắng, trở nên bạch hạc hay bạch trĩ cũng vậy.
Còn truyện từ cá ra chim, hổ hóa rồng nói
lên môi sinh tinh thần của nền văn hóa Kinh Dịch:
sinh sinh hóa hóa chứ không ở trong thể cố định. Ở
đây đá tu lâu thành cây, cây
thành thú rồi thành người v.v…
Còn truyện Lý
Bạch muốn yểm linh khí
nước Nam chỉ ngày sinh nhật của Hùng Vương mồng 10
tháng 3. Nhưng bà lão quên lời dặn!
Đó là ngôn ngữ huyền sử để chỉ rằng nguyên
lý mẹ (bà lão) đã vật chết Lý Bạch.
Tinh thần Viêm Việt ảnh hưởng sang Trung Quốc làm đường đi
cho cá anh vũ.
Sau cùng xin đưa ra
mấy hình ảnh cổ nghệ vẽ lại
cuộc cảm hóa hùng gấu hóa ra hùng chim. Tức
hùng hổ dữ tợn trấn át con người như hình 1 gấu ăn
người bên Assyria. Hình 2 du mục, đến hình 3 hổ
đè người, hình 4 gấu phù hộ người (hổ phù),
nhưng cuối cùng đã suy phục con người để cho con người
cưỡi lên lưng, hình 5. Nếu đọc giữa hai dòng chữ
kiểu huyền sử thì có nghĩa là Tàu đã
từ bỏ vật tổ của mình (hoặc biến mất hoặc còn thì
bị cỡi lên lưng) đển nhận long của Việt tộc là vật biểu.
Long là đức người nên biểu thị rằng người cỡi lên
lưng hổ (gấu, hùm).
(Hình 1:
thú ăn thịt người, thú ăn
thịt thú.
Hình 2: du mục
thú làm chủ, người bị
đọa đày
Hình 3: hổ
đè người
Hình 4: đời
Thương: hổ phù (hộ người)
Hình 5: chiến
quốc (nghệ thuật sông
Hoài) người thuần phục hổ
Hình 4&5
mượn trong quyển The Archeology of
Ancient China by Kwang-Chih-Chang, p.382)
Đó là phần
lịch sử cổ nghệ minh họa cho huyền
sử. Căn cứ trên huyền sử được kiện chứng bằng lịch sử
chúng ta có nền tảng vững để tin tưởng và hy vọng
rằng Hùng gấu Nga được Việt cộng rước về để “trị thuỷ” nhưng
không thành công, rồi cũng sẽ trải qua quá
trình chuyển hóa hoặc bị cức tử như ông Cổn hoặc
còn lại thì sẽ bị cỡi lên lưng để nước ta lại trở
về dưới bóng mẹ Âu với đôi cánh Hồng Lạc để
xuất hiện nguyên hình là một dân anh
hùng không cần “võ công ca” nghĩa là
một dân anh hùng chính cống đã có
huyền sử lại được tiếp nối bằng lịch sử nhiều ngàn năm chứng tỏ
một nội lực phi thường có khả năng cảm hóa được những
làn sức mạnh du mục bạo tàn, tượng trưng bằng hổ
báo. Từ hổ ăn thịt người, đè người tới lúc hổ phải
phục tùng để cho người cỡi trên lưng. Đó là
hậu quả gây nên do làn sóng ngầm của Văn Lang
quốc vậy.
Chương 15
TA VỀ TA
VÉT AO TA
Ao ở đây phải hiểu
là triết, chữ ao lấy từ cặp
tiếng đôi “ao đột” (lõm lồi), một hình thức
khác của sông núi. Ta về ta vét ao ta
là ta phải trở về học hỏi, nghiền ngẫm Việt lý của nước
ta. Nói vét ao là chẳng qua dùng lại kiểu
nói huyền sử ở thời sơ nguyên khai sáng, khi
nói “đào sông” (tuấn xuyên) lại phải hiểu
là đào sâu triết.
Như vậy câu ca dao
trên chứa đựng ba đề mục,
và cả ba đều rất quan trọng cũng như mang một ý nghĩa
khẩn cấp trong lúc này.
Trước hết là ta về,
tại sao ta về?
Ta về hiểu rằng ta
đã tắm thử các ao
khác, và ta đã nhận được nhiều điều hay cũng như
điều dở. Có thể nói nếu chỉ tắm thử để thâu kinh
nghiệm thì tốt; còn khiêng ao ngoại lai về
thì ta là tai họa như chúng ta đang nếm mùi
hiện nay của ao Mác Lê, vì thế mà cần phải
trở về ao nhà, ao dân tộc. Điều này hiện nay ai
cũng thấy rồi, vì thế chỉ nhắc lại ở đây mà
không quảng diễn, dành thì giờ cho hai tiêu
đề sau, và trước hết là tiêu đề ao ta.
XIN
HỎI AO TA
LÀ AO NÀO?
Ta đây không
là Tây rồi nhưng
là Việt hay là Tàu? Vấn đề có phần
khúc mắc nhưng cũng cần phải bàn sơ qua để việc
vét ao được thấu triệt, và đây là hậu quả
của một cuộc nghiên cứu khá dày công rằng ở
khởi nguyên thì đó là ao Việt, về sau
Tàu cũng có phần tham dự, và do đấy ta thấy cơ cấu
triết Nho phát xuất từ nước giống như Việt lý vốn khởi tự
ao, hồ, sông… Kinh Dịch nói Hà Đồ Lạc Thư đều xuất
bởi sông “Hà xuất đồ Lạc xuất thư”. Rồi xuyên qua
huyền sử thì thấy đầy ao, hồ, giếng, từ Hoàng Trì,
Việt Trì, Dao Trì xuyên qua Động Đình Hồ,
Hàm Trì, Việt Tỉnh cho tới Bích Ung, Phán
Thuỷ… Đó là những văn kiện nói lên chỗ
phát xuất của nền văn minh Đông và Nam Á,
nó khác với hầu hết các nền văn hóa
khác thường phát xuất ngoài nước, tức là
duy dương. Còn đây là “âm dương” giao chỉ.
Bây giờ xét
gần hơn đến nguồn gốc cả Việt lẫn
Tàu thì ta nhận thấy khởi thuỷ văn hóa Tàu
không dính dáng chi đến nước, đến ao cả. Vậy
thì hai văn kiện Hà đồ, Lạc thư là của Việt.
Đó là hai văn kiện tóm lược đạo lý Việt nho
cách cơ cấu, và có thể là đã đến sau
huyền thoại nói về Thần Ba Vì xuống Thuỷ phủ được Lạc
Long Quân cho quyển sách có ba trang mà thần
chỉ đọc có hai trang. Hai trang đọc, một trang bỏ, điều
đó mang đầy ý nghĩa sẽ bàn sau. Ở đây chỉ
nói đến ý niệm đặt đạo lý liên hệ với nước,
sách phải xuống thuỷ phủ mới được và đó là
nét đặc trưng của Việt đạo. Tàu lúc sơ khai
không có nước chi cả, ruộng khô (lúa tắc).
Trong quyển The Cradle of
the Easst (Chicago Press 1975)
có thể coi như bản kết toán cập nhật nhất về các
cuộc khai quật đã hiện thực bên Tàu từ trước tới
nay tác giả là ông Bỉnh Thế Hà (Pinh Ti Ho)
đã đưa ra những bằng chứng khoa học để chỉ tỏ rằng người
Tàu biết dẫn thuỷ nhập điền rất muộn, và văn minh
Tàu không có liên hệ chi tới nước lụt
trên đồng bằng sông Hoàng Hà như người ta
thường tưởng (It is sufficiently clear that the rise of Chinese
agriculture and civilisation bore no direct relation whatever to the
flood plain of the Yellow river, and that of all ancient people who
developped higher civilisation in the old and the new worlds, the
Chinese were the last to know irrigation. p.48). Câu trên
rất trúng khi ứng dụng cho lúa tắc là thứ
lúa giống kiểu lúa mì gieo trên ruộng
khô, vì thế mà có thể dùng để kiện
chứng cho huyền sử. Theo đó thì cái nhân của
văn minh Tàu không do nước. Hoàng Đế thờ nữ thần
Bạt là thần coi về đại hạn, nên đúng là du
mục duy dương vì thiếu nước để làm âm. Vậy tại sao
người ta tưởng văn hóa Tàu phát xuất từ nước? Thưa
là tại Tàu đã hôi nhập văn hóa Việt,
một nền văn hóa có đầy ao, hồ, giếng với các thuỷ
tổ tiên rồng đều bì bõm trong nước, trong ao. Rồng
thì như Lạc Long Quân ở trong thuỷ phủ, sách
ước gậy thần cũng được trao dưới đó. Phần các tiên
mẫu thì tuy được biểu thị bằng chim nhưng là chim nước,
trừ con chim trĩ chỉ mặt trời, còn lại là hồng, hạc,
cò, sếu, lạc… toàn chim nước. Cho nên quá
đầy đủ lý chứng chỉ tỏ nguồn gốc văn hóa Việt phát
xuất từ nước. Do đấy kết luận được rằng những phát xuất từ nước
như Hà xuất đồ, Lạc xuất thư thì khởi thuỷ là mượn
của Việt, nên nói Việt nho là chí lý.
Vấn đề này tuy rất thú vị nhưng nó nhiêu
khê phiền toái nên xin bàn dịp khác,
để dành thì giờ ở đây cho việc vét ao.
VÉT
AO
Vét ao là một
điều cần thiết vì ao
nhà đã bị ứ đọng đầy vẩn rá, bùn dơ do
Hán nho, Tây nho, cũng như thời gian lâu đời
không ai săn sóc.
Điều nhận xét thứ
hai là không phải bất
cứ nước nào, nhưng là nước có người nhúng
tay vào như đào giếng, đào ao, đào hồ,
đào sông… Đã vậy trong huyền sử cũng có vụ
vét sông gọi là “tuấn xuyên” có nghĩa
đào sâu sông như ông Hạ Vũ đã
làm. Thế nào là đào sâu sông?
Huyền sử nói ông Vũ đã đào cho tới
lúc gặp hai thủ tổ Phục Hy, Nữ Oa đang nằm ôm nhau. Theo
ngôn ngữ huyền sử thì phải hiểu là đào cho
tới tầng cơ cấu, tầng ấy sâu nhất nên nằm bên dưới
tầng ý, từ, dụng. Luân lý mới đào đến đợt
dụng, văn chương đào đến đợt từ, triết học đào tới đợt
ý. Còn đợt cơ (cấu) thì chưa ai đào tới.
Và thế là chúng ta phải đào phải vét
cho tới lúc gặp cơ cấu mới xong nhiệm vụ. Cụ thể là ta
hãy đem các tên ao, hồ giếng ra để phân
tích.
Trước hết hãy
nói đến chữ Hoàng trong
Hoàng Trì. Chữ này đã bị lãng
quên gần như hai chữ Hoàng Việt. Tôi chỉ thấy chữ
Hoàng Trì trong câu nói của Hán Sử:
“Xích tử lộng giáp binh ư Hoàng Trì chi
trung” = “trẻ con chơi đồ binh giáp trong ao Hoàng
Trì”. Tất nhiên ý nghĩa thâm sâu của
câu nói đã mất trọn. Vậy muốn tìm ra
thì cần phải xem theo lối cơ cấu mà phân
tích từng chữ. Chữ Hoàng thường được dịch là sự
tốt lành trọn hảo cùng cực “la perfection royale”. Dịch
như vậy là sâu nhưng còn phải đặt vào cơ cấu
mới thấy được ý nghĩa quan trọng. Đó là đưa ra một
lời giải đáp cho vấn đề đã hàm tàng trong
câu “ao nhà vẫn hơn”. Hỏi tại sao hơn? Phải có
cái chi làm mực để nói hơn với kém:
đó là vấn đề tiêu chuẩn. Tức vấn đề cực kỳ then
chốt và có ba lập trường. Một đại biểu cho triết
lý Protagoras trả lời đó là con người. Cái
gì người cho là tốt thì tốt, cho là xấu
thì xấu. Do đó ông đã nói câu
thời danh sau “man is the measure of all things”, người là thước
đo mọi sự. Plato đối lại rằng thiện cũng như chân và mỹ
là những giá trị làm nên lý giới
ngoài con người, có tính cách độc lập
không lệ thuộc vào ai hết, kể cả Thượng Đế. Tuy Thượng Đế
yêu mến chân thiện mỹ nhưng vì là
chúng đáng yêu nên yêu, chứ không
phải được Thượng Đế yêu mến chúng trở nên
đáng yêu, tức trở nên chân thiện mỹ. Thượng Đế
mà còn không ăn nhằm chi thì con người sức
mấy mà dám xưng là thước đo mọi sự.
Hai lập trường trên
chống đối nhau toàn triệt.
Protagoras thì đề cao con người đến độ duy nhân,
không kể chi tới trời đất, thì quả là duy
tâm, tiêu chuẩn không có phần khách
quan nào hết. Khi người ta yêu thích khác
nhau đếnđộ chống đối thì không biết dựa vào
đâu mà phân xử. Còn Plato không kể chi
đến người mà hoàn toàn dựa vào khách
quan ngoại tại, vì vậy kết luận được rằng đó là
tiêu chuẩn vong thân, tức con người không được dự chi
trong việc quyết định thiện ác hết. Đó quả là nguỵ
biện vì ngay cái lý giới gồm chân thiện mỹ
của Plato cũng do chính Plato đặt ra và quyết định lấy
chứ có khách quan đâu. Cho nên ngoài
việc bắt người theo mình một cách thụ động thì
không có đường lối nào tích cực hợp cho con
người nhân chủ phải nắm được vai trò chủ động. Xem thế ta
hiểu được tại sao hai lập trường trên cho đến nay không
bên nào hẳn nắm phần thắng, hay nếu có thắng
thì lại thắng kiểu cộng sản là dùng quyền lực bắt
mọi người phải nhận cách võ đoán: coi lý
tưởng trọng hơn thực tế nhân sinh, “hồng hơn chuyên”
là theo lối Plato đó.
Tiên tổ ta đã
đưa ra một giải pháp được
gói ghép trong tên các ao. Nhưng
Hoàng Trì là hoàn hảo cùng cực
không kim hay duy mộc, không thuỷ hay duy thuỷ mà
là ở giữa để hội nhập cả hai. Sau này Nho
giáo công thức hóa thành ba chữ “chí
trung hòa”. Câu đó tuy vắn tắt nhưng rất đầy đủ chỉ
cả đường đi và chỗ đến. Nói khác là đưa ra
lý tưởng và lối đi đến lý tưởng. Lý tưởng
là hòa đó là giá trị cao hơn hết.
Có hòa mới có thống nhất, có thống nhất mới
có sống, có sống mới nói đến hạnh phúc
được. Cho nên triết phải tìm cho ra mối hòa. Vậy
mối đó là trung. Có trung mới có
hòa, trung là căn nguyên, còn hòa
là hậu quả, hậu quả tuỳ theo căn nguyên. Trung nhiều
thì hòa nhiều. Muốn đạt đến hòa cùng cực
thì cũng phải đi tới trung cùng cực: giồn cả hai
câu vào thành câu chí trung
hòa, hay nói rộng thì ra câu “có
chí trung thì mới đạt chí hòa”.
Vậy thế nào
là chí trung? Thưa theo
nguyên lý triết Việt thì muốn ôm cùng
cực, ôm được cả đến trời cùng đất thì phải
rút nhỏ cùng cực, nhỏ không còn gì
nữa, nhỏ đến độ hết có thể nhỏ hơn, quen gọi là hư
tâm: cái tâm trống rỗng, lúc ấy và chỉ
lúc ấy thôi mới bao hàm được cả vũ trụ mà
Kinh Dịch gọi là “vũ trụ chi tâm” thường dịch là
cái tâm vũ trụ. Dịch đằng tả theo cơ cấu là
“cái tâm mà muốn bao gồm cả vũ trụ thì phải
trống rỗng, phải là “hư tâm”. Có hư tâm mới
gồm cả vũ trụ.” Cho nên tâm trống rỗng là điều kiện.
Điều này đã được nói rộng hơn trong cái ao
lớn thứ hai có tên là Động Đình Hồ. Động
là cái hang rỗng để chỉ tâm trống rỗng. Đình
là cái nhà vuông hay hình chữ nhật
có bốn góc để chỉ địa, hồ tròn để chỉ thiên.
Nói gọn là nhờ cái tâm rỗng mà gồm
được cả tròn vuông, cả thiên
địa.
Hoặc
nói đơn sơ hơn bằng tên
ao thứ ba
thì là Hàm Trì có nghĩa là ao
ngâm, nói rộng hơn thì đó là ao
tròn chỉ trời, ngậm cái nhà vuông chỉ địa.
Đấy là ý nghĩa tiêu biểu, còn nghĩa
chính là một nền triết lý toàn diện nhằm
phát triển mọi cơ năng con người, giúp cho tất cả
ý, tình, chí đều đạt đến chỗ hiện thực trọn hảo;
ngược với những nền triết duy xây trên thái cực đối
kháng chọn một bỏ một, chọn lý bỏ tình, chọn hồn
bỏ xác, chọn quốc tế bỏ gia đình. Ngược lại đây
thì cả thân tâm đều được tu theo nghĩa làm
cho tươi tốt nên cũng gọi là “mẫu kỷ” là làm
cho phát triển toàn diện con người. Đó là
ý nghĩa của chữ Hàm Trì là ao ngậm. Ao
mà ngậm được là nhờ có cái động (trong chữ
động đình hồ) để chỉ tâm hồn trống rỗng thì
thiên tính sẽ sáng lên trong lòng,
không còn bị những tin tưởng tai dị, những tự dục tư
ý che đậy.
Đó là nền
tảng sơ nguyên của triết
lý nhân sinh của Việt được gửi gấm vào tên
mấy ao hồ mà cổ hơn hết là Hoàng Trì tức
cũng là Việt Trì rồi Động Đình Hồ và
Hàm Trì. Về sau Nho giáo hội nhập ban đầu dưới
tên trường Bích Ung đời Chu để ra truyền nền minh triết
theo lối Việt là trao trên bờ ao, cụ thể là
đào ao theo lối hàm trì tức nhà trường
có hình vuông xây giữa ao (ung) có
hình tròn như viên bích ngọc nên gọi
là trường Bích Ung. Rồi cuối cùng được công
thức hóa thành câu: “chí trung hòa
thiên địa vị yên, vạn vật dục yên”, nghĩa là
khi đã đạt chí trung thì cũng đạt chí
hòa là hòa trời hòa đất: trời đất đều được
đặt vào đúng vị trí (chứ không như duy vật
sử quan đặt đất lên trên): nhờ đặt đúng mà
vạn vật được nuôi dưỡng, con người được phát triển mọi khả
năng.
Trước đã có
nhắc qua về vụ ông Vũ
đã hiện thực đúng cỡ “Hàm Trì”. Vũ
là con ông Cổn, ông này được vua Thuấn trao
cho việc trị thuỷ nhưng Cổn thất bại. Lý do thất bại ở tại
ông dùng lối đắp đê. Đắp đê là đối
kháng lấy khách quan kiểu Plato đối chọi với duy
tâm lối Protagoras. Đó là nhị nguyên:
làm sao có hòa. Muốn hòa phải đi lối
khác, và đó là việc ông Vũ làm
được bằng cách “tuấn xuyên” nghĩa đen là đào
sông, nghĩa bóng là “tuấn triết” đào
sâu triết, mà với Đông phương đào sâu
triết là đào sâu tâm hồn: không hỏi
có sự vật hay không, thế giới động hay tĩnh, không
nói duy trí hay duy tình, không nói
duy ông hay duy bà, duy tư bản hay duy cộng sản, nhưng
tìm một đường hòa giải. Đường ấy phải đi sâu
vào tâm vào tình cho đến chỗ cùng
lý tận tính thì sẽ tìm ra. Chính chữ
Việt trong Việt Trì là nói theo đó. Việt
là siêu việt, mà siêu việt theo lối Việt nho
thì không là đi lên nhưng là đi
vào, đi vào tận cùng tâm hồn, vì thế
Việt nho định nghĩa triết là triệt, nghĩa là phải đi đến
chỗ triệt cùng, là cùng lý tận tính,
hễ đạt được như vậy thì không còn là duy
tâm hay duy vật nhưng giàn hòa được cả hai chủ
trương trái ngược, một đàng đề cao con người cùng
cực, con người là thước duy nhất để đo giá trị, mọi
giá trị đều do chính con người. Điều đó
đúng nhưng con người nào? Quyết không phải con
người nông cạn bì phu đầy những tư ý tư dục,
mà phải là con người đại ngã tâm linh tức
là nơi sâu thẳm trong tâm hồn, mới gặp được cả đức
trời đức đất và lúc ấy lại hợp với Plato ở chỗ
khách quan tính là cái gì bên
ngoài con người như trời đất, nhưng phải với điều kiện là
trời đất đã được hội nhập nơi người, nơi tâm sâu
thẳm để cho “tam gia tương kiến” ba nhà có thể thấy nhau
tức thiên địa nhân hòa hợp mới quyết định được thang
giá trị. Nói cụ thể là hễ cái gì hợp
cho bản tính đồng nhiên con người thì đấy là
chân là thiện là mỹ, tức không phải chỉ hợp
cho một thời, một nơi hay hợp cho một vài giai cấp, mà
cho hết mọi con người.
Có những chủ trương
của triết nọ kia đã được
người ta huấn luyện vô số cán bộ để phát huy
và truyền bá, vậy mà nay chẳng mấy ai muốn
ngó ngàng tới, đó là dấu tiêu chuẩn
họ đặt chưa đủ sâu thí dụ chế độ nô lệ đời La Hy nay
ai còn dám biện hộ; cũng vậy những “giá trị” của
giới chủ nhân nay còn đâu được kể tới, vấn đề rất
nhiêu khê không thể nói hết ở đây. Chỉ
xin nói gọn là Việt nho đã không bao giờ
phải đổi nền tảng tiêu chuẩn của mình, tức là
tiêu chuẩn đó rất vững: đủ biết muốn tìm ra
tiêu chuẩn đúng thực cần phải đào ao, vét
lại ao, đào lại giếng. Sách nói bóng
là trong suốt mười mấy năm trị thuỷ qua lại nhà biết bao
lần mà ông Vũ không bao giờ vào. Cả những
lúc con ông mới đẻ khóc oe oe, ông cũng
không ngó ngàng tới. Đó là nói
lên tâm ông chí công không
có gì tư riêng, nhờ vậy mà ông
thành công. Sự thành công được biểu lộ bằng
việc ông đúc được chín đỉnh, lấy được vợ Việt,
lên ngôi ở Cối Kê kinh đô U Việt (Việt điện U
Linh).
Đó chẳng qua
là nói lên hậu quả
của sự hòa hợp cùng cực, hòa âm với dương.
Am đây biểu thị bằng vợ Việt. Nhờ có âm dương
hòa nên ông thành công trong việc trị
thuỷ biểu thị bằng việc đúc cửu đỉnh.
Muốn hiểu được câu
đúc cửu đỉnh phải hiểu được
Việt Tỉnh Cương. Việt Tỉnh chính là loại giếng siêu
việt, loại giếng có đặc điểm ở chỗ nước vọt lên bất tận.
Ca dao nói: “bằng cái sàng ba làng ăn
không hết”. Ba làng là tất cả mọi làng, thế
mà ăn không hết thì phải hiểu về cái
gì vô biên. Cái vô biên đó
biểu thị bằng cái giếng tròn. Người xưa đặt bốn thanh gỗ
chung quanh thành ra hình vuông, với bốn đầu
nhô ra làm thành chín lô, gợi ra chữ
tỉnh, cũng như gợi ra cái khung để cơ cấu hóa toàn
thể triết Việt, mà một trong những áp dụng vào
kinh tế là phép quân phân tài sản gọi
là tỉnh điền. Chính khung nọ sau đã biến ra Cửu
lạc cũng gọi là Lạc thư, Hồng phạm với cái khung giữa gọi
là ngũ hoàng cực, nếu theo được thì có được
ngũ phúc là Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh.
Còn nếu không thì ra lục cực, nói
bóng là “con sông lục đẩu sáu khúc
nước chảy xuôi một dòng”: như duy vật biện ra các
lý chứng láo khoét để cố “hợp lý
hóa” chế độ vô nhân đàn áp con người.
Đó là đại để
cuộc thăm dò chiều
sâu của ao nhà. Xin được tóm tắt như sau: trước hết
đó là ao ta. Ta đây là Việt mà
không là Tây, cũng không là Tàu
nữa. Như vậy là văn hóa phát xuất từ nước nhưng
không phải nước bất kỳ nào mà là nước
có tay người nhúng vào như đào cho ra hồ,
ra ao thì mới ra ao Hoàng Trì là ao trọn
hảo. Đào cách nào? Thưa phải đào thực
sâu tới chỗ vô đáy vô để gọi bóng
là cái động (trống rỗng) như tên Động Đình
Hồ, thì lúc ấy mới đạt hậu quả là ao ngâm
(hàm trì). Đào đã vậy mà còn
phải vét vì theo thời gian, tất có những ngấn đọng
làm cho ao hóa ra nông, vì thế tổ tiên
đã đào ao thì con cháu phải tiếp nối
vét ao, đời cua cua vét đời cáy cáy
đào. Hỏi cua nào? Trong quyển “The Fire in the lake”
= Lửa trong hồ, tượng quẻ cách (mạng), tác giả
Fitzerald ngầm trả lời rằng đó sẽ là Việt cộng mà
ngọn lửa cách mạng họ đưa về sẽ có sức gạn lọc cho ao
Việt trong trẻo để mở lại một kỷ nguyên cường thịnh mới.
Thế nhưng nay đã
rõ đó là hy vọng
hão, là cuộc cách mạng giả tạo vì duy vật
là duy dương chỉ có hỏa chứ đâu có thuỷ để
có thể thành ra hàm trì, trái lại
chút nước ao Việt còn sót lại cũng bị chúng
lấy lửa duy vật làm cho bay hơi đi hết, khiến toàn
dân bị một cơn khát điên cuồng, khát từ cơm
gạo trở lên cho đến tự do nhân phẩm, tình người,
khát luôn cả đến cái cười tiếng khóc,
vì tất cả đều phải tuân theo tiêu chuẩn khách
quan của đảng, nên vẫn còn là cái gì
giả tạo gán ghép. Cho nên kém xa ao
nhà ngay cả khi đục. Vì dù đục, dân nước
còn được an vui chưa đến nỗi lo âu và đói
khổ như trong ao duy vật. Như vậy muốn làm một cuộc cách
mạng chân chính có bảo đảm cho hạnh phục dân
tộc thì phải làm ngay một cuộc vét ao nhà
tức phải học về nền triết lý ẩn trong Hoàng trì,
Việt trì, Việt tỉnh, rồi phải sửa soạn liền một cuộc “trị thuỷ”
ngay tại quê nhà càng sớm càng tốt.
Lúc ấy và chỉ lúc ấy thôi ta mới
có quyền đọc lại lời mời:
“Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù
đục ao nhà vẫn hơn”.
Hơn vì đã
quen thuộc với ta. Hơn vì bất
cứ ao ngoại lai nào dù có vẻ kiên cố đồ sộ
và quyến rũ đến đâu, nhưng về khả năng bao trùm
và thẩm thấu mọi thể chế của ta thì không
làm sao bằng được ao nhà. Từ gia đình, quốc gia,
qua làng, qua xóm, qua đình cùng là
tết nhất hội hè… tất cả đều được ăn thông với ao để được
tẩm nhuận bằng một cái gì thâm sâu mà
bàng bạc. Chỉ cần canh tân, đổ khuôn lại với lối
nhìn, nghĩ, cảm mới thì sẽ thấy ao nhà, giếng
nhà tràn lên những đợt nước cam tuyền đầy khả năng
gây an vui hạnh phúc cho toàn thể dân con đất
nước một cách bảo đảm dài lâu. There is no water
like home water!
PHỤ
TRƯƠNG 1
HÙNG VƯƠNG HAY LẠC VƯƠNG
MỘT VẤN ĐỀ GIẢ TẠO
Vấn đề được học giả người
Pháp Henri Maspéro
đặt ra năm 1916 khi ông căn cứ trên ba cổ thư thì
hai viết Lạc còn một viết Hùng. Cụ Lê Dư đã
phản pháp cho là Hùng mới phải. Lý lẽ của
cụ Lê Dư đúng, nhưng trình bày thiếu sắc
bén và nhất là không chỉ ra chỗ nông
cạn của Maspéro nên số người theo phe Lạc Vương xem ra
có phần đông hơn (xem chi tiết trong Văn Hóa
Thân Hữu bộ 1 số tháng 4.1981). Ở đây xin được
xoáy vào lý lẽ của những người chủ trương Lạc
Vương để thấy chỗ nông cạn và sái quấy của họ.
Tôi xin nói ngay là thuyết của Maspéro
đã nảy sinh ở cái chỗ ông không hiểu hay
không muốn hiểu đoạn sử của Ngô Sĩ Liên như sau:
“Lạc Long Quân phong
người con cả là Hùng
Vương nối ngôi vua. Hùng Vương con Lạc Long Quân
không rõ tên húy, đóng đô ở
Phong Châu”. Đọan văn đó có thể viết rõ hơn
rằng: “Lạc Long Quân phong cho con cả làm vua lấy hiệu
là Hùng Vương”. Cứ như bản dịch trên thì
cũng không thể lầm được: Lạc Long Quân mà người
Tàu gọi là Lạc Vương truyền ngôi cho con (người
Tàu cũng gọi là Lạc Vương) lấy hiệu là Hùng
Vương. Chẳng thấy vấn đề chi cả, có chăng thì chỉ
là vấn đề tại sao vua cha không có hiệu mà
vua con lại có. Nhưng Maspéro đã không đặt
vấn đề ấy mà lại đặt vấn đề phải với trái. Hùng
Vương hay Lạc Vương đàng nào phải? Ong viết:
Những vua đầu tiên
của nước Việt Nam hiệu là
Hùng Vương. Sách Việt Sử Lược nói rằng: “Tục
truyền có 18 đời vua đầu gọi là Hùng Vương”,
và trước đó một thế kỷ, quyển Việt Điện U Linh Tập
có kể một truyện hoang đường nói đến những vua
Hùng Vương. Trước nữa có sách Thái
Bình Hòan Vũ Ký cũng có nói đến
và hai lần chép lại một đoạn ở sách Nam Việt
Chí của Thẩm Hòai Viễn soạn: “đất Giao Chỉ rất phì
nhiêu. Vua nước đó hiệu là Hùng Vương”.
Người Việt truyền tụng như vậy từ thế kỷ thứ 5 sau tây lịch tới
ngày nay, và điều này có lẽ đúng.
Sách Thủy Kinh Chú chép ở sách Giao
Châu Ngọai Vực Ký đáng lẽ chép là
Hùng thì lại thấy viết là Lạc. Hai chữ này
rất giống nhau nên dễ lầm lắm, lỗi ở tại người chép
sách. Nhưng chữ nào đúng? May mà quyển
Quảng Châu Ký, quyển sách cổ thứ ba giúp ta
giải quyết vấn đề đó. Sách ấy có chép chữ
Lạc viết không thể nhầm lộn được. Vậy Hùng Vương mà
người Việt Nam truyền tụng là sai, phải bỏ đi. Không bao
giờ có Hùng Vương mà chỉ có Lạc Vương
thôi. Lại ở trường hợp này, không những các
tác giả Việt Nam nhầm mà cả các sử gia Trung Hoa
cũng nhầm nữa. Và lại các sử gia Việt Nam cũng biết
là sai nhưng không dám chữa. Một người bình
chú quyển Tòan Thư có viết rằng: “Lạc tướng về sau
nhầm ra là Hùng tướng”, nhưng người bình
chú đó không nhận thấy các vương hiệu cũng
sai. Thực vậy sách Lĩnh Nam Trích Quái (mà
đọan trên kia của sách Toàn Thư chỉ là đoạn
tóm tắt) chép là Lạc hầu là Lạc tướng,
nhưng vẫn chép Hùng Vương, chứ không chép
là Lạc Vương. Tóm lại ta kết luận rằng theo các sử
gia Việt Nam chép lại tên nước Văn Lang (có lẽ
là Bắc Bộ ngày xưa) biên giới và những vương
hiệu các vua trị vì này đều chép nhầm lẫn
cả, và ta nhận thấy rằng lỗi ở các sử gia Trung Hoa từ
đời nhà Đường, rồi sau này người Việt Nam lại nhầm khi
sao chép các nguyên thư ấy. Tiếc rằng không
có thể biết một cách rõ ràng những
nguyên thư Trung Hoa nào mà các sử gia Việt
Nam dùng để biên chép.
Đó là đại
ý Maspéro. Theo
ông trong bốn quyển nói đến Hùng Vương thì
ba quyển mới quá không đáng kể:
Một là Việt Sử Lược,
thế kỷ 14
Hai là Việt Điện U
Linh Tập, thế kỷ 14
Ba là Thái
Bình Hoàn Vũ
Ký, thế kỷ 10.
Vậy chỉ còn Nam Việt
Chí là cổ (thế kỷ
5) viết Hùng Vương, còn hai quyển kia: Giao Châu
Ngoại Vực Ký và Quảng Châu Ký đều nói
Lạc Vương. Ong đã phân xử theo đa số: 2 thắng 1.
Thế nhưng nếu mở rộng tầm
mắt xa hơn sách vở
thì thắc mắc của Maspéro được trả lời liền là Giao
Châu Ngoại Vực Ký và Quảng Châu Ký
đứng ở quan điểm người Tàu chép về Giao Châu đang
đặt dưới quyền thống trị của mình, đứng ở xa mà
nhìn nên nói sơ sài. Còn tác
giả Nam Việt Chí thì chuyên về Việt và
là người đến tận nơi thuật lại những điều mắt thấy tai nghe
nên đi vào chi tiết nhiều hơn: nhắc cả danh hiệu Vua nữa.
Hai đàng không có gì nghịch nhau hết. Một
đàng nói chung nên viết Lạc Vương, cũng như ta
nói Hán Vương, Sở Vương vậy; còn một đàng
nói chi tiết thì nhắc đến hiệu vua là Hùng
Vương. Thế thôi, có chi đâu mà phải đặt vấn
đề. Thế mà ông dám dựng nên một thuyết
(không thèm giả thuyết) lại còn kèm theo
những phán đoán quyết liệt “ex cathedra” để lên
án cả bao thế hệ sử gia Tàu cũng như Việt. Ta hãy
thử phân tích lý lẽ của Maspéro.
1. Hai chữ Lạc, Hùng
rất giống nhau nên dễ lẫn
lộn, lỗi ở tại người chép sách.
Thưa:
a. Phải nói
là mặt chữ chỉ hơi giống nhau
chút xíu chứ không được nói rất giống nhau
vì đây là khoa học, không nên
dùng tĩnh từ bừa bãi. Chữ Các trong chữ Lạc
có 6 nét, chữ Quảng trong chữ Hùng 4 nét,
cấu trúc lại khác hẳn, giống nhau ở đâu?
b. Đã vậy còn
hai chữ Lạc khác là
Lạc bộ Mã và Lạc bộ Trãi cũng được thông
dụng như Lạc bộ Các thì dễ gì lầm được. Xưa nay
có lầm là những chữ thông thường như Tác đọc
ra Tô, Ngô đọc ra Quá v.v… Còn đây
là danh hiệu một Vua bao người nói đến, sao dám
gán sự sai lầm bừa bãi vậy?
c. Nhất là khi
đã đi qua mặt của bao học giả
uyên thâm tại chỗ: Lê Văn Hưu, Hồ Tôn Thốc,
Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Ngô Thời Sĩ… đều là học
giả trứ danh, đỗ đại khoa, ra làm quan ở Sử quán
lâu năm đã tham khảo biết bao chính sử, dã
sử, truyện ký; lại còn hằng trăm điện, đền đều nói
Hùng Vương, không một đền nào nói Lạc Vương
cả. Thế mà ông dám quả quyết là lầm
và đổ lỗi ở người chép sách. Nếu là người
thận trọng thì mới chỉ đặt giả thuyết là “có thể
lầm”… Tuy cái có thể đó rất yếu ớt vì chỉ
là giả thuyết tiêu cực. Thế mà ông đã
vội kết luận là có lầm thật, không còn phải
giải thuyết nữa, rồi đổ cho “lỗi ở tại người chép sách”.
Cái lối viết ẩu tả này từ một sự phỏng đoán bước
liền sang quyết đoán rồi mở rộng sang cả sử gia Trung Hoa cho
oai, thật chỉ có cái bầu khí thực dân cao độ
coi người “bị bảo hộ như cỏ rác” mới dám lên mặt
thầy đời viết lách liều lĩnh như vậy. Cũng có lúc
lương tri ông còn nhắc nhở là nói vậy
không ổn nên ông tỏ ra dè dặt: “Nhưng chữ
nào đúng, may mà quyển Quảng Châu Ký,
quyển sách cổ thứ ba, giúp ta giải quyết vấn đề
đó, sách ấy có chép chữ Lạc viết
không nhầm lẫn đượoc”. Ô hay! Theo ông thì chữ
Lạc với chữ Hùng rất giống nhau dễ nhầm lắm mà sao đến
đây ông lại bảo không thể nhầm lộn được? Rõ
ràng ông thiên tư chữ Lạc để đề cao sự khám
phá của ông do cái mặc cảm tự tôn mà
ông đã tỏ bày vuan vãi cuối quyển “La Chine
Antique”, đến đây ông lại biểu lộ nữa: chỉ vì
có thêm một quyển Quảng Châu Ký viết Lạc
mà ông lên giọng:
“Vậy Hùng Vương
mà người Việt Nam truyền tụng
là sai, phải bỏ đi. Không bao giờ có Hùng
Vương mà chỉ có Lạc Vương thôi”.
Sướng chưa? Rõ
ràng là giọng của
óc duy sử chỉ biết có sách mà không
biết có gì ngòai sách (truyền thuyết,
dân gian, đền điện…), rồi ông mạnh miệng lên
án luôn sử gia Tàu: “lại ở trường hợp này,
không những tác giả Việt sai nhầm mà cả các
sử gia Trung Hoa cũng nhầm nữa”. Rõ ràng miệng nhà
sang có gang có thép, ông mới dựa thế
sách Tàu để luận phi sách Việt, đến đêy được
đã, ông lên án luôn cả sách
Tàu nữa cho nó oai trọn vẹn, nhưng thực ra là lố
bịch trọn vẹn không xứng cỡ học giả đứng đắn. Nếu đứng đắn mực
thước thì không đời nào dám viết những
câu thừa thãi và quá đáng như vậy.
Thừa vì nói một chữ sai cũng đã quá
đáng rồi, cần chi phải thêm: “phải bỏ đi, không bao
giờ có Hùng Vương mà chỉ có Lạc Vương…”.
Mới hơn có một quyển (Giao Châu Ngọai Vực Ký)
mà đã vội đoan quyết đến thế, nhỡ hai quyển chép
lại nhau thì sao? Nhỡ còn những quyển khác chưa
tìm ra? Chính Maspéro phải thú: “tiếc rằng
không có thể biết một cách rõ ràng
những nguyên thư Trung Hoa nào mà các sử gia
Việt Nam đã dùng để biên chép”. Nếu
tài liệu chưa bao quát được như vậy, thì lẽ ra chỉ
nên kết luận nhẹ nhàng, tránh những câu quả
quyết cực đoan như:
Hùng Vương là
sai
Phải bỏ đi
Không bao giờ
có Hùng Vương mà chỉ
có Lạc Vương
Câu 2 quá
đáng, câu 3 thừa. Những
chữ quá đáng và thừa đó biểu lộ tâm
trạng bất an phải lớn tiếng để át đi chỗ nghi ngờ của
mình, chứ học giả đứng đắn không có lỗi “cãi
bằng được” như vậy.
Ông viết tiếp: “những
sử gia Việt Nam cũng biết
là sai nhưng không dám chữa. Một người bình
chú quyển Toàn Thư có viết rằng Lạc tướng về sau
lầm ra là Hùng tướng, nhưng người bình chú
đó không nhận thấy các Vương hiệu sai”. Ô
hay! Có sai đâu mà nhận ra được. Sách
nói về Lạc hầu, Lạc tướng chứ có ăn nhằm chi tới vua
đâu, có lẽ có người nào đó gọi Lạc
tướng là Hùng tướng (tướng của vua Hùng) để
tâng bốc, đó là nghĩa chính của chữ ngoa,
còn nghĩa lầm chỉ là phụ. Vậy nếu có lầm
thì cũng chỉ lầm ở đợt quan tước mà thôi: dưới vua
một bậc, không liên can gì tới Vương hiệu,
không việc gì phải sửa đổi trên cấp tối cao nọ cả.
Đó là đại để
ý kiến của Maspéro.
Ông đã đặt ra vấn đề ở chỗ không có vấn đề,
cùng lắm chỉ có cho người mới bước vào
nghiên cứu chưa kịp thẩm định các tài liệu minh
dùng, chứ chưa đáng là một giả thuyết. Thế
mà ông dám đẩy lên bậc một thuyết để
lên án là lầm là dối tất cả bao đời sử gia.
Thật là xấc xược. Thế mà rồi cũng được một số người Việt
nghe theo và thêm mắm muối vào cái lý
lẽ của ông thầy cãi cối. Một số lý lẽ đó
đã được tóm lại trong tin Địa Sử của nhóm Sử Địa
Đại học Sư Phạm Sài gòn 1965, tr.72-75 như sau:
- Sử ta căn cứ theo sử
Tàu đã có từ
lâu, vậy những gì chép về nước ta, trong sử
Tàu đúng hơn.
Đây là một
ngụy biện rất lớn để khỏi nói
là cẩu thả mà những người theo Maspéro đã
vô tình chấp nhận. Ngụy biện ở tại “tự bé xé
ra to”, từ sự tham khảo sử Tàu mà kết luận sử ta
hoàn toàn là chép theo sử Tàu. Thế
thì những sự tích chép trong Thiên Nam
Vân Ngoại Lục, Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Trích
Quái, Đại Việt Sử Ký Tòan Thư với quan điểm người
Việt… bỏ đi đâu? Ngô Sĩ Liên đã có
tiếng khéo xử dụng những tài liệu trong dân gian.
Và một sử gia nào đứng đắn cũng phải chú ý
đến lưu truyền của chính nơi việc xảy ra, coi trọng hơn điều
người đứng xa đã viết lâu từ trước. Câu sau mới kinh
khủng: “vậy những gì chép về nước ta, trong sử Tàu
đúng hơn”. Tại sao đúng hơn? Thật là một câu
nói biểu lộ cái óc nô lệ, cái
óc thờ ông thầy Tàu rồi chuyển sang thờ thầy
Tây đã làm lú lẫn các người viết
những câu dở hơi đó. Bởi vì về sự kiện thì
người ở tận nơi quan sát tại chỗ đáng tin hơn người ở xa
“nghe hơi nói chõ”. Thế mà óc tự ti mặc cảm
đã khiến được kẻ viết tin ngược lại mới tài. Nếu vậy
Tàu viết: “Cổ Loa ở Nghệ An xứ, xây đời Hán”,
thì các ông có dám nhận là
đúng hơn sử ta chăng? Tàu gọi hai Bà Trưng
là phường phản loạn thì cũng cắm đầu mà theo
cái “thật” đó à?
- Hai chữ Lạc Vương xuất
hiện trong sử Tàu trước hai
chữ Hùng Vương cả trăm năm.
Câu này đưa
vào đây thật là
ngớ ngẩn, chẳng ăn nhằm chi cả. Tàu viết Lạc trước vì họ
bàn chuyện nước ngoài thỉ chỉ nói: “Vua nước Lạc”
là đủ, không cần biết đến danh hiệu vua nước ta. Thế
mà không thấy lại đi học một câu của Maspéro
rằng trước thế kỷ thứ 5 trong sử sách Tàu chỉ có
danh xưng Lạc Vương, từ thế kỷ thứ 5 mới thấy xuất hiện danh xưng
Hùng Vương trong sách Nam Việt Chí của Thẩm
Hoài Viễn và người Việt cũng đã truyền tụng danh
xưng Hùng Vương từ thế ký 5 cho tới ngày nay.
Đây là
câu mâu thuẫn của óc
duy sử quá trớn gọi là duy thư: hễ cái gì
có trong sách mới kể là có, còn bao
nhiêu lưu truyền, đền điện tại chỗ kể như không. Từ chỗ chỉ
có quyển Nam Việt Chí nói đến Hùng Vương
mà dám kết luận rằng người Việt đã truyền tụng
danh xưng Hùng Vương tự đấy. Đố một sử gia nào đứng đắn
dám nói dựng đứng lên như vậy trong lãnh vực
mình không biết. Cùng lắm chỉ được viết như thế
này: “danh xưng Hùng Vương được ghi chép lần đầu
từ thế kỷ thứ 5”. Viết vậy cũng còn là quá
vì đã chắc gì quyển Nam Việt Chí là
quyển sớm nhất ghi danh Hùng Vương, nhỡ có nhiều
sách khác trước chưa tìm ra hoặc đã thất
lạc thì sao? Còn danh xưng Hùng Vương thì
lưu truyền nói đã có từ lâu hơn hai
ngàn năm trước. Tuy là lưu truyền nhưng không thể
bác bỏ lấy cớ là không có sử sách
nào nói đến. Đó chỉ là lẽ tiêu cực
không đủ hiệu lực để bảo một lưu truyền là không
có, vì nếu như thế thì bao truyện đời khuyết sử
đều đổ cả xuống sông xuống biển hết hay sao? Huống chi đây
có hơn bốn trăm đại diện, nhiều cái đã xuất hiện
trước đời bà Trưng để thờ hùng Vương hoặc các
tướng tá. Không thấy nơi nào nói Lạc Vương
mà chỉ nói đến Hùng Vương. Người làm sử
mà đúng óc khoa học phải tìm về đó,
chứ không ôm mớ cổ thư viết mãi về sau tự thế kỷ thứ
5!
- Chữ Lạc với chữ
Hùng rất giống nhau, một chữ bị phai
mờ hay dán nhầm, người chép lại vì dốt hay sơ
ý đã nhầm chữ Lạc ra chữ Hùng.
Đã trả lời
trên kia, chép y nguyên
Maspéro chỉ thêm được có lý lẽ con
gián. Thưa không có nhầm vì dốt, mà
chỉ có dốt những ai không thấy câu đó
là ẩu, lại còn dám gán cho bao bậc
tài giỏi sự lầm thực. Đấy mới là dốt, không những
dốt mà còn hỗn láo và ngu xuẩn khi muốn gọi
Vua tổ mình là Lạc Vương y như nói về một vua nước
xa lạ với mình. Phải là những kẻ vong quốc mới nói
về Vua tổ nước mình như kiểu người nước ngoài vậy.
- Chữ Lạc là chữ
tượng hình, chữ Hùng
là chữ hội ý. Chữ tượng hình có trước chữ
hội ý; chữ hội ý có sau. Chữ có trước phải
là chữ đúng.
Đây là
câu nói phơi cái dốt
và ngớ ngẩn ra. Dốt vì dám nói Lạc
là chữ tượng hình mà không thấy là
nó là chữ hội ý (Trãi hoặc mã hoặc
chuy với các cũng giống như chữ Hùng đều cùng một
cấu trúc như nhau, chứ có tượng hình gì
đâu). Ngớ ngẩn bởi vì trước với sau có ăn nhằm
gì tới đúng với không đúng, chán vạn
cái có sau mới đúng. Những trang sử nói về
nguồn gốc nước Tàu kể cả của Tư Mã Thiên có
lâu trước vậy mà đến nay đều bị các nhà khảo
cổ và cổ sự chứng minh là sai không chối cải
vào đâu được kia kìa!
- Vua cha là Lạc
Long Quân thì các
dòng vua con cháu nối tiếp phải là Lạc Vương mới
hợp theo đạo cha (vương đạo),
Ô hay, vương hiệu
thì có ăn nhằm chi tới
dòng vua: Gia Long nhà Nguyễn, vua con Minh Mạng, Bảo Đại
kia kìa. Ay là chưa kể Hùng Vương khai
nguyên một kỷ nguyên mới, khởi đi vào phụ quyền
khác với Hồng Bàng kỷ chưa phân rõ.
Vì Lạc Long Quân lấy họ Rồng về ở nhà mẹ, tức
còn dấu mẫu hệ. Sách Lĩnh Nam Trích Quái
nói: “Au Cơ hành tại” có thể là thời chuyển
tiếp từ mẫu hệ sang phụ hệ chưa phân rõ lắ.
- Nói lại câu:
“Lạc tướng hậu ngoa vi
Hùng tướng”
Sai tầy liếp mà thầy
nói sao, trò đều
lặp lại như vậy. Cả lũ đọc một câu sách không
thông.
- Những tên
Hùng Vương hay Hùng Hiền
Vương, Hùng Đại Vương là những tên mà những
người viết truyện hoang đường bịa ra.
Câu này
có thể làm nhiều người
rét vì mấy tên vua kia có thể gặp trong một
hai sách hoang đường, nhưng kỳ thực là một câu biểu
lộ óc duy sử mà bản chất là duy lý,
nó đã rùm beng trong thời duy khoa học
(scientisme) nhưng đến nay thì đã tỏ ra lỗi thời trước sự
xuất hiện của khoa tân nhân văn như khảo cổ, uyên
tâm, cơ cấu luận với những phân biện hiện nghĩa và
ẩn nghĩa, rồi với huyền sử đi tìm ý nghĩa sâu xa
của những truyện huyền thoại, trong đó việc kể lại không
còn đóng vai thông báo một sự kiện, một biến
cố nhất định nào mà đã siêu lên đợt
biểu tượng siêu hình để nói lên sử mệnh,
nói lên cái lý tưởng của nước, nói
lên những nguyên lý căn bản để hướng dẫn đời sống
con dân. Vì thế nó phải biến thể và do vậy
bị người duy lý, duy sử cho là hoang đường, thì
quả là “hạt ngọc bị giày xéo”. Những huyền thọai
đó bị coi là sử ký thuộc bình diện hiện
tượng nên bị khinh rẻ. Khinh rẻ vì đọc huyền sử theo cung
cách lịch sử tức bám vào bì phu.
Trái lại huyền sử vì lặn xuống tầng ẩn nghĩa
(génotexte) để tìm lại cái mẫu mực ban sơ của
tiên tổ đã đặt cho quê nước thì lại coi những
huyền thọai là di sản thiêng liêng, đáng
trọng như những lời thì thầm của muôn thế hệ tiền
nhân nhắn nhủ con cháu, nó nói lên
cái hồn văn hóa dân tộc một cách sâu
thăm thẳm. Vì thế đáng quý trọng hơn cả lịch sử.
Với lịch sử, mọi sự kiện là một biến cố cá thể đã
xảy ra ở một thời điểm và không điểm nhất định nên
nó rất hạn hẹp. Chí như những huyền thọai của nước
nhà không có ý thông báo
(information) những sự kiện lẻ loi, mà là huấn linh
(former) tức là truyền lại cái hồn thiêng
sông núi, cái kho tàng u linh làm cho
một nước đáng tên là “Văn hiến chi bang”.
Chính trong ý hướng đó mà chúng
tôi muốn gọi 15 truyện đầu trong quyển “Lĩnh Nam trích
quái” là Kinh Hùng. Chúng tôi hy vọng
rằng một khi đã thấy ý nghĩa sâu xa của những
truyện đó thì người Việt sẽ có một mối hãnh
diện thật chính đáng về văn hóa ơn ích nọ.
Cần thêm rằng những tên Hùng Vương mà
nhóm duy sử cho là bịa đặt là hoang đường
là vì cái học của họ nông cạn không
tìm đến tận nguồn, họ chỉ biết đến mấy tiểu thuyết đời Đường
mà chưa biết rằng những tiểu thuyết đó là lấy hứng
tự truyện tiên rồng có đã hằng nhiều ngàn
năm trước và đã được tạc nên hình ảnh
chói chang trong tang trống đồng tự bảy tám trăm năm
trước công nguyên!
Đó là
ít lời vạch trần sự ngụy biện của
những người theo “thuyết” Maspéro. Thật cũng là bất đắc
dĩ mà phải mất công bác bỏ, vì quả đó
là những lý chứng rất tầm thường, đúng ra chỉ
là ngụy biện, lẽ ra không đáng mất thì giờ
phân tích, nhưng có một điều trầm trọng kéo
theo: ấy là “thuyết” Lạc vương đã xảy ra xuýt
xoát cùng thời kỳ mà người Việt bị cướp hồn, rồi
cướp nước, thì những gì có liên quan đến tai
họa nọ đều đáng nghi ngờ.
Maspéro thuộc
trào lưu cố dìm văn
hóa dân bị trị do bọn Malinowski, Taylor, Levy Bruhl chủ
trương cho dễ đồng hóa dân bản thổ. Đã vậy
ông ta là loại người mà tâm lý xếp
vào hạng tough minded (cùng nghĩa với đặc ngữ esprit de
géometrie của Pascal) chỉ thấy những gì hiện hình
ra đập vào mắt, thiếu óc tế vi thì rất dễ chạy
theo khuynh hướng của thực dân xưa muốn chiếm nước ta cả về vật
chất lẫn tinh thần, nên có ý hạ giá văn
hóa ta bất cứ chỗ nào có thể. Maspéro
đã vô tình hay hữu ý đi theo ý đồ
đó khi chối bỏ danh hiệu Hùng Vương, bởi vì thời
đại Hùng Vương là thời đại đã đặt nền cho thuyết
Nhân chủ là thuyết cao nhất, ơn ích nhất cho con
người mà mãi tới nay những nước tiên tiến
còn chưa đạt được, nên chối đi được là đã
thành công biến người Việt thành lũ vong bản
và cũng là vong quốc khi gọi Vua tổ mình là
Lạc vương như người Tàu, nghĩa là coi mình như xa
lạ với gốc Việt. Nếu làm được thế thì Maspéro
đã thành công phá hủy được cái giường
cột của nền Văn hóa Việt tộc rồi.
Điều này mới nghe
có vẽ vu khoát
nên chúng tôi đã phải trình bày
dài dòng trong nhiều sách bàn về Việt Nho
và đã trở lại cách thấu đáo trong 2 quyển
Kinh Hùng Khải Triết và Sứ Điệp Trống Đồng gồm những vấn
đề mà chúng tôi nghĩa là mỗi người Việt Nam
có lòng yêu nước, nuôi chí phục quốc
thực sự thì phải phục Việt trước hết, tức nhận thức lại
cái hồn thiêng sông núi vì nó
đã là sức mạnh xây dựng nước và giữ nước của
cha ông chúng ta. Nên trước khi nghĩa đến phục quốc
chúng ta phải nghĩ đến phục Việt, do đó phải lưu ý
đến những kẻ tàn phá nước ta, phá văn hóa
ta, những kẻ ấy đã đi rất đúng với câu “Đạo mất
trước, Nước mất sau”. Chúng đã khởi đầu bằng phá
“Đạo” tức phá nền tảng tinh thần của nước như thực dân
và cộng sản đã làm rất tài tình (xin
xem lại Hồn Nước với Triết lý Gia tiên ba chương đầu).
Điều trầm trọng muốn nói ở đây không phải thực
dân và cộng sản nó diệt mình, nhưng
là có nhiều người mình cũng theo đuôi
nó, trong đó có kẻ hoặc mất gốc, hoặc có
thể thuộc lũ nằm vùng không chừng, nhưng nhiều người thực
sự yêu quê hương cũng đâm đầu theo. Thế mà
những lý lẽ nọ có sáng giá gì
đâu, toàn là ngụy biện và nói cối,
vậy mà cũng đón nhận thì thực ra cảnh mất nước nhu
nay đã biết bao người vô tình nhúng tay
vô, cũng như trong phạm vi chính trị biết bao người nghĩ
là giúp nước khi theo tiếng gọi chống thực dân,
chống Mỹ, giúp giải phóng miền Nam… đến nay thì
đã thấy là mình nối giáo cho giặc, hối hận
không còn kịp nữa. Cũng thế, trên đợt tế vi hơn,
thiếu gì người muốn “nghiên cứu sử theo đúng khoa
học”, đã lạng quạng đi trái khoa học mà còn
vô tình tiếp tay cho tụi nằm vùng, tụi phá
nước mà không hay.
Đây là động cơ
khiến chúng tôi phải
lên tiếng. Công cuộc phục quốc là một việc linh
thiêng mà chúng ta cần phải đem hết tâm hồn
vào đấy, không những trong chính trị mà cả
trong văn hóa; không những trong việc ngoạn mục mà
cả trong những việc tế vi ẩn tàng. Chúng ta phải theo
Thánh Tản Viên nhổ vào mặt những tôi tớ Cao
Biền Maspéro khi chúng muốn yểm khí thiêng
sông núi./.
PHỤ
TRƯƠNG II
LẤP ĐƯỜNG VỀ CỘI
Các học giả thường
chứng minh rằng người Tàu
đã biến chế biết bao huyền thoại cổ xưa thành sử Trung
Quốc. Tuy nhiên đó cũng là chuyện thường chưa hẳn
do ý đồ chiếm đoạt, là vì hầu hết những huyền
thoại xưa không còn ai nhớ gốc tích ra sao.
Chính người Việt cũng quên dĩ vãng, chỉ bắt đầu sử
tự quãng Triệu Đà, và thu mình vào
Bắc Việt, nên không còn ngờ chi tới nguốn gốc xa xưa
hơn. Thành thử có những dữ kiện hoặc tư liệu quý
giá giúp cho tìm ra nguồn gốc hoặc giúp
hiểu được bản chất trung thực của nền văn hóa mình
mà không bao giờ ngó ngàng tới, lại
còn làm cho sai lạc thêm. Trong bài
này chúng tôi đưa ra vài ba thiếu sót
vô tình đó để làm thí dụ.
Trước hết tôi xin
nói đến hai chữ nạp
ngôn. Với triết đó là hai chữ tối quan trọng
nó làm tôi khi mới đọc như bị rung rinh trong người
cả hàng tuần lễ và viết ra quyển Việt Lý Tố
Nguyên để khai mạc một kỷ nguyên học thuật mới về Việt Nam
gọi là Việt Nho tức đặt Việt trước Nho hay trước Tàu,
cũng như giúp nhìn ra rõ hơn khuôn mặt của
nền văn hóa này. Đó là nền văn hóa
hầu như duy nhất đặt nền trên tiếng nói dân gian
(như chúng tôi đã bàn dài nhiều nơi
nhất là trong quyển Việt Lý). Điều đó đem lại cho
văn hóa nước nhà một nét đặc trưng vừa quý
hóa vừa hiện đại vì tính cách dân chủ
từ nền tảng. Vậy nạp ngôn là gì? Khổng An Quốc
cháu đích tôn Đức Khổng giải nghĩa bằng câu
sau:
“Thỉnh hạ ngôn nạp vu
thượng.
Thụ thượng ngôn
tuyên vu hạ”.
(Nghe lời người dưới
(dân gian) để nạp lên thượng
cấp. Nhận lời thượng cấp để tuyên bố ra cho hạ dân.)
Tất cả giá trị
và nét đặc trưng của Việt
Nho nằm trong vế “thính hạ ngôn nạp vu thượng”. Chứ
còn vế sau “thụ thượng ngôn tuyên vu hạ” thì
đâu chẳng có, và chỉ có thế chứ mấy khi
nhà chuyên chế chịu nghe dân. Đó là
chuyện phải dày công tranh đấu cho đến thể kỷ 20
này mới đạt được một phần. Vậy mà Việt Nho đã
có ngay từ thời khuyết sử. Kinh Thư nói là từ đời
vua Thuấn đã có bộ Nạp Ngôn, tức là
tính chất dân chủ dân bản đã xuất hiện từ
lúc loài người các nơi còn đang chìm
trong chế độ độc tài chuyên chế. Như vậy không
đáng quý sao. Thế nhưng các nhà
nghiên cứu của ta có thấy đâu. Cụ Thẩm Quỳnh khi
dịch Kinh Thư đã bỏ vế trên “thính hạ ngôn
nạp vu thượng” mà chỉ nói vế sau “thụ thượng ngôn
tuyên vu hạ”. Vế sau này đưa vào giải nghĩa hai chữ
nạp ngôn đã là không sát ý, vậy
mà lại được chú ý, còn vế chính
thì bỏ qua, cho nên quả đó là một bỏ
sót rất quan trọng: vô tình đi về phía
chuyên chế.
Đọc vụ này tôi
nhớ đến bản dịch sách Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh của Soothil bỏ mất chữ không
(trang 183). Ai đã nghiên cứu sâu rộng về triết
lý Đông phương đều biết chữ không nặng giá
dường nào. Trong quyển Diệu Pháp chưa đi đến ý
niệm không nhưng đã có một chữ mở đường, thế
mà lại bị dịch giả bỏ mất. Nhắc như vậy để thấy những sự dịch
sai bỏ sót rất quan trọng đối với triết Việt, nó
làm người ta không nhìn thấy cái hay của
mình rồi đi rước cái bậy cái dở của người.
Một thí dụ
khác trong quyển “Việt Nam văn học
sử yếu” (tr.206) Dương Quảng Hàm víết đại lược rằng “văn
chương Việt xưa ít có tính cách xã
hội, nghĩa là ít nghiên cứu về các vấn đề
có liên lạc đến cuộc sinh hoạt và sự hạnh
phúc của bình dân, người nghèo khó
trong xã hội”… Đấy là những câu nói lơ mơ
lấp nẻo đường về. Nó không sai hẳn vì nếu đem so
với văn chương Tây Au thế kỷ 19, 20 thì quả nó
không chuyên chú về xã hội bằng văn chương
Tây Au, là vì lúc ấy Tây Au đã
thành lập khoa xã hội học rồi, nên văn chương đầy
tính cách xã hội. Đấy là điều thuộc đời
mới. Còn nếu xét bao trùm thì sẽ thấy cổ
văn ta nói về người nghèo nhiều hơn hết: truyện Chử Đồng
Tử, truyện công tử Lang Liêu, Việt Tỉnh đều là những
nhân vật nghèo. Đàng khác nếu không
nói đến nghèo nhiều như ngày nay thì
lý do sâu xa phải tìm trong câu nói
của Bernard Shaw rằng tại sao lúc thường không ai
nói đến răng? Thưa vì răng không đau. Người ta chỉ
nói đến răng khi răng đau. Ta không nói về
xã hội vì vấn đề ấy êm rồi, vì giàu
nghèo nằm trong việc phân chia lợi tức quốc gia đã
được giải quyết từ thời Hùng Vương bằng chế độ bình sản,
nên kể là ổn (ấy là nói trên cản bản
định chế chứ không trên hiện thực). Vấn đề còn lại
chỉ là sản xuất, mở mang chứ không là quân
phân. Đấy là lý do tại sao tiền nhân ta
không nói.
Không nói
vì đã nói rồi
và đã được việc. Đọc truyện cổ của ta mới thấy văn
hóa ta săn sóc cho dân nghèo, cho
bình dân nếu không hơn hết các nơi thì
cũng vào hạng nhất và đã thành công
thiếtlập hoặc duy trì được chế độ công điền công thổ
từ ngày lập quốc tới nay.
Như vậy nước ta có
nghèo, nghèo lắm
nhưng là nghèo cả hàng tổng, chứ không
nghèo có giới vô sản như bên Pháp
thí dụ, nơi mà ruộng đất thời Trung Cổ nằm gọn trong tay
lãnh chúa, rồi đến đời mới thì tiền bạc nằm trong
“hai trăm gia đình” tức trong thiểu số quá bé,
phần lớn đều vô sản. Vì thế mà có đầy đủ tư
liệu cho các văn sĩ viết về người nghèo, về xã
hội… Đấy! Nói với không nói khác nhau chỗ
đó. Thế hệ 1920-1940 không nhận ra điều nọ mới đi đả
phá các làng xã, gia đình, dọn đường
cho Việt cộng đưa xã hội chủ nghĩa về hầu giải quyết vấn đề
công bằng xã hội, thì tự đấy không những
người trong nước nói nhiều về người nghèo, người
bình dân mà còn bị bắt buộc nói
và học về sự công bằng tự do, thì đã biến
toàn thể dân ra hàng nghèo nàn,
nói về người nghèo khỏi lo thiếu chất liệu.
Một thí dụ
khác: sách Đông Chu
Liệt Quốc hay nói đến nước gọi là Man Kinh, nhưng bản
dịch của Mộng Bình Sơn chỉ dịch là Sở. Dịch thế
không sai nhưng không theo thứ tự sinh thành, tức
lúc xưa miền ấy gọi là Kinh, rồi Man, đến đời Chiến Quốc
mới gọi là Sở. Cần phải dịch, y nguyên là Kinh Man
vì bỏ hai chữ đó là làm chìm mất mối
liên hệ giữa Sở và Man, Kinh khiến cho người thường
không để ý rằng Sở chính là Kinh tức
là nước của vua Lộc Tục một tổ của ta được phong làm Kinh
Dương Vương. Tức là xa xưa nước ta trải rộng trên đồng
bằng sông Dương Tử đó. Cũng trong bản dịch ấy chữ Mị viết
ra Vu hay thiên cũng là lấp lối về nguồn. Vì trong
nước Sở thì họ Mị là nổi nhất và nó
móc nối với Mỵ Nương của Việt hay Mễ Nàng của Mường. Vậy
mà người dịch đánh Mị ra Vu, hoặc thiên vì
chữ Mị (bộ dương) viết gần giống chữ Vu và chữ thiên (cả
hai bộ thảo). Nếu chỉ là tiểu thuyết thì sai chẳng
có sao, đằng này “Đông Chu Liệt Quốc” là một
lịch sử tiểu thuyết chứa đựng nhiều huyền thoại cổ xưa, nền mỗi sự sai
lầm là một cái ụ lấp đường tìm về tổ. Vì
nhiều truyện cổ mới đọc nghe rất dị đoan, nhưng nó lại lẩn
vào vài ba nét giúp tìm về nguồn
thí dụ truyện sau:
Tục truyền rằng họ Mị
phát sinh từ đời đế Chuyên
Húc. Cháu Chuyên Húc là Trùng
Lê làm quan Hỏa Chánh đời vua Cao Tân,
vì có đức nên được gọi là Chúc Dong.
Sau cháu Trùng Lê sanh con là Lục Chung. Lục
Chung cưới con gái nước Quỷ Phương có thai mười một năm
rồi giở nách bên tả sinh ra ba người con, giở nách
bên hữu sinh ra ba người con. Trong các con ấy, người thứ
sáu tên là Quý Liên họ là Mễ
(Mị). Dòng Quý Liên sau có Dục Hùng
học rộng được làm thầy vua Văn Vương. Từ đó con
cháu lấy chữ Hùng làm họ. Sau được phong chức ở
nước Nam Kinh, đến đời Hùng Cừ xưng vương hiệu. Từ Hùng
Cừ truyền qua Hùng Thông cho tới Hùng Hoàn
và Phụ Sô trải qua trên 50 đời Hùng.
Nói vậy là
con số 18 đời Hùng Vương của
ta chỉ là huyền số không phải lắp lại 50 đời Hùng
Sở. Tuy nhiên có rất nhiều liên hệ giữa Việt
và Sở. Ngòai vụ Lộc Tục được phong làm Knh Dương
Vương thì còn có các họ như họ Hùng,
họ Mị, họ Bàng (cũng đọc là Bành, là
Bàn, là Ban, là Ba, là Bà) đều lấy
bên tả làm trọng (Sở tục dĩ tả vi thượng). Câu
này móc nối vào tục “tả nhậm” của tiền nhân
ta như được tạc trên trống đồng, và ta biết là
nó rất rộng nên Kinh Thư nói “tứ Di tả nhậm”: tất
cả các Di (tức không phải Tàu) đều cài
áo bên tả. Man hay Di hay Việt đều là một. Như vậy
ta biết triết Việt xưa rất rộng. Truyền thuyết cho rằng nỏ được nước Sở
sáng chế. Câu này liên hệ với nỏ của Thần Kim
Quy. Nỏ là sáng chế riêng của Việt, nỏ có
thêm cái dọc, còn cung chỉ có cái
ngang. Thiên hạ đâu cũng có cung còn nỏ
là một sáng chế tiến bộ hơn vì có thể biến
thành liên hòan nỏ (liên thanh thời
thái cổ).
Đoạn phát, một
thí dụ khác là hai
chữ đoạn phát mà dịch là búi tó cũng
là lấp một nửa lối về, nếu dịch là cắt tóc
thì nó mới đi với văn thân là hai dấu của
tiền nhân ta, vả lại dịch là búi tó
thì sai đồng văn lúc ấy của Ngô Sở. Lúc
đó quân nước Tấn đánh với quân Ngô,
quân Tấn chắc mình thế nào cũng sẽ thắng trận
nên có lệnh phải đưa dây thừng đi sẵn để buộc cổ
quân Ngô lôi về, vì quân Ngô cắt
tóc không thể túm đầu được. Nếu búi
tó đã chả phải ra lệnh mang dây thừng.
Trên đây
là vài thí dụ về
sai một chữ. Bây giờ xin đưa ra thí dụ chỉ sai một dấu
là đã lấp đường về, thí dụ hai chữ uỷ xà
mà lại âm là uy đà theo giọng Tàu
thì đánh mất liên hệ với xà long còn
gì. Xin nhớ xà long là tiền thân của long
vật biểu của Việt đó. Việt thờ long, nhưng mạn Bắc là
xà long, mạn Nam là giao long. Về sau thành long
có 4 chân. Long mình dài là xà
long, 4 chân là do giao long. Xin nhắc lại bộ kỳ 5
nét viết tháu còn 4 nét ở chương 3
trên.
Về cái vòng
vũ trong trống đồng Ngọc Lữ chia ra
hai phần bán nguyệt coi như nhau: cũng nhà, cũng 4
cõi, cũng giàn đồng… nên hầu hết học giả cho
là hai mảnh giống nhau như hệt. Thế nhưng nếu xem bằng con mắt
triết lý An Vi thì lại có chỗ không giống
nhau, đó là trên nóc nhà bên
này có một chim, bên kia hai chim, một với hai
giống nhau sao được? Nếu xét về mỹ thuật thì không
sao, nhưng nếu xét về triết thì là lẻ chẵn tức
thuộc cơ cấu. Bảo giống nhau y hệt là đánh mất cơ cấu,
tức cái tế vi quý nhất của văn hóa ta rồi
đó. Sách khác nói mỗi bên 8 chim.
Đâu có! một bên 6 một bên 8 tức nói về
đôi là 3 đôi, 4 đôi tức là tròn
vuông cũng lại thuộc cơ cấu. Nói là 8 con cả tức
là vô tình đi vào duy rồi. Đó
là một sự khác biệt căn bản đối với cơ cấu đến độ
nói khác nhau thuộc lưỡng hợp, nói giống nhau
là vô tình đi theo duy vật hoặc duy tâm, tức
là cả một trời một vực. Bỏ mất cái quý hơn hết
trong văn hóa nước nhà là lưỡng hợp tính
đó, nên sau đây sẽ đưa ra vài thí dụ.
Trước hết là vụ tả nhậm: cài áo bên tả.
Tả nhậm.
Sách Đông Chu Liệt
Quốc hồi 92 trang 55 nói về vua nước Triệu bắt dân
Tàu ăn mặc theo lối rợ Hồ “trách tụ tả nhậm”. Bản dịch bỏ
hẳn 4 chữ sau chỉ nói là vua Triệu bắt dân ăn mặc
theo lối rợ Hồ. Nếu chỉ là tiểu thuyết thì chẳng
có sao, vắn đi được 4 chữ càng hay. Nhưng với người
nghiên cứu thì lại buộc phải hỏi xem rợ Hồ ăn mặc ra sao?
Thưa họ ăn mặc “trách tụ tả nhậm”, “tay áo hẹp,
cái cúc bên tả”. Thế là tìm ra một
liên hệ rất thú vị. Rợ Hồ cũng ăn mặc như Việt tộc, cũng
tả nhậm cũng trách tụ. Họ bắt chước ta hay ta bắt chước họ. Thưa
có thể không ai bắt chước ai cả mà cả hai ăn vận
theo lối Việt cổ xưa lúc chưa có Tàu ngăn giữa
thì “tứ di tả nhậm” hết.
Xin đưa ra thí dụ
nữa về gốc tích lễ Hàn
Thực (ăn đồ lạnh). Hầu như không sách nào
không cho đó là tiết để kỷ niệm Giới Tử Thôi
đã chịu chết cháy trong núi, mà không
ra mặt với Tấn Văn Công. Số là Tấn Văn Công trong
lúc tranh ngôi báu phải tị nạn, trải qua bao gian
truân đói khổ, trong số người theo phò có
Giới Tử Thôi. Thôi tỏ ra quá tận tình với
chúa, có lần thầy trò đói quá,
Thôi cắt thịt đùi nấu cho Văn Công ăn. Lúc
Văn Công lên ngôi quên khuấy không nghĩ
đến công của Thôi. Thôi liền cùng mẹ
giá lên ở ẩn trong núi Miên Sơn, có
người mách Văn Công, Văn Công hối hận thân
hành lên núi tìm: yêu cầu Thôi
ra mãi không được, Tấn Văn Công đành cho nổi
lửa chung quanh núi để ép Thôi ra nhưng Thôi
đã quyết ở lại ôm mẹ giá chết cháy. Người
sau có cảm tình với Thôi nên đến ngày
Thôi chết thì ăn nguội ba ngày để tưởng nhớ…
Đó là truyện gán tầm bậy. Đọc theo lối Việt Nho ta
thấy liền Giới Tử Thôi là ai mà được vinh dự đến
thế: toàn cõi nước Tàu giỗ, và ghi
tronglịch. Thưa Thôi chỉ là một người “giới quyến vô
tị”, nói nôm na là một người thờ chúa cực
trung đến độ gàn không ai bì kịp. Đấy là
điểm một.
Điểm hai là Tấn Văn
Công có phải
là thánh hiền có công lớn với toàn
cõi nước Tàu đâu. Ông chỉ là một trong
“ngũ bá” lúc nước Tàu còn thu gọn ở mạn
bắc. Đức tính không nổi lắm. Chính Khổng Tử chỉ cho
Tấn Văn Công 4 chữ “quyệt nhi bất chính” L.N. XIV.16, quỷ
quyệt mà không chính trực. Chúa không
đáng thờ, tôi lại cù lần, sức mấy mà
đáng toàn quốc kỷ niệm trọng thể. Vậy tại sao có
tiết hàn thực? Thưa tiết hàn thực chính là
tiết thanh minh trong tiết tháng 3 mồng 5 đã có
lâu đời. Huyền thoại nói là đã có từ
đời Chúc Dong với các lễ xuất hỏa, cải hỏa, trước khi ăn
lửa mới thì lãnh thực là ăn nguội ba ngày
gọi là tiết hàn thực. Đó là những lễ của
Viêm Việt lúc còn thờ Toại Nhân, thờ mặt
trời, đề cao quẻ li (chỉ đỏ lửa mặt trời). Lúc mà Lạc
Long Quân dùng que lửa đó để diệt ngư tinh. Tức
có đã nhiều ngàn năm trước chứ đâu
mãi tới Giới Tử Thôi mới có tiết hàn thực.
Có thể một số người cảm thương Giới Tử Thôi, nhân lễ
Hàn thực thì nhớ đến Thôi, rồi một số “sử gia”
gà mờ biên lại sự kiện và tổng quát
hóa. Thôi thì mặc họ, không nên theo
mà lấp mất đườcng về nguồn gốc dân tộc. Vì mấy tiết
đó có liên hệ với lúc thờ mặt trời của ta,
lan cùng khắp nơi, cả những chi Mường Mán Thái
cũng có lễ đó rồi.
Trên đây
là mấy thí dụ về sự bỏ
sót, dịch sai, hoặc đánh chữ nọ ra chữ kia, tuy với tiểu
thuyết không ăn nhằm chi, nhưng với triết lại quan trọng
vì có nhận thức được mới đủ khả năng nhìn ra những
cái tế vi hơn mà sau đây là thí dụ.
Ta biết thề phải có
chứng nhân cho lời thề.
Chứng nhân thường là đối tượng thờ bái tức vật
gì người ta cho là cao trọng hơn hết, thì người ta
để tay trên đó như để tay trên thánh kinh
(thời xa xưa nữa khi loài người còn thờ bộ sinh dục (lễ
phong nhiêu) thì để tay trên chỗ đó,
nên chứng nhân kêu là testis cùng gốc
với dương vật testiculum). Thành thử có những câu
nói không những người dịch phải dịch rất sát
mà cả người đọc cũng phải lưu tâm đặc biệt hơn, vì
những lời thề trở nên ấn tích của những chặng đường
tâm thức con người đã trải qua. Đọc trong Đông Chu
Liệt Quốc ta thấy người Tần hay lấy nước sông làm chứng
giám.
- Hữu như đại xuyên =
có sông lớn chứng
giám. Khi Tấn Văn Công bỏ tần về Tấn thì lấy
Hà Bá làm chứng:
- “Hà Bá vi
minh chứng dã”.
Các đại thần nước Tề
lấy mặt trời làm chứng lời
mình:
- “Hữu như hồng nhật”.
Riêng An Anh thề
thì lấy Thượng Đế làm
chứng:
- “Hữu như Thượng Đế”.
Việt Câu Tiễn thề
còn chú ý đến cả
tâm:
- “Thượng thiên tại
thượng thực giám ngô
tâm”
Đọc 5 lời thề trên ta
thấy như một cái thang từ
dưới đi lên. Vì lý tưởng tối hậu của con người theo
triết lý nhân chủ là hội nhập mọi nguồn sinh lực
vào tâm mình: lúc còn man rợ
thì để nguồn đó ở sự vật như ở sông, ở núi,
ở Hà Bá. Lên một bậc nữa là mặt trời mặt
trăng đó là giai đoạn thờ hồng nhật. Sau đó chuyển
sang thờ trời dưới hình thức Thượng Đế còn ở trên
chưa ở dưới: ở tại thượng, vậy là chưa tại hạ, chưa ở
cùng khắp sao? Nên còn thể lên bậc nữa
là bỏ cả tại thượng, bỏ cả thực giám để trở thành
“thiên lý tại nhân tâm”. Thiên cũng
là tâm nên nói được là “ngô
tâm thiện thị vũ trụ”= tâm tôi là vũ trụ, tức
con người to lớn có cái tâm mênh mông
như vũ trụ. Đó là con người nhân chủ cao trọng
đáng tôn quý nên cái chi xuất
phát tự nó cũng đáng quý và
vì vậy lấy tâm mình mà thề là đợt cao
cuối cùng. Nếu đặt các câu trên vào vị
trí phát xuất ta thấy liền văn hóa phía
Tây (nước Tần) thấp hơn văn hóa phía Đông
(nước Tề và Việt) rõ rệt. Vì thế không lạ
khi ta thấy các văn kiện, điển chương, lâu đài về
văn hóa đều năm về phía Đông Nam.
Thí dụ như hai lễ
Phong, Thiện. Lễ phong là tế
trời lấy nghĩa trời cao, nên phải đắp đất lên mà tế,
còn lễ thiện là tế đất, nên quét sạch đất
mà tế. Đây là hai lễ quan trọng bậc nhất xứng
đáng là hai cánh cửa mở vào nền văn
hóa Đông Á và Đông Nam Á.
Nó sẽ chiếu ánh sáng vào Kinh Dịch
và mọi nét song trùng lớn nhỏ của Việt Nho như
núi sông, đực cái, tiên rồng… và
rõ ràng là do Việt tộc đến độ Tàu
không dám sử ký hóa, cũng không
dám quy công sáng lập cho “Hoàng Đế” như
biết bao vụ, mà buộc phải nói là “vô
hoài” tức có tự lúc nào không ai
còn nhớ được nữa. Là vì hai lễ ấy vẫn còn
được tế ở phía Đông: phong ở núi Thái Sơn,
thiện ở núi Lương Phủ. Cả hai núi này nằm
bên Đông trong nước Tề, chư không bên nước
Bân của vua Nghiêu ở Sơn Tây.
Một thí dụ
khác về cái tiêu. Tương
truyền tiêu do vua Phục Hy ghép trúc làm ra,
chế theo hình chim phượng, tiếng thổi cũng giống tiếng chim
phượng gáy, gọi là tiêu quản. Thứ không
đáy gọi là động tiêu, Nho viết cùng một chữ
như Động Đình Hồ. Vậy mà bản dịch âm là đổng
tiêu, thì nhận ra liên hệ với Động Đình Hồ
sao được. Chữ động là chữ then chốt hơn hết trong triết Việt nho
vốn đặt nền trên sự trống rỗng, vô thanh vô
xú, với “cốc thần bất tử” Lão (hang rỗng không
chết) được biểu thị bằng cái nhà đá rỗng. Trong
chữ Động Đình Hồ thì động là cái nhà
đá rỗng đó biểu thị các hang động chỉ sự trống
rỗng tâm hồn. Vì tâm có trống rỗng mới nối
được hai chỉ là đất trời, biểu thị bằng tiên rồng trong
truyện là Tiêu Sử và Lộng Ngọc. Tiêu Sử đại
biểu rồng, sách nói là cỡi rồng, còn Lộng
Ngọc là tiên, sách nói Lộng Ngọc cỡi chim
phụng, cả hai bay lên trời: thiếu trống rỗng làm sao
có cảnh “phỉ nguyền sánh phụng đẹp duyên cỡi rồng”.
Tiên rồng là then chốt văn hóa Việt, xây
trên chữ trống, nên Động Đình Hồ phải có động
trống rỗng. Viết động ra đổng là lấp lối về nguồn. Rõ
ràng là thuộc loại sai một dấu phết đủ lấp lối đường về
nguồn cội.
Xin đừng nghĩ rằng
đó là những điều chi li vụn
vặt, mà là những điều tế vi thuộc phạm vi triết.
Trên một chục quyển sách triết Việt Nho đã được
viết ra toàn lấy chất liệu từ những chữ bỏ sót, đặt dấu
sai, dịch sai đó cả. Còn biết bao cái chưa được
khám phá mà cần phải được khám phá.
Nhưng đây là một việc lớn lao đòi nhiều công
của và buộc phải quy tụ được một số học giả đủ ngành như
triết lý, các khoa tân nhân văn như khảo cổ,
ngữ lý học, nhân chủng học, xã hội học, phong tục
học, truyện cổ, cổ sử Tàu… Trong đó tất nhiên phải
có được vài ba cụ rất thông thạo Nho.
- Các cụ sẽ khởi
công đi tìm về và
đọc lại những sách cổ Tàu như Thế Bản, Sự Thủy,
Bách Vật chí, Sự Vật Kỷ Nguyên, Ngô Việt
Xuân Thu, Thủy Kinh Chú, Sơn Hải Kinh, Việt Tiên
Truyện, Ngọc Hải, Văn Hiến Thông Khảo, Bách Việt
Tiên Hiền… Đa đa ích thiện. Nếu có đông người
thì đọc sâu vào những bộ Đồ Thư tập Thành
rồi Thái Bình Ngự Lãm…
- Các người
tân học thì thu thập
các công trình trước tác của các học
giả quốc tế đã nghiên cứu về nguồn gốc văn hóa
Tàu cũng như Việt loại Creel, Needham, Granet, Karlgren,
Eberhard, De Saussure… càng nhiều càng tốt và nhất
là những sách khảo cứu mới như của Trương Quang Trực
mà quyển The Archeology of Ancient China mới tái bản lần
3. 1978 tại Yale University press, rồi quyển Shang Civilisation. Quyển
The Cradle of the East của Bỉnh Thế Hà, Chicago press, quyển
Man’s conquest of the Pacific của Bellwood. Trong mấy sách
đó đều có bảng các sách cần thiết. Đọc
những công trình này chúng ta có
cái nhìn khách quan và khoa học hơn về cổ
sử.
Chỉ khi đạt mấy điều kiện
vừa kể mới trông sửa lại
các lầm lẫn gặp đầy trong sử văn học, văn hóa của ta, mới
trông nhận ra được cái hồn văn hóa trung thực của
dân tộc, là điều sẽ đem lại cho việc nghiên cứu về
nguồn những cái nhìn soi dọi, nhờ đó việc
nghiên cứu không chỉ có tính cách
hàn lâm khô cạn, nhưng sẽ mang một chiều kích
hệ trọng rất mới, một chiều kích của cuộc kiến tạo chủ thuyết để
hướng dẫn việc thiết lập quốc học cũng như công cuộc phục quốc
kiến quốc mai ngày vậy./.
Mồng 9 tháng 7 năm
1981.
Kim Định
SÁCH
THAM KHẢO
BẢNG VIẾT TẮT ÍT
SÁCH THAM KHẢO
(các
số chỉ trang sách được trưng)
BEZACIER:
Asie du Sub-Est Tom II. Le Vietnam par L.Bezacier Picard Paris 1972.
C.A:
La Chine Antique par Henry Maspéro. Presse Univ.de France, 1965
CIV:
The story of civilisation by Will Durant Simon and Schuster N.Y 1954
CRADLE:
The Cradle of East by Ping Ti Ho. The Univ. of Chicago press 1975.
CRÈTE:
La Crète et la Grèce primitive par Fredrich Matz, Michel
Paris 1962
GULIK:
La vie sexuelle dans la Chine ancienne par Robert Van Gulik. Paris 1962
D
85:
Danses et legendes de la Chine ancienne par Marcel Granet presse.
Unive. de France 1959 p.85
GROSLIER:
The Art of Indochina by Bernard Philippe Groslier. Crown publisher
N.Y.1962
INDO:
Indonesie: l’art d’un archipel par Fritz. A. Wagner 1960
LEG
I-V:
James Legge: Chinese classis, hongkong 1960, I Analects, II Mencius,
III Shoo Kinh, IV Poetry, V. Ch’un-tsew.
LIKI:
Li-Ki par Seraphin Couvreur, Cathasia, Paris.1950
KWANG:
The Archeology of ancient China by Kwang Chih Chang, 3 rd.edition Yale
Univ.press 1978
NEED I,
II:
Science and civilisation in China by Joseph Needham vol I and II,
Cambridge Univ.
PACIFIC:
Man’s conquest of the Pacific by Peter Bell Wood, Oxford Univ. press
N.Y. 1979
PREHIST:
Prehistoric and primitive man, Andreas Lommel, Mc Graw Hill book CI.
N.Y.1966
SHANG:
Shang civilisation by Kwang Chih Chang. Yale Univ. 1980
SPEISER:
China, Esprit et société par Verner Speiser. (edition
Francaise)
SHEN:
Shen Pu Hai, G.Creel, The Univ. of Chicago press. 1974
SULLIVAN:
The art of China by Sullivan, Univ. of California, La, 1973
VIETNAM:
Vietnam and China 1938-1954 by King C.Chen, Princeton Univ.press N.N. 1
|