Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ
4889
www.vietnamvanhien.net
Khơi Lại Nguồn Văn Hóa Nhân Bản
Kim Bằng
Khai từ
|
Có
những
sự
kiện
chỉ xảy ra một lần trong đời nhưng đã để
lại trong ký ức những ấn tượng thật sâu đậm không
bao giờ quên nổi. Những ấn tượng đó gợi cho ta
biết bao nhiêu câu hỏi không lời giải đáp
khiến ta suy nghĩ miên man về kiếp sống con người, về ý
nghĩa cuộc sống, về những nỗi khổ đau của loài người, về
nguyên nhân đưa đến những nỗi khổ đau đó và
về những con đường giải thoát.
Những
sự
kiện
đó
chỉ xảy ra thoáng trong một phút
giây, giống như những tia chớp chợt lóe sáng rồi
tắt lịm, nhưng nhờ những tia chớp đó ta mới thấy được vũ trụ đầy
bí ẩn chợt hiện lên trong khoảnh khắc sau màn
đêm dày
đặc.
Tôi
xin
kể
lại
một mẩu chuyện đã xảy ra khi tôi
còn ở trại Bù Gia Mập vào khoảng tháng 8
năm 1977.
Bù
Gia
Mập
là
một trại cải tạo nằm sâu trong
rừng thuộc tỉnh Phước Long, cách biên giới Miên chỉ
năm bảy cây số. Ngày xưa thực dân
Pháp lập trại tù khổ sai để giam tù chính
trị thuộc loại nguy hiểm nhất tại Bà Rá. Bà
Rá là một trại tù hắc ám nhất ở miền nam
dưới thời thực dân Pháp, dường như nằm dưới chân
núi Bà Rá, sau này được gọi là tỉnh
lỵ Phước Bình. Từ Phước Bình đi vào trại cải
tạo Bù Gia Mập phải đi qua một đoạn đường đất đỏ chừng bốn chục
cây số , hai bên rừng núi âm u, vượn hú
bìm bịp kêu não nùng. Vào
mùa mưa năm đó, trong trại nhộn nhịp chuẩn bị đón
đợt thân nhân đầu tiên được phép lên
thăm tù cải tạo từ khi chúng tôi được đưa đến
đó phá rừng. Anh em bàn tán xôn
xao, náo nức chờ đợi, hồi hộp đếm từng ngày.
Ngày
đầu
tiên
có
ba chị lên tới trại thăm
chồng. Chiều hôm đó lan truyền khắp trại những tin
thắt ruột.
Con
đường
từ
Phước
Bình đi Quảng Ðức xuyên qua
Bù Gia Mập chỉ có một xe đò nhỏ ọp ẹp lâu
lâu chạy một lần. Ðúng khi đó
chính quyền loan báo xe bị hư , nằm ụ chờ sửa chữa.
Các thân nhân tù cải tạo lũ lượt lên
tới Phước Bình đành đi mua đòn gánh cho
quà cáp vào tay nải gánh gồng đi từng
đoàn đi xuyên rừng tới trại. Khát thì
xuống múc nước suối mà uống, đói thì lấy
quà giành cho tù ra mà ăn.
Ðêm trải chiếu bên vệ đường, túm tụm nhau nằm
cho đỡ sợ
ma.
Nhưng
cái
tin
gây
xúc động nhất là tin một
cô gái mới lớn đi thăm cha trong trại cải tạo bị bộ đội
chặn lại thay phiên hãm hiếp cho đến chết, lột trần truồng
và chặt thành nhiều khúc nhỏ bỏ trong rừng.
Chúng tôi hầu hết đang chờ thân nhân là
phái nữ, người chờ vợ, kẻ chờ mẹ, anh này ngóng em
gái, anh kia đợi chị. Lòng chúng tôi
buốt như kiến lửa đốt, đêm nằm cầu nguyện cho người thân
mà nước mắt chảy ra dàn dụa . Phật ở đâu
? Chúa ở đâu ? Tổ tiên ở đâu
? Các người có linh thiêng xin ban cho
phép thần thông để chúng tôi có thể
nhắn thầm một câu mà lọt được đến tai người thân
thích. Một câu thôi. Chỉ một câu
thôi :
"Em
về
đi
!
Chị về đi ! Mẹ về đi !"
Chúng
tôi
không
có
lòng nào
nhận quà cáp của gia-đình khi biết rõ
thân nhân mình phải đi qua một đoạn đường rừng đầy
những loài yêu quỉ đó.
Nhưng
mà
Chúa
ở
cao quá, Phật ở xa quá, Tổ
tiên ở trong lòng đất sâu quá;
không ai nghe thấy lời chúng tôi cầu nguyện,
nên đoàn thân nhân lên thăm tù
cải tạo cứ lũ lượt kéo nhau
tới.
Ngày
hôm
sau
khi
nắng chiều đã nhạt, một
toán thân nhân kéo vào trại, trong
đó có một bà lão chừng 65 tuổi và
một ông cụ đầu tóc bạc phơ đã xấp xỉ thất tuần,
cùng với rất nhiều chị em phụ nữ. Bà lão gặp
con ôm con khóc ngất. Nỗi đau của bà
lão thật giản dị : Thân già lội bộ đường
rừng, đường đất đỏ lên đồi xuống giốc, gặp mùa mưa trơn
như mỡ. Bà lão té oành oạch
quá nhiều lần . Tay nải quà cáp thì
quá nặng. Người đi đường thì ai cũng như ai, lần
lượt quẳng dần thức ăn vào bụi cho nhẹ bớt, chỉ còn giữ
lại những gì thật cần thiết vừa sức mang theo. Lên
tới nơi thì bà lão vừa đói mềm, vừa
khóc khản cả tiếng, với nỗi đau kêu trời không
thấu. Mấy năm trời cách biệt, bán đồ đạc đi dồn hết
tiền mua quà cho con, nay lên tới nơi, nhìn thấy
con thì hai bàn tay trắng.
Hai
mẹ
con
ôm
nhau mà khóc. Tôi chắc
rằng nỗi đau của người con cũng không thua gì nỗi đau của
bà mẹ. Không phải đau vì không nhận
được quà , nhưng đau vì thương mẹ.
Tôi
gặp
ông
lão
đầu tóc bạc phơ và hỏi
cụ :
-
Ở
nhà
bộ
không còn ai nữa hay sao mà
bác phải lặn lội đi bốn chục cây số đường rừng lên
đây ?
Ông
cụ
cười
ngạo
nghễ :
-
Bốn
chục
cây
chứ một trăm cây qua cũng đi ! Ði
tới nơi gặp mặt con rồi chết qua cũng đi !
Tôi
hỏi
một
chị
còn rất trẻ :
-
Chị
có
sợ
không ?
Chị
ngước
mắt
nhìn
tôi, nói rất dịu dàng :
-
Chúng
em
sợ
lắm chứ !
-Thế
sao
chị
vẫn
lên ?
Chị
ngó
tôi
chưng
hửng, mặt hơi có sắc giận:
-Sao
anh
lại
có
thể hỏi những câu như thế ? Người ta
sống với nhau vì Tình Nghĩa; lúc này
mà không lên thăm nhau, thì rồi ra còn
mặt mũi nào nhìn nhau nữa ?
Tôi
cúi
gầm
mặt
xuống vì thẹn. Nhưng cũng
đồng thời trong lòng tôi bừng lên một ngọn lửa
rực rỡ sáng ngời. Những người đàn bà mảnh
mai gày yếu thế kia, những bà già lưng còng
run rảy thế kia, những ông lão râu tóc trắng
xóa thế kia, phải chăng họ chính là hiện
thân thật sống động những gì cao quí nhất của một
nền văn hóa Việt Nam đầy TÌNH NGƯỜI mà ông
cha ta đã bao đời mới gây dựng được hay không
? Cái tinh hoa của nền văn hóa Việt Nam là
đó: một nền văn-hóa đầy Tình Người. Con
đường ta đi là đó : Gìn giữ lấy Tình
Người.
Năm
1978
tôi
được
đưa về trại Suối Máu thuộc tỉnh
Biên Hòa. Tại đây tôi được gặp anh
Ð. và được nghe kể lại chi tiết về cái chết của
cô Út H., người đã bị bộ đội Cộng Sản chặn lại
hãm hiếp và chặt thành nhiều khúc nhỏ để
phi tang. Theo anh kể lại, các anh em tù cải tạo đi
lao động trong rừng đã tình cờ khám
phá ra xác chết cô H. bị vùi lấp sơ
sài vội vã. Anh chính là một trong số
mấy người được lãnh nhiệm vụ đi chôn xác cô
H. sau khi cả trại biết tin cô bị giết. Tôi
không muốn kể thêm chi tiết về chuyện này, để
tránh gợi lại đau thương cho gia-đình cô và
để linh hồn cô được yên
nghỉ.
Mười
sáu
năm
đã
trôi qua, kỷ niệm cũ vẫn còn
nguyên trong ký ức. Kỷ niệm đó làm
tôi khắc khoải thao thức với bao nhiêu câu hỏi dường
như không có lời giải đáp. Khi chứng
kiến bao nhiêu thảm cảnh đau thương xảy ra cho những người
dân hiền lành vô tội, tôi tự hỏi : "Tại
sao con người phải chịu những nỗi đau khổ lớn lao như vậy ? Tại
sao con người có thể đối xử với nhau tàn ác như
vậy ?"
Nhưng
chính
nhờ
có
những người vợ trẻ mảnh mai gày
yếu, những bà lão lưng còng, những ông
lão đầu tóc bạc phơ tôi đã gặp trong những
trại tù cải tạo, tôi đã lấy lại được niềm tin thật
mãnh liệt rằng trần gian này không phải đương
nhiên bắt buộc phải xấu xa tồi tệ như nó hiện hữu.
Nếu ta khơi lại được nền văn-hóa nhân bản đầy Tình
Người mà ông cha ta đã bao đời dày
công vun đắp thì ta vẫn có hy vọng dựng lại một
xã-hội đáng sống cho những thế hệ tương lai.
Chính niềm tin đó đã thúc đẩy tôi
viết tập sách này.
2 -
10 - 1993
Kim Bằng
|
Khi Văn-Hóa
Cạn Dòng Đứt Đoạn
|
Tôi
không
sao
quên
được hình ảnh bà
lão già chết đứng trên bãi biển Kuku
vào một ngày cuối tháng tư năm 1982.
Kuku
là
một
hòn
đảo nhỏ thuộc lãnh thổ Nam Dương,
được dùng làm trạm tiếp cư cho những thuyền nhân
may mắn dạt vào lãnh thổ Nam Dương. Trên đảo
không có dân cư. Thuyền nhân được tạm
giữ ở Kuku trước khi được chuyển về trại tị nạn Galang, nơi có
Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc bảo trợ. Trên đảo dựng
sơ sài vài chục căn nhà làm bằng
nylon mỏng manh phủ lên sườn gỗ dùng làm nơi tạm
trú cho vài trăm thuyền nhân tị nạn. Mỗi buổi
chiều chúng tôi thường kéo nhau ra bờ biển
nhìn về phía xa. Cứ vài ngày lại
có một thuyền tị nạn được hải thuyền Nam Dương hộ tống tới
đảo.
Một
buổi
chiều
cuối
tháng tư năm 1982, chúng
tôi reo mừng đổ xô ra bãi biển đón một thuyền
tị nạn vừa tới.
Chúng
tôi
chăm
chú
nhìn từng người tị nạn
bước lên cầu tàu làm thủ tục kiểm dịch trước khi
bước lên bờ. Ai cũng mong ngóng hy vọng gặp được một
người thân trong số người mới tới. Khi đoàn người tị
nạn mới đã lên hết trên bờ, tôi ngạc
nhiên thấy một đám đông túm tụm xúm
xít bao quanh một bà lão. Tôi bước tới
gần, cố len vào để xem tận mặt bà lão.
Khi
len
được
vào
đứng ngay trước mặt bà lão,
tôi bỗng cảm thấy toàn thân rung động như muốn
rụng rời chân tay. Trước mặt tôi không phải
là một người sống mà chỉ là một thây ma đứng
sững. Hai mắt bà lão đã hoàn
toàn lạc thần bất động, thân thể và chân tay
cứng như khúc gỗ. Tôi không có đủ
tài như Nguyễn Du để tả cảnh Từ Hải chết đứng. Tôi
chỉ biết ghi lại cái cảm giác lạnh buốt xương sống
khi nhìn một bà già đứng bất động như khúc
cây, sắc mặt đã hoàn toàn hết sinh
khí. Nếu các anh em thuyền nhân đứng quanh
không đỡ có lẽ bà lão đã đổ xuống như
một cây chuối vô tri.
Nhìn
vào
đôi
mắt
đờ đẫn lạc thần của bà
lão, tôi thấy tất cả nỗi đau khổ tận cùng của
một con người. Nỗi đau khổ câm nín không sao
nói lên được.
Những
mẩu
chuyện
được
ráp nối từ những gì các
thuyền nhân đi chung chuyến ghe với bà lão kể
lại giúp tôi hình dung được vài
nét chính nỗi đau đớn của bà cụ . Bà
lão đã khoảng xấp xỉ tám mươi. Bà cụ
có một người con trai duy nhất vẫn còn nằm trong trại cải
tạo. Người vợ lên thăm chồng được chồng dặn dò
hãy tìm mọi cách vượt biên đưa đứa con trai
duy nhất mới chừng 7,8 tuổi tới vùng trời tự do. Người vợ
làm theo lời chồng. Sau một chuyến vượt biên thất
bại, ngả bệnh và lìa trần.
Bà
lão
thương
con
và thương cháu, quyết
hoàn thành tâm nguyện của người con trai.
Bà cụ dẫn đứa cháu vượt biên. Cuộc
phiêu lưu trên biển cả kéo dài cho đến khi
trên tàu cạn hết lương thực và nước uống.
Ðứa cháu nhỏ kiệt sức dần và chết. Bà
lão đau đớn nhìn những người đi cùng thuyền
vứt xác đứa cháu xuống biển khơi. Ôi
làm sao tả hết nỗi thất vọng tột cùng của bà
lão !
Hình
ảnh
bà
cụ
già chết đứng trên bãi
biển Kuku đã làm tôi ray rứt mãi nhiều năm
sau khi đã định cư ở vùng đất mới. Bà cụ
già không phải là người duy nhất phải chịu những
thảm cảnh sau cuộc chiến ở Việt Nam .Bà lão cũng chưa hẳn
là người chịu những thảm trạng lớn nhất. Nhưng bà
lão có thể là biểu tượng nỗi đau đớn chung
mà dân tộc Việt Nam phải gánh chịu sau một cuộc
chiến tranh dai dẳng. Nỗi đau đớn đó chìm sâu
vào đôi mắt lạc thần, uất nghẹn và tắt lịm
vì không nói lên được.
Nhìn
vào
đôi
mắt
tê dại đờ đẫn của bà
lão tôi thấy tất cả sự đổ vỡ thê thảm chưa từng
có của xã-hội Việt Nam.
Ðây
không
phải
là
một cuộc chiến như mọi cuộc
chiến. Thường thì khi bão tố của một cuộc chiến
đã tan người dân trong nước bắt đầu bình tĩnh lại
thu vén những gì còn chưa mất, hàn gắn
những vết thương đau và bắt đầu dựng lại một cuộc sống
mới. Chưa có một cuộc chiến nào khi tàn cục
người dân phải chịu những hậu quả tàn khốc như cuộc chiến
tranh ở Việt Nam.
Thực
là
mỉa
mai
khi cuộc chiến tranh đó đã được
gán cho những mỹ từ lộng lẫy như "chiến tranh chống xâm
lược". Trong lịch sử Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã
nhiều lần đứng dậy chống ngoại xâm. Có bao giờ sau
chiến thắng chống Mông Cổ, Mãn Thanh mà cả triệu
người dân trong nước lâm vào cảnh tuyệt vọng đau
thương đến nỗi phải liều chết bỏ quê hương ra đi hay không ?
Nỗi
đau
lớn
lao
của người dân Việt là đất nước Việt Nam
đã không còn là đất nước Việt Nam, dân
tộc Việt Nam đã không còn là dân tộc
Việt Nam, xã-hội Việt Nam đã không còn
là một xã-hội đáng sống.
Nếu
xưa
kia
những
câu ca dao như :
"Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
"Người
trong một nước phải thương nhau cùng"
đã
thấm
sâu
vào
tận cùng tâm hồn mỗi
người dân Việt qua bao nhiêu thế hệ, thì nay cũng
câu ca dao đó trở thành kỳ dị và đầy những
ý nghĩa mỉa mai đến nỗi khó ai có thể thốt
lên mà không nghẹn ngào đau xót.
Không
biết
bao
nhiêu
người Việt nay có thể
thành thật nhận xét rằng những kẻ đã đối xử
tàn ác nhất đối với bản thân họ, gia-đình
họ, thân nhân, bạn bè hoặc đồng bào họ
không hẳn đã là những ông Tàu
bụng phệ, ông Tây mũi lõ, ông Mỹ mắt xanh
mà thường lại chính là người Việt Nam máu
đỏ da vàng.
Xưa
kia
dân
tộc
Việt Nam rất đồng tâm mỗi khi đứng dậy
chống lại kẻ ngoại bang thống trị dân Việt vì tin
chắc rằng chỉ có những thái thú Tô
Ðịnh hoặc những toàn quyền Pháp mới tham lam
tàn ác với dân lành. Nhưng nay kẻ
thống trị dân tộc Việt còn tàn ác gấp
nghìn lần Tô Ðịnh hoặc những quan Toàn
Quyền Pháp. Ðiều đau đớn nhất là những kẻ thống trị
đó ngày nay lại chính là người Việt Nam.
Có
lẽ
đó
là
một trong muôn nghìn
lý do đã khiến một bà cụ già 80 tuổi liều
mình vượt biên. Hẳn là bà cụ đã
không mong đợi gì cho chính bản thân khi phải
ra đi. Cái điều mong ước duy nhất mà ai cũng
có thể thấy rõ là bà cụ muốn cứu lấy đứa
trẻ thơ. Cứu lấy nó là giúp nó
thoát khỏi một xã hội không còn đáng
sống và cho nó một cơ hội để sống như một con người.
Sự
đổ
vỡ
lụn
bại của xã-hội Việt Nam cũng như sự mất mát
thê lương trong lòng người dân Việt từ đâu
mà có ?
Truy
nguyên
lại
nguồn
gốc, ta phải nói ngay nguyên
nhân chính đã đem đến nỗi bất hạnh lớn lao cho
dân tộc Việt chính là sự du nhập những chủ nghĩa
ngoại lai, trong đó chủ nghĩa Cộng sản hiển nhiên
là độc hại nhất.
Tác
hại
lớn
nhất
của chủ nghĩa Cộng Sản là đã
xé nát dân tộc Việt thành từng mảnh vụn,
đã tàn phá tâm hồn người dân Việt
và đã hủy hoại nền văn hóa nhân bản
vốn có sẵn tự ngàn xưa.
Sự
mất
mát
văn
hóa đó đã được giáo
sư Trần Ngọc Ninh mô tả là "văn hóa cạn dòng
đứt đoạn". Vì văn hóa cạn dòng đứt đoạn
nên người không còn là người mà
đã biến thành thú dữ. Vì văn
hóa cạn dòng đứt đoạn nên độc ác bất
nhân đã trở thành quốc sách được nhồi
nhét vào đầu óc mỗi tên cán bộ ngu
đần.
Nhưng
có
trách
những
kẻ thừa hành đầu óc
tối tăm cũng là vô ích. Việc cần thiết hơn
thế là tìm hiểu rõ cái hấp lực ma
quái của chủ nghĩa Mác-xít để tìm
cách phá giải. Việc cần hơn nữa là dựng lại
nền văn hóa nhân bản mà tiền nhân đã
bao đời dày công vun đắp.
Khi
bàn
về
văn
hóa, thượng tọa Thích Nhất Hạnh
đã đưa ra một định nghĩa thật ngắn gọn và khá
chính xác:
"Văn
hóa
là
nếp
sống vươn lên Chân Thiện Mỹ
của một dân tộc."
Câu
nói
đó
rất
hay, tuy nhiên vẫn còn
đôi chút khó hiểu nếu ta nhớ lại câu
nói của Lão Tử :
"Làm
thày
thuốc
mà
lầm thì giết một người,
làm chính trị mà lầm thì giết một nước,
làm văn hóa mà lầm thì di hại đến
muôn đời."
Nếu
văn-hóa
là
nếp
sống vươn lên Chân Thiện
Mỹ của một dân tộc thì tại sao làm văn hóa
lại có thể lầm và di hại đến muôn đời ?
Làm văn-hóa, hiểu theo nghĩa của Thượng Tọa Thích
Nhất Hạnh, là nỗ lực vươn lên Chân Thiện Mỹ.
Chẳng lẽ nỗ lực vươn lên Chân Thiện Mỹ mà lại
có thể "lầm" và di hại tới muôn đời hay sao ?
Thoạt
nghe
câu
hỏi
đó ta thấy dường như phi lý,
dường như đó là chuyện không thể xảy ra, hay dường
như hai ý niệm "văn-hóa" của Lão Tử và của
thượng tọa Thích Nhất Hạnh không phù hợp với nhau,
nếu không muốn nói là mâu thuẫn trái
ngược với nhau. Nhưng ngẫm cho kỹ ta mới thấy ý nghĩa
thâm trầm trong câu nói của Lão Tử.
Những
kẻ
chạy
theo
chủ nghĩa Cộng-Sản chẳng hạn, có thể đa số
vì bị ép buộc hoặc bị lừa gạt, nhưng một thiểu số
lãnh đạo chóp bu thì biết rất rõ họ muốn
gì. Những kẻ lãnh đạo này tin chắc rằng họ
đã nắm rất vững những "qui luật lịch sử tất yếu". Những
qui luật lịch sử tất yếu đó là những Luật Tạo Hóa
bất di bất dịch, khách quan vô tư, những chân
lý muôn đời không thay đổi, không thể
nào sai. Niềm tin cuồng nhiệt rằng những qui luật lịch sử
tất yếu đó chính là Chân Lý đã
khiến cho người Cộng Sản thẳng tay sử dụng mọi phương tiện để đạt cho
được cứu cánh mà họ nhắm tới .
Dưới
mắt
Tố
Hữu
thì Stalin quả là một ông
già hiền từ nhân hậu, một cây đại thụ đời đời rợp
bóng mát hòa bình. Không
phải Tố Hữu quá ngu đến nỗi không biết là Stalin
đã giết hơn 20 triệu nông dân Nga trong các
đợt tập thể hóa ruộng đất; nhưng việc tập thể hóa
ruộng đất là một qui luật lịch sử tất yếu, việc tàn
sát những kẻ chống đối qui luật lịch sử đó là
chuyện không thể nào tránh khỏi. Vì
thế dưới mắt Tố Hữu bàn tay đỏ lòe máu 20 triệu
nông dân Nga của Stalin chính là đôi
bàn tay đáng yêu đáng kính, đó
chính là biểu tượng của Chân Thiện Mỹ.
Thi
sĩ
Heine
có
lần đã viết :
"Những
ý
niệm
triết
học được nuôi dưỡng trong sự tĩnh lặng
nơi căn phòng làm việc của một giáo sư đại học
có thể phá vỡ cả một nền văn minh."
Câu
nói
của
thi
sĩ Heine cũng như lời Lão Tử
nói lên tác động sâu xa và lớn lao của
văn-hóa đối với cuộc sống loài người.
Không phải những xe tăng của Liên Xô, những oanh tạc
cơ B52 của Mỹ hoặc những khẩu đại pháo của Trung Cộng là
những yếu tố then chốt hủy diệt xã-hội Việt Nam. Yếu tố
then chốt tàn phá xã-hội Việt Nam và hủy
diệt nền văn minh nhân bản chính là những chủ nghĩa
ngoại lai, trong đó chủ nghĩa Mác-xít đã
mang lại những tác hại lớn nhất cho dân tộc Việt.
Văn-hóa
không
phải
đến
trong một ngày mà từ
từ len lỏi và thấm sâu vào tâm hồn mỗi người
dân qua nhiều thế hệ. Văn-hóa cũng không phải
đột ngột đổ vỡ như một tòa lâu đài bỗng nhiên
sụp đổ vì một cơn động đất. Sự tan vỡ lụn bại của một nền
văn-hóa đến thật chậm rãi đến nỗi nhiều khi ta khó
mà nhận thấy được.
Xin
hãy
cùng
nhau
trở về với bối cảnh của nước Việt Nam
trong vòng một trăm năm trở lại, đào sâu vào
tâm tư mỗi người dân qua từng thế hệ để tìm hiểu sự
đổ vỡ của nền văn minh nhân bản đã khởi đầu ra sao khi
có sự va chạm giữa những nền văn hóa dị biệt.
Ngẫm
lại
thì
câu
định nghĩa của thượng tọa Thích
Nhất Hạnh ít ra cũng phác họa được vài nét
đan thanh giúp ta hiểu được những nét chính yếu
thế nào là văn hóa.
Văn-hóa
là
nếp
sống
vươn lên Chân Thiện Mỹ
của một dân tộc. Nếu một dân tộc nhìn thấy
rõ thế nào là Chân Thiện Mỹ thì sẽ nỗ
lực vươn lên Chân Thiện Mỹ đó. Khi đó
nỗ lực của mỗi cá nhân sẽ hòa nhập vào sức
mạnh của tập thể , biến thành sức mạnh tổng hợp của một
dân tộc. Khi văn hóa thăng hoa nảy nở thì
cũng là lúc sức sống của một dân tộc cuồn cuộn đẩy
dân tộc đó tiến lên thật mạnh mẽ.
Văn-hóa
chính
là
chất
keo kết hợp lòng
người, khiến mỗi người dân cảm thấy đồng bào mình
dính liền với mình như cùng chung
khúc ruột. Văn-hóa là những tinh hoa của
dân tộc được tích lũy và đãi lọc qua nhiều
thế hệ. Văn hóa làm ta yêu mến đất nước ta,
dân tộc ta, đồng bào ta , gia-đình ta
và chính bản thân ta.
Nền
văn-hóa
nhân
bản
của Việt Nam đã khá ổn
định vững vàng qua mấy ngàn năm lịch sử. Người
dân Việt vốn hiền hòa thuần hậu, biết đùm bọc nhau,
thương yêu nhau , nhưng cũng biết quật khởi đứng lên khi bị
áp bức. Tinh thần nhân bản và tinh thần bất
khuất đã là nền móng vững chắc nhất để kết hợp
toàn dân thành một khối đồng tâm giúp
dân tộc Việt tồn tại và phát triển mạnh mẽ sau bao
lần bị ngoại bang đô hộ.
Cốt
lõi
của
văn
hóa nhân bản Ðông Phương
nói chung và Việt Nam nói riêng có lẽ
chính là vũ trụ quan và nhân sinh quan được
hình thành dựa trên ba thành tố TRỜI,
ÐẤT và NGƯỜI. Vũ trụ quan và nhân sinh
quan đó giúp cho người dân Việt có những
khái niệm uyển chuyển nhưng khá rõ ràng thế
nào là Chân Thiện Mỹ.
Chân
là
Ðạo
của
TRỜI. Chân Lý
hay Thiên Lý chính là những Luật Tạo
Hóa hoặc Luật Thiên Nhiên chi phối vạn vật, vũ trụ
và con người.
Thiện
là
Ðạo
của
NGƯỜI. Con người đứng giữa TRỜI
và ÐẤT, nối liền TRỜI và ÐẤT. Con người
có một trái tim. Lương Tâm hoặc Lương Tri
giúp cho con người phân biệt Thiện và Ác.
Mỹ
là
Ðạo
của
ÐẤT. Ðó là những
tinh hoa của vạn vật trong vũ trụ, sống động và muôn
màu muôn vẻ.
Khi
một
nền
văn-hóa
nảy nở thăng hoa thì mỗi cá
nhân trong xã-hội sẽ cảm thấy cuộc sống có ý
nghĩa, đất nước và đồng bào mang lại niềm vui cho mỗi
cá nhân khiến ta yêu mến. Nói chung mỗi
cá nhân đều cảm thấy xã-hội họ đang sống là
một xã-hội tốt đẹp đáng sống. Họ yêu
mến cuộc sống của chính mình và yêu mến mọi
người.
Vũ
trụ
quan
và
nhân sinh quan nhân bản rất linh động
uyển chuyển giúp cho dân tộc Việt vững tin ở mình
và dễ dàng thích ứng với Trời Ðất, hòa
hợp với Người.
Tuy
thế,
mỗi
lần
có hai hoặc nhiều nền văn-hóa dị biệt
gặp nhau thì xã hội lại gặp một cơn thử
thách. Cơn thử thách đó thường tạo
thành những khúc quanh cho dòng lịch sử của một
dân tộc.
Việt
Nam
vốn
là
cửa ngõ giao lưu của nhiều nền
văn-hóa. Từ phía Tây nền văn minh Ấn Ðộ
tràn qua; từ phía Bắc nền văn minh Trung Hoa lan xuống,
từ phía Nam nền văn minh Chiêm Thành Chân Lạp
và Hải Ðảo tiến lên. Xa hơn nữa không
ít nền văn minh từ những quốc gia Tây Phương xa xôi
tìm đến.
Khi
một
dân
tộc
chứng kiến nhiều nền văn hóa gặp nhau
thì có thể xảy ra nhiều trường hợp: Hoặc là
dân tộc đó sẽ được kích thích và tiến
lên thật mạnh mẽ , hoặc là xã hội đó sẽ đổ
vỡ lụn bại. Nếu dân tộc đó rút tỉa được những
tinh hoa của nền văn hóa ngoại lai hòa nhập với những
tinh hoa của nền văn hóa sẵn có, xóa bỏ được những
sai lầm khiếm khuyết trong nền văn-hóa cố hữu, tránh được
những cái dở của nền văn minh ngoại lai, khi đó dân
tộc đó sẽ tiến lên thật mạnh mẽ. Ðó
là trường hợp Nhật Bản vào thời Minh Trị Thiên
Hoàng. Một cách nhẹ nhàng hơn đó cũng
là trường hợp dân tộc Việt Nam trước khi có sự va
chạm với Tây Phương.
Qua
mấy
ngàn
năm
lịch sử, dân tộc Việt Nam đã chứng
tỏ có một tâm hồn thật cởi mở phóng khoáng,
một tinh thần bao dung biết dung hợp những tinh hoa của nhiều luồng tư
tưởng dị biệt, biến cái hay của người thành cái
hay của mình, thán phục người mà vẫn không
mất tinh thần tự chủ, học hỏi người mà vẫn tỉnh táo
nhìn thấy cái sai của người.
Tinh
thần
đó
đã
giúp cho dân tộc Việt rất dễ
hòa đồng với nhân loại mà vẫn giữ được một bản sắc
riêng, đầu óc không bị tê liệt mụ mẫm
vì những định kiến, cố chấp. Tinh thần đó cũng
giúp cho dân tộc Việt nối liền quá khứ, hiện tại
với tương lai thành một mạch sống liên miên bất
tận. Gắn bó với cội nguồn mà vẫn dốc lòng
hướng tới tương lai; uống nước nhớ nguồn mà nước mắt vẫn chảy
xuôi; thờ cúng tổ tiên mà vẫn sống vì
con cái, sẵn sàng làm những rừng mắm ngã
xuống cho thế hệ trẻ lớn lên. Quá khứ, hiện tại
và tương lai quyện với nhau thành một mạch sống cuồn cuộn
chảy không ngừng. Nền văn hóa nhân bản
đã tạo thành một sức sống thật mãnh liệt cho
dân tộc Việt.
Nhưng
sự
hội
ngộ
của nhiều nền văn hóa dị biệt có khi
cũng đưa tới những va chạm đổ vỡ thê thảm. Ðó
chính là trường hợp Việt Nam từ hơn một trăm năm nay
và nhất là từ khi có sự du nhập chủ nghĩa Cộng Sản.
Khi
tiếng
súng
đầu
tiên của đoàn quân viễn
chinh Pháp bắt đầu nổ ròn rã tấn công
thành Gia-Ðịnh thì cũng là lúc
dân tộc Việt Nam choàng tỉnh dậy như vừa qua một giấc ngủ
dài.
Nhiều
người
Việt
bắt
đầu có dịp so sánh sự khác
biệt giữa hai nền văn hóa Ðông Tây. Họ bắt
đầu ý thức được sự yếu kém của Ta so với sự hùng
mạnh của Người Khác.
Hình
ảnh
một
nhúm
quân sĩ của Henri Rivierre trang
bị súng ống cổ lỗ sĩ đủ sức công hãm thành
Hà Nội khiến cho những bậc trung thần nghĩa sĩ như Hoàng
Diệu phải tuẫn tiết đã làm cho không ít
người mất hết niềm tin vào nền văn hóa nhân
bản của dân tộc. Họ bắt đầu chối bỏ văn hóa của tiền
nhân và háo hức chạy theo những nền văn minh ngoại
lai.
Họ
quên
đi
rằng
khi hai nền văn hóa khác nhau hội
ngộ nếu ta tỉnh táo và giữ vững được tinh thần tự chủ
thì đó có thể là một cơ hội vàng son
để cả dân tộc tiến lên thật mạnh mẽ. Bài học
DUNG HỢP của tiền nhân đã bị vứt bỏ. Thay vì
tĩnh tâm suy xét, rút tỉa những tinh hoa trong nền
văn hóa của người, đãi lọc và gìn giữ những
tinh hoa trong nền văn hóa của mình, hòa nhập
làm một để dân tộc cùng tiến lên thì
họ đã hoặc vùi đầu xuống cát, hoặc chóa mắt
khấu đầu lạy những thần tượng ngoại bang , từ Lamartine, Jean Paul
Sartre, Adam Smith tới Karl Marx, Lenin, Stalin, Mao Trạch
Ðông.
Trong
tất
cả
những
nền văn hóa ngoại lai được du nhập vào
Việt Nam thì văn hóa Mác-xít có
tác dụng hủy diệt tàn khốc nhất. Kết quả là
nền văn hóa nhân bản của Việt Nam tàn lụn dần,
người Việt trở thành kẻ thù không đội trời chung
của người Việt, những tên đồ tể khát máu như Stalin
bỗng được đội lên ngồi chễm chệ trên bàn thờ
gia-tiên khiến ông bà tổ tiên biến
thành những tên địa chủ phú nông gian
ác bị con cháu mang ra sỉ vả đấu tố ngõ hầu kiếm
được chiếc khăn quàng đỏ tanh hôi mùi máu.
Người
dân
Việt
dường
như đã mất hết cội nguồn, mất hết
niềm tin vào sức mạnh của dân tộc mình.
Khi
văn
hóa
đã
cạn dòng đứt đoạn thì sức
sống của dân tộc cũng tàn lụi dần. Thế hệ đi trước
vẫn ngã xuống như những rừng mắm, nhưng chất độc
Mác-xít đã thấm vào mạch đất hủy hoại hết
màu mỡ phì nhiêu khiến những mầm non không
sao lớn lên được. Nỗ lực cứu lấy trẻ thơ của những
bà già lưng còng tóc bạc trở thành
nỗ lực vô vọng. Trái tim con người đã
khô héo. Bà lão 80 dù muốn
khóc thì dòng nước mắt cũng chẳng còn để
chảy xuôi xuống hai gò má nhăn nheo.
|
Trời, Ðất và
Người
|
Văn-hóa
là
những
tinh
hoa của một dân tộc được
tích lũy và đãi lọc qua nhiều thế hệ. Những
tinh hoa đó kết thành một vũ trụ quan và
nhân sinh quan chung cho đại đa số người dân trong
nước. Chính cái vũ trụ quan và nhân
sinh quan chung này đã là sợi dây kết nối cả
dân tộc lại thành một khối bền vững. Nhận thức chung
về vạn vật, vũ trụ và con người đã tạo thành
một mối đồng tâm khiến trên đại thể cả dân tộc
có cùng một nếp suy nghĩ, cùng một cách
hành động, cùng một lối cư xử, cùng một
cách sinh hoạt.
Văn
hóa
nhân
bản
Việt Nam được đặt nền tảng trên
những mối tương quan giữa Trời, Ðất và Người; những
mối tương quan đó luôn luôn lấy con người làm
gốc.
Nét
đặc
thù
của
văn hóa nhân bản Việt Nam
là ý niệm Trời Ðất rất bao la và mông
lung khác hẳn quan niệm Thượng Ðế của Tây Phương
và cũng không giống quan niệm Trời Ðất của Trung Hoa.
Thượng
Ðế,
theo
quan
niệm của Tây Phương, là Ðấng
Tạo Hóa có quyền lực vô biên đã tạo
nên vạn vật trong vũ trụ trong 7 ngày đêm.
Thượng Ðế cũng là Ðấng Phán Xét tối cao sẽ
đưa ra phán xét cuối cùng cho toàn thể
nhân loại trong ngày phán xét sẽ tới.
Theo
quan
niệm
Trung
Hoa thì ông Trời chính
là Hoàng Thiên Thượng Ðế hay Ngọc Hoàng
Thượng Ðế. Ngọc Hoàng Thượng Ðế đội mũ cánh
chuồn ngồi ở thiên đình, có thiên binh thần
tướng bao quanh không khác gì triều đình
các vua chúa dưới trần thế. Ngọc Hoàng
Thượng Ðế là ông Trời của riêng dân tộc
Trung Hoa, vì chỉ có hoàng đế Trung Hoa mới được
coi là Thiên Tử, nghĩa là con Trời.
Việt
Nam
không
quan
niệm ông Trời như vậy. Cứ
xét ông Trời được mô tả trong hai tác phẩm
văn học nổi tiếng nhất của Việt Nam là truyện Kiều và
Chinh Phụ Ngâm ta sẽ thấy ngay sự khác biệt sâu xa
giữa quan niệm Trời Ðất của dân tộc Việt Nam với quan
niệm của Trung Hoa và Tây Phương.
Mở
đầu
truyện
Kiều,
Nguyễn Du viết :
"Trăm
năm
trong
cõi
người ta
Chữ
tài
chữ
mệnh khéo
là ghét nhau.
Trải
qua
một
cuộc
bể dâu
Những
điều
trông
thấy
mà
đau đớn lòng.
Lạ
gì
bỉ
sắc
tư phong,
Trời
xanh
quen
thói má
hồng đánh
ghen..."
Tương
tự
như
vậy,
Ðặng Trần Côn và Ðoàn Thị
Ðiểm đã mở đầu cuốn Chinh Phụ Ngâm như sau :
"Thuở
trời
đất
nổi
cơn gió bụi
Khách
má
hồng
nhiều
nỗi truân chiên.
Xanh
kia
thăm
thẳm
từng trên
Vì
ai
gây
dựng
cho nên nỗi này..."
Ông
Trời
Xanh,
theo
quan niệm Việt Nam, không đội mũ
cánh chuồn, không mặc long bào, không
có thiên đình, không có thiên
binh thần tướng bao quanh, và nhất là không
có con làm vua dưới trần thế. Ông Trời Xanh ở
trên chín từng mây cao ngất, không biết
hình dáng ra sao, chỉ được hình dung bằng
màu xanh thăm thẳm thật mông lung. Nhờ quan niệm
trời xanh bao la và mông lung như vậy, nên Trời Xanh
có thể là ông Trời chung của tất cả loài
người, không phải của riêng ai.
Chính
quan
niệm
trời
đất phóng khoáng rộng
rãi đó đã giúp dân tộc Việt Nam
thoát khỏi những bế tắc tư tưởng của những dân tộc coi
Thượng Ðế là của riêng của dân tộc mình.
Xét
qua
tư
tưởng
loài người thì Trời Ðất bao
hàm rất nhiều ý niệm khác nhau chứ không
phải chỉ có một ý niệm duy nhất. Trời có thể
là Tạo Hóa, Hóa Công, Hóa Nhi hay
Ðấng tạo ra vạn vật, vũ trụ và muôn loài.
Trời có thể là Thượng Ðế, Ðấng Chủ Tể của vạn
vật, Ðấng Phán Xét tối cao chí
công vô tư, thưởng lành phạt dữ. Thượng Ðế
có quyền năng vô biên và ý chí
tối thượng. Trời cũng có thể chỉ là Thiên
Lý và Thiên Tính, hay những Ðịnh luật
thiên nhiên hoặc Luật Tạo Hóa chi phối vạn vật, vũ
trụ và muôn loài.
Ðất
là
trái
đất
nơi loài người sinh
sống. Rộng hơn nữa Ðất bao hàm vạn vật trong vũ trụ từ
khoáng chất, thảo mộc tới muôn loài sinh vật.
Ðất chính là thế giới vật chất hữu hình hữu
tướng.
Tự
thuở
có
loài
người, có lẽ những mối bận
tâm lớn nhất của con người luôn luôn vẫn là
: Làm sao để sống ? Làm sao để sống có
hạnh phúc ? và Làm sao để sống một cuộc đời
có ý nghĩa và đáng sống ?
Trên
con
đường
đi
tìm lời giải đáp cho ba câu
hỏi đó con người hầu như không thể tránh được phải
hình dung ra mối tương quan giữa Trời Ðất và Người.
Sống
không
phải
chỉ
là ăn uống, hít thở không
khí, sinh con đẻ cái và chờ ngày
chết. Sống bao hàm vô vàn sinh hoạt của con
người từ suy nghĩ, làm việc, ẩm thực, vui chơi, cũng như sinh
con , nuôi con, dạy con và không biết bao
nhiêu sinh hoạt khác.
Nhưng
giá
thử
ta
cứ thu về một quan niệm giản lược nhất "Sống
nghĩa là chưa chết, sống nghĩa là còn tồn tại
trên mặt trái đất như một sinh vật" thì câu
hỏi "Làm thế nào để sống ?" vẫn không phải
là một câu hỏi dễ trả lời.
Ðành
rằng
ta
có
thể dễ dàng sống nếu ta
luôn luôn có đầy đủ lương thực để ăn, nước ngọt để
uống và không khí trong lành để thở.
Nhưng đâu phải tự nhiên mà ta có đầy đủ mọi
thức cần thiết cho cuộc sống như vậy ? Lương Thực từ đâu
mà có ? Nước uống từ đâu mà có
? Con người không thể sống giữa sa mạc khô cằn
mà phải tìm đến những nơi có lương thực và
nước uống mới có thể tồn tại. Xem thế cuộc sống con người
luôn luôn tùy thuộc vào thiên
nhiên và vạn vật trong vũ trụ. Không có
những điều kiện sống thì cũng không còn sự
sống. Nếu ta coi thiên nhiên và vạn vật trong
vũ trụ là Ðất thì chính Ðất đã cho
ta sự sống. Ðất là vật chất. Không
có vật chất thì cũng không có cuộc sống con
người.
Nhưng
Ðất,
hay
vật
chất và thiên nhiên,
không phải là yếu tố duy nhất tạo nên sự sống.
Nếu không có mưa thuận gió hòa thì
cây cỏ cũng không thể mọc lên được; trâu
bò không có cây cỏ tất nhiên cũng phải
chết, và do đó con người cũng phải tận diệt. Mưa
thuận gió hòa có được là nhờ những định
luật tuần hoàn trong vũ trụ. Nước biển mặn không thể
dùng để tưới cây, nhưng hơi nước biển bốc lên trời
tụ lại thành mây, gặp lạnh đọng lại thành mưa, rơi
xuống và làm cho cây cỏ sống được. Nếu
không có những định luật thiên nhiên khiến vật
chất luôn luôn biến dịch luân lưu tuần
hoàn thì cũng không có sự sống. Hơi
nóng mặt trời không truyền được tới mặt đất, máu
không luân lưu trong cơ thể, không khí
không được hít thở vào ra, thức ăn không được
tiêu hóa thì dù có mặt trời,
có máu, có thức ăn, có không
khí cũng không còn cuộc sống con người. Nếu
ta gọi những định luật biến dịch tuần hoàn chi phối vạn vật
trong vũ trụ là Thiên Lý, hay lẽ Trời, hoặc vắn tắt
hơn gọi là Trời, thì Trời chính là một yếu
tố then chốt tạo nên nguồn sống.
Từ
cái
nhìn
đó
mà từ lâu đa số
loài người luôn luôn tạ ơn Trời Ðất đã
ban nguồn sống cho loài người. Văn hóa
Ðông Phương càng nghiêng đậm về mối tương quan
thuận thảo giữa Trời Ðất và Người. Ðạo sống
Ðông Phương rút lại chính là đạo sống
Thái Hòa : hòa hợp với Trời Ðất
và hòa hợp giữa Người với Người.
Thế
nhưng
không
phải
ai cũng đồng một quan niệm như vậy.
Thái hòa có thực là đạo của Trời Ðất
hay không ?
Thử
xét
xem
trên
mặt trái địa cầu, tự cổ chí
kim, tự đông sang tây, có lúc nào
không có chiến tranh, không có tàn
sát, không có chém giết, không
có tiêu diệt lẫn nhau để tìm sự sống hay
không ?
Con
cọp
ăn
thịt
con người và các loài muông
thú khác để sống, sài lang ăn tươi nuốt sống cừu
non, dưới nước cá lớn nuốt cá bé, trên trời
chim ưng chim ó xà xuống bắt gà con, trên
mặt đất con mèo ăn thịt con chuột, nước lớn diệt nước nhỏ, người
mạnh bắt kẻ yếu làm tôi tớ nô lệ.
Phải
chăng
luật
Tạo
Hóa chính là luật "Mạnh
Ðược Yếu Thua", "Khôn Sống Mống Chết", "Ưu Thắng Liệt Bại"
? Phải chăng muôn vật muôn loài đều tàn
sát nhau để mà sống ; kẻ sống sót chỉ là kẻ
biết tàn sát không thương tiếc, dù là
tàn sát đồng loại hay những sinh vật khác loại ?
Trời
có
thật
là
một Thượng Ðế chí công
vô tư hay không ? Trời có thật yêu
thương tất cả loài người như con cái hay không ?
Khi
con
người
chịu
những thảm cảnh tai biến lớn lao thì niềm tin
vào một Thượng Ðế chí thiện chí công
cũng dễ dàng tan biến.
Xưa
kia
Lão
Tử
đã từng đưa ra nhận định :
"Thiên
địa
bất
nhân,
dĩ vạn vật vi sô cẩu." (
Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm )
Sinh
vào
thời
tao
loạn, thấy tận mắt những thảm trạng người chết
, nhà tan, nước mất, Lão Tử cho rằng nếu Thượng Ðế
là một đấng chí thiện chí công thì
đã không để xảy ra những cảnh thê thảm như vậy.
Văn
hóa
là
cái
nhìn chung của một dân
tộc về vũ trụ và cuộc sống loài người. Giáo
sư Trần Ngọc Ninh đã đưa ra một nhận định rất xác
đáng :
"Văn
hóa
là
tất
cả những cái khác nhau
trong sự sinh hoạt của ta và của họ"
Ta
là
dân
tộc
ta. Họ là các dân
tộc khác.
Câu
nói
của
giáo
sư Trần Ngọc Ninh hàm
ý rằng dân tộc ta trên đại thể có chung một
nếp sống, chung một cách sinh hoạt; cách sinh hoạt
đó khác với cách sinh hoạt của những dân tộc
khác.
Văn
hóa
Việt
Nam
nghiêng nhiều về đạo sống Thái
Hòa giữa Trời Ðất và Người. Con người Việt Nam
lấy tâm hồn thuần hậu làm căn cốt. Khi ngoại bang
đem quân xâm lược biết đứng lên giành lại nền
tự chủ, nhưng khi đánh đuổi hết xâm lược rồi thì
lại lấy chữ hòa làm căn bản cư xử giữa người với
người. Mạc Cửu là người Trung Hoa, sống ở Trung Hoa
không được, nhưng sống ở Việt Nam thì rất yên
bình.
Văn
hóa
đó
đã
giúp cho dân tộc Việt
Nam giữ được nền tự chủ, tạo được một xã hội ổn định yên
bình và một cuộc sống an vui cho người dân qua
nhiều thế hệ. Tình yêu tổ quốc thật nồng nàn
, tình yêu quê hương thật thắm thiết, tình
yêu đồng bào thật sâu đậm : đó
là những nét nổi bật trong tâm hồn người dân
Việt.
Dân
tộc
ta
không
thiếu tinh thần cởi mở bao dung.
Trong quá khứ dân tộc Việt đã biết dung hợp nhiều
nền văn hóa dị biệt. Nếu so sánh những cuộc
thánh chiến ác liệt ở Âu châu hay những cuộc
tàn sát đẫm máu giữa tín đồ Hồi giáo
và Ấn giáo ở Ấn Ðộ với sự hòa hợp êm ả
giữa những tôn giáo khác nhau, từ Phật, Khổng,
Lão, Thiên Chúa giáo, tới Tin Lành,
Cao Ðài, Hòa Hảo ở Việt Nam, ta sẽ thấy rõ
tinh thần cởi mở bao dung của dân Việt thật không nhỏ.
Tuy
nhiên
nếu
trong
quá khứ dân tộc Việt có
thể dung hợp nhiều luồng tư tưởng dị biệt mà xã hội
không đổ vỡ, có lẽ cũng là vì những luồng tư
tưởng đó có những nét chung có thể
thích ứng với nhau và không hoàn toàn
xung khắc. Nét chung đó có thể tóm
tắt là tất cả những luồng tư tưởng đó đều hướng Thiện
và ngầm chứa đạo Thái Hòa. Thêm
vào đó văn hóa Việt đã không được
hình thành từ những tư tưởng cực đoan. Ông
Trời Xanh không có con làm vua dưới trần thế cho
nên có thể là ông Trời chung của tất cả
loài người. Người Việt không thấy cần
phải tranh luận xem ông Trời đó đội mũ cánh chuồn
hay quấn khăn Ả rập. Một lý do nữa khiến sự hội hợp nhiều luồng
tư tưởng khác nhau ở Việt Nam trong quá khứ đã xảy
ra thật êm thấm là nhờ các luồng tư tưởng đó
đến rất chậm rãi từ tốn, đủ thời giờ cho người Việt suy ngẫm
đãi lọc và hấp thu không hấp tấp.
Nhưng
khi
có
sự
va chạm với nền văn hóa Tây Phương
thì tình thế khác hẳn. Dân tộc Việt
đã chịu một cơn khủng hoảng chưa từng có trong mấy
ngàn năm lịch sử.
Cơn
khủng
hoảng
đó
chính là những gì Erik
Erikson, một trong những nhà tâm lý học nổi tiếng
trên thế giới hiện nay gọi là "the Identity crisis"
( tôi tạm dịch là "cơn khủng hoảng bản sắc" hoặc "khủng
hoảng cội nguồn" ).
Tai
họa
lớn
lao
xảy tới cho dân tộc Việt không chỉ đơn
thuần là sự xâm lược bằng võ lực của người
Pháp. Người Pháp chỉ xâm chiếm nước ta trong
vòng một trăm năm, thời gian đó tương đối ngắn ngủi so
với một ngàn năm bắc thuộc. Hơn nữa trong vòng một
trăm năm đó người Pháp mới chỉ "bảo hộ" mà chưa
"đô hộ"; chủ quyền nước ta chưa hoàn toàn mất
hẳn. Nước ta khi đó vẫn có vua và triều
đình, chưa đến nỗi biến thành quận huyện của ngoại bang
như trong thời bắc thuộc, dù ai cũng biết vua và triều
đình đó không có thực quyền.
Tai
họa
lớn
nhất
xảy ra khi có sự va chạm với nền văn hóa
Tây Phương là nền móng văn hóa Việt Nam
đã bị đổ vỡ thê thảm. Cơn khủng hoảng xảy ra khi
người dân trong nước không còn tin là
mình đúng người ta sai nữa. Nếu xưa kia quân
Minh xâm chiếm nước ta người dân Việt có thể đồng
tâm đứng dậy đánh đuổi kẻ xâm lược thì
chính là nhờ niềm tin sắt đá rằng mình
đúng kẻ kia sai. Kẻ kia tàn bạo khát
máu, kẻ kia tham lam độc ác; trong khi đó
mình là người dân hiền lành lương thiện,
mình là đạo quân nhân nghĩa; nhân nghĩa
chắc chắn phải thắng bạo tàn.
Vào
đời
Trần,
Nguyên
chủ sai Thoát Hoan mang 50 vạn
quân sang đánh nước ta. Khi đó Trần Quốc Tuấn
truyền hịch đi các nơi chiêu mộ binh sĩ tất cả vỏn vẹn chỉ
được 20 vạn người. Quân địch mạnh, quân ta yếu;
quân địch đông đảo hơn gấp bội, quân ta ít hơn
rất nhiều; vậy mà quân ta đã phá tan
quân Nguyên, chém đầu Toa Ðô khiến
Thoát Hoan phải chui vào ống đồng chạy trốn về Tàu.
Nếu
so
sánh
với
trận Francis Garnier đánh thành
Hà Nội năm 1873 ta thấy hoàn toàn trái
ngược. Francis Garnier chỉ có 90 quân sĩ, hợp với 90
quân ô hợp của Jean Dupuis, tất cả chưa tới 200 người, vậy
mà đủ sức phá tan thành Hà Nội, giết chết
phò mã Nguyễn Lâm, bắt sống Tổng Ðốc Nguyễn Tri
Phương. Nguyễn Tri Phương khi đó có tới 7000
quân tinh
nhuệ.
Tai
họa
đổ
xuống
đầu dân tộc Việt khi người Pháp xâm
chiếm Việt Nam không hẳn chỉ đơn thuần là sự "bảo hộ" của
ngoại bang. Tai họa lớn nhất cho dân tộc Việt chính
là từ đó người dân mất hết niềm tin vào nền
văn hóa của dân tộc mình. Nếu một nhúm
quân sĩ ô hợp của Francis Garnier đã đủ sức
phá tan đạo hùng binh của Nguyễn Tri Phương thì
chắc hẳn phải có một nguyên do. Câu hỏi:"Tại
sao người hùng mạnh như vậy ? Tại sao ta yếu hèn
như vậy ?" bắt đầu trở nên nỗi ám ảnh hàng đầu của
mọi người dân Việt. Người Việt bắt đầu không
còn tin mình là đúng, người khác
là sai nữa. Người Việt bắt đầu thấm thía cảm thấy
rằng dường như văn hóa mình, xã hội mình
có một cái gì sai sót ghê gớm cho
nên mới đưa dân tộc mình tới chỗ yếu hèn như
vậy.
Từ
nỗi
ám
ảnh
đau đớn đó mà có những phong
trào Duy Tân, Ðông Du, và sau đó
có sự du nhập chủ nghĩa Cộng Sản. Chủ nghĩa Cộng Sản quả
thực đã có một hấp lực thật ma quái và một
sức tàn phá thật khủng khiếp.
Chủ
nghĩa
Cộng
Sản
đã phá nát tương quan
hòa hợp giữ Trời Ðất và Người, đã đập vụn đạo
Thái Hòa, nền tảng của văn hóa Ðông
Phương.
Mũi
công
phá
mạnh
nhất của Karl Marx chĩa thẳng vào
Trời. Câu nói bất hủ của Karl Marx "tôn
giáo là thuốc phiện" không phải nhằm công
kích giới tu sĩ tăng ni hoặc tín đồ mà đích
thực là nhằm triệt hạ ông Trời.
Tại
sao
Cộng
Sản
cảm thấy cần triệt hạ ông Trời ?
Ông
Trời,
theo
quan
niệm của hầu hết các tôn
giáo, là Ðấng Chủ Tể của vạn vật, chí thiện
chí công. Ông Trời là Ðấng
Phán Xét tối cao thưởng lành phạt dữ.
Có ông Trời thì loài người mới biết run sợ
không dám làm ác vì sợ bị trời phạt.
Có ông Trời thì loài người mới nỗ lực hướng
Thiện để sống hợp đạo Trời. Triệt hạ ông Trời đi thì
Thiện Ác cũng không còn phân biệt nữa, khi
đó con người hành động mà không cần lương
tâm, giết người mà không gớm tay, hành hạ
đày đọa đồng loại mà không tự cảm thấy tội lỗi,
làm mọi điều ác mà không sợ bị trời phạt
xuống địa ngục.
Ông
Trời
có
thực
hay không vẫn là một
câu hỏi lớn cho toàn thể nhân loại, nhưng
không ai phủ nhận được là ông Trời trong tất cả mọi
nền văn hóa đều được hình dung là đấng chí
thiện chí công. Chính vì lẽ đó
mà Voltaire, một trong những người không tin ở Thượng
Ðế và đã từng mạnh mẽ phủ nhận sự hiện hữu của Thượng
Ðế, rút cục sau nhiều năm suy nghĩ cũng phải thốt ra một
câu bất hủ;
"Nếu
Thượng
Ðế
không
có thực thì ta cũng cần
sáng tạo ra Thượng Ðế."
Lòng
tôn
kính
ông
Trời của nhân loại
đã là một trở lực lớn lao cho những kẻ muốn
làm ác. Vì lẽ đó những người Cộng Sản
đã nỗ lực chửi trời, mắng trời, hạ nhục trời để "giết" cho được
ông Trời.
Khi
người
Cộng
Sản
Việt Nam vênh váo chửi trời bằng những
câu:
"Thằng
Trời
đứng
lại
một bên
Ðể
cho
thủy
lợi bước lên
làm Trời"
...thì
không
phải
chỉ
đơn thuần muốn triệt hạ tính
cách chí tôn của ông Trời, mà
thâm ý chính là muốn diệt cái thiện
tâm trong lòng người. Còn ông Trời
thì còn có Thiện tâm trong lòng
người, và những kẻ có ác tâm không
được tự do để làm ác.
Một
mặt
triệt
hạ
ông Trời, mặt khác Cộng Sản hết lời đề
cao vật chất
. Ðề cao vật chất
không phải chỉ vì vật chất cần thiết cho cuộc sống
loài người mà chính vì thâm ý
muốn sử dụng vật chất để khống chế loài người.
Tận
cùng
trong
tâm
mỗi người Cộng Sản đều dấu kín
một niềm tin cuồng nhiệt rằng chính vật chất tạo nên sức
mạnh. Kẻ nào cướp hết được vật chất thì sẽ thu
tóm hết quyền lực trong tay và sẽ đủ sức khống chế tất cả
loài người.
Mao
Trạch
Ðông
từng
nói: "Quyền lực được tạo lập từ
đầu mũi súng". Ðó mới chỉ là một mẩu suy
nghĩ của những người Cộng Sản. Người Cộng Sản tin rằng nếu họ
có thể thu tóm hết mọi tài sản thiên hạ
trong tay thì sẽ có thể vĩnh viễn thống trị nhân
loại. Con người bị bóp bao tử sẽ biến thành con
giun con dế sẵn sàng khom lưng uốn gối làm tất cả mọi
việc ti tiện ngõ hầu có chút cơm hẩm cháo
thiu để sống cho qua ngày. Kẻ nô lệ sẽ chẳng
bao giờ còn hy vọng đứng thẳng dậy làm người.
Nhưng
sở
dĩ
chủ
nghĩa Cộng Sản tạo thành một hấp lực ma
quái giúp họ khống chế được một phần nhân loại
trong suốt 70 năm phần lớn là nhờ họ đã khai thác
lòng thù hận ẩn kín trong con người. Lòng
thù hận là động cơ thúc đẩy con người hành
động thật cuồng nhiệt.
Cuộc
sống
con
người
vốn đầy dẫy khổ đau. Ðâu là
nguyên nhân gây ra những nỗi khổ đau đó
? Hầu hết các tôn giáo đều qui nguyên
nhân những nỗi khổ đau đó về chính con người.
Vì ta tham sân si nên ta khổ. Vì tổ
tiên loài người chót phạm tội ăn trái cấm
nên loài người khổ. Lỗi ở ta, tội ở ta. Muốn
diệt hết khổ đau chỉ có con đường tu tập. Nhưng con đường
tu tập thật gian nan vất vả, chẳng phải ai củng đủ nghị lực và
kiên nhẫn để noi theo. Niết bàn ở đâu ?
Thiên đường ở đâu ? Sao chẳng ai thấy được ?
Nỗi khổ đau của loài người thì vẫn đầy dẫy trần gian.
Cộng
Sản
đã
lật
ngược bài toán, tách
loài người làm hai : Ta và Người
Khác. Ta khổ đau không phải lỗi ở Ta mà lỗi ở
Người Khác. Ta khổ đau vì có kẻ áp
bức Ta, bóc lột Ta, đày đọa Ta. Giết hết những kẻ
đã áp bức ta, bóc lột ta đi hoặc bắt chúng
quì phục dưới chân ta, làm nô lệ cho ta
là ta sẽ hết khổ đau.
Con
đường
giải
thoát
của Cộng Sản thực hấp dẫn và dễ
dàng thực hiện khiến không ít kẻ nhẹ dạ tin
theo. Con đường đó chẳng đòi hỏi con người phải nỗ
lực hướng Thiện, chẳng đòi hỏi con người phải lắng nghe tiếng
gọi của lương tâm mà chỉ cần khơi dậy lòng
thù hận để GIẾT, GIẾT và GIẾT là đủ để giải
thoát khỏi mọi khổ đau. Từ những nông trường tập thể
ở Nga, cuộc cách mạng văn hóa ở Trung Cộng, cuộc cải
cách ruộng đất ở Việt Nam cho đến những vụ đàn áp
đẫm máu ở Thiên An Môn, Tiệp Khắc, Lỗ Mã
Ni đâu đâu lòng thù hận cũng được khơi
dậy thật cuồng nhiệt.
Trên
con
đường
"giải
phóng nhân loại" đó,
bàn tay những người Cộng Sản đã đỏ lòe máu
đồng bào và đồng loại. Họ đã biến
thành những sinh vật không tim và mối tương quan
hòa hợp giữa Trời Ðất và Người cũng bị xóa bỏ.
Người
Việt
từ
trong
nước tới hải ngoại vẫn tiếp tục băn khoăn :
Phải chăng nền văn hóa nhân bản đã là
nguyên nhân chính khiến dân tộc yếu hèn
hay phải chăng ta đã đánh mất một gia tài vô
cùng quí báu của tiền nhân để lại ?
|
Thiên Lý
|
Mặc
cảm
tự
ti
là bước khởi đầu dẫn tới sự suy sụp toàn
diện con người. Mất niềm tin vào văn-hóa dân
tộc cũng là bước khởi đầu đưa tới sự sụp đổ toàn bộ
xã-hội.
Nhìn
lại
buổi
giao
thời, tĩnh tâm suy xét kỹ nhiều
khi ta nửa muốn khóc nửa muốn cười. Nhiều vấn đề một thời
gây ra tranh cãi sôi nổi tưởng như rằng đó
là vấn đề sinh tử của một quốc gia, nay có khơi ra chắc
chẳng còn một ai thèm góp ý.
Vào
thời
phong
trào
Duy Tân đang lớn mạnh, ai cũng
háo hức "theo mới, bỏ cũ". Cách giản dị nhất để
chứng tỏ mình dứt khoát theo mới là cắt phăng
mái tóc trên đầu. Phong trào cắt
tóc ngắn trở thành biểu tượng của phong trào Duy
Tân. Cắt tóc là duy tân, là yêu
nước. Ở Hà Nội một thời đi đâu cũng nghe có
người hát bài "Húi hề !":
"Tay
trái
cầm
lược,
Tay
phải
cầm
kéo,
Húi
hề
!
Húi hề !
Thủng
thẳng
cho
khéo.
Bỏ
cái
ngu
này,
Bỏ
cái
dại
này.
.........................
.........................
Ngày
nay
ta
cúp,
Ngày
mai
ta
cạo."
Và
như
thế
là
cả một dân tộc đã đua nhau cắt
tóc ngắn, để bỏ cho được cái dại cái ngu.
Các chị em phụ nữ cũng không thua kém các
bậc nam nhi, cắt phăng mái tóc dài óng ả
trên đầu để uốn quăn cho hợp với thời đại mới.
Thế
rồi
thời
gian
qua, nước Việt Nam mở rộng cửa nhìn ra
thế giới bên ngoài. Người Việt có nhiều dịp
gặp gỡ người Âu Mỹ hơn. Chắc hẳn không ít
người Việt đã ngạc nhiên vì người Tây phương
có nhiều ý tưởng khác lạ quá, táo
bạo quá, nhất là giới trẻ.
Một
thời
giới
trẻ
Âu Mỹ đã làm cho những bậc cha mẹ
già nua hủ lậu phải tức điên lên vì những
hành vi thác loạn của họ. Ai đời thanh niên
thiếu nữ gì mà không chịu cắt tóc ngắn gọn
gàng tề chỉnh như con nhà gia giáo mà lại
để tóc dài xõa ngang lưng. Có cậu
táo bạo hơn, không những đã để tóc
dài mà còn búi thành búi
tó củ hành y hệt như ở Việt Nam vào cái
thời cổ lỗ xa xưa. Dưới mắt các cụ già bảo thủ
Tây phương thì lũ trẻ đã "mới" quá
trớn. Dưới mắt giới trẻ Tây phương thì cha mẹ họ nay
đã quá lạc hậu lỗi thời, cứ bám víu
mãi vào cái "hủ tục" cắt tóc ngắn của
cái thời thất thập cổ lai hi.
Ngẫm
lại
thì
không
có cái dại nào
bằng cái dại nào. Giá mà các
cụ già hủ lậu Việt Nam xưa kia đừng vội cắt búi tó
củ hành trên đầu thì nay có lẽ đã trở
thành những người đi tiên phong trong phong trào
đổi mới duy tân cho giới trẻ ở Tây Phương !
Niềm
tin
hấp
tấp
vội vàng rằng chỉ cần cắt tóc ngắn
là đã trút sạch được mọi hủ tục và hấp thu
hết những tinh hoa của nền văn minh Âu Mỹ rút cục
đã chỉ giúp dân ta học được nghề hớt tóc
mà không đủ giúp dân ta thu nhập những tinh
hoa của người.
Nhưng
cái
răng
cái
tóc mới chỉ là một
góc con người. Cái dại của con người đâu chỉ
giới hạn vào cái răng cái tóc !
Cái dại cũng không chia biên giới, người Việt Nam
không độc quyền giành hết cái dại của loài
người. Như Voltaire giành gần hết cuộc đời đả kích
sự hiện hữu của Thượng Ðế, đến cuối đời suy ngẫm lại mới biết
mình hố và buột miệng thốt lên; "Nếu Thượng Ðế
không có thật thì ta cũng nên sáng tạo
ra Thượng Ðế".
Cái
nhiệt
tình
của
người Cộng Sản muốn "giết"
ông Trời cũng vậy. Tỉnh ra có lúc họ sẽ ngỡ
ngàng tự hỏi: Ông Trời là mê tín
hay chính họ mê tín ?
Nếu
họ
cho
rằng
ông Trời là Ngọc Hoàng Thượng
Ðế thì quả thực ông Trời là mê
tín. Ngọc Hoàng Thượng Ðế đội mũ cánh
chuồn chỉ là cái hình ảnh mà các
ông con Trời đã sáng tạo nên trong trí
tưởng tượng phong phú của họ để hình dung Ðấng Chủ Tể
của vạn vật. Ðấng Chủ Tể đó có thực hay
không là một điều chưa ai dám khẳng định là
mình biết rõ. Dãu sao hình ảnh Ngọc
Hoàng Thượng Ðế quả nhiên đã có thực
trong trí tưởng tượng của đa số người dân Trung Hoa.
Hình ảnh đó có nên có hay không
thì xin hỏi lại đại văn hào Voltaire.
Nhưng
nếu
những
người
Cộng Sản hiểu được rằng Trời cũng có thể
là Thiên Lý hay những Luật Tạo Hóa chi phối
vạn vật, vũ trụ và con người thì có một lúc
nào đó họ sẽ giật mình tự hỏi: họ có
thực đã tỉnh táo chống lại ông Trời hay thực ra họ
đã cuồng tín tin theo một vài "qui luật lịch sử
tất yếu" mà họ đã sáng tạo ra y hệt như những kẻ
mê muội đã tin cái mũ cánh chuồn tưởng tượng
của Ngọc Hoàng Thượng Ðế là có thực ?
"Qui luật lịch sử tất yếu" là gì nếu không
là những định luật chi phối vạn vật, vũ trụ và con người
? Khách quan mà nói những "qui luật lịch sử
tất yếu" đó, nếu có thực, thì chính
là những gì mà mọi người gọi là Thiên
Lý, hay Luật Tạo Hóa. Mê muội tin theo những
"Thiên Lý" do mình tưởng tượng ra, trong lúc
đồng thời tìm mọi cách để triệt hạ Thượng Ðế : người
Cộng Sản đã tự mâu thuẫn với chính họ từ căn
bản của tư tưởng.
Karl
Marx
tìm
ra
cái chân lý muôn đời
không thay đổi là "mâu thuẫn sinh tiến
hóa". Chẳng hiểu cái chân lý đó
có được bao nhiêu phần sự thật, nhưng trong trường hợp
những người Cộng Sản, cái chân lý đó thường
khi chỉ khiến họ nghĩ quẩn vì luôn luôn tự mâu
thuẫn với chính họ. Mâu thuẫn, trong trường hợp
đó chỉ sinh ra bế tắc chứ chẳng hề sinh ra tiến hóa.
Không
phải
tự
nhiên
mà từ khi có loài
người, nhân loại luôn luôn suy nghĩ miên man về
Trời Ðất. Tự thuở có loài người con người
đã đủ trí khôn để nhận thấy vạn vật trong vũ trụ
luôn luôn biến dịch, những biến dịch đó dường như
luôn luôn bị chi phối bởi những định luật thiên
nhiên. Trong trí nghĩ con người hình như vũ
trụ phải có một hệ thống điều lý hoặc một bàn tay
vô hình sắp đặt. Óc tưởng tượng phong
phú đã khiến con người hình dung ra sự hiện hữu
của một Ðấng Chủ Tể vạn vật. Ði thêm một bước nữa,
con người hình dung Ðấng Chủ Tể chí tôn
đó theo hình ảnh của chính con người.
Ðấng Chí Tôn đó ta không thể khẳng định
có hay không có thực. Dãu sao sự hiện
hữu của Ðấng Chí Tôn đó dù chỉ trong
trí tưởng tượng của loài người cũng rất cần thiết
và hữu ích. Vì tin rằng có một
Ðấng Thượng Ðế chí thiện chí công mà
con người ngước mặt nhìn lên nỗ lực hướng Thiện, xa
lánh cái Ác. Nếu không có
ông Trời thì Thiện Tâm trong con người cũng biến
mất. Ðó chính là ý nghĩa
thâm trầm trong câu nói của Voltaire.
Vào
khoảng
tháng
7
năm 1969 cả thế giới hầu như rung
chuyển vì một trong những biến cố lớn lao nhất của nhân
loại: hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin
J.Aldrin Jr. lần đầu tiên đặt chân lên mặt
trăng. Bước chân nhỏ bé của hai phi hành gia
đó trên mặt trăng đánh dấu một bước tiến lớn lao
của loài người. Thế nhưng khi bước vào không
trung, nhìn thấy vũ trụ quá bao la, con người quá
nhỏ bé, Neil Armstrong đã bồi hồi cảm khái thấy
rằng cái biết của loài người chỉ là một hạt bụi so
với cái không biết bao trùm vạn vật trong vũ
trụ. Những điều gì con người đã làm quả thật
còn quá nhỏ nhoi so với những gì hóa
công đã tạo ra. Từ đó, Neil Armstrong
không cảm thấy cao ngạo vì đã làm được một
việc vĩ đại chưa từng có là đặt chân trên mặt
trăng mà chỉ thấy niềm tin vào sự hiện hữu của Thượng
Ðế là xác đáng.
Những
nhà
bác
học
đã cống hiến những hiểu biết
quí báu nhất cho loài người như Einstein, Pascal
thì luôn luôn thành thực thú nhận
là cái biết của họ thật nhỏ nhoi so với những điều họ
chưa biết. Chỉ có những bậc "Ðỉnh cao trí tuệ
loài người" trong xã-hội Cộng Sản Việt Nam vừa đào
được vài đường mương dẫn bùn hôi hám
đã vội vênh váo ngạo mạn hỏi: "Thằng Trời,
mày có làm được công tác thủy lợi như
tao không ?". Sự ngu đần thường đi đôi với óc
cao ngạo; phải chăng đó chính là "qui luật lịch sử
tất yếu" mà người Cộng Sản Việt Nam đã dùng để đưa
một dân tộc có bốn ngàn năm văn hiến xuống
hàng một trong những nước nghèo nàn lạc hậu nhất
trần gian ?
Sự
hiện
hữu
của
một Ðấng Chí Tôn chủ tể của vạn vật
đòi hỏi con người phải có đức tin. Ðó
là lãnh vực của các tôn giáo.
Kẻ viết bài này tự xét không sao đủ hiểu
biết để lạm bàn. Tốt hơn hết là quay về với những
gì mà loài người có thể biết được,
có thể kiểm chứng được; những điều đó dù ta gọi
là Thiên Lý, Thiên Ðạo, hay giản dị hơn
là những Luật Thiên Nhiên chi phối vạn vật, vũ trụ
và con người, thì có lẽ khó ai có
thể phủ nhận được.
Nhìn
dưới
nhãn
quan
đó thì trước hết tất cả
mọi định luật khoa học mà loài người khám
phá được nếu được chứng nghiệm đều là Thiên
Lý.
Ðịnh
luật
Archimedes
đặt
nền tảng cho khoa thủy tĩnh học, cắt nghĩa
tại sao một vật thả vào trong một lưu chất lại nổi.
Ðịnh luật đó có thể phát biểu như sau :
Khi một vật thả trong một lưu chất hoặc hoàn toàn bị lưu
chất phủ ngập hoặc chỉ bị phủ ngập bán phần cũng mất trọng
lượng. Trọng lượng bị mất- cũng có thể coi như lực của lưu
chất đẩy vật nổi lên- bằng với trọng lượng của khối lưu chất bị
dời chỗ.
Ðịnh
luật
Archimedes,
cũng
như vô số những nguyên
lý, định đề, định lý trong mọi nghành khoa học,
như nguyên lý động lực học của Newton, định đề Euclide,
vv... đều là những Luật thiên nhiên chi phối vạn
vật, vũ trụ và con người. Nói khác đi,
đó chính là những Thiên Lý.
Cái
nhìn
cởi
mở
khách quan như vậy sẽ giúp
ta phá bỏ được rất nhiều định kiến đã là hố
sâu chia cắt loài người tạo nên vô số bế tắc
tư tưởng của nhân loại. Mâu thuẫn giữa khoa học
và Thiên Lý tự nhiên sẽ tan biến.
Mâu thuẫn giữa Ðông và Tây, Cổ và
Kim cũng sẽ không còn nữa. Ta sẽ đủ bình
tâm để suy xét và tìm hiểu đâu
là những luật thiên nhiên chi phối vạn vật, vũ trụ
và con người và kiểm chứng xem những luật đó
có thực phù hợp với những gì loài người
chứng nghiệm được hay chỉ là những sáng tác do
trí tưởng tượng phong phú của loài người .
Tuy
nhiên
những
định
luật khoa học chỉ mới là một phần của
Thiên Lý mà không phải là tất cả
Thiên Lý. Ðịnh luật Archimedes có thể
giúp ta hiểu được tại sao một vật thả trong nước lại nổi, nhưng
không sao cắt nghĩa được tại sao con người không thể sống
mãi để cùng Trời Ðất trường tồn bất diệt; định
luật Archimedes cũng không thể cắt nghĩa tại sao con người lại
giết nhau như ngóe. Có muôn nghìn ức
triệu câu hỏi "Tại sao ?" được đặt lên trong đầu óc
con người. Những tư tưởng gia lớn của nhân loại
đã để hết cuộc đời suy ngẫm để tìm ra những Luật
Thiên Nhiên có tính cách bao
quát hơn những định luật khoa học như định luật Archimedes.
Những
Luật
Thiên
Nhiên
có tính cách
bao quát đó bao trùm lên vạn vật, do
đó rất khó diễn tả chính xác bằng
lời. Nhưng những Luật Thiên Nhiên bao quát
đó lại có ảnh hưởng vô cùng lớn lao đối với
mọi suy nghĩ và hành động của nhân loại.
Ở
Ðông
Phương
ba
luồng tư tưởng lớn nhất là Phật
Lão Khổng đã gặp nhau ở Luật Vạn Vật Vô Thường hay
Lẽ Biến Dịch Tuần Hoàn trong vũ trụ.
Luật
Vạn
vật
vô
thường hay lẽ Biến Dịch Tuần Hoàn của Vạn
Vật trong vũ trụ đó hàm ý rằng vạn vật trong vũ
trụ đều luôn luôn biến đổi không ngừng.
Thành Trụ Hoại Không là luật Vạn Vật Vô
Thường của nhà Phật. Doanh Hư Tiêu Tức là lẽ
Biến Dịch được đề cập tới trong Kinh Dịch.
Từ
lẽ
Biến
Dịch
hay luật Vạn vật Vô Thường đó con người
có thể rút ra không biết bao nhiêu hệ luận
khác nhau để ứng dụng vào cuộc sống loài người.
Có
người
đi
đến
kết luận rằng danh lợi , địa vị, tiền tài
cho tới quyền lực đều chỉ là phù du hết; tranh đua cho
lắm rút cục chết cũng thành đống xương khô; những
đau khổ phiền não của con người chỉ là do tham sân
si mà ra cả. Diệt hết tham sân si là diệt
được khổ; diệt được khổ thì loài người sẽ được sống an
vui trong thanh tịnh đại hải, sẽ tìm được niềm vui vĩnh cửu.
Có
người
cho
rằng
luật Biến Dịch hàm ý rằng
xã-hội luôn luôn PHẢI đổi mới. Tất cả những
gì Cũ đều là xấu xa hủ bại, tất cả những gì Mới
đều là ưu việt tốt đẹp. Do đó xã-hội
loài người luôn luôn PHẢI biến dịch, PHẢI đổi mới,
PHẢI cách mạng. Không có biến dịch,
không có đổi mới, không có cách mạng
thì xã hội sẽ đứng ì một chỗ, sẽ lụn bại, sẽ bị
tiêu diệt.
Lý
luận
người
nào
thoạt nghe cũng rất hữu lý,
nhưng ngẫm cho kỹ lại thấy chứa đựng không biết bao nhiêu
điều nghịch lý.
Nếu
ta
tin
chắc
chắn rằng vạn vật trong vũ trụ luôn luôn
biến dịch không ngừng thì xã hội hôm nay,
dù ta không muốn thay đổi, cũng đâu còn
là xã hội ngày hôm qua ? Biến Dịch nếu
đã là định luật tất yếu của tạo hóa thì con
người làm sao cản lại được ? Những người lớn tiếng
hô hào "đổi mới" đã vô tình thú
nhận rằng họ bất mãn về tình trạng "đứng ì một chỗ
không nhúc nhích" của xã-hội hiện hữu,
và do đó mặc nhiên phủ nhận tính cách
xác thực của Luật Biến Dịch. Nếu vạn vật luôn
luôn biến dịch không ngừng thì hô hào
đổi mới chỉ là hô hào làm những chuyện đương
nhiên sẽ xảy ra, muốn tránh cũng không được.
Ðã hô hào "đổi mới" tức là mặc
nhiên cho rằng không phải tất cả vạn vật trong vũ trụ
lúc nào cũng thay đổi.
Vậy
Luật
Biến
Dịch
hay Vạn Vật Vô Thường đúng hay
không đúng ? Liệu rằng trong vũ trụ có
gì luôn luôn bất biến, không bao giờ thay đổi
hay không ?
Có
chứ
!
Ít
ra thì cũng có một
cái không bao giờ thay đổi: đó chính
là Luật Vạn Vật Vô Thường hay Lẽ Biến Dịch. Nếu Luật
Vạn Vật Vô thường đó cũng có tính
cách vô thường, nghĩa là hôm nay đúng
ngày mai có thể sai, thì có nghĩa là
ngày mai ta có thể tìm được một vài hoặc
rất nhiều sự vật trong vũ trụ không tuân theo định luật
đó, nghĩa là không luôn luôn biến dịch,
cứ đứng ì một chỗ không nhúc nhích, cứ bất
biến cùng thời gian. Chỉ khi nào Luật Vạn vật
Vô Thường đó không bao giờ thay đổi, vĩnh viễn
đúng ở mọi nơi, trong mọi trường hợp, trong mọi thời đại
thì ta mới có thể nói đó là Luật Tạo
Hóa.
Trớ
trêu
thay,
như
vậy là ta đã mặc nhiên
công nhận hai điều đối nghịch có thể đồng thời hiện hữu
: Lẽ Biến Dịch và lẽ Bất Dịch, hoặc Luật Vạn Vật Vô
Thường và luật Chân Thường Bất Biến.
Từ
nhận
thức
đó
nảy ra một câu hỏi khác cũng nhức
óc không kém : Mọi hiện tượng xảy ra trong vũ
trụ có tính cách Thuần Lý ( rational ) hay
không Thuần Lý ( irrational ) ? Cho rằng mọi hiện
tượng xảy ra trong vũ trụ đều có tính cách Thuần
Lý có nghĩa là hễ cái gì đã
ÐÚNG thì không thể đồng thời lại SAI.
ÐÚNG và SAI không thể đồng thời hiện hữu.
Ðó
chính
là
căn
bản của khoa toán
học. Dường như rằng Descartes đã đặt nền tảng cho khoa
toán học bằng suy luận chắc nịch sau đây :
Nếu
A
/
B
thì không thể đồng thời A = B
ÐÚNG
khác
SAI,
cái
gì đã
đúng thì không thể đồng thời lại SAI. Nếu
đó quả là chân lý thì vũ trụ
và xã-hội loài người đã vận hành một
cách rất thuần lý. Nhưng nếu vũ trụ vận hành
một cách thuần lý thì ta làm sao giải
thích được sự hiện hữu đồng thời của Luật Vạn Vật Vô
Thường và Luật Chân Thường Bất Biến ? Vũ trụ chỉ
thuần lý khi một trong hai chân lý đó biến
mất. Nhưng nếu Luật Vạn Vật Vô Thường không có
tính cách Thường Hằng Bất Biến thì tự nó
cũng không còn tồn tại. Có cái nọ
thì phải có cái kia, không cái nọ
thì cũng không có cái kia. Có
Luật Chân Thường Bất Biến thì mới có Luật Vạn Vật
Vô Thường. Nói theo Chu Dịch: chính
cái Bất Biến chỉ huy cái Biến.
Từ
câu
hỏi
"Thuần
Lý hay không Thuần Lý ?"
loài người lại tách thành hai.
Xã-hội
Tây
Phương,
cùng
với sự bột phát mạnh
mẽ của Khoa Học Kỹ Thuật, đã khiến cho không ít
người chỉ tin những gì lý trí có thể kiểm
chứng được, nói khác đi chỉ có những gì
thuần lý mới có thể chấp nhận được, ngoài ra đều
là mê tín hết.
Ðối
chiếu
với
những
gì thực sự xảy ra trong xã-hội
loài người, Fyodor Dostoevsky đã có
cái nhìn khác hơn. Ông viết:
"
Tóm
lại,
người
ta có thể nói bất cứ điều
gì về lịch sử thế giới, bất cứ điều gì có thể nảy
sinh trong trí tưởng tượng hỗn độn nhất của con người. Chỉ
duy có một điều họ không thể nói được là
lịch sử loài người có tính cách Thuần
Lý."
Thiên
Lý
như
thế
chẳng hề chỉ có một. Luật
Tạo Hóa có thực hay không có thực ?
Nếu nó có thực thì nó là đạo
Thái Hòa giữa Trời Ðất và Người hay đó
là lẽ Mạnh Ðược Yếu Thua, Ưu Thắng Liệt Bại ? Nếu
nó có thực thì vạn vật trong vũ trụ hiện hữu một
cách Ngẫu Nhiên hay Tất Nhiên ? Vũ trụ
và xã-hội loài người vận hành theo những
luật nhân quả hoặc qui luật lịch sử có tính
cách tất yếu như một guồng máy hay chỉ hỗ tương
tác động lẫn nhau, thích ứng với nhau một cách
hài hòa để cùng tồn tại ?
Bao
nhiêu
câu
hỏi
rối mù được đặt ra từ thuở
có loài người đã, đang và dường như vẫn
còn là những avyakrta hay những điều bất khả tri, bất khả
ngôn (the inexpressible ).
Con
người
có
thực
có Tự Do hay cuộc sống loài
người luôn luôn bị chi phối bởi Ðịnh Mệnh ? Con
người có trách nhiệm gì về những việc mình
làm hay mọi suy nghĩ và hành động của con người
chỉ là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh xã-hội
và những qui luật lịch sử bất biến ? Lương Tâm
có thực hay chỉ là một sáng tác bịa đặt của
con người ?
Bao
nhiêu
câu
hỏi
đó phải chăng chỉ là những
câu hỏi phù phiếm được nêu lên trong
lúc trà dư tửu hậu hay chính là những
nguyên nhân sâu xa đã đưa tới cái chết
của hàng chục triệu người trong những cuộc cách mạng đẫm
máu ở Nga, những đợt cải cách ruộng đất và
cách mạng văn hóa khốc liệt ở Trung Hoa và những
cơn bão tố đưa mấy trăm ngàn người dân Việt
trên đường vượt biển tìm tự do chết chìm uất ức
trong biển cả ?
|
Biến Dịch và Bất
Dịch
|
Tự
ngàn
xưa,
ba
dòng tư tưởng lớn Phật Lão Khổng
đã hòa nhập làm một và có ảnh hưởng
thật sâu đậm đối với văn-hóa Ðông Phương.
Cả ba dòng tư tưởng đó đều đề cập rất nhiều tới Lẽ Biến
Dịch ( hoặc Luật Vạn Vật Vô Thường ) và lẽ Bất Dịch ( hoặc
Luật Chân Thường Bất Biến ).
Tuy
nhiên
nếu
lẽ
Biến Dịch hoặc Luật Vạn Vật Vô Thường rất
phổ cập trong dân gian thì Lẽ Bất Dịch hoặc Luật
Chân Thường Bất Biến dường như rất ít người đề cập tới,
ngoại trừ những học giả khổ tâm nghiên cứu Chu Dịch
và các vị cao tăng.
Vạn
Vật
Vô
Thường
có nghĩa là vạn vật muôn
loài trong vũ trụ luôn luôn biến đổi từng giờ từng
phút từng giây, không có cái gì
cố định, không có cái gì là trường
tồn bất biến. Ðiều đó thật dễ hiểu: Con người
sinh ra, lớn lên, già yếu rồi chết đi; cây cỏ mọc
mầm nhú lên, đâm trồi nảy lộc, cành lá
xum xuê, rồi lá rụng thân khô, tàn lụn
dần đi mà chết. Núi cao có ngày
thành biển sâu; biển xanh có ngày
thành ruộng dâu; trong vũ trụ dường như chẳng có
gì là trường tồn bất diệt.
Chân
Thường
Bất
Biến
ngược lại hàm ý rằng có
những cái luôn luôn bất dịch, không bao giờ
thay đổi.
Nhưng
đã
có
Luật
Vạn Vật Vô Thường tại sao
còn có Luật Chân Thường Bất Biến ?
Ðã có lẽ Biến Dịch tại sao còn có lẽ
Bất Dịch ? Nếu vạn Vật trong vũ trụ luôn luôn thay
đổi không ngừng thì còn có cái
gì không bao giờ thay đổi ?
Ðây
có
thể
là
một trong những công
án hóc búa nhất, khó giải nhất. Nhưng
nếu ta giải được công án này thì ta cũng
đồng thời hy vọng có thể giải được một loạt những công
án khác, những câu hỏi hóc búa dường
như đã đưa tới bế tắc tư tưởng cho toàn thể nhân
loại.
Ðã
nói
vạn
vật
trong vũ trụ luôn luôn
biến đổi không ngừng mà lại nói có những
cái không bao giờ biến đổi, như thế có phải tự
mâu thuẫn không ? Thoạt nghe ta thấy triết lý
Ðông Phương cực kỳ khó hiểu, cực kỳ mâu thuẫn,
cực kỳ phi lý và dường như cực kỳ phản khoa học.
Những
người
quen
với
lối suy luận toán học của Tây Phương
có lẽ sẽ thấy cách suy luận toán học của Tây
Phương rõ ràng sáng sủa, dễ hiểu và thuần
lý hơn rất nhiều. Descartes đã đặt nền tảng cho
khoa toán học bằng suy luận sau đây :
Nếu A / B thì không thể đồng thời
A # B.
Trắng
khác
Ðen.
Cái
gì đã Trắng
thì không thể đồng thời lại Ðen. Nếu vạn vật
đã luôn luôn biến dịch thì không thể
có những cái không bao giờ biến dịch. Ðó
là nền tảng nhị nguyên luận của Tây Phương.
Có
thể
nào
đồng
thời công nhận luật Vạn Vật
Vô Thường và luật Chân Thường Bất Biến mà
không thấy tự mâu thuẫn không ? Ngay đến một
cao đồ của Ðức Phật là ngài A Nan cũng thấy mâu
thuẫn đó thực không thể hiểu nổi.
Trong
kinh
Lăng
Nghiêm
có dẫn tích đức Phật sai La
Hầu La đánh tiếng chuông lên để giải cho ngài
A Nan thấy cái "tính" trong vạn vật. Vạn vật tuy
thay đổi không ngừng nhưng cái "tính" của vạn vật
thì không hề thay đổi.
Ðoạn
kinh
Lăng
Nghiêm
vẫn còn quá khó
hiểu đối với mọi người chúng ta. Ta thử tìm những
thí dụ cụ thể hơn, có tính cách khoa-học
hơn để làm sáng tỏ những gì đức Phật muốn
nói.
Nói
rằng
vạn
vật
trong vũ trụ luôn luôn biến đổi
không ngừng thì thật dễ hiểu, chẳng cần bàn
tới. Ðiều ta cần tìm hiểu là : có
gì luôn luôn bất dịch, không bao giờ thay đổi
hay không ?
Giả
thử
ta
đứng
nhìn một dòng nước và nhớ
câu Khổng Tử nói :
"Thệ
giả
như
tư
phù ! bất xả trú dạ."
(
Nước
trôi
mãi
như thế này ư ! Ngày
đêm không ngừng. )
Thực
là
một
hình
ảnh sống động nói lên sự
biến dịch của vạn vật trong vũ trụ. Dòng nước chảy
không ngừng từ núi cao ra biển cả, bốc lên trời, rơi
xuống rừng núi và lại chảy ra biển cả. Quả
nhiên rằng nước luôn luôn biến đổi.
Thế
nhưng
ngày
nay
ai cũng biết rằng dưới áp suất
khí trời nước bốc hơi ở 100 độ Celsius và đông đặc
thành nước đá ở 0 độ Celsius. Nhiệt độ đông
đặc và nhiệt độ bốc hơi của nước dưới áp suất khí
trời được dùng làm mốc đo nhiệt độ. Sở dĩ ta
có thể dùng nhiệt độ đông đặc và nhiệt độ
bốc hơi của nước làm mốc đo nhiệt dộ vì qua rất
nhiều quan sát và thí nghiệm ta kết luận rằng hai
nhiệt đó bất biến, không thay đổi. Ðó
là cái "tính" của nước mà đức Phật
đã nói tới.
Tự
ngàn
xưa
nước
vẫn trôi chảy mãi, vẫn luôn
luôn biến dịch; nhưng trong quá khứ, hiện tại cũng như
tương lai, cái "tính" của nước vẫn không bao giờ
thay đổi : hễ đun tới 100 độ Celsius thì nước bốc hơi, hễ
để lạnh tới 0 độ Celsius thì nước đông đặc. Trực
giác cho ta thấy rằng tuy vạn vật luôn luôn biến đổi
nhưng cái "tính" của vạn vật thì lại bất dịch,
không bao giờ thay đổi.
Thử
bàn
sang
một
lãnh vực khác : những Luật
Thiên Nhiên hay Luật Tạo Hóa. Ta thử
xét những định luật và nguyên lý khoa học
xem chúng biến dịch hay bất dịch. Archimedes phát
biểu định luật mang tên ông vào khoảng 200 năm
trước Thiên Chúa giáng sinh; định luật đó
đã được chứng nghiệm là đúng vào thời
đó, nay đã hơn 2000 năm sau vẫn luôn luôn
được chứng nghiệm. Nếu một định luật hoặc nguyên lý
khoa học được chứng nghiệm là đúng thì nó
sẽ còn đúng mãi. Nếu nó không
còn đúng nữa thì ta cũng chẳng thể gọi nó
là định luật. Như thế mọi định luật khoa học đều phải
có tính cách bất dịch. Mọi Luật Tạo
Hóa nói chung đều như vậy.
Từ
những
dẫn
chứng
trên ta thấy Ðông Phương có
cái nhìn thâm thúy vô cùng khi
lấy Tam Tài ( Thiên Ðịa Nhân ) làm nền
tảng cho vũ trụ quan và nhân sinh quan nhân
bản. Khi ta bàn tới vạn vật biến dịch trong vũ trụ
là ta bàn tới vật chất; đó chính là
lãnh vực của ÐỊA trong Tam Tài. Khi ta
bàn tới "tính" và Luật Tạo Hóa ( bao gồm cả
những định luật và nguyên lý khoa học ) là
ta bàn tới lãnh vực của THIÊN ( thiên
lý, thiên tính). Luật Tạo Hóa
là những luật chi phối vạn vật và con người trong vũ trụ
: THIÊN chi phối ÐỊA và NHÂN.
ÐỊA ( vật chất ) luôn luôn biến dịch,
THIÊN ( tính của vật chất và những luật Tạo
Hóa ) luôn luôn bất dịch. Con người vừa được
cấu thành bởi vật chất vừa bị chi phối bởi những Luật
Thiên Nhiên cho nên hàm chứa cả những
thành tố BIẾN và BẤT BIẾN. Nhưng vì
THIÊN chi phối ÐỊA và NHÂN nên sách
Chu Dịch mới có câu : "Cái Bất Biến chỉ huy
cái Biến" chính vì lẽ đó.
Sự
hiện
hữu
đồng
thời của lẽ Biến Dịch và lẽ Bất Dịch là
một công án cực kỳ hóc hiểm, không thể
dùng tri thức suy luận toán học thông thường để
phân giải. Tri thức suy luận toán học có
tính cách thuần lý; mọi hiện tượng xảy ra trong vũ
trụ dường như không phải lúc nào cũng thuần
lý. Dường như ta phải dùng tới bát
nhã hoặc trực giác không phân cực ( non-dual
intuition ) mới có thể hiểu nổi .
Tri
thức
thực
nghiệm
cho ta thấy vạn vật trong vũ trụ luôn
luôn biến đổi không ngừng. Tri thức thuần lý
cho ta thấy luật Biến Dịch có tính cách thường
hằng bất biến, bất di bất dịch. Trớ trêu thay khi ta
công nhận Luật Biến Dịch có tính cách bất
dịch thường hằng bất biến thì ít ra trong vũ trụ ta
đã tìm thấy một cái không bao giờ thay đổi
: đó chính là Luật Biến Dịch.
Mâu thuẫn đó đưa tới bế tắc trên con đường
dùng lý trí để đi tìm chân
lý. Chỉ có bát nhã hay trực
giác không phân cực mới có thể phá
giải nổi bế tắc đó.
Một
trong
những
công
án thường được đề cập tới trong thiền
môn là câu hỏi sau đây :
"Người
có
thể
dùng
hai bàn tay để tạo thành
tiếng vỗ tay. Vậy thế nào là tiếng vỗ tay của một
bàn tay ?"
Trực
giác
giúp
ta
nhận thấy ngay là không
thể nào có tiếng vỗ tay của một bàn tay.
Cũng như vậy, "Vạn vật luôn luôn biến dịch" là một
bàn tay, "Luật biến dịch đó có tính
cách thường hằng bất biến" là bàn tay thứ
hai. Nếu muốn có vế thứ nhất thì không thể
không có vế thứ hai, cũng như muốn có tiếng vỗ tay
thì không thể chỉ dùng một bàn tay.
Tới
đây
thì
ta
thấy vạn vật trong vũ trụ luôn
luôn hỗ tương tùy thuộc lẫn nhau. Muốn giải một
công án thì đồng thời ta lại vấp phải một, hoặc rất
nhiều , công án khác.
Suy
luận
toán
học
rất rõ ràng sáng sủa, dễ
hiểu, chính xác, hữu dụng và thuần lý;
nhưng dường như lại không hoàn toàn phù hợp
với những gì thực sự xảy ra trong vũ trụ.
Dường
như
ngay
sau
khi ta vừa khám phá ra một "chân
lý", chỉ cần suy ngẫm lại và đối chiếu với những
gì thực sự xảy ra trong vũ trụ, ta lại giật mình nhận
thấy "chân lý" đó hầu như rung rinh muốn sụp đổ.
Mọi
hiện
tượng
xảy
ra trong vũ trụ có tính cách
THUẦN LÝ ( rational ) hay KHÔNG THUẦN
LÝ ( irrational ) ? Ðây lại là một
công án vô cùng nan giải.
Trước
hết
xin
hãy
cùng nhau suy ngẫm lại suy luận
toán học của Descartes :
"Nếu A # B thì không thể đồng thời A = B
"
Thoạt
tiên
ta
thấy
suy luận toán học của Descartes
quá đúng, đúng đến nỗi hầu như không thể
nào tìm được một kẽ hở để mà chỉ trích;
đúng một cách hiển nhiên như 1 + 1 = 2 vậy.
Nhưng
suy
ngẫm
lại
và đối chiếu với những gì thực sự xảy
ra trong vũ trụ ta lại thấy dường như chân lý đó
chỉ đúng trong một khoảnh khắc phù du trong khi ta
làm toán.
Giá
thử
có
hai
nhóm người; nhóm thứ nhất ta
gọi là A, nhóm thứ hai ta gọi là B, mỗi
nhóm đều gồm 2 người. Ta có thể nói hai
nhóm người đó bằng nhau được không ? Ðược
lắm chứ ! Vì cả hai nhóm đều gồm 2 người như nhau.
Giả
thiết
:
A
= 2 ; B = 2
Suy
ra
:
A
= B
Suy
luận
toán
học
đó chắc như cua gạch.
Nhưng
giả
thử
nhóm
A là một cặp vợ chồng trẻ khỏe mạnh
và rất mực hòa thuận; nhóm B là hai kẻ
thù bất cộng đái thiên như Sadam Hussein và
George Bush chẳng hạn. Nếu ta thả hai nhóm người đó
lên hai hoang đảo khác nhau thì sau một thời gian
rất có thể cặp vợ chồng ở nhóm A sẽ sinh con đẻ
cái thành một gia đình đông đúc,
trong khi đó hai người ở nhóm B có lẽ đã
biến thành một kẻ tàng tật và một bộ xương
khô hoặc cả hai bộ xương khô.
Ngay
trong
khoảnh
khắc
mà ta làm toán thì
suy luận của Descartes dường như quá đúng; nhưng chỉ một
thời gian sau đó thì suy luận đó lại không
còn đúng nữa. Sở dĩ như vậy là vì
trong khi ta suy luận toán học ta đã giản lược hóa
con người thành những con số. Phải giản lược hóa
như vậy thì ta mới cộng trừ nhân chia được.
Trên thực tế con người chẳng bao giờ chỉ là những con số.
Nếu
con
người
chỉ
là những con số thì 1 + 1 = 2 là
một chân lý muôn đời không thay đổi, ta
có thể đếm đầu người mà vững bụng cộng trừ nhân
chia với tin tưởng rằng mọi hiện tượng trong vũ trụ đều diễn biến một
cách tuyệt đối thuần lý như những công thức
toán học. Tiếc thay con người chẳng hề chỉ là những
con số, vì thế suy luận toán học của Descartes
đúng đấy mà cũng có thể sai đấy.
Nhưng
dẫn
chứng
nói
trên chỉ khiến ta mường tượng thấy mọi
hiện tượng xảy ra trong vũ trụ không hẳn đã luôn
luôn thuần lý như Descartes đã nghĩ; dẫn chứng
đó không đủ để ta kết luận rằng mọi hiện tượng xảy ra
trong vũ trụ đều có tính cách phi lý (
irrational ), nghĩa là không tuân theo một định luật
nào, không sao thể hiểu nổi và cũng không sao
thể tiên liệu trước được.
Nếu
ta
cho
rằng
mọi hiện tượng xảy ra trong vũ trụ đều có
tính cách phi lý thì có nghĩa
là ta đã mặc nhiên phủ nhận tất cả mọi luật tạo
hóa. Ở thời đại ngày nay quan niệm đó dường
như khó có thể đứng vững.
Biết
bao
định
luật
khoa học đã được chứng nghiệm và vẫn
còn được chứng nghiệm. Ta không thể phủ nhận sự hiện
hữu của những Luật Tạo Hóa. Tuy thế mọi hiện tượng xảy ra
trong vũ trụ có tính cách thuần lý hay
không thuần lý vẫn là một bí ẩn chưa thể
hiểu nổi. Ðó vẫn là một câu hỏi mà
loài người vẫn đang khắc khoải muốn tìm lời giải
đáp, nhưng cho đến nay vẫn chưa ai tìm được một lời giải
đáp thỏa đáng.
Tính
cách
thuần
lý
hay không thuần lý
của mọi hiện tượng trong vũ trụ tùy thuộc rất nhiều vào
nhận thức của nhân loại về lẽ Biến Dịch và Bất Dịch.
Ta hiểu lẽ Biến Dịch và Bất Dịch đó ra sao ?
Phải
chăng
vạn
vật
trong vũ trụ luôn luôn biến dịch theo
những luật nhân quả khắt khe cố định ? Phải chăng nếu ta
biết rõ những luật nhân quả đó thì ta
có thể tiên đoán thật chính xác mọi
hiện tượng xảy ra trong vũ trụ cũng như trong xã hội loài
người ? Nếu Luật Nhân Quả chi phối vạn vật trong vũ trụ
thì mọi hiện tượng xảy ra trong trời đất có tính
cách Tất nhiên hay Ngẫu Nhiên ? Biến Dịch cũng
có nghĩa là Tiến Hóa; vậy vũ trụ và
xã hội loài người tiến hóa theo đường thẳng hay
biến dịch tuần hoàn theo từng chu kỳ ?
Bao
nhiêu
câu
hỏi
đó rối mù và dường
như chỉ là những công án hóc hiểm nát
óc không sao thể hiểu nổi. Dãu sao ta cũng sẽ
phải cố gắng tìm hiểu từng câu hỏi một, bởi vì
dù muốn dù không trong đầu mỗi người cũng từ từ
hình thành những lời giải đáp cho những câu
hỏi đó hoặc thật rõ rệt, hoặc mù mờ lúc ẩn
lúc hiện. Những lời giải đáp cho những câu
hỏi đó của mỗi cá nhân trong xã hội sẽ
hòa với nhau biến thành một vũ trụ quan và
nhân sinh quan chung cho đại đa số người dân trong
nước. Vũ trụ quan và nhân sinh quan đó
chính là nền móng của một nền văn hóa.
Có
người
chắc
hẳn
sẽ thắc mắc tại sao trong thời đại tân
tiến hiện nay mà còn mất thì giờ bàn những
chuyện trên trời dưới đất vớ vẩn trừu tượng và vô bổ
như Biến Dịch và Bất Dịch.
Có
lẽ
"Biến
Dịch"
và "Bất Dịch" là những chữ
quá cổ nay ít ai còn dùng tới. Nhưng
nếu ta hiểu một cách giản dị Biến Dịch có nghĩa là
"Thay Ðổi" và Bất Dịch có nghĩa là
"Không Thay Ðổi", ta sẽ thấy vấn đề đặt ra chẳng hề trừu
tượng và xa vời chút nào. Chỉ cần đổi chữ
dùng đi một chút ta sẽ giật mình nhận thấy lẽ Biến
Dịch và Bất Dịch đó ảnh hưởng sâu đậm đến mọi sinh
hoạt của loài người như thế nào.
Cuộc
"cách
mạng"
1789
tại Pháp làm đảo lộn cơ cấu
xã hội ở các nước Tây Phương; cuộc "cách
mạng" tháng 10 ở Nga đưa một phần nhân loại vào
những cơn thảm họa tàn khốc suốt 70 năm trường. Trên
địa hạt nông nghiệp, người ta thường nói tới cuộc
"cách mạng xanh", trên địa hạt khoa học kỹ thuật người ta
lại bàn tới cuộc "cách mạng tín học".
"Cách mạng" là gì, nếu không phải là
"Thay Ðổi" ? Những thay đổi đó dù nông
hay sâu, dù nhanh hay chậm, dù tốt hay xấu
thì vẫn là thay đổi; và thay đổi thì
có khác gì Biến Dịch ?
"Cách
mạng"
cũng
là
Biến Dịch, "Ðổi Mới" cũng
là Biến Dịch, "Cải Tạo" cũng là Biến Dịch, "Ðổi đời"
cũng là Biến Dịch. Biến Dịch có thể mang lại niềm
hy vọng lớn lao cho nhân loại như cuộc cách mạng 1789 ở
Pháp, cuộc cách mạng xanh trong lãnh vực
nông nghiệp, cuộc cách mạng tín học trong
lãnh vực khoa học kỹ thuật; nhưng Biến Dịch cũng có nghĩa
là "cải cách ruộng đất", là "cách mạng văn
hóa", là "cải tạo" , là "đổi đời". Nghĩ tới
các trại cải tạo hoặc tới cuộc đổi đời ngày 30 - 4 -1975
là muốn rụng rời chân tay.
Một
trong
những
câu
nói của Karl Marx đã hầu như
làm rung chuyển nếp suy nghĩ của loài người trong mấy
thập niên vừa qua là câu ông ta phê
bình các tư tưởng gia của nhân loại.
Ông viết:
"The
philosophers
have
only
interpreted the world in
different ways, but the point is to make it different."
(
Các
triết
gia
cho tới nay đã chỉ diễn giải
vũ trụ theo những cách nhìn khác nhau, nhưng điều
cần thiết là phải đổi khác nó đi. )
Câu
nói
đó
có
một hấp lực quyến rũ thật ma
quái. Khi nói tới nỗ lực đổi khác vũ trụ,
đổi khác vạn vật, đổi khác xã hội, đổi khác
con người là nói tới ý định muốn thay trời
hành đạo, muốn thay đổi vạn vật trong vũ trụ theo ý muốn
con người, hay nói đúng hơn theo ý muốn của một
nhóm người. Ðó là nỗ lực đưa con người
lên ngang hàng với Thượng Ðế hoặc trên Thượng
Ðế.
Ý
tưởng
táo
bạo
đó đã lôi cuốn
không ít người nhẹ dạ. Tư tưởng "cách mạng"
đó đã như một luồng gió mới thổi vào
xã hội Việt Nam cổ kính, thế rồi một sớm một chiều những
con người mới xã hội chủ nghĩa đã đứng dậy đập phá
tan tành nền văn hóa của dân tộc.
Ngẫm
cho
kỹ
sẽ
thấy một điều vô cùng lạ lùng
khó hiểu. Luồng gió cách mạng thay cũ đổi
mới đó đã thổi vào xã hội Việt Nam một tư
tưởng rất mới là vũ trụ và xã hội loài
người đã không hề thay đổi suốt mấy ngàn năm
và như thế là lẽ Biến Dịch của vạn vật trong vũ trụ
mà Ðông Phương thường đề cập tới dường như không
đúng, hoặc không hề có. Dường như tự thuở
khai thiên lập địa vạn vật trong vũ trụ cũng như xã
hội loài người luôn luôn ù lì
bất biến, và chỉ có nỗ lực của những con người
cách mạng như Karl Marx mới có thể "đổi khác"
nó đi. Nhưng xét cho cùng thì
ý nghĩ của Karl Marx cũng chẳng có gì lạ.
Nếu ta muốn người Tây Phương cầm đũa ăn cơm với mắm bồ hóc
như ta mà họ không chịu nghe theo, cứ giữ mãi
cái hủ tục ăn bánh mì có từ mấy ngàn
năm, thì có lẽ ta cũng bực mình vì họ
quá ù lì bảo thủ thiếu hẳn tinh thần cách
mạng thay cũ đổi mới như ta. "Cách mạng" dường như chỉ
có nghĩa là mình nay đã đổi khác,
đã biến thành người khác, suy nghĩ bằng đầu
óc của người khác, mở miệng nói ra những điều
người khác muốn mình nói, hành động theo
ý muốn của người khác, cái đổi khác lớn
nhất là mình không còn là mình
nữa.
Từ
khi
có
sự
va chạm với nền văn hóa Tây Phương
và nhất là từ khi có sự du nhập chủ nghĩa Cộng Sản
vào Việt Nam thì lòng háo hức thay cũ đổi
mới hầu như luôn luôn bồng bột trong lòng đa số
người dân Việt.
Nhưng
thay
cũ
đổi
mới hoài mà sao dân tộc
mình vẫn không khá, chỉ thấy mỗi ngày một
thêm lụn bại ? Tại sao cuộc cách mạng 1789 đã
đưa dân tộc Pháp tiến lên mà cuộc cách
mạng tháng 10 ở Nga rút cục đã sụp đổ theo bức
tường Bá Linh ? Tại sao cuộc cách mạng mùa
thu héo úa ở Việt Nam đã chỉ đưa mấy trăm
ngàn người dân Việt chết tức tưởi trong lòng biển
cả và cả một dân tộc bốn ngàn năm văn hiến xuống
hàng một trong những nước nghèo nàn lạc hậu nhất
trần gian ? Hẳn nhiên phải có một cái
gì sai lầm ghê gớm !
Ðôi
khi
tĩnh
tâm,
tôi chợt nhớ lời Phật dạy :
"Khi
còn
ở
bên
này bến mê thì
núi là núi sông là sông, khi
bắt đầu dời khỏi
bến mê thì núi
không còn là núi sông không
còn là sông, khi sang tới bờ giác ngộ
thì núi vẫn là núi sông vẫn là
sông."
Chẳng
biết
mình
vẫn
còn mê hay đã tỉnh ?
Qua
bao
nhiêu
đổi
thay trong xã hội, chẳng biết giấc mơ
lớn lao nhất trong lòng mỗi người dân Việt nay vẫn chỉ
là mau mau "thay cũ đổi mới" cho sớm thành quả chuối vỏ
vàng ruột trắng hoặc con khỉ đỏ đít hay ước mơ thầm
kín vẫn chỉ là giấc mơ giản dị được làm người như
thuở ban đầu ?
Biến
Dịch
hay
Bất
Dịch ngẫm lại vẫn luôn luôn là
những thắc mắc lớn lao cho toàn thể nhân loại.
|
Tất Nhiên
Và Ngẫu Nhiên
|
Kẻ
hậu
sinh
này
thuở nhỏ may mắn được theo học chữ Nho
vài năm. Lớn lên cũng có dịp tìm hiểu
Nho học, hoặc ở môi trường Ðại học, hoặc ngoài
đời. Trong tất cả những sách gọi là kinh điển của
nhà Nho để lại, người viết vốn rất ngưỡng mộ và cho rằng
Chu Dịch là một bộ kỳ thư của nhân loại, ý tứ thật
cao thâm. Chỉ duy có điều sách viết cao
quá, thật khó hiểu. Mãi đến khi đã
hơn năm chục tuổi đầu, đọc đi đọc lại rất nhiều lần mới võ vẽ
gọi là hiểu được đôi điều hữu ích.
Theo
sự
hiểu
biết
nông cạn của người viết thì sách
Chu Dịch trước hết đưa ra một vũ trụ quan cho thấy lẽ Biến Dịch của vạn
vật hoặc nguyên lý vận hành của vũ trụ. Từ
nguyên lý vận hành vũ trụ mà suy ra những
nguyên lý chi phối cuộc sống con người. Người
tinh thông Dịch lý do đó hiểu được lẽ thịnh suy của
một triều đại, biết được lẽ tồn vong của một xã-hội, biết
cách xử thế sao cho hòa hợp với người, biết lúc
tiến lúc thoái, biết lúc nào nên
cương nên nhu. Tiến thêm một bước nữa người thấu hiểu
Dịch lý có lẽ có thể đạt tới khả năng tiên
tri mà Lão Tử gọi là "bất xuất hộ nhi tri
thiên hạ" ( Không ra khỏi cửa mà biết chuyện
thiên hạ )
Trong
lịch
sử
nhân
loại không thiếu những người có
khả năng tiên tri đó. Khổng Minh ngồi trong
túp lều tranh mà tiên liệu được thiên hạ sẽ
chia ba. Churchill thấy thỏa ước Munich được ký kết
mà nghe trước được tiếng chân giày của đoàn
quân Ðức Quốc Xã sẽ rầm rập bước khắp Âu
Châu. Những nhà thiên văn nhìn trong
viễn vọng kính mà tiên liệu trước sự xuất hiện của
những vì sao xa lắc xa lơ. Những nhà quản trị
nhìn vào biểu đồ thống kê mà biết trước được
nền kinh tế một nước sẽ suy thoái hoặc sắp sang thời kỳ
phát triển phồn thịnh. Thời tiết ngày nay có
thể được tiên đoán khá chính xác 24
giờ trước khi xảy tới. Những thiên tai như hạn hán,
bão tố, động đất đều có thể tiên liệu trước được.
Như
thế
khả
năng
tiên tri của con người là một khả năng
có thực, khó ai có thể phủ nhận
nổi.
Tiên
tri
là
biết
rõ mối tương quan giữa sự
vật. Trong mọi trường hợp, tiên liệu hay tiên tri
là đoán trước những sự kiện chưa xảy ra nhưng sẽ xảy ra (
nếu ta đoán đúng ). Căn cứ vào đâu
mà ta có thể tiên tri hay tiên đoán
? Ngày xưa người ta thường căn cứ vào những điềm
trời. Chẳng hạn phong dao có câu :
"Mống
đông
vồng
tây,
chẳng mưa dây cũng bão
dật"
Ngày
nay
người
ta
thường căn cứ vào những hiện tượng quan
sát được hoặc những dữ kiện thâu thập được. Nhưng
yếu tố chính yếu giúp ta tiên đoán được một
sự kiện chưa xảy ra chính là những nguyên lý
vận hành vũ trụ hoặc những Luật Tạo Hóa. Hầu hết
các Luật Tạo Hóa hoặc định luật khoa học đều có
tính cách nhân quả. Nếu không nắm được
tương quan nhân quả giữa sự vật thì có lẽ cũng
không có cách gì biết trước được những
chuyện chưa hề xảy tới.
Tương
quan
nhân
quả
có thể rất rõ ràng
chính xác và biểu thị bằng những công thức
toán học, như công thức E=mc2 của
Einstein, nhưng cũng có thể chỉ là những sợi dây tơ
hồng mỏng manh kết nối giữa triệu chứng và những chuyện sẽ xảy
ra hoặc chưa nhìn thấy trước mắt. Chẳng hạn một y sĩ thấy
áp huyết bệnh nhân quá cao nghĩ ngay rằng rất
có thể bệnh nhân là một người ghiền thuốc lá
quá nặng.
Mọi
Luật
Tạo
Hóa
hầu như đều có tính cách
nhân quả. Nhưng thế nào là nhân quả
? Phải chăng hễ nhân nào thì tất nhiên
phải sinh quả đó ? Tới đây thì một câu
hỏi lớn lại gợi cho ta suy nghĩ rất nhiều : Mọi hiện tượng xảy ra
trong vũ trụ có tính cách TẤT NHIÊN hay
NGÂŨ NHIÊN ?
Phải
chăng
vũ
trụ
giống như một guồng máy vận hành theo
những qui tắc cố định bất biến không thể nào khác
được, hay vạn vật trong vũ trụ từ thuở khai thiên lập địa
vốn đã hỗn mang chẳng hề tuân theo một định luật nhất định
cứng ngắc nào ? Ðây là một câu hỏi
khó ai có thể trả lời dứt khoát được.
Nếu
ta
cho
rằng
vũ trụ giống như một guồng máy vận hành
theo những qui tắc cố định bất biến, thì mọi hiện tượng xảy ra
trong trời đất phải chăng đều có tính cách TẤT
NHIÊN và THUẦN LÝ ? Với cái
nhìn này thì trong vũ trụ chẳng có
gì là bí ẩn cả. Tất cả mọi hiện tượng
xảy ra trong trời đất đều có thể giải thích được bằng
những định luật khoa học khách quan; nếu ta nắm vững những định
luật khoa học khách quan thì không những ta
có thể hiểu và giải thích được mọi hiện tượng xảy
ra trong trời đất mà ta còn có thể tiên
đoán thật chính xác những gì chưa xảy ra
nhưng chắc chắn sẽ phải xảy đến. Nếu có gì ta chưa
hiểu được thì chỉ là vì nhân loại chưa
khám phá hết được những định luật khoa học liên
hệ; nhưng chắc chắn một ngày kia khoa học sẽ tiến tới mức
giải thích được tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ. Ði
xa hơn nữa khoa học có thể giúp cho loài
người thay đổi vũ trụ và xã-hội loài người theo
đúng ý muốn con người.
Karl
Marx
đã
đưa
ra những "qui luật lịch sử tất yếu" và
cho rằng những qui luật đó có tính cách
khoa học khách quan nên không thể nào sai
được. Marx từng nói :"Sẽ có một ngày chuyện
TẤT NHIÊN phải đến không thể nào tránh được
là những kẻ chiếm hữu sẽ bị truất hữu". Ngày ấy
đã đến cho hàng chục triệu người dân ở Nga,
Trung Cộng, Việt Nam cũng như các nước Cộng Sản
khác. Họ đã bị "truất hữu" không những
chỉ ruộng đất, nhà cửa, vợ con mà còn cả mạng sống
của họ nữa. Nếu hàng chục triệu người dân hiền
lành vô tội ở các nước Cộng Sản đã bị
thảm sát thì đó là lỗi ở họ. Họ
đã NGÂŨ NHIÊN sinh ra vào một thời mà
phong trào Cộng Sản đang thịnh phát; do đó họ
có bị thảm sát cũng là chuyện TẤT NHIÊN
thôi. Nếu họ không bị thảm sát thì
làm sao có thể chứng minh được là những "qui luật
lịch sử tất yếu" của Karl Marx có tính cách tất
yếu ? Những người dân vô tội đó chỉ cần sinh
ra sớm một chút, trước khi có Karl Marx, hoặc trễ một
chút, sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ thì
cái chuyện TẤT NHIÊN bị thảm sát đó
có lẽ đã không bao giờ xảy ra.
Trực
giác
cho
ta
thấy mọi "Luật Tạo Hóa" nếu quả thật
là Luật Tạo Hóa thì ắt phải luôn luôn
được chứng nghiệm. Nếu những "qui luật lịch sử tất yếu" của Karl
Marx không được chứng nghiệm thì chỉ vì một lẽ giản
dị nó không phải là Luật Tạo Hóa mà
chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng do một vài
cá nhân sáng tạo ra. Tin theo những "qui luật
lịch sử" đó để vội khẳng định dòng lịch sử nhất định phải
thế này hoặc thế nọ thật chẳng khác gì tin theo
lời của một kẻ mất trí.
Cái
hay
của
Kinh
Dịch là những Luật Biến Dịch được đề cập
tới không có tính cách cứng ngắc của những
công thức toán học. Vạn vật trong vũ trụ luôn
luôn biến dịch theo ức triệu nẻo khác nhau chứ không
phải chỉ có một nhân một quả duy nhất. Sáng
suốt thì vẫn có thể tiên đoán được những
gì có thể xảy tới, không sáng suốt
thì chỉ thành những ông thày bói sờ
mu rùa.
Mọi
hiện
tượng
xảy
ra trong vũ trụ đều tùy thuộc quá
nhiều yếu tố chứ không phải chỉ tùy thuộc vào một
vài yếu tố duy nhất. Vì thế có những điều ta
có thể tiên liệu TẤT NHIÊN sẽ phải xảy tới, nhưng
có những điều ta rất khó mà quyết đoán sẽ
xảy tới ra sao.
Cứ
suy
ngẫm
về
cuộc sống con người sẽ thấy ngay lời giải cho câu
hỏi "Tất Nhiên hay Ngẫu Nhiên ?". Con người sinh ra
ai cũng có lúc phải chết. Thành Trụ Hoại
Không là luật Vạn Vật Vô Thường của nhà Phật,
luật đó có tính cách thường hằng bất biến
không bao giờ thay đổi. Từ thuở khai thiên lập địa
chưa từng có ai đã sinh ra mà không bao giờ
chết. Theo truyền thuyết ông Bành Tổ sống hơn 300
năm. Cứ cho rằng truyền thuyết đó đúng đi nữa,
thì nay đống xương tàn của ông Bành Tổ cũng
đã mục trong lòng đất. Như thế quả nhiên
đã có những luật tạo hóa khiến ta vững tin rằng
có những hiện tượng trong trời đất TẤT NHIÊN sẽ phải xảy
đến.
Nhưng
nếu
từ
những
sự kiện đó mà vội vã kết luận
rằng tất cả mọi hiện tượng trong trời đất đều có tính
cách Tất Nhiên thì e rằng ta sẽ trở thành
những kẻ cuồng tín ngụp lặn trong bến mê, dù sự
mê tín đó dựa trên chiếc mu rùa nhẵn
nhụi, những định luật khoa học khách quan thật chính
xác hay những "qui luật lịch sử tất yếu" của Karl Marx.
Dãu
rằng
con
người
sinh ra trước sau ai cũng phải chết , nhưng
có cái chết nào giống cái chết nào
đâu ? Có kẻ vừa mới lọt lòng đã chết
non khi chưa đầy tuổi thôi nôi, có người chết
vì bom đạn, có người chết vì bệnh tật, có
người chết vì đói khát kiệt lực, và cũng
có người chết êm ái nhẹ nhàng trong
lúc tuổi già. Có ai biết trước được chắc
chắn một đứa trẻ vừa sinh ra đời sau này Tất Nhiên sẽ phải
thế này hoặc thế nọ hay không ?
Tại
sao
cũng
là
Luật Tạo Hóa mà có những
luật ta có thể dựa vào để khẳng định sẽ có những
chuyện tất nhiên sẽ phải xảy ra trong khi cũng là luật tạo
hóa mà có những định luật khác không
cho phép ta quyết đoán như vậy ?
Ném
một
hòn
đá
xuống ao ta biết chắc chắn
nó sẽ chìm, không thể nào khác được.
Thả một quả trứng gà trong ly nước ta thấy ra sao ?
Thông thường thì quả trứng sẽ chìm. Nhưng
có người tinh nghịch có thể "phù phép" cho
quả trứng nổi. Họ đã làm được chuyện đó
mà chẳng cần có phép thần thông gì
hết, chỉ cần bỏ thật nhiều muối vào ly nước và khoắng cho
tan. Tỉ trọng nước muối lớn hơn tỉ trọng nước sông hồ sẽ
làm quả trứng nổi lên. Nếu ta vội vã kết luận
rằng hễ thả một quả trứng vào trong một ly nước Tất
Nhiên quả trứng sẽ chìm thì ta đã lầm lẫn
lớn. Trong cả hai trường hợp, định luật Archimedes vẫn y hệt như
nhau không có gì thay đổi, tuy nhiên hiện
tượng quả trứng chìm hay nổi thì khác nhau rất xa.
Newton
nhìn
quả
táo
rơi mà suy ra nguyên
lý động lực học : Mọi vật rơi trong chân không
đều có cùng một độ gia tốc. Nguyên lý
đó rất đúng nếu các vật đem ra thí nghiệm
rơi trong chân không. Nếu ta thả những vật đó
rơi trong không khí thì dường như nguyên
lý đó không còn đúng nữa; sức cản của
không khí sẽ làm cho những vật đó rơi với
những độ gia tốc khác nhau. Trong vũ trụ vạn vật
luôn luôn hỗ tương tác động lẫn nhau.
Nói cách khác vạn vật trong vũ trụ bị chi phối bởi
vô số Luật Tạo Hóa, chứ không phải chỉ tuân
theo một Luật Tạo Hóa duy nhất.
Ðức
Phật
đưa
ra
Luật Nhân Quả, có người vội vã
kết luận rằng Luật Nhân Quả có nghĩa là "nhất ẩm
nhất trác giai do tiền định" ( một miếng ăn, một ngụm nước uống
đều do tiền định). Hệ luận đó e rằng quá võ
đoán chăng ?
Ðức
Phật
thường
nói
tới thập nhị nhân
duyên. Ðã có Nhân lại có
Duyên, mà còn có rất nhiều Nhân
Duyên khác nhau thì làm sao mà
có thể mọi hiện tượng trong trời đất đều do tiền định được
? Vì có vô số "Luật Tạo Hóa" đồng thời
tác động lên vạn vật nên ta mới thấy hầu như chẳng
thể tiên liệu một cách thật chính xác vũ trụ
hoặc xã hội loài người sẽ biến đổi thế này hoặc
thế nọ được.
Nếu
ta
để
hai
cục nam châm đối đầu nhau, thì hai cục nam
châm đó sẽ đẩy nhau hay hút nhau ? Ai cũng
biết hai cục nam châm đó sẽ hút nhau nếu hai cực
đối diện khác nhau và sẽ đẩy nhau nếu hai cực đối diện
giống nhau. Nếu ta kéo hai cục nam châm đó ra
cách nhau một khoảng cách khá xa thì ta
thấy dường như hai cục nam châm đó chẳng hề đẩy nhau, cũng
không hề hút nhau. Luật Tạo Hóa vẫn có
đấy, nhưng có khi nó tác động lên một sự vật
thật mạnh mẽ khiến ta thấy rõ, có khi tác động
đó quá yếu ớt đến nỗi ta không thể nhìn thấy
được. Chính vì lẽ đó dãu những
Luật Tạo Hóa vẫn luôn luôn hiện hữu và bất di
bất dịch, nhưng cái hậu quả của nó trên vạn vật
thì có khi thế này có khi thế
khác. Ðiều đó cắt nghĩa tại sao phần lớn mọi
hiện tượng trong vũ trụ và xã hội loài người xảy
ra dường như có tính cách NGÂŨ NHIÊN
mặc dàu những Luật Nhân Quả vẫn luôn luôn chi
phối vạn vật trong vũ trụ.
Câu
hỏi
"Tất
nhiên
hay Ngẫu nhiên ?" thoạt nghe dường
như có tính cách vô thưởng vô phạt,
nhiều lắm chỉ gây tranh luận cho những kẻ nhàn cư.
Nhưng ngẫm cho kỹ thì câu trả lời cho câu hỏi
đó có thể gây ra những ảnh hưởng thật sâu xa
đến cuộc sống loài người.
Chỉ
cần
vài
nhà
lãnh đạo nắm được quyền
bính trong tay tin theo tính cách Tất Nhiên
của những qui luật lịch sử tất yếu do họ sáng tạo nên
là nhân loại sẽ khốn khổ vì những chế độ độc
tài chuyên chính như những guồng máy
vô tri nghiền nát con người thành cát
bụi. Chỉ cần tin tưởng tuyệt đối vào tính
cách Tất nhiên của mọi luật tạo hóa là con
người dễ dàng buông xuôi hai tay phó mặc cho
Ðịnh Mệnh khắt khe chi phối cuộc sống con người.
Ngược
lại
hoàn
toàn
không tin ở Luật Nhân Quả
thì cũng dễ dàng phủ nhận quan niệm "ở hiền gặp
lành, ở ác gặp ác". Từ đó con người
có thể sẽ không còn cảm thấy có trách
nhiệm gì về bất cứ một việc làm nào của
chính mình.
Ngẫm
cho
kỹ
thì
vạn vật trong vũ trụ luôn luôn hỗ
tương tác động lẫn nhau. Tác động nào mạnh
nhất sẽ in vết sâu đậm trên mỗi con người khiến tương quan
nhân quả rõ ràng hiển hiện nhất. Nhưng chỉ
có trời mới biết được chuyện gì xảy ra trong trời đất sẽ
ảnh hưởng và chi phối mạnh mẽ nhất đến nếp suy nghĩ và
hành động của mỗi người.
Một
lần
trong
trại
cải tạo người viết được nghe một người bạn tâm
sự. Anh ta là một người khá thông minh,
tính tình thành thực, đã tốt nghiệp đại học
và đã từng khá thành công
ngoài xã hội trước năm 1975. Anh ta thú nhận
thuở nhỏ anh đã sống ở vùng do Việt Minh kiểm
soát. Thời thơ ấu anh đã nhiệt tình tham gia
nhi đồng cứu quốc. Lớn lên cha mẹ anh dẫn cả gia
đình về thành. Trong suốt thời kỳ mới lớn anh
đã được Việt Cộng cho người móc nối mà cha mẹ
không hề hay biết. Anh tiếp tục hoạt động ngầm cho Việt
Cộng rất đắc lực mẫn cán. Tới khi tốt nghiệp đại học, cha
mẹ anh cho anh tiền từ miền Trung vào Saigon vừa để nghỉ ngơi
một thời gian và cũng để thăm thú tình hình
tìm việc làm. Thay vì vào Saigon, anh
được Việt Cộng móc nối vô rừng để theo một khóa học
chính trị ngắn hạn. Họ thấy anh đã gần đủ
tiêu chuẩn để kết nạp vào đảng Cộng Sản. Họ
nói anh sẽ phải qua một thời kỳ thử thách, nếu vượt qua
tất cả mọi thử thách sẽ được kết nạp vào đảng Cộng Sản.
Hơn
hai
tháng
trong
rừng, anh đã vượt qua mọi thử
thách. Cán bộ Cộng Sản rất hài lòng
và nói thẳng với anh rằng chỉ còn một thử
thách cuối cùng nếu anh vượt qua nổi sẽ được kết nạp
vào đảng. Thử thách đó gọi là "Ly
khai giai cấp". Tưởng gì chứ "ly khai giai cấp" thì
quá dễ ! Là một thanh niên đầy nhiệt huyết
anh bước vào đời với hai bàn tay trắng, với một
thân thể tráng kiện tràn đầy sức sống, với đức
tính cần lao sẵn có của một gia đình gốc
nông dân, với một kiến thức rộng rãi thâu lượm
được từ môi trường đại học, anh sẵn sàng từ bỏ mọi địa vị,
vinh hoa phú quí cũng như danh vọng để theo đuổi
lý tưởng cao đẹp. "Ly khai giai cấp" đối với anh thật
quá dễ !
Ðiều
bất
ngờ
vượt
ra ngoài mọi dự đoán của anh
là "ly khai giai cấp" chẳng hề có ý nghĩa như anh
tưởng. Anh có một tuần để suy nghĩ và viết ra một
bản kiểm điểm, sau đó sẽ đứng ra trình bày trước
mặt cán bộ Cộng Sản, tố cáo tất cả những hành vi
"sai trái" của thân nhân. Cán bộ Cộng
Sản nhắm nhiều nhất vào ông nội anh là một người
mà họ biết có một số ruộng đất tuy không nhiều
nhưng cũng đủ để liệt kê vào hàng địa chủ.
Sau mấy đêm thao thức suy nghĩ anh nhớ lại thuở nhỏ ông nội
đã thương anh thế nào và cảm thấy bất nhẫn tủi hổ
nếu phải đứng trước đám đông kể tội ông nội.
Thế rồi anh tìm cách bỏ trốn về với gia đình, kể
hết chuyện cho bố mẹ, rồi vội vã cuốn gói vô
Saigon. Từ đó cắt đứt hết liên lạc với Việt Cộng.
Quyết
định
của
anh
quả là một bất ngờ lớn lao cho những người
Cộng Sản. Một kẻ khi chưa được Ðảng "giáo dục"
đã tự nguyện hăng say thi hành mọi công tác
do Ðảng giao phó, vậy sau khi đã được Ðảng
"giáo dục" và hứa hẹn kết nạp lẽ ra phải vui mừng
mà đón nhận cái vinh dự đó chứ !
Ðó là chuyện lẽ ra TẤT NHIÊN phải xảy tới.
Chỉ
có
một
điều
bất ngờ mà người Cộng Sản không hề
nghĩ tới là trong tận cùng tâm hồn con người
còn có một cái rất quí gọi là Lương
Tâm. Chính Lương Tâm đã khiến cho những
chuyện dường như đáng lẽ TẤT NHIÊN phải xảy ra lại
không xảy ra. Nhưng quyết định của Lương Tâm cũng
chẳng hề là một quyết định NGÂŨ NHIÊN.
|
Tã Trắng Hay Cờ
Hồng ?
|
Một
buổi
sáng
vào
năm 1980, lúc đó người
viết còn đang ở Saigon, một thân nhân chạy đến hốt
hoảng báo cho người viết một tin vô cùng
rùng rợn. Trong một đường hẻm phía sau nhà
thân nhân đó có một cán bộ Cộng Sản
nuôi heo bán kiếm lời. Không biết anh ta
làm cách nào mà móc nối được với
nhân viên trong bệnh viện Từ Dũ, xin được thai nhi của
những người đàn bà tới đó phá thai.
Anh cán bộ Cộng Sản mang những thai nhi đó về băm nhỏ
và trộn với bo bo làm thức ăn cho heo. Người trong
xóm tình cờ nhìn thấy và tin tức lan truyền
thật mau lẹ.
Thân
nhân
người
viết
thở hổn hển, vừa kể vừa run rảy với
một xúc động ghê gớm. Người viết ngồi lặng đi
không nói được một lời. Nhìn lên
đôi mắt người kể chuyện, người viết thấy hai giọt lệ long lanh
nơi đáy mắt. Trời đất dường như quay cuồng sụp đổ.
Chưa bao giờ người viết cảm thấy cái cảm giác đau đớn như
trăm ngàn mũi dao đâm thấu tim phổi như vậy.
Chân tay rã rời bải hoải. Khối óc như bị
tê liệt chẳng thể hoạt động. Nếu ngày tận thế
có thực và xảy đến cho toàn thể nhân loại
thì có lẽ ngày tận thế đó cũng còn
dễ chịu hơn rất nhiều.
Phải
qua
một
thời
gian khá lâu, cơn xúc động ban
đầu mới từ từ chìm xuống và hai người mới đủ bình
tĩnh để trao đổi với nhau vài lời. Cứ theo thân
nhân người viết kể lại thì sau khi bị phát
giác, anh cán bộ Cộng Sản chẳng hề hốt hoảng nao
núng, trái lại có thái độ rất ung dung thản
nhiên, coi như không có chuyện gì xảy
ra. Anh ta còn đủ bình tĩnh để mỉm cười khoe với
người trong xóm rằng nuôi heo bằng thai nhi rất có
lời, heo mau lớn lắm.
Hiện
tượng
sau
năm
1975, bệnh viện Từ Dũ tràn ngập những vụ
phá thai đã là một sự kiện đau lòng, nhưng
sự kiện anh cán bộ Cộng Sản lấy thai nhi băm nhỏ làm thức
ăn cho heo thì quả thực khiến ai còn chút lương
tri phải tan nát cả lòng. Tất cả những sự kiện
đó thật ra chỉ là một vài chuyện nhỏ trong
vô vàn hiện tượng đau lòng đã, đang
và chắc chắn vẫn còn đang tiếp diễn ở quê hương
Việt Nam yêu dấu. Nếu ít ai muốn nói
lên thì dường như chỉ là vì trái tim
con người đã bị tê dại hết cảm xúc khi phải chứng
kiến quá nhiều chuyện đau lòng xảy ra như cơm bữa khắp
nơi ngoài xã hội. Lương tâm đã biến
thành một xa xỉ phẩm trong một xã hội mà miếng
thịt heo béo ngậy đã trở nên giấc mơ vĩ đại
luôn luôn ám ảnh đầu óc con người.
Nhưng
nếu
ngày
xưa
cụ Khổng từng nói "Con giết cha,
bày tôi thí vua không phải là chuyện
xảy ra một ngày một bữa", thì nay sự kiện anh cán
bộ băm thai nhi làm thức ăn cho heo cũng chẳng phải là
chuyện ngẫu nhiên xảy ra trong một sớm một chiều. Nó
phải có nguyên nhân. Cái nguyên
nhân đó là xã hội đã đổ vỡ lụn bại,
là văn hóa nhân bản đã bị hủy diệt.
Nhìn xa hơn nữa ta cũng có thể nói nguyên
nhân sâu xa của những hiện tượng băm thai nhi làm
thức ăn cho heo đó chính là những giọt lệ vui mừng
của bác Hồ rơi xuống trang sách của Lenin. Nếu
bác Hồ đừng quá vui mừng đến rơi lệ khi tìm
được "cẩm nang thần kỳ" của Lenin để lại thì có lẽ
dân tộc Việt Nam đã tránh được không biết bao
nhiêu tang tóc đau thương và những người dân
hiền lành vô tội không đến nỗi cạn khô hết
nước mắt vì quá nhiều đau buồn tủi nhục.
Nền
tảng
văn
hóa
Việt Nam có thể đã bị rung chuyển
ngay từ khi tiếng súng đầu tiên của đoàn quân
viễn chinh Pháp nổ ròn rã đánh thành
Gia Ðịnh, nhưng phải tới khi giọt lệ vui mừng bác Hồ
rơi trên trang sách Lenin dân tộc Việt Nam mới
thực sự bước vào cơn "khủng hoảng cội nguồn".
Sự
rung
chuyển
nền
móng văn hóa nhân bản Việt Nam
khi có sự va chạm với những nền văn minh ngoại lai thoạt
tiên mới chỉ là những nghi vấn: Phải chăng
chính nền văn hóa nhân bản truyền thống đã
khiến cho dân tộc Việt Nam yếu hèn thua kém
các dân tộc Tây Phương ? Nghi vấn đó
dù mỗi ngày một lớn vẫn chưa ai giải quyết được con đường
dân tộc phải đi sẽ ra sao. Chính Hồ Chí Minh
đã tìm ra câu trả lời thật dứt khoát.
Trước câu hỏi "Tã trắng hay cờ hồng ?" Hồ Chí
Minh đã lựa chọn dứt khoát lá cờ hồng như một giải
pháp tất yếu không thể nào tránh được.
Tã
trắng
là
nền
văn hóa nhân bản đặt nền
tảng trên TÌNH NGƯỜI. Cờ hồng là nền văn
hóa Mác-xít đặt nền tảng trên BẠO LỰC
và DỐI TRÁ. Cẩm nang thần kỳ của Lenin có
thể tóm tắt là nếu không dùng BẠO LỰC
và DỐI TRÁ thì không có hy vọng
gì cướp được quyền lực. Cứu cánh cuối
cùng của mọi cuộc đấu tranh chính trị hoặc
quân sự chỉ là cướp lấy quyền lực. Cướp được quyền
lực là có tất cả. Có quyền lực trong tay
thì sẽ tha hồ nói phét, nói khoác,
nói láo, nói dối.
Nền
móng
văn
hóa
nhân bản Việt Nam dù sao
cũng đã bị rung chuyển ngay từ khi có tiếng súng
đầu tiên của đoàn quân viễn chinh Pháp
đánh thành Gia Ðịnh. Người Việt thời đó
dường như choàng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Nghi
vấn ban đầu về tính cách khả tín của những
gì Nguyễn Trường Tộ nêu lên trong bản điều trần
có lẽ không kéo dài quá lâu như
nhiều người thường nghĩ. "Ngọn đèn lộn ngược" của Nguyễn
Trường Tộ, dù là một hình ảnh cực kỳ quái
dị, cũng không làm cho ông ta bị kết án "khi
quân" đến nỗi bị chém bêu đầu. Ðiều
đó đủ chứng tỏ vua quan triều Nguyễn chưa hủ lậu đến nỗi phủ
nhận tất cả những gì Nguyễn Trường Tộ mắt thấy tai nghe.
Vả chăng những trung thần nghĩa sĩ như Hoàng Diệu phải tuẫn tiết
chỉ vì một nhúm quân Pháp trang bị
súng ống cổ lỗ sĩ thô sơ đã không làm
một ai kết án Hoàng Diệu là hèn
nhát, mà chỉ khiến mọi người đối diện với một cơn khủng
hoảng chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.
Lần
đầu
tiên
người
Việt không còn tin tưởng ở nền
văn-hóa nhân bản của dân tộc mình. Xưa
kia dân tộc Việt Nam có thể luôn luôn vững tin
rằng mình đúng người ta sai, mình là một
dân tộc văn hiến, văn hóa mình dựa trên
nhân nghĩa, kẻ kia bạo ngược hung tàn; trước sau gì
nhân nghĩa cũng thắng hung tàn. Nay thì niềm
tin đó bị lung lay tận cỗi rễ. Bạo ngược hung tàn
lần đầu tiên đã thắng văn hiến nhân nghĩa quá
rõ rệt đến nỗi không ai có thể phủ nhận nổi.
Hịch cần vương
của Hàm Nghi, Phan
Ðình Phùng có lẽ không thua hịch tướng
sĩ của Trần Hưng Ðạo bao nhiêu; Trương Công
Ðịnh, Hoàng Hoa Thám dựng cờ khởi nghĩa vị tất
đã hoàn toàn thua kém Lê Lợi
lúc rút về Lam Sơn; nhưng trước sau mọi lá cờ khởi
nghĩa đều lần lượt bị triệt hạ, như thế ắt hẳn phải có một
nguyên nhân sâu xa hơn là sự bất tài
hoặc thiếu dũng khí của những lớp hào kiệt nổi lên
chống Pháp. Tại sao các dân tộc Tây
Phương quá hùng mạnh ? Tại sao dân tộc ta
quá yếu hèn ?
Những
câu
hỏi
đó
như những nhát búa
gõ liên tục xuống trái tim khối óc của mọi
tầng lớp dân chúng trong xã-hội Việt Nam, vô
hình chung một "thủ phạm" lần lần hiện ra mỗi ngày một
thêm rõ rệt. Thủ phạm đó chính
là nền văn hóa nhân bản cổ truyền của dân
tộc. Tất cả nếp sống của dân tộc Việt Nam nay được mang ra
xem xét dưới kính hiển vi và qui kết là
mê tín hủ tục. Tất cả nếp suy nghĩ của dân tộc
Việt lần lần được coi là bảo thủ, hủ bại. Tất cả nền văn
hóa nhân bản lần lần được coi là nguyên
nhân chính đưa dân tộc tới tình trạng yếu
hèn lụn bại. Ít ai đủ bình tâm
mà tỉnh táo suy xét nông sâu, đưa ra
một nhận định trung thực giúp cho dân tộc mình đừng
hốt hoảng vứt bỏ hết gia tài vô cùng quí
báu mà tiền nhân đã bao đời dày
công vun đắp mới gây dựng nên được. Ít
ai đủ sáng suốt để khuyên can đồng bào đừng vội
vã chụp giựt những rác rưởi của các nền văn
hóa ngoại lai mang về chưng nơi phòng khách coi
như đồ gia bảo.
Người
ta
vội
vã
kết luận rằng sở dĩ dân tộc mình
lụn bại chỉ là vì nền văn hóa nhân bản
đã đề cao Tạo Hóa là ông Trời. Con
người "mới" có tư tưởng cách mạng phải lôi cổ Tạo
Hóa xuống gọi nó là "Thằng Trời", hạ nhục
nó, chà đạp nó; có thế dân tộc mới
hùng mạnh được. Người ta vội vã qui tội cho nền văn
hóa nhân bản là đã đề cao những anh
hùng dân tộc như Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi, Nguyễn
Trãi, vv... Trần Hưng Ðạo là dòng
dõi vua quan phong kiến hủ bại, Lê Lợi là một
gã địa chủ phú nông gian ác, Nguyễn
Trãi là một tên trí thức tiểu tư sản bạc
nhược; tất cả đều thuộc những giai cấp phản động cần phải triệt
hạ. Con người mới phải là những Paven đâm cha
chém chú biết chửi thề bằng những câu tục tĩu
nhất. Thần tượng của dân tộc Việt Nam mới phải là
những Stalin, Lenin, Mao Trạch Ðông có đôi
bàn tay thép bóp cổ cả chục triệu dân
lành mà không hề nhăn mặt. Ôi, chỉ
có ở cái thời xa xưa lạc hậu dân tộc Việt Nam yếu
hèn mới mỗi người một tay ném một cục đá
chôn vùi vĩnh viễn cột đồng Ðông Hán của
Mã Viện. Nếu lũ dân ngu đó vẫn bị nền văn
hóa nhân bản hủ bại che mờ trí sáng suốt
khiến cho không đủ tinh thần cách mạng để xì xụp
quì lạy thần tượng Lenin thì làm sao mà cẩm
nang thần kỳ BẠO LỰC CÁCH MẠNG có thể phát huy
được hết cái hiệu năng siêu việt của nó !
Khi
tìm
hiểu
cơn
khủng hoảng cội nguồn của dân tộc Việt,
ta không thể không xét tới những nguyên
nhân sâu xa đã dẫn tới cơn khủng hoảng
đó. Cơn khủng hoảng đó khởi đầu bằng sự hoài
nghi dần dần dẫn đến sự chối bỏ mọi giá trị của nền văn
hóa nhân bản. Sau hết sự phủ nhận mọi vũ trụ quan
và nhân sinh quan lấy con người làm gốc đã
dẫn tới sự đạp đổ và hủy diệt nền văn hóa nhân bản
không chút sót sa thương tiếc.
Trải
qua
bao
nhiêu
đổ vỡ đau thương, không biết giờ
đây người Việt khắp nơi, trong nước cũng như hải ngoại, đã
đủ bình tâm để xét kỹ lại xem có thực nền
văn hóa nhân bản của dân tộc mình đã
là nguyên nhân chính yếu khiến dân tộc
Việt Nam yếu hèn lụn bại hay thật ra đã bị xử dụng như
một vật tế thần để giúp cho những hôn quân bạo
chúa thâu tóm hết quyền lực trong tay lên
ngôi hoàng đế.
Vào
lúc
hoàng
hôn
nhá nhem tranh
sáng tranh tối của buổi giao thời, bao nhiêu tội lỗi
đã được đổ hết xuống đầu nền văn hóa nhân bản của
dân tộc. Cái gì dính líu tới
nền văn hóa Việt Nam đều bị coi như hủ bại, mê tín,
lạc hậu, bạc nhược, yếu hèn, u tối, xấu xa. Cái
gì mang từ phương xa về đều được trầm trồ ngưỡng mộ thán
phục và bắt chước.
Lamartine
lừng
danh
bên
trời Tây với bài "Le Lac"
lập tức có chàng Xuân Diệu bắt chước rập
khuôn. Cũng kéo cổ áo cao dựng đứng, cũng uốn
tóc quăn xoắn tít trên đầu, cũng những vần thơ ướt
át lãng mạng và một triết lý sống vội
vàng chụp giựt :
"Thà
một
phút
huy
hoàng rồi chợp tối
Còn
hơn
buồn
le
lói suốt trăm năm..."
Nay
ta
thử
nhìn
lại xem cái nền văn hóa nhân
bản của cha ông đã tạo nên một xã-hội buồn le
lói suốt mấy ngàn năm như thế nào.
Trước
hết
nền
văn
hóa nhân bản của dân tộc bị chỉ
trích là đã tạo ra một từng lớp vua quan bạc nhược
yếu hèn. Ðiều đó có thể rất
đúng. Nhưng cái "đúng" đó ngẫm cho kỹ
không hẳn chỉ đúng riêng cho dân tộc
Việt. Xét cho cùng thì vua quan triều Nguyễn
bạc nhược yếu hèn cũng còn có những Nguyễn Tri
Phương, Hoàng Diệu, Hàm Nghi, Thành Thái;
khách quan mà nói chưa hẳn đã tệ như thủ
tướng Anh Chamberlain và thủ tướng Pháp Eduard Deladier
khi hai người này phải cắn răng cúi gầm mặt ký
hòa ước Munich nhục nhã với Ðức Quốc Xã.
Nhưng
cũng
nền
văn
hóa "hủ bại" của Việt Nam lại đã tạo
ra biết bao nhiêu sĩ phu đầy nhiệt huyết: từ Trương
Công Ðịnh, Phan Ðình Phùng, Phan Bội
Châu, Hoàng Hoa Thám, Phạm Hồng Thái, Lương
Ngọc Quyến, Tăng Bạt Hổ đến Nguyễn Thái Học, Nguyễn Thị Giang,
Nguyễn Thị Bắc,vv... Nếu đem so sánh những sĩ phu hào
khí ngất trời tình yêu quê hương đất nước
và đồng bào vô bờ bến được đào tạo từ nền
văn hóa nhân bản "cổ hủ" nói trên với một
chàng Xuân Diệu tóc quăn than mây khóc
gió được đào tạo từ nền văn minh Pháp rực rỡ nhất
trời Tây, hay với một tiến sĩ giấy Nguyễn Văn Hảo xuất thân
từ một đại học danh tiếng lẫy lừng ở Mỹ để rồi khom lưng uốn gối
không chút liêm sỉ trước bạo quyền Cộng Sản, hoặc
với thiên tài vĩ đại Hồ Chí Minh nhờ duyên
may bị Bộ Thuộc Ðịa Mẫu quốc khước từ đơn xin vào trường
Thuộc Ðịa mà trở thành tà-loọc cho đồng
chí Borodin , thì ngẫm cho cùng cái "hủ
bại" của nền văn hóa nhân bản Việt Nam cũng chưa hẳn
đã tệ hại đến nỗi phải vội vã vứt vào sọt
rác.
Khi
ánh
sáng
của
những nền văn minh ngoại lai quá
rực rỡ làm chóa mắt biết bao người, thì nền văn
hóa nhân bản của dân tộc bị sỉ vả thậm tệ vì
đã tạo ra nếp sống đại gia đình cực kỳ lạc hậu bảo
thủ. Bao nhiêu tệ nạn trong xã-hội đều được qui kết
vào nếp sống đại gia đình đó. Nào chế
độ mẹ chồng nàng dâu cực kỳ khắc nghiệt, nào sự đối
xử bất bình đẳng giữa nam nữ, nào cái tệ nạn
phân chia đẳng cấp ép buộc con người vào tôn
ti trật tự quá đáng, nào những tín điều
trung hiếu tiết nghĩa ngu xuẩn, vv và vv...
Mỗi
lần
chợt
nhớ
lại hình ảnh bà lão già 80
tuổi liều chết dẫn đứa cháu nội vượt biên, người viết lại
giật mình tự hỏi chuyện đó liệu có thể xảy ra được
không nếu không có nền văn hóa nhân bản
của dân tộc ? Ở những xã hội văn minh Tây
Phương thật khó có thể xảy ra chuyện đó.
Bà lão 80 đâu còn trách nhiệm
gì mà phải liều chết lo cho tương lai đứa cháu nội
? Còn cha mẹ nó ở đâu ? Bộ An Sinh
Xã-Hội ở đâu ? Bộ Phúc Lợi ở đâu
? Lại còn biết bao nhiêu dân biểu nghị sĩ,
chính trị gia cần kiếm phiếu cử tri nữa chứ ! Họ phải
có trách nhiệm lo cho tương lai đứa trẻ chứ sao lại bắt
bà lão 80 phải xả thân mà lo chuyện ấy
? Quả nhiên chỉ có trong một nền văn hóa
nhân bản hủ bại của Việt Nam thì con người mới ngu dại xả
thân làm những chuyện không phải thuộc trách
nhiệm của mình như vậy. Nhưng tấm lòng của một
bà lão già thiết tha thương cháu chỉ khiến
ta bồi hồi ngưỡng phục chứ chẳng hề gây cho ta cái cảm
giác lợm giọng buồn nôn như khi phải chứng kiến những cảnh
một ông phó thủ tướng uốn gối khom lưng trước cường quyền
bạo ngược.
Nền
văn
hóa
nhân
bản Việt Nam cũng bị chỉ trích
đã là nguồn gốc gây ra sự đối xử bất bình
đẳng giữa nam và nữ. Thoạt nghe thì lời chỉ
trích đó đúng quá, nhưng ngẫm lại có
khi cũng chỉ là một định kiến. Thử nhớ lại mà xem,
ai là những vị anh hùng đầu tiên đứng lên
dựng cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược
giành lại nền tự chủ cho dân tộc ? Phải chăng
chính là những vị nữ lưu hào kiệt như Hai
Bà Trưng, Bà Triệu ? Cho tới nay một đại cường quốc
văn minh tiến bộ và chủ trương nam nữ bình đẳng nhất
trên thế giới là Mỹ quốc vẫn chưa hề có một vị
nguyên thủ quốc gia là phụ nữ. Nước ta đã
có hai chị em bà Trưng là những bậc nữ lưu
chói sáng nắm quyền lãnh đạo quốc gia từ gần 2000
năm trước đây. Như thế liệu ta có thể kết luận rằng
nền văn hóa nhân bản của dân tộc mình
đã trọng nam khinh nữ hơn nước Mỹ không nhỉ ? Vả
chăng phụ nữ Việt Nam lấy chồng rồi vẫn giữ nguyên họ mình
trong khi phụ nữ Tây Phương lấy chồng rồi phải đổi thành
họ chồng; như thế xã hội nào mới thực sự kỳ thị nam nữ
đây nhỉ ?
Bình
tâm
xét
lại
thì những lời chỉ
trích nền văn-hóa nhân bản vào buổi giao
thời dãu có nhiều điểm đúng nhưng cũng có
rất nhiều điều chỉ là những nhận định hốt hoảng hấp tấp.
Tuy
nhiên
tất
cả
những lời chỉ trích nền văn hóa
nhân bản như đã nêu trên chỉ mới tạo nên
một mối hoài nghi mơ hồ rằng chính nền văn-hóa
nhân bản đã khiến cho dân tộc yếu hèn .
Chỉ tới khi chủ nghĩa Cộng Sản chính thức du nhập vào
Việt Nam thì nền văn hóa nhân bản của Việt Nam mới
bị thẳng tay triệt hạ.
Người
Cộng
Sản
chẳng
hề bận tâm tranh cãi về những chuyện
vớ vẩn như tóc ngắn tóc dài, răng đen răng
trắng. Họ dùng búa liềm để đánh thẳng ngay
vào tử huyệt của nền văn hóa nhân bản.
Văn-hóa
nhân
bản
thấm
sâu vào tâm hồn
mỗi người dân Việt qua bao nhiêu thế hệ đã tạo cho
đa số người dân có một tâm hồn thuần hậu, một nếp
sống hiền hòa. Theo những người Cộng Sản, chính nếp
sống hiền hòa, chính tâm hồn thuần hậu đó
đã đưa dân tộc tới chỗ yếu hèn lụn bại.
Xã-hội
loài
người
đâu
phải là nơi cho những
nhà hiền triết sinh sống ? Muốn làm nhà hiền
triết hãy lên mặt trăng mà ở ! "Nhân
nghĩa thắng hung tàn" chỉ là những sáo ngữ trong
bản Bình Ngô Ðại Cáo hủ lậu của tên
"trí thức tiểu tư sản bạc nhược" Nguyễn Trãi. Dưới
mắt những người Cộng Sản Việt Nam nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi không đủ để giữ cái đầu ông trên
cổ, cũng không đủ để cứu vợ con họ hàng gia tộc khỏi bị
chém bêu đầu, làm sao dám nói
nhân nghĩa thắng hung tàn ? Nguyễn Trãi nếu
có đủ trí khôn đã không chịu thảm họa
chu di tam tộc.
Xã
hội
loài
người,
dưới nhãn quan những người Cộng
Sản Việt Nam, chỉ gồm toàn sài lang hổ báo với cừu
non. Ngu lắm mới làm cừu non cho sài lang ăn
thịt. Nền văn hóa nhân bản Việt Nam đã tạo
nên một dân tộc hiền hòa thuần hậu, nói
khác đi đã biến cả dân tộc thành một
bày cừu non sẵn sàng làm mồi cho sài lang
hổ báo ăn thịt. Ðó chính là nhược
điểm của nền văn hóa nhân bản; đó chính
là cái tội của tầng lớp sĩ phu trong nước.
Chính
vì
lẽ
đó
giọt lệ bác Hồ đã vui
mừng rơi trên trang sách Lenin. Cẩm nang thần kỳ của
Lenin đã giúp cho Hồ Chí Minh tìm được con
đường cứu nước : chỉ có BẠO LỰC CÁCH MẠNG mới
làm nên sự nghiệp. Con đường cứu nước là con
đường biến cả dân tộc thành một bày lang sói
hùm beo, đó là con đường duy nhất đúng,
đó là qui luật lịch sử tất yếu, đó là
chân lý muôn đời không thay đổi.
Từ
đó
thì
một
chuỗi những hệ luận tất nhiên phải
đến : nào giai cấp đấu tranh, nào chuyên
chính vô sản, nào cứu cánh biện minh phương
tiện, vv và vv...
Ôi,
nhìn
lại
lịch
sử mới thấy được Hồ Chí Minh quả
là một thiên tài vĩ đại. Nguyễn Trãi
đã nằm sâu trong lòng đất. Phan Bội
Châu đã bị bán đứng cho mật thám
Pháp. Huỳnh Phú Sổ, Trương Tử Anh, Lý
Ðông A, Khái Hưng và vô vàn kẻ sĩ
khác đã lần lượt bị triệt hạ. Nguyễn Ðan Quế,
Ðoàn Viết Hoạt mòn mỏi đếm ngày tháng
trôi qua lặng lẽ trong tù. Bày cừu non
"nhân bản" ngu muội đó rút lại chỉ "thắng hung
tàn" ở trong những huyền thoại xa xưa. Những kẻ đó
đâu được hưởng vinh quang như những người Cộng Sản Việt Nam
anh hùng đã từng đánh thắng ba tên đế quốc
đầu sỏ để rồi được cái vinh hạnh quì gối van xin Mỹ
bãi bỏ lệnh cấm vận ? Lá cờ hồng thắng thế
đã được treo la liệt khắp nơi, khiến người dân bước đi
không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ máu.
Nhưng
ở
cái
nước
Việt Nam tiền rừng bạc bể vừa là đỉnh
cao trí tuệ loài người vừa là một trong mấy nước
nghèo nàn lạc hậu nhất trần gian vẫn còn những
tâm hồn chưa bị thui chột hết vì lá cờ đỏ tanh
hôi mùi máu.
Việt
Nam
vẫn
còn
những Nguyễn Chí Thiện dựng Tã
trắng thay cờ hồng. Việt Nam vẫn còn những Phùng
Quán Trần Dần khắc lời mẹ dặn lên đá. Việt
Nam vẫn còn những Nguyễn Ðan Quế hiên ngang đứng dậy
khơi lại nguồn sống nhân bản cho dân tộc. Việt Nam
vẫn còn những Trần Văn Thủy sót sa viết "chuyện tử tế"
lên trời xanh.
Mạch
sống
nhân
bản,
dãu đã bị những người Cộng Sản
tìm mọi cách triệt hạ, vẫn chưa dứt hẳn. Tinh thần
nhân bản hòa với tinh thần bất khuất vẫn còn
đây , nơi đáy lòng mỗi người dân Việt.
Nếu
trong
những
thập
niên vừa qua dân tộc Việt Nam
đã điêu linh thống khổ vì những người Cộng Sản Việt
Nam đã mang cẩm nang thần kỳ của Lenin về biến thành
sài lang hổ báo dựng cờ hồng triệt hạ tã trắng,
thì ta vẫn còn hy vọng rồi đây những thế hệ trẻ lớn
lên sẽ đủ sáng suốt để chung sức dựng lại nền văn
hóa nhân bản Tã Trắng trên quê hương
yêu dấu, xé nát lá cờ máu tanh
hôi.
|
Suy Gẫm về Văn-Hóa Nhân Bản
Nhân bản chỉ có nghĩa
giản dị là lấy con người làm gốc.
Nhưng
thế
nào
là
văn-hóa nhân bản ?
Ta
có
thể
diễn
tả câu định nghĩa của Thượng tọa
Thích Nhất Hạnh "văn-hóa là nếp sống vươn
lên Chân Thiện Mỹ của một dân tộc" một cách
nôm na rằng văn-hóa chính là nỗ lực của cả
một dân tộc đi tìm câu trả lời cho câu hỏi :
Làm
sao
để
sống,
sống có hạnh phúc, sống một cuộc
đời có ý nghĩa và đáng sống ?
Ðó
là
câu
hỏi
then chốt liên quan đến
cuộc sống con người. Trên con đường đi tìm câu
trả lời cho câu hỏi đó, mỗi dân tộc đã
phác họa ra một vũ trụ quan và một nhân sinh quan
khác nhau. Dù cách diễn tả khác nhau,
nhưng tựu chung các vũ trụ quan và nhân sinh quan
đó cũng phản ảnh tương quan giữa ba thành tố tạo
thành vũ trụ, đó là TRỜI, ÐẤT và NGƯỜI.
Có
hai
cách
nhìn
khác nhau. Trước hết
là quan niệm TRỜI, ÐẤT và NGƯỜI là ba
thành tố riêng biệt. Ðó là quan
niệm mà người xưa gọi là TAM TÀI HỮU BIỆT.
Theo quan niệm này ÐẤT là VẬT CHẤT, bao gồm
muôn vật muôn loài trong vũ trụ. Ðó
là thế giới hữu hình hữu tướng. TRỜI là
Thiên Lý, Thiên Tính hay những Luật Tạo
Hóa chi phối vạn vật trong vũ trụ. NGƯỜI là
Ý chí và Nhận Thức đưa tới mọi hành động
của con người. Ý chí và Nhận Thức đó
là kết tinh của sự hợp nhất Tâm, Trí, Dũng trong
con người.
Quan
niệm
thứ
hai
cho rằng ba thành tố TRỜI, ÐẤT và
NGƯỜI dính liền với nhau, không thể tách
riêng ra được. Ðó là quan niệm mà
người xưa gọi là TAM TÀI HỢP NHẤT. Trong
cách nhìn này thì TRỜI ÐẤT và
NGƯỜI không sao có thể tách bạch hẳn ra được.
Thật vậy, ngay trong một con người thì làm sao có
thể tách đầu óc chân tay xương thịt ra khỏi nhau
được ? Nếu không có thân thể (Vật chất, hay
ÐỊA ), nếu không có máu luân lưu (
Thiên Lý, hay những định luật chi phối cuộc sống)
thì liệu con người có thể gọi là con người được
hay không ?
Dù
quan
niệm
Tam
Tài Hữu Biệt hay quan niệm Tam
Tài Hợp Nhất thì ta cũng không thể thoát
khỏi phải xác định mối tương quan giữa TRỜI, ÐẤT và
NGƯỜI.
Trong
ba
yếu
tố
tạo thành vũ trụ đó, yếu tố nào
là yếu tố then chốt quyết định cuộc sống con người ? Cuộc
sống con người là do TRỜI, ÐẤT quyết định chăng ? hay do
chính con người quyết định ? Con người sống có hạnh
phúc hoặc phải chịu khổ đau là do lỗi ở TRỜI ÐẤT
chăng ? hay do lỗi ở chính con người ? Con người
có tạo được một cuộc sống có ý nghĩa và
đáng sống hay không là do TRỜI, ÐẤT sắp đặt
chăng ? hay do chính con người ?
Không
ai
sống
có
suy nghĩ mà trong đời không
có lần đã tự đặt cho mình những câu hỏi
quái ác như vậy.
Văn-hóa
nhân
bản
là
một nền văn-hóa lấy con
người làm gốc.
Lấy
con
người
làm
gốc không có nghĩa là coi
con người là cái rốn của vũ trụ, là chủ tể của vũ
trụ. Lấy con người làm gốc chỉ có nghĩa là
trong mọi vấn đề liên quan đến cuộc sống con người thì
chính con người là yếu tố then chốt quyết định.
Trước
hết
hãy
thử
bàn về lẽ SINH DIỆT. Sự sống
còn của xã-hội loài người là tùy
thuộc vào TRỜI, ÐẤT hay tùy thuộc chính con
người ?
Xưa
kia
đã
rất
nhiều người tin rằng cuộc sống loài người
là do ông Trời sắp đặt hết. Ông Trời là
đấng chủ tể của vạn vật. Ðó là mầm mống của
thuyết Thiên Ý và Thiên Mệnh. Từ
đó nảy sinh ra ý định đi tìm hiểu Thiên
Ý để biết rõ Ý Trời ra sao. Nhưng muốn biết
rõ Ý Trời ra sao thì có lẽ chỉ có
cách duy nhất là bắc thang lên hỏi ông
Trời. Mà ông Trời thì ở cao quá, muốn
lên hỏi ông Trời thì phải có thang. Cho
tới nay mới chỉ có chú Cuội là lên được tới
cung trăng hỏi chuyện chị Hằng Nga. Ngoài ra còn
có hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin
J.Aldrin Jr., nhưng hai người này lên tới cung trăng
không gặp được chị Hằng Nga. Vả chăng Hằng Nga cũng chưa
phải là ông Trời, mà mặt trăng cũng chỉ mới
là một hành tinh của trái đất. Vì thế
cho tới nay vẫn chưa ai biết rõ được Thiên Ý
ra sao.
Cái
tệ
của
thuyết
Thiên Ý và Thiên
Mệnh là đã có không ít kẻ mạo
nhận mình biết rõ Thiên Ý và
Thiên Mệnh. Thí dụ điển hình là
các vì Thiên Tử ở Trung Hoa. Những vì
Thiên Tử này tự cho rằng mình chịu MỆNH TRỜI để
xuống trị vì trần thế. Cái Ý Trời do
đó chỉ còn có nghĩa là ý muốn bắt
toàn thể nhân loại cúi đầu phục tùng mệnh
lệnh của những vì Thiên Tử.
Dân
tộc
Việt
Nam
chịu ảnh hưởng rất nhiều của nền văn minh Trung
Hoa. Cũng may không vì ảnh hưởng đó mà
trí sáng suốt của dân tộc Việt Nam bị thui chột hết
đến nỗi u mê tin vào thuyết Thiên Mệnh. Nếu
quả thật có một ông Trời chí công vô tư
thì ông Trời đó phải là một ông Trời
chung của toàn thể nhân loại chứ không thể chỉ
là ông Trời riêng của bất cứ một dân tộc
nào. Những vì "Thiên Tử" giả mạo đó
rút cục rất dễ biến thành những Kiệt Trụ móc tim
gan thừa tướng Tỉ Can, hoặc những U Vương đốt lửa núi Ly Sơn để
mua lấy tiếng cười của nàng Bao Tự.
Thuyết
Thiên
Mệnh
dù
sao cũng là thuyết ở những
thời xa xưa, tới nay ít còn ai nói tới. Tuy
thế điều đó không có nghĩa là ở trong
thời hiện đại không còn những kẻ muốn mạo nhận mình
là Thiên Tử. Dĩ nhiên những ông "Con
Trời" ở thời đại mới khôn ngoan và mưu lược hơn những
vì Thiên Tử Trung Hoa rất nhiều.
Karl
Marx
đưa
ra
những "qui luật lịch sử tất yếu". "Qui luật lịch
sử tất yếu là gì nếu không là những định
luật chi phối xã-hội con người ? Nếu những qui luật lịch
sử tất yếu đó được chứng nghiệm thì đó
chính là những luật tạo hóa, hoặc nói theo
ngôn từ của người xưa đó chính là
Thiên Lý. Nói theo ngôn từ hiện đại
thì những qui luật lịch sử tất yếu đó, nếu được chứng
nghiệm, chính là những định luật khoa học khách
quan chi phối cuộc sống con người.
Không
may
những
qui
luật lịch sử tất yếu đó chẳng hề được
chứng nghiệm. Bức tường Bá Linh sụp đổ đã khiến cho
toàn thể nhân loại bừng tỉnh ngộ để nhận thấy sự giống
nhau giữa Karl Marx và những vì Thiên Tử ở Trung
Hoa. Xưa kia những vì Thiên Tử ở Trung Hoa vin
vào thuyết Thiên Mệnh để biện minh cho cái quyền
được chinh phục và thống trị mọi chư hầu. Ngày nay
những người Cộng Sản, từ Karl Marx, Lenin, Stalin tới Mao Trạch
Ðông, Hồ Chí Minh vin vào những qui luật lịch
sử tất yếu để biện minh cho cái quyền chuyên chính
của giai cấp vô sản, hoặc nói đúng hơn, quyền thống
trị toàn thể nhân loại của một thiểu số chóp bu cầm
đầu đảng Cộng Sản.
Văn-hóa
nhân
bản
không
nhất thiết là một nền
văn-hóa phủ nhận sự hiện hữu của ông Trời. Ông
Trời có hay không có vẫn là một câu
hỏi lớn lao cho toàn thể loài người, chưa ai dám
quả quyết là mình biết rõ. Ðiều
mà mọi người biết rõ là nếu ông Trời
đó đội mũ cánh chuồn và nói tiếng Trung Hoa
thì vị tất đã là ông Trời của người Việt
Nam. Thượng Ðế, nếu có thật và nếu quả
là một Ðấng Chí Thiện Chí Công
thì phải là ông Trời chung của tất cả loài
người. Nếu cái Thiên Ý chỉ là
móc tim gan Tỉ Can để mua vui cho nàng Ðát Kỷ,
nếu cái Thiên Lý chỉ là những qui luật lịch
sử tất yếu được viện dẫn để biện minh cho sự tàn sát hơn
20 triệu nông dân Nga, hoặc sự chôn vùi
hàng chục ngàn đồng bào vô tội trong những
nấm mồ tập thể ở Huế, thì cái Thiên Ý hoặc
Thiên Lý đó trên thực tế chỉ là những
thủ đoạn bịp bợm của những vì Thiên Tử giả mạo cuồng
sát.
Văn-hóa
nhân
bản
sở
dĩ lấy con người làm gốc
là vì ý thức rõ rệt được rằng ông
Trời hoặc những qui luật lịch sử tất yếu có thể chỉ là
những sản phẩm của trí tưởng tượng của con người. Nếu
những sản phẩm đó được ngụy tạo với mục đích lừa gạt mọi
người thì hậu quả có thể là những tai họa khủng
khiếp cho nhân loại.
Cũng
không
ít
kẻ
cho rằng Vật chất mới là yếu tố
then chốt quyết định cuộc sống con người. Vật chất là cơm
gạo, xe hơi nhà lầu, là cái cày, cái
máy, là khẩu súng và cũng là miếng
thịt heo béo ngậy.
Dãu
rằng
không
ai
có thể phủ nhận được sự cần thiết
của vật chất, không ai phủ nhận rằng nếu không có
vật chất thì cũng không còn cuộc sống con người,
nhưng khi quá đề cao vai trò của vật chất thì rất
dễ dàng biến thành nô lệ cho vật chất.
Ðiều tai hại hơn nữa là khi có những kẻ đề cao vai
trò của vật chất chỉ với thâm ý muốn sử dụng vật
chất như một công cụ để áp bức chà đạp đồng
loại. Các lãnh chúa xưa kia
dùng võ lực đi chiếm đoạt đất đai để sống cuộc đời sa hoa
nhung lụa trên xương máu của người nô lệ, các
đế quốc thực dân mang quân đi chiếm thuộc địa, và
ngày nay những người Cộng Sản dùng chính
sách bóp bao tử để trấn áp và kềm kẹp
dân lành, tất cả những người ấy trong thâm tâm
đều mang một niềm tin thật mãnh liệt đến độ cuồng tín
vào sức mạnh của vật chất.
Nền
văn-hóa
nhân
bản
không hề phủ nhận vai
trò của vật chất trong việc duy trì cuộc sống con
người. Văn-hóa nhân bản chỉ là một nền
văn-hóa trong đó con người ý thức được rõ
rệt tính cách hữu hạn của vật chất : Vật chất trong
thiên nhiên chẳng hề là của kho vô tận, thừa
thãi ê hề đến nỗi ai cũng có thể "hưởng theo nhu
cầu" bao nhiêu cũng được. Vì thế mà con người
phải đổ mồ hôi ra làm việc quần quật để kiếm sống,
vì thế mà con người phải nát óc tìm
hiểu luật tạo hóa để có đủ hiểu biết khoa học kỹ thuật
ngõ hầu sử dụng vật chất một cách hữu hiệu và
thích đáng, vì thế mà con người phải chia
xẻ với nhau từng chén gạo hạt muối. Lấy con người
làm gốc là biết nương nhau mà sống, biết
dùng cái trí để vừa sử dụng vừa nuôi dưỡng
thiên nhiên, biết chia xẻ với nhau vật chất hữu hạn để
cùng sống với nhau. Lấy con người làm gốc là
không vì miếng thịt heo béo ngậy mà nỡ băm
thai nhi, là không viện dẫn qui luật lịch sử tất yếu để
tàn sát đồng loại.
Một
nền
văn-hóa
nhân
bản là một nền văn-hóa
trong đó con người ý thức được rõ rệt vai
trò của chính mình giữa Trời Ðất.
Văn-hóa
nhân
bản
không
hề mang tính
cách phủ nhận Ông Trời, lại càng không
hàm ý phủ nhận sự hiện hữu của những Luật Tạo Hóa.
Luật
Tạo
Hóa
là
có thực, những định luật khoa học
khách quan là có thực. Luật Tạo Hóa
chi phối toàn thể vạn vật trong vũ trụ cũng như toàn thể
xã hội loài người. Dù loài người
có bị tận diệt thì những Luật Tạo Hóa vẫn
còn tồn tại mãi mãi. Dù Newton
không nghĩ ra những nguyên lý động lực học
mang tên ông thì những nguyên lý
đó vẫn luôn luôn hiện hữu và chi phối vạn vật
trong vũ trụ từ khi chưa có loài người, khi có
loài người cũng như sau khi loài người đã bị tận
diệt. Ðiều đó cho thấy con người không thể
là chủ tể vạn vật trong vũ trụ, cũng không thể là
chủ tể của những luật tạo hóa.
Tuy
nhiên
nếu
không
có trí óc con
người thì không ai nhận thức được sự hiện hữu của những
luật tạo hóa đó. Con người là một gạch nối
giữa TRỜI và ÐẤT. Con người đã khám
phá ra những Luật Tạo Hóa chi phối vạn vật trong vũ trụ,
đã tìm biết những thiên tính của muôn
loài muôn vật. Quan trọng hơn nữa con người
đã biết sử dụng những Luật Tạo Hóa đó để biến đổi
Vật Chất ngõ hầu duy trì sự sống, mang lại hạnh
phúc và ý nghĩa cuộc sống cho loài người.
Khoa
học
Kỹ
thuật
tự nó đã là một sự kết nối giữa
TRỜI ÐẤT và Người. Khoa học Kỹ Thuật khởi đầu bằng sự
khám phá ra tính chất của vật chất và những
luật tạo hóa. Nếu không có con người
thì không có những sự khám phá
đó. Sau nữa chính con người đã biết ứng dụng
những hiểu biết của mình về Luật Tạo Hóa để biến đổi vật
chất hầu duy trì sự sống và tạo hạnh phúc cho
nhân loại. Vai trò then chốt của con người
chính là chữ DỤNG. Luật Tạo Hóa là
của TRỜI, Vật Chất là của ÐẤT. Nhờ có chữ DỤNG
con người có thể sử dụng Thiên Lý để biến đổi Vật
Chất nuôi sống và tạo hạnh phúc cho loài
người.
Văn-hóa
nhân
bản
lấy
con người làm gốc vì
tuy không ai phủ nhận vai trò của TRỜI ÐẤT nhưng nếu
không có con người thì vật chất vẫn chỉ là
vật chất vô tri không thể biến thành những dụng cụ
hữu ích cho cuộc sống.
Tuy
nhiên
ý
niệm
lấy con người làm gốc
còn quan trọng hơn nữa khi ta xét kỹ chữ DỤNG của con
người. Khoa học kỹ thuật vừa rất cần thiết cho nhân loại
trong thời đại mới, nhưng khoa học kỹ thuật cũng có thể mang lại
những nguy cơ lớn lao cho tất cả loài người. Bom
nguyên tử, bom vi trùng, vũ khí hóa học đủ
sức tận diệt loài người trong một thời gian ngắn ngủi. Con
người có thể sử dụng những hiểu biết khoa học kỹ thuật để tạo
nên những xe tăng nghiền nát người thành
bánh tráng ở quảng trường Thiên An Môn.
Sự hiểu biết khoa học cũng giúp cho Hitler lập những
lò giết người tập thể tàn sát dân Do
Thái. Tóm lại khoa học kỹ thuật mà
không có trái tim thì sẽ mang lại những hậu
quả thê thảm tàn khốc cho nhân loại.
Lấy
con
người
làm
gốc là nhận thức rằng sự hiểu biết khoa
học kỹ thuật là con dao hai lưỡi. Nếu không
có trái tim con người thì khoa học kỹ thuật
có thể trở thành công cụ cho những bạo chúa
duy trì guồng máy thống trị biến loài người
thành những con giun con dế.
Nền
văn-hóa
nhân
bản
chẳng hề là một nền
văn-hóa đưa ra sự đối nghịch giữa TRỜI, ÐẤT và
NGƯỜI. Văn-hóa nhân bản luôn luôn đặt
nền tảng trên sự hòa hợp giữa Trời Ðất và Người.
Lấy
con
người
làm
gốc là nhận thức rằng Trời và
Ðất vừa là yếu tố cần thiết cấu thành cuộc sống vừa
có thể trở thành những công cụ cho những bạo
chúa áp bức đồng loại. Vì thế cuộc sống
loài người còn được duy trì hay không, hạnh
phúc con người còn được bảo đảm hay không, cuộc
sống con người có ý nghĩa và đáng sống hay
không phần lớn tùy thuộc vào TÂM,TRÍ,
DŨNG của chính con người.
Văn-hóa
nhân
bản
không
những chỉ chú trọng
đến tương quan hòa hợp với TRỜI ÐẤT mà còn đặt
nặng tương quan giữa người với người.
Văn-hóa
nhân
bản
Việt
Nam chẳng hề là một nền
văn-hóa đưa con người lên ngồi trên đỉnh cao
chót vót của một đống sọ người, cũng chẳng hề là
một nền văn hóa biến xương sống con người thành một cọng
bún. Người Việt từ lâu đã hiểu rõ rằng
tương quan giữa người và người chỉ tốt đẹp khi ta biết đối xử
với nhau bằng cả cái trí sáng suốt lẫn cái
tâm thuần hậu.
Ðức
Huỳnh
Phú
Sổ
có lần đã nói :
"Hãy
giữ
gìn
cái
Trí sáng suốt để
khỏi bị kẻ khác lừa, nhưng hãy giữ gìn cái
Tâm thuần hậu để không tính chuyện lừa người
khác."
Kẻ
bất
trí
cam
tâm cúi đầu làm nô lệ,
hoặc tệ hơn, làm ưng khuyển cho kẻ thống trị bạo ngược là
những kẻ vừa hèn vừa ngu. Kẻ trí xảo dùng
thủ đoạn quỉ quyệt lừa dối lường gạt đồng bào là kẻ độc
ác bất nhân. Ngu hèn, xảo quyệt, độc
ác, bất nhân là những gì sẽ xảy ra trong
xã hội khi nền văn-hóa nhân bản đã bị
tàn phá hủy diệt, khi Tâm, Trí, Dũng
đã bị đập ra từng mảnh vụn.
Thiếu
chữ
Tâm
thì
Trí biến thành TRÁ,
Dũng biến thành Tàn Bạo Khát Máu.
Thiếu sáng suốt thì suốt đời ta sẽ thành kẻ bị
lừa, chắp tay niệm Phật mà rớt nước mắt tủi nhục trước nụ
cười chế riễu của kẻ đắc thế. Thiếu dũng khí thì Bi
biến thành Hèn. Uốn gối khom lưng chẳng hề
là đức Từ Bi Nhân Ái.
Cái
Trí
của
những
người Cộng Sản nay đã biến
thành cái TRÁ, cái dũng của người Cộng Sản
nay đã biến thành sự hăm hở của những anh tài xế
xe tăng cán người thành bánh tráng,
còn cái Tâm của những người Cộng Sản Việt Nam
thì nay có lẽ chỉ còn là miếng thịt heo
béo ngậy thơm phưng phức thúc đẩy anh cán bộ Cộng
Sản hăng hái băm thai nhi thật nhiễn trộn với bo bo để
nuôi cho heo mau ăn chóng lớn.
Vì
thế
mà
đất
nước Việt Nam vẫn còn quá
nhiều đổ vỡ tang thương. Vì thế mà ước mơ dựng lại
nền văn-hóa nhân bản vẫn là giấc mơ lớn lao trong
lòng mỗi người dân Việt.
Dựng Lại Niềm Tin
Khi nhìn lại lịch sử Việt Nam
trong vòng 100 năm trở lại ta không khỏi đau lòng
nhìn nhận dân tộc Việt Nam đã trải qua một cơn
khủng hoảng lớn lao chưa từng có trong dòng lịch sử.
Lần
đầu
tiên
dân
tộc Việt Nam đã mất hết niềm tin
vào nền văn-hóa nhân bản của dân tộc
mình, lần đầu tiên dân tộc Việt Nam đã hối hả
đổ xô ra ngoài, ngỡ ngàng nhìn ra những
chân trời mới lạ, ngẩn ngơ và thán phục khi thấy
những "ngọn đèn lộn ngược", lần đầu tiên dân tộc
Việt Nam đã phải đối diện với một thực tế phũ
phàng: chỉ vài chục tên lính
Pháp ô hợp với vài chục khẩu súng trường
trên tay là đủ phá tan những đạo quân tinh
nhuệ của những trung thần nghĩa sĩ khiến những hịch Cần Vương thiết tha
xúc động tan vào không khí như những
làn sương khói mỏng manh.
Thế
rồi
người
Việt
hối hả chạy ra ngoài tìm đường cứu
nước, vội vã chụp giựt những chủ nghĩa ngoại lai mang về
làm bí kíp võ công. Thế rồi
người dân trong nước bắt đầu chĩa những mũi dáo
sáng quắc vào nhau, đâm nhau, giết nhau, tàn
sát lẫn nhau, sỉ nhục nhau, kết án nhau. Từ những
phương trời xa lắc người Việt hăm hở mang về hàng chồng mũ
quái dị, hăm hở chụp mũ bừa bãi lên đầu thân
nhân, bạn bè, đồng bào mình :
nào mê tín, địa chủ, phản động, Việt gian, phản
cách mạng, phản khoa học, phản tiến hóa, phong kiến, hủ
lậu, thực dân mới, tư bản bóc lột, tay sai đế quốc, vv
và vv...
Thế
rồi
người
Việt
đã leo lên ngồi chễm chệ trên
những đống sọ người cao ngất với niềm hãnh diện lớn lao rằng
những trại Ðầm Ðùn, trại Lý Bá Sơ
và vô vàn trại tù cải tạo của ta dã
man tàn ác gấp nghìn lần các trại tù
Ðức Quốc Xã. Cái "đỉnh cao trí tuệ
loài người" cao vòi vọi đó nồng nặc mùi
xú uế phát ra từ những thây người chết và
những rác rưởi cặn bã của những nền văn minh ngoại lai
mà ta đã vui mừng đến rơi lệ lượm lặt về.
Thế
rồi
thế
hệ
trẻ lớn lên nhìn ra ngoài xã
hội chỉ toàn thấy những điều nghịch lý : Ðảng
Cộng Sản Việt Nam anh hùng ngủ chỉ nhắm một mắt vì chưa
van xin được tên Ðế Quốc đầu sỏ Mỹ quên quá khứ
mà tha cho ta cái bản án Cấm Vận, những người mang
danh "vô sản" có trong tay những tài sản kếch
xù lớn hơn nhiều tỉ phú ở Mỹ trong lúc nhân
dân đói khổ lầm than nằm la liệt nơi vỉa hè
xó chợ, xã hội do nhân dân làm chủ
mà người dân chỉ cần mở miệng thốt ra một lời nói
thật là bị tù 20 năm... Cái huyền thoại
"dân tộc giải phóng" rút lại biến thành việc
thay thế những quan Thái Thú Tô Ðịnh hoặc những
quan Toàn Quyền Pháp tàn ác xì xồ
nói tiếng Tây tiếng Tàu bằng những quan Cách
Mạng Việt Nam độc ác bất nhân gấp bội.
Cơn
khủng
hoảng
niềm
tin lớn lao đó vẫn đè nặng chĩu
trên con tim khối óc mỗi người dân Việt, khiến
không ai còn có thể tin ai. Ðiều đau
sót nhất là sự mất tin tưởng vào nền
văn-hóa nhân bản tràn lan khắp nơi như một bệnh
dịch, khiến không ít người Việt khinh bỉ dân tộc
mình, khinh bỉ đồng bào mình và khinh bỉ
luôn chính mình. Người Việt trở thành
kẻ thù không đội trời chung của người Việt. Con tố
cha, anh em oán hận nhau thấu xương tủy, bạn bè nối khố
đâm sau lưng nhau. Những chuyện đó xảy ra nhan nhản
ở khắp nơi. Hiện tượng thê thảm đó chưa từng
có trong dòng lịch sử.
Thử
truy
nguyên
lại
xem vì đâu mà có
cơn khủng hoảng niềm tin đó. Bình tâm suy
xét kỹ ta sẽ thấy chuyện đó không có
gì là lạ : khi một người bị chính đồng
bào mình lường gạt, đối xử tàn ác hơn
loài dã thú, thì cái ý niệm
TÌNH NGƯỜI dễ dàng trở nên vô nghĩa mỉa
mai. Tôi chẳng thể tin anh nếu tôi biết rõ
trong thâm tâm anh chỉ nghĩ tới một điều duy nhất là
lừa gạt tôi, tước đoạt tất cả những gì tôi
có, chiếm hữu mọi quyền lực để bắt tôi làm khuyển
mã cho anh. Cái "thiên đường hạ giới" anh vẽ
ra càng đẹp đẽ bao nhiêu khi đối chiếu với thực tại phũ
phàng càng tương phản bấy nhiêu.
Vì
đâu
mà
có
cơn khủng hoảng niềm tin
đó ?
Khi
có
sự
va
chạm với một nền văn-minh ngoại lai, ta có
dịp so sánh và nhận thấy sự khác biệt giữa
các nền văn-hóa. "Ngọn đèn lộn ngược"
mà Nguyễn Trường Tộ mang về là một thí dụ điển
hình của sự khác biệt đó. Ta cũng có
dịp nhận thức được một sự thực phũ phàng là xã hội
ta có những điều yếu kém, trong khi đó các
dân tộc Tây phương hùng mạnh hơn rất nhiều.
Nhưng
nếu
ta
tĩnh
tâm suy xét thì sẽ thấy ngay rằng
sự gặp gỡ giữa những nền văn-hóa dị biệt không hẳn tất
nhiên phải gây ra đổ vỡ thê thảm trong xã
hội. Nếu khôn ngoan sáng suốt biết gạn lọc những
cái hay của người hòa nhập với những cái hay của
mình, thì sự gặp gỡ giữa những nền văn-hóa dị biệt
có thể là một cơ hội vàng son để cả dân tộc
tiến lên thực mạnh mẽ. Dó là bài học
DUNG HỢP của tiền nhân. Tiền nhân ta đã dung
hợp rất nhiều nền văn-hóa khác nhau mà không
hề gây ra những thảm cảnh cho đất nước. Sót sa thay
trong vòng 100 năm qua người Việt đã không
làm được chuyện đó.
Mặc
cảm
tự
ti
đã phá nát niềm tin vào nền
văn-hóa nhân bản của dân tộc mình và
đưa đến sự ngưỡng mộ sùng bái không cân nhắc
bất cứ cái gì mang từ phương xa về.
Cái
sai
lầm
lớn
lao đó đã khiến cho không
ít người Việt vội vã mang những chủ chủ nghĩa ngoại lai
từ phương xa về tưởng như bắt được những "cẩm nang thần kỳ" đủ
phép màu để biến Việt Nam thành một đất nước
hùng mạnh phú cường trong một sớm một chiều.
Những
câu
thơ
sau
đây của Tố Hữu bộc lộ hết những ý
nghĩ thầm kín trong đầu óc những lãnh tụ Cộng Sản
Việt Nam :
Thuở
anh
chưa
ra
đời
Trái
đất
còn
nức
nở
Nhân
loại
chưa
thành
người
Ðêm
ngàn
năm
man
rợ !
"Anh"
đây
là
cuộc
cách mạng tháng 10 ở
Liên Xô. Ý tứ những câu thơ đó
có thể diễn tả huỵch toẹt như thế này : Trước khi
có cuộc cách mạng tháng 10, cả nhân loại
sống trong u mê tăm tối, xã hội loài người
là là một xã hội man rợ chưa thành
người. Chỉ nhờ có chủ nghĩa Cộng Sản mà nhân
loại mới phút chốc một sớm một chiều biến thành một
thiên đường hạ giới.
Chỉ
cần
bình
tâm
suy nghĩ kỹ một chút ta sẽ thấy
ngay đó là một tư tưởng cực kỳ cao ngạo đến độ lố
bịch. Nó là sự biến đổi đột ngột của một đầu
óc ngu muội tối tăm khi vừa bước ra đường gặp một thằng điếm chỉ
vẽ cho chút mánh lới thủ đoạn lừa người đã vội cảm
thấy mình biến thành một ông khổng lồ vĩ đại.
Ðó là sự "phối hợp nhuần nhiễn" giữa cái
rác rưởi của cả hai nền văn-hóa, kết quả là một sự
pha trộn lộn xà ngầu cái mặc cảm tự ti thảm hại với
cái mặc cảm tự tôn kệch cỡm.
Không
ai
phủ
nhậ
rằng các xã hội Tây phương
đã phát triển rất nhanh chỉ trong vòng một
vài thế kỷ vừa qua. Sự phát triển đó phần
lớn là nhờ những khám phá khoa học kỹ thuật.
Xã hội cổ truyền Việt Nam thiếu hẳn mọi nỗ lực phát triển
khoa học kỹ thuật, vì thế dân tộc ta cảm thấy mình
thua kém khi có dịp va chạm với văn-hóa tây
phương.
Nhưng
khoa
học
kỹ
thuật thực ra chỉ là sản phẩm của một nền
văn-minh, tự nó chưa phải là nền văn minh. Khoa học
kỹ thuật là kết quả sự góp sức của rất nhiều người trong
việc tìm tòi, khám phá, quảng bá
và ứng dụng những định luật khoa học vào việc cải thiện
đời sống con người. Nếu không có sự góp sức
của rất nhiều người vào nỗ lực chung đó thì cũng
không có khoa học kỹ thuật.
Sở dĩ xã hội Tây phương tiến bộ được chính
là vì họ đã tạo được một môi trường
thích hợp khiến mọi người cảm thấy hăng hái nỗ lực
làm việc, chung sức nhau tạo dựng một xã hội đáng
sống.
Một
xã
hội
đáng
sống là một xã hội
mà những giá trị tinh thần được thấm sâu và
tỏa rộng vào tâm hồn mỗi người dân, khiến đa số
người dân đều cảm thấy mình phải ăn ở đàng
hoàng tử tế với nhau, nếu mình muốn người khác
cũng đối xử đàng hoàng tử tế với mình như vậy.
Cuộc
cách
mạng
1789
ở Pháp đã đề ra ba giá
trị văn hóa làm nền tảng để xây dựng xã
hội : Tự Do - Bình Ðẳng - Bác
Ái .
Những
giá
trị
văn
hóa đó tuy có khác
với những giá trị tinh thần được đề cao trong nền văn hóa
nhân bản của Việt Nam, nhưng nếu bình tâm suy
xét kỹ ta sẽ thấy hai nền văn hóa Ðông
Tây không hề xung khắc nhau, mà lại bổ túc
nhau. Thực là một điều dại dột lớn lao khi ta vội
vã mù quáng đặt Ðông Tây
vào hai thế đối nghịch để rồi, hoặc khăng khăng ôm lấy
đấng quân vương vùi đầu xuống cát, hoặc hốt hoảng
đoạn tuyệt với quá khứ vội vã vứt bỏ di sản vô
cùng quí báu mà tiền nhân đã
phải trả xương máu nhiều đời mới gây dựng nên được.
Người
Nhật
đã
khôn
ngoan hơn dân tộc ta rất
nhiều. Vào thời Minh Trị Thiên Hoàng, họ mở
thật rộng cửa đón nhận mọi trào lưu văn minh Âu Mỹ
tràn tới. Họ cử rất nhiều người đi du học khắp nơi, họ mời
rất nhiều khoa học gia, kỹ thuật gia Âu Mỹ tới giảng dạy, họ nỗ
lực dịch sách của các tư tưởng gia , khoa học gia
Âu Mỹ trên một qui mô thật rộng lớn.
Chính sách khai phóng đó đã
làm thay đổ bộ mặt nước Nhật trong một thời gian thật ngắn ngủi.
Nhưng
đồng
thời
với
nỗ lực canh tân đó, họ nỗ lực
không kém vào việc vun đắp gìn giữ những
giá trị tinh thần trong nền văn hóa sẵn có của
họ. Họ hiểu rõ văn-hóa là chất keo kết hợp
lòng người, thiếu chất keo đó thì dân tộc sẽ
rã rời thành từng mảnh vụn. Cái sáng
suốt của người Nhật là họ đã nhận thấy rõ
Ðông và Tây khác nhau nhưng lại bổ trợ
cho nhau.
Cuốn
Kinh
Dịch
mà
rất nhiều người Trung Hoa và Việt Nam
chỉ dùng làm sách để bói toán,
đã được người Nhật tìm hiểu thật thấu đáo để
đem ra ứng dụng vào đời sống thực tế. Khi mà rất
nhiều người Trung Hoa nghiền ngẫm Kinh Dịch như bước vào một
Bát Quái Trận Ðồ mờ mờ ảo ảo, rối mù
dày đặc, không sao tìm thấy đâu là cửa
Sinh cửa Tử thì người Nhật tĩnh tâm suy ngẫm về cái
lẽ TRONG SÁNG GIẢN DỊ là đầu mối của vô vàn
phức tạp.
Michio
Kushi
chẳng
hạn
đã có thể diễn tả những Luật Tạo
Hóa được đề cập tới trong Kinh Dịch bằng những lời thật giản dị
sáng sủa sau đây :
The
Seven
Universal
Theorems
:
1-
Everything
is
a
differentiation of one Infinity
2-
Everything
changes
3-
All
antagonisms
are
complementary
4-
There
is
nothing
identical
5-
What
has
a
front has a back
6-
The
bigger
the
front, the bigger the back
7-
What
has
a
beginning has an end
Bảy
Luật
vũ
trụ
:
1-
Mọi
sự
vật
đều chỉ là biến thái của Vô Cực
2-
Mọi
sự
vật
đều biến dịch
3-
Mọi
đối
cực
đều có tính cách bổ trợ lẫn nhau
4-
Không
có
gì
là hoàn toàn
đồng nhất
5-
Cái
gì
có
mặt tiền thì có mặt
trái
6-
Mặt
tiền
càng
lớn thì mặt trái cũng càng
lớn
7-
Cái
gì
có
Bắt đầu thì sẽ có Kết
Thúc
Những
tư
tưởng
thâm
trầm sâu sắc như trêN rút
ra từ Kinh Dịch đã được người Nhật phối hợp với thuyết Tri
Hành Hợp Nhất của Vương Dương Minh để biến thành những tư
tưởng chỉ đạo hướng dẫn mọi chính sách thực tiễn của quốc
gia họ.
Nay
ta
thử
suy
ngẫm xem đâu là sự khác biệt căn bản
giữa hai nền văn hóa Ðông Tây và thử
xét xem hai nền văn-hóa đó có thực sự
lâm vào thế đối đầu một mất một còn hay không.
Có
lẽ
sự
khác
biệt lớn lao nhất giữa Ðông
và Tây là Tây Phương thiên nhiều về
Lý Trí, trong khi Ðông Phương nghiêng
nặng về Trực giác. Trực Giác đó Vương Dương
Minh gọi là Lương Tri, Ðức Phật gọi là
Bát Nhã, tiếng dùng tuy khác nhau nhưng đều
là Trực Giác cả. Vì thiên về Lý
Trí nên người Tây Phương phát triển rất mạnh
óc Phân Tích. Chính óc
Phân Tích đó đã giúp họ có
tinh thần khoa học, bất cứ chuyện gì cũng chuộng sự tách
bạch rõ ràng,sáng sủa, phân định trắng đen
thật rõ rệt. Suy luận toán học của DEscartes
là điển hình của óc phân tích
đó. Ngay trong lãnh vực khoa học nhân văn
là lãnh vực của những vấn đề phức tạp bao quát
và đa diện nhất thì người Tây Phương cũng
luôn luôn sử dụng óc phân tích để
tìm hiểu, do đó Triết Học là khoa học phát
sinh từ Tây Phương. Triết vốn có nghĩa là bẻ
nhỏ ra, là tách bạch. Triết học là khoa học
bẻ nhỏ những vấn đề thực lớn lao phức tạp ra thành nhiều vấn đề
nhỏ để có thể nhìn thật rõ ràng
chính xác.
Cái
nhìn
đó
khác
hẳn cái nhìn
của Ðông phương. Ðông Phương nghiêng
nặng về Trực giác, nên thường có cái
nhìn tổng hợp. Tìm hiểu một con người thì
quan sát nguyên vẹn con người đó chứ không
tìm cách mổ sẻ ra thành từng bộ phận rời
rạc. Về lãnh vực nhân văn, Ðông Phương chỉ
có Ðạo học mà không có Triết học.
Một trong những thí dụ điển hình nhất cho cái
nhìn nguyên thể này là tư tưởng của Khổng Tử.
Khổng
Tử
từng
nói
:
"Ngô
đạo
nhất
dĩ
quán chi"
( Ðạo của ta lấy Một mà suy ra Tất cả )
Ðạo
đó
là
đạo
Hiệt Củ, đạo Trung Thứ, quan sát
một sự vật, một hiện tượng mà suy ra cái lý chung
chi phối vạn vật trong vũ trụ. Do đó Ðông Phương
thường nghiêng nặng về cái nhìn tổng hợp mà
ít chú trọng đến việc phân tích sự vật ra
từng mảnh vụn.
Nói
chung
thì
như
vậy, nhưng điều đó chẳng hề
có nghĩa là Tây Phương không có
cái nhìn tổng hợp hoặc Ðông phương không
có óc phân tích. Từ mấy nghìn
năm trước ở Tây phương Aristotle cũng đã từng nhìn
thấy sự khác biệt giữa hai cái nhìn phân
tích và tổng hợp. Ông từng nói :
"The
Whole
is
more
than the Sum of its Parts"
(
Cái
Toàn
Thể
không phải chỉ là Tổng Số của
những phần tử hợp thành )
Ý
tưởng
đó
thực
thâm trầm sâu sắc. Ta
có thể lấy một thí dụ nhỏ để làm sáng tỏ
những gì Aristotle muốn nói : Nước ( H2O ) do Oxy (
O ) và Hydro ( H2 ) hợp thành; nhưng tính
chất của nước khác hẳn tính chất của Oxy và
Hydro.
Thí
dụ
đó
cho
ta thấy nếu ta dùng suy luận
toán học của Descartes để suy ra H2O = H2 + O
thì suy luận đó vừa đúng vừa không
đúng tùy theo cách nhìn của mỗi người.
Những
điều
nói
trên
tới nay chẳng còn gì mới
lạ đối với toàn thể nhân loại. Ngày nay những
người có cái nhìn sáng suốt dù ở
Ðông hay Tây cũng chẳng xem Ðông và
Tây như hai nền văn-hóa đối nghịch xung khắc nhau đến độ
cái nọ phải diệt cái kia đi thì mới có thể
tồn tại. Óc Phân Tích và Óc
Tổng Hợp tuy khác nhau nhưng lại bổ trợ cho nhau.
Cái nhìn Nguyên Thể ( the Whole ) và
cái nhìn tách bạch từng phần ( the Parts ) cũng y
hệt như vậy.
Với
cái
nhìn
cởi
mở dung hợp như trên thì
mọi thế lưỡng cực đố đầu giữ Ðông và Tây, giữ
Lý Trí và Trưc Giác, giữa Tâm
và Vật, giữa Thượng Ðế và con người, giữ Cá
Nhân và Xã-Hội đều có thể dễ dàng
hóa giải.
Một
nhà
văn-hóa
học
Nhật Bản là Shimahara cũng
tìm cách mô tả sự khác nhau giữa các
nền văn-hóa. Ông cho rằng văn-hóa nhân
loại có hai khuynh hướng khác biệt chính
yếu. Ông gọi hai khuynh hướng đó là khuynh
hướng ly tâm và khuynh hướng qui tâm.
Một
xã-hội
qui
tâm
khi đa số người dân trong nước
mưu tìm sự Hòa Hợp giữa các cá nhân
trong xã-hội, người nọ nương tựa với người kia, gắn bó
với người kia. Những xã hội Ðông Phương xưa kia,
từ Trung Hoa, Nhật Bản đến Việt Nam đều có thể được xem như
những xã hội qui tâm điển hình. Trung
Hoa đề cao Tam Cương Ngũ Thường. Cương Thường là giềng mối
hay những sợi dây vô hình ràng buộc những
phần tử trong xã hội với nhau. Việt Nam đề cao Tình
Nghĩa, từ Tình Nghĩa Vợ Chồng, Cha Con, Anh Chị Em, Bạn
Bè, Ðồng Bào tới Tình Người.
Một
xã-hội
ly
tâm
là một xã hội trong
đó đa số người dân trong nước mưu tìm Tự Do
Cá Nhân; khuynh hướng chung của đa số người dân
trong nước là khuynh hướng Tự Lực.
Nếu
đi
về
hai
đối cực tuyệt đối thì cả hai khuynh hướng
đó đều tai hại như nhau. Khuynh hướng qui tâm khi
có tính cách cực đoan quá khích sẽ
biến thành độc tài chuyên chính, hủy diệt tự
do cá nhân, con người bị ép vào khuôn
khổ cứng ngắc bị guồng máy xã hội vô tri nghiền
nát vụn. Trung Hoa cổ xưa đã phần nào đi về
tận cùng đối cực như vậy nên mới có những tư tưởng
như " Quân sử thần tử thần bất tử bất trung, phụ sử tử vong tử
bất vong bất hiếu" ( Vua muốn bày tôi chết, bày
tôi không chịu chết là bất trung ; cha muốn
con chết, con không chết là bất hiếu ). Việt Nam
thời xưa dù chịu ảnh hưởng của văn-hóa Trung Hoa rất
nhiều cũng chưa hề có tư tưởng quá khích như vậy.
Mặt
khác
khuynh
hướng
ly tâm nếu trở thành cực đoan
sẽ đẩy xã hội tới chỗ phân hóa rã rời
thành từng mảnh vụn, mỗi cá nhân sẽ trở
thành một ốc đảo tách biệt chỉ mưu tìm hạnh
phúc cá nhân mà không nghĩ gì
tới đồng loại.
Nhưng
nếu
ta
hiểu
rõ mọi đối cực đều có tính
cách bổ trợ lẫn nhau thì khuynh hướng qui tâm
và ly tâm chẳng phải là hai kẻ thù bất cộng
đái thiên mà trái lại sự phối hợp hài
hòa hai khuynh hướng đối nghịch đó có thể
là một động lực thúc đẩy xã-hội tiến lên
thật mạnh mẽ.
Không
may
khi
có
sự va chạm giữa hai nền văn hóa
Ðông Tây trong những thập niên đã qua
thì đa số người Việt đã bối rối như con lừa đứng trước
hai máng cỏ và thái độ chung dường như chỉ
là sự lựa chọn dứt khoát giữa một trong hai đối cực, chọn
cái nọ thì dứt khoát đoạn tuyệt với cái kia.
Những
người
Cộng
Sản
còn mắc phải lỗi lầm lớn lao hơn nữa.
Không những họ khinh rẻ nền văn-hóa nhân bản của
Việt Nam mà cũng bài xích luôn nền văn
hóa Tây Phương. Lưỡi liềm được dùng để chặt
đứt văn hóa qui tâm Ðông Phương ra từng mảnh
nhỏ, cái búa được dùng để đập cho nền
văn-hóa ly tâm Tây Phương bẹp dúm. Họ
mê mẩn chạy theo Karl marx , tin tưởng tuyệt đối vào
thuyết "mâu thuẫn sinh tiến hóa". TỪ quan niệm
đó họ chặt vụn con người thành Tâm và Vật,
xé nát nhân loại thành những giai cấp đối
nghịch, biến loài người thành những kẻ thù bất
cộng đái thiên, luôn miệng hô hào đấu
tranh một mất một còn giữa những người đồng chủng. Cuộc
đấu tranh một mất một còn do họ đề xướng nếu chẳng may
thành tựu thì nhân loại có lẽ sẽ chỉ
còn là con số không to tướng.
Sau
bao
nhiêu
đau
thương đổ vỡ có lẽ giờ đây người
Việt đã bắt đầu từ từ tỉnh ngộ và nhìn thấy những
giá trị lớn lao trong nền văn hóa nhân bản của
dân tộc. Những giá trị đó thực giản dị đơn
sơ, mộc mạc như đôi guốc gỗ, như chiếc nón lá, như
không khí trong lành buổi sáng , như
gáo nước mưa mát rượi.
Nền
văn-hóa
nhân
bản
đã tạo cho Việt Nam một
dân tộc hiền hòa thuần hậu, biết đối xử với nhau bằng một
tấm lòng thiết tha chân thật, biết thương yêu
đùm bọc lẫn nhau.
Cái
tâm
hiền
hòa
thuần hậu đó là cốt
lõi của nền văn-hóa nhân bản mà tiền
nhân đã bao đời vun bồi gìn giữ. Cái
tâm hiền hòa thuần hậu đó chẳng có gì
là phản khoa học, phản tiến bộ hết. Nó không
hề là một trở ngại ngăn cản ta hấp thu những tinh hoa trong nền
văn hóa Tây phương, nó chẳng phải là tư
tưởng độc tài độc tôn đối nghịch với Tự Do Dân Chủ,
nó chẳng phải là mê tín dị đoan đối nghịch
với khoa học kỹ thuật, nó chẳng hề là yếu tố tạo
nên một dân tộc ươn hèn. Tấm lòng của
người Việt được thể hiện qua những Phạm Ngũ Lão, Lương Ngọc
Quyến chỉ nói lên sức mạnh quật cường hiền hòa
nhưng mãnh liệt đã là chất keo gắn bó
dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm.
Những
người
lớn
lên
trong ngục tù Cộng Sản thấu hiểu hơn
ai hết tác hại của chủ nghĩa Cộng Sản như Nguyễn Chí
Thiện, Phùng Quán, Trần Dần, Trần Văn Thủy, Nguyễn
Ðan Quế đã không cầ tới bất cứ một chủ nghĩa ngoại lai
nào, họ cũng chẳng thèm dùng những từ ngữ dao to
búa lớn. Những lời họ nói lên phát
xuất tự đáy lòng, giản dị nhưng chân thật, vừa thốt
lên là đủ khiến cả triệu trái tim cùng rung
động.
Phùng
Quán,
Trần
Dần
chỉ nói tới lòng
Thành Thật, Trần Văn Thủy chỉ viết chuện Tử Tế, Nguyễn
Chí Thiện chỉ dương Tã Trắng lên thay cờ, Nguyễn
Ðan Quế chỉ dựng tấm bảng "Cao Trào Nhân Bản" rồi
bình thản ngồi chìa tay cho cán bộ Cộng Sản
móc còng dẫn vô tù.
Ôi
những
con
người
ấy họ có gì khác
chúng ta đâu ? Họa chăng họ chỉ có một tấm
lòng Việt Nam phát xuất từ nền văn-hóa nhân
bản của cha ông mà họ đã không vội vã
vứt bỏ để đổi lấy đồng đô la hoặc chiếc khăn quàng
đỏ. Nhưng chính nhờ những tấm lòng cao quí
đó mà chúng ta mơ"i còn hy vọng dựng lại
niềm tin cho những thế hệ mai sau.
Từ Quẻ Bĩ
Sang Quẻ Thái
Tập sách nhỏ này thật
mỏng manh. Khi tôi viết tới dòng này
thì trong thâm tâm tôi nghĩ là chưa
viết nổi một phần mười những gì định viết. Khả năng con
người thực quá nhỏ bé. Tôi nghĩ cần
nói đôi điều về diễn tiến việc viết tập sách
này để độc giả có thể hiểu nổi nỗi khổ tâm của
người viết. Tôi tin rằng có rất nhiều người cũng
có ý định viết những điều tương tự như tôi đang
viết, nhưng hễ cầm tới bút là lại quẳng ngay đi.
Và
sự
thật
là tôi đã quẳng bút đi rất
nhiều lần. Ý định viết tập sách này
đã có từ ngày tôi bị giam ở trại Bù
Gia Mập, cách đây 17 năm. Ngay từ khi vừa đặt
chân tới Úc vào năm 1983, tôi vội vã
ngồi xuống đem hết tâm trí ra viết được một bản thảo chừng
100 trang viết tay. Viết xong đọc lại xé nát tập
bản thảo. Sau đó thêm hai lần nữa, mỗi lần viết được
vài chục trang, viết xong đọc lại, ngậm ngùi mà
vứt vào sọt rác.
Tại
sao
có
chuyện kỳ cục như vậy ?
Tâm
trạng
tôi
có lẽ cũng không khác với
tâm trạng của rất nhiều người khác đã được chứng
kiến quá nhiều sự thật đau lòng, nhưng nghẹn ngào
vì không thể diễn tả nổi, và vì cảm thấy
rõ rệt là những điều mình định viết có lẽ
cũng hoàn toàn vô ích, viết ra có lẽ
chẳng ai thèm đọc, có đọc cũng chẳng ai tin. Nghĩ
ngấm nghía càng thấy lời Lão Tử là thấm
thía :
"Tri
giả
bất
ngôn, ngôn giả bất tri."
(
Kẻ
biết
thì không nói, kẻ nói là
vì không biết )
Mãi
tới
lần
này tuổi đã lớn, sức khỏe mỗi
lúc một suy kém, vài tháng trước khi
vào bệnh viện chịu một cuộc giải phẫu, ý thức được cuộc
đời quá ngắn ngủi, tôi mới vội vã viết cho xong tập
sách này với ý nghĩ rằng cuộc đời mình
có lẽ cũng không còn dài nữa, thôi
thì viết được chút nào hay chút
đó. Cũng may tập sách nhỏ này đã được
viết tới đây mà người viết vẫn còn nằm trên
giường bệnh.
Thôi
nếu
cuộc
đời ngắn ngủi như vậy thì thà
làm một kẻ bất tri còn hơn là làm một kẻ
bất ngôn. Kẻ bất tri là kẻ điếc không sợ
súng. Nhưng biết đâu chẳng có một vài
người đọc cảm thông được với những gì mình định
nói. Trang giấy thật trắng, dòng mực xanh thật hiền
lành, nhưng chứa đựng trong đó là cả bao nỗi khắc
khoải của cả một thế hệ đã chứng kiến quá nhiều chuyện u
buồn xảy ra trên đất nước.
Lắng
tâm
ngồi
nghĩ lại bây giờ tôi lần lần hiểu được
tâm trạng mình, hiểu được tại sao viết xong rồi lại
xé. Tôi chỉ là một con người, như tất cả mọi
người khác, sống trong cơn khủng hoảng niềm tin triền miên
của cả một dân tộc. Tôi chẳng tin tôi đủ khả
năng thuyết phục bất cứ một ai. Vả chăng dường như tất cả mọi
người đều phải tự chứng ngiệm trong cuộc sống thực mới tìm ra sự
thực. Vậy thì cầm bút để làm gì ?
Nhưng
chính
vì
quá thấm thía với cơn khủng
hoảng niềm tin chung của tất cả mọi người, cho nên mới có
ý nghĩ tìm cách phá vỡ cơn khủng hoảng
đó. Chính ý nghĩ đó đã
thúc đẩy tôi viết tập sách này.
Tôi xin kể lại một mẩu chuyện thật về một người đã thấy
và đã không thể nói lên điều
mình thấy cho bạn hữu cùng nghe.
Người
kể
câu
chuyện này là một người bạn tù
đã cùng ở với tôi qua ba trại cải tạo. Thay
vì dùng tên thực, tôi xin gọi anh ta
là Luận để tránh những điều phiền toái có
thể xảy ra cho anh nếu anh còn ở lại Việt Nam.
Một
buổi
chiều
chủ nhật chúng tôi đang ngồi trầm
ngâm trong một căn nhà tù ở trại Bù Loi,
vào khoảng năm 1978.
Một
người
trong
đám chợt khơi chuyện. Anh ta than rằng bọn
mình quá ngu, dân tộc mình quá
ngu. Vì quá ngu nên mới bị lừa. Nếu
không ngu đã không chui đầu vào rọ. Sao
cả mấy trăm ngàn người có thể ngây thơ dễ tin đến
thế, cứ tưởng rằng mình sẽ đi học tập mười ngày hoặc một
tháng là sẽ được trở về cùng gia
đình. Tất cả chúng ta đều là những kẻ bị lừa
vì quá ngu muội. Không có lấy một
người sáng suốt.
Anh
Luận
trầm
ngâm ngồi nghe. Mãi một lúc sau
anh mới chậm rãi nói :
-
Không,
tôi
không bị lừa !
Tất
cả
chúng
tôi giật bắn mình vì điều anh
nói. Nếu anh ta không bị lừa tại sao anh cũng
vô đây ?
Anh
Luận
ôn
tồn kể :
-
Tôi
biết
rất rõ là mình đã chui
vào rọ. Tôi biết rất rõ là chẳng
làm gì có chuyện học tập 10 ngày hoặc một
tháng.
Vào
dịp
Tết
Mậu Thân tôi bị kẹt ở ngoài
Huế. Những gì xảy ra ở Huế cũng là những gì
được lập lại năm 1975. Cộng Sản nắm được Huế trong một thời gian
ngắn, họ ra thông cáo yêu cầu quân nhân
công chức của chính quyền Miền Nam ra trình
diện. Chỉ có một số rất ít tin theo hoặc ở thế bất
khả kháng đành phải ra trình diện. Bọn Cộng
Sản cấp cho mỗi người một phiếu chứng nhận đã ra trình
diện rồi thả về. Sau đó họ lại ra một thông
cáo khác, yêu cầu tất cả mọi quân nhân
công chức của chính quyền Miền Nam, dù đã ra
trình diện lần đầu hay chưa, đều phải ra trình diện lần
thứ hai. Lại thêm một số người rụt rè ra
trình diện, và lại được cấp phiếu chứng nhận rồi thong
dong trở về nhà. Hai ba lần như vậy, đến lần chót
thì những người ra trình diện đông hơn, và
tất cả nay đã nằm sâu dưới những nấm mồ tập thể ở Huế.
Tất
cả
chúng
tôi đều bàng hoàng khủng
khiếp. Tôi hỏi anh tại sao anh đã biết rõ như
vậy mà không nói với những người thân,
và không tìm đường trốn tránh, để đến nỗi
rút cục phải chui vào rọ.
Anh
Luận
buồn
bã nói :
-
Tôi
có
nói với vài người thân, nhưng
không một ai tin lời tôi nói hết. Họ
nói : Trước khác bây giờ khác.
Từ đó tôi thấy có nói cũng vô
ích, im lặng là hơn cả. Tôi tìm mọi
cách để trốn, không may bị bắt lại. Thật cứ y như
chuyện Trạng Quỳnh !
Nghe
anh
kể,
tôi bồi hồi nhớ tới mẩu chuyện Trạng Quỳnh tôi
đã đọc từ hồ nhỏ.
Trạng
Quỳnh
nổi
tiếng là người văn hay chữ tốt. Một
hôm Trạng làm căn nhà ở giữa hồ. Muốn
vào căn nhà đó phải đi qua một cây
cầu. Trạng loan tin ai muốn xem văn Trạng thì phải nộp một
quan tiền. Thiên hạ háo hức rủ nhau qua cầu
vào xem văn Trạng. Người thứ nhất bước vào căn
nhà giữa hồ chẳng thấy văn Trạng đâu chỉ thấy một tấm giấy
lớn viết mấy chữ nguệch ngoạc :"Ð. M. thằng nào bảo thằng
nào !"
Người
đó
trở
ra, hầm hầm tức giận. Người đứng ngoài
xúm xít hỏi văn Trạng có hay không.
Anh ta đỏ mặt tía tai xửng cồ lên gắt gỏng :
-
Làm
gì
có văn với vẻ ! Chỉ có mỗi một
câu : "Ð.M. thằng nào bảo thằng nào !"
Người
nghe
tức
giận vì nghĩ rằng anh ta xấu bụng, biết mà
không nói. Thế là đoàn người cứ lũ
lượt kéo nhau vào xem văn Trạng.
Những
gì
xảy
ra trong xã hội Cộng Sản cũng y hệt như
vậy. Không biết bao nhiêu người đã bị
lừa. Người bị lừa nói lại cho người khác nghe
thì chẳng ai tin. Tri giả bất ngôn là như vậy.
Ðó
chính
là
cái hiệu lực thần kỳ do
áp dụng "cẩm nang" của Lenin mà bác Hồ đã
vui mừng đến rơi lệ khi đọc được. Trí chẳng đủ để người
tin, bác Hồ bèn dùng TRÁ lừa người để đạt
được cứu cánh quyền lực., và dạy dỗ cho môn đệ
làm theo lời bác dạy. Trong một xã-hội
càng nhiều người lương thiện chừng nào càng dễ tin
và dễ bị lừa chừng ấy. Lọt vào một kẻ TRÁ
Tào Tháo gian hùng là kẻ TRÁ sẽ
làm vua.
Làm
sao
để
gỡ cho dân tộc thoát khỏi một tai họa
khủng khiếp như vậy ? Dùng lý luận chăng ?
Dùng giáo dục chăng ? Vị tất đã có
kết quả ! Không thiếu những bậc đại trí thức cũng bị
lừa y hệt như những người nông dân chất phác,
có khi còn tệ hơn nữa.
Trước
năm
1975,
một trong những trí thức tên tuổi
và rất có uy tín là Châu Tâm
Luân, giáo sư trường Ðại Học Nông Lâm
Súc. Châu Tâm Luân là cháu
Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình. Anh rất
thông minh, du học tại Mỹ, đậu bằng Tiến Sĩ về Kinh Tế Nông
Nghiệp. Anh là một con người gương mẫu liêm khiết,
sống giản dị thanh bạch. Tính tình anh rất thẳng
thắn, dám nói dám làm. Anh được sinh
viên Nông Lâm Súc rất quí mến
kính phục. Rất nhiều sinh viên và giáo
chức đại học coi anh như một thần tượng. Chỉ cần tinh ý
một chút là biết ngay anh có khuynh hướng
thiên tả, nghĩa là giành nhiều cảm tình cho
phe Cộng Sản hơn là phe Quốc Gia.
Sau
năm
1975,
Cộng Sản đưa anh ra làm Phó Chủ Tịch Hội
Trí Thức yêu nước, cho anh ra tham quan Hà Nội, rồi
Liên Xô, rồi Ðông Âu. Ðùng
một cái vào khoảng năm 1981 nghe tin anh ta vượt
biên tới Thái Lan. Sao lại có chuyện lạ đời
thế nhỉ ? Chưa ở với Cộng Sản thì mê Cộng Sản như
điếu đổ, đến khi cá đã gặp nước thì lại vội
vàng bỏ chạy, thế là nghĩa làm sao ?
Người
viết
có
hân hạnh quen một người bạn thân của
Châu Tâm Luân. Nghe tin Châu Tâm
Luân đã vượt biên, người bạn đó kể cho người
viết một điều đáng lẽ phải dấu kín. Theo lời người
bạn đó kể lại, trước khi vượt biên Châu Tâm
Luân đã nói với anh ta như thế này :
"Họ
tàn
ác
lắm ! Hở ra một chút là họ
giết liền !"
"Họ"
đây
là
những người Cộng Sản.
Ôi
thế
thì
ra một giáo sư đại học hay một gã
dân quê nào có khác gì nhau
! Cũng phải mất một quan tiền mới xem được văn Trạng Quỳnh đấy
chứ !
Cho
tới
nay
không ít người Việt vẫn tin rằng dân tộc
Việt Nam đang có một tiềm năng phát triển rất lớn.
Vào cái thời Ðông Du xa xưa, cụ Phan Bội
Châu chỉ mới đưa được vài trăm du học sinh ra ngoài
du học, kẻ nào kẻ đó xất bất xang bang, vừa đi làm
nghề hớt tóc, thợ hồ, thợ mộc kiếm sống vừa đi học lóm
những tinh hoa trong nền văn minh của người. Học lóm
vì không đủ tiền và đủ điều kiện để xin vào
các trường đại học, trung học của họ. Vậy mà cụ
Phan Bội Châu đã gây được một phong trào
ái quốc bồng bột, mở mắt cho cả dân tộc. Ngày
nay có từ một tới hai triệu người Việt ở hải ngoại, đầy đủ điều
kiện để vào học những trường danh tiếng nhất của những quốc gia
tân tiến trên thế giới. Tiềm năng đó thực
quá lớn so với thuở Ðông Du, không ai có
thể phủ nhận điều đó. Nhưng cái tiềm năng đó
có phát huy được hay không lại là một dấu
hỏi lớn.
Người
viết
xin
kể lại hai mẩu chuyện sau đây để độc giả
cùng suy ngẫm.
Trong
chuyến
vượt
biên năm 1982, người viết may mắn thoát
khỏi gọng kềm Cộng Sản. Con tàu vượt biên lênh
đênh trên biển cả nhiều ngày. Mỗi ngày
khẩu phần của mỗi người trên tàu là một nắm gạo
rang và 3 nút chai nước ngọt, ngoại trừ chủ tàu
và đoàn thủy thủ bộ hạ. Họ canh gác lương
thực và nước uống rất kỹ. Rất nhiều người trên
tàu bắt đầu kiệt sức lả dần vì thiếu nước uống.
Người viết thì gần tới độ hôn mê bất tỉnh.
Trong lúc đó quả thật một ly nước quí hơn một
lượng vàng.
May
mắn
thay
chỉ vài ngày sau con tàu vượt
biên tới được một dàn khoan dàu thuộc hải phận Nam
Dương. Trên dàn khoan tiếp tế nước uống xuống
và chỉ đường cho con tàu đi tiếp. Tới được
dàn khoan chưa phải là đã tới được đất tự
do. Hành trình trước mặt vẫn còn dài
và chưa ai biết chuyện gì sẽ xảy ra. Có một
điều chắc chắn là mọi người trên tàu cũng vẫn cần
nước uống như trước. Người viết xin được một ly nước đầy.
Ôi, ly nước đó sao mà mát rượi.
Ðúng là ly nước cải tử hoàn sinh ! Người
viết tỉnh táo hẳn, và đủ sức đứng dậy đi ra sau boong
tàu. Ở đây người viết chợt chứng kiến một chuyện,
có lẽ rất bình thường, nhưng sao trong tim chợt như
có gì đau nhói.
Hai
người
đàn
bà ngồi chút can nước uống ra
gáo giội thoải mái rửa mặt, rửa tay, lau mình mảy,
rửa chân và tẩn mẩn kỳ cọ từng ngón chân.
Chuyện
đó
có
lẽ cũng là lẽ thường, một chuyện vặt
như thế có gì đáng nói đâu nhỉ
! Nhưng bỗng nhiên người viết nghĩ tới ý nghĩa
chuyến ra đi và liên tưởng tới gáo nước
lã. Tại sao mình ra đi ? Ai cũng có
thể dễ dàng trả lời : Vì lý tưởng tự do !
Nhìn
can
nước
hai người đàn bà dùng để rửa
chân và nhớ tới những nút chai nước nhỏ xíu
đã giúp mình sống sót, người viết bỗng
nhiên có ý nghĩ so sánh Tự Do với can nước
lã. Tự Do là gì nhỉ ? Có lẽ
nó rất giống với can nước lã. Nó rất
quí vì có thể cứu sống cả mấy trăm người trong một
ngày vượt biên nắng gắt- mỗi người chỉ cần ba nút
chai nước nhỏ xíu là đủ thoát chết - thế
nhưng nó cũng có thể chỉ được dùng để rửa
đôi bàn chân lem luốc.
Hơn
một
triệu
người Việt hải ngoại hiện nay có rất nhiều Tự Do,
khối lượng Tự Do cho mỗi người có thể tính bằng
hàng chục hoặc hàng trăm thước khối nước trở lên
chứ chẳng phải chỉ bằng một can nước nhỏ. Chẳng hiểu họ đang
dùng lượng nước khổng lồ đó để làm gì, hay
vẫn chỉ dùng để rửa đôi bàn chân cho sạch ?
Người
viết
xin
kể tiếp một mẩu chuyện khác để cố gắng diễn tả
những gì thật khó nói nên lời.
Năm
1980,
sau
một chuyến vượt biên thất bại trở về, người viết
lang thang bước trên đường phố như người mất hồn. Bỗng
nhiên giật mình vì tiếng reo hò của một lũ
trẻ trên đường phố. Lũ trẻ chạy theo một người đàn
bà, chỉ trỏ và cười rầm rĩ.
Người
đàn
bà
đó mặc một chiếc áo
cánh với một chiếc quần đen. Quần áo rách tả
tơi, đến nỗi gần như lõa lồ thân thể. Bộ ngực gần
như phơi trần một nửa. Quần thì rách như sơ mướp,
hầu như để lộ nguyên vẹn hai cái mông trắng
nõn. Người đàn bà đó tay cầm một cục
đá nhỏ giơ cao, dậm dọa cho lũ trẻ tránh xa ra. Lũ
trẻ vô tư cười đùa rầm rĩ cứ bám từng đoàn
theo đuôi người đàn bà đó, thỉnh thoảng lại
la lên : "Mụ dại ! Mụ dại !"
Người
viết
đi
bên này đường, tò mò tiến lại
gần để xem mặt "mụ dại". Khi tới bên này đường đối
diện với mụ dại, người viết giật thót mình như bị điện
giật. Nào có phải ai xa lạ đâu !
Cô ta chính là em gái một người bạn cũ
! Trước năm 1975 cô ta là một cô nữ sinh
viên đại học Saigon, sống với vợ chồng người anh ruột. Tại
sao có thể nên nông nỗi thế này ?
"Mụ
dại"
ngó
sang và chợt thấy người viết, nhận ra người
quen. Cô ta cuống quít lấy tay che ngực che
mông và chạy đi mất.
Người
viết
thẫn
thờ đứng lặng. Một lát sau buột miệng hỏi
mấy người đàn bà trên đường phố : tại sao
không ai giúp cô ta một bộ quần áo cũ ?
Một
người
đàn
bà chép miệng nói :
-
Bộ
quần
áo cô ta đang mặc là của tôi vừa
cho cô ấy hôm qua. Tội nghiệp con bé !
Không biết gia đình di tản đi đâu, nhà cửa bị
tịch thu hết. Ðêm đêm nó về ngủ dưới gầm
cầu thang một chung cư. Ngay giữa chung cư là một đồn
công an. Mỗi đêm mấy thằng phải gió mò
ra thay phiên mần thịt con bé. Chúng
nó kháo nhau thằng anh con bé tội nặng lắm,
vì thế mần thịt con bé xong rồi còn xé tanh
banh ra cho bõ ghét
Tôi
biết
người
anh cô bé. Anh ta hiện giờ ở
Mỹ. Trước năm 1975 anh ta cũng là một sinh viên đại
học. Một thời, anh ta rất hăng hái hoạt động chống
Cộng. Cái tội của anh ta có lẽ chỉ là như
vậy.
Ở
nước
Việt
Nam hiện nay có không biết bao nhiêu
người đang chịu những nỗi đau đớn xót xa như thế. Họ đau
đớn tủi nhục mà không nói lên được.
Người bên đường thương họ, nhiều lắm chỉ có thể cho họ một
bộ quần áo cũ đủ che thân trong một đêm.
Ôi niềm đau đớn tủi nhục đó đến bao giờ mới dứt ?
Khi
ra
tới
vùng trời tự do tôi vẫn để tâm tìm
kiếm người anh cô ta. Một hôm tôi nhận được
lá thư của một người bạn học cũ. Người bạn học cũ kể
chuyện về người anh của cô bé.
Anh
ta
hiện
giờ khá thành công ở Mỹ. Kiếm
tiền khá nhiều, địa vị vững chắc, hào hoa phong
nhã, gái bu theo đông như kiến.
Từ
đó
tôi
bỏ hẳn ý định tìm kiếm để kể cho
anh ta nghe những gì đã xảy ra cho người em gái
còn ở lại. Nói với một người không tim
thì ích gì !
Và
cũng
từ
đó tôi ý thức được thật rõ
rằng chẳng phải chỉ lật đổ được chính quyền Cộng Sản để thay thế
bằng một chế độ "kinh tế thị trường" là đủ tạo cho xã-hội
Việt Nam thành một xã hội đáng sống.
Có lẽ ta phải làm một cái gì hơn thế nữa.
Niềm
hy
vọng
của tôi chỉ là ước mong rằng Luật Phản Phục
trong Kinh Dịch được chứng nghiệm. Luật Phản Phục có được
chứng nghiệm thì mới có hy vọng Bĩ cực Thái lai.
Luật
Phản
Phục
đó đã được Lão Tử diễn tả trong một
câu hết sức kỳ quặc quái dị :
"Quốc
gia
loạn
hữu trung thần, phụ bất từ sinh hiếu tử"
Câu
nói
đó
phá vỡ rất nhiều lý thuyết
giáo dục đang được đề cao và phổ biến khắp nơi trên
thế giới hiện nay, nhất là những lý thuyết dựa trên
thí nghiệm "con chó, tiếng chuông và miếng
thịt" của Pavlov. Con người bị điều kiện hóa lẽ ra phải
thuần phục như con chó của Pavlov chứ sao lại phản ứng ngược lại
?
Cái
ý
nghĩ
"kỳ quặc" của Lão Tử có thể diễn
tả như thế này :
Hễ
một
xã-hội
càng xấu xa tồi tệ chừng nào, hễ con
người trong xã-hội càng độc ác bất nhân gian
trá quỉ quyệt chừng nào thì sự tương phản giữa
Thiện Ác càng rõ rệt chừng đó.
Chính vì nhìn thấy cái độc ác bất
nhân quá lộ liễu mà lòng khát khao
một xã-hội thuần lương trở nên mỗi lúc một mạnh
mẽ. Chính vì thấy khắp nơi đầy dẫy những kẻ gian
trá quỉ quyệt mà lòng khao khát một
xã-hội trong đó con người có thể đối xử tử tế
thành thật với nhau mỗi lúc một thiết tha lớn mạnh.
Ðó là Luật Phản Phục được đề cập tới trong Kinh Dịch.
Tôi
không
tin
rằng đa số người dân trong
xã-hội có phản ứng như vậy. Ta phải nhìn
nhận rằng nói chung Ðộc Ác sẽ sinh Ðộc Ác,
Dối Trá sẽ sinh Dối Trá, Xảo quyệt sẽ sinh Xảo
quyệt. Hễ anh lừa tôi thì tôi sẽ nghĩ
cách lừa lại anh. Ðó là cái luật
chung của xã-hội. Vì thế đất nước Việt Nam mới tang
thương đổ nát như ngày nay.
Nhưng
tôi
tin
rằng trong mọi hoàn cảnh trong một xã
hội luôn luôn có những trái tim trong
sáng không bị vẩn đục, luôn luôn có
những trí óc tỉnh táo sáng suốt, những con
người có sức mạnh hiền hòa nhưng không ai có
thể khuất phục nổi. Những con người đó sẽ đốt lên
ngọn lửa Từ Bi dũng cảm, soi đường cho cả dân tộc. Khi
bóng tối của u mê đã phủ ngập quê hương
thì ngọn lửa Từ Bi sẽ bừng sáng dậy và đủ sức cảm
hóa cả triệu người đang trầm luân trong biển khổ.
Nguyễn
Chí
Thiện,
Nguyễn Ðan Quế, Phùng Quán,
Trần Dần, Trần Văn Thủy chỉ là một vài người trong số
những con người có tấm lòng cao quí
đó. Ta biết tới họ vì may mắn ta được nghe lời họ
nói. Nhưng chắc chắn còn vô số những tấm
lòng cao quí như vậy ở Việt Nam mà ta chưa biết
tới.
Càng
bị
áp
bức những con người có lương tri
càng trổi dậy, càng đối diện với Ðộc Ác những
con người sáng suốt càng hướng về Thuần Lương,
càng phải đối phó với xảo quyệt trí trá
những người có Thiện Tâm càng quay về với
lòng Thành Thật. Dĩ nhiên rằng những người
có trí sáng suốt và tấm lòng thiết
tha đối với đất nước như thế hiện nay vẫn còn tương đối
ít, nhưng cái Tâm của họ, cái Trí của
họ, cái Ðức của họ rồi đây sẽ tỏa rộng và thấm
nhuần khắp nơi. Nhờ có những con người như thế rồi
đây Việt Nam mới có hy vọng phục hồi lại nền văn
hóa nhân bản.
Những
tinh
hoa
của một nền văn hóa cũng chỉ giống như
chén nước lã, quí biết bao, nhưng cũng giản dị
biết bao ! Phùng Quán, Trần Dần chỉ nói tới
lòng Thành Thật, Trần Văn Thủy chỉ kể chuyện Tử Tế,
Nguyễn Chí Thiện chỉ giơ cao chiếc tã trắng tinh khiết,
Nguyễn Ðan Quế chỉ dựng bảng "Cao Trào Nhân
Bản". Lòng Thành Thật, chuyện Tử Tế, chiếc
Tã Trắng, Cao trào Nhân Bản, đó là
tất cả những gì thật mộc mạc nhưng đã tạo nên
những tấm lòng Việt Nam cao quí, những tâm hồn
thuần hậu, hiền hòa nhưng bất khuất là những nhân
tố của một nền văn-hóa nhân bản. Nền văn hóa
đó đã từng là chất keo kết hợp lòng người
khiến cả dân tộc kết với nhau thành một khối.
Tiếc
thay
những
tinh hoa của nền văn-hóa nhân bản vốn rất
mộc mạc đơn sơ nên ít người hiểu được giá trị
vì thế đã có lúc bị mọi người bỏ quên
chỉ dùng làm nước rửa chân. Ông cha ta
chắc đang ngậm ngùi nơi chín suối.
Tôi
ước
mong
rằng sau mấy thập niên ê chề tủi nhục
với thân phận bị làm con vật thí nghiệm cho
thí nghiệm của Pavlov, hoặc để thí nghiệm những chủ nghĩa
ngoại lai, sẽ có một ngày người Việt khước từ thân
phận làm chó ngựa để cùng nhau đứng dậy làm
người.
Ngày
ấy
sẽ
là ngày đất nước Việt Nam được thấy quẻ
Bĩ biến sang thành quẻ Thái.
Úc
Châu,
31.03.1994
Kim Bằng
Nguồn:
http;//www.taphopdongtam.org
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Khơi Lại Nguồn Văn Hóa Nhân Bản
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa Của
Việt tộc
và phục hồi nền An Lạc
& Tự Chủ.
|