Kinh tế Việt Nam 35 năm nhìn lại: Bao
cấp và khủng hoảng
Mặc Lâm,
phóng viên RFA
Nhân kỷ niệm 35
năm ngày thống nhất đất nước, Ban Việt Ngữ
Đài RFA có loạt bài viết về
nhiều đề tài, chúng tôi xin
giới thiệu bài viết 35 năm nhìn lại
kinh tế Việt Nam do Mặc Lâm thực hiện.
Đây là bài đầu tiên
trong một loạt ba bài tóm lược ba
thời kỳ chính: Khủng hoảng, Đổi mới
và cuối cùng là Phát
triển.
35 năm kể từ ngày chiến tranh kết
thúc, nền kinh tế Việt Nam đã
chuyển đổi từ kinh tế XHCN trở thành
kinh tế thị trường với đầy đủ những thuộc
tính mà một nền kinh tế cạnh
tranh cần có. Trong nền kinh tế ấy, khi
biến động cung cầu hay bất ổn tài
chánh xảy ra thì vấn đề lạm
phát xuất hiện là một điều tất
yếu.
Thế nhưng với kinh tế vận hành
theo cung cách XHCN thì hai chữ
lạm phát không phải là mối
lo của những người hướng dẫn và
lèo lái nền kinh tế bao cấp ngay
cả trong giai đoạn đất nước thống nhất,
không còn mối lo về chiến tranh
đi chăng nữa.
Nam Bắc sát nhập
35 năm
qua nó có 10 năm duy
ý chí, xây dựng XHCN
và đưa đất nước đến khủng hoảng. Kế
tiếp là 10 năm đi tìm lối
thoát và còn lại 15
năm hội nhập.
Ô. Nguyễn
Xuân Nghĩa
Năm 1975, khi miền Nam hoàn
toàn sát nhập với miền Bắc, cả
hai nền kinh tế hợp lại trong một hoàn
cảnh khá đặc biệt. Lúc đó
miền Bắc gần như kiệt quệ sau hàng chục
năm chiến tranh. Gánh nặng của chế độ
bao cấp miền Bắc mang vào cộng với nền
kinh tế của Miền Nam lúc đó gần
như quỵ hẳn sau khi bị hàng loạt biến
động như đánh tư sản, giãn
dân lên vùng kinh tế mới
và phong trào vượt biên
ngày một nhiều hơn đã khiến cho
Việt Nam gần như suy sụp hoàn
toàn.
Bà Phạm Chi Lan, nguyên tư
vấn cho văn phòng Thủ tướng nhớ lại
hoàn cảnh lúc bấy giờ:
Sau giải phóng 1975 phải
nói là nền kinh tế Việt Nam
hết sức khó khăn. Bởi vì
lúc đó mình vừa ra khỏi
cuộc chiến tranh, nền kinh tế bị kiệt quệ
với rất nhiều cơ sở vật chất bị tàn
phá. Từ đường xá giao
thông đến các nhà
máy xí nghiệp ở phía
Bắc, rồi đồng ruộng phía Nam rất
nhiều nơi không canh tác được.
Bom đạn và cả chất độc hóa học
đã trút xuống rất nhiều trong
cuộc chiến.
Nền kinh tế Việt Nam vốn dựa vào
nông nghiệp, ngay bản thân nền
nông nghiệp cũng bị tàn phá
nặng nề bởi chiến tranh. Sau năm 75 thì
cả hai miền tuy nhập lại cùng một nước
nhưng hệ thống kinh tế thì khác
nhau và những rối loạn ban đầu sau chiến
tranh về mặt xã hội cũng ảnh hưởng rất
lớn đến kinh tế. Về mặt đối ngoại lúc bấy
giờ sau năm 75 thì các nước phương
Tây theo chính sách của Mỹ
cấm vận Việt Nam cho nên rất dè dặt
trong chuyện phát triển quan hệ với Việt
Nam; về cơ bản Việt Nam vẫn duy trì
liên hệ với khối Liên Xô, với
Đông Âu và một phần Trung
Quốc và vì vậy cho nên nền
kinh tế rất khó khăn.
Những năm sau còn khó
khăn hơn bởi vì vài năm đầu
sau 75 vẫn còn một chút những
tiềm lực cũ của miền Nam còn
đó nhưng sau này khi
không còn những nguồn bổ trợ
vào thì những tiềm lực
đó giảm sút dần. Kinh tế miền
Nam được hỗ trợ rất lớn từ Mỹ cũng như
các nước phương Tây trước
đây và vì vậy nền kinh
tế chung của đất nước càng khó
khăn hơn. Cộng thêm với hệ thống kinh
tế theo hệ thống XHCN cũ từ miền Bắc đưa
vào đã đẩy nền kinh tế rơi
vào cuộc khủng hoảng rất nặng nề
vào những năm 70 và đầu 80.
Lạm phát đến ba chữ số không
làm cho chính quyền mới lo
âu. Men chiến thắng gần như làm
cho hầu hết cán bộ sống trong
hào quang của kinh điển XHCN thỏa
mãn hoàn toàn. Cảm
giác khó khăn về kinh tế được
khỏa lấp bởi những lý thuyết duy
ý chí khiến đời sống người
dân trở thành gần như tuyệt vọng.
Lúc đó không ai trong
chính quyền thừa nhận có lạm
phát trong nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa. Cũng không ai dám đưa
vấn đề ra để phân tích,
bàn luận công khai. Người
dân miền Nam không thể làm
quen với chế độ tem phiếu nên ngay sau
khi đợt đổi tiền lần thứ nhất xảy ra cả miền
Nam sống trong tâm trạng ngột ngạt chưa
từng có.
Đối phó với tình trạng
này là một ý tưởng hết
sức duy ý chí được đưa ra. Cụm
từ Giá-Lương-Tiền hình
thành từ đấy đã mau chóng
thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam rơi
sâu hơn nữa vào cơn khủng hoảng.
Ngăn sông cấm chợ
Hệ thống
kinh tế theo hệ thống XHCN cũ từ miền Bắc
đưa vào đã đẩy nền kinh tế rơi
vào cuộc khủng hoảng rất nặng nề
vào những năm 70 và đầu 80.
Bà Phạm Chi Lan
Nông dân có lẽ
là thành phần chịu thiệt hại
nặng nề nhất. Sản phẩm của họ sau một thời
gian trầy trật làm ra không thể
tiêu thụ một cách công
bằng. Bất cứ nông phẩm nào cũng
bị nhà nước thu mua và đồng tiền
người nông dân cầm đuợc trong tay
không hề tương xứng với mồ hôi
công sức bỏ ra trên cánh
đồng của họ. Là một nước nông
nghiệp nhưng lại thiếu gạo ăn đến nỗi phải ăn
độn bằng nhiều thứ thực phẩm mà trước
đây miền Nam vẫn dùng cho gia
súc. Đói kém hoành
hành toàn xã hội
đã khiến cơ thể kinh tế của Việt Nam
vốn èo uột trong thời gian chiến
tranh lại càng khó chữa
trị hơn trong thời gian hậu chiến.
Biện pháp ngăn sông cấm chợ
được mang ra thi hành càng khiến
đời sống thêm bội phần khó khăn.
Hàng hóa không thể
luân chuyển trên thị trường khiến
cung và cầu không gặp nhau
và từ đó viễn ảnh một sự sụp đổ
kinh tế ló dạng trên nhiều mặt
khiến nhà nước phải nhìn nhận
cần phải đổi mới toàn diện mới mong tồn
tại.
Bà Phạm Chi Lan thừa nhận:
Xuất phát từ những động lực
chính như nghèo đói
khó khăn chồng chất ở các nơi
làm cho những người điều hành ở
các địa phương người ta cảm thấy bức
xúc và tìm mọi cách
để vượt qua khó khăn. Chắc mọi người
còn nhờ câu chuyện của Bí
thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc. Ngoài Vĩnh
phúc ra còn có một số nơi
khác như Long an ở phía Nam.
Và từ đó những sáng kiến
đổi mới được ghi nhận khắp nơi và được
báo cáo lên thì
lãnh đạo nghiên cứu và
nhân rộng ra trở thành mô
hình đổi mới tại Việt Nam.
Sau đợt đổi tiền năm 1986, lạm
phát thực sự trở thành nỗi
ám ảnh của toàn xã hội.
Đây không phảỉ là năm đầu
tiên có lạm phát nhưng
nó đã tồn tại và âm
ỉ từ nhiều năm trước. Quan niệm sai lầm về đổi
tiền đã làm cỗ xe kinh tế chệch
bánh. Các nhà hoạch định
kinh tế XHCN đã xem phương án
đổi tiền như một vũ khí mạnh mẽ nhằm
chống lại lạm phát và căn cứ
trên lập luận rằng sức mua của đồng tiến
mới sẽ bằng 10 lần sức mua của đồng tiền cũ
khiến cho giá trị đồng bạc Việt Nam
ngày càng tuột dốc thảm hại. Sau
đổi tiền, lạm phát tăng đến mức
không còn đếm được là bao
nhiêu phần trăm cho chính
xác. Chỉ số CPI lên tới 92%
và nhanh chóng chiếm lĩnh con số
775% trong suốt hai năm sau đó.
Nhà tư vấn kinh tế Nguyễn
Xuân Nghĩa nêu cảm tưởng của
ông trong giai đoạn này như sau:
Nếu ghi nhớ về 35 năm của nền kinh tế
Việt Nam thì mình có
thể ghi nhớ trên hai trục thời gian
và không gian. Nói về
thời gian thì 35 năm qua nó
có 10 năm duy ý chí,
xây dựng XHCN và đưa đất nước
đến khủng hoảng. Kế tiếp là 10 năm đi
tìm lối thoát và
còn lại 15 năm hội nhập vào
luồng kinh tế thị trường của thế giới.
Quý vị vừa nghe chúng
tôi khái quát lại một
vài điểm then chốt trong thời gian 10
năm đầu sau chiến thắng giải phóng
toàn bộ miền Nam cùng những hệ
lụy mà một nền kinh tế XHCN gặp phải
trong thời hậu chiến.
Trong bài kế chúng
tôi sẽ nêu lên những điểm
chính mà nhà nước
đã cố gắng mang ra áp dụng nhằm
vực nền kinh tế nước nhà sau hơn 10 năm
khủng hoảng, trong đó có những
đóng góp hết sức quan trọng của
Nhóm Thứ Sáu, một nhóm
trí thức miền Nam ở lại trong nước
đã đưa ra đề nghị với Thủ tướng
Võ Văn Kiệt những dự án thực
tiễn nhằm định hướng lại con tàu kinh
tế đang trên đà tuột dốc, mời
quý vị đón theo dõi.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/35-years-of-Vietnam-economy-Part-1-subsidize-and-crisis-MLam-04272010202350.html
Sau 35 năm,
nhìn lại thời kỳ đổi mới kinh tế VN
Trong loạt bài kỷ niệm 35 năm
ngày thống nhất đất nước, chúng
tôi xin giới thiệu bài viết thứ
hai, 35 năm nhìn lại kinh tế Việt Nam do
Mặc Lâm thực hiện.
Những đề nghị của nhóm
Thứ Sáu
Đây là bài tóm
lược thời kỳ đổi mới với những đề nghị của
nhóm Thứ Sáu. Gần
đây,VietnamNet cho công bố
bài viết về nhóm Thứ Sáu,
với câu chuyện của những chuyên
viên nhiều ngành nghề khác
nhau của chế độ cũ đã góp sức để
vực dậy nền kinh tế trong giai đoạn đầu sau
ngày thống nhất đất nước.
Mỗi ngày Thứ Sáu trong
tuần, nhóm chuyên viên
này tụ họp nhau lại để hàn
huyên trên nhiều lĩnh vực
mà vấn đề chính vẫn là
kinh tế. Các thành viên
trong nhóm gồm nhiều thành phần
khác nhau, có người là
chuyên viên giáo dục,
có người là công chức
chánh ngạch và có cả
những người vừa đi cải tạo về vì
là công chức cao cấp của chế độ
Sài Gòn. Không phân
biệt bằng cấp và tuổi tác, họ
ngồi lại với nhau trong tinh thần chia sẻ kinh
nghiệm và cùng tìm hướng
đi cho đất nước.
Lúc
đó
tôi có đề nghị đổi cái
danh xưng Tổng giám đốc Ngân
hàng Nhà Nước thành
Thống Đốc Ngân Hàng.
Riêng cái việc thay đổi danh
xưng là thay đổi tư duy ghê
lắm.
Ô. Huỳnh Bửu Sơn
Dự án quan trọng nhất của
nhóm Thứ Sáu là đề nghị
thay đổi cách điều hành của
Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam. Ông Huỳnh Bửu Sơn, một thành
viên trong nhóm Thứ Sáu kể
lại:
“Hệ thống ngân hàng
nhà nước có một cấp. Nó
vừa là Ngân hàng trung
ương, vừa là Ngân hàng
thương mại. Tôi gọi nó
là vừa quản lý vừa kinh doanh,
vừa đá bóng vừa thổi
còi. Ngoài ra nó
còn làm thêm công
việc quản lý ngân sách
như là một kho bạc.
Cho nên khi tách
nó ra thành hai cấp: một cấp
quản lý, một cấp kinh doanh
thì có những ý kiến rất
là khác biệt, vì họ cảm
thấy nếu mà tách ra như vậy
thì vấn đề bảo đảm bí mật
ngân hàng, rồi đáp ứng
đúng cái định hướng thì
rất lá khó. Nhưng dù
sao thì cái chuyện tách
quản lý và kinh doanh
là nguyên tắc phải làm
nên cứ tiếp tục đi tới thôi.”
Tuy được tiếng là cởi mở nhưng
không phảỉ ai trong Hội đồng Bộ trưởng
cũng ngay lập tức có tư duy đổi mới
triệt để, ông Huỳnh Bửu Sơn kể lại:
“Lúc đó tôi
có đề nghị đổi cái danh xưng,
hồi đó gọi là Tổng Giám
đốc Ngân hàng Nhà nước,
tôi đề nghị đổi giống như các
nước là Thống đốc Ngân
hàng. Riêng cái việc
thay đổi danh xưng là thay đổi tư duy
ghê lắm. Tôi còn nhớ
ông Đồng Sỹ Nguyên, trong Hội
đồng Bộ trưởng ổng nói: “gọi
tên Thống đốc nghe sặc mùi đế
quốc quá!”
Hòa
nhập
nền
kinh
tế
thị trường
Kết quả sơ khởi sau khi Ngân hàng
Nhà nước được phân cấp là
nhiều biện pháp về tiền tệ được đưa ra bao
gồm mạnh tay nới lỏng tỷ giá vào
cuối năm 1988. Bước đột phá này
là đòn bẩy làm cho nền kinh
tế Việt Nam thấy ra được thế nào là
nền kinh tế thị trường. Bước đầu tiên
này cũng dẫn đến sự cạnh tranh và
chấm dứt tình trạng bao cấp trên
nhiều lĩnh vực, mở ra thời kỳ đổi mới và
hội nhập sau này.
Bắt đầu giai đoạn đổi mới, nhà
nước đã cố gắng điều chỉnh những tư duy
từng dị ứng với chủ nghĩa tư bản để từng bước
hòa nhập vào nền kinh tế thị
trường đúng nghĩa của nó. Mặc
dù trên nguyên tắc,
lý luận bài xích chủ
nghĩa tư bản của Mác Lê vẫn nằm
trong các buổi họp chi bộ nhưng
trên thực tế thì mọi kỹ thuật của
kinh tế thị trường được mang ra áp dụng
hàng ngày. Doanh nghiệp tư
nhân được nới lỏng dần và chỉ
trong vài năm con số doanh nghiệp
chính thức hoạt động lên đến
hàng triệu cơ sở.
Anh
em có đề nghị là khi Việt Nam
có chính sách đổi mới
thì nên xây dựng một khu
chế xuất. Lúc bấy giờ, cái
đó nó thích hợp hơn những
đề xuất khác. Trong bối cảnh như thế
chúng tôi bắt tay vào
làm một cách chính thức
khu chế xuất Tân Thuận.
Ô. Phan Chánh Dưỡng
Thu hút đầu tư vẫn là mối
lo hàng đầu nhà nước cần phải
gấp rút tiến hành nếu muốn
phát triển. Trong tình
hình sơ khai của một nền kinh tế chập
chững học theo lối tự do kinh doanh thì
việc thu hút các nhà đầu
tư nước ngoài quả là vô
vàn khó khăn. Nguyên Thủ
tướng Võ Văn Kiệt được nhìn nhận
là người có công đầu với
vấn đề này khi chấp nhận lắng nghe
tiếng nói của nhóm Thứ
Sáu, nhóm của những chuyên
viên chế độ cũ, ở lại Việt Nam trong
những tháng ngày khó khăn
nhất. Khu chế xuất Tân Thuận là
đề xuất của nhóm được xem là
bước nhảy đầu tiên vào thế giới
tư bản nhằm mời gọi đầu tư nước ngoài
để cải tạo và phát triển tiềm
năng kinh tế tư doanh.
Khu chế xuất Tân Thuận mở đầu cho
hàng loạt khu chế xuất sau này.
Một thành viên trong nhóm
là ông Phan Chánh Dưỡng kể
lại:
“Trong nhóm anh em có
những người đã từng đi du học nước
ngoài, và có những
người trong thời kỳ trước 75 đã từng
tham gia xây dựng khu công
nghiệp Biên Hòa, cũng có
biết những khu chế xuất của thế giới, trong
đó có Đài Loan, cho
nên anh em có đề nghị là
khi Việt Nam có chính
sách đổi mới thì nên
xây dựng một khu chế xuất. Với gợi
ý đó, tôi mới
nghiên cứu các vùng
chung quanh và trên các
cơ sở ý kiến của anh em viết một
cái tiền khả thi để trình
bày nội dung của một khu chế xuất
là như thế nào, mục tiêu
của khu chế xuất để giải quyết vấn đề
gì.
Lúc bấy giờ, cái
đó nó thích hợp hơn
những đề xuất khác. Thành phố
Hồ Chí Minh cũng đánh
giá rằng có thể đây
là mô hình thích
hợp nên cuối cùng Trung ương
cho làm thí điểm coi thử ra
sao. Trong bối cảnh như thế chúng
tôi bắt tay vào làm một
cách chính thức khu chế xuất
Tân Thuận.”
Những
khó
khăn cơ bản
Khu chế xuất Tân Thuận xuất hiện không
phải là phép lạ để trong một thời
gian ngắn kéo hẳn nền kinh tế lên
cao. Bà Phạm Chi Lan, nguyên tư vấn
cho Văn phòng Thủ tướng nhận xét
giai đoạn đổi mới sau khi nhiều nỗ lực của doanh
nhân cố gắng hội nhập vào thương
trường với những háo hức lẫn khó
khăn ban đầu:
“Những khó khăn của kinh tế
Việt Nam lúc bấy giờ vẫn là
những khó khăn cơ bản của một nền
kinh tế đang trong quá trình
chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hóa
tập trung sang hệ thống kinh tế thị trường,
mà hệ thống kinh tế thị trường vẫn
chưa hoàn thiện cần phải phát
triển thêm nữa. Mặt khác trong
giai đoạn đầu này thì
nó vẫn còn có những
cái chưa định hình thật
rõ.
Một khó khăn khác
là xuất phát từ một nước đang
phát triển với một nền kinh tế bị
tàn phá nặng nề, muốn
phát triển lên thì
quá trình phát triển
đòi hỏi rất nhiều đầu tư, rất nhiều
nỗ lực. Vài chục năm đổi mới vừa qua
chưa đủ để Việt Nam vượt lên hơn.
Khó khăn nữa là Việt Nam mới
hội nhập vào nền kinh tế thế giới,
tham gia ASEAN vào năm 95 nên
còn rất mới.
Những khó khăn của kinh
tế Việt Nam lúc bấy giờ vẫn là
những khó khăn cơ bản của một nền kinh
tế đang trong quá trình chuyển
đổi từ hệ thống kế hoạch hóa tập trung
sang hệ thống kinh tế thị trường.
Bà Phạm Chi Lan
Hội nhập kinh tế toàn cầu
là khẩu hiệu kéo dài hơn
hai mươi năm nhưng mãi đến khi Việt Nam
gia nhập tổ chức WTO thì Việt Nam mới
hoàn toàn tự tin rằng
mình đã chính thức bước
vào cuộc chơi với đầy đủ hệ lụy lẫn lợi
thế. Cuộc chơi này không đơn giản
thắng thua mà còn là
phát triển hay tụt hậu. Nói đến
WTO là nói đến xuất khẩu
và những trao đổi sòng phẳng
trên thương trường quốc tế. Sau ba năm
gia nhập WTO, nguyên Bộ trưởng Thương
mại Trương Đình Tuyển, người dẫn đầu
phái đoàn Việt Nam đàm
phán với tổ chức này cho biết:
“Việc gia nhập
WTO một mặt tạo ra cơ hội đồng thời cũng tạo
ra những thách thức. Điều quan trọng
là tận dụng cơ hội thế nào
và vận dụng thách thức thế
nào. Hàng năm đều có
đánh giá và hiện nay
đang làm đánh giá 3 năm
để chuẩn bị đầu tư trong những đơn vị kinh
tế. Tất nhiên trong ba năm đó
gặp những chuyện khó khăn như khủng
hoảng, tuy nhiên cơ hội rõ nhất
là vấn đề đầu tư. Đầu tư kể cả tư
nhân và nước ngoài tăng
rất rõ. Thứ hai là mở rộng thị
trường xuất khẩu cũng, đó là
hai cái mình thấy rõ
nhất.
Chính vì vậy mà
trong năm 2007 và 2008 gặp lạm
phát không nói
làm gì, năm 2007 tốc độ tăng
trưởng đạt được rất cao, xuất khẩu cũng vậy.
Thách thức thì vẫn còn
khá nhiều. Áp lực cạnh tranh
rất là lớn và tác động
rất nhanh, rất mạnh đến Việt Nam, tuy
nhiên, khả năng đối phó trước
những biến động ấy của mình vẫn
còn hạn chế.
Hạn chế mà Bộ trưởng Trương
Đình Tuyển đưa ra là một phần
của những khó khăn mà Việt Nam
cần phải giải quyết. Những khó khăn hạn
chế khác đang từng lúc từng nơi
vây quanh sức phát triển của Việt
Nam sẽ là đề tài tìm hiểu
của chúng tôi trong bài
tới, mời quý vị tiếp tục đón
theo dõi.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/35-years-of-Vietnam-economy-Part-2-Reform-and-Friday-Group-Mlam-04282010150352.html
35 năm nhìn lại kinh tế VN: Sự
phát triển và những khó khăn
Mặc
Lâm, phóng viên RFA
2010-04-29
Trong loạt bài
kỷ niệm 35 năm ngày thống nhất đất nước,
Mặc Lâm giới thiệu bài viết thứ ba
tóm lược thời kỳ phát triển kinh tế
cùng những khó khăn sắp tới
mà VN cần phải giải quyết.
Một chiếc xe chở khách du lịch nước
ngoài trên đường phố TP.HCM năm
2005. Dự báo về triển vọng kinh tế Việt
Nam năm 2006 rất khả quan, trong đó tăng
trưởng sẽ tiếp tục ở mức cao.
Hội
nhập – dấu ấn 2005
Năm 2005
là năm đánh dấu những bước hội
nhập rõ nét nhất của nền kinh tế
thị trường của Việt Nam. Các cơ sở kinh
tế tư doanh nở rộ như nấm sau mưa. Hiện tượng
đầu tư vào bất động sản, nhà
máy sản xuất hay các hoạt động
kinh doanh bề thế được người dân dốc
túi đổ vào việc làm ăn
khiến nền kinh tế hồi sinh. Kiều hối lần lượt đổ
về trong nước ngày một nhiều hơn
là nguyên nhân chính
thúc đẩy và phát triển nền
kinh tế trong giai đoạn đổi mới.
Trong
vòng nhiều năm tình trạng nhập
siêu xảy ra liên tục, nhưng năm
2005, lần đầu tiên nhập siêu
có dấu hiệu giảm nhẹ, tuy nhiên
chưa phảỉ là nằm trong vòng kiểm
soát như nhà nước công bố.
Nhiều tổ chức kinh tế thế giới lo ngại vấn đề
nhập siêu của Việt Nam sẽ là
nhân tố chính khiến nền kinh tế bị
lệ thuộc và lạm phát sẽ theo
đó mà tăng dần lên.
Việt Nam
có khá ít kinh nghiệm hội
nhập cho nên có thể khi
chúng ta hợp tác với nước
ngoài chúng ta không
có đề án tạo hiệu quả tối ưu cho
đất nước. Chính vì thế mà
20 năm vừa qua, sự phát triển của
chúng ta lớn nhưng vẫn chưa đạt
yêu cầu.
Ô.
Phan Chánh Dưỡng
Việt Nam
trông cậy chính vào xuất
khẩu và đầu tư nước ngoài nhưng
sau nhiều năm hội nhập, tình hình
thực tế cho thấy rất nhiều vấn nạn đang
hình thành. Ông Phan
Chánh Dưỡng một thành viên
trong nhóm Thứ Sáu cho biết:
“Việt Nam
có khá ít kinh nghiệm hội
nhập cho nên có thể khi
chúng ta hợp tác với nước
ngoài chúng ta không
có đề án tạo hiệu quả tối ưu cho
đất nước. Chính vì thế mà
20 năm vừa qua, sự phát triển của
chúng ta lớn nhưng vẫn chưa đạt
yêu cầu”
Xuất khẩu gạo
của Việt Nam là một câu chuyện thần
kỳ. Chỉ vài năm sau đổi mới, gạo xuất
khẩu đã vượt lên con số nhiều triệu
tấn và người nông dân trong
thời kỳ đổi mới có vẻ như đang hưởng được
lợi nhuận khi gạo xuất khẩu ngày một tăng
cao. Thực ra đời sống của người nông
dân không hết bấp bênh khi
nhà nước chưa có một chính
sách hợp lý bảo vệ giá
bán ra của người có lúa.
Nhiều tỉnh của
đồng bằng sông Cửu Long than phiền
vì nhà nước cố hết sức ấn định
những quy tắc nhằm gò bó việc thu
mua tàng trữ lúa xuất khẩu một
cách máy móc. Hành
động này khiến việc xuất khẩu gạo của
Việt Nam tuy năm sau nhiều hơn năm trước nhưng
trị giá vẫn không có một
bước nhảy vọt nào ngay cả trong giai đoạn
khó khăn lương thực nhất mà thế
giới gặp phải.
Thiếu đầu tư
vào công nghệ thu hoạch và
bảo quản là hai khâu trực tiếp
làm giảm thiểu lợi nhuận cho người
nông dân. Trong khi Việt Nam
là một nền kinh tế dựa trên
nông nghiệp nếu chính phủ tiếp tục
bỏ ngõ các vấn nạn này
thì một thời gian không lâu
nữa biến đổi khí hậu và các
cản trở vừa nêu sẽ là vật cản rất
lớn cho gạo xuất khẩu của Việt Nam.
Trông cậy
vào xuất khẩu là một chính
sách không thay đổi từ trước tới
nay. Xuất khẩu vẫn đang là thế mạnh của
Việt Nam ngay cả trong thời kỳ kinh tế
toàn cầu gặp khó khăn. Tuy
nhiên về lâu vê dài,
kim ngạch xuất khẩu sẽ giảm vì Việt Nam
chỉ khai thác nguồn tài
nguyên thô và gia công
nhiều hơn là sản xuất các sản phẩm
cao cấp. Công nhân làm
thuê là một vấn nạn và
nhà nước không thể không lưu
ý tới như trong một thời gian rất
dài vừa qua.
Những khó khăn
Một trong những vấn
đề nhạy cảm nhất là vấn đề lương bổng của
công nhân. Hàng ngàn vụ
đình công mỗi năm của công
nhân tại các khu chế xuất không
thể được coi là chuyện nhỏ mà
nó là mối lo tiềm ẩn. Ông
Bùi Kiến Thành, một chuyên gia
tài chánh đang hoạt động tại Việt
Nam cho biết nhận xét của mình về
vấn đề này:
“Tiền lương
thấp như vậy và chính
sách nhà nước đối với những
nhà đầu tư như vậy nó
giúp cho Việt Nam được cái
gì và làm hại cho Việt
Nam những cái gì thì phải
xét lại. Cả đất nước có
hàng triệu nhân viên
làm việc trong những xưởng như vậy
thì nó là vấn đề rất lớn.
Việc này là việc nhà nước
cần phải quan tâm thật sự, làm
sao tạo được môi trường tốt hơn cho
người lao động Việt Nam, tránh những
việc xô xát với các chủ
đầu tư. Đây là vấn đề cực kỳ
lớn.”
Ông Nguyễn
Xuân Nghĩa, nhà tư vấn kinh tế hiện
đang làm việc tại tiểu bang California
thì cho rằng:
“Tôi
nghĩ mình nhìn xa hơn một
chút thì cơ bản về chiến lược
phát triển Việt Nam đi làm gia
công cho thiên hạ và
dùng chiến lược lấy lợi tức làm
ưu điểm cạnh tranh thì cái
đó sẽ đi đến giới hạn của nó.
Nó đưa đến tình trạng công
nhân Việt Nam giống như bị các
doanh nghiệp ngoại quốc bóc lột
và càng ngày người ta
càng bất mãn.
Đến khi họ
thấy rằng dường như có sự cấu kết giữa
chính quyền và các doanh
nghiệp ngoại quốc, hoặc là sự thờ ơ của
chính quyền trước những cái nạn
bóc lột quá trắng trợn của
các doanh nghiệp ngoại quốc thì
họ sẽ có phản ứng.
Phản ứng
đó nó không giống
các quốc gia khác khi có
tranh chấp về nghiệp đoàn, mà
nó phản ứng về chính trị, tại
vì hệ thống chính trị nó
điều khiển nền kinh tế nên nó
chịu trách nhiệm về các tệ nạn
xã hội. Tôi cho rằng đó
là một nghịch lý, nó
làm cho người ta thấy cái được
gọi là định hướng XHCN là một sự
giả tạo.”
Tôi nghĩ
mình nhìn xa hơn một chút
thì cơ bản về chiến lược phát
triển Việt Nam đi làm gia công cho
thiên hạ và dùng chiến lược
lấy lợi tức làm ưu điểm cạnh tranh
thì cái đó sẽ đi đến giới
hạn của nó.
Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa
Vấn đề tập
đoàn và tổng công ty cũng
là câu hỏi lớn nhất đang chờ
nhà nước quyết định. Các đơn vị
quốc doanh này được nhà nước xem
là xương sống của nền kinh tế và
ưu đãi chúng trên nhiều lĩnh
vực. Từ vay vốn cho đến thuế khóa, tất cả
đều ưu tiên đến mức các tập
đoàn và tổng công ty đua
nhau kinh doanh ngoài chức danh cũng như
khả năng của nó.
Nguyên bộ
trưởng Thương mại Lê Văn Triết nhận
xét:
“Nếu
mình nói lệch hướng thì
cũng không đúng, nhưng nếu tự do
làm theo kiểu đó mà
không căn cứ vào cái năng
lực, đội ngũ, cái sở trường sở đoản của
anh thì anh nhảy ra càng rộng
thì anh càng chết sớm. Đó
là một cái mà tôi
thấy cần phải xem xét.
Cái
xem xét thứ hai đó là vấn
đề vốn lớn quá mà anh
không sử dụng, nhiều khi anh chôn
vốn của nhà nước hết sức là nguy
hiểm. Tôi nói ví dụ như
cái Vinashin, trong thời gian chỉ
có hai năm nhưng tiêu tốn 20
ngàn tỷ đồng, mà như vậy
thì anh đem lại lợi nhuận gì?
Bây
giờ người ta hỏi tới chuyện đó
thì anh nói hỏi đến những
cái thất thoát những
cái gọi là không hiệu quả
của anh, hay là cái sắp bị đổ vỡ
thì anh nói là anh vẫn
tồn tại vẫn tốt. Nếu nhà nước vẫn tiếp
tục hỗ trợ thì còn gì
là hoạt động kinh doanh? Có
nhiều thứ nhưng tôi cảm thấy hai thứ
đó là quan trọng nhất.”
Bà
Phạm Chi Lan thì cho rằng:
“Doanh
nghiệp nhà nước là một khu vực
rất lớn, chừng 1500 doanh nghiệp nhưng họ nằm
giữ một nguồn lực rất lớn của đất nước. Hoạt
động của họ thì phần lớn lại
không có hiệu quả cao và
vì vậy nó làm cho nền
kinh tế kém hiệu quả. Khi nguồn lực
được phân bổ quá nhiều cho
nhà nước thì lại trở
thành hạn chế đối với khu vực tư
nhân. Bây giờ Việt Nam bước
vào ngưỡng thu nhập trung bình ở
mức thấp thì thách thức mới lại
nảy sinh hoàn toàn không
nhỏ.
Các
nhà đầu tư kinh doanh vẫn thường
nêu lên vế ba nút thắt cổ
chai của Việt Nam làm hạn chế tăng trưởng
của Việt Nam mà Việt Nam cũng thừa nhận.
Đó là hệ thống thể chế chưa
hoàn thiện, thứ hai thiếu hụt nguồn
nhân lực có chất lượng và
thứ ba là kết cấu hạ tầng cũng còn
rất yếu và không có hiệu
quả.”
Ông Huỳnh
Bửu Sơn, một thành viên trong
nhóm Thứ Sáu nhìn lại
cách điều hành của ngân
hàng nhà nước hiện nay sau nhiều
năm đổi mới và đưa ra nhận xét:
“Có
những
cái hiện nay còn đang vướng,
thí dụ như Ngân hàng
nhà nước, khi ra luật, tức là từ
pháp lệnh qua luật thì đã
đặt nặng chính sách tín
dụng của nhà nước hỗ trợ cho khu vực
quốc doanh vẫn là chủ đạo. Tính
độc lập trong việc xây dựng chính
sách tiền tệ chưa có nếu so với
các khu vực khác. Lĩnh vực
ngân hàng tuy có đổi mới
sớm hơn nhưng tương thích với cơ chế
thị trường thì lại chậm hơn.”
Tình hình
hiện nay
Nhà tư
vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa có
một cái nhìn tổng kết về 35 năm
kinh tế Việt Nam gói gọn trong 15 năm
cuối, ông nói:
Thời gian 15 năm qua
tương đối có thay đổi, tuy nhiên,
nếu chúng ta nhìn trên
không gian, so sánh với các
quốc gia khác ở trong khu vực thì
Việt Nam vẫn là một nước tụt hậu.
Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa
“Thời gian 15 năm qua tương đối
có thay đổi, tuy nhiên, nếu
chúng ta nhìn trên
không gian, so sánh với
các quốc gia khác ở trong khu
vực thì Việt Nam vẫn là một nước
tụt hậu và cái thành quả
15 năm vừa rồi nó có cái
hiện tượng là nạn bất công
quá nặng.
Nói đến viễn ảnh sau 35
năm thì có một số tăng trưởng
nhất định nhưng đào sâu
cái hố dị biệt về lợi tức và
nhận thức nó đưa đến những cái
bất ổn trong xã hội Việt Nam. Chưa
nói đến hiện tượng vô cùng
quan trọng nữa là càng
ngày càng gắn bó
và càng lệ thuộc vào
Trung Quốc kể cả về mặt kinh tế lẫn an ninh.
Tôi cho là một tổng kết
không lấy chi làm làm lạc
quan.”
Dù sao
thì Việt Nam vẫn phải tiến tới bằng mọi
giá sau 35 năm phát triển.
Khó khăn còn nhiều trong đó
không thể không kể tới đó
là con sâu tham nhũng trong những
dự án ODA. Là nguồn nhân lực
cao cấp cung cấp cho sản xuất. Là tư duy
của cán bộ trong công tác
cùng nhận thức đúng đắn của
các nhà hoạch đinh kinh tế vĩ
mô. Cũng không thể không
nói tới một yếu tố hết sức quan trọng nữa
đó là sự cởi bỏ thật sự những
rào cản tuy vô hình nhưng
vô cùng chắc chắn, đó
là tận dụng tư duy của trí thức
trong và ngoài nước ở mọi lĩnh
vực, vì suy cho cùng thì
bất cứ ở lĩnh vực nào trí thức
cũng hướng tới mục tiêu “nước mạnh
dân giàu”.
Câu chuyện về
Nhóm Thứ Sáu có lẽ là
một bài học cho chính quyền
các cấp trong công tác sử dụng
tài nguyên lớn nhất của đất nước
đó là tài nguyên con
người. Hy vọng trong một thời gian ngắn nữa, Việt
Nam sẽ có những bước đột phá mới,
tận dụng lợi thế hiện nay để thực sự tiến xa hơn
trên thương trường thế giới nhằm cải tạo mức
sống người dân đúng như chế độ vẫn
ngày ngày cổ vũ.
Nguồn:
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/35-years-of-Vietnam-economy-Part-3-Development-and-difficulties-Mlam-04292010110940.html
|