Năm Thứ
4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
Liên
Hệ
Việt
Nam
Và
Pháp
Trước
1858
(Phần 1)
Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu
(ảnh của PBase.com)
Thứ Ba, Ngày 25 tháng 11-2008
|
|
Dẫn Nhập:
Hạnh phúc biết bao cho một người không
có
quá khứ, hay một dân tộc không có lịch
sử–nhiều người quan niệm như thế. Nhưng con
người, mỗi người trong
chúng ta, đều có quá khứ, vui, buồn hay buồn
vui
trộn lẫn. Một dân tộc luôn luôn có lịch sử,
vinh quang, tủi buồn, hay vinh nhục đủ mùi vị.
Quá khứ
luôn luôn là tấm gương cho mỗi người tự sửa
mình, rút cho mình một kinh nghiệm sống, chuẩn
bị
cải thiện tương lai. Lịch sử một quốc gia, nếu
được ghi chép
trung thực, là kho tàng kinh nghiệm cho việc
ích
quốc, lợi dân, và phát huy tình nhân
loại cho một thế giới đáng sống hơn.
Việt Nam không phải là một
đại cường, nhưng cũng chẳng là một tiểu quốc.
Với lãnh
thổ trên 300,000 cây số vuông, cùng ý
chí và quyết tâm giữ vững nền độc lập của
trên 80 triệu quốc dân, Việt Nam đã sinh tồn
tới thế
kỷ XXI, tự thiết lập vị thế riêng biệt không
chỉ ở
vùng châu Á-Thái bình dương,
mà còn giương danh khắp thế giới. Tuy nhiên,
người
chép sử–đại đa số là sử quan hay sử công của
chế
độ, mà chưa phải sử gia, với huấn luyện chuyên
biệt–thường
chỉ nỗ lực uốn nắn các sử kiện vào khuôn thước
quốc
thống và chính thống của các chế độ cầm quyền,
như
thứ tài liệu huấn luyện giai tầng cai trị và
trung gian.
Sử quan và sử công thường im lặng, hoặc tảng
lờ những dữ
kiện đi ngược lại hoặc không phục vụ mục tiêu
chính
trị giai đoạn của chế độ. Và, nếu cần, ngạo
mạn đánh
giá các tác nhân lịch sử như anh hùng
hay gian ngụy theo đúng luật "được làm vua,
thua
làm giặc." Sử văn còn bị biến thành một thứ
tài liệu tuyên truyền, đủ màu sắc ý thức hệ
và tôn giáo. Sự thực sử học bị phủ khuất dần.
Hậu
thế nhìn vào quá khứ chỉ thấy những rừng rậm
nhá nhem đủ loại bóng tối, cây cổ thụ bị giây
leo chằng chịt vây phủ. Ba mươi hai năm sau
ngày
Sài Gòn thất thủ, chẳng hạn, còn bao người
biết
rằng hình ảnh chiếc xe tăng Bắc quân húc vào
cánh cổng Dinh Ðộc Lập (đang được trưng bày
tại nội
viên dinh Thống Nhất hiện nay) là kết quả của
một
màn đạo diễn phim tuyên truyền? (Một sử gia
Việt Nam, xin
tạm dấu tên, đã cho tác giả biết chi tiết
này) Có soạn giả kết thúc biên khảo về
cái chết của anh em Tổng thống Ngô Ðình Diệm
(1897-1963) bằng cách kêu gọi độc giả hùng hồn
hô to "Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng
thống, Ngô Tổng thống, Ngô Tổng thống muôn
năm;"tảng
lờ việc các Tướng tá Việt Nam Cộng Hòa, trước
hành động bội phản của họ Ngô, và vì
đã chán ngấy lời xướng tụng "muôn năm," quyết
định
sửa lại thành "muốn nằm" sáng ngày 2/11/1963.
Nói chi những thứ gọi là "sứ mệnh khai hóa"
hay
"gánh nặng của người da trắng" trong các thế
kỷ
XIX-XX–cùng giai tầng trung gian bản xứ–được
tô lục, chuốt
hồng trong khối văn sử Tây phương và thuộc
địa. Và,
xa hơn nữa, là khối cổ sử của người Việt và
người Hoa,
đã và đang bị xách nhiễu bởi mặc cảm tự tôn
hoặc tự ti, cùng những vách đá dựng đứng, tối
tăm
lạnh lẽo của những nhà tù ý thức hệ dân tộc
chủ nghĩa và "thánh giáo"–với những hoang
tưởng về
"rồng vàng," những giấc mơ điềm mộng về danh
vọng tương lai, hay
những lời sỉ nhục nặng nề như giống người "lúc
đứng hai
ngón chân cái chạm vào nhau," giống "tinh
tinh" ở đất Cửu Chân, và chỗ tận cùng của văn
hóa, nơi "mặt trời mọc ở phương Nam."
Song song và dưới ảnh hưởng của
các kỹ thuật bẻ cong hoặc nhất thống lịch sử
trên
là vấn đề tư liệu, hoặc thiếu sử liệu khả tín.
Cho tới
đầu thế kỷ XXI, chẳng hạn, vấn đề tư liệu còn
nổi cộm.
Không chỉ giới hạn trong giai đoạn tiền sử, cổ
sử mà ngay
cả giai đoạn lập quốc vào thế kỷ IX-X, hay
giai đoạn phong kiến
Trung cổ. Biết bao giấy mực đã hao tốn vì
những chữ "Lạc"
với "Hùng" trong nỗ lực đi tìm nguồn gốc dân
tộc
và thời kỳ dựng nước–những nỗ lực vô vọng,
hoang
phí, trong những cuộc tranh luận "sẩm sờ voi."
Hay, hình
ảnh một xã hội Ðại Cồ Việt ở thời khai sinh
như một quốc gia
độc lập, tự chủ vào thế kỷ thứ IX và thứ X.
Hành
động mọi rợ văn hóa [cultural barbarism] của
nhà Minh khi
tịch thu, phá hủy các tư liệu của Ðại Việt
trong giai
đoạn 1407-1427 khiến vấn đề tư liệu sử học
càng thêm nổi
cộm, đưa đến những truyền thuyết "100 trứng,
trăm con" trong các
bộ quốc sử "định hướng Khổng Giáo." Thời kỳ
cận đại và
hiện đại cũng chẳng khiến khích lệ trước những
tội ác văn
hóa quen thuộc của các giới chức cầm quyền–như
tịch thu,
thiêu đốt văn hóa phẩm của phe bại trận, gạn
lọc và
thiêu hủy một số tư liệu văn khố, phổ biến
những ngụy thư
cùng tin tức truyền khẩu (kiểu, Việt Nam có
bốn anh
hùng, Tường gian, Viêm láo, Khiêm
khùng, Thuyết ngu; hay Petrus Key, một chủng
sinh tại Penang bỏ
tu đi làm thông ngôn cho quân viễn chinh
Pháp, là một "thiên tài, thông thạo 26
thứ tiếng," kể cả những ngôn ngữ chưa bao giờ
được huấn luyện,
và cũng chẳng có người bản xứ nào giúp học
nhái theo). Bởi thế, mới chỉ có những nỗ lực
đơn lẻ,
cá nhân hoặc một nhóm các chuyên
viên, bỏ công sức đời mình tìm đọc các
kho tài liệu văn khố rải rác năm châu–trong sự
hờ
hững của đám đông, đố kị và thù nghịch của
một số thế lực và chính quyền. Ðó là
chưa kể những trò trộm cắp tim óc của những
người
nghiên cứu chuyên nghiệp để giải đáp những
"bí ẩn lịch sử" với giọng điệu ngụy biện của
những khối
óc tù túng trong sự ngu dốt sặc sỡ và
điêu ngoa hào nhoáng.
Các kho tài liệu văn khố
thế giới liên quan đến Việt Nam cũng chưa hoàn
toàn
mở rộng. Ngoài ra, còn sự hạn chế về phương
tiện du khảo
cùng qui tắc của một số văn khố quốc gia. Văn
khố Ðảng Cộng
Sản Trung Hoa và Liên Sô Nga là vài
thí dụ cụ thể. Tại Việt Nam, chỉ một số nhà
nghiên
cứu ngoại quốc được phép làm việc tại ba Trung
tâm
Lưu trữ Quốc Gia ở Hà Nội và Sài Gòn. Thủ
tục xin tham khảo hay làm phóng ảnh cũng rất
khe khắt
và tốn thời gian. Ðó là chưa nói đến
khả năng ngoại ngữ cần thiết về chữ Hán và chữ
Nôm
để nghiên cứu các kho tài liệu Nguyễn Triều
Châu Bản.
Ở lần tái bản thứ nhất
này–nhờ được vài học bổng nghiên cứu tại các
văn khố và thư viện Việt Nam, thu thập thêm sử
liệu mới,
phỏng vấn quí ông Vũ Ðình Hoè, Trần Văn
Giàu, Trần Bạch Ðằng cùng rất nhiều vị khác từ
Bắc chí Nam, cũng như tham quan các địa danh
miền Bắc
mà tác giả chỉ giữ được những ấn tượng thiếu
niên
rất mơ hồ–chúng tôi tu chỉnh lại một số chi
tiết kỹ thuật
trong ấn bản 1999-2000, đặc biệt là giai đoạn
trước 1883,
và thập niên 1930, nhờ sự phát hiện một số tư
liệu
mới.
Chúng tôi cũng may mắn được
sự trợ giúp nhiệt tình của một số chuyên
viên, học giả trong nước suốt thời gian du
khảo năm 2004-2005
cũng như giai đoạn hậu du khảo. Xin ghi nhận
sự ân cần của
quí vị Hiệu trưởng cùng nhân viên Ðại học
Khoa Học & Xã Hội Nhân Văn thành phố Hồ
Chí Minh, quí vị Giám đốc và nhân
viên các trung tâm lưu trữ Quốc gia, Trung tâm
Nghiên cứu Quốc học, và Ban học bổng Fulbright
Tòa
Ðại sứ Mỹ tại Việt Nam.
Houston,
4/8/2007
Vũ
Ngự
Chiêu
Việc Pháp đánh chiếm
và "bảo hộ" Việt Nam hay Ðại Nam từ 1858 tới
1945 có
nguyên động lực chính là phong trào "thực
dân" [colonialism] đương thời. Phong
trào
"ăn dân" này có nhiều nguyên do, nhưng căn
bản là nhu cầu thương mại/kinh tế và sự đột tiến
về khoa
học/kỹ thuật của Tây phương. Tuy nhiên, nó
thường
được ngụy trang dưới những chiêu bài như "khai
hoá"
hay "gánh nặng của người da trắng."(1)
Trường hợp Ðại Nam, người
Pháp đã che dấu tham vọng vật chất của họ bằng
sứ mệnh
Phúc âm hoá và Pháp hoá những
sắc dân "bán khai." Dẫu vậy, những yếu tố nội
tại của
Ðại Nam, từ chính trị qua quân sự, văn hoá,
kinh tế, xã hội dưới bốn triều vua Nguyễn đầu
tiên ảnh
hưởng không nhỏ đến kế hoạch xâm lăng của Pháp.
Chính sách tự cô lập ngoại giao [self-isolationism]
với
các
nước
Âu
Châu,
và
bách
hại
đạo
Ki-tô
từ
triều Minh Mạng (1820-1841) tới Tự Ðức
(1848-1883),(2) đã tạo cơ hội cho Pháp phái
chiến
hạm và binh đội sang Ðông Dương thị uy, rồi bốn
thập
niên sau xây dựng nên một lãnh thổ Pháp
quốc hải ngoại "giàu có nhất" ở Á Châu.
Khởi đầu từ năm 1858 dưới triều
Louis
Napoléon, tức Napoléon III (1852-1871),(3) phần
vì
địa thế xa xôi, phương tiện giao thông chậm
chạp, phần
vì những biến đổi chính trị, quân sự và kinh
tế tại Pháp cũng như Ðại Nam, người Pháp cần tới
một
phần tư thế kỷ mới đặt xong nền Bảo hộ.
I.
VIÊT
NAM TRONG TIẾN TRÌNH TOÀN CẦU HÓA:
Trước năm 1858, Pháp và
Việt Nam đã có quan hệ khá sâu đậm và
phức tạp. Quan hệ đa phương này, giữa hai quốc
gia cách
nhau gần nửa vòng địa cầu, nẩy nở và đan kết qua
ba phong
trào đặc thù của thời Trung Cổ: thám hiểm
và khai phá những vùng đất xa lạ bên
ngoài Âu châu và vùng lân cận;
đánh chiếm những vùng đất khác chủng tộc và
văn hóa cho những lợi nhuận vật chất; và, truyền
bá đạo Ki-tô. Trên cơ bản, động lực chính do
bản năng loài người, ở giai đoạn luật kẻ mạnh
thống trị. Những
xã hội cổ thời ở lục địa Á Châu chẳng xa lạ
gì với kinh nghiệm cá lớn nuốt cá bé
này. Tuy nhiên, phong trào thực dân Âu
Châu từ thế kỷ XV đã bộc phát với cường độ
và biên độ mà Việt Nam và các nước
lân bang Á Châu chưa bao giờ đối diện. Nó
thách thức và đe dọa hủy diệt mọi hệ thống giá
trị
xã hội, văn hóa, chính trị và kinh tế hiện
hữu. Ngay đến hệ thống ngoại giao "thông hiếu,"
"định hướng Khổng
giáo," qui tâm về Yên Kinh cũng bị sụp đổ. Ngắn
và gọn, nó là sự áp đặt bằng sức mạnh họng
súng, những hệ thống giá trị và trật tự xã
hội của người Tây phương.
A.
"TRUNG
QUỐC MIỀN NAM":
Những người có dịp viếng thăm
Việt Nam vào thập niên đầu của thế kỷ XXI khó
thể
hình dung ra cảnh vật vương quốc Ðại Nam vào
giữa thế
kỷ XIX. Hiện tượng đô thị hóa, kế hoạch công
nghệ
hóa, sự phát triển các hệ thống trục lộ, hải
cảng
và trung tâm du lịch, cùng sự gia tăng dân số
trên hai phần trăm mỗi năm khiến ruộng đồng,
rừng núi
ngày một thu hẹp. Nhưng khoảng 150 năm trước, từ
những mắt
nhìn dài theo nòng hải pháo đen bóng
hay qua ống viễn kính trên boong các chiến hạm
Tây phương, Việt Nam vẫn còn là một xứ nông
nghiệp, dân cư thưa thớt, núi rừng hoang dã,
những
quặng mỏ mới chỉ được khai thác theo các phương
pháp thủ công nghiệp, thô sơ. Những hải cảng sầm
uất
như Hải Phòng, Ðà Nẵng, Hà Tiên
ngày nay chỉ gồm những xóm nhà lá
tiêu điều hay những cộng đồng ngư dân nghèo
nàn. Giải cao nguyên miền Trung hay vùng thượng
du
Bắc và Tây Bắc Bắc Kỳ vẫn còn là vùng
đất "mọi rợ," đầy rẫy những "ma lai," "ma
só," hay những
thày phù thủy trong ống tay áo đầy rẫy đủ loại
ma
thuật. Sử sách Việt chép về những dân Man ở
Hoàng gia động, dân Tày, Nùng, Thái,
Mường, cùng những tiểu vương quốc Thủy Xá, Hỏa
Xá
của dân Gia Rai, giặc Man Thạch Bích ở vùng
Quảng
Ngãi, v.. v... Từ triều Gia Long mới có những nỗ
lực đặt
các sắc tộc thiểu số trên vào vòng
"giáo hóa định hướng Khổng học." Dẫu vậy, bức
bản đồ
Ðại Nam của các giáo sĩ Pháp hoàn tất
năm 1838 chỉ bao gồm châu thổ các sông Hồng,
sông Mã chạy men theo chân rặng Trường Sơn,
kéo dài tới Hà Tiên, tức tỉnh cực Nam.
Mặc dù các vương triều
Việt đã đặt ra những quốc hiệu như Ðại Việt,
Việt Nam, hay
Ðại Nam, và các vua đầu nhà Nguyễn (1802-1945)
kiêu hãnh tự xưng là "Trung Quốc miền Nam,"
các địa danh này chỉ được biết trong giới thiểu
số sĩ phu
nội địa. Sử sách Trung Hoa, tức Trung Quốc miền
Bắc, thường ghi
tên An Nam, Giao Chỉ, hay Giao Châu. Người Hán
hoặc
bị Hán hóa phương Bắc từ Vân Nam tới Lưỡng Quảng
vẫn thường dùng tiếng "di địch" hay "Nam Man"
khi đề cập đến
"người Hán ở Huế."
Ranh giới vương quốc cũng rất
linh động,
tỉ đối với sức mạnh quân sự giữa các lân bang,
trong
khuôn khổ hệ thống ngoại giao "thông hiếu" [tributary
network]–tức nước nhỏ thờ nước lớn, cống
lễ định kỳ, xin phong
vương tước, cho tới ngày bị tận diệt và được an
ủi bằng
một miếu thờ, cùng ít ruộng đất hương hỏa. Trước
ngày tiếp cận văn hóa Tây phương, Việt Nam
đã nhiều lần cắt đất đổi hòa bình với Trung Hoa.
Trong khi đó, các vua Việt cũng xâm lấn dần
các tiểu quốc miền Nam, xóa tên nước Chiêm
Thành, cưỡng chiếm phần hạ lưu sông Cửu Long
(Mekong) của
dân Khmer, và đã có lần muốn biến phần
lãnh thổ còn lại của Kampuchea làm "Trấn Tây
thành." Tằm ăn dâu là một thông lệ
hơn biệt lệ trong hệ thống thông hiếu Á châu.
Ðối với Ðại Nam, du khách
và thông dịch Tây phương, kể cả các
giáo sĩ Pháp, thoạt tiên đặt ra những địa danh
như "Ton
Quin" (hay Tonkin, Tonqueen) và "Cochin
Chine"
(hay Cochin China) để chỉ hai vùng lãnh
địa
của
chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Theo thời gian, họ
mượn
những tên trong sách sử Trung Hoa như "Giao
Chỉ"
và "An Nam" khi đề cập đến xứ nằm về
"cực Ðông
của thế giới cổ xưa có người ở" này. Ðịa danh An
Nam
được phổ biến nhất, nhưng chẳng hiểu những nhà
thông
thái trên đã dựa trên thuật ngữ "An Nam
Ðô hộ phủ" đời Ðường (679), tước "An Nam quốc
vương" của
các vua Việt từ năm 1164 (đời Nam Tống,
1127-1279), hay thuật
ngữ "An Nam" của người Thanh cùng người Hoa Nam
đương thời. (4)
Cách nào đi nữa, người
Portuguese dùng tiếng "Onam" để gọi
người Việt,
và vì tiếng Portuguese trở thành một thứ
ngôn ngữ thông dụng tại Ðông Nam Á, Việt
Nam chỉ xuất hiện trong văn sử thế giới như Onam
hay Cochin Chine.
Các giáo sĩ Pháp còn khai sinh thêm
từ "annamite" để chỉ người Việt và những
gì thuộc
về nước Việt; nhưng những từ này chỉ trở thành
phổ
thông từ thập niên 1860. Cho tới năm 1857, hai
thuật ngữ
Cochin Chine và Tonkin vẫn thông dụng trong giới
ngoại
giao Pháp. Quốc hiệu Việt Nam từ 1804 tới 1838
(và từ
1945 trở đi), hay Ðại Nam (từ 1838 tới 1945)
biến dạng. Cũng
chìm vào lãng quên là quốc hiệu
Ðại Việt từ thời Lý Thánh Tông (1054-1072) tới
Tây Sơn (1778-1802). Mãi tới giữa thập niên
1920,
những người Việt kháng Pháp mới tìm nguồn hứng
khởi cho tinh thần quốc gia mới bằng cách tái
khám
phá ra hai quốc hiệu cổ thời Việt Nam và Ðại
Việt.
Khởi đầu là tổ chức Việt Nam Quốc Dân Ðảng
của
Phan Bội Châu tại Quảng Châu, rồi đến Việt
Nam Thanh
Niên Kách Mệnh Ðồng Chí Hội của
nhóm Lý Thụy-Hồ Tùng Mậu. Trong nội địa, xuất
hiện Tân Việt Cách Mạng Ðảng, Việt Nam Quốc
Dân Ðảng (nhóm Nguyễn Thái Học). Qua thập
niên 1930, quốc hiệu Ðại Việt mới được sử dụng
trong
tên một số đảng như Ðại Việt Xã Hội, Ðại
Việt
Quốc Dân, Ðại Việt Dân Chính, Ðại Việt Phục
Hưng, v.. v... bên cạnh tổ chức Việt
Nam Phục Quốc
Ðồng Minh Hội của Hoàng thân Cường Ðể, Việt
Nam
Cách
Mệnh
Ðồng
Minh
Hội của Việt kiều hải ngoại tại
Hoa Nam. Phong trào Cộng Sản chỉ sử dụng tên Ðảng
Cộng
Sản Việt Nam từ tháng 1 tới tháng 10/1930,
và từ năm 1975 tới nay. Riêng tên Việt Minh,
tức Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh, vốn do
nhóm Hồ
Học Lãm, Nguyễn Hải Thần lập ra năm 1936 tại Nam
Kinh. Năm năm
sau, Lin tức Trần Quang, mới lấy tên này làm cơ
quan ngoại vi cho Ðảng Cộng Sản Ðông Dương.
(5)
Ngoài địa danh An Nam, các
giáo sĩ Tây phương còn đặt tên cho
Ðàng Ngoài và Ðàng Trong–tức hai
phần lãnh thổ Bắc và Nam sông Gianh dưới thời
Trịnh-Nguyễn phân tranh, 1620-1775–là "Tonqueen"
hay
"Tong-quin" (Tonkin) và "Cochin-chine." Tới năm
1858, tức hơn
nửa thế kỷ sau ngày Gia Long (1802-1820) thống
nhất vương quốc,
hệ thống hành chính của các Hội truyền giáo
vẫn tiếp tục dùng sông Gianh (Linh giang) làm
biên giới hai nhóm giáo khu Ðàng Trong
và Ðàng Ngoài.
Trong khi đó, vì
ngôn ngữ khác biệt, quốc hiệu "France"
được ghi
trong văn khố triều Nguyễn là "Phật Lan Tây"
hay "Phú
Lãng
Sa." Mãi tới năm 1883, Tự Ðức mới bắt
chước
nhà Thanh, cho lệnh dùng quốc hiệu tiêu chuẩn
là "Pháp."
Tham vọng tìm thuộc địa ở
Á Châu của Pháp, dĩ nhiên, không chỉ
khởi đầu từ Napoléon III mà âm ỉ từ lâu. Năm
1778, nếu không phải sớm hơn, một số viên chức
Pháp
ở Viễn Ðông đã đề nghị Toàn quyền
Pondichéry thực hiện một cuộc viễn chinh giúp
chúa
Nguyễn đánh dẹp anh em nhà Tây Sơn. Tuy
nhiên, việc Bri-tên chiếm Pondichéry từ tháng
10/1778 tới 1785, và Pháp can thiệp vào cuộc
chiến
giành độc lập của Liên bang Mỹ (1777-1783), rồi
đến những
cuộc chiến liên miên tại Âu và Mỹ châu
khiến Paris chưa có cơ hội nhòm ngó vào xứ
"Onam" mà Linh mục Pierre Poivre (1719-1786)
từng ca ngợi
là "không hề có một tên ăn mày,
và chưa hề biết đến chuyện cướp bóc hay sát
nhân," trong khi dân chúng rất "nhã nhặn,
tiết kiệm, bao dung và chăm chỉ" [gentle,
frugal, hospitable
and industrious]. (6)
Cuối thế kỷ XVIII, trong ý định
"chín đời báo thù mới là đại nghĩa," Nguyễn
Chủng (tức Gia Long) ủy thác Giám mục Pierre
Pigneau de
Béhaine (1741-1799) mang Hoàng tử Cảnh cùng ấn
tín và giấy ủy quyền của Hội đồng gia tộc tối
cao qua tận
Pháp xin cắt đất cầu viện. Tuy nhiên, Paris và
các viên chức thuộc địa không thi hành những
điều khoản ký kết. Chỉ có một nhóm lính
đánh thuê Pháp theo Pigneau qua Sài
Gòn, tham gia đạo quân Lê dương đủ quốc tịch của
Nguyễn Vương. Tới cuối thập niên 1810, Paris mới
tái
khám phá "Onam," nhưng Gia Long và rồi Minh Mạng
từ chối thông thương, cự tuyệt mọi đòi hỏi thực
thi Hiệp
ước Versailles ngày 28/11/1787 mà Gia Long đã
chính thức bác bỏ từ năm 1890.
Sau ngày thôn tính
Algérie ở Bắc Phi (1830-1840)–đặc biệt từ khi
"chiến tranh nha
phiến" ở Trung Hoa (1834-1942) chấm dứt, mang
lại cho Bri-tên đảo
Hong Kong cùng nhiều ưu quyền kinh tế khác như
tự do ra
vào các hải cảng Hoa Nam, và Singapore [Sư tử
thành] phát triển thành trung tâm thương mại
ở Ðông Nam Á–tự ái và quyền lợi quốc gia
khiến người Pháp nôn nóng hơn trong sứ mệnh khai
hoá. Nhưng giống như các nước Âu Châu đương
thời, thoạt tiên Pháp chỉ quan tâm đến Trung
Hoa,
một vương quốc rộng lớn với 400 triệu dân cùng
kho
tài nguyên thiên nhiên và thị trường
hầu như vô tận. Sau đó, khi được lệnh đi tìm một
căn cứ tiếp vận ngoài khơi Thái Bình Dương,
các sĩ quan Pháp chỉ lưu tâm đến quần đảo "San
Lazaro" (Philippines, tức Phi Luật Tân),
hờ hững trước những
lời kêu cứu thống thiết, bi phẫn của các giáo sĩ
Pháp ở Ðại Nam. Mãi tới thập niên 1850, khi chỉ
còn bán đảo Ðông Dương và Xiêm La
là vùng lục địa Á Châu chưa bị cường quốc
nào xâm chiếm,(7) và lực lượng Hải quân
Pháp tại Viễn Ðông đã đủ mạnh để bảo vệ quyền
tự do hút thuốc phiện và truyền giáo cho dân
Á Châu, Paris mới chợt nhận thức được trách
nhiệm
bảo vệ các "thừa sai" cùng giáo hữu người Việt
tại
vùng đất mà "Thượng đế đã ban ơn riêng" cho
Pháp.
B.
TRUYỀN
THỐNG VĂN HÓA:
Vào thế kỷ XIX, Việt Nam
là một xã hội đa thần và đa tôn giáo.
Hầu hết tôn giáo lớn nhỏ trên thế giới đều hiện
hữu,
từ đạo Phật tới Islam. Cả 5 thuật ngữ dùng để
chỉ tôn
giáo đều mượn từ tiếng Hán: tôn giáo,
từ tung chiao, có nghĩa "lý thuyết về
niềm tin"
hay "hướng dẫn niềm tin;" giáo, từ tiếng
chiao,
có nghĩa "dạy bảo" hay "học thuyết hướng dẫn;" đạo
từ
tiếng tao (dao), tức "đường," hay "cách
sống;" và tông, nghĩa là "cửa," hay "cửa
dẫn đến
sự giác ngộ và giải thoát [the door leading to
enlightment and salvation.]
Vì Islam chỉ có một thiểu
số tín đồ gốc Chàm hoặc Malay, chúng tôi sẽ
chỉ lược nhắc đến ba đạo lớn nhất là Phật, Lão
và
Khổng.
1. Ðạo Phật:
Ðạo Phật thành lập vào
khoảng thế kỷ thứ VI trước Tây lịch (TTL), tại
Nepal, Bắc India
(Ấn Ðộ). Người khai đạo là Guatalama Siddharta
(Tất Ðạt
Ða), một hoàng tử, sống trong khoảng 563-483
TTL. (8) Nền
tảng của đạo Phật là "tứ diệu đế" (sinh,
chết,
già và bệnh) của đời người, trong vòng "luân
hồi" (karma) vô cùng tận. Muốn thoát khỏi
vòng luân hồi ấy, cần tu đạo, hầu đạt "chính
quả,"
vào cõi "niết bàn" (nirvana), tức chốn cực an,
cực
tịnh. Thế kỷ thứ 3 TTL, vua Ashoka đặt Phật giáo
làm quốc
giáo. Sau đó bị Hồi giáo (Hinduism) đẩy bật ra
khỏi lãnh thổ. Nhưng Phật giáo được quảng bá
khắp
Á Châu.
Khoảng đầu Tây lịch, Phật
giáo chia làm hai nhánh lớn: Nam Tông
(còn gọi là "nguyên thủy") hay "tiểu thừa"
[Hinayana] và Bắc Tông (tức "đại thừa"
[Mahayana] hay "đại
chúng"). Phái Nam Tông thiên về giải
thoát cá nhân, tồn tại và phát triển
ở Sri Lanka (Ceylon hay Tích Lan) cùng vùng Nam
và Ðông Nam Á (Diến Ðiện, Thái Lan,
Cao Miên v.. v...). Phái Bắc Tông, thiên về
việc "phổ độ chúng sinh" (đưa người qua biển
mê), với mẫu
người Bồ tát (boddhisatva) biến thái theo
từng địa
phương, mạnh nhất ở Tibet (Tây Tạng), Mông Cổ,
Trung Hoa,
Ðại Hàn, Nhật Bản và Việt Nam. Du nhập Việt Nam
vào khoảng thế kỷ thứ I hoặc thứ II, đạo Phật
lên cao độ
vào thế kỷ thứ X-XIII, sau khi được nhà Ðinh
(968-980) và rồi nhà Lý, nhà Trần nhận
làm quốc giáo. Cả hai chi nhánh Bắc và Nam
tông đều hiện hữu ở Việt Nam. Có thể nói trên
50% dân Việt, đặc biệt là giới phụ nữ và những
người lớn tuổi, ít nhiều theo đạo này.
Trên phương diện thực hành,
đa số Phật tử thường chỉ thắp hương, niệm Phật
hay đi lễ chùa
vào ngày mồng một hay rằm âm lịch. Có người
chỉ đến chùa trong các đại lễ Phật đản (mồng 8
tháng tư âm lịch) hay Vu Lan (rằm tháng 7 âm
lịch). Trong giới tăng lữ cũng chỉ có một thiểu
số được huấn
luyện và nghiên cứu thâm sâu về Phật
pháp. Phái Bắc tông đặc biệt phát triển về thiền
hay thuyền học [dhyana, ch’an
hay Zen],
do
Bodhidharma
[Bồ
Ðề
Ðạt
Ma]
mang
từ
India
vào
Trung
Hoa dưới triều Lương Vũ Ðế (520-549). Chủ đích
của thiền học
là tìm hiểu và khám phá ra tinh
túy của lời Phật giảng dạy, ẩn dấu phía sau và
vượt trên những kinh điển được chép lại. Sự tích
cơ
bản của phái này là "Niêm hoa vi tiếu"–tức
nhìn
hoa
sen
mà
mỉm
cười
của
Mahakasyapa
[Ma-ha-ca-nhiếp-gia],
người
được
Thích
ca Mâu ni truyền
thụ tâm ấn [hsin-yin hay
seal-of-mind].
Việt Nam có bốn chi nhánh
thiền: Tì Ni Ða Lưu Chi [Vinitaruci hay
Hsih-ni-to-liu-chih]
(khoảng năm 580, tại chùa Pháp Vân, Hà
Ðông); Vô Ngôn Thông [Wu yen-t’ung] (khoảng
năm 820, chùa Kiến Sơ, làng Phù Ðổng, Bắc
Ninh); Thảo Ðường; vàợ Trúc Lâm Yên Tử.
Phái Tì Ni Ða Lưu Chi cung cấp những lãnh đạo
Phật giáo từ Tiền Lê tới nhà Lý, như
Pháp Thuận, triều Lê Hoàn (980-1005), Vạn Hạnh,
cố
vấn của Lý Công Uẩn (1009-1028), hay Huệ Sinh,
Tăng Thống
triều Lý Thánh Tông (1054-1072). Phái
Vô Ngôn Thông có Ngô Chân Lưu được
Ðinh Tiên Hoàng (969-979) cử làm Tăng thống;
Viên Chiếu, một học giả uyên bác, vua Lý
Thái Tông (1028-1054); Quốc sư Thông Biện;
cùng các danh tăng Không Lộ; và Thường
Chiếu, tác giả Nam Tôn Pháp Ðồ.
Do tình trạng "vệ tinh" của
Việt
Nam trong trật tự chính trị và văn hóa
"thông hiếu" với Trung Hoa, Phật giáo Việt cũng
bị
Hán hóa dần, ngày một thiên về trường
phái Ðại thừa. Các tăng ni bắt đầu mặc áo
nâu, cầy cấy ruộng và tham dự vào sinh hoạt
xã hội qua các tang lễ hay nghề thuốc để mưu
sinh.
Trong khi đó, phái Nam
Tông hay Nguyên thủy, tuyệt đối trung thành với
mọi
và mỗi lời Phật giảng dạy còn được ghi chép.
Các tăng mặc áo vàng, chỉ ăn ngày một bữa
và khất thực, nên không nhất thiết phải ăn chay
như
phái Bắc tông. Tại miền Bắc, các thiền viện Nam
Tông dần dần bị giảm thiểu, rồi không để lại dấu
vết
nào của những nhà sư như Khang Tăng Hội, hay
trường
phái Giáo Tông, v.. v... Tại miền Nam, khoảng
đầu
thế kỷ VII, phái Nam Tông phát triển khá
mạnh ở Lâm Ấp hay Chiêm Thành. Trong một cuộc
đánh cướp nước Chiêm năm 605, quan tướng Tùy
(589-618) mang về Trung Hoa 18 pho tượng vàng và
hơn
1,350 bộ kinh [sutras] Phật. Trong khi đó người
Việt gốc Khmer ở
vùng châu thổ Cửu Long cũng lập nên những cộng
đồng
theo hệ phái Nam Tông, tiêu biểu bằng những
chùa chiền hùng vĩ với mái thiếp vàng,
cùng những pho tượng vàng trấn tự. Các lục cả
[tăng] giữ vai trò lãnh đạo tinh thần của các
thôn xã [sóc hay láng]. Tại nhiều nơi, việc
giáo dục thanh thiếu niên được hoàn toàn
giao cho hàng tăng lữ.
2. Ðạo giáo hay Lão
giáo:
Xuất phát từ Trung Hoa, do
Lão Ðam (Lão tử) thành lập vào khoảng
thế kỷ thứ VI TTL. Những chi tiết về Lão tử đầy
tính
cách thần thoại và tập Ðạo Ðức Kinh còn
lưu truyền đến nay là do nhiều người ghi chép
trong
khoảng thế kỷ thứ III TTL.
Nền tảng của trường phái
này là hai chữ "Ðạo" (đường) và "Ðức"
(quyền lực). Bậc chân nhân có quyền lực nhờ
đã tri nghiệm được "Ðạo"–tức nguyên lý hằng cửu
của vũ trụ. Cũng trong khoảng thế kỷ thứ III TTL
xuất hiện một tư tưởng
gia lỗi lạc khác của Ðạo giáo là Trang
Châu (Trang tử), với tác phẩm Nam Hoa Kinh.
Hai
tư tưởng xuất sắc nhất của Trang Châu là tự do
tuyệt đối
(tiêu dao du) và bình đẳng (tề vật luận), theo
trật
tự sẵn có của vũ trụ (tự nhiên như nhiên). (9)
Trong đời sống thường nhật, Ðạo
giáo bị đại chúng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu
niềm tin về sức mạnh huyền bí của vũ trụ. Các
đạo sĩ hay
chân nhân, sau một thời gian tu luyện trên núi
cao, rừng sâu, trở lại các làng mạc, thị trấn để
trừ ma, diệt quỉ, cải biến thiên tai với bùa chú
hay lễ đàn hô phong, hoán vũ. Du nhập Việt Nam
vào khoảng thế kỷ thứ II TTL, Ðạo giáo tiếp tục
hiện
hữu cho tới thế kỷ XX với hình ảnh những "ông
Ðạo,"
thày tử vi, địa lý, hay những hội kín của người
Việt gốc Hoa (Thiên địa Hội, Hồng Liên Giáo, v..
v...).
3. Khổng hay Nho giáo:
Dù không được coi như một
tôn giáo, Khổng giáo là học thuyết
chính trị của Khổng Khâu [Khưu], một học giả
người Hoa
sống trong khoảng từ 551 tới 479 TTL. Lúc bấy
giờ, Trung Hoa
còn theo chế độ phong kiến, Hoàng đế nhà
Châu (1122-247 TTL) chỉ có hư vị, 5 nước chư hầu
mạnh nhất
(Tề, Tấn, Tần, Sở và Ngô-Việt) tranh nhau ngôi
bá chủ (Xuân Thu). Xuất thân nước Lỗ, một trong
những vương quốc yếu nhất (thuộc địa phận tỉnh
Sơn Ðông,
ngày nay), Khổng Khâu kêu gọi phải trở về với
đức
hạnh, tiêu biểu bằng lòng nhân (jen),
và rao giảng phép trị nước dựa trên sự hoà
đồng giữa người với Trời, gia đình và vương
quốc. Khổng
Khâu muốn những nhà cai trị hãy bỏ sự dị đoan để
trở lại với những vấn đề thiết thân của xã hội
và
quốc gia. Sự kêu gọi trở về với "văn hoá của nhà
Chu" này là do các nhà cai trị thời bấy giờ
tin tưởng vào tính cách tiên tri của
các giấc mộng, sự hữu hiệu của các thần linh,
sức mạnh
của người chết, tục chôn người sống sau cái chết
của người
cai trị. (10)
Khổng Khâu tin ở trật tự
thiên nhiên, cũng là trật tư đạo đức. Con người
làm tròn bổn phận mình, đạt được đỉnh cao đời
sống, nếu hành động theo ý muốn của Trời hay
Thiên
mệnh (T’ien-ming). Quân tử là mẫu người
tiêu biểu của giai tầng trung gian, tức lớp văn
thân hoặc
nho sĩ, có nhiệm vụ giúp vua trị an dân
chúng. Quân tử trước hết phải đạt được chính
tâm, rèn luyện bản thân (tu thân),
xây dựng gia đình (tề gia), rồi mới có
thể
cai quản đất nước (trị quốc) hay trị an (bình)
thiên hạ. Phép tu thân có "ngũ thường"
là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Trong gia
đình thì hiếu với cha mẹ, thờ cúng tổ tiên,
duy trì bổn phận giữa chồng-vợ, cha-con, anh-em.
Ra
ngoài, tiến về việc trị quốc, nền tảng là "tam
cương"–quân,
sư
và
phụ.
Tuy
nhiên,
Khổng
Khâu
tin
rằng
chỉ
một
thiểu số có thể đạt được tiêu chuẩn của mẫu
người
quân tử . Kẻ "tiểu dân" trong đám đông ở
đáy xã hội, cần được chăm sóc, dạy bảo và
hướng dẫn. Một cách nào đó, học thuyết Khổng
Khâu tương tự như Plato của cổ Greece (Hy Lạp).
Những lời dạy bảo của Khổng
Khâu–chưa hẳn đã là nhân vật Khổng-Khâu-lịch-sử–được
chép
lại
thành
bộ
Luận ngữ. Khổng Khâu
còn được ghi là tác giả bộ Xuân Thu
(Yinxu, lịch sử nước Lỗ, 722-481), và người chú
giải Kinh
Dịch.
Trong số các đệ tử, người được
Khổng Khâu thương yêu nhất là Nhan Hồi [Yen
Hui].
Khâu nói về Hồi như sau:
Hiền tai, Hồi dã! Nhất
đôn tự, nhất biều ẩm, tại lậu hạng, nhân bất
kham kỳ ưu.
Hồi dã bất cải kỳ lạc. Hiền tai, Hồi dã! [Hiền
thay
Nhan Hồi! Một chén tre lúa mạch để ăn, một bầu
nước để
uống, sống trong ngõ hẻm–những kẻ khác thấy ắt
phải
chán chường, nhưng niềm vui của Hồi chẳng hề bị
ảnh hưởng. Hiền
thay Nhan Hồi!] (11)
Khi Hồi chết, Khâu than thở:
Y! Thiên táng dư,
thiên táng dư! [Hỡi ơi! Trời hại ta! Trời
hại ta!]
(12)
Vào thế kỷ IV TTL, Mạnh Kha
diễn
giải lại tư tưởng Khổng Khâu, tạo thành hệ thống
chính trị nhân bản khá chặt chẽ. Sau khi Trung
Hoa
thống nhất, Khổng Khâu được tôn sùng lên
hàng Thánh từ đời Hán Vũ Ðế (140-86 TTL),
nhưng cũng từ đó Khổng học chia làm nhiều hệ
phái–như Hán Nho, Tống Nho, Minh Nho, hay Thanh
Nho–tùy theo sự triển biến của tri thức và vũ
trụ quan
của người Trung Hoa.
Năm 637, Ðường Thái
Tông phong Khổng Khâu làm Tiên thánh,
Nhan Hồi làm Tiên sư, cùng thờ với Chu Công
Ðán ở nhà Thái học. Năm 739, Ðường Huyền
Tông thăng lên chức Văn Tuyên Vương. Tống Chân
Tông (998-1002) từng đến thăm miếu Khổng Khâu,
truy tặng
là Chí Thánh Văn Tuyên vương. Ngoài
ra, còn phong 72 đệ tử Khâu và 27 nho sĩ
khác các chức công, hầu, bá. (13)
Du nhập cổ Việt dưới thời Bắc
thuộc (207
TTL-939), Khổng học không vượt ra ngoài phạm vi
giới quan
chức bảo hộ và giai tầng thượng lưu. Từ thời
Vương Mãng,
một số nho sĩ Trung Hoa đã qua Giao Chỉ tị nạn.
Trong số con
cháu những người này có Sĩ Nhiếp, đỗ Mậu
Tài, sau trở thành Thái thú Giao Chỉ nắm
quyền tự trị suốt 39 năm, từ 187 tới 226. Những
cuộc tranh giành
quyền lực ở Trung Hoa cũng khiến hàng trăm "danh
sĩ" người
Hán qua Giao Chỉ lánh nạn, phụ giúp Sĩ Nhiếp.
Năm
318 [Mậu Dần], Lưu Trầm, tú tài đất Giao Châu,
cùng Vương Cơ và Ðỗ Thục nổi dạy. Thứ sử Quảng
Châu là Ðào Khản sai quân qua đánh
thắng. Năm 541-542, Tinh Thiều, một nho sĩ giỏi
văn chương từng ứng
tuyển ở Trung Hoa nhưng Thượng thư bộ Lại nhà
Lương là
Thái Tổn cho rằng tổ tiên Tinh Thiều tầm thường,
chỉ cho
một chức quan nhỏ (Quảng dương môn lang), nên hổ
thẹn,
bèn phụ giúp Lý Bôn khởi binh. Vì Thứ
sử Tiêu Tư (tôn thất của Lương Vũ đế, 502-549),
hà
khắc, làm mất lòng dân, hai người liên kết
được vài châu, các tay hào kiệt đều hưởng
ứng. Chiếm được Long Biên, lập nên nhà Tiền
Lý trong sử Việt. (14)
Mãi tới nhà Trần
(1226-1400) và Hậu Lê (1427-1527, 1593-1789),
Nho
Giáo mới dần dần thống trị triều chính và
các sinh hoạt văn hóa tại Ðại Việt. Năm 1247
[tháng 2 Ðinh Mùi], Trần Thái Tông mở
khóa thi Thái học sinh chọn nhân tài.
Ðặt ra tam khôi (Trạng nguyên, Nguyễn Hiền; Bảng
nhãn, Lê Văn Hưu; Thám hoa, Ðặng Ma La).
Còn 48 người khác đều cho đồng xuất thân, theo
thứ
tự trên dưới khác nhau. (15)
Vào thế kỷ XV, khi ghi lại việc
Lê Quí Ly dâng bản điều trần 14 điểm vào
tháng Chạp Nhâm Thân [1392], đòi giáng
Khổng Khâu xuống hàng "tiên sư" (xếp hạng sau
Chu
Công Ðán trong miến thờ), và nêu
lên bốn nghi vấn trong Luận ngữ, Ngô Sĩ Liên
viết:
Ðạo của tiên thánh
trước nếu không có Khổng tử thì không
rõ được; đạo của bậc thánh sau nếu không có
Khổng tử thì không thể làm khuôn phép
được. Từ khi có sinh dân đến nay chưa có ai hơn
Khổng tử; thế mà dám khinh xuất bàn đến, cũng
là chẳng biết lượng mình đấy. (16)
Ba thế kỷ sau, Ngô Thì Sĩ
còn nặng lời hơn nữa, gọi việc làm của Lê
Quí Ly là "người mù chê mặt trăng, mặt trời
không có ánh sáng," "cái ngu của
Quí Ly thì tội không kể xiết." (17)
Từ thế kỷ thứ IX-X, đã có
khuynh hướng muốn "cùng tồn tại" rồi tổng hợp cả
ba đạo
lý trên. Các vua Việt độc lập đầu tiên sử
dụng các sư, đạo sĩ và nho sĩ vào các chức
vụ quốc sư và cố vấn tôn giáo. Từ thời Lý
Cao Tông bắt đầu mở những kỳ thi tam giáo (1195)
để chọn
những người kiêm thông cả ba đạo Thích, Lão,
Nho ra làm quan. Trần Thái Tông cũng mở thi tam
giáo. Tháng 8 Ðinh Mùi [1247], lấy Ngô
Tần đỗ giáp khoa. Ðào Diễn, Hoàng Hoan, Ðỗ
Vị Phủ, ất khoa. (18)
Ngay trong cuộc sống thường
nhật, ba tư
tưởng, đạo lý Phật, Lão, Nho dung hoà một
cách thoải mái với phong tục tế lễ cổ truyền của
người
Việt.
Ở một cái nhìn phiến diện,
khuynh hướng tam giáo đồng nguyên có vẻ cũng chỉ
là một thứ vay mượn của văn hóa Trung Hoa. Sự
kiêu
hãnh chủng tộc và gia tài truyền thống văn
hóa của người Hán khiến cuộc tranh chấp ảnh
hưởng tại
các triều đình Trường An, Nam Kinh và Yên
Kinh khá gay cấn, đưa đến hiện tượng tổng hợp
tôn
giáo [religious syncretism]. Ðể tự bảo vệ
trước sự
tấn công không ngừng nghỉ hay khoan nhượng của
đạo
Lão và Khổng, các học giả Phật giáo viết ra
nhiều tác phẩm bằng Hán ngữ, kể cả những ngụy
thư về
chuyến đi India [Thiên Trúc] của Lão tử, hay
Khổng
Khâu im lặng đón nhận đại thánh [Thích Ca
Mâu Ni] từ phương Tây. Những nỗ lực này giúp
đưa Phật giáo lên đỉnh cao quyền lực dưới triều
Ðường
(họ Lý). Các lãnh đạo Phật giáo không
chỉ được vua Ðường nghe theo mà còn giữ một địa
vị
thống trị trong lãnh vực văn chương. Vào năm
845,
toàn nước Trung Hoa có trên 265,00 tăng và
44,600 chùa cùng thiền viện.
Phật giáo tại Việt Nam, dĩ
nhiên, cũng tăng trưởng đồng nhịp với các trào
lưu
ở mẫu quốc. Từ thế kỷ thứ VII tới thế kỷ IX, các
tăng Trung Hoa
và kinh điển Phật Bắc tông tràn ngập An Nam
đô hộ phủ. Tuy nhiên, sự thay đổi văn hóa
không bao giờ đồng nhất hay theo một đường
thẳng. Người Việt
và xã hội Việt luôn có những giá trị
truyền thống với khả năng đề kháng lại sức đồng
hóa của
Hán tộc. Bởi vậy, vào khoảng thế kỷ thứ IX, hệ
thống ngai
vị trên đài sen của Việt Nam có vẻ đông
đúc và mở rộng hơn người Trung Hoa. Hàng ngũ
thần
linh của người Việt không chỉ có Phật, Bồ Tát,
mà còn Ngọc hoàng Thượng đế và chư
Tiên, Thánh Khổng cùng thần thánh địa
phương, từ Ông Giời hay Ông Trời (Cao Xanh) tới
đủ loại
thần. Trong khi đó các đạo sĩ rút về những
vùng rừng núi hoang dã để tu luyện pháp
thuật có thể giúp họ vào cõi trường sinh
bất tử. Sau đó, họ trở lại trần thế, lấy việc hô
phong,
hoán vũ, trừ tà, đuổi ma hay nghiên cứu phong
thủy
kiếm sống. Các "bà hay cô dí" cũng sống
khá ung dung nhờ những người chẳng may mất mát
người
thân, muốn tìm hiểu linh hồn người đã mất đang
vui
hay buồn, sướng hay khổ. Trong khi đó, nhà chùa
hay thiền viện thường biến thành trung tâm sinh
hoạt văn
hóa nông thôn. Một số tăng sĩ không ngần ngại
hy sinh sự giải thoát cho chính mình–qua việc rũ
bỏ cảnh trần thế đầy hệ lụy–bằng cách dùng Phật
pháp trừng trị hung thần, ác quỉ.
Trên đỉnh xã hội, Khổng
giáo thống trị các thành thị và trang trại,
nơi các quan chức và dân Hoa cư ngụ, xen lẫn với
các viên chức bản xứ Việt. Những năm biến loạn
trong hai
thế kỷ VIII-IX loại bỏ dần người Hán khỏi giai
tầng cai trị. Cư
dân người Hoa lập nghiệp ở An Nam tích cực đóng
góp vào phong trào tự trị này. Nhưng họ sớm
đối diện và bị thách thức bởi những thổ hào bản
xứ. Mãi tới đầu thế kỷ thứ XI, nhờ sự trợ giúp
của Phật
Giáo, nhà Lý mới thiết lập được một chế độ tương
đối vững chãi, ổn định. Dẫu vậy, các vua quan
Việt–phần
do nhu cầu "đổi mới" để sinh tồn trong trật tự
thông hiếu qui
tâm về kinh đô Trung Hoa–lại tái khám
phá chính giáo Khổng học, tức đào tạo
nên một tầng lớp trung gian bản xứ mới làm trái
độn
giữa các giòng họ cầm quyền và đại đa số dân
chúng bị trị. Dù luôn luôn nghi kỵ và
chỉ trích Phật giáo–tìm cách kiểm
soát và giảm thiểu quyền lực tăng ni–vua quan
Việt chấp
nhận trên thực tế sự đồng hiện hữu của ba tôn
giáo
Phật, Lão và Khổng.
Tác phẩm Ðoạn Trường
Tân Thanh, tức Truyện Kiều, của
Nguyễn Du có
ghi lại một chứng tích tiêu biểu của khuynh
hướng "tam
giáo đồng nguyên" này trong dân gian. (19)
Trong khi đó, mặc dù từ năm 1825 đã đặt tên
Khổng Khâu làm quốc húy, 15 năm sau Minh Mạng
vẫn
cho lệnh bộ Lễ tìm các nhà sư, đạo sĩ, thuật sĩ
và người làm thuốc giỏi, gác bỏ ngoài tai
lời can ngăn của bọn khoa đạo Bạch Ðông Ôn,
tuyên
bố "tam giáo, cửu lưu nếu không phải tà thuật
thì vẫn dùng." Nhờ vậy, vua khám phá ra sư
Nguyễn Giác Ngộ ở Phú Yên, một cao tăng tu theo
thuật tịnh cốc (không ăn) đã gần 10 năm. (20)
4. Ki-tô Giáo:
Ki-tô giáo, tôn
giáo thứ năm du nhập vào Việt Nam, xuất xứ từ
vùng
Trung Ðông, với thánh địa Jerusalem (vùng tranh
chấp giữa Israel [Do Thái] và dân Arab [Ả Rập]
ngày nay). Giáo chủ là Giê-Xu (hay
Giê-duýt: Jesus, Joshua, Jeshua), một người Jews
bị
chính quyền Roma hành hình vào khoảng năm
30 Tây lịch. Tín đồ không biết và có
lẽ cũng chẳng quan tâm đến nhân vật Giê-Xu-lịch-sử,
chỉ tôn thờ Giê-Xu Ðấng-Cứu-Thế
(Messiah hay Christ), người đã tái sinh sau khi
chết
và có thể ban cho tín đồ ngoan đạo đời sống hằng
cửu, bất kể tội lỗi của họ. Người ta tin Giê-Xu
là hiện
thân của một "chúa" [god] mà người Jews
thờ
kính. Chúa là "ngôi" toàn năng,
đã sáng tạo ra vũ trụ trong 6 ngày vào
khoảng năm 7,000 TTL, và sẽ trở lại trần thế để
tuyên đọc
phán quyết cuối cùng cho nhân loại. Nhân
loại–giòng dõi của Adam và Eva, chiếc xương sườn
cụt của Adam–được truyền tụng sẽ bị tận diệt vào
khoảng năm 1000
hay 2000, hoặc sau ngày Israel tái lập quốc
(1948).
Thần học Ki-tô dựa trên
lòng "bác ái" (love), khuyên
làm điều lành, tránh điều dữ. Trước thập
niên 1990, Ki-tô giáo dạy rằng sau khi chết,
linh
hồn sẽ về hai cõi khác nhau: Thiên đường (Heaven)
cho người lành cùng cựu thánh binh, và
Ðịa ngục (Hell) cho kẻ dữ.
Những câu chuyện kể về
Giê-Xu Ðấng-Cứu-Thế [Gospels] và Giáo hội
tiên khởi [Acts] được chép lại khoảng giữa thế
kỷ thứ II,
và lưu truyền cùng những lá thư của Paul [Bảo
Lộc]. Mãi tới cuối thế kỷ thứ IV, việc biên soạn
Thánh Kinh [Bible] mới hoàn tất. Tuy nhiên, cũng
có thuyết cho rằng Thánh Kinh đã được tuyên
đọc khoảng năm 1,500 TTL ("10 Lệnh Trời," hay
Ten Command-ments). Phe
này được gọi là Cựu Ước Kinh. Một bằng chứng của
họ
là những cuộn Kinh tìm thấy ở vùng Biển chết.
Vì thế họ gọi Thánh Kinh biên soạn vào thế
kỷ thứ IV là Tân Ước Kinh. Có sự khác biệt
khá xa giữa cách diễn giải Cựu Ước và Tân
Ước của hai phe Ki-tô Vatican [Catholicism] và
Tin
lành [Protestanism]. Cuộc tranh luận còn kéo
dài. (21)
Vào thế kỷ thứ II, một trường
đào tạo giáo sĩ (chủng viện) được thành lập tại
Alexandria. Các giảng sư (Origen, 182-251) đặt
xuống nền tảng
thần học Ki-tô và rao giảng niềm tin theo kiểu
triết học
Greece (Hy Lạp). Trường phái Tân Plato [Neo-Platoism]
để
lại
dấu
tích
sâu
đậm
trong
các
tác
phẩm
thần
học như Augustine (354-430). Những người ẩn tu [hermits],
phần
lớn từ giai cấp nghèo khổ, bắt đầu hợp tác với
các chủng viện, trước hết tại Egypt (St.
Pachonimus, 290-345),
rồi tới những vùng đất phía Ðông và
Tây (Luật St Benedict, 529). Dưới triều
Constantino (306-337),
Ki-tô trở thành quốc giáo của đế quốc Roma [La
Mã]. Những đền thờ truyền thống (Pagan) bị phá
bỏ,
ngân quĩ dùng để xây cất những nhà thờ bề thế
và trợ cấp hàng giáo phẩm. Luật pháp bị sửa
đổi theo quan điểm thần học Ki-tô. Vào cuối thế
kỷ thứ IV,
mọi tôn giáo khác, kể cả Do Thái giáo
(Judaism), bị tuyệt cấm và đặt ra ngoài
vòng pháp luật.
Nhiều bậc "Thánh" bắt đầu được
thêm vào các buổi tế lễ. Ðáng kể nhất
có Maria, mẹ Giê-Xu, thường được biết như "Mẹ
Ðồng
Trinh" hay "Mẹ Vô Nhiễm." (22)
Trong số người khai đạo có Paul
of Tarsus; hoạt động tích cực trong giới người
Jews, nhằm chống
lại giáo luật nghiêm khắc của dân Jews. Giới
thẩm
quyền Roma đàn áp mạnh–như vua Nero [Néron]
vào năm 64–nhưng không thành công.
Giáo dân tổ chức rất chặt
chẽ. Mỗi cộng đồng do một Giám mục [Bishop]
cầm đầu, với
sự trợ giúp của những người lớn tuổi [prebyters
hay linh
mục], cùng các phụ tá [deacons].
Ðứng đầu giáo hội là
giáo hoàng (pope hay pape). Giáo
hoàng đại diện chúa trời diễn giải luật Thánh (canons),
và
tự
xưng
là
Giám
mục
Roma,
Sứ
giả
của
Giê-Xu
Cứu
Thế (Vicar of Jesus Christ). Tông đồ
(Thánh) Peter–đến Roma vào khoảng năm 42, và
chết
năm 67–được tôn làm giáo hoàng tiên
khởi. Giáo hoàng một thời còn cai trị vương quốc
Vatican, rộng 16,000 dặm vuông. Luật ngày
13/5/1871 hủy bỏ
vương quốc trên, và giáo hội chỉ còn lại
lâu đài Vatican và Lateran ở Roma, cùng biệt
thự Castel Gandolfo. Hơn nửa thế kỷ sau,
Mussolini và Hồng y
Gasparrini ký Hiệp ước Lateran ngày 11/2/1929,
theo
đó vương quốc độc lập Vatican chỉ còn 108.7
acres [mẫu
Bri-tên]. Ðổi lại, chính phủ Italia nhìn nhận
Ki-tô làm quốc giáo và được độc quyền
giáo dục. Hiệp ước này được viết vào điều 7 của
Hiến pháp Italia năm 1947. Gần ba thập niên sau
nữa, năm
1976, chính phủ Italia và Giáo Hội mới đạt qui
ước
hủy bỏ điều khoản nhìn nhận Ki-tô giáo làm
quốc giáo cùng độc quyền giáo dục.
Dưới giáo hoàng là
một triều đình, chia làm nhiều ban. Ban Ngoại
giao lo
việc liên hệ với các nước.( 23)
Từ thế kỷ XII, Hội đồng Hồng Y
(College
of
Cardinals) phụ tá giáo hoàng việc đạo,
và bầu ra tân giáo hoàng khi người tiền
nhiệm chết, bị truất phế, hay không còn khả năng
làm việc. Hồng y (mặc áo đỏ, đội mũ đỏ) thoạt
tiên
không nhất thiết phải là tu sĩ. Từ năm 1918,
điều kiện
tiên quyết phải là từng là giáo mục, rồi từ
năm 1962, thêm điều kiện phải từng giữ chức giám
mục. Năm
1959, số hồng y tham dự Hội đồng Hồng y (để bầu
giáo
hoàng) tăng lên 120 người. Từ năm 1971, các hồng
y
trên 80 tuổi phải về hưu và không được dự cuộc
bầu
cử giáo hoàng (dù vẫn được hưởng những quyền lợi
khác).
Giáo hội sớm bị phân
hóa dài theo ranh giới địa phương và chủng tộc
trong nội bộ cũng như ngoài biên cương đế quốc
Roma. Những
"phường rối đạo" đáng kể nhất là nhóm chối bỏ
tính thánh của Giê Xu (Arianism), phủ
nhận
sự đồng hoá giữa quốc gia và giáo hội (Donatism);
và
phủ
nhận
bản
chất
nửa
người,
nửa
thánh
của
Giê
Xu
(Monophysite). Ðầu thiên kỷ thứ hai, vào
năm
1054, Ki-tô giáo chia thành hai giáo hội
Ðông và Tây. Hậu thân giáo hội
Ðông là giáo hội truyền thống (Orthodox) tại
Greece [95%], Nga (Ukraine), Roumania, Georgia
và một số nước
như Syria [50% trong số 2 triệu tín đồ Ki-tô].
Mãi
tới ngày 3/5/2001, John Paul II (1978-2005), mới
qua thăm Greece
[trong chuyến du hành theo dấu chân Thánh Paul],
và chính thức xin lỗi [mea culpa] giáo
hội
truyền thống Greece về những tội ác của Vatican,
đặc biệt
là cuộc tàn phá Constantinople năm 1204. (24)
Trong thế kỷ XIV và XV,
giáo hội chia thành hai giáo hội Avignon và
Vatican. (Xem Avignon Registers, 1315-1415,
và Vatican
Registers trong giai đoạn tương ứng)
Thoạt tiên, đạo Ki-tô chống
bạo lực và hiếu hòa. Việc bài xích
trò chơi "giác đấu" [gladiators] là một thí
dụ cụ thể. Nhưng từ thời Constantino, chủ trương
bạo lực gia tăng. Từ
1095 tới 1291, các giáo hoàng mở khoảng 10 cuộc
"thánh chiến" [crusades] tấn công vương quốc
Byzantine
(theo đạo Islam hay Muslim). Dân Jews bị thảm
sát tại
Rhineland (1096), England [Bri-tên] (1290), và
Pháp
(1306). Các cuộc chinh phạt "kẻ phản đạo" cũng
tạo nên
nhiều cơn binh lửa như tại Pháp năm 1229.
Sang thế kỷ XV, thần quyền
Vatican
lùi bước dần trước thế quyền. Dân trí ngày
một dâng cao qua những phát kiến khoa học và kỹ
thuật, cùng kiến thức mới về những phần đất khác
trên thế giới cũng như vũ trụ. Trong khi đó giáo
hoàng, hồng y hay giám mục, linh mục–những lãnh
đạo tinh thần mà ai cũng đoan chắc vô cùng
thánh thiện, đạo đức, tự nguyện cắt bỏ đời sống
tình dục,
dù không do bẩm sinh hay giải phẫu trên thân
thể–tạo nên nhiều tai tiếng. Họ tham nhũng, hối
mại thần quyền,
có hầu thiếp, con rơi, hay ngoại tình. Eugene IV
(1431-1439), Sixtus IV (1471-1484) hay Alexander
VI (1492-1503) mang
tai tiếng nhất. Dẫu vậy, Vatican vẫn còn ảnh
hưởng tại
các quốc gia có truyền thống Ki-tô mạnh. Các
giáo hoàng đầu tiên thời Phục Hưng [Renaissance]
còn dùng thần quyền để phân phối những vùng
đất "mọi rợ" mà Portugal và Espania xâm chiếm ở
duyên hải Tây Phi Châu (1416) hay Mỹ châu. (25)
Từ thế kỷ XIV, những cuộc tranh
luận
thần học–chống Vatican–ngày một mạnh. Ðáng kể
nhất
có Wycliffe (1320-1384) ở England và John Huss ở
Bohemia
(bị đốt cháy năm 1415). Martin Luther
(1483-1546) chủ trương chỉ
có niềm tin đạo mới mang đến sự giải thoát,
chẳng cần
trung gian của giáo hội. Luther tấn công quyền
lực của
giáo hoàng, chống điều kiện độc thân của
giáo sĩ, và thúc dục mọi người tự nghiên cứu
thánh kinh (một điều đang bị cấm đoán), rồi bản
thân dịch thánh kinh qua tiếng Ðức vào khoảng
năm 1525. Tác phẩm 95 Luận Ðề Chống Lại Sự
Tha Tội
(Ninety-Five Theses Against Indulgences, 1517)
[của giáo
hội] khiến Luther bị "rút phép thông công"
năm 1520. (Indulgences, tức Sự Tha Tội,
là độc quyền của
giáo hoàng. Trong thời Trung cổ, vì cần tiền,
một
số giáo hoàng đã cho phép con chiên
tội lỗi chuộc bằng tiền để được lên thiên đường,
tránh cõi địa ngục. Có giáo hoàng
còn cho phép dùng tiền chuộc tội cho cả người
chết)
Các phong trào chống lại
độc quyền của giáo hội liên lũy lan rộng. Khởi
đi
là cuộc nổi dạy của nông dân Germany năm 1524,
rồi
đến những cuộc giao tranh liên miên suốt hơn một
thế kỷ kế
tiếp. Cao điểm của phong trào này là học thuyết
của Charles R. Darwin (1809-1882), tức thuyết
tiến hóa,
và nhất là Karl Marx (1818-1883), sau này thường
được biết như communism, dịch qua tiếng Việt
thành "Cộng Sản"
(góp chung tài sản). Thuyết tiến hóa chống lại
thuyết sáng tạo của Ki-tô và như thế phủ nhận
chúa hay "Tạo vật." Marx, dựa theo vật bản, cáo
buộc
tôn giáo nói chung và Ki-tô nói
riêng như "thuốc phiện tinh thần." Trong khi đó,
một số
học giả và văn nghệ sĩ nêu lên khía cạnh kinh
tế, kể cả thương mại, của tôn giáo. Ðã
có nhiều tác phẩm nói về dịch vụ xây
thánh đường hay khả năng quyên góp tài sản
của những người sắp chết, v.. v... như thành
tích thăng
tiến trong giáo hội. Và, dĩ nhiên, còn những
thông tin chẳng mấy trong lành về sự đối đãi
các đoàn thể hay cá nhân hành hương
đến thánh địa.
Giáo hội tìm mọi
cách phản ứng. Trong khi các nhà thần học lo
biện
bạch rằng Mỹ châu là "lục địa đã mất," nên
không được chép trong thánh kinh, các
giáo mục triều cấm đoán, dọa nạt, hạ ngục và đầy
ải những nhà toán học và thiên văn học
cùng lý thuyết bị kết án "sai lầm" của họ.
Trường
hợp nhiều người biết nhất là thuyết "trái đất
quay quanh
mặt trời", vì điều này trái ngược lời giảng dạy
của giáo hội, tức "mặt trời quay quanh trái đất"
theo
thuyết của nhà thiên văn và địa lý học
Ptolemy (thế kỷ II). Hàng triệu sách vở, tài
liệu
"rối đạo" bị thiêu hủy, ngăn cấm. Những
"Inquisition" [Tòa
án dị giáo] tạo nên bao thảm kịch đẫm máu
trong ba thế kỷ XVI-XVIII. Hàng ngàn người bị hạ
ngục,
tra tấn, hay thiêu sống. Người Jews, dĩ nhiên,
trở
thành đối tượng chính. Giáo hoàng Pius XII
(1939-1958) ít nhiều liên hệ đến việc Adolf
Hitler
và đảng Nazi thảm sát hàng triệu dân Jews
trong Thế chiến thứ II (1939-1945). Mãi tới John
Paul II
(1978-2005) mới xóa bỏ tội giết Chúa của dân
Jews.
Nhưng tinh thần bài Jews [anti-Semitism] chưa
chấm dứt. Những
đại trí thức của thế giới–nhất là Darwin và
thuyết
tiến hóa–bị công kích mãnh liệt. Vatican
cũng phát động nhiều cuộc thánh chiến chống cộng
sản
vô thần. Tinh thần bài trí thức trở thành
một đặc điểm của Ki-tô giáo từ thời điểm này.
(Vì trí thức là giai tầng duy nhất đủ can đảm
và khả năng tấn công vào những thành
trì dầy phủ rong rêu, sỉn tanh dấu máu nạn
nhân bao quanh những trung tâm thần quyền).
Vào đầu thế kỷ XXI, những
trường
phái nghiên cứu cổ thư xuất hiện trước thế kỷ
thứ III,
đã bị giáo hội thiêu hủy và nghiêm
cấm, như Da Vinci Codes, hay việc diễn
giải các tư liệu
khảo cổ khai quật tại hang mộ gia đình Jesus of
Nazareth ở
Jerusalem năm 1980 qua cuốn phim tài liệu The
Lost Tomb of
Jesus [Ngôi mộ đã mất của Jesus]–những tư
liệu phủ
nhận thuyết thăng thiên [ascension] và phục sinh
[resurrection] nền tảng của tín lý Ki-tô
Vatican–từng gây sôi nổi dư luận. Những vụ án
xách nhiễu tình dục của các tu sĩ tại Mỹ, khiến
nhiều hơn một giáo khu đầy quyền lực phải tuyên
bố
phá sản để trốn trách nhiệm dân sự (hộ) là
những giọt nước tràn ly đầu tiên của hiện tượng
thoái trào của thần quyền Vatican.
Các vương triều Việt trước
Pháp thuộc dùng tiếng "Ba Lan," "Hoa Lan," "Hoa
Lang,"
"Gia-tô" (Da-tô) để gọi đạo này. Cũng có
người đặt tên đạo Ki-tô là Thiên Chúa,
Thập tự giáo hay Cơ đốc. Thông thường giáo
dân Ki-tô tự xưng là người bên đạo, có
đạo hay đi đạo, hoặc, người công giáo. Sau khi
ký
Hiệp ước Việt-Pháp 1874, Tự Ðức đặt ra danh từ
"Giáo
dân" để gọi người theo đạo Ki-tô (thay cho từ dữ
dân); và "Bình dân" để chỉ những người
khác. (26)
Người đầu tiên đưa Ki-tô
giáo đến Ðại Việt là giáo sĩ Portugal. Năm
1510, Portugal chiếm Goa ở India, và năm sau,
Malacca tại
bán đảo Malaya, trung tâm truyền đạo Muslim ở
Viễn
Ðông. Từ hai địa bàn này, các
giáo sĩ theo thuyền buôn tới Á Châu. Gaspard
de Santa de Cruz, thuộc dòng Dominican (St
Dominique), có
thể đã đến Ðại Việt vào khoảng năm 1550-1555.
(27)
Những chuyến truyền giáo đầu
tiên đến Ðàng Trong (1580) và Ðàng
Ngoài (1581) thường ngắn hạn, mang tính cách
dò dẫm, khai phá. Qua thế kỷ XVII, công tác
truyền giáo mới thường trực, từ ba trung tâm
Macao, Manila
và Malacca. Dù đế quốc Portugal, và rồi Espania,
suy yếu dần, mở đường cho sự thăng tiến của
Bri-tên, Holland
[Dutch, hay Hòa Lan], Pháp và Prussia (Phổ), mức
độ truyền giáo ngày càng gia tăng.
Những cuộc nội chiến liên
miên tại Ðại Việt trong thế kỷ XVI-XVIII tạo cơ
hội cho
các cố đạo mở rộng hoạt động. Ðây là sự trao
đổi hàng hóa/kỹ thuật chiến tranh Trung cổ Tây
phương với giới chức cầm quyền. Ngoài ra, cuộc
bài đạo ở
Nhật khiến giáo sĩ và giáo dân Nhật
tìm đến nampo [biển Nam], tạo nên một
cộng đồng
Ki-tô ở Hội An. Theo giáo sĩ Christoforo Borri,
vào
thập niên 1620, Hội An khá lớn; có 2 dãy
phố–một của quan chức nhà Minh chạy trốn nhà
Thanh; một
của giáo dân Nhật tị nạn chiến dịch bài đạo.
(28)
Trong khi truyền đạo, các
giáo sĩ mang vào Ðại Việt những cụm văn hoá
Ki-tô, cùng một số kiến thức mới về thiên văn,
khoa
học và y dược thường thức. Nhiều linh mục dòng
Jésuites như Siebert (Germany), Slamenski
(Hungary),
Sébastien Piès (Portuguese), Jean Koffler
(Espania),
cùng Duff (Bri-tên) từng phục vụ tại Huế như y
sĩ
riêng của chúa Nguyễn hoặc phụ trách thiên
văn. Có người còn tham gia chiến dịch tấn công
Chân Lạp (Kampuchea). Ðược ưa chuộng nhất là
khí giới cùng quân nhu, quân cụ. Tuy
nhiên, cuộc giao lưu–hay, nếu muốn, xâm lăng–văn
hoá
này thường phát triển ở vùng duyên hải,
cùng những địa phương có mật độ dân số quá
cao, đông người nghèo khổ.
Trở ngại ngôn ngữ và văn
hoá biến giáo sĩ thành những nhà nhân
chủng [anthropologist] và ngôn ngữ [linguist]
đầu
tiên
nghiên
cứu
về
dân
tộc
Việt,
dẫu
tài
tử
nhưng thực dụng. Sau thời gian dài giảng đạo
bằng hình
ảnh, hay ra dấu bằng tay chân cùng những ngôn
ngữ
thân thể, rồi dạy tiếng Latin cho thày kẻ giảng
[cathechists]
bản
xứ,
giáo
sĩ
[cố
đạo]
Portugal
và
Italia
sáng
chế
ra lối chữ viết sử dụng mẫu tự Latin (tức chữ quốc
âm)
để
huấn
luyện
các
cộng
sự
viên.
Gaspar
d’Amaral
(Portugal)
soạn tự điển Việt-Bồ, và Antonio Barbosa
(Italia), hoàn
thành tự điển Bồ-Việt. Loại chữ viết này–như con
gnoo
muon bau tlom laom hoalaom chiam [con nhỏ
muốn vào nằm
lòng Hoa Lang chăng]–được cải thiện dần.
Thừa hưởng công trình
làm việc liên lũy của các đồng nghiệp tiền
phong,
Rhodes cải thiện loại chữ viết mới, và giới
thiệu về đất nước
Việt với Âu Châu. Trong thập niên 1650, Rhodes
hoàn tất một số tác phẩm như lịch sử xứ Ðàng
Ngoài, tự điển tam ngữ Việt, Latin, Portuguese [Dictionarium
Annamiticum
- Lusitanum et Latinum], hay tập giáo lý
bằng tiếng Latin và Việt [Cathechismus/ Phép
giảng
tám ngày], đã lưu hành từ năm 1624.
Tác phẩm cùng sự vận động
của Rhodes khiến năm 1659, Alexandre VII
(1655-1667) cử Francois Pallu
(1626-1684) và Pierre Lambert de la Motte
(1627-1693) làm
đại diện Vatican tại Trung Hoa và vùng lân
cận–một
bước cơ bản cho việc thiết lập Hội truyền giáo
hải ngoại
Pháp năm 1663. Tuy nhiên, Lambert de la Motte
đặt căn cứ ở
Xiêm, chỉ ghé thăm Ðại Nam ba lần vào
các năm 1669, 1671 và 1676. Linh mục Bénigne
Vachet (1641-1720) và Guillaume Mahot
(1630-1684) mới thực sự
sống ở Ðàng Trong. Vachet truyền giáo tại
Ðàng Trong từ 1673 tới 1684, rồi qua Xiêm, và
dẫn sứ đoàn Xiêm tới Paris. Mahot chết ở Hội An
khoảng năm
1684. (29)
Khi Ki-tô giáo truyền
vào Ðại Việt, giai tầng văn thân-nho sĩ–đã nắm
ưu thế từ triều Lê Thánh Tông (1460-1497) và
giữ độc quyền giáo dục cùng chính trị–ra
công bài bác. Từ huyền thoại phục sinh và
thăng thiên của Giê-Xu, lời rao giảng bình đẳng
trước "Chúa Bl’ời," tới cách tổ chức các cộng
đồng
giáo dân, và vai trò lãnh đạo nhiệt
thành của các giáo sĩ, hàm chứa một
thách thức trực diện sự hiện hữu của chính giai
tầng văn
thân. Trong ba thế kỷ XVI-XVIII có tới hơn 15 dụ
cấm đạo
của các chúa Trịnh, Nguyễn và nhà Tây
Sơn. (30)
Ngoài ra, Ki-tô giáo
chống lại những phong tục cổ truyền như thờ cúng
tổ tiên,
hoặc thịnh hành đương thời như đa thê, v.. v...
Clement XI
(1700-1721) từ năm 1715, và Benedict XIV
(1740-1758), qua sắc dụ Ex quo Singulari
năm 1742, tuyệt cấm giáo
dân lễ kính tổ tiên, cho đó là dị
đoan. Năm 1939, Pius XII mới ra Summi
Pontificus, cho
phép tín đồ dự những lễ nghi kể trên nhưng dụ
này chỉ áp dụng tại Nam Việt Nam từ năm 1974–khi
viễn ảnh
chiến thắng của Cộng Sản đã rõ ràng. (31)
Theo tài liệu truyền giáo,
một số người trong các giòng chúa Nguyễn và
Trịnh đã theo đạo. Thành tích này có
thể khiến ngộ nhận rằng Ki-tô giáo du nhập Ðại
Việt từ
thượng tầng xã hội rồi quảng bá dần xuống đại
chúng. Thực tế, đạo Ki-tô phát triển theo chiều
hướng thượng–từ dưới lên trên. Với duyên hải hơn
2,000 cây số, Ðại Việt mở ra cho các nhà truyền
giáo nhiều cửa ngõ ven biển mà đại đa số dân
cư sống bằng nghề chài lưới. Sau đó, tới những
thị trấn
đặt các sở buôn Âu châu. Vận tốc truyền
giáo chậm lại khi muốn phát triển vào những
vùng đất trù phú, hay các thành thị.
Một trong những lý do là sau hơn ngàn năm Bắc
thuộc và 600 năm độc lập, nền văn hoá cổ truyền
Việt
đã tổng hợp ba nguồn tư tưởng ngoại nhập khác là
Phật, Lão, và Khổng thành một thể khối khá
vững. Từ triều Lý (1009-1226), Trần (1226-1400)
đã
có những kỳ thi tam giáo để chọn nhân tài
(1195, 1247). Trong khi đó, thần học nhất nguyên
của
Ki-tô coi bất cứ ai không theo Ki-tô là "ngoại
đạo" hay "ác quỉ" (paiens hay demons).
Thuật ngữ "Infidels"
hàm ý một thứ tội lỗi tinh thần và đạo đức. Bởi
thế, tại Ðại Việt, sự phân chia Giáo (người theo
đạo
Ki-tô, hay dữ dân) và Lương (không theo đạo
Ki-tô) khá rõ ràng. Thập niên 1860,
một giáo sĩ Pháp từng nhận xét các
tín đồ Ki-tô Việt sống như những người ngoại
quốc
trên chính quê cha, đất tổ của họ.
Cho tới thập niên 1850, các
cộng đồng Ki-tô phát triển về bề sâu hơn bề
rộng.
Tổng số giáo dân Ki-tô chẳng bao giờ vượt quá
5% dân số. Vào hạ bán thế kỷ XIX, các
giáo sĩ vẫn phải dùng tiền mua trẻ mồ côi hay
con
các gia đình nghèo khổ để tăng gia tín đồ.
(32)
Về tổ chức, trước năm 1844, chỉ
có ba giáo khu [vicariat apostolique]:
Ðàng Trong, Tây Ðàng Ngoài và
Ðông Ðàng Ngoài. Ranh giới giữa hai
giáo khu do Pháp và Espania cai quản ở
Ðàng Ngoài là sông Hồng và
sông Lô. Năm 1844, giáo khu Ðàng Trong
chia thành Tây (bao gồm Sài Gòn và
Kampuchea), và Ðông (trụ sở tại Qui Nhơn). Năm
sau
nữa, giáo khu Ðàng Ngoài Tây cũng
tách đôi làm Tây và Nam. Vào
đầu triều Tự Ðức, toàn quốc có 8 đơn vị.
Ðàng Ngoài gồm 4 giáo khu: Tây và
Nam, do Pháp điều khiển; Trung (Giữa) và Ðông,
do Dòng Ða Minh (St Dominique) Espania trách
nhiệm.
Tại Ðàng Trong chia làm Cambodge [Kampuchea],
Tây, Ðông và Bắc. Cả 4 khu đều thuộc Hội truyền
giáo Pháp. Mỗi giáo khu có ngân
sách riêng, và không ngừng được tăng cường
cán bộ mới từ mẫu quốc. Ðại đa số các Giám mục
và "cha xứ" (linh mục chánh xứ) là người Âu.
Rất ít người bản xứ được thụ phong linh mục.
Phần lớn chỉ được
tước hiệu phó tế hay thày kẻ giảng. Không ít
người chỉ được dạy học thuộc lòng những câu thần
chú bằng tiếng Latin để rửa tội cho người sắp
chết.( 33)
(Còn tiếp )
Vũ
Ngự
Chiêu
[Trích: Các
Vua Cuối
Nhà Nguyễn, 1883-1945]
Phụ chú:
1. Có 3 khuynh hướng chính
trong việc diễn giải chính sách thực dân của
Pháp ở Ðông Dương: chính trị, kinh tế và
văn hoá (truyền giáo). Chúng tôi nghĩ cả ba
yếu tố trên đều có những tác động mạnh, tùy
theo từng thời điểm.
2. Tự Ðức lên ngôi
ngày 3/10 năm Ðinh Mùi, tức 10/11/1847, nhưng
niên hiệu Tự Ðức chỉ có hiệu lực từ Nguyên
đán Mậu Thân (5/2/1848); Quốc sử quán, Ðại
Nam Thực Lục Chính Biên, bản dịch Viện sử
học, 38 tập
(Hà Nội: 1963-1978),. Ðệ tứ kỷ [IV], tập 28, tr.
35-36 [Sẽ
dẫn: ÐNTLCB]. Chính xác hơn, nên ghi
theo miếu hiệu Nguyễn Dục Tông (1848-1883). Vì
khối sử văn
thế giới thường chỉ biết đến niên hiệu Tự Ðức,
chúng
tôi tạm dùng tên này. Ða tạ Giáo
sư Mai Quốc Liên đã mua giúp tập Lịch Vạn
Niên: Âm lịch Dương lịch đối chiếu, 0001-2060
của
Lê Quí Ngưu biên soạn (3 tập, ấn bản 2004),
giúp điều chỉnh lại một số ngày tháng chính
xác hơn, khi chuyển từ lịch Trung Hoa sang Tây
lịch.
3. Napoléon III, cháu của
Napoléon Bonaparte (1799-1804), đắc cử Tổng
thống Ðệ Nhị
Cộng Hoà Pháp năm 1848. Cuối năm 1852, Napoléon
tự
lập làm vua, và cai trị tới năm 1870 thì bị bắt
trong trận chiến Pháp-Phổ (1870-1871). Sau trận
này,
Napoléon III phải từ chức và cắt đất
Alsace-Lorraine cho
Phổ. Napoléon III chết năm 1873, hai năm sau
ngày "Paris
công xã," đưa đến việc thiết lập nền Ðệ tam Cộng
Hoà Pháp (1871-1940).
4. Năm 1164, Hiếu Tông nhà Nam
Tống mới cho Ðại Việt hưởng vị thế một quốc gia,
do một quốc vương
cầm đầu; Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư (1679)
bản
dịch Cao Huy Giu (Hà Nội), I, tr. 289; Quốc sử
quán, Khâm
Ðịnh
Việt
Sử
thông
giám
cương
mục
(1884), bản
dịch Việt ngữ của Viện sử học, 2 tập (Hà Nội:
Thuận Hóa,
1998), CB V:12-13, 1998, I:412-413. [Sẽ dẫn:
KÐVSTGCM]. Theo Tống
thư
[Sung
shu], năm 1174 Lý Cao Tông (1176-1210) mới
được chức An-nan kuo wang [An Nam Quốc
vương]; Ibid., I, p.
351, chú 25; Lê Tắc, An Nam Chí Lược
(Huế:
1961), tr. 67. Ngô Thời Sĩ ghi là tháng 2 năm Ất
Mùi (23/2-23/3/1175); Ðại Việt Sử Ký Tiền
Biên (1800), bản dịch Dương Thị The et
al.
(Hà Nội: Viện nghiên cứu Hán Nôm, 1997), tr.
293. Về những địa danh khác, xem KÐVSTGCM,
TB
V:17-18, CB III:20, V:12, 1998:I:183, 337. Xem
thêm "Cochin
China;" The North American Review, vol.
18, no. 42 (Jan 1824),
tr. 141-142; Alexander B. Woodside, Vietnam
and the Chinese Model,
A Comparative Study of Nguyễn and Ch’ing Civil
Government in the First
Half of the Nineteenth Century (Cambridge,
MA: Harvard Univ Press,
1971), tr. 120-121 [Sẽ dẫn: Woodside 1971].
5. Xem, Vũ Ngự Chiêu, "The Other
Side
of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of
Vietnam (April-August
1945);" Journal of Asian Studies (Ann
Arbor, MI), Feb 1986;
Idem, "Vài vấn nạn lịch sử thế kỷ XX;" Hợp
Lưu (Fountain
Valley, CA), số 84, 8-9/2005, tr.155.
6. Thư ngày 12/2/1778 và
15/2/1778, Chỉ huy trưởng Chandernagor gửi
Bellcombe; Tài liệu 2
và 3, trong Gaudart, "Les archives de Pondichéry
et les
entreprises de la Compagnie Francaise des Indes
en Indochine, au
XVIIIè siècle;" Bulletin des Amis de Vieux
Hué
[Ðô thành hiếu cổ], XXV:4 (10-12/1937),
tr.
364-370; Encyclopedia Britanica; dẫn
trong The North
American Review, vol. 18, no. 42 (Jan
1824), tr. 141. Poivre để lại
nhiều di cảo, gom thành Oeuvres complètes
[Toàn tập] (Paris: Fuchs, 1797). Chúng tôi chưa
được tham khảo tập này. Xem thêm H. Cosserat,
"La route
mandarinale de Tourane à Hué;" BAVH, VIII, no. 1
(1-3/1920), p. 6].
7. Quốc hiệu Xiêm La (Thái Lan
từ năm 1938) chính thức ghi vào sử Trung Hoa đời
nhà Minh (1368-1628). Nhờ chính sách ngoại giao
mềm dẻo của dòng vua Chakri, tức Mongkut hay
Rama IV (1851-1868)
và Chulalongkorn (1868-1910), Xiêm được Bri-tên
và Pháp chọn làm quốc gia trái độn qua
Hoà ước 1896.
8. Ba nghiên cứu hữu dụng về Phật
Giáo Việt Nam gồm Tran Van Giap, "Le Bouddhisme
en Annam," Bulletin
de
l’Ecole
Francaise
d’Extreme-Orient
[B.E.F.E.O.] (1932), XXXII,
pp. 191-268; sẽ dẫn Giap (1932); Thích Mật Thể,
Việt Nam
Phật Giáo Sử Lược (Ðà Nẵng: 1960 Thich
Thien An, Buddhism
and
Zen
in
Viet-Nam
in
Relation
to
the
Development
of
Buddhism in Asia (Tokyo:
1975).
Xem
thêm
Nguyễn Tài Tư, et al., Lịch sử Phật
Giáo Việt Nam (Hà Nội: Khoa học Xã hội,
1991);
Erik Zurcher, The Buddhist Conquest of
China, revised ed., 2
vols (Leiden: 1972), pp. 10, 13-15.
9. Ðã có nhiều
nghiên cứu về Lão-Trang trên thế giới.
10. De Barry, Sources,
I:17.
11. Analects, VI:9;
DeBary, I:24;
Nguyễn Hiến Lê, Luận ngữ, tr. 84.
12. Analects, XI:8;
DeBary, Sources,
I:22; Siêu, tr. 138. Xem thêm những lời Hồi ca
ngợi
Khâu trong Analects, IX:10; DeBary, Sources,
I:24-5; Siêu, 119.
13. Trần Trọng Kim, Nho Giáo,
II:80-81, 96.
14. KÐVSTGCM (Hà-nội),
TB III:17-19, IV:1-2, 1998, I:151-152 [Lưu
Trầm],167-168;
[Sài-gòn 1970], II:138-141; ANCL, 1961:94, 159,
240-241;
15. KÐVSTGCM, VI:29-30, 1998,
I:470.
16. ÐVSK Tiền biên, 1997:497.
17. Ibid. [ÐVSK Tiền biên,
1997:497].
18, KÐVSTGCM V:26, 1998,
I:425
[Tháng 2 năm Ất Mão [14/3-11/4/1195], Lý Cao
Tông bắt đầu mở kỳ thi tam giáo chọn người ra
làm
quan]; ÐVSKTB, 1997:323 [1227 [Ðinh
Hợi]: Trần
Thái Tông mở khoa thi Tam giáo tử [Thích,
Lão, Nho]. Tháng 8 Ðinh Mùi [1247]: Trần
Thái Tông cho thi tam giáo]. CM, VI:30, 1998,
I:470-471.
19. Xem, chẳng hạn, đoạn Tam Hợp
đạo
cô luận về 15 năm truân chuyên của Kiều; Vân
Hạc, Nguyễn Du, Truyện Kiều Chú Giải,
tr. 519-529.
20. ÐNTLCB, II, 7:179,
22:265,
284.
21. Lưu ý là chúng
tôi không dùng thuật ngữ "công nguyên"
để chỉ năm khởi đầu Tây lịch. Thuật ngữ này hàm
ý loại bỏ mọi giá trị văn hóa trước ngày
Giê-Xu ra đời.
22. Maria (Mary), vợ Joseph, khác
với Mary Magdalane mà nhiều tác giả cho là vợ
Jesus, sinh ra cho Jesus một con trai là Judah.
Tên ghi
trên sáu trong mười bình đựng hài cốt của
"gia đình Jesus, con Joseph" tìm thấy năm 1980
tại
phía Nam Jerusalem–được trắc nghiệm theo DNA, là
những
nhân danh quen thuộc trong Tân Ước Kinh: Jesus,
Maria,
Matthew (Matia), Joseph, Mary Magdalane và
Judah. [Nhà
sản xuất James Cameron cùng đạo diễn Simcha
Jacobovici thực hiện
thành bộ phim tài liệu The Lost Tomb of Jesus
[Ngôi
Mộ Bị Bỏ Quên của Jesus], chiếu trên Discovery
Channel
ngày Chủ Nhật, 4/3/2007]
23. Năm 1984, Liên bang Mỹ
chính thức nối lại bang giao với Vatican, sau
khi Quốc Hội Mỹ
rút lại đạo luật năm 1867 (cấm liên hệ ngoại
giao với
Vatican). Israel và Vatican cũng bình thường hóa
ngoại giao từ ngày 30/12/1993. (Năm 2007, Cộng
Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chưa có bang giao với
Vatican)
24. NYT, 3/5/2001; AP,
5/5/2001.
25. Xem Phụ Bản I.
26. ÐNTLCB, IV, 33:122-123. Có
nhiều
cách
giải
thích.
"Truyện
ngoại
quốc"
trong
Minh
Sử
cho
rằng
"Hoa Lang [di]" là Hòa Lan [Holland], tập tục
đọc sai thành Hoa Lang; KÐVSTGCN, q. 33, 5-6;
II:300-301.
Trần Trọng Kim giải thích bốn chữ "học Hoa Lan
đạo" khắc
lên trán giáo dân Ki-tô từ năm 1712
xuất xứ từ "Hoà Lan" [Holland]; Việt Nam Sử
Lược, ấn bản Hoa Kỳ
(1980?), II:100 [Sẽ dẫn VNSL]. Xem thêm Huồn,
1965, I:46-47.
Giáo sư Woodside nghĩ rằng "Hoa Lang" là tiếng
dùng chung cho các nước Tây phương, có lẽ
mượn từ tiếng "farang" của Xiêm la, có
nghĩa
"người da trắng;" Woodside, 1971:246. Một tác
giả Pháp
cho rằng Ba Lan là do cách đọc chữ Hoa thành
"Ba"
của người thiểu số Việt ở vùng biên giới. Trong
một thư
gửi công sứ Nhã Nam bằng chữ Nôm, Hoàng Hoa
Thám cũng tự xưng là Hoàng Ba Thám.
Có người cho rằng đây là kỵ húy nhà
Nguyễn (mẹ Thiệu Trị tên Hoa, nên phải đổi tên
Thanh
Hoa thành Thanh Hoá!)
27. Bonifacy, Le débuts du
Christianisme en Annam: Dès origines au 18è
siècle
[Sự khởi đầu của Ki-tô giáo tại An-Nam: Từ
nguyên
thủy tới thế kỷ thứ XVIII] (Hanoi: 1930), tr.
16; dẫn trong Hồng Lam, Lịch
sử
đạo
thiên
chúa
ở
Việt
Nam,
thế
kỷ
XVI-XVIII (Huế:
Ðại Việt, 1944), tr. 4. Léonard Cadière, người
chú giải sách Hồng Lam, cho rằng Santa de Cruz
tới Lovek
(kinh đô Chân Lạp) và Ðàng Trong năm
1555; Ibid., 1944:116, 154-158. Những nghiên cứu
về sự du nhập
của Ki-tô (Gia tô) giáo vào Ðại Nam
khá nhiều. Xem, chẳng hạn, Nicole Dominique Lê,
Les
missions étrangères et la pénétration
francaise au Vietnam (Paris: Mouton,
1975); Cao Huy Thuần, Les
missionnaires et la politique coloniale
francaise au Vietnam (1857-1914)
(New Haven: Council on Southeast Asia Studies,
1990); Patrick J. N.
Tuck, French Catholic Missionaries and the
Politics of Imperialism
in Vietnam, 1857-1914: A Documentary Survey (London:
Liverpool
Univ. Press, 1987); Piero Gheddo, The Cross
and the Bo-Tree,
trans. by Charles U. Quinn (New York: Sheed
& Ward, 1970); David G.
Marr, Tradition on Trial, 1981:82-88,
121-122, 145-146,
266-267, 403; Nguyên Vũ, "Góp phần vào việc
nghiên cứu Petrus Key;" trong Ngàn Năm Soi
Mặt
(Houston: Văn Hóa, 2002), tr. 157-269, và Phụ
bản; Ibid.,
2002:389-396; Chính Ðạo, Cuộc thánh chiến
chống
Cộng (Houston: Văn Hóa, 2004). Về quan
điểm của các
nhà truyền giáo, xem F. Romanet du Caillaud, Essai
sur
les Origines du Christianisme au Tonkin et
dans les autres pays
annamites [Bàn về nguồn gốc Ki-tô giáo ở
Ðàng Ngoài và những vùng đất
An-nam-mít khác] (Paris: Challamel,
1915); Adrien
Launay, Histoire générale de la Société
des Missions étrangères, 3 tập (Paris:
1884),
và Histoire de la mission de Cochinchine,
1658-1823;
documents historiques, 3 tập (Paris:
1923); Võ Ðức Hạnh, La place du catholicisme
dans les relations entre la
France et le Vietnam, 2 tập (Leiden:
Brill, 1969). Về quan điểm của
Cộng Sản, xem Etudes vietnamiennes, No.
53 (1978). Tài
liệu chúng tôi sử dụng phần lớn gồm tài liệu văn
khố Pháp, kể cả văn khố Hội Truyền giáo Pháp
[ASME
(Paris)].
28. Christoforo Borri, Cochin-China:
A
Relation of the Kingdome of Cochin-China
(London: 1633), reprinted
by Da Capo Press in 1970.
29. Léonard Cadière, "Le
Voyage en ‘Sinja’ sur les côtes de Cochinchine
au XVIIè
siècle;" BAVH, VIII, nos. 1-4 (1921),
pp. 15-29; Cao Huy
Thuần, 1990:9-11. Vachet để lại hồi ký Mémoires
de
Bénigne Vachet (Paris: 1865), nhưng chúng
tôi
chưa được tham khảo bản gốc.
30. KÐVSTGCM, q. 33, 5-6;
II:300-301 [Chúa Trịnh, 1663], II:373 [Trịnh
1696], q.34:35,
XVI:63; (1698), II:373); q.35:10-11, II:400-401
[Trịnh 1712], Ibid.,
q.41:24, II:626-627 [Trịnh 1754], q.44:9,
II:708-709 [Trịnh 1773];
ÐNTLTB, 1:68 [Nguyễn 1635] I:153 (Nguyễn 1698),
I:154 [Nguyễn,
1699]. Tài liệu truyền giáo ghi thêm: [Trịnh,
1630]
(Rhodes 1650:187-188); (Trịnh, 1643); [Nguyễn,
1625], [Nguyễn, 1629],
[Nguyễn, 1639], [Nguyễn 1705], [Nguyễn 1750].
31. Rhodes 1650:187-188; Huồn,
1965, I:90,
319.
32. Năm 1857, Pellerin ước lượng
rằng
Cochinchine (hiểu theo nghĩa Ðại Nam) có 32
triệu dân,
mà 600,000 người là Ki-tô; SHM (Vincennes), GG2
44,
carton 3. Ðáng lưu ý là gần một thế kỷ sau
nữa, năm 1933–tức 400 năm sau ngày đạo Ki-tô du
nhập
vào Ðại Việt và hơn một thế kỷ sau ngày vua
Minh Mạng cấm đạo–Việt Nam mới có Giám mục đầu
tiên
là Jean Baptiste Nguyễn Bá Tòng (quê ở
Gò Công, Nam Kỳ, nhưng cai quản Phát Diệm tới
năm
1945)
33. ASME (Paris), Lettre
commune [LC]
14/4/1850. Xem thêm Yoshiharu Tsuboi, Nước
Ðại Nam đối
diện với Pháp và Trung Hoa, 1847-1885
[L’Empire
vietnamien face à la France et à la Chine],
bản dịch
Nguyễn Ðình Ðầu (Sài Gòn: 1990), tr.
61-62. [Sẽ dẫn: Tsuboi 1990]. Một số tác giả
Việt đã lầm
lẫn dịch chữ "Tonkin" trong tên đặt các giáo khu
thành "Bắc Kỳ."
Phụ Bản I:
Tóm Lược Các Thánh
Lệnh Phân Chia Thế Giới
Dudum cum ad nos (1436) và
Rex Regum (1443) của Eugene IV
(1431-1439, 1439-1447 [antipope
Felix V (1439-1447]); Divino amore communiti
(1452) và
Romanus Pontifex (8/1/1454) của Nicholas
V (1447-1455), Inter
caetera (1456) của Callistus III
(1455-1458), Aeterni Regis (1481)
của
Sixtus
IV
(1471-1484);
và
nhất
là
những
giáo
lệnh (Papal bulls) của Alexander VI
(1492-1503) trong hai năm
1493-1494, như Inter caetera ngày
3-4/5/1493, và
Dudum siquidem ngày 23/9/1493. (Inter
caetera
ngày 4/5/1493 in trong Corpus của Luật
tòa
thánh Ki-tô, tức the Catholic canon law);
H.
Vander Linden, "Alexander VI and the Demarcation
of the Maritime and
Colonial Domains of Spain and Portugal,
1493-1494" [Alexander VI
và sự phân chia lãnh hải và thuộc địa giữa
Es-pa-ni-a và Pooc-tiu-gơn, 1493-1494];" American
Historical
Review [AHR], Vol. XXII, No. 1 (Oct
1916), pp. 1-20; John Fiske, The
Discovery
of
America, 2 vols (Boston: Houghton,
Mifflin & Co.,
1892), I:324-6, 454-68; Phụ bản B, II:580-93.
Sắc lệnh ngày 8/1/1454, ban cho
vua
Portuguese tất cả những lãnh thổ khám phá ra
"trong vùng đại dương tới những vùng phía Nam
và Ðông" mà các vua theo đạo Ki-tô
chưa hề tìm thấy hay sở hữu. (Alguns
Documentos do Archivo
Nacional da Torre do Tombo [Lisbon: 1892],
tr. 15-6; dẫn
trong Linden 1916, tr. 12)
Sắc lệnh ngày 21/6/1481 của Sixtus
IV lập lại những sắc lệnh kể trên, và phê chuẩn
hòa ước Alcacovas năm 1479 giữa Espania và
Portugal
(Linden 1916, tr. 12n28)
Sắc lệnh của các giáo
hoàng (bulls) ban cho vua Ki-tô người
Portuguese
những "quyền" sau tại các vùng đất chiếm
đóng được ở Africa: (1) chủ quyền lãnh thổ tại
những
vùng mới khám phá ra hoặc chiếm đóng; (2)
quyền được giáo hội ban phép lành; (3) quyền
được
thu thuế [tithes] tại những vùng đất mới; (4)
quyền được truyền
giảng đạo Ki-tô; và (5) quyền bắt thổ dân làm
nô lệ. Ngoại trừ điều khoản bắt thổ dân làm nô
lệ trong các sắc lệnh trên, nội dung của các sắc
luật Alexander V ban phát (grant and donation)
cho Espania cũng
tương tự. Có 3 khuynh hướng diễn giải về vai trò
của
Giáo Hoàng và Giáo Hội: (a) Giáo
hoàng chỉ là người trọng tài trong cuộc tranh
chấp
Espania-Portuguese; (b) Giáo Hoàng là chánh
án tối cao giải quyết sự tranh chấp giữa Espania
và
Portugal; và (c) Giáo hoàng chẳng có quyền
lực gì, chỉ chấp nhận một thực tế. Tuy nhiên, do
hiệp ước
ngày 7/6/1494, Espania đồng ý nhượng cho
Portugal xứ
Brazil (Brê-ziêu); tức đường ranh giới thế giới
dời về
hướng Tây 10 kinh độ (từ khoảng 36’30 Tây tới
46’30
Tây, tương đương với 270 hải lý), cách bờ Tây
quần đảo Cape Verde khoảng 370 hải lý]
Machiavelli, trong The Prince,
nhận
định: "Alexander VI luôn luôn, và ông ta chỉ
luôn nghĩ tới, lừa bịp người ta, và ông ta
luôn luôn tìm thấy nạn nhân cho sự lừa bịp của
mình." ( Chúng tôi sử dụng bản dịch George Bull
(Baltimore: Penguins Books, 1961), chapter 18,
tr. 100.
Liên
Hệ
Việt
Nam
Và
Pháp
Trước
1858
(phần
2)
|
|
|
II.
NHỮNG
NGƯỜI
PHÁP
ÐẦU
TIÊN
TỚI
VIỆT
NAM:
Dĩ nhiên, liên
quân Pháp-Espania (Y Pha Nho hay Tây Ban
Nha)
và 13 chiến hạm dưới quyền Phó Ðô Ðốc
Charles Rigault de Genouilly tiến vào
vụng Trà Sơn
(Ðà Nẵng) cuối tháng 8/1858 không phải
là những người Pháp đầu tiên đặt chân
tới
nước Việt. Từ thế kỷ XVII, các nhà phiêu
lưu
Pháp đã tìm tới. Họ gồm 4 nhóm
chính: giáo sĩ Ki-tô, lính đánh
thuê, thương gia, và sĩ quan hải quân
mang sứ mệnh
"ngoại giao chiến thuyền." Dù muốn chăm
lo cho linh hồn người
bản xứ, đam mê làm giàu hay thỏa mãn
chí khí của thế hệ mình, những người
Pháp
trên đã trực hoặc gián tiếp giúp các
chính phủ Paris thiết lập nền bảo hộ Ðại
Nam.
A.
GIÁO SĨ:
Dưới thời Pháp thuộc,
Alexandre de Rhodes (A Lịch Sơn Ðắc Lộ,
1591-1660), thuộc
dòng Tên (Jesuite), được xưng tụng có
công
đầu trong việc giảng đạo và thành lập
Hội truyền
giáo hải ngoại Pháp, hay Hội thừa sai.
Rhodes đến Ðại
Việt năm 1626, khi cuộc nội chiến giữa
hai họ Trịnh và Nguyễn
vừa bùng nổ. Ở Ðàng Trong khoảng một
năm, Rhodes ra
Ðàng Ngoài. Năm 1630, Trịnh Tráng trục
xuất
Rhodes vì nghi làm gián điệp, liên hệ
với
giòng dõi họ Mạc (1527-1593) ở Cao Bằng
cùng họ
Nguyễn ở phía Nam. Mười năm sau, Rhodes
trở lại Ðàng
Trong. Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi,
1613-1635) trục xuất, nhưng Rhodes vẫn
trở lại thêm ba lần, trước
khi rời Hội An năm 1645. (34)
Như đã lược nhắc, nhiều
giáo sĩ Ki-tô người Âu đã tới Ðại Việt
trước Rhodes. Quốc sử nhà Nguyễn còn ghi
từ triều Mạc một
giáo sĩ Portuguese [Bồ Ðào Nha] là
I-nê-xu (Ignatio hay Ignace) đã đến
truyền đạo tại miền
ven biển thuộc Giao Thủy và Nam Chân,
tỉnh Nam Ðịnh
ngày nay.(35)
Người ghi công đầu
trong
việc đưa Ki-tô giáo từ ngoại vi xã hội
vào
sâu sinh hoạt chính trị và văn hoá Việt
Nam
là Pierre [Pedro] Pigneau de Béhaine
(1741-1799). Thụ
phong Giám mục Adran năm 1774 khi đang
điều khiển một tiểu chủng
viện ở Kampuchea, từ năm 1777 [hoặc
1780] Pigneau đã đầu tư
vào Nguyễn Chủng (còn có tên Noãn,
hay Ánh), trong cuộc nội chiến với nhà
Tây Sơn
(1778-1802). (36) Năm 1783, Nguyễn Chủng
ủy thác Pigneau mang
con trai lớn là Cảnh, lúc ấy mới 4 tuổi,
đi cầu viện
Pháp. Vì nhiều lý do, Pigneau và Cảnh
phải
sống ở Kampuchea gần 2 năm mới qua được
Pondichéry vào
tháng 2/1785. Tại đây, hai Quyền Thống
đốc Coutenceau
d’Algrains và Tử tước [Vicomte] de
Souillac chống lại tham vọng
chính trị của Pigneau. Cuối cùng, tháng
7/1786,
Ðại tá Charpentier de Cossigny mới thuận
cho Pigneau đưa
Cảnh qua Pháp. Ngày 5/5/1787, Louis XVI
tiếp Pigneau
và Cảnh tại Versailles. Hơn 6 tháng sau,
Pigneau
nhân danh Nguyễn Chủng ký với Ngoại
trưởng Armand-Marc de
Montmorin-St-Hérem (2/1787-7/1789) Hoà
ước 28/11/1787,
cắt cho Pháp bán đảo Tourane [Ðà Nẵng]
và Poulo Condore [Côn Sơn]; cho Pháp
thiết lập trạm
buôn và căn cứ Hải quân dài theo bờ
biển; đổi
lại, Pháp sẽ giúp 1,500 quân, chiến hạm,
khí
giới để đánh nhau với Tây Sơn. (37)
Ngày 27/12/1787,
Pigneau
rời Lorient qua Isle de France
(Maurice). Ngoại trưởng Pháp tặng
tiền, và tăng phái cho một ít sĩ quan.
Pigneau
thành lập ở đây một đạo thánh chiến
quân,
mang sang giúp Chủng. Ngày 18/5/1788,
Pigneau trở lại
Pondichéry. Nhưng Bá tước, Trung tướng
Thomas de Corway
[Conway]–từng tham chiến ở Mỹ và bị dính
líu
vào một âm mưu phế lập tại đây–từ chối
cấp binh
thuyền cho Pigneau. Quyết định này dựa
trên mật lệnh từ
Louis XVI ngày 2/12/1787, là "Tùy nghi
hành
động để thành lập một cơ sở ở Ðại Việt;
làm sao để
vừa ít tốn kém vừa được nhiều lợi
nhuận." Ðồng
ý với de Conway, tháng 7/1788, Tổng Giám
đốc thuộc
địa De Vaires cho ngưng cuộc viễn chinh.
Ngày 16/11/1788, Bộ
trưởng Hải quân De la Luzerne cũng tán
thành, đề
nghị cấp một tàu hạng trung đưa Hoàng tử
Cảnh đến bất cứ
nơi nào ông ta muốn; phần Pigneau có thể
cho về
nước. Louis XVI chấp thuận. (38)
Trong thời gian Pigneau
tìm
phương tiện giúp Nguyễn Chủng, tại Ðại
Việt tình
hình cực kỳ sôi động.
1. Ngày 18/1/1785,
Nguyễn
Huệ đánh tan chiến thuyền Xiêm do Nguyễn
Chủng cầu viện về
ở Trà Suốt (Mỹ Tho). Ngày 9/4/1785,
Chủng chạy sang
Xiêm cầu viện lần thứ hai; nhưng Rama I
chẳng còn
hùng tâm giúp đỡ. Xiêm La lại đang hiềm
khích với Diến Ðiện. Năm 1786, khi Diến
Ðiện sai 3 đạo
quân sang đánh Xiêm, Rama I phải nhờ
Chủng đi chống
cự. (39)
2. Mùa Hè 1786,
Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc, nêu danh
nghĩa "phò
Lê, diệt Trịnh." Ngày 21/7/1786,
chiếm Hà Nội.
Trịnh Khải [Ðống] tự tử. Huệ đưa Lê Duy
Kỳ (Chiêu
Thống, 1786-1788) lên ngôi. Hai năm sau,
do giòng
giõi chúa Trịnh muốn khôi phục quyền
lực, rồi đến
Nguyễn Hữu Chỉnh và Võ Văn Nhậm [Sĩ?]
lộng quyền, Huệ lại
ra Bắc. Duy Kỳ bỏ chạy, xuống hịch chống
Tây Sơn; mẹ trốn qua
Trung Hoa cầu viện. Tháng 10/1788, vua
Thanh sai Tôn Sĩ
Nghị đưa Duy Kỳ về nước. Mang quân thuộc
bốn tỉnh Hoa Nam, chia
làm 2 cánh tiến vào đất Bắc. Ngày
17/11/1788, Nghị vào tới kinh đô. Ðược
tin,
ngày 22/12/1788 (25/11 Mậu Thân) Nguyễn
Huệ tự xưng
Hoàng đế ở Phú Xuân, lấy niên hiệu Quang
Trung, rồi mang quân ra Bắc. (Một tài
liệu khác ghi
ngày 8/11/1788, tức 11/10 Mậu Thân)
Trong dịp Tết Kỷ Dậu
(1789), Huệ đánh tan liên quân Thanh-Lê,
nhất
thống lại lãnh thổ Ðại Việt cũ. (40)
3. Trong khi đó, nhân
cơ hội anh em Tây Sơn bất hòa, ngày
13/8/1787
Nguyễn Chủng trốn khỏi Bangkok về nước.
Lực lượng xung kích
là đạo quân "lê dương," qui tụ
đủ loại hải
tặc, thổ phỉ người Âu, Hoa, Miên, Xiêm,
Tagals. Kiệt
hiệt nhất có Hà Hỉ Văn, người Tứ Xuyên,
Trung Hoa,
thuộc Bạch Liên giáo, lúc ấy làm
ăn
ở vùng Côn Lôn và Vịnh Xiêm La.
Ngoài ra, còn Nguyễn Văn Tồn, gốc Trà
Vinh, một
cựu nô lệ ở Nam Vang, đóng góp khoảng
3,000
lính Khmer, và Vinh Ma Ly, một hải tặc
Xiêm.
Tháng 12/1787, Chủng mang chiến thuyền
đánh Cần Thơ.
Nguyễn Lữ chạy lên Biên Hòa, rồi về Qui
Nhơn.
Ngày 7/9/1788, Chủng chiếm lại Sài Gòn.
Thái bảo Tây Sơn là Phạm Văn Sâm [Tham]
rút giữ Ba Thắc, rồi xin hàng. Chủng làm
chủ miền
Nam từ đó. (41)
4. Một trong những lý
do
giúp Nguyễn Chủng hồi phục mau chóng là
thế lực
Tây Sơn ngày một suy yếu. Sau khi từ Bắc
trở về, anh em
Tây Sơn bắt đầu bất hòa. Nguyễn Huệ mang
quân
đánh Qui Nhơn. Nguyễn Nhạc phải lên
thành kêu
gọi, Huệ mới lui binh. Lấy Bến Ván làm
ranh giới. Huệ cai
trị từ phủ Thăng, phủ Ðiện ra Phú Xuân.
(42)
Thực tế Ðại Nam hẳn ít
nhiều ảnh hưởng trên quyết định của các
viên chức
Pháp. Ngày 15/3/1789, sau khi nhận được
báo
cáo của thuộc viên được gửi qua Ðại Việt
thám
thính, Conway trình lên Bộ Hải Quân rằng
đảo
Poulo Condore và Hội An vô giá trị; phí
tổn
viễn chinh khó thể đền bù bằng thu nhập
trong một thời
gian ngắn. Bởi thế, ngày 16/4/1789, Bộ
Hải Quân
thông báo cho Pigneau biết không thể có
cuộc
viễn chinh Ðại Việt. Thư này không đến
tay Pigneau
vì ngày 15/6/1789, Pigneau đã lên tàu Méduse
qua Gia Ðịnh. (43)
Tiếp đó, tại Pháp
cách mạng 1789 bùng nổ. Dân chúng truất
phế
Louis XVI, thành lập chế độ Quân chủ lập
hiến [cho tới
ngày 10/8/1792]. Tháng 10/1789, Hội Ðồng
Quốc Gia (Conseil
d’Etat) Pháp bác bỏ việc yểm trợ
Chủng theo đề nghị
của Charpentier de Cossigny, cựu Thống
đốc Pondichéry.
Tại Ðại Việt, Pigneau
và Hoàng tử Cảnh về tới Gia Ðịnh ngày
24[28?]/7/1789. Nguyễn Chủng phong
Pigneau làm Ðạt Mệnh
Ðiều Chế Tần Thủy Bộ Viện Binh, Giám mục
thượng sư.
Lính đánh thuê Pháp lục tục kéo tới,
tăng cường cho đạo Lê dương đủ quốc tịch
của Chủng. (44)
Sự đóng góp lớn nhất
của Pigneau là hệ thống các giáo sĩ và
giáo dân Ki-tô. Bởi thế, sau cái chết
đột
ngột của Quang Trung ngày 14/9/1792–cái
chết khiến
có người nghi các giáo sĩ Ki-tô đã
nhúng tay–ngày 26/3/1795, Giám quốc Bùi
Ðắc Tuyên lại cấm đạo. Nhà thờ Ki-tô bị
biến
thành trại lính. Lệnh này chỉ bị bỏ sau
khi
Võ Văn Dũng làm đảo chính, buộc tội
Tuyên
chuyên quyền, giết đi. (45)
Nhờ ảnh hưởng Pigneau,
năm 1793
Cảnh được phong chức Ðông Cung Thái tử.
Nhưng hiềm
khích giữa Pigneau cùng các đại thần
Việt, kể cả
một thân vương em Nguyễn Chủng, cũng gia
tăng. Cái chết
bệnh của Pigneau tại cửa biển Thị Nại
ngày 9/10/1799–một năm sau
ngày công bố "phép lạ La Vang"–và
rồi
chứng bệnh đậu mùa lấy đi mạng sống Cảnh
tại Gia Ðịnh
gần hai năm sau (20/3/1801), bóp tắt
giấc mộng tạo nên một
vua Ki-tô hoặc thân Ki-tô của Pigneau và
các nhà truyền giáo.( 46)
Nhưng công lao của
Pigneau
phần nào được đền bù–trong ba thập niên
đầu của
nhà Nguyễn, các cộng đồng Ki-tô có dịp
phát triển mạnh. Tại Tây Ðàng Ngoài,
giáo dân tăng gần gấp đôi từ 1795 tới
1825 (hơn
100,000 lên khoảng 200,000); Ðông Ðàng
Ngoài tăng từ 133,751 năm 1804 tới
163,101 năm 1825, tức 22%;
Ðàng Trong tăng từ 47,000 năm 1795 lên
60,000 năm
1821.(47)
Dĩ nhiên, các
giáo sĩ chưa thỏa mãn. Họ không hài
lòng với chính sách tôn giáo của Gia
Long tại Bắc Kỳ, khi vua cho lệnh phải
xin phép quan địa phương
nếu muốn sửa chữa nhà thờ, chùa chiền
v.. v.. "để bớt tổn
phí cho dân, mà giữ phong tục thuần
hậu."
Riêng về đạo Ki-tô, "dân các tổng xã
nào có nhà thờ đổ nát thì phải
trình quan trấn mới được tu bổ, dựng nhà
thờ mới
thì đều cấm." (48)
Họ cũng chẳng hài
lòng việc Gia Long chấn hưng Khổng giáo
để tạo thế
chính thống tại nội địa, trước tinh thần
hoài Lê
của sĩ phu miền Bắc. Họ ngầm ủng hộ con
Cảnh là Hoàng
tôn Ðán lên chức Thái tử, và chống
lại Hoàng tử thứ tư là Ðảm, người được
sự yểm trợ của
phe nho sĩ bảo thủ trong triều. (49)
Trong khi các nhà
truyền giáo từng trải qua thời kỳ bài
đạo vui hưởng giai
đoạn hòa bình mới, những giáo sĩ trẻ–vì
những lý do khác nhau–không ưa Thái tử
Ðảm (Minh Mạng). Họ luôn luôn báo động
về một
lệnh bài đạo sắp ban hành và sự
"vô
ơn" của Thái tử. Những Jean
Taberd, Francois
Régéreau, rồi Pierre Retord, Joseph
Marchand,
Cuénot, Havard, v.. v... đưa Minh Mạng
và người kế vị
vào thế một mất một còn với Ki-tô giáo.
B.
LÍNH ÐÁNH THUÊ PHÁP:
Dù không phải
là những lính đánh thuê Âu châu
đầu tiên đến Ðại Việt–nhóm thánh chiến
quân do Pigneau tuyển mộ vào cuối thế kỷ
XVIII thủ diễn
vai trò khá quan trọng trong cuộc nội
chiến
Nguyễn-Tây Sơn. (50)
Pigneau tiến cử cho
Nguyễn vương
nhóm người Âu ưa phiêu lưu, mạo hiểm này
từ
thập niên 1780. Ba người đầu tiên là
Manuel (Mạn
Hoè), Gia Ðố Bi và Ma Nộ E, gốc
Portuguese. Năm 1782,
Manuel tự tử khi chiến thuyền bị Tây Sơn
vây đánh.
Gia Ðố Bi và Ma Nộ E chết trên đường đi
Philippines.
Pigneau đã dùng cái chết của họ để khích
động dư luận trong chuyến qua Pháp cầu
viện năm 1787.
Dẫn đầu đợt lính
đánh thuê thứ hai là Victor Olivier
(Ô-li-vi)
de Puymanel–một binh nhì đào ngũ mới 20
tuổi, được Chủng
cho chức Khâm sai cai đội (ngũ phẩm) và
quốc tính
(họ tên do vua ban) Nguyễn Văn Tín. Ngày
15/9/1788,
Thống đốc Pondichéry cử Olivier cùng
linh mục Paul [Bảo
Lộc] Hồ Văn Nghị theo tàu Dryade
thám
thính miền Nam. Sau khi Chủng chiếm lại
Sài Gòn,
Olivier và Paul Nghị mang 1000 khẩu súng
tới tăng viện.
Từ năm 1789, Olivier phụ trách pháo và
công
binh. Mùa Hè 1792, được phong Thuộc nội
Vệ úy
(chánh tam phẩm), đi sát bên Pigneau và
Cảnh. Năm 1794, cùng Phan Văn Triệu, Lê
Văn Duyệt theo
Ðông cung đi Diên Khánh. Ba năm sau,
theo Cảnh
tới Quảng Nam, đóng thuyền tam bản đánh
hỏa công.
Hai lần được tước Khâm sai đi mua vũ khí
ở Hồng Mao (1795)
và Hạ châu (1799). (51)
Cùng tháp
tùng Pigneau qua Sài Gòn năm 1789 có 14
sĩ
quan và khoảng 80 binh. Ðáng kể nhất là
Philippe Vannier (Nguyễn Văn Chấn,
1762-1842, hạm trưởng tàu Phụng),
Félix
d’Ayot,
Dominique
Desperles,
Godefoy
de
Forcanz
(Lê
Văn
Lăng,
coi
tàu
Bằng Phi), Jean Marie d’Ayot (chỉ
huy
tàu Ðồng Nai và tàu Prince
de
Cochindrine, đặc trách vận tải và
mua tàu,
27/6/1790), Julien Girard de l’Isle
Sellé (hạm trưởng Prince
de Cochindrine, 27/6/1790),
Théodore Lebrun, Guillaume
Gouilloux. Trong hai năm 1791-1792, một
số người bỏ đi Macao hay
Pondichéry, như Lebrun (1791), Félix
d’Ayot (em J.M.
d’Ayot), Gouilloux, v.. v... Năm 1793,
Olivier chỉ huy bộ binh,
và J.M. d’Ayot, de Rhedon, Vannier,
d’Auray ngành thuyền.
Năm 1795, toán
Lê-dương gốc Âu còn khoảng 40 người.
Những người mới
gồm Jean Baptiste Chaigneau (Thắng toán
hầu Nguyễn Văn Thắng,
hạm trưởng tầu đồng Phi Long,
1794), Trung úy Charles
Stanislas Lefèbvre [Le Fèvre], cháu
Pigneau,
cùng nha sĩ Jean Marie Despiau (1795).
Nhưng tháng
3/1795, d’Ayot bị trục xuất qua Manila.
(52)
Ngoài ra, còn hai
người Bri-tên, Ba-lang-hi và Laurent
Barizy (Ba-la-di hay
Nguyễn Văn Mân). Barizy–Lorient Barisy,
người Pháp, theo
tài liệu truyền giáo–là tay phiêu lưu
chuyên nghiệp, có khả năng sáng tạo của
một
nhà văn, ghi lại sống động những trận
hải chiến giữa Tây
Sơn và nhà Nguyễn. Nhưng công việc chính
yếu
của Barizy là tìm mua khí giới và
quân cụ ở các thuộc địa Tây phương như
Singapore,
Goa và Malacca. "Khâm sai thuộc nội cai
đội" Barizy hợp
tác làm ăn với các công ty Bri-tên ở
Madras, và kiếm được một số vốn đáng kể.
(53)
Theo tài liệu Pháp,
đóng góp quan trọng khác của nhóm người
Âu là xây đắp thành trì. Tháng
4/1790, Olivier, Lebrun và Vannier giúp
xây
thành Gia Ðịnh, trên bờ phải sông Sài
Gòn, từ Rạch Bến Nghé (Arryoro Chinois)
tới Rạch Thị
Nghè (Arryoro de l’Avalanche). Thành xây
theo kiểu
Vauban, nhưng pha chế kiểu "bát quái"
(tám cửa)
của Trung Hoa. Hơn 60 năm sau, thành này
giúp
nhóm phản loạn Bế Văn Cận (bị Minh Mạng
đổi tên
thành "Lê Văn" Khôi), Joseph Marchand,
Nguyễn Văn
Chắm, cầm cự với quân triều đình hơn hai
năm, từ 1833 tới
1835. (54) Vẫn theo tài liệu Pháp, nhóm
Olivier
còn giúp xây các thành Diên
Khánh, Châu Ðốc, Hà Tiên, Biên
Hòa, Bà Rịa, v.. v...
Phần nhờ sự tiếp tay
của đạo
lính đánh thuê này, phần vì cả hai
vua Quang Trung và Thái Ðức nối tiếp
nhau từ trần
trong hai năm 1792 và 1793, đưa đến sự
tranh quyền giữa
giòng giõi Tây Sơn, Nguyễn vương dần dần
đả bại
được đạo tinh binh từng đuổi Xiêm
(1785), phá Thanh
(1789), lừng lẫy khắp Ðông Nam Á.
Sau khi Pigneau chết,
nhóm
Olivier, Chaigneau, Vannier, và de
Forcanz tiếp tục ở lại.
Ít lâu sau, Olivier chết tại Malacca vì
bệnh kiết
lị (dysentery).
Tháng 2/1800, nghĩ rằng
người Bri-tên giỏi thủy chiến, Nguyễn
vương cho Barizy tập họp
binh thuyền, chuẩn bị quân nhu, chiến cụ
để mở chiến dịch giải
vây Qui Nhơn. Nhưng ít tháng sau, Barizy
bị tố
cáo tham ô, ăn chặn lễ vật và mưu sát
hạm
trưởng người Bri-tên Henderson, bị đeo
gông, hạ ngục ở Gia
Ðịnh. Nhờ sự can thiệp của Thái tử Cảnh,
Barizy được miễn
tội. Cai đội Chaigneau, Vannier và de
Forcanz theo trung
quân đánh giặc, tham dự những trận hải
chiến ở Thị Nại
và Thuận An, khi Tây Sơn có chiến thuyền
trang bị
từ 50 tới 60 đại bác. Sau khi Chủng tái
chiếm Phú
Xuân ngày 13/6/1801, Vannier, Chaigneau
và de
Forcanz đều được thăng cai cơ. Phần
Barizy được phái đi mua
súng đạn, chuyến công tác cuối cùng.
Ngày 17/9/1803, Giám mục Labartette cho
Paris biết
là Barizy đã chết một năm trước. (55)
Từ năm 1803, Chaigneau
và
Vannier, với chức Chưởng Cơ, phụ tá
Nguyễn Ðức Xuyên
coi ngoại thương (cai tàu vụ).
Vai trò Chaigneau
có vẻ vượt thắng, sau khi dịch sách toán
Tây
phương và thiên văn cho Gia Long vào mùa
Thu
1804. Ít năm sau, Chaigneau còn dịch
sách Macao
và lịch Pháp. (56)
Là những tín đồ
Ki-tô bảo hoàng, Chaigneau và Vannier
ước mơ thắt
chặt quan hệ Pháp-Việt và không dấu sự
bất
mãn với thái độ bài Ki-tô của giới
thân cận Thái tử Ðảm. Vannier cũng chỉ
trích
Ðảm thiếu tín nghĩa, đa nghi và bài đạo.
Sau
ngày Gia Long chết, Minh Mạng còn bị
buộc tội là
vô ơn, và bần tiện. Chiến dịch tuyên
truyền chống
Minh Mạng và Khổng giáo–được đại diện
bằng những quan lại
mồm bỏm bẻm nhai trầu, hút thuốc rê,
móng tay
dài cong, ít khi tắm rửa hay thay quần
áo, cộng
thêm hành động gian tham, xách nhiễu
quyền lực với
khách buôn Tây phương–khiến thiên đường
hạ
giới Onam một thời bị hạ cấp thành một
xứ "giáp ranh sự
mọi rợ." (57)
Do việc Minh Mạng từ
chối nhận
Chaigneau làm Lãnh sự của vua Louis
XVIII, Chaigneau
và Vannier xin về nước. Ngày rời Việt
Nam bị đình
hoãn tới cuối năm 1824 vì chiến tranh
Pháp-Espania, và phần nào vì Vannier
muốn
kiếm thêm ít lợi tức dưỡng già qua phần
hoa hồng
mà công ty ở Bordeaux hứa hẹn. Minh Mạng
cho cả hai
hàm Chưởng cơ, và mỗi người 6,000 quan
tiền. Hơn một năm
sau, Vannier giới thiệu Cormier
[Cormière hay Cốt Tu Mi], hạm
trưởng Le Courrier de la Paix,
mang hàng hoá tới
Ðà Nẵng. Triều thần muốn gửi trả, nhưng
Minh Mạng vẫn nhận,
trả đủ 7,680 lạng, vì "Chấn [Vannier] là
tôi tớ nay
nghỉ việc về nước mà còn nghĩ đến ơn
nuôi dưỡng mấy
chục năm của triều đình, nay cách xa
muôn dặm
dâng lòng thành, hiền lao vẫn như thuở
trước." Lại
giảm 50% thuế cảng; cùng gửi quà tặng và
thư cho
Vannier và Chaigneau. (58)
Chưởng cơ Forcanz chết
năm 1811. Y
sĩ Despiau chết vì dịch tả (cholera)
tại Huế vào
cuối năm 1824.
Ở thời điểm này,
nhóm phục hưng chính giáo đã thống trị
triều chính. Nguyễn Ðức Xuyên xin hồi
hưu rồi từ trần
ít tháng sau. Trịnh Hoài Ðức thay nắm ty
Thương Bạc được ít tháng cũng từ trần,
Trần Văn Năng
lên thay. Sự nghi kỵ người ngoại quốc và
chiến dịch
bài Minh Mạng của các giáo sĩ khiến vua
không tuyển mộ thêm các cố vấn Âu châu.
Vì nhu cầu thông dịch ngoại ngữ, năm
1826, vua mời ba
giáo sĩ tới Huế để làm việc trong Hành
nhân
ty–nhưng bị đánh giá như dấu hiệu đàn áp
Ki-tô giáo.
C.
THƯƠNG GIA:
Nhiều thập niên sau khi
thuyền buôn Portuguese ghé hải cảng Ðại
Việt, thương
gia Pháp mới tìm đến. Năm 1672, dưới
triều Trịnh Tạc
(1657-1682), một công ty Pháp hoạt động
ở Phố Hiến (Hưng
Yên). 14 năm sau, Verret lập trạm buôn
trên Côn
đảo, chỗ ngừng chân của thuyền buồm đi
lại giữa Trung Hoa
và vùng biển Nam. Nhưng từ đầu thế kỷ
XVIII, hầu hết
thương gia ngoại quốc đều rời Ðại Việt.
Suốt hơn thế kỷ kế
tiếp, thương
gia Pháp chỉ quan tâm đến Âu châu, Mỹ
Châu, India, Trung Hoa cùng những hải
đảo thuận lợi cho
việc khai khẩn quặng mỏ hay đồn điền (plantation)
để cung cấp
các nông phẩm mang lại lợi nhuận cao như
thuốc lá,
ớt, hồ tiêu, cà-phê hay cao su. Trung
Hoa, dưới
ngòi bút và chuyện kể của những người
phiêu
lưu mạo hiểm như Marco Polo, trở thành
địa đàng [Eldorado]
của
những
tay
muốn
làm
giàu–nguồn
tài
nguyên
thiên
nhiên
vô
tận, và một thị trường đầy
cám dỗ. Chỉ cần mỗi người Trung Hoa mỗi
năm tắm một lần bằng
xà-phòng thơm, hay đánh răng bằng loại
kem ngoại
hóa, chẳng hạn, số xà-phòng và kem
đánh răng tiêu thụ mang lại lợi tức
khổng lồ. Nếu mỗi
người Hoa hút một điếu thuốc thơm mỗi
ngày, số thuốc cần
nhập cảng lên tới 7.3 tỉ gói hàng năm.
Bởi thế,
Việt Nam chỉ ở vai trò thứ yếu, một thứ
trạm ngừng chân
tiếp tế lương thực và nước ngọt. Năm
1744, chi nhánh Công
ty
Ấn
Ðộ
Pháp
[Compagnie
Francaise
des
Indes] ở Canton
gửi Jacques O’Friell tới Huế, mua được
giấy phép buôn
bán của Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765)
với
giá 9600 roupies. Tuy nhiên,
O’Friell không
thuyết phục được Dupleix, Tổng Giám đốc
công ty ở
Pondichéry, hay Roth, cấp chỉ huy trực
tiếp ở Canton, vào
Ðại Việt làm ăn. Những năm kế tiếp, các
giáo
sĩ thường kiêm chức đại diện thương mại
của công ty
Pháp. Sau chuyến đi thất bại của Linh
mục Poivre năm 1749-1750,
Dupleix gửi Giám mục Bénnetat mang thư
riêng qua
Huế, với một cựu thông ngôn của Poivre,
và được
phép lập sở buôn ở Tourane. (59)
Mãi tới năm 1776 liên
hệ giữa Pondichéry và Ðại Việt mới được
nối lại. Năm
1777-1778, đại diện Pháp trên tàu Diligente
và Le Lauriston có dịp chứng
kiến cảnh quân
Tây Sơn tàn phá Quảng Nam. Một đại diện
Bri-tên, Charles Chapman, cũng hiện diện
cùng tàu Rumbold,
mang về Calcutta Linh mục Jean de
Laureiro (Loreiro), y sĩ riêng
của Nguyễn Vương, cùng một đại thần Ðàng
Trong. Nhưng
cả Calcutta lẫn Madras không tán thành
việc
giúp chúa Nguyễn.
Trong thời nội chiến
Tây
Sơn-Nguyễn (1773-1802), thương gia Âu
châu làm
giàu bằng cách bán vũ khí cho cả hai
phe.
Hưởng nhiều lợi nhuận nhất là các công
ty
Bri-tên ở Madras, Johore và Penang,
Dutch ở Djakarta
và Portuguse ở Macao (nhượng địa của
Portugal từ năm 1555).
Các thuyền buôn Thanh và Xiêm cũng
thường
xuyên tới Sài Gòn. Vì tình
hình chính trị nội địa và việc tranh
chấp ảnh
hưởng ở Phi và Mỹ Châu, thương gia Pháp
chỉ giữ vai
trò thứ yếu. Từ năm 1778, sau khi
Bri-tên chiếm
Pondichéry, tàu Pháp không đến Ðại Việt
nữa. (60) Thư tín trao đổi với các giáo
sĩ ở Macao
và Philippines phản ánh một thực trạng
khá ngộ
nghĩnh: vào cuối thế kỷ XVIII, trong khi
nhóm Lê
dương Pháp dần dần thao túng việc ngoại
thương của Nguyễn
Chủng–nhất là các dịch vụ mua vũ khí và
quân nhu–họ đã kiếm được tiền hoa hồng
từ các
giáo sĩ và thương gia Bồ hay Bri-tên mà
không phải người Pháp. (61)
Sau khi nhất thống sơn
hà,
vì nhiều lý do, Gia Long thay đổi hẳn
chính
sách ngoại thương: Ðó là đồng ý
buôn bán, nhưng không cho ngoại quốc đặt
trụ sở
trên đất liền. Từ năm 1803, vua nhiều
lần từ chối tiếp các
sứ đoàn Âu Mỹ đến xin ký thương ước, vì
"hải
cương là nơi quan yếu sao cho người nước
ngoài được."
(62) Năm sau, khi đại diện công ty Ðông
Ấn [East
India Company] của Bri-tên hai lần
tới Ðà Nẵng,
Gia Long lại từ chối, tuyên bố với các
cận thần:
"Tiên vương kinh dinh
việc
nước, không để người Hạ lẫn với người
Di, đó thực
là cái ý đề phòng việc từ lúc
còn nhỏ. Người Hồng Mao gian giảo, trí
trá,
không phải nòi giống ta, lòng họ hẳn
khác,
không cho ở lại." (63)
Vì vậy sau này sử
quan Nguyễn đã ca tụng "khước đồ hiếu
của Tây di" như
công lao để đời hàng đầu của vua, trên
cả những việc
"cẩn thận phòng nước Xiêm, yêu nuôi nước
Chân Lạp, vỗ về nước Vạn Tượng, uy danh
lừng phương xa,
nhân đức trùm nước nhỏ. . . ." (64)
Ðây là một thay
đổi quan trọng, cắt đứt dần quan hệ với
phương Tây mà Gia
Long từng tiếp cận nhiều thập niên–sự
tiếp cận có lẽ
quá gần với những "tôi tớ" đủ quốc tịch,
ưa say sưa, ẩu
đả; các lái súng mà sự lương thiện
là những dấu hỏi lớn; và, các nhà truyền
giáo tham vọng.
Tư liệu Nguyễn không
giúp biết rõ chi tiết những chuyến ghé
Ðà Nẵng năm 1777-1778 của Cuny và
Chapman, hay
Ðà Nẵng của Lord Macartney năm 1793. Các
chuyến đi
của John Barrow trong thời khoản
1792-1793 cũng không được ghi
nhận. (65)
Từ năm 1797, Nguyễn
Chủng
đã lãnh đạm dần với Bri-tên, một đại
cuờng quốc
thời gian này. Hơn một lần Nguyễn vương
dùng những tiếng
như "lông tóc đỏ" và "quỉ
quyệt" để
đánh giá người Bri-tên. Năm 1798, có
tàu Bri-tên đến "dâng phương vật,"
nhưng rồi
xảy ra biến cố Barizy đi mua vũ khí, bị
chiến thuyền
Bri-tên Non Such bắt giữ. Mặc dù
tàu
và thủy thủ được trả lại an toàn, Chủng
có
thêm lý do để nghi ngờ Bri-tên. (66)
Sự thay đổi thái độ
này phần nào do dịch vụ cung cấp vũ khí
và
đạn dược trong thời chiến không cấp
thiết nữa. Trong khi
đó, vua không khỏi nhức đầu vì những chủ
nợ cũ. Sau
cái chết của Barizy, đại diện công ty Abbott
&
Miatland ở Madras ít nhất ba lần
đã tới Huế
đòi thêm tiền bán khí giới. (67) Thêm
nữa, từ Manila, anh em d’Ayot liên lạc
lại với Huế–rao giảng tin
đồn Napoléon Bonaparte đang liên kết các
nước
Âu châu đánh Bri-tên.
Tưởng nên nhấn mạnh,
triều
đình độc quyền việc ngoại thương. Vua
nhập cảng những gì
cần thiết cho chế độ như vũ khí, vải
vóc, dược phẩm
cùng vật dụng dành riêng cho giới quí
tộc
và quan lại. Ðồng thời độc quyền thu mua
và xuất cảng
những mặt hàng mà thị trường ngoài nước
ưa
thích. Ðại đa số dân chúng phải sử dụng
hàng nội hóa, ngoại trừ thuốc "Bắc,"
trà,
sâm, sách, giấy mực, v.. v... Thuế cảng
(nhập bến), thuế
đánh trên hàng hóa và tiền "ba lễ"
[dâng hoàng thái hậu, dâng vua, dâng
hoàng thái tử] quá cao. Các thuyền
buôn ngoại quốc đến làm ăn–chủ yếu là
Bri-tên, Macao, Xiêm và Thanh–phải theo
luật lệ mới.
Ðó là chưa nói đến khoảng cách lớn giữa
luật pháp và việc thực thi, linh động
theo nhu cầu "cải
thiện" cho các viên chức và môi giới. Từ
năm
1803, ngoại thương chỉ còn diễn ra tại
các hải cảng chọn
lọc: Nam Ðịnh, Hà Nội, Ðà Nẵng, Huế, Sài
Gòn và Hà Tiên. Riêng tàu
Âu châu chỉ được ghé Ðà Nẵng và
Sài Gòn. Mọi giao tiếp với dân chúng bị
tuyệt cấm. Bởi thế, gần cuối đời Gia
Long, việc ngoại thương giảm hẳn.
Tàu Macao không đến nữa. (68)
Ðể điền vào chỗ trống,
vua sử dụng "Thanh nhân" làm giai tầng
trung gian
(lãnh trưng) mọi lĩnh vực–từ khai mỏ,
thầu thuế chợ,
chuyên chở, tới cung cấp nhu yếu phẩm
như thuốc Bắc, vải
vóc, v.. v... (69)
Riêng với Pháp, Gia
Long cũng xa cách dần. Ðầu năm 1790, đã
viết thư cho
chính phủ Pháp, trách móc Tướng de
Conway
và phủ nhận giá trị của hòa ước
Versailles 1787,
giao cho chính Pigneau dịch qua Pháp
ngữ. (70) Từ 1817
tới 1819, một số tàu Pháp mới tới buôn
bán ở
Ðà Nẵng và Sài Gòn. Ðó
là các tàu Le Henry [Henri?] của
công ty Philippon et Cie. (tới
Ðà Nẵng
tháng 12/1817 và 11/1819), La Rosse
của
hãng Balguerie, Sarget et Cie.,
Le Courrier de la
Paix, v.. v... Các tàu này đều
được Chaigneau
và Vannier tiếp và giúp đỡ, nhưng Gia
Long
không tiếp kiến.
Ðăng quang ngày
14/2/1820–đúng Tết Canh Thìn–Minh Mạng
chỉ tiếp tục
chính sách người "Trung Quốc" không ở
lẫn với di
địch. Những nỗ lực của Pháp xin ký
thương ước–trên
bối cảnh bành trướng ảnh hưởng của
Bri-tên (qua công
ty East India) tại Diến Ðiện
(Burma), Xiêm, Malaya
và Hoa Nam–đều thất bại. Khi Chaigneau
từ Pháp trở về Huế
ngày 17/5/1821, Minh Mạng đồng ý cho ở
lại; nhưng
không công nhận vai trò lãnh sự của
Chaigneau, và không muốn quan hệ với một
nước Ðại
Tây nào. Vua chỉ nhận thư Louis XVIII,
và trả lời
bằng Hán ngữ, sau khi Vannier và
Chaigneau đe dọa xin hồi
hương. (71)
Mọi nỗ lực ngoại giao
của
Pháp sau ngày Chaigneau và Vannier về
nước đều
không thành công. Ðầu năm 1825, Nam tước
Henri
de Bougainville và chiến hạm Thétis
mang theo thư
Louis XVIII tới Cửa Hàn; có hải phòng
hạm Espérance
tháp tùng, Minh Mạng không cho tiếp
kiến. Vua giải
thích:
Nước Phú Lãng Sa
cùng Anh Cát Lợi thù nhau, năm trước
nước Anh
Cát Lợi đã nhiều lần dâng lễ, trẫm đều
từ chối
không nhận, nay chẳng lẽ lại cho Phú
Lãng Sa
thông hiếu! Song nghĩ khi đức Hoàng khảo
ta [Gia Long]
bước đầu bôn ba từng sai thái tử Anh Duệ
[Cảnh] sang nước
họ, cũng có ơn cũ, nếu vội cự tuyệt thì
chẳng phải
là ý mến người xa. Rồi sai làm thư của
thương bạc
và thưởng cho mà khiến về. "Quốc thư và
lễ vật
thì không cho trình dâng." (72)
Tháng 1/1826, Pháp
lại cử Eugene Chaigneau, cháu của Jean
B. Chaigneau, làm
Lãnh sự, đáp tàu tới Việt Nam. Dù
Eugène từng qua Huế năm 1821 và ở lại
phụ tá cho
J. Chaigneau, Minh Mạng không tiếp. Bốn
năm sau, Minh Mạng vẫn từ
chối tiếp kiến khi Eugène trở lại Huế.
(73)
Ðại diện thương mại
không chính thức của Pháp là Edouard
Borel,
có cơ sở ở Ðà Nẵng. Borel cung cấp hàng
hóa cho triều đình, nhưng cũng đồng thời
tiếp tay đưa
các giáo sĩ xâm nhập Việt Nam (như
trường hợp
Cuénot, Phụ tá Giám mục Qui Nhơn). (74)
Các sứ đoàn
Bri-tên và Mỹ chẳng may mắn gì hơn. Năm
1822, sứ
đoàn John Crawfurd [Cả-la-khoa-thắc] từ
Bangkok qua Gia
Ðịnh, được Lê Văn Duyệt tiếp ngày 28/8,
và
thông báo về Huế. Nhưng tại kinh đô,
Minh Mạng
không tiếp, vì không có thư của Quốc
vương
Bri-tên. Sai Thương bạc thư cho biết
điều lệ buôn
bán ở kinh đô, Quảng Nam và Gia Ðịnh,
nhưng
không cho buôn bán ở miền Bắc. (75) Năm
sau, sứ
đoàn Diến Ðiện do George Gibson–một
người Bri-tên lai
India [Ấn độ]–cầm đầu chỉ đến được Gia
Ðịnh. (76) Một sứ giả Mỹ,
Edmund Roberts cũng hai lần ghé Việt
Nam, mang theo quốc thư của
Tổng thống Andrew Jackson (1829-1837),
để điều đình ký
thương ước. Tuy nhiên cả hai lần đều
thất bại. (77)
Hơn bốn năm sau, Minh
Mạng giải
thích chính sách ngoại thương của mình
một
cách rõ ràng hơn:
Bản triều ta, đối với
người
Tây dương: họ đến cũng không cự, họ đi
cũng không
theo, chỉ đối đãi coi như người di địch
thôi. Thuyền
Tây phương đến, không cho tiếp xúc với
dân địa
phương, bán hàng xong thì đi. Kiểm soát
chặt chẽ, không để sơ hở, họ có lòng xảo
quyệt cũng
không làm được gì. (78)
Sự hùng hổ đi tìm
thuộc địa của các cường quốc Âu Châu–qua
việc
Bri-tên chiếm Diến Ðiện (Hiệp uớc
Yandabo vào
tháng 2/1826, theo đó vua Bagyidaw cắt
cho Bri-tên
các tỉnh Assam và Manipur, trả chiến phí
5 triệu,
ký Hiệp ước thương mại, và đặt đại diện
ngoại giao),
cùng một số đảo tại bán đảo Malaya, và
hiệp ước
với Xiêm La–không đủ thức tỉnh Minh Mạng
khỏi cảm
giác phiêu diêu của lời xưng tụng như
"Văn
thì thần, võ thì thánh, rực rỡ như trăng
sao vận hành ở trên trời, cuồn cuộn như
sông
ngòi mông mênh ở mặt đất." (79)
Ðiều khó thể chối
cãi là sau Gia Long, Minh Mạng có khả
năng nhất
trong các vua Nguyễn. Vua ý thức được
nhu cầu hiện đại
hóa cũng như nhận hiểu sức mạnh kỹ thuật
và quân sự
Tây phương. Khám phá ra cái hay của
"Tây địch," từ năm 1826 Minh Mạng đã chê
trách một số đình thần là "thô lậu,"
không hiểu được rằng "bậc vương giả
là người biết lấy
cái hay của người làm cái hay của
mình"–cho
chế
xe
kiểu
Tây
phương,
tự
mình
khám
phá
ra
cách
sử dụng kính thiên văn, mua phong vũ
biểu
và hàn thử biểu, mua tàu, đại bác,
máy móc và nuôi ảo vọng tự chế biến
những
mặt hàng này bằng cách mua tàu cũ về
tháo ra để học hỏi. "Bậc vương giả" chỉ
không biết một
điều: cái hay về khoa học, kỹ thuật Tây
phương không
dễ lấy làm của mình. Nó đòi hỏi sự
tích lũy kiến thức nhiều thế kỷ, sự hy
sinh của các
nhà bác học và khoa học miệt mài
nghiên cứu, sự phát triển của kỹ nghệ và
giai tầng
chuyên viên. (80)
Những sách dịch của
các giáo sĩ và nhất là sách
báo Trung Hoa do thương thuyền đi Quảng
Ðông trở về
giúp vua phần nào mở mang kiến thức phổ
thông.
Vào cuối thập niên 1820, vua bắt đầu bàn
về những
vấn đề nan giải từ thời Khổng Khâu, như
trái đất
vuông hay tròn, mặt trời gần trái đất
vào
buổi trưa hay buổi sáng. Năm 1839, vua
chê các đại
thần chẳng biết gì về hiện tượng nguyệt
thực. Nhưng những cuộc
trao đổi ý kiến về việc sét đánh cháy
Văn
Miếu, hay chôn tượng Khổng Khâu, chỉ thờ
bài vị phản
ánh sự hiểu biết bì phu của vua về khoa
học. (81)
Cuộc xâm lăng của Xiêm
đầu năm 1834 và việc chiếm đóng
Kampuchea tiếp đó
khiến nhu cầu chiến cụ gia tăng. Vua đặc
biệt quan tâm đến vấn đề
phát triển hải quân (hải sư), đóng nhiều
tàu
và mua một số tàu "đại hiệu" bọc đồng,
chạy bằng
"máy đốt lửa" (hơi nước). Các tàu buôn
và "ghe chiến" được cung cấp địa bàn,
ống viễn
kính, đồng hồ cát, cùng các loại đại
bác mới bán trên thị trường.
Vua cũng có vẻ bớt
bài Bri-tên hơn. Quan chức tuần hải
Quảng Nam được lệnh
đối xử hòa nhã, thân thiện với các
thương
thuyền Bri-tên ghé Ðà Nẵng, kể cả việc
miễn
thuế, để chứng tỏ "đức ý" "vỗ yên thân
mến người
xa." (82)
Vua liên tục phái
thương đoàn trung ương tới các cảng lân
bang mua
bán và thăm dò tin tức. Chánh Tuần hải
đô dinh Hoàng Trung Ðồng, một cựu hải
tặc, và
Phó tuần hải Thái Vân Quí từng đi Hạ
Châu nhiều lần. Từ 1823 tới 1840, vua
gửi hơn 10 đoàn
thuyền đến Batavia (Ðông Ấn thuộc Hòa
Lan, tức
Indonesia hiện nay) và "Hạ châu" tức
Singapore và
các hải cảng gọi chung là Straits
Settlements của
Bri-tên như Riau, Penang (Tân Lang hay
Ðảo Cau). Nhiệm
vụ chính nhằm thực nghiệm đường biển,
đồng thời mua bán
vật dụng cần thiết, và thăm thú tình
hình.
Trung bình mỗi đoàn có 3 tới 5 thuyền.
Thông
ngôn đa số là giáo dân Ki-tô đã
bỏ đạo. Nổi danh nhất có lẽ là Philippe,
con Vannier.
(83) Các chuyến đi Quảng Ðông cũng khá
thường
xuyên. (84)
Trong khi đó, tại Bắc
Thành và Gia Ðịnh Thành, Tổng trấn Lê
Chất và Lê Văn Duyệt đều có những chuyến
công
tác do thám lân bang. (85)
Lớn khôn lên trong
không không khí tương đối thanh
bình–giữa
cảnh sống xa hoa, vương giả–Minh Mạng
không đủ kinh nghiệm ngoại
giao quốc tế như Gia Long để học hỏi và
thu nhập kiến thức kinh
tế, chính trị phương Tây–một cách thực
nghiệm như
Rama III (1824-1851), trong cuộc chơi
cân bằng quyền lực
và văn hóa. Minh Mạng và các đình
thần không tri nghiệm được sự thay đổi
cán cân quyền
lực Ðông Nam Á–bình chân như vại trước
việc Bri-tên chiếm Diến Ðiện, hay nỗ lực
hiện đại hóa
của Xiêm La (muang Thai), qua
việc ký thương ước
với Mỹ, Bri-tên, sử dụng người Hoa để
phát triển kỹ nghệ
đường trắng (từ năm 1816), và bắt đầu
chu trình tằm thực
các tiểu vương láng giềng. Với sự xúi
dục của
các nhà truyền giáo và lái
buôn súng, chỉ một năm sau, chiến thuyền
và binh
đội Xiêm sẽ ồ ạt tấn công Việt Nam theo
lời yêu cầu
của nhóm Bế Văn Cận và Marchand, đồng
thời tiến qua
Kampuchea và Lào, buộc Minh Mạng phải
quên đi lời
trối trăng của Gia Long là "chớ nên gây
hấn
ngoài biên," uổng phí bao tính mạng trai
tráng Việt và ngân khố quốc gia trong
những cuộc
chiến bất tận tại Kampuchea kéo dài tới
gần cuối triều
Thiệu Trị. (86)
Lên ngôi ngày
11/2/1841, Thiệu Trị không còn phong
thái văn
thì thần, võ thì thánh của Minh Mạng.
Vua
chỉ mơ ước theo đúng đường lối Minh Mạng
đã đặt ra,
và vui vẻ khen ngợi những lời xưng tụng
như "đức cao hơn những
đời chuộng văn, đạo thịnh hơn những đời
chuộng võ;" từ khi
lên ngôi, "phong hóa lan khắp, đạo trị
quang minh,
trong thì nhân dân nhảy múa mừng Xuân,
ngoài thì phương xa lặn lội đến cống,
đùn
đùn như mây Ðường Nghiêu bay, sang sảng
như
đàn Ngu Thuấn gẩy." (87)
Mối quan tâm hàng đầu
của vua là "Trấn Tây Thành" (Kampuchea)
và
Xiêm, một di sản văn hóa/quân sự. Từ
tháng
7/1840, quân Xiêm đã đưa Ang Duong về
lãnh
đạo cuộc chiến kháng yuon
[duồn]. Rồi đến lượt người
Việt gốc Khmer tại vùng châu thổ Cửu
Long, thường được
biết như "Thổ dạy." Ðược trang bị vũ khí
Bri-tên
và Mỹ, quân Xiêm gây cho quân Nguyễn
nhiều thiệt hại. Tháng 9/1841 Thiệu Trị
quyết định rút
khỏi Kampuchea để ổn định sáu tỉnh miền
Nam. Rồi sau một cuộc
chiến ngắn với liên quân Xiêm-Khmer, từ
1845 tới
1846, vua gác giấc mộng thôn tính "Cao
Miên;"
ký hiệp ước với Xiêm, chấp nhận
Kampuchea và một số
tiểu vương Lào nằm trong vùng ảnh hưởng
Xiêm.
Ðổi lại, Ang Duong thuận chia quyền lực
với Ang Mey (Ngọc
Vân, con Ang Chan). Từ năm 1848,
Kampuchea trở lại tình
trạng "phiên thuộc," ba năm cống một lần
qua cửa An Giang. Ang
Duong làm vua ở Oudong (Long Úc), trong
khi Ang Mey
làm quận chúa tại Nam Vang. (88)
Với Tây phương, ảnh
hưởng
cuộc chiến tranh nha phiến và sự xâu xé
thị trường
Trung Hoa khiến Thiệu Trị hòa hoãn hơn,
dù vẫn nối
tiếp chính sách tự cô lập, không cho
nước
ngoài đặt cơ sở trên lãnh thổ Việt và
bài đạo Ki-tô.
Thương thuyền Việt tiếp
tục đi
Batavia, Singapore và Quảng Ðông trao
đổi thổ sản lấy
hàng hóa. Từ 1841 tới 1847, có nhiều
chuyến
buôn bán với Batavia và Hạ Châu. (89)
Chuyến
đi Batavia, Riau và nhất là
Singapore–mới xuất hiện như
trung tâm thương mại và tài chính của
Ðông Nam Á với nguyên tắc tự do giao
thương,
không thu thuế–khiến những người có viễn
kiến như Cao
Bá Quát (1809-1855) đã bi phẫn thốt lên:
"Giật
mình
khi
ở
xó
nhà;
văn
chương
chữ
nghĩa
khéo
là
trò chơi." Nên chẳng có
gì đáng ngạc nhiên khi một thập niên
sau, Cao
Bá Quát bị liên hệ vào cuộc nổi dạy của
Lê Duy Cự, rồi chịu cảnh tru di tam
tộc–một trong những bản
án đầy nghi hoặc của thứ pháp luật quân
chủ
chuyên chế có hơn ngàn năm kinh nghiệm
"đao
bút." (90) Ngoài ra, vẫn còn những
chuyến thường
xuyên đi Quảng Ðông, vừa ngoại giao, vừa
buôn
bán. (91)
Lên ngôi ngày
10/11/1847, Tự Ðức được di chiếu là phải
theo đúng
đường lối của tổ tiên và lắng nghe lời
khuyên của
Phụ chính đại thần Trương Ðăng Quế, Võ
Văn Giải,
Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Thiếp
[Hiệp]. Việc làm
đầu tiên là nghiêm chỉnh thi hành
chính sách của Thiệu Trị và Minh Mạng.
Nhưng thời
thế đã đổi thay. Chiến hạm Tây phương
hoành
hành khắp biển Ðông, cho thấy hải quân
Trung Hoa
cũng trở thành "trò chơi của con trẻ
trong vũng nước
cạn," nói chi dăm chiếc thuyền đồng
trang bị nhiều nhất
là 32 khẩu đại bác bằng đồng pha gang tự
chế biến.
Những năm đầu triều Tự
Ðức,
việc buôn bán với ngoại quốc bị tạm
ngưng. Có ba
lý do chính. Thứ nhất, là cuộc pháo
kích Ðà Nẵng năm 1847 của chiến hạm
Pháp. Mối
nhục này khiến các đại thần quyết định
cắt đứt ngoại
thương với Tây phương. Thứ hai là vụ án
"tham
ô" mà Ðào Trí Phú bị liên
hệ năm 1848–một vụ án nặng tính chất
chính trị hơn
hình sự. Một trong những người tín cẩn
của Thiệu Trị,
Trí Phú bị mất chức, phạt trượng, đồ.
Nhiều quan
viên khác bị liên hệ. Năm năm sau, Trí
Phú cùng một người trong Hoàng tộc, Tôn
Thất
Bật, còn bị liên lụy vào vụ án "phản
nghịch"
của Hường Bảo (1825-1854)–tức con lớn
của Thiệu Trị, đã bị mất
ngôi vào tay Hường Nhiệm tức Tự Ðức.
(92) Cách
nào đi nữa, năm 1848, khi một thương gia
đến giao hàng
mà Trí Phú đã đặt mua cho vua, với
giá trên 166,000 thuẫn (florin, tiền
Dutch = 1 shilling, 7
Bri-tên, hay 2 francs Pháp), các đại
thần đã
khúm núm, nhưng cương quyết phản đối. Tự
Ðức chịu
nhận lỗi. (93)
Những nỗ lực xin thông
thương cuối cùng của Pháp–qua sứ đoàn
Louis
Charles de Montigny vào cuối năm 1856,
sau màn hải
pháo dằn mặt lần thứ hai tại Ðà
Nẵng–khiến một số
viên chức Pháp nghiêng về nhận định của
các
giáo sĩ là triều đình Tự Ðức chỉ còn
nghe được tiếng đại bác. Ngày 4/5/1857,
tại phiên
họp thứ ba của Ủy Ban Cochin-Chine Chủ
tịch Brenier de Montmorand
tuyên bố rằng chỉ nguyên việc triều
Nguyễn từ chối
ký hòa ước đã đủ mang quân tấn công.
(94)
Những nỗ lực xin thông
thương của Bri-tên trong mùa Thu 1847,
và
Liên bang Mỹ vào tháng 2/1850 cũng đều
thất bại.
Ngày 9/10/1847, Sir John Davis từ
Hongkong tới Tourane với hai
chiến thuyền, biếu quà tặng, và tuyên bố
không theo Ki-tô Vatican, chỉ muốn làm
thương mại;
nhưng Thiệu Trị từ khước. Sau hơn 10
ngày thảo luận với Tham tri
bộ Hộ Tôn Thất Thường, người đã tham gia
sứ đoàn
1839-1841, ngày 27/10 Davis rời Tourane.
(95) Sứ giả Mỹ, Joseph
Balestier–người vận động giao thương với
Ðại Nam từ thập niên
1830, đến Ðà Nẵng ngày 25/2/1850 trên
chiến hạm USS Plymouth. Mang
theo thư của Tổng thống
Zachary Taylor (1784-1850), xin lỗi việc
John Percival bắn phá
Ðà Nẵng năm 1845 và thảo luận ký thương
ước–bị
từ chối vì "thuyền nước ấy [Mỹ] từ trước
đến nay không
có việc trái phép giết người nào cả;"
dân Việt "chuyên nghề làm ruộng, trồng
dâu,
không thích chơi của lạ, nếu có lại buôn
không lợi gì;" và không hài
lòng việc thư Tổng thống Mỹ có vẻ đe
dọa. (96)
D.
SĨ QUAN HẢI QUÂN VÀ SỨ MỆNH NGOẠI
GIAO:
Như đã lược nhắc, từ
đầu
thế kỷ XIX, Pháp đã thất bại trong nỗ
lực nối lại quan hệ
với nhà Nguyễn. Dẫu vậy sự hiện diện của
Chaigneau, Vannier
cùng các cộng sự viên của Pigneau de
Béhaine–như Giám mục La Bartette,
Jacques Liot, v.. v...
gần kinh đô–khiến Pháp vẫn tự nhận có
một thứ "quyền"
bán chính thức đối với Việt Nam.
Tham vọng chiếm đóng
Việt
Nam–để giương cao ngọn cờ Ðại Pháp, và
ngăn chặn ảnh
hưởng Bri-tên–là lập luận quen thuộc của
các
nhà ngoại giao và giới sĩ quan Pháp ở
Viễn
Ðông. Hai lá thư hiếm hoi còn sót lại
tại văn khố Pondichéry vào tháng 2/1778,
của Chỉ
huy trưởng Chandernagor gửi Toàn quyền
Pondichéry de
Bellecombe phản ánh quan điểm này. Theo
Chevalier, chỉ
cần chiến hạm Brillant, 150 lính
Âu châu
và 300 lính India (cipayis), cùng
ít
pháo đội đủ sức đánh chiếm Ðàng Trong.
(97)
Tuy nhiên, Tướng de Conway, thống đốc
Pondichéry từ 1787
tới 1789, không có tinh thần bài
Anglo-Saxon
quá khích như người tiền nhiệm. Nhận
được chỉ thị của
Louis XVI, de Conway quyết định không
cấp binh thuyền cho Pigneau
mang tới Sài Gòn–bất kể những ngón đòn
thù của Hội truyền giáo và nhóm lính
đánh thuê, kể cả tin đồn kiểu Conway
ngoại tình với
vợ một sĩ quan hầu cận. Và, dĩ nhiên, là
những lời
dèm xiểm với Nguyễn Vương, khiến Chủng
nặng lời chỉ trích
de Conway trong thư ngày 31/1/1790 gửi
Louis XVI. (98)
Năm 1815, sau cuộc đại
bại của
Napoléon, triều đình Bourbons có ý
đòi Gia Long thực thi Hiệp ước 1787.
Tham tâm của
Pháp bộc lộ qua thư Ngoại trưởng
Richelieu gửi Chaigneau năm
1817, và chỉ thị cho Ðại tá Achille de
Kergariou, hạm
trưởng tàu Cybèle đến Ðà Nẵng
đầu năm
1818–viếng thăm thân hữu, mang theo thư
Richelieu yêu cầu
Chaigneau báo cáo tình hình, kiểm kê
lại bản đồ do Jean-Marie D’Ayot vẽ, đồng
thời trao tặng Chaigneau
và Vannier Bắc đẩu Bội tinh. (99)
Những sứ đoàn của Thiếu
tá Courson de la Ville Hélio năm 1822,
hay Nam tước Henri
de Bougainville năm 1825 đều thất bại.
Tháng 12/1830, chiến hạm Favorite lại
cặp bến Ðà Nẵng, xin gặp quan
Thương bạc. Vua phái Nguyễn Tri Phương
rồi Trương Ðăng Quế
tới dò hỏi. Thuyền trưởng nói Pháp muốn
giao hiếu,
vì quân Hồng Mao đang uy hiếp Quảng
Ðông, thế
nào cũng tấn công Việt Nam. Lời cảnh
tỉnh của sĩ quan hải
quân Pháp về mối đe dọa của Bri-tên (và
hàm ý cả sự đe dọa của Pháp) không đủ
khiến
Minh Mạng quan tâm. Vua sai Tri Phương
trả lời là việc
Quảng Ðông chẳng liên quan gì đến Việt
Nam.
Thuyền trưởng vẫn chưa chịu đi, tự động
lên núi Tam Thai
[Non Nước] dò xét. Lại xin cho hoa tiêu
đưa ra Bắc
vẽ bản đồ. Tri Phương dĩ nhiên cự tuyệt.
Sau đó, vua
cách chức những người phụ trách hai đài
An Hải
và Ðiện Hải cùng thủ ngự và hiệp thủ
Ðà Nẵng. (100)
Lập trường của Minh
Mạng là
chỉ cần giữ lấy lẽ phải cho mình, và
phòng giữ
nghiêm ngặt các cửa biển, sẽ chẳng có gì
bất
trắc xảy ra. Vua cố gắng canh tân hải
lực, lo "phòng giữ,"
nhưng khoảng cách kiến thức khoa học và
kỹ thuật với
Âu Mỹ quá xa. Những tàu thuyền, máy
móc, đại bác, súng đạn trên thị trường
thường là đồ phế thải của các cường
quốc. Những trận hải
chiến đầu năm 1834 cho thấy hải lực Việt
thua kém cả Xiêm.
Trong khi đó dù đang bối rối với nội
loạn trong nước–từ
Gia Ðịnh tới Bắc Kỳ–vua quên lời di
chiếu chớ nên
gây hấn ngoài biên, nuôi tham vọng diệt
Kampuchea. Mọi nỗ lực canh tân đều bị
đình trễ trong khi
quốc khố vơi hụt vì chiến phí ngày một
gia tăng.
Mãi đến cuối triều Minh
Mạng, khi những tàu chạy hơi nước của
Tây phương bắt đầu
giương oai ở Thái Bình Dương–trong nỗ
lực của liên
minh Pháp-Bri-tên nhằm bảo vệ tự do buôn
bán
thuốc phiện và quyền hưởng thụ ma-túy
của dân Trung
Hoa–vua mới bắt đầu quan tâm, lo lắng.
Ngoài việc
chôn dấu bớt kho tàng, vua không ngừng
tìm
hiểu tình hình nhà Thanh từ các quan
viên thân cận được gửi đi ngoại quốc,
theo dõi
sách báo Quảng Ðông về phương lược đánh
chiến hạm Tây phương, hay cho lệnh huấn
luyện các
pháo thủ cách bắn phá hữu hiệu chiến
thuyền
(bánh lái, cột buồm, tướng chỉ huy).
Sự xuất hiện của chiến
hạm Bonite
và Artémise ngoài khơi sau khi
Marchand bị
xử tử năm 1836 và cuộc hành hình hơn 10
giáo sĩ, kể cả Francis Jaccard, cùng
giáo mục bản
xứ trong mùa Hè 1838 khiến vua nghĩ đến
việc cải thiện
bang giao với Tây phương. Cuối năm 1839,
vua cử một sứ
đoàn qua Pháp và Bri-tên. Nhưng quá
trễ. Hội truyền giáo Pháp, Vatican và
các
sĩ quan Hải quân đã tiếp cận nhau hơn về
các
chiêu bài màu cờ vinh quang và ánh
sáng văn minh. Từ năm 1838, Ðô Ðốc
Martin
Fourichon (năm 1875 trở thành Bộ trưởng
HQ&TÐ) đã
đề nghị đánh chiếm Tourane. Tháng
5/1857, Fourichon cảm
thấy còn cần thiết hơn nữa. (101)
Suốt thập niên 1840
thêm nhiều chiến hạm Pháp ghé Ðà Nẵng.
Năm 1842, Ngoại trưởng Francois-Pierre
Guizot cho lệnh hải quân
Pháp đi tìm một căn cứ ở Viễn Ðông. Vì
Trung Hoa là mục tiêu chính của tư bản
Pháp,
Paris chưa có thì giờ lắng nghe những
lời kêu van
ai oán của các giáo sĩ, tạm giao cho các
sĩ
quan tùy nghi hành động. Trong năm 1843
và 1845,
Thiệu Trị đồng ý trao trả một số cố đạo
cho các
tàu chiến Pháp. (102)
Sau khi đạt được hòa
ước
Hoàng Phố với nhà Thanh năm 1844, các sĩ
quan Hải
quân Pháp chuyển sang chính sách khiêu
khích và ngoại giao hải pháo. Tháng
1/1847,
một tàu Tây bỏ neo ở cửa biển Khánh Hòa,
bắt
giữ tra tấn quan tỉnh xuống tàu khám
xét, hơn 10
ngày mới trả tự do. Tháng 3/1847, hai
chiến hạm Victorieuse
của Ðại tá Augustin Lapierre và Gloire
của
Trung tá Charles Rigault de Genouilly
tới Quảng Nam, có
5, 6 giáo sĩ tháp tùng, đòi phóng
thích giáo sĩ cùng tự do giảng đạo. Theo
ÐNTLCB:
Vua sai Lý Văn Phức
xuống
dò xét, cùng Tuần phủ Nguyễn Ðình
Tân, Lãnh binh Nguyễn Ðức Chung giải
quyết. Hai
bên định ngày họp bàn. Ðầu mục Phật Lan
Tây [Pháp] là Lập Biệt Nhĩ [Lapierre]
đem
vài mươi tên đồ đảng, đeo gươm, đeo
súng, đến thẳng
ngay công quán, ngăn lại không được.
Chúng
đưa ra một bức thư bằng chữ Hán, lời lẽ
phần nhiều ngông
càn. Phức không chịu tiếp nhận, đầu mục
Tây dương
quát to để dọa nạt, đặt lá thư lên trên
ghế
rồi bỏ đi. Phức và Ðình Tân bàn với nhau
rằng: "Nhận lấy thư là có tội, mà đốt
thư đi cũng
có tội, không gì bằng cho chạy trạm về
đệ tâu
lên." Phức về kinh đợi lệnh. Vua nổi
giận, đóng
gông, tống giam vì làm mất quốc thể.
[Phần người Pháp] lại
càng rông càn, ngày thường lên bờ, đi
lại chỗ làng xóm. Những người nước ta
vẫn theo tả đạo,
phần nhiều đi lại nom dòm, thông tin tức
kín. Những
thuyền quân đi tuần biển bị chúng bắt
giữ lại ở cửa biển.
Có 5 chiếc thuyền bọc đồng ở kinh phái
đi nam (Kim ưng,
Phấn bằng, Linh phượng, Thọ hạc, Vân
bằng) chưa kịp ra biển,
còn đậu ở vụng Trà sơn, bị chúng sấn đến
cướp
thuyền và dây buộc....
Vua sai bọn Ðô thống
Hữu
quân Mai Công Ngôn, Ðào Trí
Phú mang theo 3 vệ Vũ Lâm, Hổ Uy, Hùng
Nhuệ tới
ngay cửa biển. Lại cử Nguyễn Bá Nghi tạm
thời tăng bổ
lãnh chức Bố chính Quảng Nam, Phó vệ úy
Nguyễn Nghĩa Thịnh làm Lãnh binh, cùng
nhiều
võ quan tăng viện. Lại sai 4 thuyền bọc
đồng tới cửa Trà
Sơn để xa làm thanh ứng. Lệnh "đánh giết
không để
sót mống nào." Lại ngăn cấm những người
theo đạo Gia
tô không được lui tới để tuyệt tăm hơi.
(103)
Nào ngờ, xuất đội Võ
Văn Ðiểm, một giáo dân Ki-tô, ngầm báo
cho Pháp. Bởi vậy, Lapierre vờ hòa hoãn,
rồi đột
ngột bắn phá các pháo đài Nguyễn. Năm
thuyền đồng "đại hiệu" bị đánh đắm. Hơn
100 người bị chết, kể cả
hai đại quan. Mười năm sau, Giám mục Huế
tường trình
trước Ủy Ban Cochin-Chine rằng quan Việt
mưu tổ chức một bữa tiệc khoản
đãi sĩ quan Pháp, rồi phục kích; bởi
thế, Lapierre
mới ra tay. Cuénot (Thể), Giám mục Qui
Nhơn, thì
cho rằng cuộc bắn phá này nhằm trả đũa
âm mưu bắt
cóc sĩ quan Pháp. (104) Lý do nào đi
nữa,
hải pháo Pháp chính thức dập tắt tiếng
đàn
hát Ngu-Thuấn, cắt đứt cảnh "trong thì
nhân
dân nhảy múa mừng Xuân, ngoài thì
phương xa lặn lội đến cống" dưới triều
Thiệu Trị. (105)
Cái chết đột ngột của
Thiệu
Trị it tháng sau trút mọi gánh nặng di
sản
lên vai Tự Ðức. Tuy nhiên, mãi tới năm
1851 Tự
Ðức mới áp dụng các biện pháp do Thiệu
Trị đề
xướng–tức bắt giết giáo sĩ người Âu, và
tập trung
giáo dân vào những vùng xa duyên hải.
Bá tước Roussel de Courcy, chánh văn
phòng đại
biện Pháp ở Yên Kinh, bèn được lệnh tập
trung
và phân tích các khiếu nại của giáo
sĩ để Paris có biện pháp thích ứng.
Dẫu vậy, Paris vẫn muốn
cho Tự
Ðức thêm một cơ hội–qua việc gửi Charles
de Montigny, thuộc
Nha Thương Mại, cựu lãnh sự Thượng Hải,
đến Bangkok và
Huế thảo luận hoà ước. Ngày 9/7/1856,
Montigny tới
Bangkok, và vua Xiêm đồng ý gửi sứ qua
Pháp.
Nhưng khi Montigny ghé Kampot đón thông
ngôn,
Giám mục Jean Claude Miche (1805-1873)
dàn xếp cho
Montigny gặp Ang Duong. Trong khi đó các
sĩ quan hải
quân có vẻ đồng ý với các giáo sĩ
rằng Tự Ðức chỉ còn nghe được tiếng đại
bác, đưa
chiến hạm Catinat vào Ðà Nẵng,
chuyển thư
Montigny. Khi các quan Nguyễn không
nhận, ngày
19/9/1856, hạm trưởng William Lelieur de
Ville-sur-Arce sai một
toán quân đổ bộ lên Thuận An, đặt thư
trên
bãi biển. Một tuần sau, pháo kích đồn
lũy
Ðà Nẵng, cho 1 trung đội đổ bộ lên bờ.
Giữa lúc
này, tình hình Trung Hoa bỗng căng
thẳng. Ðề
Ðốc Guérin cho lệnh tàu Catinat
lên
tăng viện. Hơn một tháng sau, ngày
24/10, thuyền buồm Capricieuse của
Collier vào vịnh Ðà Nẵng.
Ðại diện Hội truyền giáo ở Huế, tức
Pellerin–người ít
nhiều liên hệ đến việc bắn phá Ðà
Nẵng–lên tàu này về Pháp vận động. Ba
tháng sau, Montigny tới Ðà Nẵng và, dĩ
nhiên, không đạt được hoà ước. Ngày 7/2,
Montigny bỏ dở sứ mệnh, để lại một đòi
hỏi 22 điều. (106)
Mùa Hè 1857, giữa
lúc triều đình Napoléon III đang thảo
luận việc
biểu dương lực lượng, các Ðề đốc Pháp
lại có
cơ hội ra oai. Ít nhất hai chiến thuyền
Pháp và
Espania kéo tới duyên hải Ðại Nam sau
khi José
Maria Diaz Sanjuro (tên Việt là Cố
An)–Khâm mạng
tòa thánh tại miền Bắc, giám mục Ðàng
Ngoài Giữa (Bùi Chu)–bị bắt vào tháng
5/1857 rồi xử tử 2 tháng sau. Ðược thư
cấp cứu của
Lãnh sự Espania từ Ma Cao, ngày
4/9/1857, Nam tước Gros,
đại sứ Pháp ở Yên Kinh, sai Rigault de
Genouilly cho
tàu Catinat và Lilly
(của Portugal cho
Espania thuê) đưa Bá tước De Kleczkowski
qua Ðại Nam
xin tha Diaz. Tài liệu nhà Nguyễn ghi
ngày
8/9/1857, hai tàu Tây dương hạ neo tại
hải phận Quảng
Bình, và khoảng 30 người đổ bộ lên bờ,
cướp
trâu bò, lợn gà, tìm người theo đạo
Thiên chúa. Sau đó, ra Bắc, tìm giáo
sĩ và giáo dân. (107)
Ðiểm đáng ghi nhận
là vào thời điểm này, cả ba giới giáo
sĩ,
sĩ quan hải quân và thương mại–dù có
những
dị biệt về quan điểm và được thúc đẩy
bởi những động lực
khác nhau–đã tìm được những điểm tương
cận trong
chính sách đối với Việt Nam. Hai trong
những mẫu số chung
thời thượng là uy danh nước Pháp và bảo
vệ
các nhà thừa sai. Và, phương tiện là một
cuộc biểu dương lực lượng uy hiếp triều
Huế. Nhưng những yêu
sách của Pháp không chỉ thuần túy có
tự do truyền giáo. Bên cạnh, dù phụ
thuộc hay
chính yếu, còn điều kiện cắt đất và bồi
thường
chiến phí. Thực thể sần sùi, tanh máu
này
thường bị tảng lờ hay che dấu khá kỹ với
những bảng hiệu rực rỡ
như "bảo vệ tự do tín ngưỡng" hay "màu
cờ, sắc
áo." Và, hai đòi hỏi rất thế tục trên
khiến
chiêu bài "khai hóa" cao thượng của Pháp
chẳng những khó hiểu mà còn gây phẫn nộ
trong hàng ngũ vua quan Việt.
Vũ
Ngự
Chiêu
[Trích: Các
Vua
Cuối
Nhà
Nguyễn,
1883-1945]
Phụ chú:
34. Thông tin về Rhodes
cùng các giáo sĩ Tây phương hầu hết dựa
vào tác phẩm của Rhodes như Histoire
du royaume du
Tonkin et des grands progrès que la
prédication y a fait
en la conversation des infidèles
depuis l’année 1627
jusqu’à l’année 1646, do Albi dịch
từ tiếng
Portuguese qua tiếng Pháp (Lyon: 1651),
và Divers
voyages et missions du Père Alexandre
de Rhodes en la Chine et
autres royaumes de l’Orient, avec son
retour en Europe par la Perse et
l’Aménie (Paris: 1654). Xem thêm,
Tường
trình về Ðàng Trong 1645, bản dịch
Hồng Nhuệ
(Escondido, CA: 199?). Về những nhận
định trái ngược nhau quanh
Rhodes, xem Giu-se Vũ Thành, Dòng
máu anh
hùng, 3 tập (Franklin, LA: 1987),
I:260, và Nguyễn
Mạnh Quang, Việt Nam Ðệ Nhất Cộng
Hòa Toàn Thư,
1954-1963 (Tacoma, WA: 1998). Sẽ
dẫn: Thành 1987, Quang
1998. Tư liệu Việt không nhắc đến
Rhodes.
35. Vì lý do
chính thống, sử Nguyễn ghi là từ đời Lê
Trang
Tông (1533-1548); KÐVSTGCM, 41:25; 1998,
II:626-627. Theo
sách Dã Lục, Y-nê-xu giảng đạo
tại
xã Ninh Cường, Quần Anh, và Trà Lũ huyện
Giao Thủy
[Nam Ðịnh] năm 1533, tức đầu niên hiệu
Nguyên
Hòa; q. 33, 5-6; II:300-301.
36. Ðã có
quá nhiều tài liệu về Pigneau, với lời
xưng tụng như
Pigneau là "vua thực sự Ðàng Trong." Xem
H. Cosserat,
"Notes biographiques sur les francais au
service de Gia Long;" BAVH,
IV, no. 3 (7-9/1917), tr.165-206;
Léonard Cadière, "Les
Francais aux service de Gia Long: XI.
Nguyen Anh et La Mission,
Documents inédits;" BAVH, XIII, no. 1
(1-3/1926), tr.1-49.
Cosserat sử dụng tài liệu văn khố Hội
truyền giáo,
và Cadière so sánh tài liệu truyền
giáo với tư liệu Việt Nam. Trong Châu
Bản Tự Ðức
có một sưu tập những thư của Gia Long
gửi các nhà
truyền giáo này. Cuối thế kỷ XIX, xuất
hiện ở Ðại Nam
tập Annales annamites [Sử Ký Ðại Nam
Việt]
(Sài-gòn: Nhóm Nghiên Cứu Sử Ðịa, 1974)
về Pigneau. Tài liệu nhà Nguyễn ghi
Pigneau qui phục
Nguyễn Chủng từ năm Bính Tí (1780); Ðại
Nam
Chính Biên Liệt Truyện, bản dịch
Việt ngữ của Viện sử
học Hà Nội (Huế: Thuận Hoá, 1993), tập
II, tr. 476-477.
[Sẽ dẫn ÐNCBLT]. Cần nhấn mạnh là sự
đóng góp
thực sự của Pigneau cho chiến thắng của
Gia Long rất giới hạn. Khối
thông tin truyền giáo và thuộc địa Pháp,
như
Wooside nhận định, đã thổi phồng quá
đáng vai
trò và tầm quan trọng của Pigneau cùng
đệ tử [the
role of the Chaigneaux and Oliviers and
Behaines in Vietnamese history
has been grossly exaggerated. Financial
and judicial and political and
administrative and educational matters
in the Gia Long period never
concerned the French. They were
encouraged to live in Hue merely to
give military advice and to serve as a
shield against others of their
kind who might go to Vietnam seeking
trade. . . .]; Idem, Chinese
Model, 1971:16-17.
37. ÐNCBLT, I, 2:49-50,
98;
SHAT (Vincennes), 10H 1, d. 3; AMAE
(Paris), Mémoires et
Documents, Asie, vol. 19, tr. 103
& vol. 21, tr. 64; CAOM
(Aix), GGI [Amiraux], 11704. Xem thêm
đoạn III của chương
này.
38. AMAE [Paris], Correspondances
générales, vol. VII, tr. 662;
Georges Taboulet, La
geste
francaise
en
Indochine:
Histoire
par
les
textes
de
la
France en
Indochine des origines à 1914, 2
tập (Paris: Maisonneuve,
1955-1956), I:191-194, 208-209. Trong
thư gửi de Conway và
d’Entrecasteaux, de Montmorin khẳng định
Conway được tùy nghi
hành động.
39. ÐNTLCB, I, 2:57-58,
61;
Thư ngày 25/1/1785, Nguyễn Ánh gửi
Jacques Liot, trong
Cadière, "XI. Nguyen Anh et la
Mission;" BAVH, XIII, no.
1 (1-3/1926), tr. 20-21.
40. ÐNTLCB, I, 2:62-63,
70-71,
72; KÐVSTGCM 1998, II:786, 837-838; Ðại
Nam Chính
Biên Liệt Truyện, Ngụy Tây, bản
dịch Tạ Quang
Phát (Sài Gòn: 1970), tr. 30B [125] [sẽ
dẫn: Liệt
truyện]. Thực ra, người thống nhất Ðại
Việt là Trịnh
Sâm, vào năm 1775. Vương quốc Ðại Việt
của Quang Trung
(1788-1892) chỉ gồm lãnh thổ cũ của nhà
Lê.
Lãnh thổ của Thái Ðức (Nguyễn Nhạc) kéo
dài từ Nam Quảng Nam vào đồng bằng Cửu
Long, nhưng từ năm
1788, Nguyễn Chủng đã chiếm Nam Kỳ. Vì
chiến công
này, các vua Nguyễn khẳng định nhà
Nguyễn
đã lấy đất nước từ Tây Sơn, không cướp
ngôi
nhà Lê. Phần Pigneau, khi cặp bến Port
Louis, Isle de
France, năm 1788 mới được tin Nguyễn Huệ
diệt họ Trịnh, rồi gây
nên cuộc tương tàn; Taboulet, La
geste francaise,
I:207.
41. ÐNTLCB, I, 2:53-54
[Nguyễn
Văn Tồn], 65-66, 67, 68-69, 72, 73,
90-91; ÐNCBLT, II:471-76,
477-78; Woodside 1971:17-18. Xem
thêm thư ngày
19/1/1789, Nguyễn Chủng gửi Jacques
Liot; L. Cadière, "Nguyễn
Ánh et la Mission;" BAVH, XIII, 1, 1926:
47-48. Thư này
được chép lại ngày 19/6/1827 (25/5 MM
VIII)
42. ÐNCBLT, q. 30;
(1970),
13B-14B [tr. 60-62]. Liệt Truyện ghi
việc này vào cuối
năm 1786, sau khi Nhạc đã xưng đế, phong
đất cho hai em, trước
ngày Chủng từ Xiêm về nước lần thứ hai;
Ibid., q. 30, tờ
13B-14A. Theo Thực Lục, anh em
Tây Sơn giao chiến từ
tháng 7 năm Bính Ngọ (25/7-23/8/1786);
ÐNTLCB, I,
2:63, 65. Các nhà truyền giáo ghi vào
đầu
năm Ðinh Mùi (18/2-18/3/1787), Thư ngày
6/6/1787,
Doussain gửi Le Blandin; BEFEO, 1912,
tr. 19; Hoàng Xuân
Hãn, Toàn Thư, II:1297. Theo các
giáo sĩ, Huệ dùng từ 60,000 tới 100,000
quân
vây thành Ðồ Bàn; Thư ngày 6/6/1787,
Doussain gửi Le Blandin; BEFEO, 1912,
tr. 19; Thư ngày 3/5/1787,
Longer gửi Boiret; RI, XIV, 1910, tr.
46; Thư ngày 21/5/1787, GM
Jean de Labartette gửi Letondal; A.
Launay, III:129; Tạ Chí
Ðại Trường, Lịch sử nội chiến ở Việt
Nam, 1771-1802 (Los
Angeles: An Tiêm, 1991), tr. 148.
43. Launay, III:199.
44. ÐNTLCB, I, 2:98
[viet] I,
q. 4, tr. 14-15 [nho]; ÐNCBLT, q.28,
II:476; Thư ngày
17/8/1789, Pigneau (Sàigòn) gửi [Claude
Francois]
Létondal (Macao); ASME [Paris], vol.
801, tr. 283;
Cadière, BAVH, 1926.
45. Thư ngày 31/3/1795,
La
Mothe gửi Letondal; ASME (Paris), Tonkin
692. Ngày 18/1/1792, Le
Labousse viết thư báo cáo Girard đang
phục vụ Tây
Sơn từ năm 1791. Ngày 29/3, vợ Quang
Trung chết, Girard hoặc
vì hoảng sợ hoặc vì một lý do nào
đó, bỏ trốn qua Macao; Thư ngày
25/11/1792,
Guérard gửi Boiret; ASME (Paris), Tonkin
692, tr. 397-399. Từ
Macao, ngày 25/11/1792, Guérard báo cáo
khá đầy đủ về tình hình Phú Xuân
trong hai năm 1791-1792; Ibid. Sau ngày
Quang Trung từ trần
(14/9/1792 tức cuối tháng 7 Nhâm Tí)–cái
chết đầy bí ẩn, vì bị thần nhân đánh
trọng
thương trong giấc mơ do dám phá hủy lăng
tẩm cho
nhà Nguyễn, theo sử nhà Nguyễn; vì bị
đầu độc
trong tay các giáo sĩ hay nhà Thanh,
theo lời
đồn–các giáo sĩ ngả hẳn về phe "ông
Chủng." Xem
thêm thư ngày 6/6/1793, của Guérard viết
từ Bố
Chính gửi cho Boiret báo tin Nguyễn Nhạc
đã chết;
Ibid., tr. 426-429; và, thư ngày
13/12/1793 của La Mothe
gửi Boiret; Ibid., tr. 539-541; Ðặng
Phương Nghi, "Triều Ðại
vua Quang Trung dưới mắt các nhà truyền
giáo
Tây phương;" Tạ Chí Ðại Trường et al., Một
vài
sử liệu về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ (Glendale,
CA:
Ðại Nam, 1992), tr. 244; Idem.,
1991:200-208ff.
46. ÐNTLCB, I, 2:331
[Pigneau], 386 [Cảnh]; ÐNCBLT, II:477,
48; QTCBTY 1971:35,
37 ; Annales, 1847.
19:268 ; ASME (Paris), vol 746,
tr. 839.
47. Vũ Thành 1987,
III:8-9.
Theo một tác giả Pháp, năm 1800, số tín
đồ
Ki-tô tại Ðại Việt như sau: 3 Giám mục,
15 cố đạo,
320,000 giáo dân; Louvet, tr. 207; Phan
Phát Huồn
1960:269. (Giáo khu Ðông Ðàng Ngoài:
1 Giám mục, 4 cố đạo, 41 linh mục bản
xứ, và 140,000
giáo dân; Giáo khu Tây Ðàng
Ngoài: 1 Giám mục (Jacques Benjamin
Longer, 1752-1831), 6
cố đạo, 65 linh mục bản xứ, 120,000 giáo
dân;
Ðàng Trong: 1 Giám mục (Le Labousse,
chết ngày
28/5/1801), 5 cố đạo, 15 linh mục bản
xứ, 60,000 giáo dân).
48. ÐNTLCB, I,
3:166-169; Phan
Phát Huồn 1960, I:267-268.
49. Hoàng tử Ðảm, tức
Minh Mạng, chịu ảnh hưởng của Ðặng Ðức
Siêu, gốc Bồng
Sơn, Bình Ðịnh, nhưng lập nghiệp ở Hương
Trà, Thừa
Thiên, và Trịnh Hoài Ðức (1760-1825), tổ
tiên gốc Phúc Kiến. Xem ÐNCBLT, q. 10,
II:173-179,
và q. 11, II:186-192.
50. Mùa Hè 1672, khi
mang vua Lê và 180,000 quân vào đánh
Ðàng Trong, Trịnh Căn trưng dụng cả các
tay xạ thủ
người Hòa Lan và Âu châu; Lê Quí
Ðôn, Phủ Biên Tạp Lục, 1972,
I:92-94; Quốc sử
quán Nhà Nguyễn, Ðại Nam Thực Lục,
Tiền Biên
[TB] (Hà Nội: 1962), 1:121.
51. Xem ÐNTLCB, I,
2:158, 194,
208, 264, 294. Xem thêm Cosserat, "Notes
biographiques sur les
francais au service de Gia Long;" BAVH,
IV, no.3 (7-9/1917), tr.
165-206.
52. Sau này phụ
trách thương mại cho chính phủ
Philippines. Trở lại thăm
Huế năm 1804. Chết trong một vụ đắm tàu
ở Vịnh Bắc Việt năm
1809. Năm 1818, chính phủ Pháp in bộ bản
đồ bờ biển Việt
Nam của D’Ayot, với tựa Le Pilote de
Cochinchine; Alastair
Lamb, The Mandarin Road to Old Hue (London:
Archon Books,
1970), tr. 179n1.
53. ÐNTLCB, I, 2:247,
423).
Xem thêm thư ngày 11/4/1801, 16/4/1801,
16/7/1801,
15/6/1802, trong Cadière, "Les francais
au service de Gia Long:
XII. Leur correspondance;" BAVH, XIII,
no. 4 (10-12/1926), tr. 373-416.
54. Theo sử Nguyễn,
thành
hình vuông, mỗi cạnh dài 131 trượng, 2
thước. Mở ra
8 cửa (bát quái). Tường cao 13 thước
[ta], chân
dày 7 trượng 5 thước. Phía ngoài thành
là hào, hào rộng 10 trượng 5 thước, sâu
14
thước, có cầu treo bắc ngang. Chu vi
ngoài thành
là 794 trượng; ÐNTLCB, I, 2:112-113;
Wooside, 1971:30. Tuy
nhiên, không nhắc gì đến Olivier.
55. ÐNTLCB, I, 2:345,
355,
415, 423; QTCBTY 1971:28; Thư ngày
2/3/1801, Chaigneau gửi
Barisy; Cadière, "XII. Leur
correspondance;" BAVH, XIII, no. 4
(10-12/1926), tr. 372-373; Thư ngày
11/4/1801, Barisy gửi
Letondel; Ibid., tr. 359-447; Cosserat,
"Notes biographiques;" BAVH,
IV, no.3 (7-9/1917), tr. 183-186.
56. ÐNTLCB, I, 3:131,
218,
4:183; ÐNCBLT, II:477; QTCBTY, 1971:35.
Ngày 12/11/1811,
Vannier lập gia đình với một người Việt,
Nguyễn Thị Sen hay
Magdeleine Sen, con gái Nguyễn Văn Dũng,
Thuyền tả cai đội, một
giáo dân Ki-tô ở Phường Ðúc, hay Thợ
Ðúc. Năm 1824, Vannier đưa vợ con về
nước và chẳng
bao giờ trở lại. Ngày 5/10/1863, vợ và
con gái
Vannier từ Lorient tới thăm sứ đoàn Phan
Thanh Giản. Thị Sen
(Liên) nhắc lại chuyến thăm đột ngột của
Tôn Thất Thường
(Văn Liễu) và Dũng năm 1840 hoặc 1841.
Ngày 7/10, trở lại
dự tiệc với con trai, con gái. Mặc quốc
phục. Trần Xuân
Toạn (dịch), "L’Ambassade de Phan Thanh
Gian, (1863-1864);" BAVH, 1921,
tr. 174-176, 178-180 [147-187]. Xem thêm
"Documents A. Salles,
III: Philippe Vannier;" BAVH, XXII, No.
2 (Avril-Juin 1935), tr. 159.
57. Thư ngày 3/6/1819,
Chaigneau gửi Baroudel (Macao); Cadière,
"XII: Leur
correspondance;" BAVH, XIII, no. 4
(10-12/1926), tr. 422-423á;
Thư ngày 15/6/1819 Vannier gửi Baroudel
(Macao); Ibid., 423-425;
"Cochin China;" The Northern
American Review (Jan 1824), tr.
145. Xem thêm Nguyên Vũ, "Góp phần
nghiên cứu
về Petrus Key;" Ngàn Năm Soi Mặt (Houston:
Văn
Hóa, 2002).
58. ÐNTLCB, II, 7:79,
8:86.
59. Gaudart, "Les
archives de
Pondichéry et les entreprises de la
Compagnie Francaise des
Indes en Indochine, au XVIIIè siècle;"
BAVH, XXIV, no. 4
(10-12/1937), tr. 355 [353-380]; A.
Launay, Histoire de la Mission
de Cochinchine, II:344, 345; H.
Cosserat, "La route mandarine de
Tourane à Hué;" BAVH, VIII, no. 4
(1-3/1920), pp. [1-27];
60. ÐNTLCB, I, 2: 78,
86-87,
95, 106, 129, 137, 183, 251, 257; Mục
lục châu bản triều
Nguyễn, Tập I: Gia Long (Huế:
Viện Ðại học Huế, 1960), tr. 27;
dẫn trong Ðỗ Bang-Nguyễn Minh Tường, Chân
dung các
vua Nguyễn, tập I (Huế: NXB Thuận
Hóa, 1996), tr. 74;
Cadière, "III. Leurs noms;" BAVH, VII,
no.1 (1-3/1920).
61. Barizy kiếm được
một
tài sản khá lớn, khoảng 12,000 francs
qua các dịch
vụ này.
62. ÐNTLCB, I, 3:134.
Miller,
1990:3-5. Xem thêm Vũ Ngự Chiêu, "Nguyễn
Ái Quốc:
Người Việt đầu tiên đến Mỹ?" Hợp Lưu
(Fountain Valley,
CA), số 93 (tháng 2-3/2007), Phần I, tr.
5-38.
63. ÐNTLCB, I,3:193;
Lamb,
1970:Part V; Cadière, "XI. Nguyễn Ánh et
la Mission;"
BAVH (Hà Nội), XIII, no. 1 (Jan-Mars
1926), tr. 1-49.
64. ÐNTLCB, I, 4:400.
65. John Barrow, A
Voyage to
Cochinchina in the Years 1792 and 1793
(London: Strahan &
Restow, 1806).
66. ÐNTLCB, I, 2:269,
282;
3:134.
67. ÐNTLCB, I, 3:348-9;
4:157;
thư ngày 18/9/1803, La Bartette gửi
Chaumont (Paris); Cosserat,
"Notes biographiques;" BAVH, IV, no.3
(7-9/1917), tr. 183-186.
68. ÐNTLCB, I, 3:131.
Từ
tháng
7/1818
tàu
ngoại
quốc
muốn
nạp
thuế
cảng
và
thuế
hàng hóa bằng loại tiền nào cũng được;
Ibid.,
4:352. Từ đầu năm 1819, tiền "ba lễ" và
tiền cai tàu được
giữ ở kho dinh Bắc thành và Gia Ðịnh
thành,
cuối năm chia cho các quan; Ibid.,
4:364-365. Về sinh hoạt
buôn bán ở Gia Ðịnh thành năm 1819, dưới
mắt
một Thiếu tá hạm trưởng Mỹ, xem John
White, History of A
Voyage to the China Sea (Boston:
Wells & Lilly, 1823; reprint
London, 1924, 1972); bản dịch Pháp ngữ
của P. Midan, "Les
Européans qui ont vu le vieux Hué: John
White;" BAVH (Ha
Noi), XXIVè année, nos. 2-3 (Avril-Sept
1937), tr.
93-322; "Cochin China;" The North
American Review, vol 18, no.
42 (Jan 1824), pp. 140-157; Miller,
1990:6-14. Tuy nhiên,
báo cáo của White có vài ba thiếu
sót quan trọng. Thí dụ như White không
nhắc
gì đến cái chết của Tổng trấn Nguyễn
Huỳnh Ðức,
và Hữu quân Nguyễn Văn Nhân lên thay
trong dịp
White ở Sài Gòn; ÐNTLCB, I, 4:390-391.
Tổng trấn Gia
Ðịnh mà White được gặp cũng không thể là
Chưởng
Tả quân Lê Văn Duyệt. Duyệt chỉ được cử
làm Tổng
trấn nhiệm kỳ hai (1820-1832) khoảng nửa
năm sau ngày White rời
Sài Gòn, và tới Gia Ðịnh khoảng ngày
28/8/1820 [20/7 Canh Thìn]; Ibid.,
4:398; Mục lục Châu
Bản triều Nguyễn, tập II: Minh Mạng
[MLCBMM], Cheng ch’ing-ho
[Trần Kính Hòa], Nguyễn Phương, et al.
dịch (Huế: Ðại
học Huế, 1962), CB 1:56; tr. 12.
69. Woodside, 1971, tr.
261ff.
70. Thư ngày 31/1/1790
[17/12 Kỷ Dậu], Nguyễn Ánh gửi vua Pháp,
bản dịch của
Pigneau de Béhaine; Service historique
de la Marine [SHM],
(Vincennes), GG2-44, carton 3, d.1; và
Archives du
Ministère des Affaires Etrangères [AMAE]
(Paris), Mémoires
et
Documents,
Asie, vol 64, tờ 21. Về Hoà ước
1787, xem CAOM
(Aix), GGI [Amiraux], 11704. Mặc dù năm
1857, Giám đốc
chính trị Bộ HQ & TÐ Cintrat đã nhắc
đến
lá thư quan trọng này, các nhà truyền
giáo hầu như im lặng. Nó là một trong
những
nguyên do khiến Pigneau đôi lần muốn bỏ
đi, và một
số lính đánh thuê rời Ðại Việt trong
thời gian
1791-1793.
71. Thư ngày 28/7/1821,
Frédéric Despiau gửi Baroudel (Macao);
L. Cadière,
"Leur correspondance;" BAVH, XIII, No. 4
(Oct-Dec 1926), tr. 428-429,
& Thư ngày 2/8/1821, Vannier gửi
Baroudel, Bề trên
[Procureur] Hội truyền giáo ở Manila;
Ibid., tr. 429-432 &
Documents A. Salles, III: Philippe
Vannier; Ibid., XXII, No. 2
(Avril-Juin 1935), Tài liệu 36, tr. 146.
Xem thêm thư
ngày 10/10/1821, Chaigneau gửi Antoine
Breluque (Paris); BAVH,
XIII, No. 4 (Oct-Dec 1926), tr. 432-433;
thư tháng 12/1821,
Chaigneau gửi de la Bissachère, Ibid.,
tr. 434-435; Michel
Ðức Chaigneau, Souvenirs de Huế
(Paris: Imprimerie
impériale, 1867), tr. 240.
72. ÐNTLCB, II, 7:101
[tháng 12 Giáp Thân]. Ngày 17/2/1825,
chiến
hạm Thétis và L’Espérance
rời
Tourane.
73. ÐNTLCB, II, 8:86.
74. Thư ngày
12/11/1834,
Cuénot (Bangkok) gửi các Giám đốc
(Paris):
"Documents A. Salles, III: Philippe
Vannier;" BAVH, XXII, No. 2
(Avril-Juin 1935), tài liệu 60, tr. 150.
75. ÐNTLCB, II,
6:85-86; BAVH,
X, no. 1, 1923:89; CMMM, CB 1:211-212,
214-215; MLCBMM, II, 1962:48,
49. Xem, John Crawfurd, Journal of
An Embassy from the Governor
General of India to the Courts of Siam
and Cochinchina (London:
1830); George Finlayson, Mission to
Siam and Hue, the Capital of
Cochinchina, in the Years 1821-1822
(London: 1826). Thư ngày
23/5/1823, Chaigneau gửi [JJ Louis]
Baroudel (Macao); Cadière,
"XII. Leur correspondance;" BAVH, XIII,
no. 4 (10-12/1926), tr.
439-440. Ngày 31/10/1822, Crawfurd rời
Việt Nam. Nhận định về
Việt Nam, Crawfurd cho rằng thư lại,
giấy tờ quá nhiều, trong
khi ở Syam người ta ít khi viết điều gì
xuống giấy trắng
mực đen. So với Trung Hoa, thương mại
Việt Nam quá kém
cỏi. Phần Y sĩ George Finlayson, người
Scottish, đặc biệt kính
phục nền văn minh Việt. Tuy nhiên,
Finlayson cũng ngạc
nhiên khi thấy một dân tộc đông đảo như
thế mà
nền thương mại lại quá giới hạn ;
Woodside, 1971:30. Xem J.
H. Peysonneaux, "Vie, Voyage et Travaux
de Pierre Médard Diard;"
BAVH, XXII, no. 1 (1-3/1935), tr. 47-50.
76. ÐNTLCB, II,
6:252-254;
Crawfurd, Jounal of An Embassy, 1830:
Phụ bản sứ đoàn
Gibson; Wooside, 1971:239; Peysonneaux,
"Pierre Médard Diard;"
BAVH, XXII, no. 1 (1-3/1935), tr. 51-56.
77. ÐNTL,CB, II,
11:231;
Léon Sogny, "Notulettes: II. Une mission
américaine en
Annam sous Minh Mang;" BAVH, XXIV, No. 1
(Jan-Mars 1937), tr. 64-66;
Miller, 1990:19-40.
78. ÐNTLCB, II,
22:294-295.
79. ÐNTLCB, II,
17:25-26.
80. ÐNTLCB, II, 8:75,
94-96,
99, 20:139; 21:227.
81. ÐNTLCB, II, 8:99,
132,
250,
21:100-102,
22:222-224.
82. ÐNTLCB, II, 8:97,
14:90-91; 22:216-217.
83. ÐNTLCB, II,
6:83,146
(1823), 7:105 (1825), 7:237 (1826),
9:162 (1829), 10:145 (1830), 10:386
(1831), 11:247 (1832), 19:302 (1838),
20:247-250 (1839), 21:227-229
(1840), 22:328 (1840); Thư ngày
16/2/1834, Taberd (Xiêm)
gửi Barantin, Giám đốc truyền giáo
Singapore; "Documents
A. Salles, III: Philippe Vannier;" BAVH,
XXII, No. 2 (Avril-Juin 1935),
Tài liệu 58, tr. 149; Thư ngày
12/11/1834, Cuenot
(Bangkok) gửi các Giám đốc (Paris):
Ibid,. tài
liệu 60, tr. 150; Thư ngày 17/3/1835,
Cuenot (Singapore) gửi
các Giám đốc (Paris): Ibid,. tài liệu
64, tr. 153;
Thư ngày 6/6/1835, Gilles de La Motte
(Nhu Ly) gửi các
Giám đốc (Paris) ; Ibid,. tài liệu 61,
tr. 150-151; Thư
ngày 29/9/1835, Jaccard (Cam Lộ) gửi
Vannier, Ibid,. tài
liệu 62, tr. 151-152.
84. ÐNTLCB, II, 6:252,
7:175,
8:66, 258.
85. ÐNTLCB, II, 6:83.
86. ÐNTLCB, I, 4:396,
13:336-410, 14:6-20, 26-29, 32-51. Vì di
chúc của Gia
Long, Minh Mạng nhiều lần hòa hoãn với
Xiêm. Năm
1827-1828, chẳng hạn, Minh Mạng phó mặc
Chao Anu [A Nỗ]–vua Vạn
Tượng [Vientianne] từ 1804 tới 1829,
thường được coi như anh
hùng đấu tranh giành độc lập, thống nhất
của
Lào–cho Xiêm bắt làm tù binh, rồi thảm
sát ở Bangkok đầu năm 1829. Người giao
nạp Anu cho quân
Xiêm là Chiêu Nội, tù trưởng Trấn Ninh;
bị
Minh Mạng sai bắt giết năm 1830; Ibid.,
II, 6:167; 8:260, 273; 10:20,
69. Xem thêm Mayoury Ngaosyvathn &
Pheuiphanh Ngaosyvathn, Paths
to
Conflagration:
Fifty
Years
of
Diplomacy
and
Warfare
in
Laos,
Thailand,
and Vietnam, 1778-1828 (Ithaca:
Cornell, SEAP, 1998). Một
tác phẩm xuất sắc về Anu, sử dụng tài
liệu Thái
và Lào. Phần tư liệu Việt có chỗ thiếu
sót.
Xem thêm Dụ của Minh Mạng gửi Tổng trấn
Lê Văn Duyệt,
thường được các tác giả thế giới gọi là
"Phó vương" [Vice-Roi]. (Dưới
triều Gia Long và
Thiệu Trị, không hề có chức vụ "Phó
vương"
này).
87. ÐNTLCB, III,
26:369.
88. ÐNTLCB, III,
26:369-374;
Ibid., IV, 27:68.
89. ÐNTLCB, III, 23:115
(1841), 24:424 (1843), 447-448 (1844),
25:183 (1844). Tháng
Giêng năm Giáp Thìn [18/2-18/3/1844] mới
ra biển
thao diễn ở mặt nước, trước khi khởi
hành.
90. Dưới triều Tự Ðức
xảy ra
nhiều vụ án khiến nhức đầu những người
nghiên cứu về luật
pháp tại Việt Nam. Ngoài vụ án Cao Bá
Quát, còn những vụ án của Ðào
Trí Phú hay Hường Bảo. Mặc dù từ tháng
7/1848, Trí Phú bị mất chức–vì lý do
nào đó–Phú còn bị buộc vào vụ Hường
Bảo tư thông ngoại quốc và Lê Duy Huân,
cháu Lê Duy Cự, minh chủ "loạn cào cào
hay
châu chấu." Tháng 1-2/1854, Phú bị lăng
trì
xử tử vì là đồng phạm trong việc Hường
Bảo "mưu
làm phản, mưu ngầm thông với Tây dương;"
ÐNTLCB,
IV, 27:106, 28:9-10. Tháng 6/1859, sau
khi tra xét giặc
Lê Duy Huân– tức Hòa, con Duy Ðạo, cháu
Duy Cự, Duy Uân ở Sơn Tây–Bùi Quĩ lên
án Mỹ, con Phú, Thành, con Hồ Ðình Hỷ,
Nhạ, con Cao Bá Ðạt, Phùng, con Cao Bá
Quát, đều phò Duy Huân. Vua cho lệnh
điều tra kỹ,
vì chẳng biết đâu là sự thực. Tuy nhiên,
vẫn
treo giải thưởng bắt Mỹ, Thành, Nhạ,
Phùng; Ibid., 29:43].
91. ÐNTLCB, III, 24:
371-372,
424-425, 26:14.
92. ÐNTLCB, 27:106. Xem
thêm chi tiết trong chương III.
93. ÐNTLCB, 27:117-118.
Dẫu
vậy, ba năm sau, nhân dịp đưa một quan
Thanh bị đắm tàu về
nước, tháng 3/1851, Tự Ðức sai bọn Lê Bá
Ðĩnh chất thổ sản lên thuyền Thụy Hồng
để trao đổi
hàng hóa Tây phương. Khi Các thần Mai
Anh
Tuấn dâng sớ can ngăn, vua giận, đòi
đánh
đòn. Trương Ðăng Quế và Lâm Duy Thiếp
can ngăn
không được, Tuấn vẫn bị cách chức; bổ
làm án
sát Lạng Sơn, cách lưu làm việc, và bị
thổ
phỉ bắn chết ít tháng sau; Ibid., IV,
27:272-273, 278-279.
94. SHM (Vincennes),
GG2 44,
Carton 3.
95. ÐNTLCB, III,
26:388-389.
Bri-tên còn cử sứ đoàn Bowring tới Ðà
Nẵng vào tháng 9/1855 và một phái
đoàn khác năm 1857; nhưng cũng không
thành
công.
96. Miller, 1990:48-53;
ÐNTLCB, IV, 27:215; TTLTTƯ 2 (TP/HCM),
CBTÐ, 24/1 TÐ III,
CB 156:239-242; dẫn trong Vũ Thanh Hằng,
Trà Ngọc Anh, Tạ Quang
Phát, Châu Bản Triều Tự Ðức
(1848-1883) (TP/HCM:
Trung
Tâm
Nghiên
Cứu
Quốc
Học,
2003),
tr.
30.
97. Thư ngày 12/2/1778
& 15/2/1778, Chevalier
(Chandernagor) gửi De Bellecombe
(Pondichéry); Gaudart, "Les archives de
Pondichéry et les
enterprises de la Compagnie Francaise
des Indes en Indochine au
XVIIIè siècle;" BAVH, XXV, no. 4
(10-12/1937), tr.
364-366, 368-370.
98. Hơn nửa thế kỷ sau,
tại
các phiên họp của Ủy Ban Cochinchine, de
Conway vẫn chưa
được giải oan! Vì lý do nào đó, Cintrat
không đề cập gì đến những chỉ thị của
Louis XVI cho de
Conway, qua Ngoại trưởng Walewski.
99. Vannier xuống chiến
hạm Cybèle
gặp. Chaigneau dịch hai lá thư của de
Kergariou, nhưng Gia Long
từ chối tiếp kiến, nêu lý do không có
quốc
thư; ÐNTLCB, I, 4:336-337; MLCBGL, tr.
196-197; AMAE (Paris), Mémoires
et
documents,
Asie, vol. 27, tr. 136-137; Ðỗ
Bang-Nguyễn Minh
Tường, 1996:75. Theo Tsuboi, nêu lý do
vua bệnh, tr.
94-95. Lamb ghi de Kergariou tới Tourane
ngày 30/12/1817, tr.
229. Có lẽ Lamb sử dụng tài liệu của
Pierre de Joinville
[1914] và Cordier [T’oung Pao,
1904 và 1908]).
Ngày 22/1/1818, de Kergariou rời
Tourane. Về tới Brest
vào tháng 10/1818. [18/6/1815: Napoléon
thua trận
Waterloo. Bị lật đổ. Dòng họ Bourbons
trở lại].
100. ÐNTLCB, II,
10:181-183;
Thư ngày 25/6/1822, Chaigneau gửi
Baroudel; BAVH, Xè, no.
1 (1923), tr. 87; Thư ngày 20/7/1822,
Vannier gửi Baroudel
(không nên trở lại gặp Minh Mạng; vua
không ưa
Ki-tô giáo và chỉ chờ cơ hội bài đạo);
Cadière, "XII: Leur correspondance;"
BAVH, XIII, no. 4
(10-12/1926), tr. 438-439.
101. SHM (Vincennes),
GG2 44,
Carton 3 [Tuyên bố ngày trong phiên họp
thứ ba của
Ủy Ban Cochinchine vào tháng 5/1857].
102. ÐNTLCB, III,
23:397,
24:288, 25:173-174. (Guizot làm Bộ
trưởng Ngoại giao từ
ngày 29/10/1840 tới 24/2/1848).
103. ÐNTLCB, IV,
26:243-5.
104. ÐNTLCB, 26:79,
243-245,
255-256; AMAE (Paris), Mémoires et
documents, Asie, hộp
27-bis; SHM (Vincennes), GG2-44, carton
3; Nguyên Vũ, Paris
Xuân 1996, tr. 210-211; Abbé
Chevroton, Vie de Mgr. Cuénot
(Paris: 1870), tr. 234-235. Xem
thêm Gosselin 1904:123.
105. ÐNTLCB, III,
26:329.
106. ÐNTLCB, IV,
28:294, 296,
307 [Montigny], 309 [Montigny bỏ đi],
313 [Ðào Trí
xin tu sửa phòng lũy]; LTTƯ 2, CBTÐ, 3/1
TÐ X, 1-2, CB
190:1-2; & 6/1 TÐ X, 1-2, CB 190:3-4
[2003:48]; SHM
(Vincennes), GG2 44, Carton 3; Louvet
II:256; Milton E. Osborne, The
French
Presence
in
Cochinchina
and
Cambodia,
Rule
and
Response
(1859-1905) (Ithaca, NY: Cornell
Univ Press, 1969), tr.
27-28. Sẽ
dẫn: Osborne 1969.
107. ÐNTLCB, IV,
28:340, 361;
TTLTTƯ II (TP/HCM), CBTÐ, 29/8 TÐ X
[6/11/1857], 8-9, CB
210:95-97; Cao Huy Thuần, 1990:49-50;
Nguyễn Xuân Thọ 1995:20.
Copyright 2007, by
Chieu Ngu
Vu & Van Hoa Publishing Co. All
Rights Reserved.
Nguồn:
http://www.hopluu.net
|
|
Giới
Thiệu Sử Gia Vũ Ngự Chiêu

Tiến
Sĩ Vũ Ngự
Chiêu
(ảnh của
PBase.com)
Chính
Đạo là một
trong hai bút danh của Vũ Ngự
Chiêu.
Bút danh kia là Nguyên
Vũ, rất nổi tiếng ở Miền Nam
trước năm 1975. Trước 1975, Vũ Ngự Chiêu
phục vụ trong binh
chủng Pháo Binh Dù, QLVNCH, và đã có
hơn 20 tác phẩm xuất bản. Sau khi ra hải
ngoại, ông vừa
tiếp tục cầm bút vừa đeo đuổi việc học. Tốt
nghiệp Tiến Sĩ Sử
tại Đại Học Wisconsin-Madison năm 1984, sau
khi cùng gia
đình di chuyển về Houston, ông là Giám Đốc
nhà xuất bản Văn Hóa và tốt nghiệp Tiến Sĩ
Luật
tại Đại Học Houston năm 1999.
Những
tác
phẩm
của
Vũ
Ngự
Chiêu
xuất
hiện
trước năm 1975
dưới bút danh Nguyên Vũ gồm có Đời
Pháo Thủ (bút ký), Những Cái Chết Vô
Danh (tập truyện), Trở Về Từ Cõi Chết
(truyện), Vòng Tay
Lửa (trường thiên), Thềm Địa Ngục (truyện),
Đêm Hưu Chiến
(truyện), Sau Bảy Năm Ở Lính (bút ký), Đêm
Da Vàng (trường thiên), v.v. Tại hải
ngoại, Vũ Ngự
Chiêu đã in thêm các tập Xuân buồn
thảm: Cuộc Sụp Đổ của Nam Việt Nam (bút ký),
Trận Chiến
Chưa Tàn (truyện), Giặc Cờ Đỏ (trường thiên),
cùng
hai tâm bút Paris: Xuân 1996, và Ngàn
Năm Soi Mặt.
Về
nghiên
cứu
sử
học,
ông
đã
in
ba
tác phẩm
bằng tiếng Anh dưới tên thực, và 10 biên khảo
bằng
Việt ngữ với bút danh Chính Đạo. Biên khảo duy
nhất
bằng Việt ngữ ký tên thực của ông là bộ
Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, 1883-1945, gồm ba
tập. Những
tác phẩm ký tên Chính Đạo thường được viết
cho độc giả không chuyên môn, dễ đọc hơn,
không
quá khô khan như các biên khảo đúng
yêu sách bác học.
Ông
vừa
xuất
bản
tác
phẩm
mới
nhất
với
tựa đề Cuộc
Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975, tập I, gồm
5 phần: Sơ lược
tiểu sử Tổng thống Jean Baptiste Ngô Đình Diệm
(1897-1963); Từ Điện Biên Phủ tới Geneva; Cuộc
truất phế Bảo Đại;
Mùa Phật Đản đẫm máu (1963); và “Phiến Cộng”
trong
Dinh Gia Long.
Sau
năm
1975
ở
hải
ngoại,
có
những
dòng
thác ngụy
tạo ngụy biện nhằm vặn méo sử kiện để chạy tội
và biện
minh cho sự vô minh của mình, Vũ Ngự Chiêu đã
dần dần xuất hiện như một nhà sử học
khai sáng
và can trường. Giá trị tinh thần của người trí
thức không chỉ là tôn trọng sự thật mà
còn nói lên sự thật và chấp nhận hậu quả của
quyết định can trường đó. Đó là một sự đổi đời
tâm linh có ý nghĩa đã hình
thành nơi Vũ Ngự Chiêu. Huyền thoại và huyễn
mị
lịch sử đã làm cho người Việt xa nhau, chỉ có
sự
thật mới làm cho người Việt gần lại với nhau,
trong tình
dân tộc, nghĩa đồng bào. Những tác phẩm mới
của Vũ
Ngự Chiêu là một đóng góp sáng
giá và có ý nghĩa trong chiều hướng
đó.
Trích
Từ
:
http://www.chuyenluan.net
|

Trang mạng Việt Nam Văn
Hiến
Trang Liên Hệ Việt Nam và Pháp
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến
những biên khảo, sáng tác và ý kiến
của quý vị và các bạn nhằm mục
đích bảo tồn di sản văn hóa và phục hồi nền an lạc
& tự chủ của Việt tộc.
|