|
1. Cháu ba đời
Viêm Đế họ Thần Nông tên là Đế Minh, sinh ra
Đế Nghi, rồi đi nam tuần đến Ngũ Lĩnh, gặp được nàng con
gái Vụ Tiên đem lòng yêu mến mới cưới về,
sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông minh
túc thành; Đế Minh lấy làm lạ, cho nối ngôi
vua; Lộc Tục cố nhường cho anh, Đế Minh lập Đế Nghi làm tự
quân cai trị phương Bắc, phong Lộc Tục làm Kinh Dương
Vương cai trị phương Nam, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ Quốc.
2. Kinh Dương Vương
xuống Thủy Phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long
Nữ, sinh ra Sùng Lãm tức là Lạc Long Quân;
Lạc Long Quân thay cha để trị nước, còn Kinh Dương Vương
thì không biết đi đâu. Lạc Long Quân dạy
dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về quân thần,
tôn ty, có luân thường về phụ tử, phu phụ; hoặc
có lúc đi về Thủy Phủ nhưng trăm họ vẫn được yên
ổn. Dân lúc nào có việc cần thời kêu
Lạc Long Quân: “Bố đi đàng nào, không đến
mà cứu chúng ta” (người Nam gọi cha bằng Bố, gọi
quân bằng vua là tự đấy), thì Lạc Long Quân
lập tức đến ngay, uy linh cảm ứng không ai có thể trắc
lượng được. 3. Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc;
nhân khi thiên hạ vô sự, sực nhớ đến chuyện ông
nội là Đế Minh nam tuần gặp được tiên nữ Đế Lai bèn
khiến Xi Vưu tác chủ quốc sự mà nam tuần qua nước
Xích Quỷ, thấy Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước
không vua, mới lưu ái thê là Âu Cơ
cùng với bộ chúng thị thiếp ở lại hành tại. Đế Lai
chu lưu khắp thiên hạ, trải xem tất cả hình thể,
trông thấy kỳ hoa, dị thảo, trân cầm dị thú,
tê tượng, đồi mồi, kim ngân, châu ngọc, hồ
tiêu, nhũ hương, trầm đàn, các lọai sơn hào
hải vị không thứ nào là không có;
khí hậu bốn mùa lại không nóng không
lạnh, Đế Lai ái mộ quá, quên cả ngày về.
4. Nhân
dân nước Nam khổ về sự phiền nhiễu, không yên ổn như
xưa, đêm ngày mong đợi Long Quân về nên mới
đem nhau kêu rằng:
- Bố ở phương
nào, nên mau về cứu nhân dân.
Lạc Long Quân
bỗng nhiên lại về, thấy nàng Âu Cơ ở một
mình, dung mạo đẹp lạ lùng, yêu quá, mới
hóa ra một chàng nhi lang phong tú mỹ lệ, tả hữu
thị tùng đông đảo, tiếng đàn ca vang đến
hành tại. Âu Cơ trông thấy mà lòng
cũng ưng theo; Long Quân bèn rước nàng về
núi Long Trang. Đế Lai về không thấy Âu Cơ
bèn sai quần thần tìm khắp thiên hạ. Long
Quân có thần thuật, biến hiện trăm cách, nào
là yêu tinh quỷ mị, nào là long xà hổ
tượng, kẻ đi tìm úy cụ, không dám lục đảo
tận cùng. Đế Lai trở về bắc truyền ngôi cho Đế Du
Võng. Du Võng truyền lại cho Xi Vưu cùng với
Hòang Đế đánh nhau ở Bản Tuyền và Trác Lộc
không hơn nên tử trận. Họ Thần Nông bèn mất.
5. Âu Cơ ở với
Lạc Long Quân giáp một năm, sinh ra một bọc trứng, cho
là điềm không hay nên đem bỏ ra ngòai đồng
nội; hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng
là một con trai, bà đem về nuôi nấng, không
cho ăn, cho bú mà tự nhiên trường đại, trí
dũng song tòan, ai cũng úy phục, bảo nhau đó
là những anh em phi thường.
Long Quân ở lâu dưới Thủy Phủ; mẹ con ở một mình,
nhớ về Bắc quốc liền đi lên biên cảnh; Hoàng Đế
nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan
tái; mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi
Long Quân:
- Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ!
Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp mẹ con ở Tương Dã.
Âu Cơ nói:
- Thiếp vốn người Bắc, cùng ở một nơi với quân, sinh được
một trăm trai mà không có gì cúc
dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta
là người không chồng không vợ, một mình
vò võ.
Long Quân bảo:
- Ta là
loài rồng, sinh trưởng ở thủy tộc; nàng là giống
tiên, người ở trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng
khí âm dương hợp lại mà có con, nhưng phương
viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở
cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm
mươi trai về Thủy Phủ phân trị các xứ, năm mươi trai theo
nàng ở trên đất, chia nước mà cai trị, dù
lên núi xuống nước nhưng có việc thì
cùng nghe, không được bỏ nhau.
6. Trăm trai đều nghe mệnh, rồi mới từ giã ra đi. Âu Cơ
cùng với năm mươi người con trai ở tại Phong Châu
(bây giờ là huyện Bạch Hạc), tự suy tôn người
hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng
Vương, quốc hiệu là Văn Lang; về bờ cõi của nước
thì Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc
đến Động Đình Hồ, Nam đến nước Hồ Tôn Tinh (bây giờ
là nước Chiêm Thành), chia trong nước làm
mười lăm bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc
Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh,
Hòai Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quận,
sai các em phân trị, đặt em thứ làm tướng
võ, tướng văn; tường văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ
gọi là Lạc Tướng; con trai vua gọi là Quan Lang, con
gái gọi là Mỵ Nương, quan Hữu ty gọi là Bố
Chính, thần bộc nô lệ gọi là nô tỳ, xưng thần
là khôi, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo,
thay đời truyền cho nhau đều hiệu là Hùng Vương
không đổi.
7. Dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh
cá, thường bị giao long làm hại nên bạch với vua.
Vua bảo rằng:
- Ở núi là lòai rồng cùng với thủy tộc
có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét
dị cho nên mới xâm hại.
Bèn khiến lấy mực châm hình trạng thủy quái
ở thân thể, từ đó tránh được nạn giao long cắn hại;
cái tục văn thân của Bách Việt thực khởi thủy từ
đấy.
8. Ban đầu quốc dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây
làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm; lấy cốt gạo
làm rượu, lấy cây quang lang, cây soa đồng
làm bánh; lấy cầm thú, cá tôm
làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối; lấy dao cày,
lấy nước cấy; đất trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm, gác
cây làm nhà để tránh nạn hổ lang; cắt ngắn
đầu tóc để tiện vào rừng núi, con đẻ ra lót
lá chuối cho nằm; nhà có người chết thì
giã cối gạo để cho hàng xóm nghe mà chạy
đến cứu giúp; trai gái cưới nhau trước hết lấy muối
làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu để làm lễ
thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng
cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới tương thông;
lúc bấy giờ chưa có trầu cau nên phải thế.
9. Bách Nam là thủy tổ của Bách Việt vậy.
----------------------------
Chú thích:
2. Xích Quỷ: xin chớ hiểu quỷ là quỷ đỏ, mà phải
hiểu là lớn lao và thường đi với chữ chủ để chỉ người
có quyền lớn lao ở miền Nam (xem Việt Lý Tố Nguyên
tr.355). Còn Xích là phần tinh hoa nhất, cự
phách nhất (xem tự điển Thiều Chửu chữ Xích). Vậy
Xích Quỷ có nghĩa là làm chủ chốt
cái tinh hoa của miền Nam, có thể nói là
miền xích đạo, miền nông nghiệp lúa Mễ.
3. Tuy tả cảnh đất phì nhiêu, khí hậu không
nóng không lạnh, nhưng cũng nên hiểu cả về môi
sinh tinh thần là không thái quá hay bất cập
v.v…
4. Có người sợ mang tiếng cho Âu Cơ dâm loạn hai
chồng… nên đổi chữ vợ ra con gái, nhưng không
nên làm thế.
5&6. Đây là lúc mẫu tộc chuyển sang phụ tộc
nhưng một cách rất đặc biệt nên ảnh hưởng mẫu tộc
còn lại rất nhiều, tô điểm cho văn hóa Kinh
Hùng nét đặc trưng rất đáng quý (xem
tòan vài VII Còn Mẹ). Có bản nói
Long Quân ở lâu dưới Thủy Phủ quên mình
có con, các con cũng không biết mình
có cha. Nói vậy là tỏ ra mẫu tộc còn mạnh,
lúc con mới biết có mẹ.
7. Xâm mình là bước cuối cùng trên con
đường thờ vật tổ. Bước trước lá ăn vật tổ theo nghi thức tham dự
linh thiêng (communion sacramentelle) sau đến vẽ hình vật
tổ lên mình, để rồi cuối cùng chuyển ra vật biểu
trong đợt minh triết. Vẽ mình tức đã ra vòng
ngòai nhiều, nên rồng ghét, nhưng nhờ vẽ
mình rồng (chỉ tiềm thức) nên còn hòa giải
được. Không xảy ra vụ giết rồng như Tây Au.
8. Gác cây làm nhà sàn: giá
mộc vi ốc. So với câu “giá mộc kết thảo vi cư”, lại so với
hình vẽ nhà sàn trên trống đồng thì
nhận ra đó là nhà sàn, và đã
đủ dữ kiện để biểu thị trời, người, đất rồi. Lấy cây quang lang,
cây xoa đồng làm bánh. Đây cũng hàm
ý siêu hình, cây quang lang chỉ người
sáng suốt kiểu nữ thần mộc.
- Giã cối làm hiệu: đó là tục sẽ dẫn đến
việc đúc trống đồng. |
Cập nhật (
04/01/2008 ) |
|
10. Trong biển Đông Hải có
loài Ngư tinh, mình dài hơn năm mươi trượng,
có nhiều chân giống như chân rết, biến hóa
vô cùng, linh dị khó dò được; mỗi khi đi
đâu thì nổi cơn mưa gió, hay ăn thịt người, ai cũng
đều sợ hãi.
11. Thời thượng cổ có loại cá mặt giống như mặt người,
thường đi chơi trên bờ Đông Hải, hóa thành
hình người, ngôn ngữ thông hoạt dần dần sinh lớn ra
người trai gái, lấy cá tôm, hến ốc làm vật
ăn; lại có giống người mới sinh ở hải đảo lấy sự bắt người
làm sinh nhai, cũng thành ra người, cùng với
đàn ông đổi chác các phẩm vật như muối gạo,
áo quần, dao búa, thường qua lại ở biển Đông Hải.
12. Trong có núi Ngư tinh, miệng răng nhô ra
ngoài bờ biển, ở dưới núi có một chiếc hang lớn,
đó là nơi cư trú của Ngư tinh; thuyền nhân
dân qua lại phần nhiều bị hại; phong ba hiểm yếu, họ không
có đàng nào mà tránh; muốn mở một
lối đi ngã khác thì họ lại gặp cát
đá không thể nào đào được.
Một đêm kia, có tiên xuống moi đá làm
kênh cho sự thông hành của loài người được
tiện lợi; kênh sắp được đào xong thì Ngư tinh
hóa ra một con gà trắng gáy ở trên
núi; quần tiên nghe thấy ngỏ là trời gần
sáng nên đều tự nhiên bay đi hết, nay gọi là
đường Phật.
13. Lạc Long Quân thương dân bị hại mới làm một con
thuyền lớn, ra lệnh cho Thuỷ Dạ Xoa cấm thần biển không được
làm gió sóng, chèo thuyền đến núi
Ngư tinh, giả đem một người đến cho Ngư tinh ăn; Ngư tinh há
miệng toan nuốt, Long Quân liền lấy một khối sắt nướng đỏ liệng
vào miệng cá; Ngư tinh vùng vẫy nhảy đến
đánh thuyền; Long Quân chém được khúc
đuôi, lột da treo lên trên núi, nay gọi
là Bạch Long Vỹ; khúc đầu trôi ra ngoài
biển, hóa ra chó mà chạy mất; Long Quân lấy
đá lấp biển thì chém được, nó bèn
hóa ra đầu chó, nay gọi là Cẩu Đầu; khúc
mình trôi vào Man Cầu, nay gọi là Cầu Man
Cẩu là bởi đó vậy.
---------------------------
Chú thích:
11. Trong truyện nói cá ăn thịt người có thể do
cướp bể xa xưa mà có hình ảnh này. Nhưng
xem huyền thoại Tàu thì có lúc họ nhận
cá làm vật tổ, đến đời nhà Tần còn nhận như
vậy và do đấy có những truyện tế người cho Hà
Bá. Nên lưu ý người Tàu xưa năng dùng
hoa văn cá là liên hệ với tin tưởng ở đây. Về
phương diện này Lạc Long Quân tiến sớm hơn phương bắc.
12. Gà trắng sẽ thấy xuất hiện trong truyện Kim Quy, cũng đều
không tốt: gà (cung Dậu) cũng như sắc trắng đều nằm về
phía tây.
13. Khối sắt nung đỏ ném vào miệng cá có
thể chỉ văn hóa Viêm phương hành hỏa chống lại văn
minh du mục bắc phương (cá là hành thuỷ phương
bắc).
|
Cập nhật (
04/01/2008 ) |
|
14. Thành Thăng Long
ngày xưa gọi là đất Long Biên, đời thượng cổ chưa
có người ở. Đến đời vua Lý Thái Tổ chèo
thuyền ở sông Nhị Hà, có hai con rồng dẫn thuyền
đi, nhân đó mới đặt tên là Thăng Long
và đóng đô ở đấy, tức là kinh thành
ngày nay vậy.
15. Buổi đầu, chỗ đất này về phía Tây có một
ngọn núi đá, dưới núi có một cái
hang, có một con hồ chín đuôi sống hơn một
nghìn năm thành ra yêu quái, biến hóa
vạn trạng, có lúc hóa người, lúc hóa
khỉ, đi khắp cả nhân gian. Lúc bấy giờ ở dưới chân
núi Tản Viên có giống người mọi gác
cây kết cỏ mà ở, trên núi có một vị
thần được mọi người phụng thờ. Vị thần ấy dạy cho mọi người cầy ruộng,
dệt vải, may áo trắng mà mặc, nhân đó gọi
là bạch y man. 16. Hồ chín đuôi hóa ra người
áo trắng nhập vào trong bọn mọi, cùng lũ mọi ca
hát, dụ dỗ được người con trai, con gái nào
thì đem về nhốt ở hang đá; người mọi lấy làm khổ
sở về việc ấy.
17. Long Quân mới sai bộ hạ Thuỷ Phủ dâng nước lên
đánh phá núi Tiểu Thạch Sơn, đào
thành một cái đầm lớn, chính giữa thành
có một chiếc vực sâu, gọi là Thi Hồ Trạch (nay
là Hồ Tây) rồi lập chùa quán để trấn yểm nữa
(nay là Thiên Niên Quán), bờ phía
Tây bên đầm thì đồng nội bằng phẳng, ruộng ao cầy
cấy, gọi là Lỗ Hồ Động. Chỗ nào cao ráo thì
đều có dân cư, tục gọi là Hồ Thôn. Còn
cái hang nay gọi là Lỗ Hồ Đàm vậy.
----------------------
Chú thích:
14. Thăng Long thành đặt giữa hai sông rõ
ràng bao hàm ý sông Tương nước chảy hai
dòng. Còn sự giữ được nét song trùng
là nhờ có Thăng Long tức Việt lên siêu
hình. Xin nhớ Lạc Long Quân với Âu Cơ gặp nhau ở
Tương Dã (H.5 thì cũng hàm ý sông
Tương.
15. Phía tây chỉ mưu trí liên hệ với
cáo già, cũng gặp được trong lễ Na có đoạn
đánh hổ rừng: “đả dã hổ”, nhưng nực cười là chữ hổ
bộ cẩu lại cũng có nơi viết bộ cổ để chỉ Hung Nô
phía tây bắc (Danses, 327). Hồ tinh liên hệ với Ngư
tinh (lẽ ra phải nói Bắc mới là hành thuỷ (nơi ở
của cá), thế mà sách lại nói đông
thì chắc là do thói thường chỉ mạn đông bắc)
cả hai loài Hồ tinh và Ngư tinh không bị diệt hẳn
nên còn quấy phá văn hóa phương nam đến tận
nay.
16. Truyện này có thể hàm ý du mục
phá nông nghiệp. Óc du mục quỷ quyệt được chỉ bằng
hồ 9 đuôi, bắt người nhốt hang như Cộng sản nhốt người ta
vào hang ý hệ Mác-Lê, nói là
hang vì trừ thuyết Mác-Lê ra thì không
cho dân nghe hay xem chi bên ngoài. Các
sách vở khác đều đốt hết như Tần Thuỷ Hoàng xưa.
17. Long Quân truyền thuỷ bộ phá Hồ. Có sách
thêm Long Quân truyền cho “thuỷ phủ tam quan” làm
việc đó, thì tam chỉ đạo ba của nông nghiệp.
Có truyền thuyết nói là Kim Ngưu Tự (chùa
trâu vàng). Trâu là nông nghiệp.
Vàng là trung cung màu của Việt tộc. |
Cập nhật (
04/01/2008 ) |
4- Truyện Phù
Đổng Thiên Vương
|
|
|
|
|
44. Đời Hùng Vương thứ ba,
thiên hạ thái bình, dân vật đầy đủ. Ân
Vương
lấy sự thiếu lễ triều cống, giả đi tuần thú để xâm chiếm
nước ta.
45. Hùng Vương nghe được mới triệu quần thần hỏi về kế hoạch
đánh hay giữ. Có nhà phương sĩ dâng lời
rằng:
- Không gì bằng cầu Long Quân để nhờ âm
phù.
Hùng Vương nghe theo mới đắp đàn trai giới, đặt
vàng bạc lụa là ở trên bàn, đốt hương cầu tế
ba ngày thì trời cảm sấm mưa, thoắt thấy một ông
già cao hơn sáu thước mặt vuông, bụng lớn,
râu mày bạc phơ, ngồi ở ngã ba mà nói
cười ca múa; người ta trông thấy, ngờ là người phi
thường mới tâu với vua. Vua thân hành ra bái
yết, rước vào trong đàn; ông già không
ăn uống, không nói năng gì cả.
Hùng Vương đến trước hỏi rằng:
- Nay binh nhà Ân sắp sang đánh, hơn thua ra sao,
nếu
có kiến thức gì xin bày cao cho.
46. Ông
già giây lát mò thẻ ra bói, thưa với
vua rằng:
- Sau ba năm giặc mới qua đánh.
Vua lại hỏi kế hoạch để đánh giặc, ông già
đáp rằng:
- Nếu có giặc đến thì phải nghiêm chỉnh khí
giới, tinh luyện sĩ tốt để cho nước có uy thế, rồi tìm
khắp thiên hạ có ai dẹp được giặc thì phong cho
tước ấp, hễ được người ấy thì dẹp được giặc ngay.
Nói đoạn, bay lên không mà đi, mới biết
đó là Long Quân.
47. Vừa
đúng ba năm, biên binh cáo cấp có quân
Ân sang, Hùng Vương y theo lời nói của lão
nhân, sai sứ đi khắp thiên hạ để tìm người dẹp giặc.
48. Sứ giả đến
làng Phù Đổng, quận Vũ Ninh, trong làng có
một ông nhà giàu đã hơn sáu mươi tuổi
mới sinh được một người con trai ba tuổi không biết nói,
chỉ nằm ngửa không ngồi dậy được. Bà mẹ nghe Sứ giả đến,
nói bỡn với con rằng:
- Sinh được thằng
này thì chỉ biết ăn uống chớ không biết đánh
giặc để lĩnh thưởng của triều đình mà đền ơn bú
mớm.
Đứa trẻ nghe mẹ,
thình lình nói lên rằng:
- Mẹ hãy gọi Sứ
giả vào đây, con hỏi thử xem là việc gì.
Bà mẹ cả kinh,
mừng rỡ báo với xóm làng:
- Con tôi
đã biết nói.
Xóm giềng cũng
lấy làm lạ mới rước Sứ giả về nhà.
49. Sứ giả hỏi rằng:
- Mầy là đứa
trẻ mới biết nói mà bảo kêu ta đến làm
gì?
Đứa trẻ mới ngồi dậy
bảo Sứ giả rằng:
- Lập tức về tâu
với vua đúc cho ta một con ngựa sắt cao mười tám thước,
một gươm sắt dài bảy thước, một cái nón sắt, trẻ
này cỡi ngựa, đội nón đi đánh giặc cho, giặc sẽ
phải tan tành, nhà vua việc gì mà lo.
50. Sứ giả chạy về
trình cáo với vua. Vua mừng bảo rằng:
- Thế thì ta
không lo gì vậy.
Quần thần đều
tâu:
- Một người
đánh giặc làm sao phá nổi?
Vua nói:
- Đó là
Long Quân giúp ta, lời lão nhân đã
nói trước không phải là lời nói không,
các ngươi không nên ngờ.
Rồi sai người
tìm sắt cho được năm mươi cân luyện thành ngựa sắt,
gươm sắt và nón sắt; Sứ giả đem tất cả đến; bà mẹ
thấy thế cả kinh, sợ họa đến cho mình, lo sợ hỏi con.
Đứa trẻ cả cười
nói rằng:
- Mẹ đem cơm thật
nhiều cho con ăn, con đi đánh giặc, mẹ đừng lo sợ.
51. Rồi đứa trẻ lớn
rất mau, áo cơm hàng ngày bà mẹ cung cấp
không đủ, hàng xóm nấu thêm cơm, làm
thịt trâu, rượu, bánh, trái, thế mà đứa trẻ
vẫn không no bụng; vải lụa gấm vóc mặc chẳng kín
hình, đều phải lấy thêm hoa cây hoa lau mà
che nữa.
52. Đến khi quân
nhà An kéo đến Trâu Sơn, đứa trẻ mới duỗi
chân đứng dậy, mình cao hơn mười trượng, nghểnh mũi
mà nhẩy, nhẩy mũi hơn mười tiếng rồi tuốt gươm nói lớn
lên rằng:
- Ta là
Thiên Tướng đây!
Bèn đội
nón nhảy lên ngựa, ngựa phi như bay, múa gươm
xông đến trước, quan quân theo sau đến sát lũy giặc,
dàn trận dưới núi Trâu Sơn. Quân An cả vỡ,
trở giáo chạy lùi, An Vương chết ở Trâu Sơn,
còn dư đảng thì la liệt sụp lạy và hô rằng:
- Thiên tướng,
chúng tôi hết thảy xin đầu hàng.
53. Đứa trẻ đi đến
núi Việt Sóc mới cởi áo mặc rồi cưỡi ngựa bay
lên trời, chỉ lưu dấu chân trên đá ở dưới
núi mà thôi.
Hùng Vương nhớ
đến công lao, không biết lấy gì đền báo mới
tôn làm Phù Đổng Thiên Vương, lập đền thờ ở
vườn nhà làng ấy, cho ruộng một trăm khỏanh để làm
lễ hưởng tế xuân thu.
Đời nhà An hai
mươi bảy vua, trải qua sáu trăm bốn mươi năm, không
dám đem binh sang đánh nữa.
54. Man Di bốn phương
nghe được như vậy cũng đều thần phục, về phụ với Vương. Sau vua
Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên Thần Vương,
lập miếu tại Phù Đổng (nay ở huyện Tiên Du) bên
chùa Kiến Phúc, tạc tượng ở núi Vệ Linh,
xuân thu đều có tế lễ vậy.
Có bài
thơ rằng:
Vệ
Linh năm tháng đám mây nhàn.
Muôn tía nghìn hồng chói thế gian.
Ngựa sắt ở trời, danh ở sử.
Uy linh lừng lẫy khắp giang san.
---------------------------------
Chú thích:
44. Có bản chỉ nói Hùng Vương. Bản khác
nói Hùng Vương thứ 6, thế là sai với tòan
bích nói đến số 3 năm lần:
- Cầu đảo 3 ngày.
- Ngồi ở ngã ba đường.
- 3 năm nữa giặc đến.
- Ba năm sau.
- Trẻ 3 năm mới nói.
Như vậy đủ biết là ý ẩn trong số 3 đã quá
rõ.
45. Có bản nói ông già cao hơn 9 thước
thì đúng hơn 6 thước, vì tự 3 tới 9 là bộ
huyền số đi đôi.
50. 50 cân sắt làm sao đủ đúc ngựa, kiếm, mũ, roi?
Vậy quả là nghĩa huyền sử 3, 5, 9 đầy đủ.
51&54. Ý sâu xa là tòan dân
ngày thường chỉ biết ăn làm những khi giặc đến nhà
thì đàn bà còn phải đánh nữa
là đàn ông. Câu truyện nói lên
tình đòan kết quốc gia mà hội nghị Diên Hồng
là thí dụ. Thánh Dóng như vậy đã
hiện hình đẩy xâm lăng rất nhiều lần. |
Cập nhật (
04/01/2008 ) |
5- Truyện Tiên Dung - Chử Đồng
Tử
29. Hùng
Vương truyền ngôi đến vua cháu ba đời, có sinh được
một người con gái tên là Tiên Dung Mỵ Nương, tuổi vừa mười tám,
dung mạo tú lệ, nguyện không lấy chồng, chỉ thích
ngao du thiên hạ. Vương chiều mà nghe theo. Mỗi năm khỏang
tháng hai, tháng ba, nàng sửa soạn thuyền ghe,
lênh đênh ngòai biển, vui chơi quên cả
ngày về.
30. Lúc bấy giờ
ở làng Chử Xá có người tên là Chử Vy
Vân sinh được một người con trai tên là Chử Đồng Tử, hai cha con tính vốn hiền
lành, nhà nghèo lại gặp nhà cháy,
của cải khánh kiệt tận chỉ cò một cái khố vải, cha
con ra vào thay đổi nhau mà mặc. Bị bệnh già, cha
bảo con rằng:
- Ta chết thì
chôn lộ thể cũng được, để cái khố lại cho con mặc kẻo xấu
hổ.
31. Cha chết, người
con không nỡ làm thế, cứ để cả khố mà chôn.
Chử Đồng Tử bấy giờ thân hình trần truồng, đói
rét khôn xiết, mới cầm cần câu đi đến bờ sông
câu cá, trông thấy thuyền buồm đi qua, đứng dưới
nước mà xin ăn. Nào ngờ thuyền của Tiên Dung bỗng
đến đó; nghe thấy tiếng chuông trống đàn
sáo, thấy những nghi trượng cờ xí, Đồng Tử sợ hãi,
không biết trốn vào đâu, trông thấy trong
bãi phù sa có chòm lau sậy, lơ thơ năm ba
gốc, bèn ẩn thân vào đó, đào
cát thành huyệt để giấu mình, lại lấy cát
vùi lên trên. 32. Giây lát, thuyền của
Tiên Dung ghé vào đó; nàng dạo chơi
trên bãi cát, truyền lấy mùng màn
vây kín cả chỗ lau sậy để tắm.
33. Tiên Dung
vào trong màn, cởi áo múc nước dội tắm;
cát chảy, thân hình Đồng Tử lộ ra, hồi lâu
Tiên Dung biết là con trai. Tiên Dung nói:
- Ta đã
không thích lấy chồng, nay lại gặp người này
cùng lộ thân với nhau trong một huyệt cát,
có lẽ trời khiến thế chăng? Thôi ngươi hãy dậy
mà tắm rửa đi.
Rồi ban cho áo
quần, cùng nhau xuống thuyền ăn uống hoan lạc; người trong
thuyền đều cho là một sự gặp gỡ tốt lành xưa nay chưa
từng có.
34. Đồng Tử nói
rõ sự tích cho Tiên Dung nghe; Tiên Dung
thương xót, bảo làm vợ chồng. Đồng Tử cố từ. Tiên
Dung nói:
- Việc này tự
trời tác hợp, việc gì mà từ chối?
35. Những người
tháp tùng vội đem việc ấy tâu lên với
Hùng Vương; Hùng Vương giận bảo rằng:
- Tiên Dung
không biết trọng danh tiết, không biết tiếc tiền của ta, đi
chơi giữa đường lại hạ giá, lấy người nghèo, còn
mặt mũi nào mà thấy ta nữa, từ nay mặc kệ nó,
không cho trở về nước nữa.
36. Tiên Dung
nghe tin, sợ không dám trở về mới cùng với Đồng Tử
mở chợ búa, lập phố xá, cùng nhân gian mậu
dịch, dần dần nơi ấy thành một ngôi chợ lớn (nay là
chợ Hà Lõa); thương nhân ngọai quốc qua lại
buôn bán, kính sự Tiên Dung Đồng Tử
làm chủ.
37. Có một
nhà đại thương đến nói với Tiên Dung rằng:
- Quý
nhân xuất ra một thoi vàng, năm nay cùng với người
nhà buôn ra ngòai biển mà mua vật
quý, sang năm sẽ lời được một thoi.
Tiên Dung bảo
Đồng Tử rằng:
- Vợ chồng ta do trời
định khiến, ăn mặc là của trời cho, bây giờ nên lấy
một thoi vàng cùng với người nhà buôn đi ra
biển mà mua hàng đem về làm kế sinh nhai.
38. Đồng Tử bèn
cùng đi với người nhà buôn; ngòai biển
có một hòn núi tên là Quỳnh
Viên Sơn; trên núi có một chiếc am nhỏ, người
đi buôn ghé thuyền ở đấy mà múc nước; Đồng
Tử lên chơi trên am, có một tiểu tăng tên
là Phật Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử mới lưu
lại am nghe thuyết pháp, giao vàng cho người đi
buôn mua hàng, dặn lúc nào trở về thì
ghé lại am để cho Đồng Tử về. Nhà sư mới tặng cho Đồng Tử
một cái gậy và một cái nón, bảo rằng:
- Linh thông tại
đây đó.
Đồng Tử trở về, đem
chuyện đạo Phật nói hết với Tiên Dung, từ đó
giác ngộ, bỏ chợ búa, nghề buôn, đem nhau đi
tìm thầy học đạo. Một hôm trời đã tối mà
chưa đến nhà trọ, họ mới ở lại giữa đường, cắm gậy úp
nón lên trên để che. Đêm đến canh ba, thấy
hiện ra thành quách, lầu son đền báu, đài
các lăng miếu, kho tàng miếu xà, vàng bạc
châu ngọc, chiếu giường, mùng màn, tiên đồng
ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ la liệt đầy ở trước mặt.
39. Sáng
ngày ai trông thấy cũng lấy làm kinh dị, tranh nhau
đem những vật hoa hương, ngọc thực đến dâng hiến và xưng
thần. Văn võ bá quan phân quân túc vệ,
biệt lập thành một nước.
Hùng Vương hay
tin cho là con gái mình làm loạn mới
phát binh đi đánh; quan quân đến rồi, quần thần xin
phân quân án ngữ.
40. Tiên Dung
rằng:
- Chuyện này
không phải tự ta làm ra, cũng là trời giun gửi;
sinh tử tại thiên, ta đâu dám chống cha, phải thuận
chịu điều chính, chờ lệnh chém giết.
Lúc bấy giờ
những người mới tập họp, sợ hãi mà chạy tán loạn,
chỉ còn bọn người cũ ở lại với Tiên Dung.
41. Quan quân
kéo đến đóng doanh ở bãi Tự Nhiên, chỉ
còn cách một con sông lớn; ngày sắp tối
nên chưa kịp tiến binh. Chừng đến nửa đêm, hốt nhiên
gió lớn thổi làm nổi sóng đổ cây; quan
quân đại loạn; bộ đảng, thành quách của nàng
Tiên Dung nhất thời nhổ đi bay lên trời; đất ở chỗ ấy sập
xuống thành một cái đầm lớn. Sáng ngày,
dân gian không trông thấy thành nữa, cho
là linh dị bèn lập miếu đường, thời thường đến tế, gọi
đầm ấy là Nhất Dạ Trạch, châu ấy là Man Trù
Châu (hoặc gọi là Tự Nhiên Châu), chợ ấy
là Hà Lõa Thị.
42. Sau đến thời Nam
Đế, binh nhà Lương sang xâm chiếm nước ta, vua sai Triệu
Quang Phục làm tướng đem binh ngăn giữ. Quang Phục điều động
dân chúng tàng ẩn ở trong đầm, cái đầm ấy
sâu rộng bùn lầy, khó bề tiến lui; Quang Phục cỡi
chiếc thuyền độc mộc qua lại cho tiện, thường nhân đêm tối,
dùng thuyền mà đột xuất đánh phá cướp lấy
lương thực, làm kế trĩ cửu cho giặc kiệt quệ. Ba bốn năm trường
giặc không đánh được. Bá Tiên than rằng:
- Đời xưa gọi
là đầm nhất dạ thăng thiên, ngày nay lại là
cái đầm nhất dạ đạo kiếp.
43. Gặp lúc Hầu
Cảnh tác loạn bên Trung Hoa, vua Lương triệu Bá
Tiên về, ủy quyền cho tỳ tướng Dương Sằn thống lĩnh quần
chúng.
Quang Phục trai giới
thiết đàn ở trong đầm, đốt hương cầu đảo. Thóat thấy thần
nhân cỡi rồng giáng xuống giữa đầm, bảo Quang Phục rằng:
- Ta lên trời
nhưng linh dị còn ở đây, người có lòng
thành cầu đảo, ta đến để giúp bình loạn tặc.
Rồi cởi vuốt rồng đưa
cho Quang Phục bảo giắt vào đầu đâu mâu, hễ
đánh đâu là được đó. Nói đoạn lại bay
lên trời. Quang Phục y như lời dặn đem binh đột kích, binh
Lương đại bại, chém được tướng Dương Sằn ở trận tiền, binh Lương
lui chạy.
Quang Phục nghe tin
Nam Đế mất, bèn tự lập lên làm Triệu Vương,
đóng đô ở quận Vũ Ninh núi Trâu Sơn.
----------------------------
Chú thích:
29. Chử Đồng Tử còn bên dưới bậc “khố rách
áo ôm”, tức khố cũng không có để mà
rách, vậy mà lấy được công chúa Hùng
Vương thì sự biểu lộ tinh thần dân chủ cao độ tuyệt
không có óc kỳ thị đẳng phái giàu
sang. Đó là điểm một.
35. Điểm hai là quyền định đoạt và sáng kiến của
Tiên Dung rất cao, không những bên trên Chử
Đồng Tử, mà còn ngòai cả quyền cha. Đó
là nói lên giai đọan mẫu tộc còn mạnh. Điểm
ba dầu vậy trời phật đều ủng hộ, khi sống cho làm ăn phát
đạt, khi chết còn được linh ứng để giúp nước.
Từ số 37 đến 39 có nhiều pha tạp lộn xộn vừa trái với
lịch sử vì lúc ấy đã có đạo Phật đâu,
lại trái với môi sinh câu truyện quyền định đoạt nơi
Tiên Dung chứ không nơi Đồng Tử. Tuy nhiên đoạn ấy
nói lên sự liên lạc mật thiết sau này giữa
đạo Tiên và đạo Phật. |
Cập nhật (
04/01/2008 ) |
6- Truyện Mộc Tinh
18. Thuộc địa
giới Phong Châu, về đời thượng cổ có một cây đại thụ
tên là Chiên Đàn, thân cao nghìn
tầng, cành lá xum xê không biết mấy
nghìn dặm, có chim thước làm ổ ở trên
cây nên chỗ đất ấy đặt tên là Bạch Hạc.
Cây Chiên Đàn trải qua không biết mấy
nghìn năm đến khi khô hủ thì hóa làm
yêu tinh, biến hiện dũng mãnh, thường sát
nhân dân.
19. Kinh Dương Vương
dùng thần thuật thắng được yêu tinh, nhưng yêu tinh
quỷ quyệt, nay ở chỗ này, mai ở chỗ khác, biến hóa
bất trác, thường ăn người sống, dân phải lập đền thờ
mà cầu đảo. Mỗi năm đến ngày ba mươi tháng chạp,
dùng một người sống làm lễ tế thì con tinh ấy mới
chịu thôi, mà nhân dân cũng được yên ổn,
tương truyền với nhau là Thần Xương Cuồng. Địa giới phía
tây nam gần nước Mi Hầu, người trong nước khiến Bà Lộ Man
(nay là phủ Diễm Châu) cướp lấy một người Lão tử
nạp làm lễ tế, năm nào cũng lễ thường như vậy. Kịp đến
khi Tần Thuỷ Hoàng sai Nhâm Ngao sang làm quan Lệnh
Long Xuyên, Nhâm Ngao đổi cái lệ đó, cấm
không được đem người sống mà tế. Thần giận, thần giết đi,
từ đó về sau sự tế thần lại càng kính cẩn. 20. Đến
đời Đinh Tiên Hoàng, có một pháp sư
tên là Dũ Văn Mẫu người Tàu, tu hành
chín chắn, tuổi hơn bốn mươi, đã chu du các nước,
thông hiểu nhiều ngôn ngữ, tập được phép nãnh
vàng răng đồng, khi sang đến nước ta thì đã
tám mươi tuổi; Tiên Hoàng lấy lễ thượng mà
đãi đằng. Dũ Văn Mẫu dậy lấy kỹ thuật phỉnh thần Xương Cuồng rồi
giết đi.
21 Từ đó miền
được cái họa dâng người hàng năm, mà sinh
hoạt của nhân dân được bảo toàn vậy.
-----------------
Chú thích:
Ba vĩ tích của Lạc Long Quân cho vào một
nhóm vì nó nói lên bước xả một
cách có hàm ngụ cơ cấu, đi theo lối khai quang sửa
soạn (via negativa) để cho Hùng Vương xây nền nhân
chủ sau này.
Truyện Mộc tinh có hai giai đoạn cuối cùng mang
tính chất ma thuật đã thêm vào sau nhiều bản
bỏ. Vậy ở đây cũng xin bỏ luôn. Xét ra nó
nghịch với tinh thần xả bỏ bái vật ma thuật của ba vĩ
tích.
18. Mộc tinh hiểu là “ma mộc” gỗ khô, tức những gì
hư hóa, nhất là các thứ dị đoan chỉ bằng xương
cuồng. Lạc Long Quân cũng đuổi đi, rồi sau có người
dùng ma thuật thì cũng chì là tạm bợ,
nên nó còn lưu hành trong dân
chúng, tuy nhiên cả ba thứ tinh không còn
nhô đầu lên văn đàn được nữa như bên Âu
Tây. Hồ tinh và Ngư tinh chỉ còn tác hại
dưới hình thức du mục võ biền. |
7- Truyện
Rùa Vàng
97. An Dương Vương nước Au Lạc
là người ở Ba Thục, họ Thục, tên Phán, nhân
việc tiên tổ cầu hôn với con gái của Hùng
Vương tên là Mỵ Nương không được nên sinh ra
hàm oán; Phán muốn hòan thành
ý chí của tổ tiên nên cử binh đánh
Hùng Vương, diệt nước Văn Lang, cải hiệu là Âu Lạc
mà ở, đắp thành ở đất Việt Thường; thành đắp xong
lại sập. Vương mới lập đàn, trai giới cầu đảo ba tháng.
98. Ngày mồng bảy tháng ba bỗng thấy một ông
già theo phương tây mà đến thẳng cửa thành,
vừa đi vừa than rằng:
- Xây đắp thành này thì bao giờ cho xong!
Vương rước vào trên điện, lạy và khóc rằng:
- Ta đắp thành này đã xong lại đổ, hao tổn
công sức mà rồi không thành là tại
làm sao?
Ông già thưa:
- Ngày nào có sứ giả Thanh Giang cùng đắp
với Vương thì thành ấy mới xong.
Nói đoạn cáo từ. 99. Rạng ngày, Vương đứng ở cửa
Đông trông ra thì thấy một con rùa
vàng theo hướng Đông mà bơi lại; rùa đứng
trên mặt nước, nói được tiếng người, tự xưng là
Thanh Giang sứ giả, biết rõ lẽ trời đất, âm dương, quỷ
thần.
Vương mừng hỏi rằng:
- Điều đó ông già đã báo cho ta rồi.
Bèn sai lấy kim dư rước vào trong thành, mời ngồi
trên điện, hỏi vì cớ gì mà thành
không đắp được.
100. Kim Quy nói:
- Ở đây có tinh khí núi sông, con
Tiên vương phụ vào để báo thù nước, lại
có con gà trắng sống ngàn năm hóa
làm yêu tinh ẩn ở núi Thất Diệu, trên
núi có con quỷ, nguyên trước là một nhạc
công chôn cất ở đây hóa ra quỷ. Ở bên
có một cái quán để cho hành khách
qua lại ngủ nhờ; chủ quán tên là Ngộ Không,
có một đứa con gái và một con gà trắng
là dư khí của quỷ thần. Hễ có người khách
nào qua lại đến đấy ngủ nhờ thì quỷ tinh hóa ra
thiên hình vạn trạng mà giết hại rất nhiều.
Bây giờ ta nên bắt con gà trắng và đứa con
gái của chủ quán mà giết đi thì tinh
quái sẽ hết. Nhưng chắc là nó lại hóa ra
yêu thư, sai chim cú ngậm thư bay lên trên
cây chiên đàn, tâu với Thượng Đế để xin
phá thành ấy đi. Thần này xin cắn cho rơi
cái thư ấy xuống, Vương lập tức thu lất tất nhiên
thành đắp mới xong.
101. Kim Quy bảo Vương giả làm khách đi đường xin ngủ nhờ
trong quán. Vương để Kim Quy ở trên ngưỡng cửa.
Ngộ Không nói:
- Quán này có yêu tinh, đêm thường
giết người, Lang Quân không nên ở lại, vả nay trời
cũng chưa tối, nên đi mau đến chỗ khác để tránh
họa.
Vương cười rằng:
- Sinh tử tại mệnh, quỷ mỵ mà làm gì, ta
không sợ.
Mới ngủ lại đó.
102. Trong đêm có quỷ tinh đến ngoài kêu rằng:
- Ai ở trong nhà này phải mở cửa ra mau.
Kim Quy mắng rằng:
- Cửa đóng thì mày làm gì nào?
Quỷ tinh phóng hỏa tan ra vạn trạng, quỷ dị đủ phương để khủng
bố nhưng rốt cuộc cũng chẳng vào được nhà.
103. Đến lúc gà gáy, các quỷ đều chạy tan,
Kim Quy khiến Vương đuổi theo đến núi Thất Diệu, quỷ tinh thu về
hết cả, Vương trở lại quán trọ.
104. Sáng ngày, chủ quán đem người đồng đến để
chôn thi thể của khách ngủ lại hôm qua, thấy Vương
ngồi đó, nói cười như không có gì cả.
Quán chủ bước đến, vái lạy rằng:
- Lang quân được như thế tức là Thánh nhân
rồi, xin ban linh thuật để cứu sinh linh.
Vương bảo:
- Hãy giết con gà trắng của mày mà tế
thì quỷ thần tan hết.
Ngộ Không giết con gà trắng thì đứa con gái
tự nhiên cũng nhào xuống chết. Vương lập tức bảo người
đào núi Thất Diệu, được một nhạc khí đời cổ
và một hài cốt, sai đốt trộn thành tro mà
quăng ra sông.
105. Lúc bấy giờ trời đã gần chiều, Vương cùng Kim
Quy leo lên núi Việt Thường, quỷ tinh đã hóa
ra chim si hưu ngậm thư bay lên cây chiên đàn.
Kim Quy bèn hóa ra một con chuột mà bò theo
sau lưng cắn chân chim; thư rơi xuống đất; Vương lập tức thu lấy
thì sâu đã ăn hết hơn một nửa rồi.
Từ đó, quỷ tinh tan hết, không lại phá phách
như xưa nữa.
106. An Dương Vương đắp thành nửa tháng đã xong;
thành dài và rộng nghìn trượng, xoáy
tròn như hình con ốc, lại đặt tên là
thành Thăng Long (chắc sai; bản của Despierres ghi là Tư
Long). Người nhà Đường gọi là thành Sát Quỷ
Lôn bởi vì thành rất cao lớn.
107. Kim Quy ở lại với Vương ba năm rồi từ về; Vương bảo rằng:
- Nhờ ơn của người, thành đã vững chắc, nếu như có
việc ngoài thì lấy gì mà chống giữ?
Kim Quy thưa:
- Quốc độ tu đoản, xã tắc an nguy là vận của trời, nhưng
người biết tu đức thì có thể lâu dài được,
Vương đã có lòng ước nguyện thì tôi
đâu dám tiếc.
Mới cởi cái móng chân đưa cho Vương và
nói:
- Thản hoặc giặc có đến thì dùng móng
này làm máy nỏ, đem ra mà đánh giặc
thì không có gì đáng lo.
Nói đoạn trở về Đông Hải.
108. Vương khiến bầy tôi là Cao Lỗ làm nỏ, lấy
móng này làm máy, hiệu là Linh Quang
Kim Trảo Thần Nỗ; sau Triệu Đà đem quân đến xâm
lăng, cùng Vương giao chiến; Vương dùng thần nỗ mà
bắn, quân Triệu Đà thua chạy, đóng đồn ở núi
Trâu Sơn, đối luỹ với Vương. Triệu Đà biết Vương có
nỏ thần nên không dám tái chiến mới khiến sứ
thỉnh hòa. Vương mừng, cắt từ sông Tiểu Giang trở về
phương Bắc cho Triệu Đà cai trị, trở về phương Nam thì do
Vương cai trị (nay là sông Nguyệt Đức).
109. Chưa được bao lâu, Đà sai con vào túc
vệ cầu hôn với con gái Vương là Mỵ Châu;
Vương bất ý không ngờ gian kế của cha con Triệu Đà;
Trọng Thuỷ dỗ Mỵ Châu trộm lấy nỏ thần cho xem, rồi lén
làm nỏ khác đổi lấy vuốt rùa giấu đi, nói
dối với Mỵ Châu là trở về Bắc thăm cha mẹ.
110. Nhân đó nói rằng:
- Tình phu phụ thì không nỡ quên, mà
ơn phụ tử cũng không nên bỏ, ta nay về thăm cha mẹ
mà vạn nhất hai nước thất hòa, Nam Bắc cách biệt,
ta trở lại tìm nàng thì nàng lấy vật
gì mà làm giấu cho ta biết.
Mỵ Châu nói:
- Thiếp là nhi nữ gặp phải bước phân ly thực khó
thắng được tình cảm; thiếp có chiếc nệm gấm lông
ngỗng thường mang trên người, đến lúc ấy thì thiếp
lấy lông ngỗng mà rải ở các ngã ba để chỉ
cho chàng biết chỗ thiếp mà đến cứu.
111. Trọng Thuỷ từ tạ, cắp nỏ mà về báo cáo với
Triệu Đà, Đà được nỏ rất mừng liền phát binh
đánh Vương; Vương không lo phòng bị, mải
đánh cờ vây, cười rằng:
- Đà không sợ nọ thần của ta sao?
Đến lúc quân Triệu Đà tiến bức, Vương mới
xách nỏ ra bắn thì thần cơ đã mất; quân chạy
tán loạn.
112. Vương chở Mỵ Châu lên ngựa chạy về hướng Nam, đến bờ
biển, cùng đường, không có thuyền để sang ngang,
Vương hét lớn lên rằng:
- Trời để mất ta hay sao? Giang sứ đâu mau đến cứu ta.
Kim Quy nổi lên trên mặt nước, mắng rằng:
- Người cỡi ngựa ở sau lưng là giặc đó, hãy giết
nó ta mới cứu.
Vương bèn tuốt gươmg chém Mỵ Châu.
Mỵ Châu ngửa mặt lên trời mà cầu xin:
- Thiếp là con gái, nếu có lòng phản nghịch
mưu hại đến phụ thân thời chết hóa thành bụi trần,
bằng như một niềm trung tín, bị người phỉnh phờ thời hóa
làm ngọc châu để rửa cái thù nhục nhã
này.
113. Mỵ Châu chết ở bờ biển, máu chảy trên nước,
hàu hến ăn vào lòng hóa thành minh
châu.
114. Vương cầm sừng văn tê bảy tấc, Kim Quy rẽ nước dẫn Vương
vào biển, đời truyền tại núi Mộ Dạ, làng Cao
Xá, châu Diễn tức là chỗ đó vậy.
115. Quân Triệu Đà đến chỗ ấy không thấy gì
hết, chỉ thấy tử thi của Mỵ Châu; Trọng Thuỷ ôm thây
nàng mà về chôn ở Loa Thành, hóa
làm ngọc thạch. Trọng Thuỷ thương cảm vô cùng, thấy
là những chỗ trang điểm hay tắm gội của Mỵ Châu, tưởng nhớ
đến hình dung của nàng bèn nhảy xuống giếng
mà chết. Sau này, ai được Ngọc Châu ở Đông
Hải, càng múc nước giếng ấy mà rửa thì sắc
ngọc càng thêm rực rỡ. Nhân tránh tên
Mỵ Châu nên gọi ngọc châu là Đại Cưu, Tiểu Cưu
vậy.
-----------------------
Chú thích:
97. Truyện Kim Quy cũng hàm ngụ triết lý cao độ,
mà kết hậu cách bi đát nhất, nhưng bi đát
mà đồng thời cũng là bi tráng với cấu kết
có hậu mặc dầu là hậu mông lung bí ẩn, nhưng
có thể hiểu vì nó đặt liền sau truyện Việt Tỉnh
Cương. |
Cập
nhật
(
04/01/2008
) |
|
116. Thời Hiến Đế
nhà Hán, quan Thái thú tên là
Sĩ Nhiếp đắp thành ở phía Nam sông Bình
Giang (nay là thành phía Nam sông
Thiên Đức). Ở phương Nam có một ngôi chùa gọi
là chùa Phúc Nham, có một nhà sư từ
phương Tây đến, hiệu là Già-La-Đồ-Lê, trụ
trì ở chùa ấy, hay làm phép đứng một
chân; trai gái, trẻ tín mộ, kính phụng
tôn hiệu làm Tôn sư, ai nấy đều cầu học đạo Phật.
117. Lúc bấy
giờ có một người con gái tên là Man Nương,
cha mẹ đều đã mất, nhà nghèo khổ nhưng cũng dốc
lòng cầu đạo, chỉ vì nói ngọng, khó tụng
kinh chung với mọi người nên thường ở sau bếp giã gạo nhặt
rau, lo việc nấu thổi để cung dưỡng các sư trong chùa
và học giả bốn phương đến học đạo.
118. Khoảng trời
tháng năm, đêm lại ngắn ngủi, Man Nương vội vã lo
thổi nấu cho xong. Nàng nấu đã xong xuôi, nhưng
các sư còn tụng kinh chưa nghỉ để ăn cháo; Man
Nương ngồi chờ, ngủ gật ở ngạch cửa không ngờ quên lửng nằm
ngủ say. Đến khi tăng đồ tụng niệm xong, ai về phòng nấy
thì Man Nương còn nằm ở cửa; nhà sư Đồ-Lê
bước ngang trên mình nàng, Man Nương hồn
nhiên tâm động, từ đó có thai. Trong khoảng
được ba bốn tháng, Man Nương lấy làm xấu hổ bỏ đi,
nhà sư Đồ-Lê cũng tránh đi đến chùa ngả ba
đầu sông mà ở. 119. Mãn nguyệt, Man Nương sinh được
một đứa con gái và tìm nhà sư để giao lại.
Đêm khuya, nhà sư Đồ-Lê đến dưới cây đa ở
ngã ba đầu sông mà đặt đứa con gái và
nói:
- Ta gửi Phật tử
này cho mày, mày giữ lấy, sau được thành
Phật đạo.
120. Sư Đồ-Lê
và Man Nương từ biệt nhau mà đi. Đồ-Lê cho
nàng một chiếc gậy và bảo rằng:
- Ta cho em cái
gậy này mà đem về, hễ gặp năm nào trời đại hạn
thì lấy gậy vẩy vẩy dưới đất tự nhiên có nước chảy
ra để cứu người ta.
Man Nương cầm gậy trở
về, lại ở chùa như trước; gặp năm trời hạn, nàng lậy gậy
vẩy trên đất, tự nhiên có nước suối chảy ra
ào ào, dân chúng được nhờ vả rất nhiều.
121. Khi Man Nương
đã hơn tám mươi tuổi thì bất đồ cây đa bị
lật đổ trôi đến trước bên chùa, quanh quẩn ở
đó không trôi đi; người ở đó đua nhau bửa củi
thì búa rìu đều bị gãy mẻ hết; làng
xóm rủ nhau ba trăm người đến kéo cũng không chuyển
động.
122. Gặp Man Nương
xuống bến rửa tay, nàng khẽ lấy tay kéo thử, cây
lập tức chuyển động trôi vào, ai nấy kinh dị, vội bảo Man
Nương kéo thẳng lên bờ, khiến thợ mộc trổ làm bốn
pho tượng Phật; kịp lúc đẽo đến giữa cây, chỗ giấu người
con gái thì chỗ ấy đã hóa thành một
phiến đá rất cứng; người thợ đẽo đúng vào chỗ
đó thì rìu búa mẻ hết, mới lấy phiến
đá ném xuống giữa sông; phiến đá
phóng xuất hỏa quang, giờ lâu mới chìm xuống nước;
các người thợ đều chết hết. Mọi người đều xin nhờ Man Nương van
vái mướn kẻ chài lặn xuống nước vớt lên, rước
vào điện Phật, lấy vàng tô lên mà
phụng thờ.
123. Sư Đồ-Lê
mới đặt tên cho bốn pho tượng Phập là: Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp
Điện. Già trẻ gái trai bốn phương thường nhóm họp
ở chùa này chơi đùa ca múa, gọi là
hội tắm Phật, đến nay đang còn vậy.
--------------------------
Chú thích:
116. Truyện Man Nương trước chúng tôi tính bỏ,
nhưng vì đã được thâu nhận vào sách
nên xin giữ lại, vì nó nói lên sức
mạnh chuyển hóa của Việt Lý biến Kim Phật Tây
Trúc ra Mộc Phật Đông Phương. Biến tam bảo Phật,
Pháp Tăng ra Giác, Chính, Tính (xem lại
bài VIII Vang Vọng của nước Văn Lang). Xem những số Tây
Phương 4, 8 bị tràn ngập bởi các số Việt 2, 3 (300), 5
làm liên tưởng tới vụ ông Cổn là gấu 4
chân đổi ra 3 chân. Nhà Chu ban đầu đúc đỉnh
4 chân, sau đúc 3 chân cũng là tiến
trình từ Tây sang Đông. |
Cập nhật (
09/01/2008 ) |
Nguồn: http://lichsuvietnam.info
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang LĨnh Nam Chích Quái
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc
và phục hồi nền An Lạc
& Tự Chủ.
|