Năm
Thứ
4889
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Nguyễn
Ái
Quốc (1894-1932,
1941-1945):
Người
Việt
Đầu
Tiên
Đến Mỹ?
Vũ
Ngự
Chiêu
Hợp
Lưu, số 93 (2-3/2007), Tân Niên Đinh Hợi
[pp.5-38]
©
2007,
2010,
Chieu N. Vu. All Rights
Reserved.
Lịch
sử quan hệ
quốc tế của Việt Nam là lănh vực c̣n cần nhiều
công tŕnh t́m hiểu. Ngay quan
hệ giữa Việt Nam với Trung Hoa, Nhật Bản, Pháp, Nga
mới chỉ được
nghiên cứu rất
giới hạn–trên căn bản của cơn sốt thuộc địa và phong
trào giải thực (decolonialization)
trong thế kỷ
XIX-XX.
Liên hệ Việt-Mỹ c̣n giới hạn hơn, và bị ảnh hưởng
nặng nề của cuộc chiến tranh
lạnh Tư Bản-Cộng Sản (1947-1991). Thí dụ như cho tới
đầu thế kỷ
XXI, các chuyên
viên c̣n khá nhức đầu với câu hỏi “Ai
là người Việt đầu tiên đă đến Mỹ?” Và, dĩ
nhiên, là một câu hỏi phụ khác, không
kém quan trọng: “Ai là người Việt đầu
tiên tiếp cận với hệ thống chính trị Mỹ?”
Trở
ngại thứ
nhất là vấn đề tư liệu–hoặc đúng hơn là thiếu tư
liệu khả tín. Trước Thế chiến
thứ hai (1939-1945), đa số nghiên cứu về lịch sử Việt
do
các viên chức thuộc địa,
giáo sĩ hoặc giáo dân Việt thực hiện–nhờ được tiếp
cận tài liệu văn khố Hội
truyền giáo Pháp, và có điều kiện hơn. Bởi
vậy, mục tiêu văn minh hóa (mission
civilisatrice) và truyền đạo (propagation
de la
foi) thường che khuất
sự thực sử học. Ngoài ra, c̣n có chính
sách văn hóa/thông tin thuộc địa. V́ người
Pháp muốn giữ Việt Nam như một thuộc địa đóng kín,
người ta chỉ biết đại cương–do
nỗ lực từ một chuyên viên Mỹ tại ṭa lănh sự
Sài G̣n–về những nhân vật như hạm
trưởng John White, hay hai sứ đoàn của Edmund Roberts,
v.. v...
Sau
năm 1945,
nhờ tài liệu văn khố nhà Nguyễn được công bố
và phiên dịch–đối chiếu với các văn
khố Pháp, Mỹ, Bri-tên, Espania, Portugal, Trung Hoa,
Thái Lan, Nga, v.. v...–
lịch sử quan hệ quốc tế của Việt Nam nói chung, và
liên hệ với Liên bang Mỹ nói
riêng, bắt đầu có những y cứ vững chăi, gần sự thực
hơn là những cảm nhận đại
chúng.
Trong
dân gian,
một trong những huyền thoại được truyền tụng là việc
Bùi
Viện (1837-1878) từng
qua Mỹ vào khoảng năm 1873. (1) V́ nhiều lư do
khác nhau, rất ít người đề cập đến
việc Nguyễn Sinh Côn (1892-1969), tức Paul Thành,
có mặt ở Mỹ trong khoảng Thế
chiến thứ nhất (1914-1918), làm quen với Bản tuyên
ngôn độc lập 4/7/1776 của
Liên bang Mỹ, và nhiều lần lập lại một câu bất hủ
của văn kiện lịch sử này: từ
những bài huấn luyện hội viên Việt Nam
Kách Mệnh Thanh Niên Đồng Chí Hội trong
giai đoạn 1925-1927, tới bản Tuyên
ngôn độc lập ngày 2/9/1945 tại Hà Nội. (2)
Trong
thời Đệ
nhị Thế chiến, có ít nhất 4 người Việt từ Pháp qua
làm việc cho đài phát thanh
Mỹ tại San Francisco, như Tào Kim Hải, v.. v... Mùa
Thu
1944, đă có đề nghị đưa
Hồ Chí Minh (1890-1969) qua San Francisco làm xướng
ngôn viên, nhưng không
thành. Cuối thập niên 1940, đến một số du học sinh như
Nguyễn Đ́nh Ḥa, Huỳnh
Sanh Thông, cùng những nhân vật Phan Huy [Quang]
Đán, Ngô Đ́nh Diệm
(1897-1963), v.. v.... Ngoài ra, số lượng nữ sinh viên
và phụ nữ Việt kết hôn
với người Mỹ cũng ngày một gia tăng, nhưng chưa có
thống
kê chính xác.
Bài
viết
này–dựa
trên
tài liệu nguyên bản của nhiều văn khố quốc gia,
và nghiên cứu của học giả
thế giới–cố gắng truy t́m người Việt đầu tiên đă
đến Mỹ, đồng thời phác họa
quan hệ Mỹ-Việt trong giai đoạn từ 1787 tới 1919, phân
tích những dị biệt về văn
hoá-chính trị-kinh tế giữa hai quốc gia, khiến nỗ lực
quan hệ của cả hai bên đều
thất bại.
I.
NHỮNG NỖ LỰC KHÔNG THÀNH CÔNG TRƯỚC THỜI PHÁP
THUỘC:
Những
nỗ lực mở
quan hệ giữa Liên bang Mỹ và Việt Nam thoạt tiên chỉ
có tính cách thương mại,
và do Mỹ chủ động.
A. NỖ
LỰC TỪ
PHÍA MỸ:
1.
Chính
khách
Mỹ
đầu tiên chú tâm đến “Cochin China” [tức Đại
Việt] là Thomas Jefferson
(1743-1826), khi c̣n giữ chức Đại sứ tại Paris. Chuyến
qua
Pháp xin cầu viện
của Giám mục Pedro [Pierre] Pigneau de Béhaine (Bá
Đa Lộc) và Hoàng tử Nguyễn
Cảnh vào mùa Xuân 1787 khiến Jefferson chú
ư đến lúa gạo của Đại Việt. Ngày
28/11/1787, Jefferson tỏ ư muốn có một số lúa mẫu
của “Cochin China,” và đề
nghị nên t́m cách giao thương. Jefferson cũng muốn
nhờ Hoàng tử Cảnh và một số
chuyên viên Pháp cung cấp một số mẫu lúa
trồng trên cao (dry rice), hy vọng sẽ
thí nghiệm ở Carolina, nhưng không thành
công.( 3)
Tuy
nhiên, suốt
hai nhiệm kỳ Tổng thống từ 1801 tới 1809, Jefferson
không
có chính sách cụ thể
nào đối với Việt Nam.
2.
Trong
nhiệm
kỳ
đầu của Jefferson, Jeremiah Briggs, hạm trưởng tàu Fame,
giương buồm đến Việt Nam. Ngày 21/5/1803,
Briggs hạ neo ở
“Turon,” tức Vũng Thùng (Đà Nẵng). Đây
là
thương
thuyền
đầu tiên tiếp cận với Việt Nam ghi trong lịch sử
hàng hải Mỹ.
Tàu
rời
Boston
ngày 17/1/1803; thấy Côn Sơn ngày
15/5/1803; Vũng Tàu ngày
16/5/1803. Tại Đà Nẵng, Briggs lên một trong hai
tàu của thủy sư Nguyễn, do một
người Pháp chỉ huy. Được khuyên nên đến “Cowe”
(Huế?) mới có hy vọng buôn bán
(v́ vua nắm độc quyền ngoại thương, và không
có giai tầng thương gia bản xứ).
Ngày 23/5, Briggs cùng năm [5] thuộc hạ và một
lái tàu người Portuguese sống ở
Macao lên Huế bằng thuyền nhỏ. Nghỉ đêm ở Haifoo, nơi
dân chúng sống bằng nghề đánh
cá, nhà cửa tồi tàn. Hôm sau, ngược
sông Haifoo lên Huế. Thấy thuyền và tàu
xuôi ngược. Tới Huế, lên tàu buồm do một người
Pháp chỉ huy. Theo nhật kư (logs) của
Briggs, vua Nguyễn sai một
linh mục Pháp tới gặp để hiểu thêm về nước Mỹ. Briggs
ở
lại Huế ba ngày. Hạm trưởng
người Pháp giới thiệu cho Briggs được phép buôn
bán. Trong 10 ngày, Briggs
giong tàu dài theo bờ biển, và không cặp bờ
nữa. Ngày 10/6/1803, Briggs hướng
về Manila. (4)
Đại Nam
Thực Lục triều Gia
Long (1802-1820) không nhắc đến Briggs hay
nước
Mỹ. Nhưng tháng 6 Quí Hợi
[19/7-16/8/1803], ghi:
Hồng
Mao sai sứ đến
hiến phương vật, dâng biểu xin lập phố buôn ở Trà
Sơn, dinh Quảng Nam. Vua nói rằng
hải cương là nơi quan yếu sao cho người ngoài được.
Không cho. Trả vật lại mà
bảo về. (5)
Khoảng
một
năm
sau, khi John W. Roberts
thuộc
công
ty Đông Ấn [East India Company]
của Bri-tên hai lần
đưa tàu Gunjava tới Đà Nẵng với
nhiệm
vụ thiết lập buôn bán và loại ảnh hưởng Pháp
khỏi Việt Nam, Gia Long cũng không
chấp thuận. Vua nói với các đ́nh thần:
“Tiên
vương
kinh
dinh
việc nước, không để người Hạ lẫn với người Di, đó
thực là cái ư đề pḥng
việc từ lúc c̣n nhỏ. Người Hồng Mao gian giảo, trí
trá, không phải ṇi giống
ta, ḷng họ hẳn khác, không cho ở lại.” (6)
Quyết
định trên phản ánh chính
sách đối ngoại mới của Gia Long: Đó là đồng
ư buôn bán–hiểu theo nghĩa thông thường, trả
tiền bạc cho các hóa vật, hoặc
trao đổi sản vật trong nước lấy vật dụng cần thiết,
nhưng không
thuận cho công
ty ngoại quốc đặt trụ sở trên đất liền, với lư do an
ninh
quốc gia. Đúng hơn là
mối đe dọa mà một thành ngữ Malay diễn tả một cách
thâm thúy: “Kim xuyên qua rồi, chỉ chắc
sẽ vào theo.” V́
vậy
sau
này
sử quan Nguyễn đă ca tụng “khước đồ hiếu
của Tây di” như công lao để đời hàng đầu của
vua, trên cả những việc “cẩn
thận pḥng nước Xiêm, yêu nuôi nước Chân
Lạp, vỗ về nước Vạn Tượng, uy danh
lừng phương xa, nhân đức trùm nước nhỏ. . . .” (7)
Đây
là
một
thay đổi
quan trọng, cắt đứt dần quan hệ với phương Tây mà Gia
Long
từng tiếp cận nhiều
thập niên–sự tiếp cận có lẽ quá gần với những
“tên tôi tớ” đủ quốc tịch, các
lái súng mà sự lương thiện là những dấu hỏi
lớn, và các nhà truyền giáo tham
vọng. Bởi thế từ đầu năm 1790, Nguyễn Chủng (tên thật
Gia Long
trước ngày lên
ngôi) đă chính thức hủy bỏ Hiệp ước 1787, yêu
cầu đích thân Giám Mục Pigneau de
Béhaine dịch qua tiếng Pháp, gửi về Paris–một trong
những
lư do khiến Pigneau đă
có lần muốn bỏ đi, trong khi một số lính đánh
thuê rời Gia Định.( 8)
Dẫu
vậy, Nguyễn
Chủng–phần nào v́ ảnh hưởng Pigneau (vốn không ưa
đạo Tin Lành), phần v́ lực lượng
đánh thuê người Pháp, muốn bảo vệ Đường Trong
cho Pháp–cũng chẳng có thiện cảm
ǵ với Bri-tên, một đại cuờng quốc và nguồn cung
cấp vũ khí quan trọng trong
thời gian này. Năm 1797, Nguyễn Chủng đề nghị với Rama
I
(1782-1809) hợp binh đánh
nếu “Hồng Mao” tiếp tay Miến Điện
(Burma, Myanmar hiện nay) tấn công Xiêm.( 9) Tuy
nhiên Nguyễn Chủng–với quan
niệm “chín đời báo thù mới là
đại nghĩa”–đủ
khôn ngoan để duy tŕ những quan hệ cần thiết với
Tây phương cho mục tiêu cuối
cùng của ḿnh. Vương chấp nhận nhượng bộ một số yêu
cầu của Pigneau, như cho tự
do truyền đạo, sử dụng giáo dân Ki-tô, và cho
Đông cung Cảnh tôn Pigneau làm
phụ đạo. Đạo quân Lê dương được tận dụng trong mọi
lănh vực, kể cả việc mua vũ
khí ở các thuộc địa Bri-tên, Portugal, Dutch. Một
“đầy tớ” người
Bri-tên–Laurent Barizy, thực ra là dân
Pháp–trách nhiệm mua bán vũ khí và
hành
xử như đại diện không chính thức cho các công
ty Bri-tên, đặc biệt là công ty
Abbott & Maitland [Áp bột miệt lăng] tại Madras
(Pondichéry). (10)
Các
thuyền
buôn
ngoại
quốc đến làm ăn từ đó phải theo luật lệ mới. Nguyễn
Đức Xuyên, Jean
Baptiste Chaigneau, và Philippe Vannier đặc trách
công tác tế nhị này. Số tàu ngoại
quốc thường xuyên ghé Đà Nẵng và
Sài G̣n là tàu Bri-tên, Portuguese
(Macao),
Xiêm, và nhất là từ Quảng Châu, Trung
Hoa–trung tâm thương mại với “di địch”
của nhà Thanh.
Vua
rất nghiêm
ngặt trong việc xuất cảng sản phẩm nội địa và kiểm
soát
tàu buôn ngoại quốc.
Tháng 7/1804, cấm dân không được lấy bán
các thứ gỗ cấm (gỗ tàu, gỗ lim, gỗ
giáng hương); thuyền nước ngoài mua lậu sẽ bị tội nặng
như người bán. Đă lỡ mua
trước khi có lệnh cấm, nạp lại, trả tiền cao. Dân
chúng cũng không được buôn
bán đường biển. Ai vi phạm, thuyền và hàng
hóa bị tịch thu, phạt 100 trượng, đồ
[đầy] 3,000 dặm. Trong khi đó, thuế cảng (nhập bến),
thuế
đánh trên hàng hóa và
tiền “ba lễ” [dâng hoàng thái hậu, dâng vua,
dâng hoàng thái tử] khiến các hạm
trưởng ngoại quốc rất bất b́nh. Đó là chưa
nói đến
khoảng cách biệt giữa luật pháp và việc thi
hành, cùng tục lệ hiện nay thường
biết như “cải thiện” cho các viên chức và môi
giới.( 11)
Sự
thay đổi thái
độ với những nguồn cung cấp vũ khí và đạn dược trong
thời
nội chiến này phần
nào do dịch vụ của họ không c̣n cấp thiết nữa.
Trong khi đó, vua không khỏi
nhức đầu v́ những chủ nợ cũ. Ít nhất có hai [2]
tàu Bri-tên ghé Đà Nẵng đ̣i
tiền bán khí giới. Tháng 10/1807,
Kê-lê-mân tới Kinh, nói với bọn Chaigneau,
Vannier và de Forcanz là công ty Abbott &
Maitland [Áp bột miệt lăng] trước
đây bán nhiều súng đạn cho vua, nay “túng
tiền xin vua trả thêm.” Gia Long cấp
cho 24,000 đồng, rồi bảo đi. Năm năm sau, tháng
7/1812, Ốc
Luân ghé tàu ở Trà Sơn,
đ̣i tiền mua khí giới c̣n thiếu. Nguyễn Đức
Xuyên tâu lên, vua nói:
“Người
Di
địch
chỉ
biết có lợi, khó nói nhân nghĩa được.
Giá hàng mua năm trước c̣n ở sổ kia.
Gần đây Kê Lê Mân đến xin thêm giá
ta cũng không thèm so đo, đă cho đủ số rồi.
Nay lại tham lam không chán sở dục biết làm sao cho
no được?” Sai Xuyên trả
lời. Ốc Luân xấu hổ bỏ đi (12)
Tưởng
nên
lập
lại
và nhấn mạnh thêm, việc ngoại thương dưới triều Gia
Long–giống như các quốc
gia láng giềng–do triều đ́nh độc quyền. Vua nhập cảng
những ǵ cần thiết cho
chế độ như vũ khí, vải vóc, cùng vật dụng
dành riêng cho giới quí tộc và quan
lại. Đồng thời độc quyền thu mua và xuất cảng những
mặt
hàng mà thị trường
ngoài nước ưa chuộng. Đại đa số dân chúng phải
sử dụng hàng nội hóa, ngoại trừ
một số nhu yếu phẩm như thuốc “Bắc,” trà, sâm,
sách, giấy mực, v.. v... Việc
ngoại thương cũng chỉ được diễn ra tại các hải cảng
chọn lọc:
Nam Định, Hà Nội,
Đà Nẵng, Huế, Sài G̣n và Hà
Tiên. Sau này, do sự xuống cấp của ngoại thương và
lư do an ninh, Đà Nẵng trở thành cảng duy nhất
các tàu Tây phương được cặp bến
làm ăn với Huế. Mọi giao tiếp với dân chúng đều bị
tuyệt cấm. Bởi thế, gần cuối
đời Gia Long, việc ngoại thương giảm hẳn.
Để
điền
vào
chỗ
trống, vua sử dụng “Thanh nhân” làm giai tầng trung
gian (“lănh trưng” [farming]) trong
mọi lĩnh vực–từ
khai mỏ, thầu thuế
chợ, chuyên chở, tới buôn bán với nhà Thanh
về những nhu yếu phẩm như thuốc
Bắc, vải vóc, v.. v... Ảnh hưởng kinh tế của láng
giềng
phía bắc này thường
không được các nhà nghiên cứu quan tâm
đúng mức. Việc Minh Mạng bắt chước cách
tổ chức chính quyền, đơn vị hành chính, hay thi cử
chỉ là lẽ đương nhiên khi
không có một hệ thống kiểu mẫu nào khác.
Trong khi đó, những liên hệ văn hoá–do
việc sử dụng chữ Nho như ngôn ngữ chính thức và
kinh điển Trung Hoa từ thời
Hán–che khuất đi thứ gông xiềng kinh tế có nhiều
thế kỷ lịch sử, và được kết đan
chặt chẽ hơn do hệ thống tài chính của Hoa Kiều tại
Đông Nam Á–từ Philippines
tới Dutch East Indies, Singapore, Malaya, và ngay cả
Xiêm
La. Nên chảng có ǵ
ngạc nhiên khi anh em Ngô Đ́nh Diệm
(1897-1963)–từng ban hành những biện pháp
kinh tế bắt ép Hoa Kiều nhập tịch, nh́n nhận đất nước
cư
ngụ như quê hương–cuối
cùng đă chạy tới nhà một lănh chúa
không ngôi Hoa Kiều ở Chợ Lớn, rồi chết cái
chết khó nhắm mắt sáng ngày 2/11/1963, thay
v́ trú ẩn trong các giáo xứ đồng đạo
quanh Sài G̣n mà tam đầu chế Thục-Diệm-Nhu
đă ban phát nhiều ân sủng.
3.
Năm 1819, hai
trong số bốn tàu Mỹ được cặp bến Sài G̣n là
tàu Marmion của Oliver Blanchard, và
chiến hạm Franklin của Thiếu tá John
White
(1782-1840).
Theo White,
rời Salem ngày Thứ Bảy 2/1/1819, hơn 5
tháng sau tàu Franklin buông neo ở
Vũng Tàu. Hôm sau
nữa, 8/6, tới “Canjeo” (Cần Giờ), nằm
về phía tây nam Vũng Tàu. V́ không
được phép vào Sài G̣n, ngày 12/6 nhổ
neo ra
Huế. Ngày 18/6, tới Turon (Đà
Nẵng).
Trở ngại nhất là ngôn ngữ; nhưng White hiểu đại
khái rằng vua hiện không ở kinh
đô [không đúng], Việt Nam mới qua cơn binh lửa
nên không có nhiều hàng xuất
cảng. Tháng 7/1819, White giương buồm qua Manila, nhân
tiện t́m thông ngôn. Ở đây
hai tháng, White gặp hạm trưởng John Brown của tàu Marmion. Tàu Marmion
đă
đến
Vũng Tàu vài ngày sau khi White rời nơi
này, nhưng được phép vào Sài G̣n nhờ
sự
dễ dăi của “Phó vương” (tức Tổng trấn Gia Định
thành). Chẳng may thuyền trưởng
Blanchard chết bệnh ở gần hải phận Vũng Tàu; và Brown
lên thay, đưa tàu về
Manila.
Ngày 6/9,
Brown và White cùng giương
buồm trở lại Việt Nam. Tới Vũng Tàu
ngày 25/9. Rồi lại dời xuống Cần Giờ, cử người vào
Sài G̣n xin phép nhập cảnh.
Ngày 9/10, hai tàu Franklin và Marmion buông neo ở Sài G̣n.
Qua những “linguists” (thông
ngôn) và giáo sĩ trung gian biết tiếng Portuguese
[Bồ đào nha]–như Joachim, người
Portuguese đă ở Sài G̣n một thời gian; Pasqual,
một người Tagal, có vợ Việt;
Linh mục Antonio và Joseph, người Italia; Mariano, một
giáo dân Ki-tô bản xứá;
Polonio, người từng hầu cận Pigneau de Béhaine (dẫn
White đi
thăm thú nhiều nơi,
kể cả một ngôi chùa lớn có lẽ là chùa
Barbé)–White tiếp xúc với các viên chức
cao cấp, kể cả quyền Phó vương. Đồng thời, t́m hiểu
sinh hoạt chính trị, kinh
tế và xă hội miền Nam.
White gặp
nhiều rắc rối với quan chức bản xứ v́ thuế
đánh quá nặng, và hủ
tục công khai ăn hối lộ. Không phân biệt Pháp,
Mỹ, Anh, gọi chung người Tây phương
là “Olan” (Hoà Lan). Từ ngày
10/10,
White phải đương đầu với toán kiểm tra tàu. Tiền thuế
chính thức 2816 quan;
thuế phụ trội, 113 quan, 4 tiền [maces],
61 đồng [sapèque]; tương đương 1697
đô-la
[dollars] Espania. (1 quan ăn 10 tiền, 1 tiền, 60
đồng) Quà tặng
lên tới 2700 đô-la
Espania. (13)
Thời gian
này, thương mại với Macao đă bị cắt
đứt. Tàu buôn Trung Hoa cũng
rất hiếm.
Ngày
11/10/1819, White gặp Quyền Tổng trấn. Ông
này là quan văn, lo h́nh
tào. Tổng trấn là vơ quan, đang ra Huế để
tŕnh bày về trường hợp White. Vợ
Pasqual lo việc quà biếu Quyền Tổng trấn: 4 cái
đèn tṛn, 4 b́nh thủy tinh, ly
uống vang và ly không chân, rượu vang, vài
chai rhum, 1 hộp đựng trầu, v..
v.... Ngày 12/10, viết thư cho “Đô đốc” Vannier,
kèm theo một cây kiếm và 12
chai moutarde tặng vua. Ngày 24/10, thăm quyền Tổng
trấn tại
nhà riêng. Sau này
Tổng trấn mượn một khẩu súng của White, nhưng không
trả
lại. Ngày 31/10, White
dọa xuống tàu bỏ đi.
Ngày
6/12/1819, Tổng trấn trở về nhiệm sở. Hôm
sau, 7/12, White vào thăm.
Sau đó, được thư ngày 20/11/1819 của Vannier, báo
tin thuế cảng đă giảm; và
không phải tặng quà cho các quan. Vua đang bị bệnh,
nên Vannier không có dịp
gặp vua. Đă trao thanh đoản kiếm White tặng vua. Người
trao
thư của Vannier–có
biệt danh Aqua Ardiente–đ̣i tiền công đưa thư một chai
rượu rhum và một yard
[gần một thước Pháp] vải đỏ. Aqua Ardiente là nhân
vật quỉ quyệt nhất.
Vài ngày sau
buổi sơ kiến, Tổng trấn lại gặp
White. Không có quan chức
Việt, chỉ có 4 thông ngôn Antonio, Mariano, LM
Joseph và Vincente, tất cả đều
là giáo dân Ki-tô. Tổng trấn thăm hỏi kỹ về
t́nh h́nh Âu châu. Nói ngưỡng mộ
dân “Olan;” buồn v́ t́nh trạng man rợ [sauvage] của
dân Việt.
Ngày
16/1/1820, bắt đầu chất đường xuống tàu.
Ngày 29/1, xuống được 1700 picul (đơn
vị đo
lường Xiêm, khoảng 62.5
kilogram) đường. Tàu Marmion phải
trả
tổng cộng 2,708.70 đô-la Espania tiền thuế và dịch vụ
khác, gần bằng 50% trị giá
số đường mang đi.
Trước ngày
White rời Sài G̣n, Tổng trấn
trao cho White danh sách các vật
liệu vua muốn mua: đại bác, bản đồ, sách vở Tây
phương, v.. v... Vua sẽ trả
bằng thổ sản. White không nhận lời v́ những mặt
hàng vua cần không có nhu cầu ở
những nơi khác. Hơn nữa, có tin vua sẽ dùng
khí giới đánh Xiêm.
Linh mục
Joseph th́ xin rượu vang và bột
ḿ để làm lễ. Theo Joseph, vua sắp
chết; thái tử sẽ lên ngôi. Tín đồ Ki-tô
sắp đối diện hiểm họa bị bách hại.
White khuyên Joseph ra đi, nhưng ông ta không muốn
phản bội thượng cấp.
Khi White
chào từ biệt, Tổng đốc áy náy
không giúp ǵ được White. Ngày
30/1/1820, White nhổ neo. Franklin
mang
theo vơi nửa sức chứa đường và tơ. Tới Cần Giờ ngày
1/2.
Ngày 3/2, tàu Marmion cũng tới nơi.(
14)
Báo
cáo của White, bên cạnh những
chi
tiết đầy hấp dẫn, có vài ba thiếu sót
quan trọng. Thí dụ như White không nhắc ǵ đến
cái chết của Tổng trấn Nguyễn
Huỳnh Đức, và Hữu quân Nguyễn Văn Nhân lên
thay trong dịp White ở Sài G̣n. (15)
Theo White,
Quyền Tổng trấn là quan văn; Tổng trấn
là quan vơ. Cả Chưởng
Tiền quân Đức lẫn Chưởng Hữu quân Nhân đều
là quan vơ. Hoàng Công Lư, Phó
Tổng
trấn từ tháng 9/1818 là Tả thống chế thị trung, coi
việc
đào sông An Thông, vận
dụng tới 10,000 nhân công mà White nhắc đến trong
báo cáo. Ngoài ra, c̣n Hiệp
trấn Trịnh Hoài Đức, thày dạy cũ của vua Minh
Mạng–được Gia Long và Minh Mạng đặc
biệt quí mến. Lư và Đức đều là văn
quan. (16)
Lại có tác
giả cho rằng Tổng trấn Gia Định
mà White được gặp là Lê Văn
Duyệt. Điều này khó xảy ra. Tả quân Duyệt giữ
chức Tổng trấn Gia Định hai lần,
một vào giữa triều Gia Long (1812-1815), một đầu đời
Minh Mạng
(1820-1841). Ngày
26/1/1820,
Chưởng
Tả
quân Duyệt có mặt bên giường bệnh Gia Long
cùng Phạm Đăng Hưng để
nghe di chiếu lập Thái tử Đảm; và kiêm
giám năm [5] kinh doanh Thần sách tại
kinh đô. Sau đó ra Nghệ An. Duyệt chỉ
được cử
làm Tổng trấn nhiệm kỳ hai (1820-1832) và tới Gia
Định khoảng ngày 28/8/1820,
khoảng nửa năm sau ngày White rời Sài G̣n. (17)
Ngày
13/4/1820,
Minh
Mạng
mới triệu Tổng trấn Nhân về kinh bái yết; đồng
thời cử Hiệp tổng trấn
Đức và Phó Tổng trấn Lư tạm thụ lư ấn
tổng trấn. Hai tháng sau, ngày 10/6, Đức
về kinh. Lư quyền lănh ấn Tổng trấn trong khi chờ
Khâm sai Tổng trấn [Duyệt]
nhận nhiệm sở. Hữu tham tri bộ Hộ Nguyễn Xuân Thục
quản lư
tào Hộ và H́nh. (18)
Phải chăng
nhóm thông ngôn của White
không nói hết sự thực? (White cũng ghi
nhận là bọn linguists rất tham lam,
giảo hoạt, chỉ lo kiếm lợi–một đặc tính của giới đổi
chác
với ngoại nhân ở các
hải cảng năm châu. Linh mục Antonio gốc Italia chỉ là
một
thí dụ. Hay bà vợ người
Việt và Domingo, con rể tương lai, của Pasqual). Đáng
tiếc
là
bản Thực lục Việt ngữ chúng
tôi tham khảo
không nhắc ǵ đến các tàu Mỹ ở Gia Định,
dù thời gian bỏ neo của hai tàu khá
lâu (gần 4 tháng).
Nhiều
dấu hiệu
cho thấy nhóm cố vấn Pháp của Gia Long–tức các
giáo sĩ và hai thông dịch viên
Chaigneau, Vannier ở Huế–có phần thiên vị, muốn giữ ưu
quyền thương mại cho
Pháp. Vannier có lẽ không tŕnh lên
Gia Long chuyến đi của White, nêu lư do vua
bị ốm. Về thổ sản tàu Mỹ muốn mua–tức đường và tơ
đũi–kho
triều đ́nh đă cạn v́
mới dồn hàng cho hai tàu Pháp. Mùa đường
năm sau th́ triều đ́nh có kế hoạch thu
mua hết. Thực ra, Vannier đang chờ đợi chuyến trở lại
của tàu La Rosse [Rose] với quốc thư
của vua
Pháp. Sự thiên vị này dễ hiểu. Từ năm 1815,
sau
cuộc đại bại của Napoléon Bonaparte, triều đ́nh
Bourbons
bắt đầu muốn đ̣i Gia
Long thực thi Hiệp ước 1787 mà Pigneau đại diện kư kết
(nhưng Gia Long đă từ khước
năm 1790). Năm 1817, Thủ tướng kiêm
Ngoại trưởng Richelieu cử Hải quân Đại tá Achille de
Kergariou đưa chiến hạm Cybèle [Phi
Giác]
qua viếng thăm thân
hữu Việt Nam. Mang
theo thư Richelieu gửi Chaigneau, yêu cầu báo cáo
t́nh h́nh, đồng thời kiểm kê
lại bản đồ do Jean-Marie D’Ayot vẽ. Ngày 6/1/1818, de
Kergariou
tới Đà Nẵng. Vannier
xuống chiến hạm Cybèle gặp.
Chaigneau dịch hai lá thư của de Kergariou, nhưng Gia
Long từ chối tiếp kiến. Nêu lư do không có
quốc thư. (19)
Từ
1817 tới 1819, một số tàu Pháp tới buôn bán
ở Đà Nẵng và Sài G̣n. Đó
là các tàu Henry của công
ty
Philippon et Cie. (tới Đà Nẵng
tháng 12/1817), La
Rose của hăng Balguerie, Sarget et
Cie., Courrier
de
la
Paix, v.. v...
Các tàu này
đều được Chaigneau và Vannier tiếp. Tháng
11/1819,
Chaigneau và gia đ́nh lên tàu Henry về
Pháp
nghỉ hai năm. (20)
Phần các nhà
truyền giáo Pháp
không ngừng oán trách vua Nguyễn quên
công ơn
khối Ki-tô. Sự bất măn của các giáo sĩ khởi
nguồn từ quyết định kiểm soát tôn
giáo năm 1803–đặt Ki-tô giáo ngang hàng với
Phật Giáo. Tiếp đến sự thăng tiến
của Khổng giáo lên hàng chính giáo.
Một Văn Miếu nguy nga được khai trương ở
Huế, trong khi vua mở những cuộc thi Hương chọn người
ra làm
quan. Tên Khổng
Khâu trở thành một thứ quốc húy, phải đọc
thành “Kỳ.” Gia Long c̣n muốn t́m
hiểu về Nghiêu, Thuấn và thuật trị nước
“vô vi nhi trị.” (21)
Một trong
những cao điểm của sự xa cách giữa
Ki-tô giáo và triều đ́nh là
việc kế vị. Năm 1816–sau cái chết của mẹ ruột Hoàng tử
Cảnh–Gia Long loại Hoàng
tôn Đán (con thái tử Cảnh), chọn Hoàng
tử Đảm làm Thái tử. Đảm và phe phục hưng
chính giáo (như Đặng Đức Siêu, Trịnh
Hoài Đức, v.. v...) trở thành đối tượng đánh
phá của Hội truyền giáo qua các chiến dịch tin đồn
và những lời dèm xiểm với dư
luận quốc tế. Mặc dù măi tới mùa Hè 1826,
Giám mục Jean Taberd mới chính thức
tuyên chiến với Minh Mạng, cuộc đương đầu sắt máu giữa
Ki-tô giáo và triều
Nguyễn đă âm ỉ từ trước ngày White tới Sài
G̣n. (22)
Những
nỗ lực của Pháp trong việc kư thương ước với Việt
Nam–trên bối cảnh
bành trướng ảnh hưởng của Bri-tên (qua công ty East
India Company) tại Burma
[Myanmar hay Miến Điện], Xiêm, Malaya [Mă Lai]
và Hoa Nam–được tiếp tục trong
những năm đầu triều Minh Mạng. Tuy nhiên, Minh Mạng
không
thay đổi lập trường.
Khi Chaigneau trở lại Huế ngày 17/5/1821, với thư của
vua Louis
XVIII đề nghị
giao thương, và cử Chaigneau làm Lănh sự, Minh
Mạng chỉ trả lời sau khi Vannier
và Chaigneau đe dọa sẽ từ chức, hồi hương. (23) Năm
1822, Minh Mạng cũng từ chối kư thương ước với sứ đoàn
Bri-tên, dù
John Crawfurd [Cả-la-khoa-thắc] được Lê Văn Duyệt tiếp
tại Gia
Định, và gặp một
thượng thư tại Huế. Nêu
lư
do
không
có thư của Quốc vương Bri-tên. (24)
Chính
sách
tự
cô
lập [self-isolationism] của
Minh Mạng khiến mùa Thu 1824 cả Chaigneau
lẫn Vannier đều từ chức về nước.
Những nỗ lực
ngoại giao ôn ḥa cuối cùng
của Pháp từ 1825
tới 1830 cũng đều thất bại, v́ Hoàng đế của “Trung
Quốc”
Việt Nam không thích ở
lẫn với “Di địch.” (25)
3.
Hơn một thập
niên sau chuyến đi của White, ngày 3/7/1831, John
Shillaber, Lănh sự Mỹ tại
Batavia (Đông Ấn thuộc Dutch hay Ḥa Lan), lại
báo cáo về tiềm năng thương mại
của Cochin China. Ngày 27/1/1832, Ngoại trưởng Edward
Livingston
chỉ thị cho
Đặc sứ Edmund Roberts t́m cách kư thương ước,
và chuyển thư Tổng thống Andrew
Jackson (1829-1837) cho Minh Mạng.
Rời Boston
tháng 3/1832, tàu Peacock
vượt qua Rio de Janeiro. Sau khi thăm
Philippines và Trung
Hoa, dù thời
tiết xấu, ngày 1/1/1833 đến được Đà Nẵng. Bốn
ngày sau tàu Peacock bị cuốn trôi
về phía Nam, tới Vụng Lấm (Phú Yên), giữa
Poulo Cambir và Cape Averella, phía nam Thị Nại (Qui
Nhơn).
Chuyến
đi
của
Roberts
được ghi nhận trong Thực Lục:
Quốc
trưởng nước
Nhă di lí (nước này ở Tây dương, hoặc gọi
là Hoa Kỳ, hoặc gọi là Ma-ly-căn,
hoặc gọi là Tân Anh-cát-lị) . . . sai
bọn bề tôi là Nghĩa Đức Môn La Bách
Đại, Úy
Đức Giai Tâm Gia (tên hai người) đem quốc thư xin
thông thương, thuyền ở cửa
Vụng Lấm thuộc Phú Yên. Vua sai Viên ngoại lang
Nguyễn Tri Phương, tư vụ Lư Văn
Phức đi hội với quan tỉnh, lên trên thuyền thết tiệc,
và hỏi ư họ đến đây làm
ǵ. Họ nói: “Chỉ muốn thông hiếu và giao
thương,” nói năng rất cung kính. Đến
lúc dịch thơ ra, có nhiều chỗ không hợp thể thức.
Vua
bảo không
cần đệ tŕnh thư ấy. Rồi cho quan quyền [thương] bạc
làm
tờ trả lời. Đại lược
nói: “Nước ấy muốn xin thông thương, cố nhiên
là ta không ngăn trở, nhưng phải
tuân theo pháp luật qui định. Từ nay nếu có đến
buôn bán th́ cho đỗ ở vụng Trà
Sơn, tấn sở Đà Nẵng, không được lên bờ
làm nhà, vượt qua kỷ luật. Rồi giao thư
cho họ mà bảo họ đi.” (26)
Báo
cáo của Roberts nhiều chi tiết hơn.
Thoạt
tiên, sứ bộ Mỹ tiếp xúc với
một lư trưởng, và viên chức này tŕnh
bày sơ lược tổ chức chính quyền cũng như
thể lệ đệ tŕnh văn thư. Tiếp đó, quan tỉnh Phú
Yên tới. Họ cho Roberts xem một
bảng liệt kê quốc kỳ các nước, yêu cầu sứ
đoàn Mỹ xác định quốc kỳ của ḿnh.
Sau đó, hai bên thảo luận về cách thức đạo đạt thư
Tổng thống Mỹ tới Minh Mạng:
Trước hết, Roberts phải viết thư cho Thương bạc (ty
Ngoại thương),
tŕnh bày
mục đích của sứ đoàn. Quan Việt nhiều lần bắt bẻ
đ̣i sửa lại thư cho hợp với
phong tục Việt Nam. Ngày 17/1/1833, một phái đoàn
Huế tới nơi gặp Roberts. Hai
bên lại qua một chu tŕnh hỏi/đáp về mục
đích của sứ đoàn, rồi bắt bẻ h́nh thức
cũng như nội dung bản dịch quốc thư. Cuối cùng, ngày
26/1, kết quả từ Huế
xuống–thay v́ có văn thư trả lời chính thức, hai
quan lớn Việt thết tiệc sứ đoàn,
rồi hôm sau lên tàu nói chuyện. Họ yêu
cầu được xem trước bản dịch thư Tổng
thống Mỹ để sửa chữa lại nếu cần hầu tránh vua nổi
giận. [Giống
như nhà Thanh,
Minh Mạng bắt các quốc trưởng phải viết biểu hay sớ
như con đối
với cha. Sau
cuộc chiến tranh nha phiến (1839-1842 và 1858-1860)
nhà
Thanh mới bỏ thể lệ bắt
vua ngoại quốc dâng biểu]. Roberts cương quyết giữ lập
trường
Tổng thống Mỹ
không thua kém hay đứng dưới bất cứ ai, và
không thể làm nhục quốc thể. Ngày
7/2/1833, Roberts báo cho các quan Việt biết chiến hạm
Mỹ
sẽ lên đường, v́ sứ
mệnh thất bại; nhưng hy vọng hai bên không v́ thế
mà thiếu thân thiện. Quan
Việt đề nghị tàu Mỹ cứ ghé cảng Đà Nẵng
buôn bán, càng thường xuyên càng tốt.
Roberts đáp: tàu Mỹ khó thể cặp bến Việt Nam khi
chẳng biết ǵ về điều lệ buôn
bán hay thuế má. Khi đại diện Huế nói Mỹ sẽ được
hưởng sự đăi ngộ b́nh đẳng như
Bri-tên và Pháp, và những nước này
chẳng bao giờ thắc mắc về luật lệ, chẳng ai
dám đánh thuế họ cao hơn các nước khác,
Roberts nói điều này không đúng, v́
Việt Nam cho Trung Hoa nhiều ưu quyền hơn Pháp và
Bri-tên. Hai bên nâng ly mừng
chúc sức khoẻ Tổng thống Jackson, phái đoàn Việt
chúc sứ Mỹ ra đi vui vẻ, sớm
trở lại, rồi cáo từ.
Ngày
8/2/1833, tàu Peacock
nhổ
neo. Sự thất bại này khiến Roberts cay đắng nhận định:
Ở bề ngoài toàn diện của vịnh biển, quốc gia
này đang ở
vào điều kiện phát triển cao, nhưng nếu quan sát
gần hơn, viễn tượng tốt đẹp ấy
không thực hiện được. Dân chúng không một
ngoại lệ là một dân tộc dơ bẩn nhất
thế giới. . . . [Người
Việt] không biết được . . . khoảng
cách biệt
giữa hai quốc gia; họ cũng chẳng biết ǵ về t́nh
h́nh Bắc Mỹ, cho rằng Mỹ nằm ở
Âu châu như sau này tôi được biết. (27)
Mặc
dù năm 1835,
Lănh sự Balestier ở Singapore báo cáo rằng theo
các giáo sĩ, Roberts đă rời
Việt Nam quá sớm, nhưng ở thời điểm này, sứ đoàn
khó tránh thất bại. Minh Mạng đang
lên đến đỉnh cao uy quyền. Các đại thần già nua,
khúm núm nhưng độc tài ngang
ngạnh như Lê Chất, Lê Văn Duyệt đă chết hay thanh
trừng xong. Giấc mơ Lê Thánh
Tông tân thời–chấn hưng thánh giáo,
cóp nhặt hệ thống hành chính nhà Thanh từ
trung ương tới địa phương, thi hành lễ “ôm đầu gối,”
sùng bái sự lễ qú (cho
các quan gối đệm đầu gối v́ phải qú lâu),
rồi đến tục “tung hô vạn tuế” kiểu
nhà Minh–khiến vua không dự đoán được những
ngón đ̣n thù của Hội truyền giáo
bắt đầu bùng phát. (28)
Sự
hùng hổ đi
t́m thuộc địa của các cường quốc Âu Châu–qua
việc Bri-tên chiếm Miến Điện (Hiệp
ước Yandabo vào tháng 2/1826, theo đó Bagyidaw cắt
cho Bri-tên các tỉnh Assam
và Manipur, trả chiến phí 5 triệu, kư Hiệp ước
thương mại, và đặt đại diện
ngoại giao), cùng một số đảo tại bán đảo Malaya,
và hiệp ước với Xiêm La–không đủ
thức tỉnh Minh Mạng khỏi cảm giác phiêu diêu của lời
xưng tụng như “Văn th́ thần, vơ th́
thánh, rực rỡ như trăng
sao vận hành ở trên trời, cuồn cuộn như sông
ng̣i mông mênh ở mặt đất.” (29)
Điều
khó
thể
chối
căi là sau Gia Long, Minh Mạng có khả năng
nhất trong các vua Nguyễn. Nhận
hiểu sức mạnh kỹ thuật và quân sự Tây phương, vua
nuôi tham vọng bắt chước cách
chế tạo tàu thuyền, vũ khí cùng máy
móc của phương Tây–nhưng kiến thức khoa học
hay kỹ thuật không thể mọc ra từ những bộ Luận
ngữ, Mạnh tử hay Trung
dung, hoặc
tiểu quốc Đào Đường hay
Đông Chu đă ch́m trong cát bụi
vài ngàn năm trước.
Minh
Mạng cũng
không đủ kinh nghiệm ngoại giao quốc tế như Gia Long
để thu dụng
một số “cố
vấn” Tây phương trong việc học hỏi và thu nhập kiến
thức
khoa học, kinh tế,
chính trị–một cách thực nghiệm như Rama III
(1824-1851),
trong cuộc chơi cân
bằng quyền lực và văn hóa. Trong khi đó, giới nho
sĩ–dù trực hay gián tiếp–tự
xiềng xích ḿnh và đất nước dưới chiêu
bài ư thức hệ Khổng giáo mà họ quen
thuộc, từng giúp họ duy tŕ độc quyền chính trị,
văn hóa nhiều thế kỷ. Những người
Tây phương luôn luôn bị đánh giá
là mọi rợ (di địch) xảo quyệt, “ở ngoài
ṿng giáo hóa” (hóa ngoại), dù
vua cùng các đại thần, nói chi thường dân,
chẳng biết rơ lịch sử, địa lư hay
các tổ chức hành chính, quân sự, tôn
giáo, kinh tế của Tây phương. Ngay Minh
Mạng, người nắm được nhiều thông tin nhất về thế giới,
cũng rất
mơ hồ về nguồn
gốc và tổ chức của Ki-tô giáo. Ảo vọng duy
tŕ “văn hóa cổ truyền”–một nền văn
hóa vay mượn, b́ phu từ phương Bắc–trong khi hiện đại
hóa đất nước không chỉ
hiện hữu dưới triều Minh Mạng. Nó sẽ kéo dài,
sâu xa tới thế kỷ XX, nếu chẳng
phải lâu hơn. Nó cũng không chỉ xảy ra ở Việt Nam
mà c̣n phát triển ở các nước
lân bang. (30)
Vua
và các đ́nh
thần cũng không tri nghiệm được sự thay đổi cán cân
quyền lực lục địa Đông Nam
Á–b́nh chân như vại trước việc Bri-tên chiếm
Miến Điện (Burma), hay nỗ lực hiện
đại hóa của Xiêm La (muang Thai), qua
việc kư thương ước với Mỹ, Bri-tên, sử dụng người Hoa
để
phát triển kỹ nghệ đường
trắng (từ năm 1816), và bắt đầu một chu tŕnh tằm thực
các tiểu vương láng
giềng như Chân Lạp, hay Lào, v.. v... Với sự xúi
dục của các nhà truyền giáo và
lái buôn súng, chỉ một năm sau, chiến thuyền
Xiêm sẽ ồ ạt tấn công Việt Nam
theo lời yêu cầu của Bế Văn Cận–tức Nguyễn Hựu Khôi,
nhưng
bị Minh Mạng đổi
thành “Lê Văn” Khôi, để xuống tay thanh trừng dư
đảng Lê Văn Duyệt–buộc Minh
Mạng phải quên đi lời trối trăng của Gia Long là “chớ
nên gây hấn ngoài biên,”
uổng phí bao tính mạng trai tráng Việt và
ngân khố quốc gia trong những cuộc
chiến bất tận tại Chân Lạp kéo dài tới gần cuối
triều Thiệu Trị. (31)
4.
Tháng 3/1835,
Ngoại trưởng John Forsyth lại ủy thác Roberts tới Huế.
Sau khi
trao đổi ḥa ước
với Xiêm La, ngày 14/5/1836, “hạm đội nhỏ” của Roberts
tới
Đà Nẵng, và ở lại đây
tám [8] ngày.
Thực Lục ghi nhận sự
kiện này vào tháng 4 năm
Minh Mạng thứ 17
(5/1836). Theo sử Nguyễn, sau khi được báo về sứ đoàn
Mỹ,
vua hỏi ư đ́nh thần. Thị
lang bộ Hộ
Đào Trí Phú, người có nhiều kinh nghiệm
mua bán với Tây phương, đề nghị cho lên
Huế làm việc với Nha thương bạc. Thị lang Nội các
Huỳnh
Quưnh chủ trương chẳng
nên giao thiệp, tránh phải lo ngại về sau. Chính
sách tốt nhất là bắt chước
Trung Hoa, “đóng cửa với các xứ Tây
vực để
ngừa sự xâm lược của bọn mọi rợ.” Minh Mạng sai
Đào Trí Phú và thị lang bộ
Lại Lê Bá Tú vào Đà Nẵng. Nhưng
khi phái viên Huế tới nơi, Roberts bệnh nặng,
không thể lên bờ. Ngày 22/5, Y sĩ W.S. W.
Ruschenberger đại diện Roberts gặp
phái viên Huế. V́ không có thông
dịch, và Roberts bệnh trở nặng, ngay trong
ngày đó tàu Peacock ra đi. Rồi Roberts
chết ở Macao. Phú kết luận bản báo
cáo của
ḿnh rằng phái đoàn Mỹ thiếu lịch sự. Vua
phê vào tờ tŕnh một bài thơ, đại ư
nói: Không chống khi chúng đến; không chạy
theo khi chúng đi. Cần theo đúng sự
nhă nhặn của một dân tộc văn minh. Chẳng ích lợi
ǵ khi than phiền về những kẻ
Di địch. Hơn bốn năm sau, vào tháng 10-11/1840, Minh
Mạng
giải thích chính sách
ngoại thương một cách rơ ràng hơn:
“Bản triều ta, đối với người Tây dương: họ
đến cũng
không
cự, họ đi cũng không theo, chỉ đối đăi coi như người
di
địch thôi. Thuyền Tây
phương đến, không cho tiếp xúc với dân địa phương,
bán hàng xong th́ đi. Kiểm
soát chặt chẽ, không để sơ hở, họ có ḷng
xảo quyệt cũng không làm được ǵ.” (32)
Vào
thời
điểm
này, tưởng nên ghi nhận, thái độ Minh
Mạng với Tây phương
phần nào thay đổi. Vua đă gần tuổi 50, và
dày dạn kinh nghiệm chính trị thực
dụng (Realpolitik) hơn. Cuộc tấn công
của Xiêm đầu năm 1834 và việc chiếm đóng Chân
Lạp tiếp đó cũng khiến nhu cầu
quân sự gia tăng. Vua đặc biệt quan tâm đến vấn đề
phát triển hải quân (hải sư),
đóng nhiều tàu và mua một số tàu “đại hiệu”
bọc đồng, chạy bằng “máy đốt lửa”
(hơi nước). Các tàu buôn và thuyền chiến
được cung cấp địa bàn, ống viễn kính, đồng
hồ cát, cùng các loại đại bác mới
bán trên thị trường. Sách báo Trung Hoa do
thương
thuyền đi Quảng Đông mang về càng giúp mở mang
kiến thức. Năm 1839, chẳng hạn,
vua chê các đại thần chẳng biết ǵ về hiện tượng
nguyệt thực. Những cuộc trao đổi
ư kiến quanh việc sét đánh cháy Văn Miếu,
hay chôn tượng Khổng Khâu, chỉ thờ
bài vị, phản ánh những đổi thay đáng kể. (33)
Tuy
nhiên, v́ lư do nào đó, vua vẫn tin
những lời huyễn truyền về Đạo Gia
tô “từ Tây dương đến, thác việc cầu hồn
để
lừa khoét con ngươi người [chết], mượn danh đồng
trinh để
dâm ô vợ con người
ta, thương tổn phong hoá....”– hay, “tục
Man” “lấy mật người làm vải hoa;” mỗi năm Chân
Lạp
cúng Xiêm hai chục [20]
bộ mật người; “người lấy mật đi rồi vẫn sống, nhưng
chỉ ngớ ngẩn như
điên
cuồng, không nhớ việc đời nữa.” (34)
Gần
cuối đời Minh Mạng, tàu buôn “Hồng Mao” được chép
thành tàu “Anh Cát
Lợi” trong Thực Lục. Triều đ́nh cho
lệnh quan tuần hải Quảng Nam đối xử ḥa nhă, thân
thiện hơn với tàu Bri-tên ghé
Đà Nẵng, kể cả việc miễn thuế. (35)
Vua
cũng tiếp tục gửi thương đoàn tới lân bang. Từ
1825 tới
1840, hơn 10 đoàn thuyền Nguyễn giương buồm đến
Batavia
(Indonesia hiện nay) và
“Hạ châu” tức Singapore và các hải cảng gọi chung
là Straits Settlements của
Bri-tên như Riau, Penang (Tân Lang hay Đảo Cau). Thoạt
tiên, các quan thủy sư
cầm đầu (Cai cơ Hồ Văn Khuê, 1825; Vệ úy Nguyễn Văn
Phong,
1826); sau đến văn
quan như Đào Trí Phú, Trần Tú Dĩnh,
Lê Bá Tú, Nguyễn Tri Phương, v.. v... làm
Chánh, Phó biện. Nhiệm vụ chính nhằm thực nghiệm
đường biển, đồng thời mua bán
vũ khí, tàu máy đốt lửa, và thăm thú
t́nh h́nh. Với 14-15 năm kinh nghiệm ngoại
thương, Đào Trí Phú sau lên tới Tả Tham
tri bộ Binh rồi bộ Hộ, trước khi nhận
chức quan cai trị ở Quảng Nam-Quảng Ngăi. Trần Tú Dĩnh
lênh đênh từ cảng này
sang cảng khác suốt 9 năm. Quan to bị phạm tội tháp
tùng làm việc trong thương đoàn
có Đặng Vũ Khải. Nguyễn Đ́nh Tân (1830),
Phan Thanh Giản (1831), Hoàng Văn Đản,
Phan Huy Chú, Trương Hảo Hợp, Nguyễn Trọng Tính
(1832),
v.. v... Trung b́nh mỗi
thương đoàn có từ 3 tới 5 thuyền. Thông ngôn
đa số là giáo dân Ki-tô đă bỏ đạo.(
36) Khi Vũ Đức Khuê dâng sớ can ngăn, Minh Mạng
đóng vai một Khổng tử tân thời
giảng cho Khuê một bài học quân sự, kinh tế
và bang giao trong thời đại mới. (37)
Sau
ngày chiến
tranh nha phiến (1839-1842) bộc phát ở Trung Hoa–trước
hiểm họa
thực dân Tây phương–vua
cử sứ đoàn qua Âu châu, t́m cách cải
thiện liên hệ. Do áp lực của Hội truyền
giáo và Vatican, Thủ tướng Pháp không tiếp.(
38)
Lên
ngôi
vào
đầu
năm 1841, mối quan tâm lớn nhất của Thiệu Trị
(1841-1847)
là “Trấn Tây Thành”
(Chân Lạp) và Xiêm La. Tháng 9/1841, vua
quyết định triệt thoái khỏi Chân Lạp để
ổn định t́nh h́nh sáu tỉnh miền Nam. Rồi sau cuộc
chiến ngắn hạn với liên quân
Xiêm-Chân Lạp, từ 1845 tới 1846, vua gác giấc mộng
thôn tính phần đất c̣n lại
của “Cao Miên;” cho Chân Lạp và một số tiểu vương
Lào nằm trong vùng ảnh hưởng
Xiêm.
Với
Tây phương,
Thiệu Trị (1841-1847) nối tiếp chính sách không cho
người ngoại quốc đặt cơ sở
thương mại trên lănh thổ Việt. Thương thuyền tiếp tục
đi
Batavia, Singapore và
Quảng Đông trao đổi thổ sản lấy hàng hóa.
Có ít nhất bốn chuyến buôn bán với
Batavia và Hạ Châu vào năm 1841, 1843 và
1844. Tiêu biểu là thương đoàn rời Đà
Nẵng vào tháng Giêng Quí Măo
(2-3/1844), do Đào Trí Phú, Lê Mậu Hạnh,
Nguyễn
Công Nghĩa cầm đầu. Ngoài số quan kinh nghiệm như Trần
Tú Dĩnh, Lê Bá Đĩnh, có
các “hiệu lực” [tức người bị cách chức đi làm việc
chuộc tội] Hà Văn Trung, Cao
Bá Quát, Nguyễn Hưng, Cung Văn Nghị, Phan Nhạ, thị vệ
Tống Phúc Trí, lệ thuộc
vào. (39)
Vua
cũng giữ
những chuyến đi Quảng Đông thường xuyên, vừa ngoại
giao, vừa buôn bán. Đáng ghi
nhận nhất là chuyến tàu Thanh Loan
giải giao tù phạm cuối năm 1843, do Trương Hảo Hợp cầm
đầu.
Trên tàu có nhóm “hiệu lực”
Nguyễn Cư Sĩ, Lê Chí Tín,
Hoàng Tế Mỹ, Nguyễn Bá Nghi, Nguyễn Cứu Trường. Khi
đang
đậu trên bến, thùng
chứa thuốc đạn nổ. Vệ úy thủy sư Trần Văn Đôn
cùng hơn 40 quan chức, biền binh
chết. Hay, việc năm 1846, Đỗ Tuấn Đại và quan thần
trên tàu Linh Phượng bị phạt v́
quên không dán
những chữ kị húy trên tờ “Nhật tŕnh
nhà
Thanh.”( 40)
Tưởng
nên nhấn
mạnh, Thiệu Trị đặc biệt nhẹ tay với các nhà truyền
giáo Ki-tô. Vua ngưng hành
h́nh các giáo sĩ, chỉ trục xuất họ khỏi vương
quốc. Tuy nhiên, các giáo sĩ chưa
thỏa măn. Họ đ̣i chính phủ Pháp phải biểu
dương lực lượng, bắt cho tự do truyền
đạo. Nhân vật tiêu biểu nhất giai đoạn này là
Dominique Lefèbvre (1810-1865),
Giám mục Tây Đàng Trong (bao gồm Chân
Lạp). Từ 1841 tới 1846, Lefèbvre ba lần
bị bắt, kết án tử h́nh, rồi trục xuất nhưng vẫn lẻn
vào Việt Nam–khích động các
sĩ quan Hải quân Pháp can thiệp bằng vơ lực.
Mùa
Xuân
1847,
sau
khi nhà Thanh đă đồng ư cho dân
Trung Hoa được tự do hút thuốc
phiện và đi đạo, đúng như các nhà truyền
giáo Ki-tô mong muốn, hai chiến hạm Victorieuse
và Gloire tới Quảng Nam, mở đầu chính
sách ngoại giao pháo hạm, đ̣i tự
do giảng đạo và phóng thích ngay Lefèbvre.
Dù Lefèbvre đă bị trục xuất qua
Singapore từ năm 1846, trưa ngày 15/4/1847, Đại tá
Augustin Lapierre [Lập Biệt
Nhĩ] pháo kích Đà Nẵng và đánh
đắm năm [5] thuyền bọc đồng Nguyễn. Gây tử thương
cho hơn 40 người (kể cả Lănh binh Nguyễn Đức Chung,
Hiệp
quản Lư Điền), hơn 90
người bị thương, 104 người chết đuối. Hôm sau, hai
chiến thuyền
Pháp bỏ đi.
Pháo đài Pḥng Hải và Định Hải
không bắn được phát nào, v́ thuốc
súng chôn quá
kỹ. Sau này, các nhà truyền giáo cho rằng
quan lại Nguyễn âm mưu đầu độc thủy
thủ đoàn Pháp, nhưng giáo dân ngoan đạo
đă tố cáo với Pháp, nên Lapierre ra tay
trước.
Sau
biến cố này,
Thiệu Trị cực kỳ giận dữ, tự tay đập phá mọi vật dụng
do phương
Tây chế tạo.
Họp bàn với các đại thần, vua hỏi: “Thuyền Tây
dương đến đây, chỉ cần có hai
việc: bỏ cấm [đạo Ki-tô] và thông thương mà
thôi. Thông thương th́ được, cấm đạo
có thể bỏ được không?” Sau khi Trương Đăng Quế
nói không thể bỏ, vua nói:
“Đạo
Gia
tô
là
tà giáo, cái hại rồi đến bởi chuyện ngoài
biên, mở đường cho chinh chiến. Thuốc
phiện là thứ thuốc mê, cái hại rồi đến khuynh gia
bại sản, hại tính mệnh người.”
(Buôn bán th́ mở đường cho thuốc phiện) (42)
Ngày
3/5/1847,
Thiệu
Trị nhắc lại lệnh cấm đạo. Một
tháng sau
hứa ban thưởng 30 lạng bạc cho ai có công tố giác
một cố đạo; và xử tử tất cả
những người ngoại quốc. Tháng Chín
Đinh
Mùi [9/10-7/11/1847], cho lệnh điều tra các quan
viên, lập danh sách những người
theo đạo Ki-tô, để trừng trị. (43)
5. Nỗ
lực thứ tư
từ phía Mỹ là sứ đoàn Joseph Balestier, cựu
Lănh sự Singapore. Từ thập niên
1830, Balestier không ngừng yêu cầu Oat-shinh-tân mở
quan hệ với Đại Nam. Tuy
nhiên, cuộc chiến tranh nha phiến, và phong trào
bài đạo Ki-tô của nhà Nguyễn
(từ năm 1833) khiến hai bên không đạt được bước tiến
nào. Ngày 14/5/1845 lại
xảy ra biến cố Quảng Nam: Trung tá John Percival, hạm
trưởng
chiến thuyền
[frigate] USS Constitution, bắn phá
tàu Việt và bắt ba [3] quan chức để áp lực thả
Giám mục Lefèbvre–người sẽ trở
thành cố vấn cho quan Tướng Pháp đánh chiếm
Sài G̣n trong giai đoạn 1859-1862.
Chi
tiết cuộc
bắn phá này không rơ ràng. Trong thư
gửi Bộ trưởng Hải Quân, Percival báo cáo
rằng ngày 10/5/1845, chiến thuyền Constitution
cặp bến Đà Rằng. Vài ngày sau, ba quan Việt
xuống tàu xem xét. Trước khi ra về,
một người trao cho Percival lá thư bằng tiếng Pháp, ra
dấu là nếu bị tiết lộ sẽ
bị mất đầu. Khi dịch thư, được biết thư định gửi cho
Đề đốc
Pháp, xin cứu các
giáo sĩ đang bị giam cầm, đặc biệt là Lefèbre. Hai
ngày sau, Percival bắt ba
quan Việt. Hôm sau nữa, bắt ba tàu Việt và cho
chiến hạm Constitution tới gần
bờ hơn mức qui định. (44)
ĐNTL ghi
việc này xảy ra vào tháng 5 Ất Tị
[6-7/1845]:
Người
Phú lăng
sa [Pháp] sai sứ sang ta. Trước kia người bọn nước ấy
là
bọn tên Đoan, tên Vọng
lén đến, lừa dối dụ dỗ nhân dân bị bắt, phải giam
cầm. Vua cho là không biết mà
lầm phạm, đều tha cho. Đến đây quốc trưởng nước ấy ủy
đầu mục
là Đô rắp lăng đến
cửa biển Đà Nẵng dâng thơ tŕnh tạ, lại
nài xin thảm thiết cho người nươc ấy là
Đô mi ni cô [Dominico Lefèbvre] hiện đương phải
giam. Thự phủ Quảng Nam-Quảng
Ngăi là Ngụy Khắc Tuần nói rằng trong thư đưa
có ư cung kính ḥa thuận. Vua
cũng cho.
.
. . .
Chưa
bao lâu, thuyền Man của nước Hoa căn [Mỹ] cũng đến
cửa biển. Trong kinh phái viên ngoại lang Nguyễn
Long,
cùng thuộc viên ở tỉnh
là kinh lịch Nguyễn Dung Giai đi đến thăm hỏi, bị
người Man dọa
nạt, mang xuống
thuyền. Bọn Long không biết cự lại. Người Man bỗng
nhổ neo đi.
Khi bọn Long về,
đều phải cách lưu. (45)
Theo
vài
quan
Việt
than phiền với Balestier tại Singapore vào năm 1846,
lính Mỹ c̣n đổ bộ và
giết chết 17 người. Trong khi đó, pháo hạm đánh
đắm một số thuyền chở gạo,
khiến nhiều người chết hoặc chết đuối.
Bất
b́nh v́ việc
này, Tổng thống Zachary Taylor (1849-1850) quyết định
gửi
Balestier tới làm
ḥa, mở lại thương thuyết, đồng thời khuyến khích
Xiêm La thi hành Hiệp ước đă
kư với Roberts năm 1833, và t́m cách
kư hiệp ước với một số tiểu vương vùng
Đông Nam Á.( 46) Do nhiều trở ngại nội bộ, hơn bốn năm
sau, ngày 16/8/1849,
Ngoại trưởng John Clayton mới bổ nhiệm Balestier làm
đại diện
đặc biệt thương
mại [Special Commercial Agent] để liên hệ với Đại Nam.
Tới
Hong Kong, Balestier
cũng phải đợi chờ khá lâu nên chỉ tới Vũng
Thùng ngày 25/2/1850 trên chiến hạm USS
Plymouth, với Mục sư William Dean
làm thông ngôn.
Thời
gian này,
Tự Đức (1847-1883) đă lên ngôi hơn hai năm.
Ngày 7/3/1850, Án sát Ngô Bá Hy
và
Lănh binh Giáp Văn Tâm báo cáo
có tàu nước Ma ly căn [Mỹ], tới xin lỗi về việc
một thuyền trưởng của họ, 4 năm trước, đă làm bị
thương
người Việt. Ngày 13/3,
phái viên của Tự Đức là Đô thống
Tôn Thất Bật, lănh Tổng đốc Nam-Ngăi, sai
thông ngôn trả lời rằng “thuyền nước ấy từ trước đến
nay
không có việc trái
phép giết người nào cả.” Hơn nữa, dân Việt
“chuyên nghề làm ruộng, trồng dâu,
không thích chơi của lạ, nếu có lại buôn
không lợi ǵ, thư này không dám đề đạt
lên.” Ngoài ra, Bật cũng không hài
ḷng việc thư của Tổng thống Mỹ có vẻ đe
dọa. Balestier [Ba li chi] nói nếu không đề đạt lên,
th́ không dám trở về. Bật
bèn xin tạm nhận thư, tùy cơ biện bác bắt bẻ,
nhưng Tự Đức không thuận. Ngày
16/3/1850, Balestier lên thăm núi Non Nước rồi bỏ đi.
Trong báo cáo về Bộ Ngoại
Giao, Balestier nhận định:
Người
Cochin
China . . . ,
trong ư niệm
vô giới hạn về sự vĩ đại của họ, khoan khoái nghĩ rằng
bất
cứ một nỗ lực nào
của người Tây phương để mở quan hệ thân hữu với họ đều
do
muốn hiếu kính họ. (47)
Khác
với
chuyến
đi năm 1836 của
Roberts–mà sự thất bại có thể khiến nhiều người hối
tiếc–Belestier rơi vào t́nh
cảnh giống như Thống đốc Hongkong gần 3 năm trước. Tự
Đức nhận được
di chiếu là
phải theo đúng đường lối của tổ tiên và lắng nghe
lời khuyên bảo của bốn Phụ
chính đại thần Trương Đăng Quế, Vơ Văn Giải, Nguyễn
Tri Phương và Lâm Duy Thiếp
[Hiệp], nên việc làm đầu tiên là nghiêm
chỉnh thi hành chính sách “pḥng ngự”
và cấm đạo.
Việc
5 thuyền đồng bị chiến hạm Pháp đánh
đắm vào mùa Xuân 1847, tiếp nối bằng vụ án
tham nhũng ở Quảng Nam tháng
7/1848–trong đó Đào Trí Phú bị mất
chức, phạt trượng, đồ; nhiều quan viên bị
liên hệ–và cuộc tranh chấp ngôi báu giữa
Hoàng tử trưởng Hường Bảo (1825-1854)
với Hường Nhiệm [Tự Đức], càng hạn chế tối đa việc
giao
thương với Tây phương.
(48)
Năm
1848, nhân dịp một tàu buôn đến giao
hàng với giá trên 166,000 thuẫn (florins, tiền
Dutch), các đại thần đă khúm
núm, nhưng cương quyết phản đối việc bỏ ra món tiền
khổng
lồ để mua sắm những
vật dụng chẳng có lợi ích thiết thực, trong khi kho
tàng Nội vụ phủ và Vũ khố
c̣n tràn đầy. Đó là chưa kể mối nhục bị
pháo kích năm trước, khiến dư luận lân
bang coi thường nếu tiếp tục mua hàng Tây. Tự Đức
đành phải chịu nhận lỗi. (49)
Dẫu
vậy, ba năm
sau, nhân dịp đưa một quan Thanh bị đắm tàu về nước,
tháng 3/1851, Tự Đức sai
bọn Lê Bá Đĩnh chất thổ sản lên thuyền Thụy Hồng
để trao đổi hàng hóa Tây phương.
Khi Các thần Mai Anh Tuấn–Thám Hoa, người Nga Sơn,
Thanh
Hoá–can ngăn, vua
giận, đ̣i đánh đ̣n. Trương Đăng Quế và
Lâm Duy Thiếp can không được. Tuấn bị
cách chức; bổ làm án sát Lạng Sơn, rồi
ít tháng sau bị thổ phỉ bắn chết. (50)
Quế và Thiếp bèn xin từ chức phụ chính. Việc
này khiến vua tạm hoăn các chuyến
thương thuyền, sử dụng tàu người Thanh lĩờnh trưng
việc mua
bán với ngoại quốc.
Lư
do
nào
đi
nữa, nỗ lực của Balestier suốt gần ba thập niên trở
thành
công dă tràng. Trong
khi đó, cơn sốt thuộc địa ngày một dâng cao khắp
Á Châu. Mỹ cũng bắt đầu dàn
xếp với các cường quốc Âu châu trong nỗ lực
phân chia quyền tài phán ở Trung
Hoa cùng những quốc gia mà chiến thuyền Mỹ có thể
tiếp cận như Nhật Bản, Đài
Loan, v.. v... Năm 1858, Mỹ kư với nhà Thanh một hiệp
ước
thân hữu, trong đó có
điều khoản Mỹ chịu trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của
Yên
Kinh. Tuy nhiên, cuộc
nội chiến, rồi đến nhu cầu tái thiết và Tây tiến
ngay trong nội địa Mỹ khiến
Oat-shinh-tân bỏ lỡ cơ hội tại Á Châu, phó
mặc liên quân Bri-tên và Pháp xâu
xé
Trung Hoa–chẳng những chính thức xoá bỏ hệ thống
thông hiếu qui tâm về sân chầu
các “Thiên tử,” mà c̣n thiết lập thêm
nhượng địa, và cướp đoạt món tiền bồi thường
chiến tranh không lồ, tám [8] triệu lạng bạc. qua
ḥa ước 24/10/1860 (Ngoài
những điều khoản cũ trong Hiệp ước Tianjin [Thiên Tân]
25/6/1858, nhà Thanh đồng
ư cắt nhượng thêm vùng Cửu Long ti cho
Bri-tên; mở thêm cửa biển Tianjin). Măi
tới năm 1898, Mỹ mới chiếm được quần đảo Philippines
từ một đế quốc
đang suy
tàn là Espania.
6.
Trong thập
niên 1870, sau khi Pháp đă chiếm xong Nam Kỳ lục
tỉnh, mở cảng Sài G̣n cho Tây
phương vào buôn bán, giới ngoại giao Mỹ tại
Đông Nam Á lại vận động Bộ Ngoại
Giao chú ư đến hành lang duyên hải giữa
Hongkong và Sài G̣n. Cuộc chiến tranh
Pháp-Prussia [Phổ] tại Âu châu và nỗ lực
“hé cửa” của Tự Đức trong giai đoạn
này có thể ít nhiều ảnh hưởng.
Năm
1883-1884,
do yêu cầu của nhà Thanh, Bộ Ngoại giao Mỹ đồng ư
đứng làm trung gian trong
cuộc tranh chấp chủ quyền của Trung Hoa và Pháp tại
Đại Nam, nhưng Pháp từ
chối. (50b)
Măi
tới
gần
cuối
thế kỷ XIX, Bộ Ngoại giao Mỹ mới chấp thuận bổ nhiệm
một đại diện
thương mại ở
Sài G̣n–một cách nh́n nhận bán
chính thức chủ quyền thuộc địa Pháp tại Đại Nam.
B. NỖ
LỰC TỪ
PHÍA VIỆT NAM:
Cuộc
“biểu
dương
lực
lượng” của Pháp từ 1856 tới 1862–với chiêu bài
đ̣i tự do giảng đạo–khiến từ
giữa thập niên 1860, Tự Đức cùng các
đ́nh thần bắt đầu nhận hiểu nhu cầu canh
tân, và có những kế hoạch mở rộng ngoại giao với
Tây phương.
1.
Những bước
“toàn cầu hóa” đầu tiên khởi xuất từ nhóm
Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành,
Phạm Phú Thứ. Nhưng các nhóm duy tân đối
diện nhiều trở ngại, từ ngôn ngữ tới
khoảng cách văn hóa, nên phải trông cậy
vào giới giáo sĩ Pháp và giáo mục
cùng
thày kẻ giảng bỏ tu–những tử thù của Khổng giáo
nói chung, và vương triều Tự
Đức nói riêng. Giám mục Retord, Pellerin,
Miche, Lefèbvre, Puginier, Gauthier
hay Sohier đều nghĩ Tự Đức chỉ biết nghe tiếng đại
bác,
và mang nợ máu với Hội
truyền giáo cùng giáo dân. Họ không từ
nan bất cứ phương tiện nào, kể cả việc
sử dụng những giáo dân bản xứ như Trần Lục, Tạ Văn
Phụng,
Hồ Đ́nh Hỷ, Petrus
Key (Trương Vĩnh Kư), Huyện Sĩ, Huyện Thy, v.. v...
trong
công tác làm suy yếu
triều Nguyễn và tiếp tay đẩy mạnh cuộc xâm lăng của
Pháp. Lefèbvre, chẳng hạn, từng viết
cho
Paris:
“Hàng
ngày
chúng
tôi đợi tin một hạm đội đến để
đ̣i Tự Đức nợ máu [Nous
attendons chaque
jour la nouvelle de l’envoi d’une flotte venant
demander à Tu
Duc raison du
sang qu’il a versé].” (51)
Khi
Tự
Đức
và
các đại thần muốn ḥa hoăn, liên minh với
Ki-tô giáo, sự liên minh của các giáo
sĩ chỉ giai đoạn, với mục đích tối hậu là đồng hóa
và Ki-tô hoá toàn dân Việt,
dưới quyền sở hữu thuộc địa của nước Pháp.
2.
Tuy
nhiên,
một
thiểu số nhà duy tân Việt–qua kinh nghiệm Nhật Bản
và nhà Thanh–muốn mở
rộng bang giao với Espania, Bri-tên, Prussia, Nga La
Tư và
Mỹ.
Cuộc
gặp gỡ
chính thức giữa viên chức Việt và Mỹ xảy ra tại
Paris. Tối 21/10/1863, trong dạ
tiệc do Ngoại trưởng Pháp thết đăi sứ đoàn Nguyễn,
Phan Thanh Giản gặp Đại sứ
“Y Ta Duy Nê.”
Trong
không khí
dạ tiệc, và dưới sự giám thị chặt chẽ của các
viên chức Pháp sứ thần Nguyễn khó
có cơ hội tiếp cận Đại sứ Mỹ xin cầu viện. Ngoài ra,
chánh thông ngôn Aubaret
cùng tùy tùng, như Petrus Key (từng theo Tư lễ
Nguyễn Văn Chất mang quà tặng
tới điện Tuleries ngày 5/11/1863, rồi sau này qua
Madrid), bám sát sứ đoàn từng
giờ. Trở ngại ngôn ngữ cũng không nhỏ. Trong khi đó,
nước Mỹ đang trong cơn nội
chiến; đại sứ Mỹ có nhiều việc đáng quan tâm hơn
một xứ cách xa nửa ṿng địa
cầu được coi như nằm trong quĩ đạo Pháp. Cho tới khi
có
tài liệu chứng minh ngược
lại, có thể tạm kết luận rằng sứ đoàn Phan Thanh Giản
không tạo được một liên
hệ thiết thực nào với đại diện Mỹ tại Pháp hay
Espania.
Sau
ngày sứ đoàn
Phan Thanh Giản về nước–với lời hứa của Napoléon III
là
cho sửa lại ḥa ước
5/6/1862–phong trào duy tân mới có cơ hội lên
cao. Hongkong, Macao, Singapore,
và Bangkok trở thành những điểm tiếp cận với thế giới
bên ngoài ảnh hưởng Pháp.
Nhưng nỗ lực của các nhà duy tân chỉ có kết
quả rất giới hạn. Một mặt, giai
tầng văn thân bảo thủ hung hăng chống đối. Mặt khác,
Pháp đă có chủ ư: Đại Nam
chỉ được duy tân theo khuôn khổ Pháp mong
muốn–dù ở thời điểm này Pháp chưa có
chính sách rơ ràng với Đại Nam,
ngoài giấc mơ biến bán đảo Ấn Hoa thành cửa
ngơ
vào thị trường lục địa Hoa Nam.
31/3/1864:
Phan
Thanh
Giản
tŕnh lên Tự Đức “Nhu Tây sứ
tŕnh nhật kư.”
Tác
giả
của
báo
cáo này là Phạm Phú Thứ. Phan Thanh Giản
và Ngụy Khắc Đản chỉ đọc qua, và hiệu đính.
Bản dịch của Ngô Đ́nh Diệm, “L’Ambassade de Phan Thanh
Gian (1863-1864);” BAVH,
Bộ VI, Số 1bis và 2 (Avril-Juin 1919), tr. 161. Ở đầu
bài, Diệm được giới thiệu
là “học sinh trường Hậu bổ,” và bài này
đă được đọc tại các buổi họp [hôi thảo]
ngày 27/8 và 3/12/1918, và 4/3/1919. Ibid. Diệm
chỉ dịch một phần tập tâu của
Phan Thanh Giản và Phạm Phú ThứÔ, dưới sự hướng dẫn
của Nguyễn Đ́nh Ḥe. Phần
c̣n lại (thiếu đoạn đi sứ Espania) do Trần Công Tạn
dịch;
BAVH, Bộ VIII, Số ?
(1921), tr. 147-87.
Cử
Phan Thanh
Giản làm thượng thư bộ Lại; Phạm Phú Thứ làm tả
tham tri bộ Lại; Ngụy Khắc Đản,
Quang lộc tự khanh, biện lư bộ Binh. (30:66) Tự Đức
giữ Giản
ở kinh, để chờ sứ
giả Pháp tới thương nghị hoà ước mới.
Nhân
dịp
Pháp
và
Prussia (Phổ) lâm chiến năm 1870-1871, một thày kẻ
giảng
là Nguyễn Trường Tộ
mật tâu hai phương sách:
(a)
sai người đến
Gia Định do thám, dâng kế khiến Pháp trả lại 6
tỉnh miền Nam, đem quân về dẹp
nạn trong nước, rồi lại sang buôn bán như người
Bri-tên ở Hạ-châu; và
(b)
chơi thân
với Bri-tên, Pháp thấy Đại Nam t́m đến người
Bri-tên, mới dễ bàn định ḥa ước.
Lại đề nghị cử người qua Bri-tên thăm ḍ, tùy tiện
bày kế.
Trần
Tiễn Thành
xin theo kế hoạch của Tộ: Hoà với Pháp, chờ thời cơ
đ̣i lại 6 tỉnh, và buôn bán
như trường hợp Bri-tên với Trung Hoa. Thành xin cho
Nguyễn
Hoằng và Tộ qua
Pháp, tiếp xúc với Hội truyền giáo và lưỡng
viện quốc hội, cùng các nước
Bri-tên, Nga, Úc, Phổ. Vua mật triệu Tộ về kinh. (52)
Theo
một nguồn
tin, tháng 2/1871, Tộ c̣n đề nghị đánh úp
Gia Định. Nếu vậy, Tộ không nhận hiểu
khả năng quân đội Nguyễn, chính sách chủ ḥa
của Tự Đức và Từ Dụ thái hậu, cùng
âm mưu của Puginier và Gauthier (cha đỡ đầu Tộ) nhằm
xúi dục soái phủ Sài G̣n
chiếm Bắc Kỳ. [Tháng 8/1873, Tổng đốc Nghệ An Tôn Thất
Triệt bắt được thư
Dupuis gửi Gauthier về việc góp vốn làm ăn, chuyển cho
Thống đốc Pháp; 32:306]
Đánh úp Sài G̣n hẳn sẽ biến
thành một cái cớ toàn vẹn nhất cho Pháp
mang quân
ra Bắc, nơi “6,000” tay súng của Puginier sẵn sàng
giúp vài chiến hạm và khoảng
một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến đánh chiếm
thành tŕ, tạo nên vương quốc Bắc
Kỳ Ki-tô tự trị. Năm 1873, khi Francis Garnier mang
quân
đánh miền Bắc, số lính
đánh thuê bản xứ lên tới 12,000 người, theo
tài liệu Việt; và 14,000, theo tài
liệu Pháp. [Xem infra]
3. Tự
Đức cũng
có kế hoạch phái người đi do thám t́nh
h́nh hầu có thể đối phó với cơn sốt
thuộc địa Tây phương.
a.
Tháng 11/1870,
nhân dịp Napoléon III bị bắt, vua sai Nguyễn Hữu Lập
đi sứ
nhà Thanh cảm tạ
việc Phùng Tử Tài đă mang 31 doanh quân qua
đánh dẹp thổ phỉ tại Bắc Kỳ, với
mật chỉ liên lạc các nước Cao Ly, Nhật Bản, Lưu Cầu
[Ryukyus], gợi ư việc “các
nước phương Tây chuyên dùng kế liên hợp với
nhau để xâm chiếm các nước phương
Đông, ta phần nhiều bị nọc độc ấy, nước tôi và
các quí quốc đều là chung một
thứ văn tự, nhưng địa thế xa cách, về phương kế tự
cường, tự
trị, xin để bàn
riêng với người có chuyên trách.” Vua
c̣n dặn ḍ, trong khi bút đàm về nước
Tây, nếu là chuyện bí mật, viết vào manh
giấy nhỏ, rồi thu lại bỏ đi, không để
truyền bá ra ngoài. (53)
b.
Tháng
6
Tân
Mùi [18/7-15/8/1871], vua bảo bộ Hộ cần nghiên cứu sử
dụng
ba tàu Đằng Huy, Mẫn Thỏa, và Thuận Tiệp đi công cán nước ngoài.
Noi gương
hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị [một năm hai, ba lần,
không chỉ mua bán mà c̣n
do thám t́nh h́nh]. Tháng 7/1875, vua định
rơ lệ mỗi năm lấy một tàu thủy, một
thuyền bọc đồng ra ngoài buôn bán. Hàng
năm
Nội
vụ,
vũ
khố cùng các tỉnh chất sẵn hàng
hóa ở cửa biển; tháng 12, thuyền
sẽ tới lấy hàng. Nếu thừa chỗ, sẽ chở giúp hăng tư
của Thanh. (54)
c.
Tháng 5/1872,
Lănh sự Prussia ở Hương Cảng là Mang Cơ cùng 7 sĩ
quan và 12 thủy thủ Đồ Bà tới
tiếp xúc Thương Bạc, muốn thông thương. Vua mừng lắm,
sai
Nguyễn Chính sang
Hongkong bằng tàu Thuận Tiệp. Lănh sự Prussia hứa
chuyển
thư về nước và thông
báo quyết định của vua Prussia. Rồi cho tàu đưa Nguyễn
Chính về nước, và bán
tàu trên cho Việt Nam. (55)
d.
Năm
1878,
tức
hơn 4 năm sau ngày Francis Garnier đánh chiếm 4 tỉnh
Bắc
Kỳ để áp lực Huế phải
kư Hiệp ước 15/3/1874 và hai hiệp ước phụ bổ thương
mại–cắt 6 tỉnh miền Nam,
cho Pháp đặt lănh sự ở Hà Nội, Hải Pḥng sứ
Hải Dương, và Thị Nại (B́nh Định),
cùng tự do giao thương trên sông Hồng–Tự Đức gửi
phái đoàn Nguyễn Tăng Doăn và
Nguyễn Thành Ư đi Pháp với ba mục đích: xin
sửa đổi ḥa ước 1874, mở rộng giao
thiệp với các nước Espania, Phổ và Bri-tên,
cùng t́m thuê chuyên viên Âu
châu.
Doăn về nước trước trên tàu L'Aveyron; Ư ở
lại ít lâu, hy vọng qua Bri-tên nhưng
thất bại.
Trong
báo cáo
ngày 11/9/1878, Doăn tâu Pháp đang mạnh;
phải chờ đợi tự cường; và tin rằng thế
nào Pháp cũng trả ba tỉnh Nam Kỳ. Ngày
20/12,
Ư
nhận
xét Pháp mạnh nhất thế giới; nên
thành tâm ḥa với Pháp; cầu thân
với các nước phương Tây; tự lực tự cường giống Nhật
Bản. (56)
Tự
Đức
không
dấu
sự bất măn. Cả ba mục đích chính đều chẳng được
việc ǵ. Pháp không chấp thuận
sửa đổi ḥa ước; Espania nghi ngờ, không tiếp xúc
được Bri-tên, cũng chẳng t́m được
người tài. Báo cáo về chính
trị (dân
chủ, quốc hội), thương mại (15 sở), kỹ thuật (tàu
lửa chạy giữa
biển), tôn giáo
(giáo chủ Vatican), phong tục (một vợ, một chồng; vợ
chồng cha
con đi cùng một
xe, nhảy đầm) th́ “đều nói hăo.” (57)
4.
Riêng với Mỹ,
từ thập niên 1860 Huế đă có những khái niệm
rơ ràng hơn về lược sử của cường
quốc đang lên tại “Tây Châu” này. Năm 1868,
Gauthier mang về nạp cho bộ Lễ một
quả địa cầu. Khoảng năm 1864-1870, Nguyễn Trường Tộ đă
bàn về việc Pháp và
Bri-tên thù hận nhau v́ Pháp mang quân
đánh giúp nên Bri-tên mất Tây [Mỹ]
Châu.
“Thày Lân”–người tự hào trên thông
thiên văn, dưới hiểu địa lư, giữa thấu đáo
nhân tâm, thu tóm túi khôn của
nhân loại suốt 500 năm qua–c̣n yêu cầu Tự Đức
nên nhờ Giáo hoàng và Giám mục
Gauthier đứng ra vận động để ngăn chặn tham vọng
đánh cướp của Pháp. (58)
Tự
Đức có vẻ tán
thành đường lối này. Tuy nhiên, giữa lúc
Gauthier cùng hai phái viên Nguyễn Tăng
Doăn và Trần Hiếu Đạo đang mua sắm sách vở
và vật dụng tại Pháp để thành lập
một trường Quốc Học ở Huế, và vận động các giới
chính khách Pháp, Thống đốc
Pierre de la Grandière đột ngột chiếm đóng ba [3] tỉnh
miền Tây. Trước sự phẫn
nộ của giới sĩ dân khắp ba miền, Huế phải tạm gác
những nỗ
lực dựa vào Pháp và
Hội truyền giáo để canh tân.
Cuộc
chiến
Pháp-Phổ trong hai năm 1870-1871, và ḥa ước
Oat-shinh-tân giữa Mỹ và Bri-tên năm
1871 khiến Tự Đức hé cửa ngoại giao với các nước
Tây phương và Á Châu. Riêng
với Liên bang Mỹ, Huế có những nỗ lực sau:
a.
Giữa năm
1871, Bộ Hộ tŕnh việc muốn thuê một số người Mỹ để
sửa
chữa và làm hoa tiêu
cho tàu Mẫn Thỏa. (58)
b.
Mùa
Thu
1873,
nhân dịp tháp tùng sứ đoàn Lê Tuấn
vào Sài G̣n, Linh mục Nguyễn Văn [Hữu] Thơ
hay Cư–một trong hai giáo mục Ki-tô làm quan
thông ngôn cho triều Nguyễn–ghi
trong nhật kư là từng gặp Lănh sự Mỹ ở Sài
G̣n. Theo Thơ, sứ đoàn tới Sài
G̣n tối ngày
31/8/1873 với hai nhiệm vụ: thương nghị việc xin trả
lại ba tỉnh miền
Tây, đồng
thời dàn xếp việc Jean Dupuis ở miền Bắc. Ngay
tối
đó, Paul Philastre
[Hoắc Đạo Sinh] (1837-1902), Giám đốc Bản xứ vụ Nam
Kỳ,
xuống tàu thăm. Ngày 2/9/1873,
Đô đốc Jules Dupré
(1813-1881) tiếp sứ đoàn Việt. Có
mặt
lănh sự Bri-tên, Đức, Espania, Belgium, Denmark,
Dutch
và Mỹ, nhiều viên chức
cao cấp và 4 nhà truyền giáo. (59) Tuy
nhiên, đây chỉ là cuộc gặp xă giao, và
vào thời điểm này, Mỹ chưa đặt lănh sự tại
Sài G̣n. (Mới chỉ có Lănh sự Hong
Kong, Singapore, Bangkok).
c.
Đầu năm 1874,
Nguyễn Huy Hỗn báo cáo đă nói chuyện với
một lănh sự Mỹ trong chuyến thăm
Hongkong, Macao và Quảng Đông năm 1873. [Viên
người Mỹ này có ư muốn đến VN
buôn bán nhưng nước ta không quan hệ với bên
ngoài]. Thực Lục không nhắc việc này,
chỉ ghi vào tháng 5 Giáp Tuất [6-7/1874],
vua trao 2000 lạng bạc cho Nguyễn Huy Côn [Hỗn],
khâm
phái tàu Đằng Huy, qua
Hongkong mua súng Tây. (60)
d.
Năm
1881–sau
khi Pierre
Rheinart cho nhà Nguyễn biết Pháp sẽ kiểm soát
việc giao thiệp giữa Đại Nam và
các nước khác v́ thể chế “bảo hộ” đă nằm
trong Hiệp ước 1874–viện Cơ Mật bàn định
việc nhờ Anh, Mỹ, Phổ, v.. v... can thiệp. Trong khi
chờ đợi, chỉ thị
khâm phái
Phạm B́nh, Hà Văn Trung ở Hương Cảng t́m
thuê hoa tiêu và thợ máy người Tây để
đưa
sứ đoàn đi các nước bằng phương tiện riêng.
Đồng thời t́m cách liên lạc với
lănh sự ngoại quốc ở Yên Kinh. Có thể nhờ Lư
Hồng Chương và Đường Đ́nh Canh,
“cũng ṇi giống ta.” Vua nói đợi Nguyễn Thành
Ư về sẽ bàn thêm. Hai tháng sau,
Tự Đức cử Nguyễn Trọng Hợp, Nguyễn Thành Ư, Vũ Ngọc
Tuân, Phạm Như Xương vào sứ
đoàn qua Pháp, nhưng cuối cùng, “v́ bận
rộn, lại ngưng.”
Cách
diễn
tả
“bận rộn” của sử
Nguyễn hơi mơ hồ. Thực ra, cuối năm 1881, đầu 1882,
chính
sách của Tự Đức hoàn
toàn thay đổi. Chuyến đến Huế của Đường Đ́nh Canh
đầu năm 1882 đánh dấu sự thay
đổi này: Sau khi được Canh (qua Nguyễn Văn Tường) mật
báo
kế hoạch chiếm Bắc Kỳ
của Pháp, Tự Đức chính thức yêu cầu nhà
Thanh can thiệp. Không những xin làm
thuộc
quốc của nhà Thanh,
vua c̣n yêu cầu đặt đại diện ở Yên Kinh và
Quảng Đông, và nhờ tàu Thanh đưa người
Việt đi các nước Anh, Nga, Phổ, Pháp, Mỹ, Áo, Nhật
Bản “xem xét và học.” Những đề
nghị này được viết thành văn bản gửi Lư Hồng
Chương và Trương Thụ Thanh. (61)
Tuy
nhiên,
đă
quá trễ. Tháng 3/1882,
chính phủ Charles de Freycinet chấp
thuận cho đưa quân ra Bắc Kỳ, và chỉ định Trung tá
Henri Rivière làm Tư lệnh.
Chuyến đi này khiến Tự Đức và triều đ́nh nhiều
hơn là “bận rộn” trong những
tháng ngày cuối đời vua.
Trong
khi đó, mặc dù nhà Thanh có khả năng
liên hệ với bộ Ngoại Giao Mỹ,
trào lưu thế giới đă đổi thay–nên những bước ngoại
giao rụt rè của Tự Đức quá
ngắn và quá chậm. Tàu chiến, binh lực và
các nhà truyền giáo Pháp bắt đầu chấp
nhận cuộc chơi biểu dương luật kẻ mạnh–tự xưng là
“khai
hóa” nếu chiến thắng,
và sẽ bị sỉ nhục là “cướp nước” khi thất bại. Liên
bang Mỹ, trên nguyên tắc,
chẳng có căn bản pháp lư nào để trực tiếp
can thiệp. Hơn nữa, chính sách ngoại
giao Mỹ luôn luôn lấy Âu châu làm trọng
điểm. Tại Á châu th́ ngoài Nhật Bản
và
Xiêm La, thị trường Trung Hoa mới đủ sức quyến rũ các
tài phiệt–kể cả việc
tuyển dụng lao công rẻ tiền để phát triển hệ thống
đường
xe lửa tại nội địa Mỹ.
Việt
Nam không là thánh địa của một tôn
giáo hoàn cầu hay một ư thức hệ
chính trị quyến rũ nào. Việt Nam cũng không rừng
vàng, bể bạc như “người Hán” ở
Huế ảo tưởng. Ngoài những thổ sản như đường cát, vỏ
quế,
lúa gạo và mỏ than, sự
quyến rũ nhất của Đại Nam ngày đó chỉ là khả
năng mở cửa vào vùng Vân Nam–một thời
được coi như cửa ngơ vào thiên đường hạ giới.
Dù huyền thoại người da tím một
mắt giữa trán, và những đô thị ở đó người ta
có thể cúi xuống nhặt được vàng
không c̣n lưu truyền, nhưng những mỏ tài
nguyên thiên nhiên và thị trường tiêu
dùng vũ khí, đạn dược, cùng các hàng
hoá tại miền Tây Nam Trung Hoa thơm ngọt hơn
mật ong. Vai tṛ phên dậu của Thiên triều này
sẽ kéo dài thảm kịch Đông Dương
hàng thế kỷ.
Các
nước
Tây
phương không
hẳn “cùng giuộc với nhau” như đ́nh thần nhà Nguyễn
lên án–nhưng họ cũng không
muốn trở thành lá bài của Tự Đức trong kế
sách gọi là “dĩ man trị man;” nếu
không phải chính họ đă và đang hăng
hái, hữu hiệu hơn trong cùng phương cách
lấy người Việt trị người Việt, tằm thực hay “ăn dân.”
Từ
ngày 26/2/1862, Lănh
sự Mỹ Bangkok là Westervelt đă nghĩ rằng Cochin China
có thể coi như một thuộc địa
của Pháp. (62)
Vũ
Ngự
Chiêu
(Xem
tiếp phần II trong
Hợp Lưu số 94)
©
2010,
Chieu
N.
Vu. All Rights Reserved
Phụ Chú:
1.
Trịnh Văn
Thanh, Thành ngữ điển tích, Danh nhân từ điển, 2
tập (Sài G̣n: Khai Trí,
1965?), I:77; Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ et al, Việt Nam
Tự Điển, 2 tập (Sài G̣n:
Khai Trí, 1970), I, phần III:23; Nguyễn Q. Thắng &
Nguyễn
Bá Thế, Từ Điển
Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam (TP/HCM: 1992), tr. 61-62.
Chúng
tôi đă ghi ngày sinh
và ngày mất của Cử nhân Bùi Viện dựa
trên các tư liệu Châu Bản Tự Đức, hiện lưu
trữ tại Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia I (Hà Nội). Các
tài liệu Châu bản về Bùi
Viện và em là Bùi Bổng (hay Phụng) ước khoảng 200
tờ; tuy nhiên mă số đă thay đổi
so với ngày c̣n bảo quản tại Trung Tâm Lưu TRữ
Trung Ương II (TP/HCM). Đa tạ
Giáo sư Nguyễn Phạm Hùng, Đại học Hà Nội,
và học giả Nguyễn Thu Hoài, chuyên
viên Hán Nôm, về những thông tin trên.
Khi in thành sách, chúng tôi sẽ nỗ lực
thay mă số cũ tại TTLTTƯ II (TP/HCM) bằng mă số mới
tại
TTLTQG I (Hà Nội). Xem
thêm đoạn II.
1.
Về
ngày
sinh của cụ Bùi Viện : Tự Đức quyển 231, văn
bản
58, tờ số 167 (18/10/TĐ23).
2.
Về
ngày
mất của cụ Bùi Viện : Tự Đức quyển 311, văn
bản
06, tờ số 14 (03/11/TĐ31).
3.
Việc
bổ
Bùi Viện làm quản đốc Nha Tuần tải : Tự Đức
quyển
286, văn bản 72, tờ số 210 (09/9/TĐ30).
4.
Việc
Bùi
Viện bị can tội hối lộ nên không được
xét thưởng
: Tự Đức quyển 297, văn bản 101, tờ số 305
(18/8/TĐ31).
5.
Việc
Quản
đốc Bùi Viện vay 100 lạng bạc bị xử tội : Tự
Đức quyển 333, văn bản 33, tờ số 89 (29/01/TĐ32).
6.
Việc
các
tàu thuyền do Bùi Viện và em trai
là Bùi Bổng
(Bùi Phụng) thuê chở hàng hoá bị đâm
phải đá ngầm làm đắm và để hàng hoá
bị hư
hỏng thiếu hụt phải đền bù : Tự Đức quyển 330, văn
bản 31,
tờ số 84
(04/12/TĐ32); Tự Đức quyển 318, văn bản 28, tờ số
73; Tự
Đức quyển 330, văn bản
88, tờ số 258; Tự Đức quyển 307, văn bản 114, tờ số
265; Tự Đức
quyển 341, văn
bản 120, tờ số 360.
7.
Việc
Bùi
Viện được cử đi xem xét t́nh h́nh
tiễu phỉ : Tự
Đức quyển 303, văn bản 29, tờ số 64.
8.
Về
hành
tŕnh của Nguyễn Huy Côn (Hỗn) sang Hồng
kông
và Quảng Đông học hỏi t́nh h́nh
và học đúc pháo, đóng thuyền: Tự Đức
quyển 254,
văn bản 40, tờ số 94 (10/12/TĐ26); Tự Đức quyển 254,
văn bản số
89, tờ số 187
(28/12/TĐ26).
2.
Xem, chẳng
hạn, “Đường Kách Mệnh;” in lại trong Đảng Cộng Sản
Việt
Nam, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, tập
I:1925-1930
(Hà Nội: 1999), tr. 26-27 [Trong lời tuyên ngôn của
Mỹ [đoạn thứ hai] có câu
rằng: “Giời sinh ra ai cũng có quyền tự do, quyền giữ
tính mệnh của ḿnh, quyền
làm ăn cho sung sướng.... Hễ chính phủ nào
mà có hại cho dân chúng, th́
dân
chúng phải đạp đổ chính phủ ấy đi, và gây
lên chính phủ khác.” Nguyên văn: “We
hold these truths to be self-evident, that all men are
created equal,
that they
are endowed by their Creator with certain unlienable
Rights, that among
these
are Life, Liberty and the Pursuit of Happiness– .
. . .
–That whenever
any Form of Government becomes destructive of these
ends, it is the
Right of
the People to alter or abolish it, and to institute a
new government]
Marr,
1981:131n, 374-375 [Đường Kách Mệnh]
3.
The Papers of
Thomas Jefferson (Princeton, NJ: Princeton Univ.
Press, 1958), vol. 11,
pp.
645, & 646, vol. 12, p. 508, and vol. 14, pp.
636-637, 641 &
647; cited
by Robert H. Miller, The United States and Vietnam,
1787-1941
(Washington, DC:
NDU, 1990), tr. xv-xvi.
4.
Miller,
1990:3-5.
5. Đại
Nam Thực Lục Chính Biên [ĐNTLCB], 38
tập
(Hà Nội: 1963-1978), Đệ nhất kỷ [I], 3:134. “Hồng
Mao”
(lông, tóc đỏ) là
tiếng miệt thị gọi người Bri-tên (tiếng lịch sự hơn là
Anh
cát lợi).
6. ĐNTLCB,
I,3:193. Đây là lần thứ hai
Roberts
ghé Đà Nẵng. Hơn nửa năm trước, Roberts đă đến
Đà Nẵng, và ngày 16/12/1803,
Philippe Vannier (1762-1842) cùng một người Việt có
tên “Juan Babtiste” xuống
tàu gặp Roberts, cho biết Gia Long chỉ trở lại Huế
vào
mùa Xuân 1804. Roberts
bèn nhổ neo, hướng về Malacca. Giám mục Jean
Labartette,
cùng các Linh mục
Jacques Liot và Francois-Joseph Guérard cũng ít
nhiều liên hệ trong việc thảo
luận. Xem L. Cadière, “Les francais au service de Gia
Long: XI.
Nguyễn Ánh et
la Mission. Documents Inédits;” Bulletin des Amis de
Vieux
Hué [BAVH] (Hà Nội),
XIIIè, no. 1 (Jan-Mars 1913), tr. 1-49. Những tư liệu
này
cũng nằm trong Châu
Bản Tự Đức. Vannier tháp tùng Giám mục Pedro
Pigneau de Béhaine tới Sài G̣n năm
1789, cùng 13 người khác (kể cả anh em Félix
và Jean-Marie d’Ayot [Dayot]) và
80 binh sĩ. Ngày 27/6/1790, được cử chỉ huy tàu Đồng
nai, dưới quyền J. M.
d’Ayot. Ngày 12/11/1811, lập gia đ́nh với Nguyễn Thị
Sen
hay Magdeleine Sen,
thuộc một gia đ́nh Ki-tô ở Phường Đúc, hay Thợ
Đúc. Năm 1824, Vannier đưa vợ
con về nước và chẳng bao giờ trở lại. Ngày
23/10/1863, Magdeleine Sen đến thăm Phan Thanh Giản
tại Paris. Xem
“Documents
A. Salles, III: Philippe Vannier;” BAVH, XXII, No. 2
(Avril-Juin 1935),
tr.
143-159; & Cadière, “Les francais au service de
Gia Long:
VII. Les diplômes
et ordres de service de Vannier et de
Chaigneau;Ӈ Ibid., IX, no. 2, (4-6/1922), tr.
140-169.
7. ĐNTLCB,
4:400. Năm 1848, nhóm Nguyễn Tri Phương cũng
khuyên Tự
Đức: “Chỉ nghe thấy
tiếng là đem đến cống hiến; chớ chưa nghe thấy cùng
nước
người buôn bán bao
giờ;” Ibid., 27:117-118.
8. Thư ngày
31/1/1790, Nguyễn Ánh gửi vua
Pháp, bản dịch của Pigneau;
Service historique de la Marine [SHM], (Vincennes),
GG2-44, carton 3,
d.1. 48á; và Archives
du Ministère des Affaires Etrangères [AMAE] (Paris),
Mémoires et Documents,
Asie, vol 64, tờ 21. Về Hoà ước 1787, xem
CAOM (Aix),
GGI [Amiraux],
11704. Đă có quá nhiều tài liệu về
Pigneau de Béhaine. Về tài liệu nhà Nguyễn,
xem Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, bản dịch Việt ngữ
của Viện sử học Hà-nội
(Huế: Thuận Hoá, 1993), tập II, tr. 476-477. [Sẽ dẫn
ĐNCBLT]. Tài liệu này ghi
rằng Pigneau qui phục Nguyễn Chủng từ năm Bính Tí
(1780);
II:476. Cần nhấn mạnh
là sự đóng góp của Pigneau cho chiến thắng của Gia
Long chỉ rất giới hạn. Xem
thêm Cao Xuân Dục, Quốc triều chính biên
toát yếu (Sài G̣n: Sử Địa, 1971),
tr.12-13; Annales annamites [Sử Kư Đại Nam Việt]
(Sài-g̣n: Nhóm Nghiên Cứu Sử
Địa, 1974); H. Cosserat, “Notes biographiques sur les
francais au
service de Gia
Long;”á Bulletin des Amis de Vieux Hué [BAVH], IV, no.
3
(7-9/1917),
tr.165-206; Léonard Cadière, “Les Francais aux service
de
Gia Long: XI. Nguyen
Anh et La Mission, Documents inédits;” Ibid. [Bulletin
des
Amis
de Vieux Hue
Ô[BAVH],] XIII, no. 1
(1-3/1926), tr.1-49. Cosserat
sử dụng tài liệu văn khố Hội truyền giáo, và
Cadière so sánh tài liệu truyền
giáo với tư liệu Việt Nam.
9. ĐNTLCB, I,
2:269,
282; 3:134; thư ngày 11/4/1801, Barisy gửi Letondel;
L. Cadière,
“Les
francais
au
service de Gia Long: XII. Leur correspondance;” BAVH,
XIII,
no. 4
(10-12/1926), tr. 359-437.
10.
ĐNTLCB, I,
2:78 [Tháng Tám Mậu Thân [31/8-28/9/1788], nội
viên Trịnh Tấn Tài, Chu Văn Quan
đi Hạ châu mua súng đạn]; Sau khi chiếm lại Gia Định
thành ngày 7/9/1788 [Đinh
Dậu, 8/8 Mậu Thân], Nguyễn Chủng đặc biệt quan tâm đến
việc
ngoại thương, để
giải quyết nhu cầu vũ khí, đạn dược. 2:86-87
[Tháng
Giêng
Kỷ
Dậu [26/1-24/2/1789], đặt ba loại thuế: thuế cảng, lễ
cai tàu, tiền
xem cơm cho các tàu Trung Hoa]; 2:95 [Tháng Năm Kỷ
Dậu [25/5/1789], cho lệnh
thu mua tất cả sắt, gang, kẽm, lưu hoàng trên các
tàu Thanh. Chở được 10 vạn
cân, bớt thuế cảng; cho chở 30 vạn cân gạo về];
2á:106 [Tháng Một Kỷ Dậu
[17/12/1789-14/1/1790], sai dinh Trấn Biên đặt mua
đường
cát. Mỗi năm 10
vạn cân. Cứ 100 cân, 10 quan.
Ngày nộp, tính
theo giá chợ. Đổi lấy vũ khí Tây
phương]á; 2:183 [Tháng Một Quí Sửu
[3/12/1793-1/1/1794], sai cai đội Quang-nói-ve
[Vannier], đội
trưởng Pa-đơ-chê
[Barizy], đều là người Tây, đi mua vũ khí ở
thành Cô á [Goa, India] và xứ Măợ
La Kha [Malacca]. Cadière,
“III.
Leurs
noms;”
BAVH, VII, no.1 (1-3/1920): ngày 17/12/1793, Barizy
đi
Malacca và Penang).
5/7-3/8/1826
[Tháng
Sáu
Bính
Tuất]: Sai cai đội Nguyễn Đắc Súy, tư
vụ Đỗ Văn Trị đi Quảng
Đông, Tô Châu và Hàng Châu.
(8:66)
11. ĐNTLCB,
I,
3:193,
4:382;
Alexander B. Woodside, Vietnam and the Chinese
Model: A
Comparative Study of Nguyễn and Ch’ing Civil
Government in the First
Half of
the Nineteenth Century (Cambridge, MA: Harvard Univ
Press, 1971), p. 273. Từ
năm
1791, tàu Portugal đă tới buôn bán;
ĐNTLCB, I, 2:137. Năm
1805, tàu Portugal từ Macao tới kinh, xin vào Gia
Định mua gạo. Vua đồng ư bán
1000 tạ. Mục lục châu bản triều Nguyễn,
Tập I: Gia Long (Huế: Viện Đại học Huế, 1960), tr. 27;
dẫn
trong Đỗ
Bang-Nguyễn Minh Tường, Chân dung các vua Nguyễn, tập
I
(HuếÔ: NXB Thuận Hóa,
1996), tr. 74. Mùa
Xuân 1876, Tự Đức mới băi bỏ lệnh cấm xuống biển đi
buôn. ĐNTLCB, IV,
33:281-282
12. ĐNTLCB,
I,
3:348-9,
4:157.
13. Theo
Thực Lục, từ tháng 7/1818 tàu ngoại
quốc muốn nạp thuế cảng và
thuế hàng hóa bằng loại tiền nào cũng được;
ĐNTLCB, 4:352. Từ đầu năm 1819,
tiền “ba lễÔ” và tiền cai tàu được giữ ở kho dinh
Bắc thành và Gia Định thành,
cuối năm chia cho các quan; Ibid., 4:364-365.
14.
John White,
History of a Voyage to the China Sea (Boston: Wells
& Lilly, 1823);
điểm
sách trong The North American Review, vol. 18, no. 42
(Jan
1824), pp. 140-157;
in lại dưới tựa A Voyage to Cochin China (London: A
& B.
Spottiswood, 1824,
1972); bản dịch Pháp ngữ của P. Midan, “Les Européans
qui
ont vu le vieux Hué:
John White;” BAVH (Ha Noi), 24è année, no. 2-3
(Avril-Sept. 1937), tr. 93-322;
Miller, 1990:6-14. [Ngày này, 3/2/1820 (tức 19/12 Kỷ
Măo), Gia Long chết;
ĐNTLCB, I, 4:398]
15. ĐNTLCB,
I, 4:390-391. Về tiểu sử Nguyễn
Văn Nhân và Nguyễn Huỳnh Đức, xem ĐNCBLT, II, q.
7, vol. II, tr. 115-123 &
123-128.
16. ĐNTLCB,
I, 4:356, 367. Về
tiểu sử Trịnh Hoài Đức (1760-1825),
xem ĐNCBLT, II, q. 11, vol. II, tr. 186-192.
17. ĐNTLCB,
I, 4:398; Mục lục Châu Bản triều
Nguyễn, tập II: Minh Mạng [MLCBMM], Cheng ch’ing-ho
[Trần Kính
Ḥa], Nguyễn Phương,
et al. dịch (Huế: Đại học Huế, 1962) CB 1:56;
tr. 12. [Gia
Long cử Duyệt
thay làm Tổng trấn Gia Định lần thứ nhất từ năm 1812
tới
1815; ĐNTLCB, I,
4:160, 252. Trước năm 1808, chỉ có Lưu trấn, rồi trấn
thủ
Sài G̣n. Chức Tổng
trấn Gia Định lập ra từ tháng 10-11/1808].
18.
CBMM, 1/3
Canh Th́n; & 30/4 Canh Th́n; MLCBMM, II, 1962: 65,
112-113.
19. ĐNTLCB, I, 4:336-337; MLCBGL, tr. 196-197;
Đỗ
Bang-Nguyễn
Minh Tường, 1996:75. Theo
Yoshiharu Tsuboi, nêu lư do
vua bệnh; Idem., Nước Đại
Nam đối diện với Pháp và Trung
Hoa, 1847-1885
[L'Empire vietnamien face à la France et à la
Chine], bản
dịch Nguyễn Đ́nh Đầu
(Sài G̣n: 1990), tr. 94-5. [Sẽ dẫn:
Tsuboi
1990]. Alastair
Lamb
ghi
de
Kergariou tới Tourane ngày 30/12/1817; Idem., The
Mandarin
Road to Old Hue (London: Archon Books, 1970), Part V
tr. 229.
[sẽ
dẫn Lamb 1970]; Có lẽ Lamb sử dụng tài liệu của Pierre
de
Joinville [1914]
và Cordier [T'oung Pao, 1904 và 1908]). Ngày
22/1/1818, de Kergariou rời Tourane.
20. Thực
lục cũng không nhắc ǵ đến hai tàu
Pháp
mang theo hơn 1,000 súng và thuốc đạn này. Chỉ
ghi
tháng
11/1819, vua cho
Chưởng cơ Chaigneau về Pháp nghỉ hai năm; ĐNTLCB, I,
4:385.
Chaigneau đă tới
làm việc cho Nguyễn Chủng từ năm 1794. Chỉ huy tàu
Long
Phi, rồi thay Barisy
chỉ huy tàu Thụy Phụng (hay Thoại Phụng).
21.
Trước ngày
từ trần, Pigneau có lần muốn bỏ đi, nhưng v́ đầu tư
quá nhiều vào Nguyễn Chủng
nên ở lại. Pigneau hiểu rơ hơn ai hết bản chất Chủng.
Việc
Chủng giết Đỗ Thành
Nhân chỉ là một thí dụ. Tội danh chính thức
là “Ỷ công mà sanh kiêu từ;”
ĐNTLCB, I, 2:35-6; QSCBTY:10; Lịch triều tạp kỷ, II,
1975:226 (ghi
là ngày 23/3
Tân Sửu). Năm 1835, Minh Mạng tuyên bố Nhân phạm
những lỗi sau: đốt sống người,
bắn chết đàn bà có thai; tiền lương giữ cả, thậm
chí ngày giỗ cha Nguyễn Chủng
cũng không cho tiền, khiến phải cầm áo lấy tiền
cúng lễ; lại hay ở trong núi,
có ư làm phản, móc nối Tây Sơn. Chủng
diệt đi, bằng không biết đâu không thành
Trịnh Kiểm thứ hai; ĐNTLCB, II, 16:74. Sau này, tới Lê
Văn Quân, Nguyễn Văn
Thành, Đặng Trần Thường, v.. v... Ibid., I, 2:135,
3:283-284, 304, 319-322.
22. Ngày
3/6/1819, trong thư gửi Baroudel (Macao),
Chaigneau tâm sự muốn
rời Việt Nam. Gia Long sức khoẻ suy yếu, vua mới ghét
đạo
và sẽ bài đạo; BAVH,
1926, 422-423. Trong thư ngày 15/6/1819, Vannier tiết
lộ
Hoàng tử Đảm từng
tuyên bố trong một nước, dân phải theo đạo của vua;
Ibid.,
423-425. Nhiều năm
sau, Trương Vĩnh Kư c̣n ghi lại những lời huyễn truyền
của giới giáo sĩ về sự độc
ác của Minh Mạng trong cuốn Cours d’histoire annamite
à
l’usage des écoles de
la Basse-Cochinchine [Bài giảng lịch sử annamite dùng
cho
các trường Nam Kỳ], 2
tập (Saigon: Imprimerie du gouvernement, 1877-1879),
II:255-269. Xem
thêm
Nguyên Vũ, “Góp phần nghiên cứu về Petrus Key;”
Ngàn Năm Soi Mặt (Houston: Văn
Hóa, 2002).
23.
Thư ngày 28/7/1821, Despiau gửi Baroudel (Macao);
BAVH, XIII,
no. 4,
1926:428-429,
& Thư ngày12/8/1821, Vannier gửi Baroudel
(Manila);
“Documents A. Salles,
III: Philippe Vannier” (Tài liệu 36) Ibid., XXII, No.
2
(Avril-Juin 1935), tr. 146 &
Cadière, “Leur correspondance;” Ibid., XIII,
No. 4
(Oct-Dec 1926), tr. 429-432Ô;
Michel Đức Chaigneau,
Souvenirs de Huế (Paris: Imprimerie impériale, 1867),
tr. 240.
24. ĐNTLCB,
II,
6:85-86; BAVH, Xè, no. 1, 1923:89; Ngày
5/9/1822, Lê Văn Duyệt báo cáo
về tàu Hồng Mao ghé cửa Cần Giờ; CBMM, CB 1:211-212,
214-215; MLCBMM, II,
1962:48, 49; John Crawfurd, Jounal of An Embassy from
the Governor
General of
India to the Courts of Siam and Cochinchina (London:
1830); George
Finlayson,
Mission to Siam and Hue, the Capital of Cochinchina,
in the Years
1821-1822
(London: 1826); Woodside, 1971:30.
25. ĐNTLCB,
II, 8:81 [4/8-1/9/1826 [Tháng Bảy
Bính Tuất]: Nguyễn Đăng Tuân: “Đấng vương giả đối
với mọi rợ, không cự khi họ
tới, không theo khi họ đi.”]. Nên
ghi
nhớ,
thời
Khổng Khâu, người Hán chỉ biết 5 chủng tộc:
Hán, Bắc địch, Nam man, Tây
nhung và Đông di. Từ
thời Minh Mạng, triều đ́nh Huế tự coi là Trung Quốc ở
phương Nam, và tự xưng là
“người Hán.” Năm 1881, Viện Cơ Mật của Tự Đức c̣n tự
nhận là “cùng một ṇi
giống” với Trung Hoa. [Xem infra]
26. ĐNTLCB,
II, 11:231 Bản dịch này hơi khác
bản
dịch Pháp ngữ của Léon Sogny trong “Notulettes: II.
Une
mission
américaine
en
Annam sous Minh Mang;” BAVH, XXIV, No. 1 (Jan-Mars
1937), tr. 64].
Nguyễn
Tri Phương thời gian này làm việc tại Nội các, tức
văn pḥng của vua. Viên
ngoại lang (5-1), theo Sogny, tương đương Chánh văn
pḥng
một bộ. Tư vụ (7-1)
là Phó Chánh Văn pḥng.
27. Miller,
1990:31-32. Tĩnh từ dơ bẩn (filthy) ở đây
chẳng hiểu phản ảnh
kinh nghiệm cá nhân chứng kiến người Việt nấu
nướng–khiến
viên chức Mỹ không
dám đụng chạm đến bất cứ món ăn nào mang tới–hay
nói chung về cá tính. Năm
1965-1966, một số cố vấn Mỹ tại vùng IV Chiến thuật
(miền
Tây) đă phải uống
thuốc sổ khi về doanh trại riêng sau một dạ tiệc với
quân
nhân VNCH. Tiêu chuẩn
vệ sinh ẩm thực của Mỹ khá cao.
28. ĐNTLCB,
II, 26:292-293 (bảo tất), 22:359 (đệm
đỡ đầu gối); 21:278-9 (Tung hô vạn tuế).
29. ĐNTLCB,
II, 17:25-26.
30.
Xem,
Crawfurd, Jounal 1830; & Finlayson, Mission, 1826.
31. ĐNTLCB,
I, 4:396, II, 13:336-410, 14:6-20,
26-9, 32-51. V́ di chúc của Gia Long, Minh Mạng
nhiều lần ḥa hoăn với
Xiêm. Năm 1827-1828, chẳng hạn, phó mặc Chao Anu [A
Nỗ]–vua Vạn Tượng
[Vientiane] từ 1804 tới 1829, thường được coi như anh
hùng đấu
tranh giành độc
lập, thống nhất của Lào–cho Xiêm bắt làm tù
binh, rồi thảm sát ở Bangkok đầu năm
1829. Người giao nạp Anu cho quân Xiêm là
Chiêu Nội, tù trưởng Trấn Ninh; bị
bắt giết năm 1830; ĐNTLCB, II, 6:167; 8:260, 273;
10:20, 69. Xem
thêm Mayoury
Ngaosyvathn & Pheuiphanh Ngaosyvathn, Paths to
Conflagration: Fifty
Years
of Diplomacy and Warfare in Laos, Thailand, and
Vietnam, 1778-1828
(Ithaca:
Cornell, SEAP, 1998). Một tác phẩm xuất sắc về Anu, sử
dụng
tài liệu Thái và
Lào. Phần tư liệu Việt có chỗ thiếu sót. Xem
thêm Dụ của Minh Mạng gửi Tổng
trấn Lê Văn Duyệt, thường được các tác giả thế giới
gọi là “Phó vương”
[Vice-Roi]. (Dưới triều Gia Long và Thiệu Trị, không
hề
có chức vụ “Phó vương.”
Măi tới triều Tự Đức mới có chức “quận vương.”)
32. Sogny,
1937:65-6; Miller, 1990:34-40á;
ĐNTLCB, II, 22:294-95.
33. ĐNTLCB,
II,
21:100-2
(chôn
tượng Khổng tử), 22:222-24 (sét đánh
văn miếu).
34. ĐNTLCB,
II,
21:100-2,
134.
35. ĐNTLCB,
II,
14:90-1;
22:216-17.
36. ĐNTLCB,
II, 7:105 (1825), 7:237
(1826), 9:162 (1829), 10:145 (1830), 10:386 (1831),
11:247 (1832),
19:302 (1838),
20:247-50 (1839), 21:227-29 (1840), 22:328(1840).
37. ĐNTLCB,
II, 22:291-98.
38. ĐNTLCB,
II,
21:230-31, 23:351; Adolphe Delvaux, “L’Am-bassade de
Minh Mang
à Louis
Philippe, 1839 à 1841;” BAVH, XV, No. 4
(10-12/1928), tr.
257-64.
39. ĐNTLCB,
III, 23:115 (1841), 24:424 (1843),
447-48 (1844), 25:183 (1844). Tháng Giêng Giáp
Th́n [18/2-18/3/1844] mới ra
biển thao diễn, trước khi khởi hành. Cao Bá Quát
có để lại nhiều bài thơ trong
chuyến “đi đầy” này.
40. ĐNTLCB,
III, 24: 371-372, 424-25; 26:14.
41. ĐNTLCB,
III, 26: 243-45, 255-57, 265; Vũ Ngự
Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn, 1883-1945, 3 tập
(Houston: Văn Hóa, 1999-2000),
I:60-2, 81n27.
42. ĐNTLCB,
III, 26:257-258. Nửa năm sau,
ngày 9/10/1847, Sir John Davis
từ Hongkong tới Tourane với hai tàu, tặng quà, và
tuyên bố không theo tôn giáo
lớn nhất của Tây phương, chỉ làm thương mại; nhưng
Thiệu
Trị vẫn từ khước. Ngày
27/10, Davis rời Tourane sau hơn 10 ngày thảo luận với
thự Tham
tri bộ Hộ Tôn
Thất Thường, người đă tham dự sứ đoàn 1840-1841 của
Minh
Mạng; Ibid.,
26:388-389.
43. ĐNTLCB,
III, 26:385; ASME (Paris), Vol. 706:10
[17/5/1847: Vấn đề Lapierre tới Đà-nẵng],
11[27/5/1847: Vấn
đề Tourane], 12
[29/5/1847: Lệnh cấm đạo sau khi xảy ra vụ Đà-Nẵng].
44.
Miller,
1990:47.
45. ĐNTLCB,
III, 25:282.
46.
Miller, 1990:42,
47.
47. Miller,
1990:48-53; ĐNTLCB, IV, 27:215; TTLTTƯ 2 (TP/
HCM), Châu Bản Tự Đức
[CBTĐ], 24/1 TĐ III, CB 156:239-242; tóm lược trong Vũ
Thanh Hằng, Trà Ngọc
Anh, Tạ Quang Phát, Châu Bản Triều Tự Đức (1848-1883)
(TP/HCM: Trung Tâm Nghiên
Cứu Quốc Học, 2003), tr. 30.
48.
Mặc dù từ
tháng 7/1848, Đào Trí Phú bị mất
chức–v́ lư do nào đó–Phú c̣n
bị buộc vào hai
trong số những vụ án nhiều rắc rối là vụ Hường Bảo tư
thông ngoại quốc và Lê
Duy Huân, cháu Lê Duy Cự, minh chủ “loạn cào
cào hay châu chấu.” Tháng
1-2/1854, Phú bị lăng tŕ xử tử v́ là đồng
phạm trong việc Hường Bảo “mưu làm
phản, mưu ngầm thông với Tây dương;” ĐNTLCB, IV,
27:106, 28:9-10. Tháng 6/1859,
sau khi tra xét giặc Lê Duy Huân– tức Ḥa,
con Duy Đạo, cháu Duy Cự, Duy Uân ở
Sơn Tây–Bùi Quĩ lên án Mỹ, con Phú,
Thành, con Hồ Đ́nh Hỷ, Nhạ, con Cao Bá
Đạt,
Phùng, con Cao Bá Quát (1809-1855), đều pḥ
Duy Huân. Vua cho lệnh điều tra kỹ,
v́ chẳng biết đâu là sự thực. Tuy nhiên, vẫn
treo giải thưởng bắt Mỹ, Thành,
Nhạ, Phùng; Ibid., 29:43.
49. ĐNTLCB,
IV, 27:117-18.
50. ĐNTLCB,
IV, 27:272-73, 278-79; ĐNCBLT, q. 34,
IV:221-23. 51. Lettre
Commune [Thư chung]
1858:47. Xem thêm những thư từ, báo
cáo của Puginier trong giai đoạn này; Vũ Ngự Chiêu,
Các vua cuối, I:257n64; Cao
Huy Thuần, 1990.
(50b)
Peking Legation Despatches, Tels.
359, 22 June 1883; 5 July 1883[ 49, 23 July 1883;
Miller, 1990:90-2;
CĐ ngày
3/8/1884; Doc. 8, pp. 7-8 [3/8/1884: Patenôtre báo
cáo Hart đề nghị một phương
thức 80 triệu francs, trả trong 10 năm]; CĐ ngày
3/8/1884;
Doc. 10, p. 9)
[3/8/1884: Ferry chỉ thị cho Patenôtre: Giá cuối
cùng 50 triệu. Đ̣i 200 hay 250
triệu, TH sẽờ thụt lại].
51. Lettre
Commune [Thư chung] 1858:47. Xem thêm
những thư từ,
báo cáo của
Puginier trong giai đoạn này; Vũ Ngự Chiêu, Các vua
cuối, I:257n64; Cao Huy
Thuần, 1990:176.
52. ĐNTLCB,
IV, 32:59-60; TTLTTƯ 2 (TP/HCM),
CBTĐ, 30/11 TĐ XXIII, CB 364:90-4 (ghi ngày 30/11 Canh
Ngọ [20/1/1871]); Vũ Ngự
Chiêu, Các vua cuối, I:209-15, 225-33. Trương
Bá
Cần,
Nguyễn Trường Tộ: Con người và di
thảo, tái bản có bổ sung (Sài G̣n: NXB
TP/HCM, 2002), tr. 569-71 [CBTĐ q.
233, ngày 30/11 TĐ XXIII (20/1/1871)], 571-572 [CBTĐ
q.
233, ngày 5/12 TĐ XXIII
(25/1/1871); “Di thảo số 43,” tr. 410-22; tr. 428-29
[Tộ và việc
dịch thư
Nguyễn Bá Nghi năm 1861-1862] Theo một nguồn tin,
tháng
2/1871, Tộ c̣n đề nghị đánh
úp Gia Định. Nếu vậy, Tộ không nhận hiểu khả năng
quân đội Nguyễn, chính sách
chủ ḥa của Tự Đức và Từ Dụ thái hậu,
cùng âm mưu của Puginier và Gauthier (cha
đỡ đầu Tộ) nhằm xúi dục soái phủ Sài G̣n
chiếm Bắc Kỳ. [Tháng 8/1873, Tổng đốc
Nghệ An Tôn Thất Triệt bắt được thư Dupuis gửi
Gauthier về việc
góp vốn làm ăn,
chuyển cho Thống đốc Pháp; 32:305] Đánh úp
Sài G̣n hẳn sẽ biến thành một cái cớ
toàn vẹn nhất cho Pháp mang quân ra Bắc, nơi
“6,000” tay súng của Puginier sẵn
sàng giúp vài chiến hạm và khoảng một tiểu
đoàn Thủy Quân Lục Chiến đánh chiếm
thành tŕ, tạo nên vương quốc Bắc Kỳ Ki-tô tự
trị. Năm 1873, khi Francis
Garnier mang quân đánh miền Bắc, số lính
đánh thuê bản xứ lên tới 12,000 người,
theo tài liệu Việt; và 14,000, theo tài liệu
Pháp. [Xem infra]
53. ĐNTLCB,
IV, 32:56-59 [10-11/1870]. Tháng
10/1872,
về
nước, được vua khen
ngợi. Hữu Lập được thăng thực thụ Thị lang, thự Tham
tri bộ Hộ.
Phó sứ thứ hai
Trần Văn Chuẩn bị mất cắp bộ áo chầu tam phẩm được
miễn tội.
Ibid., 32:240.
Trên đường đi, Nguyễn Hữu Lập gửi thư cám ơn Tô đại
nhân về việc dẹp Ngô Côn,
và yêu cầu đánh phỉ Tô Quốc Hán, đang
chiếm cứ Cao Bằng; TTLTTƯ 2 (TP/HCM),
CBTĐ, thập nhị tam niên, thập nguyệt-thập nhất nguyệt,
không ngày, Đồng Trị IX
[1870], CB 362:336-39.
54. ĐNTLCB,
IV, 32:130, 33:213.
55.
Tháng 10/1872, mua tàu thủy Viễn Thông của Prussia,
giá 1 vạn đồng;
ĐNTLCB, IV, 32:237-38. Có
lẽ
v́
vậy,
các giáo sĩ tung tin Prussia đă nạp
cho Tự Đức dự thảo một hiệp ước
“42 điều.”
56.
France,
Documents diplomatiques [DD] I:84; ĐNTLCB, IV, 34:143;
TTLTTƯ 2
(TP/HCM), CBTĐ,
tam thập nhất niên, thất nguyệt-thập nguyệt, 15/8 TĐ
XXXI, CB
435:96-101; tam
thập nhất niên, thập nguyệt-thập nhị nguyệt, 26/11 TĐ
XXXI,
CB 440:189-98.
57. ĐNTLCB,
IV, 34:183-86.
58.
Di thảo số 5
và tấu của Cơ Mật Viện ngày 19/3/1868 [26/2 TĐ XXI];
HV 189/4, tờ 64-68; dịch
qua Việt ngữ trong Cần, 2002:549-52] TTLTTƯ 2
(TP/HCM), CBTĐ, Tự
Đức Nhị Thập
Tứ Niên, Tam-Ngũ nguyệt, ngày 22/4 TĐ 24, CB
369:203-7.
59.
H. Peysonneaux & Bui Van Cung, “Le
traité de 1874: Journal du secrétaire de l’Ambassade
annamite;” BAVH, VII, No.
3 (Jul.- Sept. 1920), tr. 370 [365-384]; ĐNTLCB, IV,
32:304.
60.
Về các tài
liệu liên quan đến Nguyễn Huy Hỗn (hoặc Côn) có
các thông tin về việc ông qua
Hồng kông học đúc pháo, đóng thuyền
và ghi chép về t́nh h́nh ở Hồng kông.
Ông đă
từng qua Hồng kông, Ma cao, Quảng Đông và gặp gỡ
1 số người tính chuyện thông
thương buôn bán với Việt Nam, trong đó có
viên Lănh sự Hoa kỳ nhưng không ghi
rơ tên.TTLTQG 1 (Hà Nội), CBTĐ, 10/12 TĐ
XXVI, CB 254, TL 40, tờ số 94, &
28/12 TĐ XXVI, CB 254, TL 89, tờ số 187. [TTLTTƯ
2
(TP/HCM),
CBTĐ,
Nhị Thập Lục Niên, Thập nhất-Thập nhị nguyệt,
10/12 TĐ XXVI
(Quí Dậu) [27/1/1874], CB 385:92-96]; ĐNTLCB, IV,
33:59.
61. ĐNTLCB,
IV,
35:59-62,
85,
89-91. Báo cáo
của Khoa đạo Lê Đĩnh sau chuyến đi Hongkong trở về
có
lẽ phần nào đóng góp vào
quyết định này; Ibid., 35:86-87.
62. ĐNTLCB,
IV,
32:53-59; Miller, 1990:69.
(Georges
Taboulet, La geste
francaise en Indochine: Histoire par les textes de la
France en
Indochine des
origines à 1914, 2 tập (Paris: Maisonneuve,
1955-1956), I:207)
Nguyễn
Ái
Quốc:
Người
Việt
Đầu
Tiên
Đến Mỹ?
Vũ
Ngự
Chiêu (*)
© 2007,
2010,
Chieu Ngu Vu &
Van Hoa
Publishing
Co. All Rights Reserved.
(Phần
II)
II .
THỰC CHĂNG BÙI VIỆN TỚI MỸ?
Vào
hạ
bán
thế
kỷ XX, xuất hiện ở Nam Việt Nam một huyền thoại là
dưới triều Tự
Đức, Bùi Viện đă
hai lần đến Mỹ, và năm 1873 (Quí Dậu) được đích
thân Tổng thống Ulysses S.
Grant (1869-1877) tiếp đón. Trước năm 1975, tại quận
2
Sài G̣n cũng có một đường
nhỏ đặt tên Bùi Viện–nơi khách ăn nhậu b́nh
dân ưa hẹn ḥ thưởng thức những món
đặc thù miền Nam như lươn, cá, v.. v... Dù thực ra
chẳng mấy người biết hay mất
công t́m hiểu Bùi Viện là ai. Năm 1967, khi
tiếp kiến đại sứ Việt Nam Cộng Ḥa,
Tổng thống Lyndon B. Johnson (1963-1969) cũng nhắc
đến “sứ thần” đầu
tiên người
Việt là Bùi Viện.
Tuy
nhiên, cho
tới đầu thế kỷ XXI, chuyến đi Mỹ của Bùi Viện vào
thập
niên 1870 c̣n là dấu hỏi
lớn.
A.
BÙI
VIỆN
QUA
MỸ?
1. Cả
ba [3] tài
liệu Việt ngữ xuất bản tại Nam Việt Nam dẫn trên đều
chép
việc Bùi Viện qua Mỹ.
Tuy nhiên, chi tiết khác nhau đáng kể.
a.
Nhóm tác giả
Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ ghi Bùi Viện được
phái sang Quảng Đông để t́m cách mở
mang việc buôn bán với ngoại quốc. Tại đây,
ông kết giao với con Lănh sự Mỹ và được
người này hứa đem qua Mỹ xin viện trợ. Bùi Viện phải
về
Huế xin phép vua. Vua
chưa tin, phái ông qua Hongkong hỏi cho chắc chắn
rồi mới
ban quốc thư. Sợ tốn
th́ giờ, Bùi Viện mạo quốc thư, rồi tự chế áo
măo tam phẩm qua Hongkong. Chính
phủ Mỹ đồng ư giúp, cử đại diện qua Việt Nam. Tự Đức
không bắt tội, lại ban cho
ông danh nghĩa chính thức qua Mỹ xin viện trợ. Nhưng
thời
gian này, t́nh h́nh đă
thay đổi. Dù đồng ư giúp, Mỹ đ̣i phải ứng
trước 2 triệu quan để làm quân phí.
Ông về tâu vua, vua cho phép kinh doanh để kiếm ra
số tiền 2 triệu quan đó.
Đ́nh thần hay được, khép ông vào tội khi
quân, giam ông đến chết.
b.
Trịnh Văn
Thanh có chi tiết tương tự như nhóm Lê Văn Đức,
Lê Ngọc Trụ (giả quốc thư, áo
măo); nhưng thêm về nước Bùi Viện được vua phong
làm “Tham biện thương chánh”
cùng với Nguyễn Tăng Doăn coi việc thương chính ở
Bắc Kỳ.
c.
Nguyễn Quốc
Thắng & Nguyễn Bá Thế ghi năm 1873 Bùi Viện được
gặp
Tổng thống Ulysses S.
Grant. Grant có thiện cảm, nhưng không đồng ư viện
trợ. Về nước, Tự Đức bổ làm
Tham Tri [2-2], rồi Tham chính thương biện [4-1?],
cùng
Nguyễn Tăng Doăn lo
việc thương chính ở Bắc Kỳ. Ít lâu sau, làm
Chánh quản đốc Nha tuần tải. Ngày
1/11 Mậu Dần (1878) ông mất.
d.
Năm 1962,
Thái Văn Kiểm cũng công bố bằng Pháp ngữ việc
Bùi Viện đến Mỹ. Theo tác giả,
Bùi Viện nhận lệnh Tự Đức qua Hong Kong tiếp xúc đại
diện các cường quốc ở đây,
hy vọng dùng áp lực quốc tế chống lại âm mưu
thôn tính Đại Nam của Pháp. Qua sự
giới thiệu của Lănh sự Mỹ ở Hong Kong, Bùi Viện sang
Nhật, gặp Lănh sự Mỹ ở
Hoành Tân [Yokohama]. Từ đây, mùa
Đông năm 1873, Bùi Viện qua San Francisco,
rồi được Tổng thống “Simpson Grant” tiếp kiến. Nhưng
v́
Bùi Viện không có quốc
thư, nên Grant không hứa hẹn điều ǵ. (63)
B.
BÙI
VIỆN VÀ
SỬ LIỆU:
Sử
nhà Nguyễn
xác nhận Bùi Viện là một tác nhân
lịch sử. Hai nguồn tư liệu chính–Nguyễn
Triều
Châu Bản, Tự Đức [CBTĐ], và Đại
Nam
Thực Lục Chính Biên
[ĐNTLCB]–đều
đề cập đến Bùi Viện.
1. Thực
Lục ghi
Bùi Viện được bổ làm quản đốc Nha Tuần tải năm 1877.
Nha
này gồm
“Chánh, phó quản đốc một người; bát, cửu phẩm mỗi
chức 1 người; thư lại, 6 người;
mộ dũng quyền quản, 2 người; quyền suất, 6 người;
điển tu, 1 người.”
(64)
2.
Hơn một năm sau, Tháng Chạp Mậu Dần
(12/1878-1/1879),
ĐNTLCB ghi bộ Hộ đề cử Nguyễn Hữu Thục làm Phó Đề
đốc Nam Định, thay Bùi Viện
cai quản Nha tuần tải. “Bùi
Viện
để
thiếu
rất nhiều; em là Bùi Bổng phải nhận lĩnh chở
thuê để khấu trừ.” Tuy nhiên, Hộ đốc
Nam
Định Nguyễn Trọng Hợp
[Hiệp] (1838-1902) không nhận Thục v́ “chưa làm
được việc ǵ đă lĩnh 10 vạn
quan tiền công.” Vua đồng ư, cho Hợp tự lo liệu. Tổng
đốc
Hợp sửa lại 4 tàu thương hiệu, chọn
phái các viên
lănh mộ, sử dụng tới hơn 130 người Thanh, cho
thuyền và
dơng binh ra biển tập
luyện. Lại ủy cho bọn bang biện người Thanh đứng
ra bảo nhận thuê
các hiệu
thuyền Thanh đi tải. Hợp cũng tố cáo ra vụ án tham
ô tại Nam Định, khiến nhiều
người bị phạt.( 65)
3. Nguyễn
Triều Châu
Bản –tức tư liệu Nội các, Viện Cơ Mật và 6 bộ
của
triều đ́nh, có bút phê
mực đỏ [son] của vua, giống như các văn khố ngoại
quốc–cung cấp
nhiều chi tiết
hơn về thành tích làm quan của Bùi Viện.(
66)
a. Về
thân thế
Bùi Viện, Châu Bản Tự Đức cho biết ông sinh năm
Đinh Dậu (1837). Ngày
10/12/1870, Bộ Lễ tŕnh việc Bùi Viện và em
là Bùi Bổng (hay Phụng) xin Quyền
lănh Tổng đốc Định Yên Nguyễn Hiên cho cải
chính năm sinh, v́ lư trưởng ghi
sai. Hai người mới đỗ Cử nhân (Bùi Bổng năm 1867 và
Bùi Viện ân khoa tháng
10/1868). Bùi Viện xin sửa năm sinh thành Đinh Dậu
(1837); Bùi Bổng, năm Quư
Măo (1843). Tỉnh ấy xét thấy là sự thực xin thẩm
biện. Bộ Lễ thấy hai viên đó đều
biết chữ, đáng lẽ khi đăng bảng thi Hương phải xin
cải
chính ngay, không nên đợi
đến sau khi đă thi Hội mới hành động. Đề nghị cho
cải
chính, nhưng theo lệ phạt
6 tháng lương để răn đe. Sẽ bắt đầu khi bổ nhiệm.(
67)
b. Về
ngày mất, CBTĐ ghi Bùi Viện ốm chết đêm mồng
1/11 Mậu
Dần (24/11/1878). Cái chết đột ngột này khiến Nguyễn
Văn
Tường và các quan chức
cho lệnh tiến hành việc kiểm kê tất cả hóa vật
và thuyền tải để tránh thất
thoát. (68)
c. Về
sự nghiệp quan trường, CBTĐ cung cấp nhiều chi tiết
đáng
giá. Trước hết, ngày 15/10/1877 Bùi Viện được giao
nắm cơ quan đặc trách việc
chuyên chở đường thủy này. Vũ
Ban làm
Phó Quản đốc. (69)
d.
Khoảng hơn
một tháng sau, ngày 18/11/1877, bộ Hộ và bộ Binh
tŕnh việc Bùi Viện đă mộ binh
dơng, chỉnh bị chiến thuyền; xin khởi sự tiễu trừ
giặc biển.
Ngày này, bộ Hộ và
bộ Binh cũng báo Bùi Viện đă tổ chức bảo vệ
và thu tiền bảo hiểm các thương
thuyền để phụ vào chi phí của Nha Tuần tải. (70)
e.
Ngày 14/9/1878, bộ Hộ tŕnh việc Bùi Viện can tội
hối lộ
nên không được xét thưởng. (71)
f.
Ngày 19/2/1879, bộ Hộ tŕnh việc Bùi Viện vay 100
lạng
bạc từ kho Nam Định, bị khiển trách. (72)
g.
Trong ba năm 1878-1880, bộ Hộ nhiều lần tŕnh việc
các
tàu thuyền do Bùi Viện và Bùi Bổng [Phụng]
thuê chở hàng hoá đâm phải đá ngầm bị
đắm và phải đền bù hàng hoá bị hư hỏng,
thiếu hụt. (73)
h.
Ngày 29/3/1878, Nguyễn Trọng Hợp tŕnh Viện Thương
bạc
báo cáo của Bùi Viện về t́nh h́nh
tiễu phỉ và hai bản đồ. (74)
Ngoài
ra,
c̣n
hơn 10 tài liệu khác, đều không
liên quan đến
việc Bùi Viện xuất ngoại hay tiếp xúc với người Mỹ.
4.
Nha
Tuần
tải
chuyên trách việc vận tải đường thủy các
hàng hoá, thóc gạo, tiền và vũ khí.
Mặc dù nhà Nguyễn có nhiều thuyền công, từ
triều Gia Long đă có thói quen thuê
thuyền buôn tư nhân người Thanh trong dịch vụ này.
Hai trong những lư do là nạn
hải tặc và kinh nghiệm hàng hải. Việc mở cửa Ninh
Hải
(cửa Cấm) tức Hải Pḥng
sứ tỉnh Hải Dương cho việc giao thương từ năm
1875-1876, cộng với việc
cắt đứt
Nam Kỳ cho Pháp, khiến vai tṛ tuần hải ở miền Bắc
ngày thêm quan trọng. Năm
1875, tổng số tàu tuần biển và chở hàng là
403 chiếc (hư hỏng v́ gió, giặc, 9
chiếc). Năm sau lên tới 458 chiếc (hỏng việc, 22
chiếc). Năm
1877, 345 chiếc
(30 chuyến bị trở ngại v́ băo, v.. v...). Khoảng
5,000
người Hoa đă di dân tới
Ninh Hải trong hai thập niên 1860-1870, tạo thành
giai
tầng trung gian kinh tế
quan trọng cho cả triều Nguyễn lẫn các lănh sự
Pháp. Tham biện đầu tiên ở trạm
thuế Ninh Hải là Linh mục Nguyễn Hữu Cư hay Thơ,
trước đó
phục vụ tại Hành nhân
ty, và từng tháp tùng sứ đoàn Lê Tuấn
vào Sài G̣n bàn định Hiệp ước 15/3/1874.
Khi từ Ninh Hải trở lại Huế năm 1880, Linh mục Cư–có
lẽ
v́ vụ khám phá ra âm mưu
nổi loạn của Huyện Thy–bị Đại biện Rheinart des
Essarts kết tội
“chống Pháp,”
và nghi ngờ là gián điệp, không thân
Pháp như Nguyễn Hoằng, một Linh mục khác
làm Hành nhân từ năm 1866, mới bị cách chức.
Nhưng qua khả năng mà Giám đốc
chủng viện Thợ Đúc, Jean Nicolas Renauld
(1809-1898), khen
ngợi Rheinart–tức
muốn “mua [được] cả ngai vàng nhà Nguyễn” [móc nối
Hoàng tử Ưng Chơn và các
Hoàng thân, công tử]–sau này Rheinart cũng
biến Cư thành một nhân viên ăn lương
Ṭa Khâm. (75)
C.
LỊCH SỬ HAY
HUYỀN THOẠI?
Cho
tới đầu thế
kỷ XXI, chưa một tư liệu văn khố nào giúp chứng minh
Bùi Viện đă qua Mỹ.
1. Văn
khố Mỹ: Các nhà nghiên cứu
làm việc
tại văn khố Bộ Ngoại Giao Mỹ khẳng định chưa có dấu
vết
Bùi Viện qua Mỹ, hoặc
tiếp xúc với lănh sự Mỹ ở Hong Kong hay Nhật. “Sứ đoàn Bùi Viện” vào thời Grant
chẳng
là bí mật an ninh quốc gia
để phải giữ kín (như hoạt động của cơ quan OSS tại
Trung Hoa
và Đông Dương trước
năm 1945, trong thời gian chiến tranh Việt Nam,
1945-1975). Bởi vậy, sự
im lặng
này của văn khố ngoại giao Mỹ thật đáng ngạc
nhiên–nếu quả thực Bùi Viện đă tới
Mỹ. Và, hầu như bất khả, nếu được Grant tiếp kiến.
2. Văn
khố Việt: Tư liệu triều Tự Đức cũng
im lặng. Châu Bản và Thực
Lục, như đă giải tŕnh ở phần trên,
chỉ cung cấp thông tin về Đội Tuần tải hay cá
nhân Bùi Viện. Không có ánh
sáng
nào về các công tác khác–như qua Hong
Kong, Nhật hay Mỹ.
Dĩ
nhiên, do
t́nh trạng bị hư hại, mất mát của Châu bản
nhà Nguyễn suốt hơn một thế kỷ–phần
v́ khí hậu, phần v́ phương pháp bảo quản,
chiến tranh, và nhiều lần di
chuyển–có khả năng tư liệu liên quan đến chuyến đi
Mỹ hay
Hong Kong của Bùi
Viện bị mất. (76) Một giả thuyết để làm việc khác
là ngày đó, v́ chức vị c̣n
nhỏ, có thể Bùi Viện đă tháp tùng
một sứ đoàn nào đó qua Hong Kong. Bởi thế,
không thể không tra cứu thêm các tư liệu
liên hệ đến ngoại giao trong giai đoạn
1870-1878–như chuyến qua Hong Kong của Nguyễn Hữu
Lập, Nguyễn Tăng
Doăn và
Nguyễn Huy Hỗn–mới hy vọng phá vỡ được sự im lặng
quanh chuyến
đi Mỹ của Bùi
Viện trong các văn khố Việt.
3. Văn
khố Việt và chính sách ngoại giao
của Tự
Đức: Từ thập niên 1860, tưởng nên nhấn mạnh,
triều
Nguyễn đă thu gặt được
một số bài học vỡ ḷng về ngoại giao theo kiểu Tây
phương đương thời. Tự Đức là
một nho sĩ xuất sắc, muốn được so sánh với Hán Văn
Đế, yêu thích sử và văn thơ.
Nhưng vua không được trang bị và cũng thiếu khả năng
lănh đạo một vương quốc
trong cơn băo táp thực dân.
Có
bốn
yếu
tố
chính khiến Tự Đức rơi vào cảnh “đánh chẳng
được, ḥa chẳng yên,” hành xử như
loài ngựa vằn húc đầu vào bụi rậm chờ ngày
bị mănh thú nhai nuốt. Thứ nhất, một
yếu tố vượt ngoài sự kiểm soát của vua, là
gánh nặng di sản văn hóa/chính trị
mà vua được di chiếu phải bảo vệ–tức tự cô lập và
cấm đạo từ thời Minh Mạng.
Chính sách này đẩy khối giáo dân Việt
vào thế tử thù của chế độ, và không
ít người
sẵn sàng nương tựa Pháp để lật đổ Tự Đức. Lá
thư của Petrus Key chuyển đến tay
Trung tá Jean Bernard Jauréguiberry vào cuối
tháng 3/1859, hay những toán thổ
phỉ và hải tặc Ki-tô trong nỗ lực mở mặt trận thứ
hai ở
Bắc Kỳ của Vũ Văn Kịch,
v.. v... từ thập niên 1850 là những thí dụ
tiêu biểu. Đồng thời, chính phủ Pháp
cũng t́m thấy một cái cớ để biện minh “quyền” đánh
chiếm Đại Nam, lập một tân
trào dựa trên các thày kẻ giảng và
600,000 giáo dân bản xứ. (Chi tiết này
bị “bỏ quên” trong sử văn hiện
nay). (77)
Thứ hai, là chứng bệnh kinh niên từ
nhỏ–chóng mặt, nhức đầu, khiến thân thể gầy ốm, chỉ
sống
được nhờ thuốc men (mà
có người cho là bệnh động kinh)–khiến từ giữa thập
niên 1870 khả năng cai trị
của Tự Đức chỉ c̣n thu gọn trong ṿng cấm
thành. Thứ ba, là bóng đen của các
phụ chính đại thần, đặc biệt là Trương Đăng Quế, cho
tới khoảng năm 1862; và sự
sụp đổ của cả hệ thống trật tự chính trị/xă hội dựa
trên Khổng giáo, qui tâm về
Yên Kinh. Thứ tư là ảnh hưởng của Từ Dụ thái hậu,
con bồ câu lớn nhất tại
Huế–một chiếc bóng mờ của Từ Hi thái hậu nhà
Thanh–nhưng đủ ảnh hưởng bắt Tự
Đức đổi bằng mọi giá việc tôn trọng vài chục
mẫu đất hương hỏa nhà họ Phạm và
họ Hồ trong các hiệp ước 1862 và 1874.
Từ
ngày được đích
thân cầm quyền, Tự Đức thử nghiệm nhiều cải cách,
như
củng cố và tăng gia quyền
lực hoàng tộc theo lối nhà Thanh; hay, trái với
cảm nhận đại chúng do các nguồn
thông tin thuộc địa và truyền giáo, từng sử dụng
nhóm duy tân Trần Tiễn Thành,
Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, v.. v... Năm 1866,
Tự Đức cũng
gửi một sứ đoàn
qua Pháp, do Giám mục J. D. Gauthier cầm đầu, có
Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn
Điều tháp tùng. Nhưng khi Gauthier trở lại Huế, biến
cố Pháp chiếm ba tỉnh miền
Tây và phản ứng của giới văn thân khiến kế hoạch
thành lập một trường Quốc Học
bị hủy bỏ. Hơn nữa Gauthier cũng chẳng t́m được nhân
tài Pháp nào để giúp kế
hoạch duy tân của Tự Đức có hy vọng thành
công. Tuy nhiên, Trần Tiễn Thành–thay
Trương Đăng Quế từ năm 1862–vẫn tiếp tục nỗ lực cải
thiện hoặc
thiết lập quan
hệ với các nước. Ảnh hưởng những điều trần của
Nguyễn Trường
Tộ–một nhân vật
huyền thoại khác trong lịch sử Việt, chưa được
nghiên cứu
kỹ càng–khiến Huế t́m
cách học hỏi kinh nghiệm từ Bangkok, và những nỗ lực
tiếp
cận Bri-tên, Espania
và một số cường quốc khác như những đối lực với
Pháp. (78)
Kinh
nghiệm thương
thuyết với Pháp từ năm 1859–như cử đại sứ toàn quyền
để
kư thương ước, ḥa ước
cắt đất cùng trả tiền bồi thường chiến phí, v..
v...–cũng
khiến Tự Đức muốn
chuyên nghiệp hóa ngành ngoại giao; trước đây
chỉ đóng khung trong hệ thống
“thông hiếu” [tributary network],
tức
nước nhỏ thờ nước lớn, cho tới ngày bị thượng quốc
thôn
tính, tiêu diệt và lập
miếu thờ. Nhà Thanh c̣n đóng góp thêm
kinh nghiệm lập một cơ quan ngoại giao
riêng, tức Tổng lí các quốc
thông thương
sự vụ nha môn–gọi tắt là Tổng lí nha môn, Dinh thự (pḥng phiên dịch), hay Tổng thự (pḥng trung tâm)–chính thức
hoạt động ngày 11/3/1861. V́
Đại Nam là một nước nhỏ, Tự Đức không muốn lập
Tổng li, chỉ đặt chức Thương bạc
Đại thần từ tháng 10/1873. (79)
Tuy
nhiên, thế
kỷ XIX-XX cường quốc vẫn c̣n kiêu hănh đặt
tên cho những cuộc xâm chiếm nước
nhỏ là “gánh nặng của người da trắng.” Một Thủ tướng
Pháp được mang biệt danh le Tonkinois–không
v́
ông
ta
sinh ra ở
Hà Nội hay Bắc Kỳ–mà v́ chủ trương đánh
chiếm miền Bắc. Ngày 20/1/1946, khi
tiếp Paul Mus–đặc phái viên của Linh mục/Cao Ủy
Thierry
d’Argenlieu về Paris
xin phép được nhắc đến tiếng “độc lập” trong khi
thương
thuyết–Thủ tướng Charles
de Gaulle chẳng những không thuận, c̣n đứng thẳng
người
lên, tuyên bố: “Chúng
ta trở lại đó v́ chúng ta là những kẻ mạnh
hơn.” [Nous
rentrons en Indochine parce que nous sommes les plus
forts]. (79bis)
Bởi
thế,
những
nỗ
lực ngoại giao mà Nguyễn Trường Tộ và nhiều nhà
duy tân đề xướng đều chẳng
mang lại kết quả.
a. Nỗ
lực nối
lại bang giao với Xiêm La từ 1860 hoàn toàn thất
bại. Mongkut hay Rama IV
(1851-1868) và Surisavong có nhiều việc phải quan
tâm hơn bang giao với Huế.
Đại diện Xiêm (A La Hàm) tiết lộ phải được Pháp
chấp thuận mới có thể “thông
hiếu.” Năm 1879, Tự Đức cử Nguyễn Hiệp và Đinh Văn
Giản
đi sứ Xiêm, được
Chulalongkorn, tức Rama V (1868-1910), tiếp đăi ân
cần
và đồng ư gửi sứ qua
Huế, dự trù vào tháng 5/1880. Từ tháng
8/1879, Huế đă bỏ công sức chuẩn bị đón
tiếp long trọng. Nhưng cuối cùng, Krung-thêp ḍ
ư Lănh sự Pháp, rồi tuyên bố
hủy bỏ sứ đoàn. Uổng phí công sức chuẩn bị
đón tiếp là việc nhỏ; chứng nhức đầu
kinh niên của Tự Đức hẳn tăng thêm trước thực tế gai
góc bị cô lập của “Trung
Quốc miền Nam.” (80)
Tháng
5/1880,
vua
sai
Thương bạc viết thư phản đối Pháp, viện dẫn điều 3
hiệp
ước 1874, theo đó
Đại Nam có quyền duy tŕ ngoại giao với những nước
đă có liên hệ cũ, nhưng
Thống đốc Pháp không đồng ư, nên “sứ
Xiêm không đến được.” Năm 1881, Tự Đức lại
gửi sứ qua Xiêm. Mùa Xuân 1882, Xiêm mới
thuê tàu Pháp chở quà tặng đáp tạ.
(81)
Từ
năm 1865,
Pháp và Xiêm cũng bắt đầu thảo luận về chủ quyền
trên Kampuchea–mà theo lối
diễn tả của Minh Mạng, giống như miếng xương sườn
gà,
trông th́ ngon, nhưng khó
nuốt. Năm 1867, Xiêm đổi quyền bảo hộ Kampuchea cho
Pháp,
lấy hai tỉnh
Battambang và Siamreap. Có lẽ v́ thế kinh nghiệm
Xiêm La khá hấp dẫn ở thời điểm
này. Thực ra, gịng họ Chakri may mắn hơn tài
giỏi. Con triều thuộc địa chưa
lên đến cao điểm. Năm 1888, Pháp bắt Xiêm cắt nhượng
dần bốn tiểu quốc Lào để năm
1893 Liên bang Đông Dương có được 5 xứ. Năm
1907, như một điều kiện để giữ được
độc lập, Xiêm phải trả Kampuchea tỉnh Battambang và
Sieamreap, và Lào một giải đất
thuộc hữu ngạn sông Mekong [Khung giang] phía Bắc vĩ
tuyến
15. (82) Và ảnh hưởng
Bri-tên thống trị trên Xiêm.
b.
Kampuchea
cũng khai thác tối đa sự suy yếu của Huế. Dựa thế
Pháp,
Ang Duong và rồi
Norodom khuấy rối biên giới, đ̣i lại đất đai đă bị yuon [Việt Nam] lấn chiếm. Năm 1859,
quan hệ
Kampuchea-Đại Nam căng
thẳng về việc hơn 1000 người Chàm và Đồ Bà nổi
loạn, trốn qua An Giang. Năm
sau, quân Khmer quấy nhiễu vùng biên giới,
dài theo kinh Vĩnh Tế.
Theo
đúng truyền
thống, cái chết của Ang Dương vào gần cuối năm 1860
lập
tức tạo nên một cuộc
tranh chấp nối ngôi giữa Norodom và Sisowath, nhưng
lần
này Huế không có tiếng
nói nào. Oudong c̣n chẳng bận tâm sai sứ
sang An Giang báo tang. Từ ngày
Léonard Charner mang quân tới giải tỏa Sài
G̣n, đánh phá chiến lũy Kỳ Ḥa, rồi
chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, Sài G̣n thay
Huế bảo hộ Kampuchea. Ngày
11/8/1863, Norodom kư với Thống đốc Pierre de
Lagrandière
(1863-1868) một Hiệp ước
bảo hộ. Ngày 6/3/1864–sau một màn biểu dương chiến
hạm ở
cửa biển Kampot để
chặn đường Norodom qua Bangkok, và thượng cờ tam tài
trên cung điện Oudong ngày
3/3/1864–đại diện Pháp là Thiếu tá Louis Marie de
Gonzague Doudart de Lagréé
mới cùng sứ Xiêm làm lễ đăng quang cho Norodom. Từ
đó, Kampuchea thoát cảnh
chim hai đầu hướng về cả hai vương quốc láng giềng.
(83)
Những
cuộc nổi
loạn năm 1866-1867 khiến Pháp ngày một can thiệp
sâu hơn vào nội t́nh
Kampuchea. Quan chức Việt có thể đứng sau lưng Assoa
(Ong Bướm)
trong cuộc nổi
dạy ở vùng biên giới năm 1866, v́ nhân vật tự
nhận là con Ang Em (Nặc Yểm) này
thực tế chỉ là một cựu nô lệ tị nạn ở An Giang từ
năm
1864. Sau đó, c̣n cho
Assoa về Thất Sơn để thu phục dân Khmer. Dưới áp lực
Pháp, mùa Hè 1866, Tuần
phủ Nguyễn Khắc Thận phải bắt “Ong Bướm” giao nạp.(
84)
Năm
sau, Tự Đức
quyết dứt t́nh với sáu tỉnh miền Nam–dù lúc
nào cũng thở than, ao ước chuộc
lại–và đồng thời đoạn tuyệt với Kampuchea cùng các
tiểu quốc Lào.
c.
Cuộc chiến
Pháp-Phổ (1870-1871) bừng lên một hy vọng cho Tự Đức
hé mở cửa ngoại giao.
Thời
gian này,
Huế đă biết được tâm ư của soái phủ
Sài G̣n. Đề đốc Cornulier-Lucinière
(8/1/1870-31/3/1871) [Cô Nô] đ̣i kư hiệp ước
mới, với ba điểm chính: Giao trọn
3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên cho
Pháp; bồi thường Espania 1 triệu đồng;
và, muốn giảng hoà với nước khác phải có sự
đồng ư của Pháp. Thực ra, những đ̣i
hỏi này chẳng có ǵ mới, Pháp chỉ muốn được
viết thành văn bản để tạo một căn
bản công pháp quốc tế: Ba tỉnh miền Tây đă bỏ
ngỏ cho Pháp chiếm từ năm 1867 để
được miễn tiền bồi thường chiến phí; tiền bồi thường
cho Espania
chưa được
thanh toán; và, trên thực tế, Pháp đă
phong tỏa Việt Nam, ngoại trừ liên hệ thương
mại với Trung Hoa.
Triều
đ́nh có
những phản ứng trái ngược nhau. Thân Văn Nhiếp và
Hoàng Kế Viêm yêu cầu viết thư
tranh luận, bác bẻ và thông báo cho
các nước lân bang, như Penang (Hạ-châu),
Hong Kong, và phương Tây biết để yêu cầu can thiệp.
Nhóm Trần Tiễn Thành chủ trương
ôn ḥa, chỉ viết thư yêu cầu Pháp xét
lại. Tự Đức chấp thuận kế hoạch của Trần
Tiễn Thành; nhưng Thống đốc Sài G̣n nói
thẳng là không thể thay đổi. Ít lâu
sau, nhân cơ hội Pháp thua trận ở Âu châu, đất
đai bị Prussia chiếm đóng, Tự
Đức viết thư chia buồn việc “quốc chủ” Pháp
(Napoléon
III) bị bắt, và xin chuộc
lại sáu tỉnh miền Nam. Cornulier-Lucinière chỉ cám
ơn việc thăm hỏi, không nhắc
ǵ đến Nam Kỳ. (85)
Những
đề nghị
của Nguyễn Trường Tộ lại được mang ra thí nghiệm.
Nhiều sứ
đoàn Việt liên tục
qua Hong Kong, Ma Cao để cải thiện quan hệ với ngoại
quốc, đặc biệt
là Bri-tên.
Ngày 24/1/1874, Nguyễn Huy Hỗn báo cáo trong
chuyến đi Hong Kong và Ma Cao năm
1873 có người khuyên nên dựa vào Trung Hoa
và kết giao với Bri-tên. Ba ngày
sau, 27/1, Hỗn tŕnh thêm là đă nói
chuyện với quan viên nhà Thanh và lănh sự
Mỹ (nhưng không ghi tên). Rồi ngày 1/2, Nguyễn Huy
Hỗn đề nghị gửi sứ qua Yên
Kinh thương nghị với các nước để chống âm mưu Pháp
phong tỏa việc ngoại thương
của Việt Nam. (86)
d.
Điểm đáng ghi
nhận thứ nhất là không thấy tên Bùi Viện xuất
hiện trong báo cáo của sứ đoàn
này, hay bất cứ sứ đoàn nào đi Hong Kong trước
đó (như sứ đoàn Nguyễn Tăng
Doăn, v.. v...).
Điểm
thứ
hai
đáng
ghi nhận là chính sách “hé cửa” của Tự
Đức–với những bước rụt rè, trong nỗi lo
sợ các quan tướng Pháp “nổi giận”–phản ánh một
thực trạng chẳng mấy phấn khởi:
(1).
Ba sứ đoàn
Espania tới Huế năm 1870, 1879 và 1880. Sứ thần năm
1870
kư một thương ước và “đứng
vái ba lần” tại điện Văn Minh. Nhưng Espania không đủ
khả
năng hay ước muốn
chống Pháp. Espania cũng không muốn trở thành
lá bài của Tự Đức, và chính sách
đại
cương của Madrid là duy tŕ và củng cố các
thuộc địa hiện hữu. Hai sứ đoàn năm
1879 và 1880 đều do Đại tá Melchor [Manoel] Ordonez,
Tổng Tư lệnh Philippines,
và Marino Fernandez de Henestrosa, thư kư của phái
đoàn Ki-tô đặc biệt ở Việt
Nam, cầm đầu. Ngày 27/1/1880 [16/12 Kỷ Măo], Đỗ
Đăng Đệ và Hoàng Diệu kư thương
ước mới với Ordonez. Tuy nhiên, Espania cho Pháp quyền
quản trị các giáo sĩ
Espania ở Bắc Kỳ và chịu trách nhiệm số tiền bồi
hoàn chiến phí mà Tự Đức c̣n
thiếu. Ngày 26/9/1880, Ordonez trở lại Huế, trao đổi
văn bản
thương ước được
phê chuẩn. Nhưng Espania chẳng có dấu hiệu nào
đáp ứng sự trông đợi của Huế (như
tiền bồi hoàn chiến phí). Tháng 3/1882, vừa lo sợ
vừa giận dữ trước tin Paris đă
quyết chiếm Bắc Kỳ, Tự Đức từ chối ban huy chương cho
lănh
sự Espania ở Sài G̣n
“v́ thương ước chưa thực hiện được điều khoản nào; lại
không có công trạng ǵ.”
(87)
(2).
Việc tiếp
xúc với Bri-tên đă mở ra từ thập niên 1860.
Nhu cầu mua khi giới, tàu chiến và đạn
dược, quân nhu giúp quan hệ với Hong Kong gia tăng. Năm 1866,
xảy ra việc hăng buôn Bri-tên
Bonan [Phố Na] ở Hong Kong đ̣i
triều đ́nh Huế phải cho thu thuế thuốc phiện ở các hải
cảng Đại Nam để trừ vào
số tiền mua tàu Mẫn Thỏa, nhưng cuối
cùng được dàn xếp ổn thỏa. Tháng 8/1867, Nguyễn
Tri Phương, Vơ Trọng B́nh và
Trần Tiễn Thành tŕnh việc thông ngôn Nguyễn
Đức Hậu, khi qua Hong Kong trao
trả nạn nhân đắm tàu, được người Bri-tên nói
sẵn sàng giúp chống Pháp, và xin
gửi Trần Đ́nh Túc, Nguyễn Văn Thúy cùng
thông ngôn Hậu qua Hong Kong tạ ơn. (88)
Dĩ
nhiên, một số
viên chức Bri-tên chẳng ưa ǵ Pháp (và
ngược lại). Nhưng ở thời điểm này,
London chủ trương liên minh với Paris có lợi hơn
ḱnh chống lẫn nhau. Từ thập
niên 1830, liên minh này không chỉ khiến
Yên Kinh nghiêng ngửa trong nỗ lực của
Bri-tên và Pháp nhằm bảo vệ quyền tự do hút
thuốc phiện và tự do tín ngưỡng của
dân Trung Hoa, mà c̣n khiến Nga phải chịu khuất
phục. Bởi thế, nỗ lực cải thiện
liên hệ với Bri-tên, qua Hong Kong và Singapore, đều
không có hồi âm từ Bộ
Ngoại Giao (Foreign Office). Trong khi đó, Bri-tên bổ
nhiệm một Lănh sự tại Sài
G̣n từ hạ bán thập niên 1860. Việc kư Hiệp
ước 1874 và phụ ước thương mại khiến
London thắc mắc về quyền tài phán của các
lănh sự Pháp tại các cảng sắp mở ra ở
Bắc và Trung Kỳ. Nhưng Bri-tên vui vẻ chấp thuận lời
giải
thích của Ngoại trưởng
Decazes ngày 24/3/1875 là Pháp sẽ tạm thời cho
phép các lănh sự ngoại quốc xét
xử công dân nước họ. (89) Giữa tháng 12/1881, khi
Lư Hồng Chương đề nghị Thomas
Wade, Đại sứ Bri-tên ở Yên Kinh, kư hiệp ước với
Đại Nam, Wade nói ví thử có kư
được thương ước với Huế, hiệp ước này không thể vượt
ngoài khuôn khổ Hiệp ước
Pháp-Việt 1874. (90)
Tóm
lại,
Bri-tên–đối
lực
duy nhất của Pháp mà nhiều người
Việt, kể cả Nguyễn Trường Tộ kỳ
vọng–chẳng muốn tự biến thành lá bài của Yên
Kinh hay Tự Đức.
(3).
Quan hệ với
Prussia chẳng có dấu hiệu phát triển. Cuộc viễn chinh
trục xuất Jean Dupuis
khỏi miền Bắc năm 1873 và Hiệp ước “bảo trợ” 1874 ít
nhiều ảnh hưởng.
Ngày
6/4/1875,
chiến
hạm Wolf của Prussia tới Hải
Pḥng, t́m cách tiếp xúc viên chức
Việt. Sau đó vào Đà Nẵng, với ư định
lên
Huế. Huế hỏi ư kiến Lănh sự Pháp; và được
khuyên là chỉ nên theo thủ tục thông
thường, cho quan chức địa phương tiếp, rồi đến Thương
Bạc. Thuyền
trưởng bỏ đi.
Tháng 11/1878, trong dịp tiếp kiến Đại sứ Pháp
Saint-Vallier, Bismark tiết lộ
một số nhà thám hiểm Prussia yêu cầu nên khai
khẩn sông Hồng, một thủy lộ dẫn
vào Vân Nam, v́ Pháp có ư bỏ
rơi vùng đất này. Nhưng Bismark không muốn thiết
lập thuộc địa ở hải ngoại, và nghĩ rằng Bắc Kỳ h́nh
như
đă nằm trong quĩ đạo
Pháp. Bởi thế, Bismark muốn biết rơ ư định Paris.
Nhận được lời khẳng định của
Ngoại trưởng Waddington là Pháp coi vấn đề Bắc Kỳ chỉ
có tính cách thời gian,
Bismark nói trong trường hợp Pháp bỏ rơi miền Bắc,
Berlin
sẽ tự coi có toàn
quyền hành động. Ngày 26/7/1880, Freycinet nói với
Jauréguiberry là Germany cho
biết không phản đối việc Pháp chiếm Bắc Kỳ. (91)
(4).
Các phái
viên của Tự Đức c̣n tiếp xúc được vài
nhà buôn Nga, như Lạc Sĩ Điền hay Xuy Di để
mua diêm tiêu làm thuốc súng. Nhưng
hàng không tốt, Phạm Phú Thứ c̣n bị thư nặc
danh tố cáo móc ngoặc Nga thương kiếm lợi. Năm 1871,
bộ
Hộ, Binh và Công cho
rằng không nên mua đồng, gang, súng và
máy móc của Nga v́ khó sử dụng. Đề nghị
bán tàu và khí giới cho Việt Nam của thương
gia Nga cũng không đạt kết quả. Kết
quả cuối cùng là một vụ kiện ở Hong Kong, và sau
khi chỉ được bồi thường 6 vạn
nguyên. Lạc Sĩ Điền bỏ về nước với lời đe dọa sẽ mang
binh
thuyền qua đánh Hong
Kong để trả hận!( 92)
(5).
Một số nhà
duy tân, như Đặng Huy Trứ, cổ vơ việc noi gương Nhật
Bản. Nhưng những nỗ lực
tiếp xúc Nhật chỉ đưa đến việc mua đại bác. Tokyo đang
bận rộn về vấn đề Đài
Loan, nên chưa có thời gian nghĩ đến vùng nampo
[biển Nam]. Cuối cùng, Bố chính sứ
Trứ bị thất
sủng, ốm chết ở Hà Nội, v́
“nói th́ cao mà tài th́ kém.”
(93)
(6).
Liên bang
Mỹ, như đă lược nhắc, không c̣n nỗ lực nào
để mở quan hệ với “An Nam” sau năm
1851. Mặc dù Hải quân Trung tá Matthew Perry
và các nhà ngoại giao nhắc đến
“Cochin-china” hay “Tonquin” trong các báo cáo của
họ, Oat-shinh-tân chẳng mấy
quan tâm đến phần lănh thổ c̣n lại của Đại Nam.
Chủ trương “American business is
business”–tức thương
mại là ḥn đá tảng–thống
trị chính sách ngoại giao Mỹ thời gian này. Cung
cấp vũ khí cho Xiêm hay Trung
Hoa, cùng dầu hỏa cho Nam Kỳ thuộc Pháp mang lại những
lợi tức đáng kể. Mỹ và
Pháp cũng có liên hệ khá tốt đẹp: Bức tượng
nữ thần Tự Do ở New York là món quà
lập quốc của Pháp. Thêm vào đó, cuộc nội
chiến Bắc-Nam (1861-1865) và nhu cầu
tái thiết cùng Tây tiến khiến Mỹ mất cơ hội tranh
chấp thuộc địa ở Viễn Đông.
Tư
liệu Mỹ cũng
tiết lộ từ thập niên 1870, các nhà ngoại giao Mỹ
tại Yên Kinh, Hongkong,
Singapore hay Bangkok chỉ chú ư đến Sài
G̣n. Tàu Mỹ chở than và gạo trên đường
Hongkong-Sài G̣n mỗi năm lên tới 30 chiếc.
Có trường hợp thủy thủ nổi loạn, cần
giúp đỡ trên bờ. Họ đề nghị Bộ Ngoại Giao đặt tại
Sài G̣n một đại diện thương
mại hay nhân viên lănh sự, nhưng năm 1873, Ngoại
trưởng Hamilton Fish không tán
thành.
Mười
lăm năm
sau, vào tháng 9/1888, BNG Mỹ mới đồng ư cử
Aimée Fonsales, thuộc công ty Denis
Frères, làm đại diện thương mại ở Sài G̣n.
Fonsales nhận chức ngày 10/3/1889. Năm
1893, Schneegans thay Fonsales. Ba năm sau, 1896,
Lauritz Stang thay
Schneegans. Sau ngày chiếm Philippines năm 1898, Mỹ
mới
có một Phó Lănh sự ở
Sài G̣n. Năm 1908, Jacob E. Connor, được cử làm
lănh sự. Tháng 5/1908, hai
chiến hạm Mỹ thăm Sài G̣n. Năm sau, 1909, Joblin thay
Connor. (94)
Nên
ghi
thêm
là
dù đ́nh thần nhiều lần nhắc đến Mỹ trong các cuộc
bàn luận, cho tới đầu Thế
chiến thứ hai (1939-1945), chưa một quan hệ nào được
thiết lập,
và có khả năng
chưa vượt qua dự định hoặc ước muốn. Nguyễn Huy Hỗn,
chẳng hạn,
không nêu tên
lănh sự Mỹ ở Hong Kong tiếp xúc năm 1873. Nội dung
buổi
nói chuyện cũng cho
thấy “lănh sự Mỹ” chẳng có vẻ ǵ thiết tha–chủ yếu
trách Huế không muốn giao thương
với ngoại quốc, và sự khó tính của Pháp
trong nỗ lực riêng chiếm Đại Nam.Trong
khi đó, các lănh sự Hong Kong hay Đại sứ Mỹ ở
Yên Kinh không đề cập đến việc
gặp đại diện Huế. Trọng tâm báo cáo của giới ngoại
giao Mỹ trong thập niên
1870–kể cả lănh sự Singapore, Bangkok–chỉ có việc bổ
nhiệm đại diện thương mại
ở Sài G̣n.
Ngoài
ra,
với
những
điều kiện chủ và khách quan của Việt Nam, ví
thử Tự Đức gửi người tiếp
xúc được Liên bang Mỹ, cũng khó có khả năng
thay đổi tham vọng của Pháp. Cách
nào đi nữa, tưởng cần lập lại, chưa thấy dấu vết trong
văn khố
Mỹ hay Việt về
sứ đoàn Nguyễn tới Mỹ. Điều này khá ngạc
nhiên. Muốn được yết kiến một Tổng
thống Mỹ–lại gặp đến hai lần–chẳng dễ dàng, và
không thể không có dấu tích ít
nữa từ hàng lănh sự địa phương.
d.
Cửa cấp cứu
duy nhất c̣n lại là “Trung Quốc miền Bắc.” Liên hệ
với Yên Kinh dưới triều Tự
Đức vẫn theo đúng nguyên tắc “luật kẻ mạnh” của hệ
thống “thông hiếu” Á châu.
Khi Tự Đức mới lên ngôi, do nhà Thanh đang suy
yếu v́ ngoại xâm cũng như nội
loạn, Yên Kinh cử sứ đoàn tới tận Huế phong vương.
Đôi lần c̣n yêu cầu hoăn hạn
kỳ đi sứ. Nhưng cuộc xâm lăng của Pháp khiến Hán
Văn Đế tại Huế mất dần uy tín,
thoái hóa nhanh dưới mắt Yên Kinh, không hơn
một tước vương hạng nh́. Tự Đức
c̣n nhiều lần viết thư xin Tổng đốc Lưỡng Quảng hay Đề
đốc
Quảng Tây cứu viện
chống phỉ–nhất là tàn dư giặc Hồi ở Vân Nam
và Thái B́nh Thiên quốc từ Quảng
Tây kéo xuống từ thập niên 1860.
Yên
Kinh
và
quan
tướng Hoa Nam cũng đầy tư tâm. Sự cầu viện của Tự Đức,
qua sứ
đoàn Nguyễn Thuật
năm 1880-1881, hâm nóng tham vọng mở rộng biên cương
của Yên Kinh.
Năm
1882, sau
khi Tự Đức xác nhận quyền thượng quốc của nhà Thanh,
quân Lưỡng Quảng và Vân
Nam qua đóng thường trực tại Bắc Kỳ–nhằm mặc cả với
Pháp.
Thủ lĩnh Giặc Cờ Đen
trở thành lưỡng quốc đề đốc. Khi Tuần phủ Nguyễn Quang
Bích tâu rằng dân gian Hưng
Hóa lo sợ quân Thanh lợi dụng cơ hội chiếm lănh thổ
Việt, Tự Đức chê là “lấy
ḷng kẻ tiểu nhân đo bụng người quân tử.” Điều Tự Đức–lúc này đă hết giấc
mơ Hán Văn Đế, luôn đấm ngực tự trách
sai lầm, bạc đức–không hoặc không muốn biết là những
quân tử ở Tổng Lí Nha Môn
khởi đầu thảo luận với Pháp bằng cách đề nghị một
đường
ranh giới phía Nam ở
Quảng B́nh; dù thực tâm chỉ muốn phần lănh
thổ phía Bắc sông Hồng. Ngày
20/12/1882, Lư Hồng Chương kư với Bourée một tạm
ước chia nhau Tonkin mỏ và Tonkin gạo.
(95) Tuy nhiên, cơn sốt thuộc địa ở Paris cũng như Sài
G̣n
khiến Pháp không tôn trọng tạm ước trên, với
lư do Bourée đă vượt quá quyền
hạn. Jules Ferry cho lệnh triệu hồi Bourée. Đáng
ái ngại chăng là các sứ giả
Việt đă được hối hả gửi qua Thiên Tân để tham dự
cuộc ḥa nghị Pháp-Hoa vào đầu
năm 1883. Sau một thời gian chờ đợi, Phạm Thận Duật
được Lư Hồng
Chương tiếp
kiến, nhưng chỉ để trách móc Huế đă kư
những hiệp ước gây khó khăn cho Yên
Kinh. Bài học cuối cùng của Tự Đức từ nhà
Thanh chỉ có việc dịch quốc hiệu France
từ Phật Lan Tây và Phú
Lăng Sa thành Pháp. (96)
Thực
ra, nhà
Thanh cũng đang lâm cảnh “ốc không mang nổi ḿnh
ốc.” Từ ngày 25/5/1875, Đại
biện Pháp ở Yên kinh đă yêu cầu Trung Hoa
rút quân khỏi Bắc Việt. Ngày
15/6/1875, Đại sứ Thanh tại Âu châu trả lời Paris rằng
Yên Kinh không thể từ
chối sự bảo vệ và giúp đỡ một chư hầu [vassal] của
ḿnh, v́ Huế đă nhiều lần
xin Thanh binh vào Bắc Việt dẹp phỉ. Cuộc tranh chấp
về chủ
quyền thượng quốc
tại Đại Nam kéo dài; nhưng Pháp không
đánh giá cao Trung Hoa. Và, trên thực tế,
rồi sẽ nhân cơ hội tranh chấp tại Bắc Kỳ, hủy diệt
quan hệ ngoại
giao “thông
hiếu” giữa Bắc Kinh với Huế, và ngay cả Kampuchea hay
Vạn Tượng.
Trong
khi đó,
quan tướng địa phương Thanh coi việc “ra ngoài cửa
quan”
đánh phỉ như cơ hội
trục lợi, kể cả dịch vụ buôn thuốc phiện lậu và nô
lệ người Việt. Bởi thế,
những đạo Thanh binh diệt phỉ vừa rút về, phỉ cũ phỉ
mới đua
nhau xuất hiện.
(97)
Năm
1878, nhân
dịp Lư Dương Tài, một cựu Thống chế Thanh, dẫn phỉ
tràn qua biên giới Phùng Tử
Tài lại đích thân ra cửa quan đánh dẹp. Hơn
một năm sau, Đề đốc Quảng Tây rút đại
quân về nước, chỉ để lại 5 doanh ở Cao Bằng-Lạng Sơn,
mượn tiếng
diệt phỉ, nhưng
thâm tâm muốn bảo vệ phên dậu phía Nam
và Tây Nam. Pháp cũng chuẩn bị thực hiện
kế hoạch thôn tính Bắc Kỳ–vừa bảo đảm an ninh sông
Hồng, vừa bẻ găy âm mưu can
thiệp của Yên Kinh. Mùa Hè 1882, Pháp mở
cuộc “hành quân cảnh sát,” chiếm Hà
Nội. Yên Kinh điều hai đạo quân Vân Nam và
Lưỡng Quảng qua Bắc Kỳ làm thế tựa
thương thuyết. Hải quân Thanh cũng được phái xuống bảo
vệ
bờ biển Hải Nam.
Cái
chết
của
Trung
tá Henri Riviere dưới tay Lưu Vĩnh Phúc (19/5/1883)
khiến Pháp có một cái
cớ hủy bỏ tạm ước Thượng Hải, để pháo hạm và Thủy
Quân Lục Chiến thảo luận–từ
Bắc Kỳ tới Phúc Kiến, Đài Loan. Dù Tổng
lí Nha môn có khả năng yêu cầu Mỹ 4 lần
đứng ra làm trung gian trong hai năm 1883-1884, Yên
Kinh
vẫn không thoát được
những cuộc biểu dương lực lượng của Pháp. Tham vọng
chủ quyền
của nhà Thanh kết
thúc bằng lễ phá hủy chiếc “Việt Nam Quốc
Vương chi ấn” bằng chữ Măn Châu và chữ
Hán, nặng hơn 5.8 kilograms, ngay
tại Huế ngày 6/6/1884; và rồi, Ḥa ước Thiên
Tân 9/6/1885 mở đầu cho thời kỳ
tạm gọi là Thiên Mệnh Đại Pháp (1883-1945) tại
Huế. (98)
4. Văn
khố Pháp: Các tư liệu Pháp–văn
khố
Bộ Ngoại giao, Hải quân và Thuộc địa, cũng như Hội
truyền
giáo–hoàn toàn im
lặng về chuyến đi Mỹ của Bùi Viện.
a.
Mặc dù từ năm
1874-1875 các viên chức Pháp mới chính thức
có mặt tại Bắc và Trung Kỳ, cơ quan
ngoại giao và t́nh báo Pháp hoạt động khắp
nơi, từ Bắc Kinh, Hong Kong, Quảng
Đông, tới Manila, Singapore, Bangkok hay Batavia
(Djakarta).
Và, dĩ nhiên
Oat-shinh-tân. Nhưng tư liệu ngoại giao Pháp không
hề nhắc đến quan hệ nào giữa
Huế và Oat-shinh-tân.
b. Tư
liệu Bộ
Hải quân và thuộc địa Pháp cũng không
có ánh sáng nào về Bùi Viện.
Các sử gia
Việt và thế giới làm việc tại các văn khố ở
Pháp hay Việt Nam chưa hề công bố
một thông tin nào. Những microfilms
báo cáo, thư từ của quan Tướng Pháp, hay tư liệu
cá nhân của Genouilly, Page,
Jauréguiberry, Rieunier tại văn khố Hải quân ở
Vincennes,
cho tới văn khố Bộ
thuộc địa, Nam Kỳ (Goucoch), Annam hay Bắc Kỳ (RST) ở
Paris, Aix
en-Provence và
Sài G̣n mà chúng tôi được tiếp cận từ
1982 tới 2005 cũng im lặng.
c.
Đáng nhấn
mạnh là ngay đến tư liệu Hội truyền giáo Pháp cũng
không có dấu vết chuyến đi
Mỹ của Bùi Viện.
Một
số người thường
quan niệm lầm lẫn rằng văn khố Hội truyền giáo Pháp
chỉ
gồm những thư từ có
tính cách nội bộ của các giáo sĩ. Thực ra,
những thư từ này chứa đựng nhiều
thông tin phong phú, dù chưa hẳn luôn
chính xác, về sinh hoạt chính trị, quân
sự, kinh tế, văn hóa và xă hội Đại Nam.
Ngoài ra, c̣n những báo cáo đặc biệt
của các giáo sĩ gửi viên chức thuộc địa Pháp
về nội t́nh Đại Việt, bản đồ các
công sự pḥng thủ, và ngay cả những đề nghị
nên dùng hay bỏ một quan chức nào đó.
Những Giám Mục Pierre Retord, Jean-Marie Pellerin,
Paul Francois
Puginier, J.
D. Gauthier hay Dominique Lefèbvre cung cấp nhiều tư
liệu
giúp soi sáng dữ kiện
mờ tối mà các sử quan Nguyễn–do quốc thể và
chính thống “định hướng Nho Giáo”–đă
chỉ lướt qua, tảng lờ hay tŕnh bày theo khuôn khổ
ư thức hệ quân chủ chuyên
chế.
Trong
giai đoạn
từ 1864 tới 1878, chẳng hạn, Puginier (Phú hay Phù Mi)
ở
Kẻ Sở (giáo phận Tây
Đàng Ngoài) và thủ hạ thân tín
tích cực theo dơi, bám sát quan chức cũng
như
giới văn thân. Không những chỉ cho Jean Dupuis vay
8000
đồng trong dịp đặc phái
viên của Thống đốc Jules Dupré gây rối loạn ở
Hà Nội, Puginier c̣n đề xướng
chính sách thiết lập một vương quốc Ki-tô Bắc Kỳ tự
trị. Pugnier góp công lớn
trong việc Francis Garnier chiếm đóng châu thổ sông
Hồng năm 1873, bằng cách
giúp tuyển mộ khoảng 12,000-14,000 linh bản xứ, đa số
là
giáo dân Ki-tô dưới
quyền nhóm Trần Lục, Hồ Văn Vạn, Lê Văn Bá, Phạm
Quang Diệu, Nguyễn Quí Cát, Lê
Văn Tốn, Nguyễn Tích, v.. v... Trần Lục–tức Trần Xuân
Triêm, và được nhắc nhở,
ca ngợi trong tư liệu Pháp như Père Six–hướng
dẫn
tàu
Pháp
tới
Ninh B́nh, cung cấp 150 tay
súng bảo vệ lực lượng Pháp. Lê Văn
Bá thân cận với Jules Harmand ở Nam Định. Phạm Quang
Diệu với 800 giáo dân thủ
ha được cử làm tham biện tỉnh vụ. Huyện Thy (Lê Bá
Đỉnh) tự xưng con cháu nhà
Lê xin Pháp lập Bắc kỳ tự trị, v.. v.... Từ Nghệ An,
Gauthier–cha đỡ đầu của
Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Hoằng, v.. v...– cũng muốn
hợp tác
buôn bán với Dupuis
sau chuyến công cán Paris trở về. (99)
Tại
các địa phương,
giáo sĩ và không ít giáo dân
biến thành tai mắt của Pháp. Một giáo sĩ đương
thời nhận xét rằng giáo dân Việt đang sống như
“những người ngoại quốc” trên
quê cha đất tổ của họ. Năm 1866, khi một số đ́nh thần
đề
nghị nên chuẩn bị hồ sơ
khai man đất đai ở gần ba cửa biển Quảng Yên, Ba Lạt
và
Đà Nẵng là đất tư để
cầu lợi trong trường hợp phải mở hải cảng trong tương
lai, Nguyễn Tri
Phương đă
phải thốt lên rằng “dân đi giáo làm tai mắt
cho người Tây dương, [làm vậy] có
khác ǵ người bít tai ḿnh mà đập
phá trộm chuông không?” (100)
Sau
ngày kư Hiệp
ước 15/3/1874, màng lưới t́nh báo đại chúng
của các giáo sĩ càng mở rộng hơn.
Tại miền Bắc, dù bất măn việc “phản bội” của
Philastre,
Puginier liên hệ chặt
chẽ với Lănh sự Hà Nội (Alexandre le Jumeau, tức
Bá tước de Kergaradec) và Hải
Pḥng (Louis Turc). Tại Huế, Rheinart sử dụng GM
Sohier
(B́nh), rồi Louis
Caspar (Lộc) của Giáo phận Huế, Croc (Ḥa) ở Nghệ An
(Xă Đoài). Linh mục
Renauld, Barthémy, Dangelzer (Đăng), v.. v... không
những chỉ cung cấp tin t́nh
báo, họ c̣n giúp móc nối một số
Hoàng thân, công tử. Miên Trinh hay Hường Hưu
là vài đối tượng tiêu biểu. Nhưng con mồi lớn nhất
của Rheinart là Ưng Chơn
(1852-1884)–tức Dục Đức, con nuôi lớn của Tự Đức. Mọi
quyết định tối mật của
triều đ́nh đều lọt vào tay Rheinart trước khi thực
thi.
Năm 1882, Rheinart c̣n
sai Ưng Chơn sao chép cả thư Tự Đức gửi vua quan Thanh
cùng hồi đáp của họ.
(101)
Ngoài
ra,
c̣n
những
thông ngôn ở ty Hành nhân, và
nhất là thông ngôn, kư lục người Việt
và người
Hoa ngay tại ṭa Khâm sứ, hay các ṭa
lănh sự ở Hà Nội, Hải Pḥng, Qui Nhơn.
Giai tầng thông ngôn-kư lục đóng một vai
tṛ quan trọng thời Pháp thuộc, nhất
là trong ba, bốn thập niên đầu. Những Lê Duy Hinh,
Diệp Văn Cương, rồi sau này
Ngô Đ́nh Khả, Nguyễn Hữu Bồi (Bài) trở
thành những môi giới quyền lực triều đ́nh,
cố vấn cho Viện Cơ Mật về các ứng cử viên “ngôi
Trời” tại Cấm Thành.
Đó
là
chưa
kể Théophile
le Grand de la Liraye (cố Trường hay Dương) cùng
Petrus Key,
Paulus San, Tôn
Thọ Tường, v.. v... của cơ quan thông dịch và sản phẩm
khác của trường Thông
Ngôn thuộc Soái phủ Sài G̣n. Lập trường đưa
cả hai tay nắm lấy người Pháp của
Petrus Key năm 1876 có vẻ ảnh hưởng trên những điều
trần
của Nguyễn Tăng Doăn
hay Nguyễn Thành Ư.
Tóm
lại,
nếu
Bùi
Viện quả thực đă qua Mỹ, hay đại diện Mỹ đă tới Huế,
dữ
kiện này khó lọt qua
màng lưới t́nh báo dày đặc của viên
chức Pháp và Hội truyền giáo. Hơn nữa, từ năm
1877, Bùi Viện được cử nắm Nha tuần tải miền Bắc, một
chức vụ
không nhỏ, dễ lôi
kéo sự chú ư của người Pháp.
4.
Sự
phân
tích
các thông tin hiện hữu về Bùi Viện cũng khiến giảm
thiểu mức khả tín về chuyến đi
Mỹ của ông.
a.
Hàm tước của Bùi Viện: Sử
nhà Nguyễn
ghi rơ Bùi Viện đang mang hàm “Biên
tu
[7-1, chánh thất phẩm] lănh trước tác
[6-1, chánh lục phẩm]” khi được bổ làm Chánh quản
đốc Nha tuần tải. Biên tu là
một chức quan nhỏ, dành cho những người mới tốt nghiệp
đồng Tiến
sĩ. Bùi Viện
chỉ đậu Cử Nhân trường Nam Định, ân khoa năm 1868,
nên hoạn lộ khởi đầu với hàm
chánh bát phẩm (8:1), rồi ít năm sau mới lên
tới biên tu. Bùi Viện lại bị trách
phạt nhiều lần, không được thăng thưởng, cách nào
lên tới “tham tri” [2:2, ṭng
nhị phẩm] (tương đương chức Thứ trưởng hiện nay) để
phụ trách
việc thương chính [khác với tuần tải]
miền
Bắc? (102)
b.
Liên hệ với Nguyễn Tăng Doăn: Khó
thể
có
việc
Bùi Viện cùng Nguyễn Tăng Doăn lo việc thương
chính Bắc Kỳ trước ngày nắm Nha
tuần tải.
Nguyễn
Tăng
Doăn
người
Hải Lăng, Quảng Trị. Năm 1847, đỗ hương tiến (khi Bùi
Viện
mới 10 tuổi).
Năm 1865, cùng Đặng Huy Trứ sang Quảng Đông
ḍ xét t́nh h́nh. Năm 1870 lại cùng
Lê Huy đi Hương Cảng, Áo Môn. Về nước, làm
Án sát Nghệ An để giải quyết hiềm
khích Lương-Giáo. Năm 1873, tham gia sứ đoàn
Lê Tuấn. Sau đó, lên Tả thị lang
bộ Lại [3:1, chánh tam phẩm]. Năm 1875, v́ thương
chính mới mở, ra Hải Dương và
Hà Nội điều tra t́nh h́nh. Hiệp lực với
Pháp, đánh giặc có công. Được chức Tuần
phủ Hải Dương, kiêm lĩnh thương chính, dưới quyền Tổng
đốc
Phạm Phú Thứ. Năm
1877, đi sứ Pháp. Về nước, làm thượng thư bộ Lại, sung
Cơ
Mật Viện Đại thần.
(103)
c. Phạm
Phú Thứ (1820-1881): Người huyện
Diên Phước, Quảng Nam. Đậu Tiến sĩ năm 1843. Năm 1863,
tham
gia sứ đoàn Phan
Thanh Giản tới Sài G̣n, Pháp và Espania. Về
nước, năm 1865 làm thượng thư bộ
Hộ. Năm 1874, nắm Tổng đốc Hải Yên, tổng lư thương
chính đại thần. Trước khi
nhiệm chức, xin mang theo Ông Ích Khiêm (nhưng năm
1875, Khiêm bị cách chức v́
bệnh tâm hỏa).
Năm
1876, b́nh định
được Cát Bà, Quảng Yên, sào huyệt hải tặc.
Sử dụng thương biện Lương Văn Tiến
(em họ ngoại) lo việc thương chính. (Trong chuyến thăm
miền Bắc
năm 1876,
Petrus Key từng gặp Thứ). Do Pháp khiếu nại, năm 1878
bị
cách chức. Lê Điền lên
thay, nhưng xin giữ Thứ lại ít lâu. Tháng 10/1879,
lại bị phạt cách chức. Năm
1880, về kinh. Năm sau, chết ở tuổi 62.
ĐNTLCB
ghi
khá
kỹ
về khó khăn cuối đời Phạm Phú Thứ:
Tháng
4
Kỷ
Măo
[5-6/1879], Phạm Phú Thứ xin về kinh. Vua
đồng
ư, cho Lê Điều [Điền] thay. Gần đây,
Thứ mật tâu việc người buôn nước Tây,
nước Thanh, ngầm mưu bọn Hán [Việt] gian gây việc.
Theo
lời thông ngôn Nguyễn Hữu Cư, người buôn Pháp
là Mô-răng-đi-ni [Motandini]
báo rằng người buôn Tây và Thanh lên
án Đại Nam cấm buôn nghiêm mật, không được
thung dung tự liệu, đem ḷng oán giận. Có người
nước này tự xưng là con cháu
nhà Lê, nay hiện đang chiêu dụ người Bắc Kỳ
tôn hắn làm minh chủ, ngầm hẹn với
các nhà buôn, nếu giúp được nên việc,
đều cho thung dung buôn bán. Các người
buôn có nhiều hưởng ứng, đă góp được hơn
10,000 đồng bạc, hẹn ngầm về Hương
Cảng mua súng, hẹn trong 3 tháng th́ khởi sự. Từng
dụ hắn [Motandini] vào bọn.
Các lời như thế, tỉnh ấy hỏi ở các dân gian cũng
có truyền ngôn ấy, lại bàn với
các lănh sự Tây, xét ư hắn, cũng lấy
việc cấm gạo, rất mang ḷng bất b́nh. Xin
châm chước việc bỏ cấm gạo vài ba tháng để
yên ḷng người phương xa mà hết thù
hằn bên ngoài.
Vua
cho rằng lời nói không có căn cứ, nhưng cho Thứ
làm việc chuộc tội.
Tiếp
đó, khâm phái Dương Quán báo
cáo việc Hải Dương có nhiều người Thanh
chở trộm gạo, cháu của Thứ là Lương Văn Tiến cũng chở
gạo
ra ngoại quốc. Vua
cho Lê Điều đổi sung chức khâm phái. Sau
đó, Thứ tâu việc Lănh sự Hà Nội muốn
chiếm thành; người buôn Tây yêu cầu
soái phủ Sài G̣n sửa đổi thương ước. Tự Đức
cho là Thứ trước hoang báo, sau lại dọa triều
đ́nh. Nếu có thật, đáng lẽ phải
tự dàn xếp ổn thỏa, không được nói quá thẳng
v́ như vậy phạm tội khích biến.
(104)
Châu
Bản
Tự
Đức
và tài liệu Pháp cung cấp thêm chi tiết về
bi hài kịch này. Báo cáo ngày
10/6/1879 của Tổng đốc Hải Yên Phạm Phú Thứ ghi
khách buôn phương Tây tên Mô Lăng
Đi Nê đến mật báo gần đây bọn “Hán [Việt]
gian” ở Bắc định cùng với người buôn
nước Tây và nước Thanh mưu đồ gây rối. Chúng
đă tập hợp tiền bạc ngầm cho người
về Hương Cảng mua súng pháo và dụ dỗ ông ta
nhập bọn. “Chúng thần thấy chưa tin
lắm. Nay xin ban sắc cho các tỉnh Bắc kỳ pḥng bị
nhưng
bí mật kiểm tra xem nếu
có tên nào là Hán [Việt] gian giặc
phỉ c̣n rơi rớt ẩn dật, ngấm ngầm dụ dỗ tiểu
dân, nếu có dấu vết khả nghi th́ bắt tra
xét.” Ngày 14/7/1879, Khâm sai Lê
[Điều] và Trần Văn Úc tâu về cuộc điều tra tin
Lê Bá Đỉnh (Huyện Thy) âm mưu
với Tây phương đi Hong Kong mua vũ khí về gây biến ở
Bắc Kỳ, và lănh sự Pháp mưu
chiếm Hà Nội, v.. v... Ngày 26/11/1879, Tổng đốc Thanh
Hóa Tôn Thất Phan cũng
tâu là Khâm phái Gia Định mật báo
Huyện Thy mang 4 tàu vũ khí, thông đồng với
Thanh phỉ, mưu khuấy rối thượng du Bắc Kỳ. (105)
Theo tư liệu
Pháp, Huyện Thy, tức Lê Bá
Đỉnh, hay Paulus Thy, gốc Thủ Dầu
Một nhưng tự nhận gốc miền Bắc, làm thông ngôn cho
Pháp tại Hải Pḥng sứ (Hải Dương).
Năm 1878, xin nghỉ làm thương mại. Qua sự móc nối với
Pène (Peine Siéfart?),
Constantin, một lái buôn ở Hong Kong, cùng
viên chức thuộc địa Pháp đă nghỉ hưu,
Đỉnh âm mưu nổi dạy. Nhóm Constantin hứa cung cấp một
tàu chạy hơi nước, 2 chaloupes
vũ khí, 100 người Pháp và 600 Tagals. Đỉnh
có nhiệm vụ quyên góp tiền, mộ người
Việt, và ra tuyên cáo tự xưng là Lê
Gia Hưng, gịng giơi nhà Lê, sẽ khởi nghĩa
ngày 6/11/1879 với niên hiệu Ứng Thuận. Được Morandini
mật báo, Tổng đốc Thứ ngăn
chặn được Đỉnh. Triều đ́nh Huế, v́ lư do
riêng, cách chức Thứ. Paulus Thy chỉ
bị gửi trả lại Nam Kỳ.(106)
Tóm
lại,
việc
Bùi
Viện “qua Mỹ, được Tổng thống Grant tiếp kiến” chẳng
được
minh chứng bằng tư
liệu văn khố Mỹ hay Việt. Tư liệu Pháp và các
nhà truyền giáo im lặng. Nội dung
các thông tin không gần sự thực, hoặc sai lầm. Cho
tới khi có tài liệu chứng
minh ngược lại, nó chẳng là ǵ khác hơn
huyền thoại, có lẽ chỉ hiện hữu trong
trí tưởng của người đă công bố.
Cũng
tương tự như
nhân vật Trương Chánh Thi, “lănh binh, thừa biện
bên cạnh quốc vương Chân Lạp”
hay “sứ thần” ở gần Nam Vang. Hay, việc Nguyễn Sinh
Côn bị trục
xuất khỏi trường
Quốc Học v́ tham gia cuộc biểu t́nh chống sưu thuế ở
Huế
năm 1908 ba tháng trước ngày
được nhận vào học hiệu này; Nguyễn “Ô
Pháp” tức Ái Quốc bị
“nhốt chung” với Phan Châu Trinh “ở ngục Santé.”
Đó là chưa kể những “bí ẩn
lịch sử” kiểu phụ thân Phan Bội Châu đă đổi
tên ông v́ “sợ phạm húy vua Duy
Tân” trước ngày Vĩnh San ra đời cả chục năm! (107)
III.
NGUYỄN SINH CÔN LÀ NGƯỜI ĐẦU TIÊN ĐẾN MỸ?
Cho
tới
đầu
thế
kỷ XXI, vẫn chưa có đáp án ai là người Việt
đầu tiên đến Mỹ, vào thời điểm hay
do hoàn cảnh nào.
A.
ĐƯỜNG GIÂY
TRUYỀN GIÁO:
Như
chúng ta đă
biết, từ năm 1911, các nhà truyền giáo Tin
Lành Mỹ đă hoạt động ở vùng Vân Nam
và một số thành phố Đông Dương, đặc biệt
là Hà Nội, Hải Pḥng, Đà Nẵng,
Sài G̣n
và các tỉnh miền Nam.
Đoàn
truyền
giáo
Mỹ đầu tiên ở
Việt Nam thuộc tổ chức Liên Minh Tín đồ và Truyền
Giáo [Christian and Missionary Alliance, hay
CMA]. Năm 1911, CMA xây một nhà thờ,
một
trường học, và một nhà in
nhỏ ở Tourane. Năm năm sau, CMA lập thêm cơ sở ở Hà
Nội
và từ 1918 bành trướng
vào Nam Kỳ, nơi hội phát triển khá nhanh.
Chính tại miền Nam, hội Tin Lành cải đạo
được nhiều người nhất. Vào năm 1935, trong số 23 mục
sư bản xứ,
13 người gốc
Nam, 9 gốc Trung và chỉ có 1 gốc Bắc. Trong số 96
người
giúp việc, 38 người làm
việc ở miền Nam, 31 ở miền Trung, và 25 tại Bắc Kỳ.
Đoàn
truyền
giáo
Tin lành của
Pháp [Mission Evangelique d'Indochine hay
M.E.I.], trụ sở tại Tourane, cũng rất
khiêm tốn. Từ 1913 tới 1933, hội này thành lập được
156 giáo đường tại Đông Dương
và Đông Thái Lan với 33 mục sư Việt, 185 phụ
giảng [evangelists] và 9,359 tín đồ.
Một
trong những lư do của sự chậm
phát triển là ḷng đố kị của Hội truyền
giáo Ki-tô Vatican. Chẳng hạn như năm
1822, khi Paul Monet muốn thành lập một kư túc
xá sinh viên Hà Nội, với sự giúp
đỡ của Hội Thanh Niên Ki-tô [Young Men's
Christian Association, hay YMCA],
báo
L’Avenir du Tonkin [Tương Lai Bắc
Kỳ] công kích mănh liệt. (Xem thêm La
Tribune indochinoise (Saigon), 10/11/1941).
Trong
khi đó, hai hội truyền giáo
Tin Lành chỉ được tự do giảng đạo tại các “lănh
thổ Pháp,” bao gồm Nam Kỳ cùng
các nhượng địa Hà Nội, Hải Pḥng và
Tourane. Cơ quan an ninh Pháp cũng theo dơi
chặt chẽ các mục sư Mỹ, nhất là trong giai đoạn
1925-1927, tức giai đoạn h́nh
thành tinh thần quốc gia mới. Mục sư Ferry ở Mỹ Tho và
đồng nghiệp từng bị nghi
ngờ ủng hộ Hoàng thân Cường Để.( 108)
Trong
khi truyền
giáo, các mục sư huấn luyện nhiều thanh niên, thiếu
nữ Việt; và có khả năng đưa
một số cá nhân qua Mỹ. Tuy nhiên, chúng
tôi chưa có dịp làm việc tại văn khố
các hội truyền giáo Tin Lành Mỹ, nên
khó thể đoan chắc số lượng hoặc tên tuổi
những tín đồ Tin Lành đă qua Mỹ huấn luyện.
B.
THỦY
THỦ
VÀ
DÂN
ĐI TÀU:
Có
bằng
chứng
cho
thấy một trong những người Việt đầu tiên tiếp cận với
nước Mỹ
trong dịp Thế
chiến thứ nhất (1914-1918)–không do một sứ mệnh chính
thức
nào, mà chỉ do nghề
hàng hải. Cá nhân này chẳng là ai
khác hơn Nguyễn Sinh Côn (1892-1969)–tức
Nguyễn Ái Quốc (1894-1932, 1941-1945), hay Hồ Chí Minh
(1890-1969).
Thế
chiến thứ
nhất là cơ hội mở rộng hàng rào cản di dân
của Mỹ cho người ngoại quốc–đặc biệt
là nhân công trên các tàu
buôn Âu châu. Do t́nh cờ lịch sử, Nguyễn Sinh
Côn có
mặt trong hàng ngũ ngày một gia tăng của giới “đi
tàu.” Theo lời tự thuật của
Hồ, ngày c̣n làm việc trên các
tàu Pháp và Bri-tên–dưới bí danh
“Paul Thành”–Hồ
đă tới New York, Boston, Philadelphia, v.. v...
Thời
gian Hồ tới
Mỹ nằm trong thời khoảng 1913-1919. (109) Điều này
được
xác nhận bằng một nhân
chứng người Mỹ gốc Triều Tiên, Kim Tchong-wen [Kim
Trung Văn],
đại diện chính
phủ lưu vong Triều Tiên tại Paris năm 1919.
Tài
liệu
chúng
tôi
sử dụng–ngoài một số thông tin do các học
giả thế giới đă công bố–gồm các
tài liệu văn khố Pháp chúng tôi tham khảo
trong giai đoạn 1982-1988, được bổ
túc thêm trong các chuyến du khảo ngắn hạn từ 1996
tới 2000.
C.
HAI
BÀI
VIẾT
VỀ
NGUYỄN ÁI QUỐC TRÊN YSHI PAO Ở
THIÊN TÂN TRUNG HOA:
Tháng
6/1919,
giữa
men
say chiến thắng “Đức tặc,” các giới chức Thuộc
Địa Pháp xôn xao v́ một
biến cố đáng lo ngại: Ngày 18/6/1919, báo L'Humanité
(Nhân Đạo) của Đảng
Xă Hội Pháp
đăng tải một thỉnh nguyện thư gửi Hội Quốc
Liên của “Một nhóm người An Nam yêu nước.” Thỉnh
nguyện thư này gồm 8 điểm, như
xin ân xá tù nhân chính trị; cải
cách pháp luật để người An Nam được bảo đảm
pháp định tương tự như người Âu Châu; tự do
báo chí và tư tưởng; tự do lập hội
và hội họp; tự do di trú và du lịch ra ngoại quốc;
v.. v... Bản thỉnh nguyện thư
đăng trên L'Humanité này
có 2 đặc điểm:
(a) không kư tên Nguyễn Ái Quấc, và
(b) giới thiệu các tác giả như đảng viên Xă
Hội Pháp [theo Đệ Nhị Quốc Tế]. (110)
Cũng
ngày
18/6/1919, thỉnh nguyện thư trên được gởi đến các
phái đoàn đồng minh đang họp
ở Versailles để giải quyết số phận Germany, Hungary và
Austria
(Áo). Đại diện
Mỹ chỉ thông báo đă nhận được, và sẽ
tŕnh lên Tổng thống Woodrow Wilson
(1913-1921).( 111)
Vào
đầu
tháng
7/1919,
xuất hiện ở khu vực Mutualités và phố Ecoles
(Quận V, Paris) một số
truyền đơn có nội dung tương tự. Điểm khác biệt
là trong bản truyền đơn này
“Nhóm người An Nam yêu nước” được đại diện bằng
“Nguyễn
Ái Quấc.” Nguyễn Ái Quấc cùng
các đồng chí, ở phần dẫn nhập ngắn,
khẳng định “dân An Nam lấy làm vinh dự” được người
Pháp bảo hộ.(112)
Hơn
hai tháng
sau–trong khi Mật thám Pháp bám sát Nguyễn
Ái Quốc và truy tầm hộ tịch nhân vật
đang lên này–báo Yshi của Hội
truyền
giáo Tin Lành Mỹ tại Thiên Tân Trung Hoa đăng
hai bài về Quốc ngày 18 và 20
tháng 9/1919.
Dù
không
được
tham
khảo nguyên bản hai số báo trên, chúng
tôi làm phóng ảnh bản báo cáo bằng
Pháp ngữ của cơ quan t́nh báo Pháp tại
Trung Hoa, với tựa “Tiếp tục chiến dịch
thiện cảm với dân An Nam trên báo Yshi.”( 113) Loạt
bài này đều đặt chung dưới
tựa “Thông tin đặc biệt từ Paris: Vấn đề tự trị An Nam
từ
ngày đại diện An Nam
tới Paris.” Tất cả chia làm 3 phần: Đại cương về phong
trào độc lập; bản thỉnh
nguyện thư 18/6/1919, và phỏng vấn Nguyễn Ái Quốc.
Đại
cương
về
phong trào độc lập
Đặc
phái
viên
Mỹ
của Yshi pao tường thuật rằng từ ngày
khai mạc hội nghị ḥa b́nh Versailles, một đại diện
An-Nam là Nguyễn Ái Quốc đă
từ Mỹ tới Paris tiếp xúc các phái đoàn
Đồng Minh, nhưng không mấy thành công.
Nguyễn Ái Quốc gặp được một số chính khách
và Dân biểu Pháp, thuyết phục họ
rằng nền độc lập của An Nam rất quan trọng cho nền ḥa
b́nh của các quốc gia
Viễn Đông.
Chính
quyền
Đông
Dương
của Pháp chẳng bao giờ thực thi những nguyên tắc tự
do và nhân đạo thiết
thân của dân tộc này. Về chính trị,
viên chức Pháp áp dụng thể chế độc tài (despotisme),
qua chính sách giáo dục
công lập ngu dân (obscurantisme); về
kinh tế-tài chính, chính quyền thuộc địa
Pháp chỉ ḅn rút tài nguyên
Đông Dương
để làm giàu cho ḿnh; chính quyền ấy
đă đặt ra những hạn chế tự do tư tưởng và
ngôn luận, khiến cảm hứng được độc lập của người An
Nam bị loại
bỏ. Trong khi đó
người An Nam không ngừng đổ máu cho lư tưởng
này và, trong mùa Xuân vừa qua,
những cuộc giao chiến đáng lo âu xảy ra ở biên giới
phía bắc Bắc Kỳ. (114)
Ngay
tại Pháp,
không kể đến các binh sĩ và công nhân,
số sinh viên An Nam lên tới hàng trăm.
Một phú gia Việt họ Phan [Văn Trường] từ ngày chiến
tranh
bùng nổ đă tiếp xúc
với giới sinh viên. “Trong buổi đàm thoại kéo
dài với [Phan],” tác giả bài báo
viết, “tôi cảm thấy tuổi tác chưa đủ làm phai nhạt
nhiệt t́nh của ông.”
Theo
ư kiến
chung của những nhà cách mạng An Nam, sứ mệnh
[giành độc lập] của họ khó khăn
gấp bội người Triều Tiên.
Thứ
nhất, sự
chiếm đóng của Pháp đă kéo dài
khá lâu, nên đă bắt rễ sâu tại
Đông Dương, và
hiện nay chẳng ai có thể gây nguy hại cho chế độ bảo
hộ
Pháp; bởi vậy những vận
động của các nhà cách mạng trong thời b́nh
hay sự nổi dạy của họ trong thời
gian thế chiến chẳng nhận được sự giúp đỡ đáng kể
nào [n’ont-ils trouvé aucun appui
sérieux].
Thứ
hai, sau
40-50 năm nhồi sọ [abrutis] với lối
giáo dục Pháp, người Việt chỉ c̣n biết qui phục
toàn vẹn và mất tất cả khả năng
[ont perdu tout dissernement] đến độ
người ta có cảm tưởng rằng, mặc dù có những hăng
say của một thiểu số, việc đ̣i
lại độc lập rất mong manh [précaire].
Thứ
ba, do sự
cấm đoán của các viên chức thực dân
Pháp, người An Nam mất cả sức phản kháng [ressort].
Thứ
tư chính
sách kinh tế của Pháp khiến cuộc sống ở Đông
Dương vô cùng khó khăn; dân chúng
làm việc cực nhọc mà không đủ ăn; bởi thế họ
không c̣n th́ giờ rảnh rỗi để mơ tưởng
đến việc đ̣i lại độc lập.
V́
những
lư
do
trên, việc đ̣i độc lập của người An Nam khó khăn
hơn những dân tộc khác. Những
tín đồ cho lư tưởng độc lập mong muốn, như bước đầu
tiên hướng về sự giải phóng
[l’affanchissement], được hưởng tất
cả những quyền liên hệ đến tự do giáo dục và
ngôn luận, để có thể khai sáng dân
tộc và tiếp đó làm việc để thực hiện tự chủ, rồi
độc lập. Họ hiểu rơ rằng t́nh
h́nh Đông Dương khác với Triều Tiên
nên các phương tiện tranh đấu cũng phải
khác biệt đôi chút. . . .
Sau
khi tới
Paris, Nguyễn Ái Quốc, người đă nhận sứ mệnh từ tổ
chức An Nam Quốc Dân Hội, trao cho
nhiều chính
khách quan trọng bản
thỉnh nguyện sau đây và liên hệ chặt chẽ với
cánh tả của Quốc Hội (Pháp).
Thỉnh
Nguyện
Thư
Của Dân An Nam
(sau
một phần
dẫn nhập ngắn . . . .)
1.
Xin ân xá tù
nhân chính trị;
2.
Xin cải cách
pháp luật để người An Nam được bảo đảm pháp định tương
tự
như người Âu Châu;
3. Tự
do báo chí
và tư tưởng;
4. Tự
do lập hội
và hội họp
5. Tự
do di trú
và du lịch ra ngoại quốc;
6. Tự
do giáo
dục; và đ̣i hỏi thành lập trường dạy nghề ở
các tỉnh;
7.
Thay đổi chế độ
cai trị với sắc luật bằng chế độ pháp trị; và,
8.
Được bầu một
phái đoàn thường trực bên cạnh Quốc Hội Pháp
Trong
những
thỉnh nguyện trên, dân An Nam tự nguyện đứng vào
hàng ngũ các nguyên tắc nhân đạo
và [nhân] quyền do Liên quốc qui định, và
các chủ nghĩa khác dựa trên sự tôn
trọng cá nhân và bảo đảm hạnh phúc của
dân chúng.
Khi
người Pháp
thiết lập chế độ bảo hộ tại An Nam, dân An Nam bị
chinh phục bởi
các tư tưởng
Pháp, không coi đó là sự xấu hổ, mà
là một danh dự v́ họ nghĩ rằng người Pháp, được
nuôi dưỡng bởi ḷng yêu tự do và sự
kính trọng luật pháp, có thể thực thi các
nguyên tắc nhân đạo và tạo hạnh phúc cho
dân chúng. Hy vọng này không được thể
hiện. Chúng tôi hy vọng rằng nước Pháp sẽ lắng nghe
những lời than phiền của
những người bị áp bức và chứng tỏ rằng họ trung
thành với những nguyên tắc mà
chúng tôi tin cậy.
Phỏng
Vấn
Nguyễn
Ái Quốc
Đặc
phái
viên
Mỹ
của Yshi Pao tường thuật rằng do lời
đề
nghị của Kim Tchong Wen và Kim Koei Tche, đại biểu
chính
phủ lâm thời Triều
Tiên với hậu cứ ở Philadelphia (Liên bang Mỹ), ông ta
được gặp Nguyễn Ái Quốc.
Nhân
vật
này
là
một người trạc ba mươi tuổi với dáng khắc khổ [d’allure
hardie] và trẻ trung, nói được ba thứ tiếng Anh,
Pháp và
Tàu, biết được một số chữ [Nho] đủ để bút đàm. Nhờ
cuộc tiếp xúc với Kim trong
dịp ở Mỹ, Nguyễn Ái Quốc đă bàn luận với Kim về
vấn đề độc lập và thuyết phục được
Kim rằng t́nh thế hai nước khác nhau nên chương
tŕnh hành động cũng phải khác
nhau.
Sau
khi tới
Paris, Nguyễn Ái Quốc t́m đến gặp ông Phan
đă ở thành phố này hơn 10 năm, nói
tiếng Pháp thành thạo.
Tác
giả
bài
viết
này cùng Kim đến thăm Nguyễn Ái Quốc, nhưng
không gặp, nên mời Nguyễn Ái Quốc
và Phan [Văn Trường] đến nhà nói chuyện. Sau
đây là tóm lược cuộc đối thoại:
Tác
giả:
Trường
hợp
nào đưa ông tới Pháp?
Đáp:
Để
đ̣i
lại
những quyền tự do mà chúng tôi phải đuợc hưởng.
Tác
giả:
Chương
tŕnh
hành động của ông ra sao?
Đáp:
Luôn
luôn
tiến
về phía trước tùy theo sức lực.
Được
hỏi
về
những
vận động của đảng tại Đông Dương và sự nổi dạy
khi cuộc Thế chiến bùng
nổ, Nguyễn Ái Quốc đáp:
“Mục
đích chính
của chính quyền Pháp hoàn toàn khác
với chính quyền Nhật tại Triều Tiên. Người
Nhật muốn Nhật hóa tất cả dân Triều Tiên. Người
Pháp ngược lại muốn tạo sự bất
b́nh đẳng giữa người Pháp và An Nam, lợi dụng sức
lao động của người An Nam để
tiếp tục ḅn rút các tài nguyên
Đông Dương cho tới thời gian vô hạn định, và nỗ
lực ngăn cản người An Nam xây dựng một nền kinh tế độc
lập. Chế
độ thuế khóa đủ
loại cùng những biện pháp hạn chế, cũng như chế độ
giáo dục công cộng, đều gợi
hứng từ các điều kiện trên. Khi ngăn cản sự văn minh
hóa và tiến bộ của dân An
Nam, người Pháp muốn bảo đảm rằng sẽ giữ dân An Nam
măi măi ngoài lề văn minh
thế giới và trói buộc dân An Nam măi
măi dưới sự can thiệp không ngừng đổi mới.
Trong những năm vừa qua, t́nh trạng sinh sống tại Đông
Dương trở nên tồi tệ hơn
bao giờ hết.”
Được
hỏi
về
những
việc làm từ ngày tới Pháp, Nguyễn Ái
Quốc đáp:
“Ngoài
những
cuộc
tiếp
xúc vận động với các dân biểu
Quốc Hội, tôi t́m cách qui tụ các cảm
t́nh viên, ngoài ra, đảng Xă Hội
[Pháp]
v́ không hài ḷng với việc làm của
chính phủ đă t́nh nguyện giúp chúng
tôi.
Pháp là nơi y cứ hy vọng duy nhất của chúng
tôi. Về hoạt động tại các nước
khác, chính quê hương quí vị
[nước
Mỹ] là nơi
chúng tôi thành công nhất. Ở những nơi
khác, chúng tôi toàn gặp khó khăn.”
Tiếp
đó Nguyễn
Ái Quốc tŕnh bày một cách đầy cảm
xúc t́nh cảnh kinh tế giáo dục và đời sống
cùng khổ của dân An Nam tại Đông Dương.
Ông Phan cũng thuật lại một câu chuyện
chi tiết về những chuyến phiêu lưu của ông.(115) Tất
cả
diễn ra với sự hiện
diện của ông Kim Tchong Wen và toàn thể nhân
viên của văn pḥng cơ quan chúng
tôi. (116)
IV.
KẾT TỪ:
Trong
những thập
niên tới–khi các văn khố hoàn toàn mở
rộng–chúng ta mới có thể biết rơ ai là
người
Việt đầu tiên đă đến Mỹ và tiếp cận với nền
chính trị Mỹ. Cách nào đi nữa, Bùi
Viện khó thể là nhân vật này. Tư liệu văn
khố nhà Nguyễn và Liên bang Mỹ hoàn
toàn im lặng về “hai chuyến” qua Mỹ của ông. Văn khố
Pháp và Hội truyền giáo
cũng chưa có phát hiện nào về Bùi Viện. Sự
so sánh các nguồn tư liệu cũng như
chính sách ngoại giao của Tự Đức từ 1870 tới 1878
c̣n loại bỏ mọi khả năng Bùi
Viện đă tới Mỹ. Cho tới khi có tài liệu chứng minh
ngược lại, việc Bùi Viện qua
Mỹ, gặp Tổng thống Grant, chỉ là một
huyền thoại–được hoang tưởng do một mục tiêu nào đó.
Nguyễn
Sinh
Côn–dưới
bí
danh Paul Thành, rồi Nguyễn Ái
Quốc–có thể là người Việt đầu tiên đến
Mỹ, và chắc chắn là
người
đầu tiên nghiên cứu hệ thống chính trị Mỹ. Sự
tham chiến
của Mỹ tại Âu châu, chủ thuyết “tự trị” của Tổng thống
Wilson và chuyến thăm
cựu lục địa của Wilson ít nhiều ảnh hưởng trên Nguyễn
Ái Quốc và Phan Văn Trường.
Phần
tư thế kỷ
sau, Nguyễn Ái Quốc–với bí danh Hồ Chí Minh–thực
sự móc nối được với cơ quan
t́nh báo chiến lược (OSS) Mỹ, được tặng bí danh “Lucius,” rồi bước vào Hà Nội giữa cao
trào cách mạng 1945.(117)
Mặc dù Liên bang Mỹ đă chọn thái độ “hands-off”
[không can thiệp] khi liên quân
Pháp-Bri-tên khởi đầu cuộc tái xâm lăng Việt
Nam năm 1945, nhưng phía sau hậu trường chính trị quốc
tế, “những người bạn
rừng xanh” của Hồ Chí Minh đă ít nhiều giúp
Hồ sống c̣n qua chế độ quân quản
của Trùng Khánh tại miền Bắc năm 1945-1946, cũng như
thiết lập sự chính thống
cho chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, qua cuộc bầu cử
quốc
hội 1946 và bản Hiến
Pháp 9/11/1946, và nhất là hai tạm ước kư
với Pháp ngày 6/3/1946 và 14/9/1946–đồng
thời có thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến kháng
Pháp suốt 8 năm kế tiếp. Đáp
lại, Hồ từng tuyên bố giải tán Đảng Cộng
Sản Đông Dương, hiệu lực từ ngày 11/11/1945.
(118)
Nhưng
chính sách
lấy Âu Châu làm ưu tiên hàng đầu, sự ưu
thắng của chủ nghĩa Cộng Sản tại Đông
Âu và các cựu thuộc địa trong giai đoạn hậu chiến,
rồi đến sự thất bại của chế độ
Tưởng Giới Thạch tại Hoa lục và cuộc chiến tranh Triều
Tiên (1950-1953) khiến
Liên Bang Mỹ bị cuốn vào cuộc chiến tranh lạnh Tư
Bản-Cộng
Sản do Winston
Churchill đề xướng. Liên hệ Việt-Mỹ biến hóa dần từ
thân hữu qua thù nghịch, v́
Mỹ chủ trương yểm trợ các lực lượng chống Cộng mà
người
Pháp có thể qui tụ được,
trong thí nghiệm Bảo Đại (1949-1955). Sau gần ba năm “nước c̣n tát được vẫn cứ tát,” Hồ
Chí Minh chẳng c̣n lựa chọn nào
khác hơn là gia nhập khối Cộng Sản do Liên Xô
Nga lănh đạo, nhưng dưới sự kiểm
soát trực tiếp của Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu
Kỳ. Măi tới năm 1995, Liên Bang
Mỹ và Việt Nam mới cùng gác chuyện quá khứ,
nối lại bang giao.
Houston,
6/3/2007-6/10/2010
Vũ
Ngự
Chiêu
Phụ
chú:
63. Thái Văn
Kiểm, “Les premières relations entre
le Vietnam
et les Etats Unis d’Amérique;” Bulletin
de la Société des Etudes Indochinoises [BSEI]
(Saigon), vol. 37,
no. 3 (3è
trimestre 1962); dẫn trong Miller, 1991:274-275n1.
Ulysses Simpson
Grant
(1822-1885) là một cựu sinh viên sĩ quan West Point.
Binh
nghiệp không có ǵ
xuất sắc. Măi tới khi Nội chiến bùng nổ mới được mang
cấp
Tướng; nhưng nổi danh
nhờ những chiến thắng tại miền Nam. Năm 1868, đắc cử
Tổng thống,
và cai trị hai
nhiệm kỳ (1869-1877). Nhiệm kỳ thứ hai, từ 1873, gặp
nhiều khó
khăn v́ những vụ
tai tiếng tham nhũng. Nổi danh nhờ Hiệp ước London với
Bri-tên do
Ngoại trưởng
Hamilton Fish điều đ́nh năm 1871.
64. ĐNTLCB,
IV,
34:65.
65. ĐNTLCB,
34:187-188. Nguyễn
Trọng Hợp [Hiệp] đậu Cử nhân năm 1858. Làm
việc
trong
phủ Tùng Thiện công Miên
Thẩm, người chịu trách nhiệm Tôn Nhơn Phủ. Năm 1865
đậu
Tiến sĩ; thăng Thị độc
nội các; rồi Phủ doăn Thừa Thiên. Năm 1873,
cùng Trần Đ́nh Túc ra Hà Nội dàn
xếp việc Dupuis. Khi Philastre và Nguyễn Văn Tường ra
Bắc, được
giao tiếp thu
Ninh B́nh; rồi thăng Tuần phủ Nam Định, hộ lư Tổng
đốc Định-An. Năm 1880, làm
tả tham tri bộ Lại, kiêm quản lư Thương Bạc (Đối
Ngoại); CAOM (Aix), GGI:9619; Đại Nam
Chính
Biên Liệt Truyện [ĐNCBLT],
q. 30 (Huế: Thuận Hóa, 1993), tập IV,
tr. 119-38.
66. Giáo
sư
Nguyễn
Phạm
Hùng, Đại học Hà Nội, và học giả
Nguyễn Thu Hoài, chuyên viên
Hán Nôm, giúp chúng tôi làm
phóng ảnh 12 trong số 25 tài liệu về Bùi Viện,
và
chuyển ngữ một số tài liệu cơ bản tại Trung tâm Lưu
trữ
Quốc Gia I (Hà Nội). Do
trước đây chỉ được tham khảo bản mục lục toát yếu in roneo năm 1978 của nhóm học giả Vũ
Thanh
Hằng–tóm lược một số tư
liệu Châu bản đời Tự Đức khi c̣n lưu trữ tại TTLTTƯ 2
(TP/HCM)– rồi so sánh với
ấn bản được hiệu đính của các tác giả trên
do Trung Tâm Quốc Học ấn hành năm
2003–chúng tôi sẽ ghi danh số mới tại TTLTQG I (Hà
Nội), kèm theo mă số của
TTLTTƯ 2 (TP/HCM).
67.
TTLTQG 1 (Hà
Nội), CBTĐ, 18/10 nhuận TĐ XXIII, CB 231, TL 58, tờ số
167-171. [TTLTTƯ
2
(TP/HCM),
CBTĐ, nhị thập tam niên, thập
nguyệt-thập nhất nguyệt, 18/10 nhuận TĐ XXIII, CB
362:163-164;
2003:176]. Tư
liệu này có
những đoạn không rơ.
68.
TTLTQG 1 (Hà Nội), CBTĐ, 03/11 TĐ XXXI, CB 311, TL 6,
tờ
số 14-21.
69.
TTLTQG 1 (Hà
Nội), CBTĐ, 9/9 TĐ XXX, CB 286, TL 72, tờ số 210-212.
70.
TTLTQG I (Hà
Nội), CBTĐ, 14/10 TĐ XXX, CB 290, tờ 27-28, 37-44
[TTLTTƯ 2
(TP/HCM), CBTĐ, tam
thập niên, thập nguyệt-thập nhất nguyệt, 14/10 TĐ XXX,
CB
420, tờ 27-28, 37-44;
2003:248]
71. TTLTQG
1
(Hà
Nội), CBTĐ, 18/8 TĐ XXXI,
CB 297, TL 101, tờ số 305-310.
72. TTLTQG
1
(Hà
Nội),
CBTĐ, 29/01 TĐ XXXII, CB 333, TL 33, tờ số
89-114. Thực Lục chép: Tháng Giêng
Kỷ Măo
[1-2/1879], sơn pḥng sứ Hà Nội Dương Khuê bị
cách chức, cho làm việc chuộc tội; ĐNTLCB,
IV, 33:197. Việc này do Nguyễn Trọng
Hợp tŕnh lên vào tháng 12/1878, v́
kho Nam Định thiếu hơn 10,000 quan; Ibid., 34:192.
Khuê làm sơn pḥng sứ từ tháng 11 Ất Hợi
(1875); Ibid., 33:260.
73. TTLTQG
1
(Hà
Nội), CBTĐ, 26/9 TĐ XXXI,
CB 307, TL 114, tờ 265-268; 7/7 TĐ XXXII, CB 341, TL
120, tờ
360-367; 19/6 TĐ
XXXII, CB 318, TL 28, tờ 73-76; 04/12 TĐ XXXII, CB
330, TL 31, tờ
84-87. 19/12
TĐ
XXXII,
CB 330, TL 88, tờ 258-285.
74. TTLTQG
1
(Hà
Nội), CBTĐ, CB 303, TL
29, tờ 64-67.
75. ĐNTLCB,
IV, 33:202, 268, 362; 34:88, 192,
296; Léonard Sogny, “M. Rheinart, Premier Chargé
d’Affaires à Hué: Journal,
Notes et Correspondance;” Bulletins des
Amis de Vieux Hué [BAVH], XXX, nos. 1-2
(1-6/1943), tr. 66,
103-4. 110-11.
76.
Tại thư viện
Yenching của Đại học Harvard (Boston) có vi phim
[microfilms] Nguyễn triều châu bản,
cũng như bản
chữ
Hán các bộ Thực Lục hay Liệt
Truyện.
77.
Xem biên bản
phiên họp cuối của Ủy ban Cochin-Chine năm 1857; CARAN
(Paris),
Fonds Marine,
BB4-752 B; Cao Huy Thuần, 1990:27-35; Nguyên Vũ, Paris
Xuân
1996 (Houston: Văn Hóa, 1997), tr. 202-14.
78.
Thế lực nhóm
duy tân/chủ ḥa hay hợp tác tạm suy giảm từ năm
1880, khi Tự Đức cho Trần Tiễn
Thành bớt trách nhiệm tại bộ Binh. Tuy nhiên, một
số Hoàng thân, công tử như
Miên Định, Miên Trinh, Hường Dật, Hường Hưu, Hường
Sâm, Hường Ph́, v.. v... đă
hoặc đang nghiêng dần về lập trường hợp tác với
Pháp; chống lại phe quân phiệt,
chủ chiến Hoàng Kế Viêm, Tôn Thất Thuyết, Ông
Ích Khiêm, v.. v...
79. ĐNTLCB,
IV, 52:335 [Tháng 10-11/1873,
Nguyễn Chánh làm Quyền Thương Bạc Đại thần], 345
[Tháng 11-12/1873, Nguyễn Hữu
Lập quản lư Thương bạc, v́ Nguyễn Chánh ra Bắc
làm Khâm lược]. Sau đó, Bùi Ân
Niên, Nguyễn Trọng Hợp, Nguyễn Văn Tường lần lượt kiêm
quản
Thương bạc. Nguyễn
Thế Anh cho rằng sự thay đổi này chỉ có h́nh thức,
như các Thương bạc đại thần
chỉ được bổ nhiệm tạm thời, và Tự Đức vẫn theo đuổi
chính sách đối ngoại lỗi
thời, v.. v...; Nguyễn Thế Anh, Monarchie
et fait colonial au Việt-Nam (1875-1925): Le
crépuscule d’un
ordre traditionnel
(Paris: Harmattan, 1992), tr. 41-6. Theo chúng tôi,
muốn
đánh giá sâu sát nỗ
lực ngoại giao của Tự Đức, cần nhận hiểu vị thế một
nạn nhân
của “luật kẻ mạnh”
hạ bán thế kỷ XIX. Sự vụng về hay lỗi thời của Tự
Đức–đúng hơn là ảo vọng vào
một thế giới “hà tất viết lợi, viết nhân
nghĩa nhi dĩ hĩ”–đáng được giảm khinh trong so
sánh
tỉ đối với lập trường
quan tướng Pháp (tính chất giai đoạn của mọi hiệp ước,
tùy theo khả năng quân
sự và nhu cầu; kẻ mạnh luôn t́m ra những cái
cớ [prétextes] để hành động: từ tự do
giao thương trên sông Hồng, tới
Lư Dương Tài, bạc giả, đánh đ̣n người
Âu, hay cái chết của Henri Rivière). Hơn
nữa, ở thời điểm này, Pháp cũng ít khi tôn
trọng các đại diện ngoại giao của
ḿnh. Aubaret năm 1864 và Bourée năm 1882-1883 chỉ
là vài thí dụ.
79bis.
L’Institut
Charles
de Gaulle [ICG], Le Général de
Gaulle et l’Indochine,
1940-1946 (Paris: Plon, 1982), tr. 73;
D’Argenlieu, Chronique,
1985:131-33. Chính Đạo, VNNB, I-A:
1939-1946,
1996:301. [Tài liệu văn khố ghi nhận ngày
7/1/1946, de Langlade thông báo với d’Argenlieu là
Mus gặp Bộ trương Hải Ngoại
Soustelle; rồi ngày 20/1/1946, de Langlade cho biết
Mus sẽ gặp
de Gaulle,
Soustelle và Tướng Juin]; SHAT (Vincennes), Indochine,
10 H xxx].
80. ĐNTLCB,
IV, 34:182-183, 233-235; TTLTQG
II (TP/HCM), CBTĐ, 7/12 TĐ XXXII, CB 440:262-263;
[2003:260].
81. ĐNTLCB,
IV, 27:68 , 29:132, 30:193,
31:15, 94, 33:13 [Điều III], 34:233-235, 341-342;
35:98; TTLTTƯ 2
(TP/HCM),
CBTĐ, tam thập nhị niên, lục nguyệt-thất nguyệt, 5/7
TĐ
XXXII, CB 446:217;
2003:265 [Ngày 22/8/1879, Bộ Công tŕnh việc sửa
lại Thủy sư sứ quán để đón
phái đoàn Espania và Xiêm]; Tam thập nhị
niên, thập nguyệt-thập nhị nguyệt,
27/11 TĐ XXXII, CB 458:200-213; [2003:275] [Ngày
29/12/1879,
chuẩn bị đón tiếp
sứ Xiêm; tra cứu việc đón sứ đoàn năm Gia Long thứ
8, thứ 15 và Minh Mạng thứ
11]; AMAE (Paris), Mémoires et documents,
Asie, vol. 33, tờ 91; Nguyễn Thế Anh, 1992:49.
82.
Ngày
20/10/1940, Thủ tướng Phibun Songkhram tuyên bố Pháp
đă chiếm của Thái Lan 467,500
dặm
vuông
lănh
thổ; và gần 4 triệu
dân. Ngày 11/3/1941, dưới áp lực Nhật, chính
phủ Pétain nhượng cho Thái 23,000
cây số vuông đất tại Kampuchea và Lào,
cùng 64,000 dân; International Military
Tribunal for the Far East [IMTFE], III:6721.
Xem thêm Milton E. Osborne, The French
Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and
Response (1809-1905)
(Ithaca: Cornell Univ. Press, 1969), Part III, pp.
175-258. Sau năm
1945,
Kampuchea lấy lại đất cũ.
83. ĐNTLCB,
IV, 27:68; 29:85-87, 97-98,105,
108-9,119; 132, 136, 156-157, 165; 30:193; TTLTTƯ 2
(TP/HCM), CBTĐ, 2/3 TĐ X
(1857), CB 193:3-5
[2003:49]; 20/6 TĐ XI (1858), CB 226:247-248 [2003:57];
23/12
TĐ XII (1860), CB 250:236-240 [Tự
Đức mật dụ về vấn đề
biên giới Miên. [2003:88]; 10/2 TĐ XIII (1860), CB
253:255-259 [2003:96] [Miên
muốn gây hấn]; 11/5 TĐ XIII (1860), CB 257:17-18
[2003:104];
ASME (Paris), Lettre Commune [LC],
1862, “Cambodge”,
tr.24; CAOM (Aix), Indo AF, carton 11, A 30 (8);
Osborne, 1969:27-8,
30; Cao
Huy Thuần, 1990:129.
84. ĐNTLCB,
IV, 30:86, 293.
85.
TTLTTƯ 2
(TP/HCM), CBTĐ, 11/1 TĐ XXIII,
CB
343:53-56; ĐNTLCB, IV,
32:7-8.
86.
Về
hành
tŕnh của Nguyễn Huy Côn (Hỗn), xem TTLTQG
I
(Hà Nội), CBTĐ, CB 254, TL 40, tờ 94-101 (10/12 TĐ
XXVI
[27/1/1874]); & TL
89, tờ 187 (28/12 TĐ XXVI [14/2/1874]). [TTLTTƯ 2
(TP/HCM),
CBTĐ, nhị thập lục
niên, chính nguyệt-nhị nguyệt, 8/1, 11/1 & 20/1 TĐ
XXVI, CB 381:26-29,
39-41, 47-48 [2003:185-187], & Ibid., nhị
thập lục niên, thập nhất nguyệt-thập
nhị nguyệt, 8/12, 10/12 & 15/12 TĐ XXVI, CB
385:64-66, 92-96,
110-114.
[2003:198-199]; ĐNTLCB, IV, 33:59.
87. ĐNTLCB,
IV, 33:17-18. 34:271, 290-295;
35:94. Theo học giả Nguyễn Thu Hoài, có hơn 20 tư liệu
Châu bản triều Tự Đức về
các sứ đoàn Espania tới Huế; TTLTQG I (Hà Nội),
CBTĐ, CB 212, TL 59, 62, 63, 70, 67,
71, 73, 76, 78, 80 [1870]; CB TĐ 312, TL 82, 86
[1878]; CB 322, TL
102 [1879]
CB 328, TL 89, 94 [1880] [hát bội], CB 331, TL 67
[1880]; CB
331, TL 20, 45, 59
[1880] [khoản xin giảm số bạc bồi thường chiến phí
không
dám tự ư giải quyết, đợi
giao ước xong thảo 1 quốc thư cho vua Espania giải
quyết]; CB 324, TL
104, tr.
309-310 (28/10 TĐ XXXII) [1/12/1879] [Đỗ Đăng Đệ,
Hoàng Diệu tâu về việc bản thương
ước hoàn toàn không sửa chữa lại điều 9, c̣n
sau này 2 nước Pháp, Tây Ban Nha
có bàn định sửa đổi việc ǵ quan hệ đến các
giám mục, linh mục mà Hoàng đế Đại
Nam có chuẩn y mới được thi hành. Khâm sứ
Pháp chuẩn y]. Xem thêm, TTLTTƯ
2 (TP/HCM), CBTĐ, tam thập nhị niên, cửu nguyệt-thập
nguyệt,
8/10 TĐ XXXII
[9/12/1879], CB 454:191-193, CB 452[?]:284-285)
[Tự
Đức
tiếp
kiến sứ đoàn]; 26/10 TĐ XXXII, 9-10, CB
454:300-303 [2003:273] [Sứ Espania
cho biết sơ thảo ḥa ước có chỗ khác biệt
v́ ư kiến của Pháp]; 26/10 TĐ XXXII,
9-10, CB 454:304-305 [2003:273-274] [Sứ Espania cho
biết thương ước
thôi; giáo
sĩ do Pháp cai quản]; 28/10 TĐ XXXII, 9-10, CB
454:309-314
[2003:274]; CAOM
(Aix), GGI, d.11781; Sogny, “Rheinart;” BAVH, XXX,
nos. 1-2
(1-6/1943),
tr. 66, 73, 81-82.
88. ĐNTLCB, IV, 31:34-37; Nguyễn
Thế Anh 1970:55-56.
89. ĐNTLCB,
IV, 34:337; TTLTTƯ 2
(TP/HCM), CBTĐ, 21/7 TĐ XX, CB
295:274-277
[2003:137];
CAOM (Aix), Indo AF, 16/A 30(55); Nguyễn Thế Anh,
1992:48; Nguyễn
Xuân
Thọ, Bước mở đầu của sự thiết lập hệ
thống thuộc địa Pháp ở Việt Nam (1858-1897)
(Paris: 1995),
tr. 203-205.
90.
Thọ,
1995:266.
91.
AMAE
(Paris), Mémoires et Documents, Asie,
vol 38, pp. 373-376; Thọ, 1995:195-207, 207-208,
208-210.
92.
TTLTQG II
(TP/HCM), CBTĐ, 26/7 TĐ XXIII, 7-9, CB 352:16-28
[2003:173]
[Lạc Sĩ Điền] &
26/7 TĐ XXIII, 7-9, CB 346:44-49 [2003:173] [Phạm Phú
Thứ
cải chính thư nặc
danh tố cáo mưu toan với Nga thương]; 8/12 TĐ XXIII,
CB
366:18-20 [Xuy Di].
& 25/12 TĐ XXIII, CB 367:145-152; 25/12 TĐ XXIII,
CB
367:145-152; 4/2 TĐ
XXIII, CB 367:220-224; 4/11 TĐ XXXI, 7-12, CB
440:61-62.[ 2003:258]
[Tạ Huệ Kế
từ Hong Kong về, thuật lại tin đồn Lan Sĩ Điện].
93. ĐNTLCB,
IV, 31:105; TTLTQG II (TP/HCM),
CBTĐ, 22/11 TĐ XXII, CB 333:127-129, 2003:157 [mua
súng
Nhật]; 22/12 TĐ XXI, CB
313:263-272; 2003:146 [Đặng Huy Trứ xin sao tờ tấu của
Tăng Quốc
Phiên]; 9/1 TĐ
XXI, CB 299:16-20; 2003:138-139 [Đặng Huy Trứ tŕnh
bày việc canh tân ở TH, Cao
Ly, Nhật]
94.
Miller,
1990:142-45, 151-53.
95. ĐNTLCB,
IV, 35:89-91, 141-43; AMAE
(Paris),
Mémoires et Documents, Asie, vol. 39,
tr.
363-64; & Documents
Diplomatiques, [DD] I:323-324;
Vũ
Ngự Chiêu, Các vua cuối, I:273-74,
283-84, 290-92, 293. Một biên khảo cổ điển về chính
sách Đông Dương của nhà
Thanh là Lloyd Eastman, Throne and
Mandarins: China’s Search for a Policy During the
Sino-French
Controversy,
1880-1885 (Cambridge: Harvard UnivPress, 1967).
96. ĐNTLCB,
IV, 35:167.
97. ĐNTLCB,
IV, 32:304, 34:350, 351, 362,
364, 369, 370, 380-381.
98. Theo Rheinart,
ngày 3/6/1884,
hai chú của Tự Đức và một số quan chức đến xin cho
phép dịch chữ “protectorat” thành “bảo trợ” thay v́ “bảo hộ”
trong văn bản chữ Hán. và để trao đổi, Huế đồng ư
nạp ấn tín phong vương của
nhà Thanh cho Rheinart bỏ vào ḷ rèn nấu
chảy đi; Sogny, 1943:168-69; ĐNTLCB,
36:114-19.
Hoà ước Thiên Tân
(9/6/1885), kư giữa Lư Hồng Chương và
Patenôtre, công nhận quyền Bảo hộ của
Pháp tại Đại Nam; AMAE
(Paris), DD IV, tr. 282-86. Quốc Hội
Pháp phê chuẩn ngày 6/7/1885. Quân Thanh, kể
cả Lưu Vĩnh Phúc, lần lượt rút
khỏi Bắc Kỳ, bỏ rơi vua quan Nguyễn và các lực lượng
kháng Pháp. Xem thêm Thọ,
1995:379-83.
99. ĐNTLCB,
IV, 32:301, 305-6, 33:83-5; TTLTQG
II (TP/HCM), CBTĐ, 13/2 TĐ XXIII, CB 343:114-21 [Cơ
Mật
tŕnh việc Nguyễn Tăng
Doăn qua Hong Kong điều tra tông tích Lê Duy
Định]; Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối,
I:216-34; Cao Huy Thuần
1990; Nguyễn Thế Anh 1992.
100. ĐNTLCB,
IV, 31:37-40. Xem thêm
báo
cáo của Puginier trong ASME (Paris), Tonkin 704:51,
65-8, 103,
137ff.
101. Rheinart,
“Note
sur
Nguyen
Van Tuong [1885];” SHAT (Vincennes), Indochine, 10H
xxx,
d.8; ĐNTLCB, IV, 33:202, 35:89-91;
Sogny,
“Rheinart;” BAVH, XXX, nos. 1-2
(1-6/1943),
tr. 94-5, 99, 100, 103-4, 124-25. V́ thế, sau này,
Rheinart tuyên bố Bửu Lân,
là “con nuôi nước Pháp,” và lập con Dục
Đức làm vua năm 1889, tức Thành Thái
(1889-1907).
102. ĐNTLCB, IV,
30: 175-76, 227.
103. ĐNCBLT,
q. 36, 1993, IV:282-83. Nên ghi
thêm là nha tuần hải khác với thương chính.
Ty thương chính có nhiệm vụ thu
thuế hải quan các thuyền buôn ngoại quốc. Nha tuần hải
phụ
trách tuần tiễu các
trục thủy lộ và duyên hải, và chuyên chở
hàng hóa. Sau này, nha tuần tải đổi
thành thuyền chính. Tháng 4 Nhâm Ngọ
[5-6/1882], Tự Đức thưởng phẩm hàm cho bọn
Trần Bạch Lân, quyền quản nha tuần tải cũ, v́ từng bắt
được thuyền giặc, khiến
từ 1880 việc vận tải an toàn; ĐNTLCB,
IV, 35:124.
104. ĐNTLCB,
IV, 34:221-23; ĐNCBLT,
q. 34,
1993,
IV:225-32. Gịng giơi là Phạm Phú Quốc,
từng đánh bom Dinh Độc Lập ngày
27/2/1962. Sau tử trận trong một cuộc oanh tạc phía
Bắc vĩ tuyến
17.
105.
TTLTQG I
(Hà Nội), CBTĐ, 21/4 TĐ XXXII [10/6 1879], CB 337,
TL
87, tr. 306-307 [Phạm Phú
Thứ]; TTLTTƯ 2 (TP/HCM), CBTĐ, 24/5 TĐ XXXII, 5-7,
CB
456:131-143; & 12/10
TĐ XXXII, 5-6, CB 447:227-231; [2003:264, 272].
106. CAOM
(Aix), Indochine AF, carton 14, A 30(31); GGI, d.
11939; ĐNTLCB, IV, 34:262, 35:13,
88; Nguyen
The Anh, 1992:39-40; AMAE (Paris), DD,
I, tr. 55-57; Vũ Ngự Chiêu, Các vua
cuối,
I:248.
107.
Xem Nguyên
Vũ, “Góp phần nghiên cứu Petrus Key;” Ngàn
Năm
Soi
Mặt
(Houston: Văn Hóa, 2002); Chính Đạo, Hồ Chí Minh: Con người & Huyền thoại,
(Houston: Văn Hóa, 1997),
tập I; Vũ Ngự Chiêu, Các Vua Cuối,
tập II & III (ấn bản 2000).
108.
CAOM
(Aix),
GOUGAL, 7F 61 & F03 (177); Vũ Ngự Chiêu, “Từ
trung quân
sang ái quốc: Sự
h́nh thành của phong trào quốc gia mới;” Hợp
Lưu (Fountain Valley, CA), số 89, 90. Người
vợ chính thức đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc, Tăng
Tuyết Minh, là một giáo dân
Ki-tô; cha từng lập nghiệp ở Hawaii, rồi trở về
Quảng
Đông sinh sống.
109.
Pierre Brocheux
ghi nhận
Nguyễn Ái Quốc không để lại dấu vết rơ ràng
nào trên đất Mỹ; Idem., Hô Chi Minh: Du
révolutionnaire à l’icône (Paris:
Payot, 2003), tr. 32. Với một số học giả Mỹ, chẳng
cần t́m hiểu
thêm về Hồ Chí
Minh v́ chiến tranh Việt Nam đă trở thành
quá khứ. Bởi thế, trong một số sách
giáo khoa, sinh viên Mỹ vẫn được học là Hồ rời Việt
Nam vào năm 1912, theo học lycée Vinh,
và
đại loại.
110.
L'Humanité (Paris), 18/7/1919;
trích in trong Chính
Đạo, Hồ Chí Minh, tập I (1997), tr.
191.
111.
Thư trả lời của
Phái đoàn Mỹ
ngày 20/6/1920; CAOM (Aix), SLOTFOM, Séries III, c.
3.
112.
CAOM (Aix),
SLOTFOM, Series
II, c. 6. Chính Đạo, Hồ Chí Minh,
I,
tr. 190, 268. William Duiker cũng in lại truyền đơn
này trong bộ
tiẻu sử xuất
sắc về Hồ Chí Minh năm 2000.
113.
CAOM (Aix),
SLOTFOM, Séries
I, carton 2.
114.
Có lẽ
Nguyễn Ái Quốc nhắc đến
cuộc nổi dạy của Đội Trịnh Văn Cấn ở Thái Nguyên năm
1917.
115.
T́nh
báo Pháp ghi chú nhân
vật Phan này là Phan Châu Trinh; điều ấy
không đúng. Luật sư Phan Văn Trường
mới có khả năng đối thoại lưu loát bằng Pháp ngữ;
và sống tại Pháp “trên 10 năm.”
V́ đang sống ở Mayence (Germany), Luật sư Trường cho
Nguyễn
Ái Quốc tạm trú tại
nhà ḿnh ở Paris. Mật thám Pháp từng gửi
Quản Lâm–một thượng sĩ thông ngôn gốc
Nam Định–qua Meyance theo dơi Phan Văn Trường v́
theo
lời tiết lộ của Quốc,
Luật sư Trường “đang lo việc chính trị cá nhân tại
đây.” CAOM (Aix), SLOTFOM,
Séries III, d. 1.
116.
Theo “Quản
Lâm,” Kim hứa
giúp thông dịch qua chữ Hán bản thỉnh nguyện của
nhóm Nguyễn Ái Quốc để sẽ phổ
biến trên báo chí tại Trung Hoa, và cung cấp
cho Quốc ít số nguyệt san Korea Review
bằng Mỹ
ngữ. Quốc cũng liên
hệ với một y sĩ người Hoa làm việc cho Bộ Tư pháp ở
Bắc
Kinh; CAOM (Aix),
SLOTFOM, Séries III, d. 1; SPCE 364.
117.
Vũ Ngự
Chiêu, “Political and Social Change in Vietnam
Between 1940 and
1946,” Ph.D.
Dissertation, Univ. of Wisconsin-Madison, Dec 1984,
Parts II & III;
Idem.,
“The End of An Era: The Empire of Vietnam
(March-August 1945);” Journal of Asian
Studies, Vol. XLV, No.
2 (Feb 1986), pp. 293-328; David G. Marr, Vietnam
1945: The Quest for Power (Berkeley, CA:
California Univ. Press,
1995), pp.
279-289. Xem thêm US Senate, Hearings
(1972), (1973:243-71, Deer Team); hồi kư Charles
Fenn,
(1973:73-75), Archimedes
Patti (1980:56); Hoàng Văn Hoan (1987:243-46); Phùng
Thế
Tài (2002:57-94).
118.
Chính Đạo,
“Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946;” Hợp Lưu
(Fountain Valley, CA), số 88 (4-5/2006), tr. 95-148.
©
2007, 2010, Chieu Ngu Vu & Van Hoa
Publishing Co. Unauthorized reproduction by
all means are prohibited.
Trang
mạng
Việt
Nam Văn Hiến
Trang
Ngướ
Việt Đầu Tiên Đến Mỹ?
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email:
thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa
của
Việt tộc, thắp sáng niềm tin
Diên Hồng và nếp sống
văn hiến hầu phục hồi nền An Lạc
& Tự Chủ.
|