Việt Nam Văn Hiến

Năm Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net




Nếp Sống Văn Hiến




    Nền văn minh Văn Hiến đã có từ ngàn đời trên traí đất. Ngươì Việt Nam cũng như những dân tộc khác đã sống một cách hài hoà, nơi mà những giá trị nhân bản được tôn vinh và nhân quyền được tôn trọng . Ngươì Việt Nam hiện nay đang sống trên quê hương nhưng nếp sống Văn Hiến đã và đang bị  nhà càm quyền Cộng Sản đương thời huỷ diệt bởi chủ thuyết ngoaị lai phi nhân bản và phi dân tộc nên cuộc sống càng ngày càng bị tha hoá !. Muốn  phục hoạt  nếp sống văn hiến cần phục nhân trước, sau đến phục văn, phục hiến và phục chính.


Phục Nhân

Phục nhân là khôi phục con người tự-chủ làm chủ vận hành trong những tương quan đối đãi vô cùng của cuộc sinh tồn. Con người tự-chủ là gốc rễ của xã hội nhân-chủ (hay nhân-bản).

- Ý nghĩa của sự khôi phục con người tự chủ là gì?

Con người không sinh ra để làm nô lệ. Tự-chủ là một tâm-thức tự nhiên có.

Tâm-thức tự-chủ và sự hiểu biết về nền nhân-chủ của Việt tộc Đã được nhận thấy từ thời dựng người dựng nước . Tâm thức ấy chuyển hóa thể tính Rồng (cha) và thể tính Tiên (mẹ) để thành tựu thể "Hòa", thành tựu con người an vui, không thiên lệch (Lạc Việt ).

Người tự-chủ làm chủ được những thể tính đối kháng luân chuyển trong tự thể mình nên không bị bánh xe tiến hóa của vạn vật chuyển, mà tự mình chuyển bánh xe tiến hóa.

- Trong đời sống thực tế, khôi phục con người tự chủ là gì? và có ích lợi gì?

Loài người dưới ảnh hưởng của triết học chính-tri Tây-phương đãi chìm đắm quá sâu và qúa lâu trong hai ý niệm quyền và lợi, cho nên người ta đã dồn hết nỗ lực vào cuộc chiến đấu cho sự "độc lập" tức là đứng riêng mình để khư khư bảo vệ quyền lợi của mình. Nhưng có độc lập rồi, con người lại bị xâu xé bởi chính những đối kháng nội tại khiến lại thấy bất ổn.

Nếu người không thể vận hành để chuyển hóa được những đối kháng nội tại ấy, thì tự thể mình chính là một bãi chiến trường khốc liệt nhất.

Chỉ có con người tự-chủ mới bảo toàn được hạnh phúc, an lạc trong cuộc sống, vì con người tự-chủ không nô lệ người và làm chủ được chính mình, hoàn toàn tự do tự tại. Khôi phục con người tự-chủ là phục hồi được hạnh phúc cá nhân và an lạc xã hội.


Phục văn

Phục văn là phục hồi nền văn hóa nhân bản của dân tộc Việt. Phục văn là căn bản của đại cuộc phục quốc. Không có phục văn thì công cuộc phục quốc không còn ý nghĩa gì ngoài sự chém giết để tranh giành của cải (lảnh thổ), quyền lợi (kinh tể) và quyền sống (chính trị).

Thế nào là văn hóa nhân bản? Thế nào là văn hóa vong bản?

Văn nguyên nghĩa là vết, vết tích sinh động của loài người, nhờ sự tỏa sáng của nhân tính, của tình ngườỉ mà có vẻ đẹp rực rớ. Những vết tích sinh động ấy khi được nhiều người hưởng ứng lưu truyền thì trở thành văn-hóa.

Văn-hóa trở thành một thực thể tất yếu của cuộc sống. Từ thực thể văn-hóa đó, trên bình diện nhân loại, nếu ta tìm thấy nhân tính (tức là những gì biểu hiện con người như Tình-người, Nghĩa-làm-người ...) thì đó là văn-hóa nhân bản; còn nếu ta chỉ thấy những thú tính (căm thù, cắn xé, giết chóc ...) hoặc thấy những gì không phải con người (vô luân) thì đó là văn-hóa vong bản.

 Thế nào là nền văn hóa nhân bản của dân tộc Việt?

Dân tộc Việt đã dựng nước trên một nền tảng văn-hóa nhân bản được thể nghiệm qua những tầng sinh hoạt, từ huyền thoại, triết học, tôn giáo, phong tục cho đến những tình-tự dân-tộc trong cuộc sống …

a) Khởi từ sinh-thức Tiên-Rồng-Việt, tổ tiên chúng ta đã đặt "Thiên-Địa Nhân" ba yếu tố không thể thiếu của vũ trụ quan Đông phương, trong một tương quan kỳ diệu. Từ đó mở ra tất cả các cửa ngõ đi vào những tương quan của hiện tượng giới.

b) "Bọc Mẹ Trăm Con" là một biểu tượng triết học trọn vẹn của tình nhân loại, nghĩa đồng bào, của sự bình đẳng tuyệt đối (anh em đồng bọc) và lòng bác ái tuyệt vời (tình thương chan chứa của mẹ Âu-Cơ) không có huynh đệ tương tàn, không có đấu tranh giai cấp.

c) Phong-tục và nếp sống Việt mang đầy sắc thái nhân tính:

- Đạo thờ Người (Quốc-tổ, tổ-tiên, thánh-hiền, anh-hùng nghĩa-sĩ, những người có công với văn hóa dân-tộc...).
- Nếp sống thuận hòa an lạc (không chủ trương tranh chấp để tiến hóa)
- Văn-chương giản dị (khác với văn học từ chương, khiến ai cũng biểu lộ được văn tính)
- Đạo học chỉ thẳng vào nhân tâm (khác với tinh thần văn hóa kinh viện hay giáo điều chủ-thuyết) khiến ai cũng có thể tâm cảm và đạt được đạo sống một cách tự nhiên.

  Văn hóa Đông phương có thể đại biểu cho nền nhân bản được không?

Văn hóa Đông Bắc (Trung Hoa) từ suy nghiệm thức "lưỡng-nghi" (Trời/đất, âm/dương), phát triển nền văn minh Khổng học. Thuyết Trung dung chủ trương lấy sự dung dị, đạo bình thường, không thiên lệch làm phương châm xử thế, dung hợp cả hai thể tính đối cực (dung).

Văn hóa Đông Nam (Việt) đi sâu hơn, từ thức "lưỡng hợp" (Tiên-Rồng) mở nền văn minh mới, biểu thi sự hợp nhất (hòa đối ), hội nhập cả hai đối cực, biến hai thể tính đối kháng thành ngẫu lực tiến hóa, nương nhau mà còn, đẩy nhau mà tiến.

Sự khiếm khuyết của Đông-phương là quá chú trọng đến đạo học, chưa phát triển đúng mức về khoa học, kỹ thuật và xã-hội-học nên cần phải học hỏi để bổ cứu.

(Nhật-Bản nhờ sự bổ cứu kịp thời, đã phát triển kỹ thuật vượt bực để trở thành một quốc gia kỹ nghệ, một siêu cường kinh tế; tuy nhiên họ vẫn giữ cái gốc là "Tinh thần Nhật-Bản" với công thức: Tinh-thần Nhật-Bản + Kỹ-thuật Tây-phương).

Sự học hỏi để theo kịp những tiến bộ của người là điều cần thiết . Tuy nhiên nếu học hỏi theo tinh thần chữ Duy thì ta sẽ mất tự chủ hoặc sẽ trở thành nô lệ, còn nếu học theo tinh thần chữ Hòa thì văn hóa Đông-Nam sẽ có cơ hội rực sáng, có thể thành tựu một nền văn-minh nhân bản mai sau.




Phục hiến

Là khôi phục ý thức văn hiến, khôi phục lịch sử văn hiến, khôi phục dân tộc văn hiến để khôi phục nước Việt-Nam Văn-hiến.

 Văn hiến

 - Trên nền tảng cá nhân, văn hiến có nghĩa là thể hiện được cái lẽ sáng từ trong tâm thức con người; nói rộng hơn, nó là sự biểu lộ trọn vẹn được "văn tính" trong xã hội loài người, do đó người có nhân vị, nhân văn và những xã-hội loài người được biểu thị bằng những vẻ đẹp rực rỡ khác nhau của văn-hóa.

- Trong cuộc tiến hóa của loài người, văn-hiến có nghĩa là một nền văn minh trọn vẹn, bao gồm những tiến bộ về kỹ thuật, văn hóa (thể hiện của văn minh ngoài con người) và sự biểu lộ nhân tính khoan hòa (thể hiện của văn minh trong con người).

- Trên nền tảng quốc gia, văn hiến là chế độ văn-trị, sáng ngời văn tính, biểu lộ tính nhân bản; tương phản với các chế độ võ-trị lấy sức mạnh để cai trị và chinh phục, hoặc các chế độ pháp-trị, lấy lưỡi gươm công lý và những phán quyết lạnh lùng của luật pháp để trị an ...

Danh xưng Việt Nam Văn Hiến do đầu mà có? và có tự bao giờ?

Danh xưng "Nước Việt-Nam Văn-Hiến" không phải do thế hệ của chúng ta sáng tạo, mà có tự ngàn xưa, nó đã từng chói sáng trong đại cuộc phục quốc của thế kỷ 15 do người nông dân Lê-Lợi và chiến- lược-gia Nguyễn-Trãi lãnh đạo.

Năm 1428 sau khi đuổi được đoàn quân viễn chinh khát máu và lật đổ guồng máy cai trị tàn bạo của giặc Minh, ông Nguyễn-Trãi đã viết thiên "Bình Ngô Đại Cáo", được coi là một chương thiên cổ hùng văn, là bản Tuyên-cáo Tự-chủ thứ hai của dân tộc sau Lý Thường-Kiệt.

Bản đại cáo ấy một lần nữa xác định chủ quyền nước Việt-Nam Văn-Hiến:

Như nước Việt ta từ trước
Vốn xưng Văn-hiến đã lâu
Sơn hà cương vực đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác

Như vậy trước thời Đức Lê-Lợi khởi nghĩa đã lâu, nước Việt ta đã tuyên xưng là nước Việt Văn-Hiến.

Văn Hiến có phải là văn hóa không?

Văn-hiến không đồng nghĩa với văn-hóa nhưng là một đặc trưng của văn-hóa VIỆT. Có thể nói Văn-Hiến là một thứ Hiến chương lập quốc của dân tộc Việt-Nam, dân-tộc "vốn xưng văn-hiến đã lâu".

 Văn Hiến có đồng nghĩa với văn minh không?

Văn-hiến không hoàn toàn đồng nghĩa với văn-minh theo quan niệm hiện nay, nhưng văn-hiến biểu thị một nền văn minh trọn vẹn, bao gồm những tiến bộ về kỹ thuật (ngoài con người) và cái lẽ-sáng tự nhiên (trong tâm thức con người). Văn-hiến mang nhân-tính vào việc phát sáng sự hiểu biết và quyền năng của loài người.

(Hiểu biết và xử dụng được năng lực nguyên-tử là thành tích tiến bộ của nền văn-minh hiện đại, nhưng khai thác năng lượng nguyên-tử để phát triển võ khí giết người thì không thể nói là văn minh nữa).

Loài người cần có văn-hiến để thành tựu nhân-bản. Từ đó làm tỏa sáng nền văn-hóa nhân loại. Đó là văn minh đích thực của nhân loại mai sau.

- Phải chăng "nền văn hiến" của dân tộc ta chỉ là một dấu tích vàng son của thời dĩ vãng?

Nếu "văn hiến" chỉ là dấu tích vàng son của thời đã qua thì dân tộc ta phải gọi là dân tộc "mất văn hiến" mới đúng. Nhưng ta không mất văn-hiến vì ta vẫn còn niềm hãnh diện được kế thừa bốn ngàn năm văn-hiến của tổ tiên.

Phục hiến trong tầm mức dân-tộc và quốc gia đích thực có ý nghĩa gì?

Là phục hồi nền chính-trị minh triết (tức là nền văn-trị hòa đối ) để bảo đảm sự phát triển nền văn-minh nhân bản của dân tộc:

- Lấy Đạo sống Tiên-Rồng để hòa nhập, chuyển hóa những mâu thuẫn nội tại thành ngẫu lực tiến hóa… Thí dụ dân quyền và chính quyền, khoa học và kỹ thuật, an lạc và quyền lợi, gia đình và xã hội, luật và lệ, tâm và thể.

- Lấy biểu tượng "Bọc Mẹ Trăm Con" làm mô thức chỉ đạo xây dựng bác ái, bình đẳng và công bằng xã hội.

- Lấy di huấn của Hùng-vương và kinh nghiệm dựng người, dựng nước của tiền nhân làm di chúc lưu truyền xử thế.

- Lấy tinh thần trọng đức - tôn hiền để bảo vệ những công đức của loài người cho mọi người cùng hưởng.

Thí dụ: tôn trọng những nhà khoa học, những người đã mang hết tâm lực trí lực vào việc sáng tạo để phục vụ dân sinh là tôn hiền. Những phát minh của khoa học gia mở rộng tầm hiểu biết của loài người là những công đức. Sự xử dụng những khám phá khoa học ấy cho ích lợi của tất cả mọi người mà không bán độc quyền cho kẻ đầu cơ hay phục vụ cho guồng máy chiến tranh là chia đều công đức của loài người cho mọi người cùng hưởng, đó là trọng đức.

- Lấy sức mạnh thuyết phục của nghĩa nhân (văn tính) thay cho sức mạnh áp bức của cường bạo (vật tính) trong việc trị an.

- Lấy an-vi làm nền tảng xây dựng nếp sống nhân bản.
- Lấy Dân Tâm làm kim chỉ nam trong công tác điều hành đất nước.





Phục chính

Phục chính là gì?

Trên nền tảng dân sinh, là phục hồi nền kinh tế an-vi, tạo điều kiện thuận tiện để phát triển đời sống an lạc cho tất cả mọi người;

Trên quan điểm chính trị, là phục bồi nền "văn-trị hòa đối" của dân tộc ta trong mọi cơ cấu xã hội. Từ "hòa đối" đi đến "lưỡng hợp" tức là tạo được sự hợp tác xã-hội với sự bao dung tương đối.

- Thế nào là nền văn trị hòa đối của dân tộc Việt?

Là nền chính-trị thể hiện được Tình-người và Nghĩa-làm-người trong mọi sinh hoạt quốc-gia, tạo được sự hợp tác xã hội, biến các quan điểm chính trị dị biệt thành "ngẫu lực tiến hóa".

Sự hợp tác xã-hội cần phải có sự bao dung, cho nên một nền chính-trị hòa-đốì cần phải lấy đạo-sống Việt làm gốc, lấy chủ trương trọng đức tôn hiền làm phương hướng phát triển học thuật, lấy mô thức "Bọc Mẹ Trăm Con" làm phương thức xây dựng xã hội . Lấy nước thịnh dân an làm cứu cánh.

- Thế nào là nền chính trị lấy đạo sống Việt làm gốc?

Đạo sống Việt áp dụng vô cùng sinh động trong việc an dân lạc quốc. Đạo sống Việt thể hiện được đạo hòa trong các tương quan chằng chịt của cuộc sống.Thể hiện được chữ hòa là đạt được thức "Tiên Rồng lưỡng hợp" ( Hòa-đối lưỡng-hợp ).

Nền chính-trị lấy Đạo sống Việt làm gốc sẽ chuyển hóa được hai đối cực dân và nước thành "ngẫu lực tiến hóa"; lấy việc thể hiện Tình người và Nghĩa làm người thay thế cuộc tranh thủ Quyền và Lợi; biến sự phân chia quyền lợi thành nguyên tắc phân nhiệm, bình quyền thành bình nhiệm (dân-quyền và chính -quyền thành dân-nhiệm và chính-nhiệm). Từ đó, dân lấy "nước lạc" làm phương châm, chính (nhà nước) lấy "dân an" làm cứu cánh. Hai đốì thể nương nhau mà thành, đẩy nhau mà tiến.

Tất cả mọi sinh-hoạt quốc-gia đều như thế mà ngẫu hợp, hòa hài .

- Thế nào là lấy chủ trương "trọng đức - tôn hiền" làm phương hướng phát triển học thuật?

Người hiền lấy của cải tinh thần và những phát minh sáng kiến của mình làm công đức xã hội. Xã hội lấy sự tôn trọng công đức ấy làm biểu lộ tôn trọng người hiền. Không ai chiếm hữu của cải tinh thần của dân tộc làm sở hữu riêng để cho mọi công đức đều được chan hòa khắp mọi người và khắp mọi nơi. Đó là phương hướng phát triển tinh hoa học thuật của dân tộc.

Thí dụ: Vua Lý Thánh Tông cho xây văn-miếu ở Thăng Long, cụ Tiên Điền Nguyễn Du để lại Truyện Kiều, người nghệ sĩ vô danh đúc tượng Quan-Thánh bằng đồng đen ở Hà-Nội … Những kiến tạo và những công trình sáng tạo ấy đã trở thành tài sản văn-hóa chung của cả dân tộc. Những công đức của người sáng tạo phải được tôn trọng. Bảo tồn văn-miếu cũng như bảo trọng Truyện Kiều hay tưởng niệm người nghệ-sĩ không tên tuổi ở đền thờ Quan-Thánh kia là tôn trọng những người có công đức với dân-tộc. Xưa nay không ai hủy hoại cổ tích, phá hủy những tác phẩm nghệ thuật hay cất giữ những truyện ký của tiền nhân để lại làm của riêng, ấy là tôn hiền, trọng đức.

Khoa học gia dốc hết tâm trí để khám phá và cung ứng những hiểu biết mới cho loài người là công đức. Tôn trọng sự phát minh của nhà khoa học, không chiếm đoạt làm sở hữu riêng là "tôn hiền". Không xử dụng những phát minh ấy để làm lợi riêng, mà xử dụng làm lợi ích chung cho mọi người là "trọng đức".

Tôn hiền, trọng đức là căn bản giáo dục để phát triển tinh hoa dân tộc và nhân loại.

 - Thế nào là lấy mô thức "Bọc Mẹ Trăm Con" làm phương thức xây dựng xã hội?

Phật lấy "Từ bi hỉ xả" để cứu độ chúng sanh; Chúa lấy "Công bằng bác ái" để dẫn dắt loài người; Khổng lấy "Tam cương ngũ thường" thực thi trật tự xã hội; Mặc lấy "Bốn biển một nhà" phát triển lòng hào hiệp, nghĩa tương trợ trong nhân quần ...

Ngày nay, Cộng-sản cũng lấy bốn chữ "Đấu tranh giai cấp" để xây dựng xã hội cộng sản huynh đệ tương tàn …

Chúng ta lấy "Bọc mẹ trăm con" để hàn gắn lại Tình-người, làm sống lại cây nhân sinh của dân tộc Việt trên những hoang tàn đổ nát đằng sau những vết chân của loài thú hoang.

Xây dựng lại "Bọc mẹ trăm con" là xây dựng lại một xã hội công bằng, bình đẳng, từ ái, hòa hợp. Đó là xã hội đích thực của loài người.

 - Thế nào là nước thịnh dân an?

Nước không có kẻ nô lệ hèn yếu, không có chính sách giáo dục ngu dân, không có văn hóa vong bản là nước thịnh.

Dân có sinh phong nhân chủ, có cuộc sống ấm no, có tài sản tinh thần phong phú là dân an.

Để được nước thịnh dân an, ngoài việc phát triển kinh-tế, còn phải bảo tồn một nền văn-hóa tự chủ và một nền giáo dục quật khởi.

  - Thế nào là nước không có kẻ nô lệ hèn yếu?

Người lãnh đạo không làm nô lệ cho ngoại bang; người lo việc kinh tế chính trị không làm nô lệ cho tham vọng; người làm việc quân sự không ỷ lại, phụ thuộc vào sức mạnh của vũ khí; người làm dân không khuất phục cường quyền hoặc làm công cụ cho guồng máy kinh tế vong bản biến con người thành con vật sản xuất và tiêu thụ. Đó là nước không có kẻ nô lệ hèn yếu.

  - Thế nào là "sinh phong nhân-chủ"?

Ở trên mảnh đất sống của loài người, con người là chủ. Có người thì tương quan Thiên-Địa-Nhân mới lập; không Người thì Trời Đất cũng không. Người với Trời Đất không thể phân lìa …

Trời thể hiện trí tuệ trong con người; Đất thể hiện kinh tế trong con người; Người biểu lộ sinh phong bằng văn tính và văn chất (văn hóa).

Con người tự tại biểu lộ sự sống tự chủ, không thiên lệch về Thiên ( thuần minh triết, vô vi ) cũng không thiên lệch về Địa ( thuần kinh tế, hữu vi ), mà sống đạo an vi: làm trong an lạc, hưởng trong thanh nhàn; không sống cuộc sống eo hẹp, cũng không làm đầy tớ cho lợi nhuận. Đó là sinh-phong nhân-chủ.

Làm thế nào để đạt được "sinh phong nhân chủ" trong cuộc sống?

Bằng cách khôi phục nếp sống an-vi và thành tựu nền kinh-tế an-vi, người ta có thể biểu lộ được sinh-phong nhân-chủ trong cuộc sống xã hội.

 - Nền kinh tế an vi là gì?

Là nền kinh tế phục vụ cho sự an lạc của mọi người: làm trong an lạc hưởng trong thanh nhàn. An lạc là niềm vui trong tâm hồn. Người Việt ví niềm vui no ấm thanh bình ấy như "gạo trắng trăng thanh". Gạo trắng trăng thanh chính là hình ảnh triết lý an-vi Việt. Triết lý ấy lưu truyền như một sinh thức tự nhiên, bàng bạc trong ca-dao tục-ngữ, phong-tục, tập-quán, thành hình một nếp sống an vi thuần hậu.

Có một nếp sống an-vi tức là đã có một nền kinh-tế an-vi, vì kinh tế là huyết mạch của cuộc sống.

 - Nền kinh tế an vi có từ bao giờ?

Ý thức về một nền kinh-tế an-vi đã được dẫn khởi tự đời Hùng. Sau khi dẹp được giặc Ân, thiên hạ thái bình, vua Hùng-Vương mới truyền mở hội thi cho các quan-lang (hoàng tử) để truyền ngôi cho người hiền đức. Đề tài là món ăn, tức là vật nuôi thân, cũng có nghĩa là kinh-tế. Vua truyền các quan-lang hãy đi khắp nơi tìm món ngon vật lạ. Đến đúng ngày mở hội, ai dâng món ăn ngon nhất và có ý nghĩa nhất sẽ được truyền ngôi.

Ngày ấy,các quan-lang trở về dâng lên vua cha thôi thì đủ các món cao lương, sơn hào, hải vị. Riêng quan-lang Út Tiết-Liêu gói hai thứ bánh gọi là bánh dầy và bánh chưng. Bánh dầy tròn tượng trưng Trời, bánh chưng vuông tượng trưng Đất. Vua nếm thấy món ngon vị lạ, lại đầy đủ ý nghĩa của đạo sống Tiên Rồng bao hàm đạo hiếu kính cha mẹ, đức sinh dưỡng của Trời Đất nguồn gốc của sự sống ... nên Tiết-Liêu được truyền ngôi.

Bánh dầy, bánh chưng làm bằng gạo nếp, tức là cốc loại, vật thực chính của loài người. Bánh dầy tròn và nhuyễn, không có ngóc cạnh riêng, có nghĩa là "đại đồng", tượng Trời (thiên viên). Bánh chưng vuông, nếp còn nguyên hạt, có góc cạnh khác nhau và hạt gạo phân biệt; tức là "tiểu dị", tượng Đất (địa phương).

Có trời có đất trong vật thực nuôi sống ta, cho nên một triết lý kinh tế của loài người không thể không nói tới Trời và Đất. Nó phải bao hàm cả tinh thần lẫn vật thể, cả vô vi lẫn hữu vi, để chọn cho loài người một chỗ đứng thảnh thơi an nhàn trong vũ trụ (Trời che đất chở Ta thong thả). Đó là nền triết lý kinh-tế an-vi Việt.

Nền kinh-tế an-vi "nhất sĩ nhì nông" lưu truyền tự nhiên qua các thời đại tự chủ, cho đến khi bị nền kinh tế vật bản Tây phương lấn át.

* Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông. Nhất nông nhì sĩ ...

Kẻ sĩ và nhà nông nương nhau mà sống, không ai lấn át ai. Cho nên kẻ sĩ Nguyễn-Trãi và nông dân Lê-Lợi mới lãnh đạo được công cuộc cứu nước.

 – Tư tưởng về một kinh tế an vi ngày nay có còn hợp thời không?

Người tự chủ có toàn quyền lựa chọn một nếp sống thích hợp với nhu cầu tiến hóa của mình, từ khuynh hướng kinh tế cưỡng hành ( làm việc do bị người cưỡng bách, bóc lột ) đến khuynh hướng kinh tế lợi hành ( làm việc do sự thúc đẩy của lòng tham lợi ), cho đến kinh tế an vi ( làm việc cho sự an lạc của chính mình và mọi người ).

Khi nào loài người còn cần sự an lạc, tức là sự yên ổn trong cuộc dân sinh (an cư) và sự vui thú trong nghề nghiệp (lạc nghiệp) thì còn cần một nền kinh tế an-vi.

Kinh tế an-vi là "gạo trắng - trăng thanh". Có gạo trắng mà thiếu trăng thanh thì dù no bụng mà chưa hẳn đã ấm lòng; còn nếu chỉ có trăng thanh thôi thì bụng phải đói.

Ngày nay trong việc lễ Tết ta thường nhớ đến bánh chưng mà quên mất bánh dầy, tức là chú trọng tới lợi nhuận (Địa) mà ít chú trọng đến sự bồi dưỡng tinh thần (Thiên) , nên dù của cải vật chất có phong phú mà vẫn không tìm được niềm an vui hạnh phúc. Đó là tính chất của nền kinh-tế vật bản lợi hành.

 - Nền kinh tế an vi của ta quan niệm khác với các nền kinh tế hiện đại như thế nào?

Các nền kinh-tế hiện đại quan niệm con người giống như những con vật kinh-tế, cho nên lấy kinh-tế để hướng dẫn, uốn nắn nếp sống của loài người.

Con người bị sức mạnh lôi cuốn của các nền kinh tế vật bản hướng dẫn nên phải phục tùng vật chất và trở thành nô lệ cho guồng máy kinh tế. Vì lý do cai trị, đặt căn bản trên quyền và lợi, các thế lực quốc tế dù Tư-bản hay Cộng-sản cũng đều áp dụng chính sách kinh-tế-trị theo những cách thức khác nhau:

- Kinh tế Tư-bản phục vụ cho nhu cầu của con người, nhưng người ta ít khi xác định được biên giới của nhu cầu và lòng tham muốn. Mục đích của Tư-bản là tiêu thụ hàng hóa cho nên phải luôn luôn tạo ra những nhu cầu mới bằng cách biến sự tham muốn thành nhu cầu khiến đời sống con người đáng lẽ được thỏa mãn, thì lại trở nên bất an, bất ổn, vì phải không ngừng chạy theo các nhu cầu vô cùng vô tận của cuộc sống. Kinh-tế Tư-bản sung túc về vật chất, nhưng nghèo nàn về tinh thần, có "gạo trắng" nhưng thiếu "trăng thanh". Tinh thần "lễ nghĩa" thông thường là tinh thần đạo đức được xây dựng trên nền tảng một xã hội giầu có (phú quý sinh lễ nghĩa). Nếu xã hội đó không còn sự giầu có nữa thì chắc hẳn lễ nghĩa cũng khó còn nguyên vẹn.

- Chủ-nghĩa Cộng-sản lấy sự phê bình kinh tế Tư-bản tạo thành chiến thuyết "đấu tranh giai cấp" (K. Marx gọi đó là sự xung đột chủ yếu không thể tránh được giữa những kẻ bóc lột và những người bị bóc lột).

Kinh tế Cộng-sản nhân danh phục vụ cho sự xây dựng thiên đường Cộng-sản, đã tước đoạt quyền sống sung túc của nhân dân (bần cùng hóa nhân dân); các chế độ Cộng-sản lại cố ý quên mất nhu cầu sống an vui, tự chủ của mọi người (nô dịch hóa quần chúng), cho nên xã hội kinh-tế Cộng-sản đã nghèo nàn vật chất lại khô cạn cả tinh thần; cả "gạo trắng" lẫn "trăng thanh" đều bị tước đoạt và phân phối hạn chế.

  – Làm thế nào có thể phục hồi một nền kinh tế an vi trong xã hội Việt Nam?

Ý thức về một nền kinh tế an-vi là ý thức tự chủ, không nô lệ kẻ có tham vọng và cũng không nô lệ cho những tham vọng của chính mình. Đó là một ý thức xã-hội nên cần phải lấy việc giáo dục để hướng dẫn.

Lấy giáo dục phục hồi nếp sống an-vi (nếp sống an-vi là cơ sở dân sinh của đạo sống Việt).

Khi đã thấm nhuần đạo sống an-vi thì con người tự có khuynh hướng áp dụng nếp sống an-vi, tức là muốn làm việc cho sự an lạc của mình và của mọi người, chứ không phục vụ cho tham vọng của người và lòng tham của mình.

Xã hội (chính quyền) có bổn phận bảo đảm nếp sống an-vi của mọi cá nhân bằng cách tôn trọng cách sống và cung ứng phương tiện sống thích hợp với sự lựa chọn ấy mà không làm trở ngại sự phát triển an-sinh xã hội.

Cá nhân có bổn phận đóng góp cho xã hội những sản phẩm và khả năng của mình để bảo đảm sự thịnh vượng và an lạc cho xã hội mà không cảm thấy bị bóc lột và mất sự an vui.

  - Phục chính phải thực hiện trước hay sau khi phục hồi được lãnh thổ?

Phục chính là nhân và quả của công cuộc phục quốc.

Ý thức về một nền văn-trị hoà-đối (cơ sở chính trị) và một nền kinh-tế an-vi (cơ sở dân sinh) cần phải được thấm nhuần nơi mỗi cá nhân để trở thành ý thức xã-hội. Hơn nữa nó phải được phục hồi trong mỗi cá nhân. Do đó mỗi người phải tự khám phá và thể nghiệm ngay trong hiện tại và ngay trong đời sống như một hành động phục quốc để làm nhân lành cho những thành tựu mai sau.



Một thể chế Dân Chủ Đa Nguyên hay Dân Chủ Văn Hiến trong thế kỷ 21 cuả nhân loại là một thể chế xứng hợp với bước tiến cuả con ngươì trong thiên niên kỷ mới và cũng là ước nguyện cuả dân tộc Việt Nam noí riêng , nhân loại nói chung để thay thế cho những chế độ quân phiệt và độc đảng trị .

  Trích từ: Cuộc Chiến Đấu Cho Một Nước Việt Nam Văn Hiến
  Nguồn: http://www.taphopdongtam.org




Lấy Nhân Tâm làm phương tiện, dụng Dân Tâm làm chiến lược quốc phòng và quốc sách : An Dân - Lạc Quốc


Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Nếp Sống Văn Hiến
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến những biên khảo, sáng tác và ý kiến của quý vị và các bạn nhằm mục đích bảo tồn di sản văn hóa và phục hồi nền An Lạc & Tự Chủ của Việt tộc.


                                                        Trở Lại Trang Mặt