Năm
Thứ
4889
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
Ngoại Giao
Đề
Mục
3-
Quan hệ Chiến Lược Giữa Hoa Kỳ, Trung Quốc
Và Việt nam
2-
Bang Giao Quốc Pḥng
cuả Việt Nam...Ngoại Giao
1- Thuyết Giảng Về Chính sách Ngoại Giao
|
Quan Hệ
Chiến Lược Giữa Hoa Kỳ, Trung Quốc Và Việt
Nam
Bùi
Diễm
LTS: Bài
thuyết này
được tŕnh bày tại buổi Ra Mắt Sách "Sống
C̣n Với Dân Tộc" của ông Hà Thúc
Kư và cuộc Hội Luận "Việt Nam Trong Thế Chiến Lược
Giữa
Hoa Kỳ Và Trung Cộng Tại Biển Đông" do Tân Đại
Việt
và Đại Việt Cách Mạng Đảng tổ chức ngày 31
tháng 10 năm 2010 tại Houston, Hoa Kỳ.
Trong khoảng thời gian mấy năm
gần
đây, hiểm họa đè nặng trên đầu dân tộc Việt
Nam do chủ trương bá quyền của Trung Quốc quả thực
đă
quá rơ rệt dưới con mắt của người dân, ở trong cũng
như ở ngoài nước. Trên thực tế, Trung Quốc hiện đang
t́m cách bành trướng ảnh hưởng xuống miền Nam,
trực tiếp đe dọa Việt Nam. Hiểm họa này đă được thể
hiện
dưới đủ mọi h́nh thức. Từ những luận điệu khiêu
khích của một số báo Trung Quốc cho đến những hành
động ngang ngược của nhà cầm quyền Bắc Kinh công
khai
xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa và xây cất những
cơ sở quân sự tại đây cũng như tại một số đảo thuộc
quần
đảo Trường Sa. Họ coi tất cả vùng Biển Đông như một
ao
nhà, ngăn cấm ngư dân Việt Nam không được
hành nghề ngay trên lănh hải của Việt Nam, rồi từ
những chủ trương lặng lẽ xâm nhập nội bộ của Việt
Nam bằng
cách đấu thầu với giá rẻ hầu hết những công
tŕnh xây cất hạ từng cơ sở của Việt Nam, đặc biệt
là vụ khai thác mỏ bauxite trên miền Cao
Nguyên hay thuê đất dài hạn ở nhiều nơi cho đến
những âm mưu ngấm ngầm mua chuộc giới lănh đạo trong
hàng ngũ nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam, tất cả đều
là những sự kiện có thật chứ không phải là
những lời phỏng đoán về t́nh h́nh Việt Nam trong
lúc này.
Bài viết này
không nhằm mục địch đi sâu vào những chi tiết của
những sự việc vừa được lược kể trên đây mà mọi người
đă rơ qua các cơ quan truyền thông.
Bài được viết chỉ là để đóng góp một
vài ư kiến và nhận định hết sức thô thiển,
may ra có thể làm sáng tỏ được một số câu
hỏi đang làm thắc mắc rất nhiều người. Thực ra, tất
cả
chúng ta đều chung một mối lo, không biết rồi đây
nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam (hay nói chung người
dân Việt Nam ở trong và ngoài nước) sẽ phải đối
phó cách nào với hiểm họa đang đe dọa dất nước .
Những câu hỏi này từ lâu vẫn tiềm tàng trong
dư luận Việt Nam, nhưng gần đây vừa được khơi lại
bởi một
vài biến chuyển mới, trong số đó có những chỉ dấu
cho thấy chính sách của Hoa Kỳ có vẻ như đă
tích cực hơn trước đối với những biến chuyển trong
vùng
Châu Á, Thái B́nh Dương nói chung
cũng như đối với t́nh h́nh trong vùng Biển
Đông và Việt Nam. Những chỉ dấu này, như
chúng ta đă rơ, gồm có trước hết lời
tuyên bố khá đầy đủ của bà Ngoại Trưởng Hoa Kỳ
Hillary Clinton khi bà tới dự buổi họp Diễn Đàn Khu
Vực
(ARF) của tổ chức Hiệp Hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN) được triệu tập hồi cuối tháng 7 vừa qua ở Hà
nội.
Bà nói: “Hoa Kỳ cũng như các quốc gia khác
có quyền lợi về tự do hàng hải trên những thủy lộ
chung ở Á Châu, tôn trọng luật pháp
trên Biển Đông, chia sẻ quyền lợi này không
những với các quốc gia thành viên của ASEAN hay
các quốc gia tham dự Diễn Đàn Khu Vực mà
c̣n với tất cả những quốc gia khác và cộng đồng
quốc tế có nhu cầu hàng hải tại miền biển này”.
Bà cũng c̣n nói thêm là “Hoa Kỳ ủng
hộ quốc tế hóa việc giải quyết những tranh chấp về
hải đảo
và hải phận trong vùng trên cơ sở Công Ước
Liên Hiệp Quốc về luật biển và chống lại việc bất cứ
một
quốc gia tranh chấp nào sử dụng vũ lực mặc dầu Hoa
Kỳ
hoàn toàn có thái độ trung lập trong vấn đề
tranh chấp”. Cũng trong khoảng thời gian có lời
tuyên bố
trên đây về mặt ngoại giao của bà Hillary Clinton,
người ta được thấy về mặt quân sự có cuộc thao diễn
giữa
hải quân Mỹ và Nam Hàn trên miền Bắc Hải, rồi
sau đó sự có mặt hồi đầu tháng 8 của hàng
không mẫu hạm nguyên tử George Washington của Mỹ
ngoài khơi Đà Nẵng (một số giới chức của chính
quyền Hà Nội đă được mời ra thăm chiến hạm khổng lồ
này) và của khu trục hạm John McCain cập bến Đà
Nẵng để sửa soạn thao diễn với hải quân Việt Nam
(tuy mới chỉ ở
một quy mô giới hạn trong phạm vi gây t́nh hữu nghị
giữa hai bên) và một số khu trục hạm khác của Mỹ
thuộc hạm đội thứ 7 như những khu trục hạm USS
Curtis Wilbur, USS Mc
Campbell, USS Chung-Hoon. Ngoài ra trong bối cảnh
này
người ta không thể không ghi nhận chuyến viếng thăm
Indonesia của Bộ Trưởng Quốc Pḥng Mỹ Robert Gates
nhằm mục đich
nối lại việc hợp tác quân sự với nước này. Nay lại
thêm một số diễn biến mới. Ngày 24 tháng 9 mới
đây,Tổng Thống Hoa Kỳ Obama đă đến tham dự và chủ
tọa cùng với Việt Nam một hội nghị cấp cao của tổ
chức ASEAN tại
Nữu Ước (theo thể thức luân phiên Việt Nam đang đóng
vai Chủ Tịch của tổ chức này). Tuy hội nghị này
không có tính cánh đặc biệt nào nhưng
sự có mặt của ông Obama cùng với bản tuyên bố
chung của buổi họp trong đó có lời kêu gọi
các nước trong vùng Biển Đông nên t́m
cách giải quyết những vụ tranh chấp trong ḥa b́nh
và tránh việc sử dụng vũ lực, cũng được coi như đẩy
mạnh
những lời cam kết hồi tháng 7 của bà Hillary Clinton
về
chiều hướng tích cực mới của chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ. Phản ứng nhanh chóng của Bắc Kinh ngay
sau buổi họp
trên đây, chỉ trích Hoa Kỳ xen lấn vào việc
nội bộ của các nước trong vùng biển Đông cho thấy
rằng rồi đây chắc sẽ c̣n nhiều biến chuyển trong
quan hệ
giữa hai nước, nhất là khi Hoa Kỳ đă xác nhận tin
ông Bộ Trưởng Quốc Pḥng Gates tháng 10 này
sẽ tới Hà Nội để dự một buổi họp do ASEAN tổ chức
với sự
có mặt của các Bộ Trưởng Quốc Pḥng của 10 nước
ASEAN và 8 nước khác thuộc vùng Thái
B́nh Dương trong đó có Hoa Kỳ và Trung
Quốc. Sự hiện diện này của ông Gates dĩ nhiên
là một dấu hiệu về sự chuyển hướng dường như đang
được
h́nh thành của chính sách ngoại giao của
Hoa Kỳ, nay muốn đóng một vai tṛ lănh đạo
tích cực hơn trước ở Á Châu, đặc biệt là ở
miền Biển Đông.
“Mỹ sắp trở lại Việt Nam” là
câu nói trên cửa miệng của một số người lúc
này. Với tâm trạng lo lắng và suy luận quá
nhanh của nhiều người Việt Nam th́ đây cũng không
phải là điều mới lạ, nhưng nếu b́nh tâm phân
tích những diễn biến về cả hai mặt ngoại giao và
quân sự, như đă được lược kể trên đây,
th́ dầu Mỹ có trở lại hay không, ai cũng có
thể nh́n thấy hoàn cảnh đặc biệt tế nhị của Việt Nam
trong hiện tại. Do vị trí địa dư và chiến lược của
ḿnh trong vùng biển Đông, Việt Nam bị đặt ngay
vào giữa một vùng tranh chấp. Tranh chấp đây
không phải chỉ là tranh chấp giữa Việt Nam và Trung
Quốc về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa
hay về lănh hải, mà c̣n là giữa Trung Quốc
và nhiều nước khác trong vùng, rồi nay tiếp đến
lại thêm vụ tranh chấp về ảnh hưởng và quyền lợi
giữa
Trung Quốc, một cường quốc đang lên với nhiều tham
vọng và
Hoa Kỳ, một siêu cường quốc đang muốn có mặt trở lại
tại
vùng Biển Đông. Chính hoàn cảnh khó
khăn này cùng với những thử thách do hoàn
cảnh tạo ra đă làm cho dư luận trong nước và ở
ngoài nước đặc biệt trở nên sôi nổi. Rất nhiều người
đă đưa ra những câu hỏi hay nhận định đủ loại như:
“Cả hai
nhà nước Cộng Sản Việt Nam và Trung Quốc đều luôn
luôn nói tới t́nh hữu nghị bền chặt giữa hai Đảng
và hai Nước, phải chăng chủ trương bá quyền của
Trung
Quốc chỉ là trong đầu óc tưởng tượng của những người
chống nhà nước Cộng Sản Việt Nam?” Về trường hợp
những chỉ dấu
cho thấy Hoa Kỳ muốn có mặt trở lại ở vùng Biển
Đông th́ những câu hỏi lại là “Mỹ có
thật sự trở lại để giúp Việt Nam không? Việt Nam có
thể trông chờ ǵ ở Mỹ?” hay là “Liệu những tranh
chấp về ảnh hưởng và quyền lợi ở Biển Đông có thể
đưa đến đụng độ giữa Trung Cộng và Mỹ không?” C̣n
về nhận định th́ người ta được nghe những nhận định
như nửa
đùa nửa thật nhưng có nhiều tính chất dân
gian : “Đi với Tầu th́ giữ được Đảng nhưng mất nước”
và
“Đi với Mỹ th́ giữ được nước nhưng mất Đảng”
Trung Quốc: phát
triển trong
ḥa b́nh hay tham vọng bá quyền
Nói về sự trỗi dậy của Trung
Quốc trong khoảng thời gian ba thập niên trở lại đây
th́ không ai phủ nhận được những bước tiến ngoạn mục
của
nền kinh tế nước này. Kể từ đầu thập niên 80, chủ
trương
đổi mới của Đặng Tiểu B́nh, mở cửa để đón nhận đầu
tư
ngoại quốc, đă làm thay đổi hoàn toàn bộ
mặt của Trung Quốc. Mới chỉ trong khoảng có gần 30
năm, sau
những năm đại loạn người dân đói ăn và chết cả
hàng triệu người dưới thời cách mạng văn hóa Mao
Trạch Đông, Trung Quốc không những đă kéo ra
khỏi cảnh nghèo đói 400 triệu người dân mà
c̣n lần lượt vượt qua được những nước lớn về mặt
phát
triển như Anh, Pháp Đức và cả Nhật Bản để mới gần
đây được đứng vào hàng thứ hai trên thế giới
sau siêu cường quốc Hoa Kỳ. Hàng hóa do Trung Quốc
sản xuất tràn ngập trên thị trường quốc tế (đặc biệt
trên thị trường Mỹ, tạo thâm thủng mậu dịch trên
dưới
hai trăm tỷ mỗi năm cho nước này) và làm cho dự
trữ ngoại tệ của Trung Quốc lên tới con số chưa từng
thấy gần hai
ngàn tỷ dollars. Ở vào thời đại toàn cầu
hóa ngày nay mà Trung Quốc nhanh chóng đạt
được kết quả này th́ quả là môt thành
tích không nhỏ trước thềm thế kỷ thứ 21. Nhưng
thành tích càng lớn bao nhiêu (đặc biệt
đây là trường hợp một nước với dân số hơn một tỷ
người) th́ lại càng làm cho những nhà ngoại
giao, những quan sát viên hay những nhà phân
tích ở khắp mọi nơi phải đặt câu hỏi: “Rồi đây Trung
Quốc sẽ xử sự thế nào trên chính trường quốc
tế?”
Về câu hỏi then chốt này
th́ trong chính giới ở các nước Tây phương,
người ta thường cho rằng càng phát triển và hội
nhập vào cộng đồng thế giới th́ Trung Quốc sẽ càng
phải xử sự thuận theo quy luật chung của các nước tư
bản
Tây phương. Có nhiều nhà ngoại giao - như ông
Robert Zoellick, trước đây là quyền Ngoại Trưởng Hoa
Kỳ
và nay là Thống Đốc Ngân Hàng Thế giới - cho
rằng Trung Quốc đang trở thành một “cổ phần viên có
trách nhiệm” (a responsible stakeholder) trên chính
trường quốc tế. Nhưng ngược lại, theo như tác giả
Stefan Halper
(một chuyên gia có thẩm quyền về Trung Quốc và bang
giao quốc tế) đă viết trong cuốn sách The Beijing
Consensus vừa mới được xuất bản th́ rất nhiều nhà
ngoại
giao khác –như hai cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Bắc Kinh
Winston Lord
và James Lilley- lại cho rằng Trung Quốc là một nước
to
lớn quá và t́m hiểu Trung Quốc ngày nay
là theo đuổi một mục đích lúc ẩn lúc hiện
(an elusive quest). Bảo rằng Trung Quốc đă gặt hái
được
nhiều thành quả trên đường phát triển th́
đúng nhưng bảo rằng trong nội bộ Trung Quốc c̣n đầy
mâu thuẫn và nền kinh tế c̣n rất nhiều yếu điểm
th́ cũng không sai, đồng thời người ta cũng có thể
bảo rằng Trung Quốc là một láng giềng tốt nhưng lại
là một mối đe dọa về mặt quân sự trong tương lai đối
với
các nước lân bang. Nói tóm lại , tùy
theo cách nh́n và nhận định th́ Trung Quốc
về mặt đối ngoại có hai bộ mặt mà người viết bài
này tạm gọi là Trung Quốc và Trung Cộng. Gọi
là Trung Quốc nếu chúng ta dựa vào những lời
tuyên bố chính thức của nhà cầm quyền Bắc Kinh: Chủ
Tịch Hồ Cẩm Đào vẫn thường hay nói đến một thế giới
hài ḥa (an harmonious world) hay một xă hội
hài ḥa (an harmonious society) và sự phát
triển của Trung Quốc là phát triển trong ḥa
b́nh. Riêng đối với trường hợp của nước bạn đàn em
Việt Nam th́ đă có “t́nh hữu nghị bền chặt
giữa hai nước và hai đảng” cùng với khẩu hiệu 16 chữ
vàng và 4 cái tốt luôn luôn được nhắc
tới mổi khi có buổi họp giữa hai bên. Hơn nữa lại
c̣n Quy Ước Ứng Xử được kư kết giữa các nước trong
khối ASEAN và Trung Quốc năm 2002 theo đó những nước
trong vùng và Trung Quốc cam kết sẽ không
dùng vơ lực trong những vụ tranh chấp. C̣n nếu gọi
là Trung Cộng th́ người ta phải nghĩ ngay tới chủ
trương
và hành động xâm lược những hải đảo Hoàng Sa
và Trường Sa của Việt Nam, những lời tuyên bố vùng
bể Biển Đông thuộc quyền lợi “cốt lơi” của Bắc Kinh,
ngang
hàng với những vấn đề như Đài Loan, Tây Tạng
và Tân Cương. Ngoài ra, người ta cũng không
quên được sự kiện ngân sách quốc pḥng của
Trung Cộng hàng năm tăng lên gấp bội (được ước lượng
là từ 105 đến 150 tỷ dollars năm 2008, so với trên
dưới 50
tỷ hai ba năm về trước), cũng như việc xây cất căn
cứ hải
quân lớn Yulin tại đảo Hải Nam và sự có mặt thường
xuyên của một lực lượng hải quân khá hùng hậu
trong vùng Biển Đông hay thái độ hung hăng của
Trung Cộng gần đây đ̣i Nhật Bản phải xin lỗi trong
vụ đụng
độ giữa những tầu đánh cá của hai nước gần đảo
Senkoku-Điếu Ngư đang trong ṿng tranh chấp ở miền
Tây
Thái B́nh Dương. Về cả hai bộ mặt Trung Quốc và
Trung Cộng vừa được mô tả trên đây, có lẽ
không ai biết rơ hơn là nhà cầm quyền Cộng
Sản Hà Nội. C̣n đối với tất cả những ai đă đọc qua
sử Việt Nam th́ Trung Quốc hay Trung Cộng cũng chỉ
là một
nước Tầu mà dân tộc ta đă phải chịu đựng cả
ngàn năm qua hai thời kỳ Bắc thuộc, nay lại nuôi
tham vọng
đè đầu đè cổ cai trị Việt Nam.
Hoa Kỳ có
thay đổi chính sách đối với Trung Quốc không?
Nếu đem so sánh những lời
tuyên bố của bà Ngoại Trưởng Hillary Clinton hồi
cuối
tháng 7 ở Hà Nội về vấn đề biển Đông với những lời
tuyên bố của bà hồi đầu năm 2009 khi bà tới Bắc
Kinh lần đầu tiên với tư cách là Ngoại Trưởng của
chính quyền Obama th́ ai cũng phải thấy sự khác
biệt. Hồi đó, thuận theo chủ trương về mặt ngoại
giao của
ông Obama “tiếp cận và đối thoại” (engagement and
dialogue) bà chỉ nói đến nhu cầu hợp tác giữa Hoa
Kỳ và Trung Quốc trên hai lănh vực an ninh quốc tế
và kinh tế mà không đả động ǵ đến những vấn
đề tế nhị như chính trị hay nhân quyền. Phải chăng
v́ vậy mà tại buổi họp của Diễn Đàn Khu Vực ở
Hà Nội, khi bỗng nhiên nghe thấy bà xác định
lập trường của Hoa Kỳ về những vấn để Biển Đông,
Ngoại Trưởng
Trung Quốc Dương Khiết Tŕ có cảm tưởng là Trung
Quốc bị tấn công bất ngờ? Ông giận dữ phản đối và
như để nhần mạnh một cách rơ ràng hơn thái
độ phản đối này, ngay sau buổi họp của ASEAN với
Tổng Thống
Obama ở Nữu Ước ngày 24 tháng 9, Bộ Ngoại Giao Trung
Quốc
lên tiếng chỉ trích bản thông cáo chung của
buổi họp (trong đó có môt vài điều khoản
nói lên sự cam kết của Hoa Kỳ đối với ASEAN) cho
rằng Hoa
Kỳ chủ trương xen lấn vào những việc thuộc Biển
Đông.
T́nh trạng mới này đúng là một trường hợp
may mắn đối với những nước nhỏ ven bờ Biển Đông và
đặc
biệt đối với Việt Nam: đang bị đe dọa bởi một nước
quá lớn,
quá mạnh th́ lại được một siêu cường quốc
ghé vai ủng hộ. Sự ủng hộ này có phải là
một phản ứng nhất thời hay là một phần của một chiến
lược
lâu dài của Hoa Kỳ trong tương lai không, chưa ai
được rơ, nhưng trong hiện tại, nếu phải đối phó với
những
đe dọa ngay trước mắt th́ ít nhất trên phương diện
nguyên tắc Việt Nam và những nước trong ṿng tranh
chấp với Trung Quốc cũng có thể tin được là Hoa Kỳ
sẽ
đứng về phía họ, lợi điểm mà họ cần phải nuôi
dưỡng.
Một vài nhận định
về
chính sách đối ngoại của Mỹ và quan hệ
Mỹ-Trung
Trên đây là
nói về trường hợp những nước trong vùng Biển Đông,
c̣n nếu nói đến những nước Á Châu nói
chung th́ để đối phó với sức mạnh bành trướng của
Trung Quốc, không nước nào là nước không
trông chờ và mong mỏi Mỹ có mặt thường xuyên
trên vùng biển Thái B́nh Dương. Tất
nhiên không ai ngạc nhiên về sự trông chờ hay
mong mỏi này v́ chỉ có Mỹ mới có đủ khả
năng ngăn chặn ảnh hưởng và tham vọng mỗi ngày một
lớn
củaTrung Quốc. Nhưng Mỹ có muốn cán đáng
trách nhiệm này không và quan hệ Mỹ-Trung
lúc này ra sao?
Nước Mỹ là một siêu
cường quốc hùng mạnh có ảnh hưởng bao trùm
trên thế giới, đồng thời cũng lại là một nước có
truyền thống dân chủ vững chắc. Truyền thống này có
những nét đặc thù ảnh hưởng không ít đến
sinh hoạt chính trị của mọi ngành, mọi giới trong
xă hội. Nh́n từ bên ngoài vào
th́ t́m hiểu về chính sách đối ngoại của Mỹ
không khó. Thể chế dân chủ của Mỹ thật là cởi
mở và mọi hoạt động của các tổ chức chính trị
và hai đảng lớn là Dân Chủ và Cộng
Ḥa đều là những hoạt động hoàn toàn
công khai. C̣n về báo chí của Mỹ th́
không ai có thể nói là thiếu tự do được, do
đó mà đường lối chính sách của chính
phủ Hoa Kỳ thường ngày được mang ra công khai bàn
căi trên mọi cơ quan truyền thông. Nhưng cũng
chính v́ tính chất dân chủ công khai
này mà vấn đề trở nên phức tạp. Sự h́nh
thành của bất kỳ một chính sách nào, đối
nội cũng như đối ngoại, đều tùy thuộc vào sự tác
động giữa những trung tâm quyền lực mà ba thành
phần chính là Ṭa Bạch Ốc (Hành
Pháp), Quốc Hội (Lập Pháp) và các cơ quan
truyền thông (Dư Luận). Trên nguyên tắc th́
vấn đề t́m hiểu có vẻ dễ v́ chỉ có ba trung
tâm quyền lực chính trên đây nhưng trên
thực tế th́ vấn đề hết sức khó khăn v́ ngay trong
nội bộ của mỗi trung tâm quyền lực có cả đến hàng
chục trung tâm quyền lực nhỏ khác xâu xé lẫn
nhau để tranh dành ảnh hưởng. Ngoài ra lại c̣n dư
luận luôn luôn thay đổi do ảnh hưởng của các cơ quan
truyền thông, v́ vậy mà nếu nói tới
chính sách đối ngoại của Mỹ th́ phải hỏi ở
vào “thời điểm nào?” v́ thái độ của
hôm nay rất có thể sẽ không c̣n là
thái độ của ngày mai. Trong trận chiến tranh Việt
Nam,
tháng 8, 1964, Tổng Thống Mỹ Johnson được gần như
toàn
thể Thượng Viện và Hạ Viện (533 phiếu thuận trong
tổng số
535Thượng nghị sĩ và Dân biểu tại Quốc Hội) ủng hộ
chính sách giúp Miền Nam Việt Nam chống Cộng Sản
(Tonkin Resolution), thế mà chỉ vài ba năm sau,
phong
trào phản chiến đă soay ngược lại t́nh thế để rồi
Mỹ lần lần kiếm giải pháp ra đi và bỏ rơi Việt Nam.
Thực
ra chỉ có trong thời gian gần 50 năm chiến tranh
lạnh người ta
mới được thấy một chính sách đối ngoại liên tục qua
các nhiệm kỳ của nhiều Tổng Thống khác nhau, đó
là chính sách ngăn chặn Cộng Sản (containment
policy) c̣n về sau này th́ nhiều khi người ta
đă được thấy chính sách thay đổi một cách
tương đối dễ dàng mỗi khi có một chính quyền mới
được bầu lên. Tổng Thống George W.Bush chủ trương
một hệ thống
pḥng thủ bằng hỏa tiễn ở Âu Châu và phải tốn
rất nhiều công sức để thuyết phục Ba Lan và Tiệp
Khắc chấp
nhận. Nhưng rồi Tổng Thống Obama mới lên cầm quyền
lại bỏ ngay
chủ trương của ông Bush và thay thế bằng một chủ
trương
khác làm cho hai chính phủ Ba Lan và Tiệp
Khắc ngỡ ngàng không c̣n biết xử trí ra sao
và làm cho dư luận ở nhiều nơi đặt vấn đề về mức độ
“khả
tín” của chính sách Hoa Kỳ. Đối với những nước nhỏ
như trên đây đă vậy nhưng c̣n đối với những
nước lớn mà tầm quan trọng có thể có ảnh hưởng đến
nền ḥa b́nh chung trên thế giới hay an ninh của cả
một Châu hay một Vùng th́ sao? Và đây
chính là câu hỏi mà những năm gần đây
các quan sát viên quốc tế thường nêu
lên mỗi khi đề cập đến mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và
Trung
Quốc.
Ở vào thời đại toàn cầu
hóa ngày nay không có nuớc nào, lớn
hay nhỏ, có thể sống biệt lập được, nhưng nếu nói
đến
quan hệ giữa một nước này hay một nước khác th́ ai
cũng phải nh́n nhận là mối quan hệ Mỹ-Trung, giữa
Hoa Kỳ
và Trung Quốc, đặc biệt có ảnh hưởng quyết định đến
nhiều
nước khác. Tương lai của cả vùng Châu Á,
Thái B́nh Dương và nói rộng ra nền
ḥa b́nh trên thế giới, một phần không nhỏ,
sẽ tùy thuộc vào những biến chuyển trong mối quan hệ
giữa
hai nước này. Một bên là siêu cường quốc Hoa
Kỳ, có quyền lợi và ảnh hưởng ở khắp mọi nơi và
một bên là Trung Quốc với một dân số hơn 1,3 tỷ
người, nay sau ba thập niên liên tục phát triển
đă trở thành một cường quốc kinh tế trên đường cạnh
tranh với Hoa Kỳ. Đây là một mối quan hệ phức tạp,
đa
dạng, bao gồm cả mọi mặt, từ chính trị, kinh tế đến
chiến lược
và ổn định, an ninh. Về chính trị th́ rơ
ràng là giữa hai nước khó có thể có
sự đồng thuận về những vấn đề như tự do, dân chủ,
nhân
quyền, tự do tôn giáo (như trong trường hợp Pháp
Luân Công) nhưng về kinh tế th́ trái lại, cả
hai bên đều bị đặt vào một hoàn cảnh quyền lợi
tṛng tréo, Trung Quốc cần có thị trường của Mỹ để
xuất cảng hàng hóa và nuôi dưỡng đà
phát triển trong khi đó th́ Mỹ cũng cần đến Trung
Quốc để có môi trường đầu tư, xuất cảng máy
móc chế biến và đồng thời để giảm bớt t́nh trạng
thâm thủng mậu dịch bằng cách bán công khố
phiếu cho Trung Quốc. C̣n về mặt chiến lược và an
ninh
vùng th́ ít nhất trong hiện tại, Trung Quốc cần
có ổn định để có thể tiến tới trên đường
phát triển và giữ vững tư thế một cường quốc đang
lên. T́nh trạng này dĩ nhiên luôn
luôn thay đổi với thời gian. Trước đây vào thời điểm
Trung Quốc c̣n đang trong giai đoạn đầu của những
năm
phát triển th́ có lẽ Mỹ không cần quan
tâm đến mức tăng trưởng về mặt quốc pḥng của Trung
Quốc,
nhưng bây giờ th́ lại khác hẳn, nhiều chiến lược
gia đă bắt đầu lo ngại về chương tŕnh hiện đại
hóa về mặt quân sự của Bắc Kinh, lo rằng chương
tŕnh này sẽ cho Bắc Kinh cơ hội để theo đuổi những
tham
vọng bành trướng. Nói cho đúng th́ hai nước
v́ quyền lợi bắt buộc phải hợp tác với nhau, nhưng
lưôn luôn vẫn phải dè chừng lẫn nhau. Ngoài
ra nhiều khi mối quan hệ cũng trải qua những thời kỳ
mà người ta
thường gọi là “nay căng thẳng, mai ḥa hoăn”. Căng
thẳng th́ người ta phải kể đến những khủng hoảng
dưới thời
chính quyền Clinton (Mỹ ném bom lầm xuống ṭa Đại
Sứ Trung Quốc ở Belgrade, Nam Tư, Hạm Đội 7 của Mỹ
tiến vào eo
biển Đài Loan để t́m cách ngăn ngừa đụng độ giữa
Trung Cộng và Đài Loan) hay dưới thời chính quyền
Bush (mày bay Mỹ phải hạ cánh xuống đảo Hải Nam và
quân nhân Mỹ bị tạm giữ). C̣n ḥa hoăn
th́ người ta nghĩ đến chuyến viếng thăm của Chủ Tịch
Giang Trạch
Dân khi ông đến trang trại của ông Bush miền Texas
hay chuyến viếng thăm Bắc Kinh của ông Obama và cuộc
hội
đàm thân mật giữa ông và Chủ Tịch Hồ Cẩm
Đào tháng 11 năm 2009. Và một tỷ dụ điển
h́nh gần đây là bầu không khí căng
thẳng do những lời tuyên bố của bà Hillary Clinton
về Biển
Đông và những lời đối đáp chống lại của ông
Dương Khiết Tŕ. Căng thẳng nhưng rồi ḥa hoăn lại
trở lại ngay sau khi có cuộc viếng thăm Bắc Kinh của
hai
nhân viên cao cấp ṭa Bạch Ốc, ông Larry
Summers, Cố Vấn kinh tế của ông Obama và ông
Dolidon, người vừa được cử thay thế tướng Jim Jones
trong chức vụ Cố
Vấn An Ninh Quốc Gia tại ṭa Bạch Ốc. Đặc biệt hơn
cả về
t́nh trạng ḥa hoăn mới này là lời
mời của Trung Quốc (nhân dịp hai Bộ Trưởng Quốc
Pḥng
Trung Quốc và Hoa Kỳ gặp nhau ngày 11 tháng 10 mới
đây ở Hà Nội tại một hội nghị cấp cao do ASEAN tổ
chức)
mời ông Gates viếng thăm Bắc Kinh đầu năm tới để nối
lại mối quan
hệ quốc pḥng giữa hai nước bị đ́nh hoăn từ
ngày đầu năm v́ Hoa Kỳ bán khí giới cho
Đài Loan. Nói tóm lại, hợp tác hay canh
chừng lẫn nhau, căng thẳng hay ḥa hoăn, nóng hay
lạnh, và ngay cả đến xác suất một sự đụng độ lớn
có thể xẩy ra không, quan hệ Mỹ-Trung sẽ c̣n
dành cho những người theo dơi t́nh h́nh
nhiều biến chuyển trong tương lai. Tất nhiên, do vị
trí
địa dư và hoàn cảnh đất nước đang bị đe dọa, số phận
của
Việt Nam sẽ không thoát khỏi ảnh hưởng của những
biến
chuyển này.
Việt Nam đi
với
Tầu hay với Mỹ th́ bảo vệ được chủ quyền?
Kể từ những ngày nhà
cầm quyền Cộng Sản Việt Nam 10 năm trước đây kư kết
với
Trung Cộng một số hiệp ước về biên giới trên bộ và
lănh hải trong vịnh Bắc Bộ, trên thực tế Việt Nam
đă mất đất, mất biển. Chủ quyền trên quần đảo Hoàng
Sa cũng rơ ràng đă mất và Nhà Nước
không những không bảo vệ được những ngư dân lương
thiện hành nghề ngay tại những vùng biển thuộc
lănh hải Việt Nam mà c̣n đàn áp cả
những cuộc biểu t́nh của các anh chị em sinh viên
yêu nước chống Trung Cộng. Ngoài ra nếu có
thái độ chống đối th́ chỉ là qua một vài
lời phản kháng ngoại giao có tính cách
chiếu lệ. T́nh trạng này cho thấy Hà Nội
quá khiếp nhược trước áp lực của nước bạn đàn anh
và chính trong lúc dư luận đang băn khoăn
không hiểu với cái đà này th́ đất
nước sẽ đi về đâu mà người ta được nghe những lời
tuyên bố hứa hẹn dễ nghe của bà Hillary Clinton. Và
có lẽ cũng từ đó mà có những câu hỏi
“đi với Tầu hay đi với Mỹ?”
Đi với Tầu th́ Đảng Cộng Sản
Việt Nam đă chủ trương chính sách này từ
Hội Nghị Thành Đô năm 1990 giữa giới lănh đạo của
hai nước. Hồi đó, do nhu cầu của t́nh thế trong khi
Liên Bang Sô Viết và khối các nước Đông
Âu đang trên đường sụp đổ, hai bên đă bảo nhau
nuốt những lời lẽ đắng cây coi nhau như thù địch của
thời
kỳ chiến tranh biên giới năm 1979 để ngồi lại gần
nhau. Từ
ngày ấy cho đến nay đă 20 năm, t́nh trạng
này vẫn c̣n tồn tại bằng những khẩu hiệu bề ngoài
như như 16 chữ vàng hay 4 cái tốt. Tồn tại ở đây
tuy nhiên chỉ là trên nguyên tắc mà
thôi, vả lại trên thực tế th́ chế độ Hà Nội
cũng không c̣n đường nào khác. Một mặt
v́ ư thức hệ, một mặt khác v́ lư do
thực tiễn, mô thức “cởi mở” về kinh tế nhưng “ siết
chặt” về
chính trị của nước bạn đàn anh là một mô
thức hợp với giai cấp lănh đạo Cộng Sản Việt Nam
nhất để bảo vệ
đặc quyền đặc lợi của họ. Hiện tại đă vậy, nhưng rồi
đây
tương lai sẽ ra sao? Để trả lời câu hỏi này, có lẽ
không mấy người Việt Nam có thể lạc quan nghĩ rằng
chủ
quyền của đất nước sẽ được bảo vệ về lâu về dài khi
phải
chứng kiến gần đây, năm này qua năm khác, chủ
trương “gậm nhấm”, t́m cách đồng hóa Việt Nam dưới
mọi h́nh thức của Trung Cộng. Lúc đó nếu
c̣n Đảng th́ Đảng sẽ chỉ c̣n là một
cái đuôi vẫy theo cái đầu ở Bắc Kinh. Đi với Tầu
theo kiểu này th́ chắc sẽ không khá được,
chủ quyền của đất nước sẽ mất dần và Đảng cũng sẽ
chỉ là
một đám người phục vụ ngoại bang. Đây là một viễn
tượng bi đát, vô cùng khó khăn cho bất kỳ ai
c̣n nghĩ đến sự trường tồn của dân tộc, và trong
hoàn cảnh ấy, ai là người không nghĩ đến giải
pháp đi với Mỹ, nhất là trong khi Mỹ lại công khai
nói rơ ư muốn đóng một vai lănh đạo
tích cực hơn trước ở Á Châu và Biển
Đông?
Nhưng đi với Mỹ có được
không? Đi với Mỹ để cứu nước và để có cơ hội loại
bỏ đảng Cộng Sản th́ ai mà không muốn, nhưng … vấn
đề không đơn giản. Trước hết nếu khách quan nh́n
vào đối tượng Mỹ th́ ai cũng phải nh́n nhận Hoa Kỳ
là một nước vừa giầu vừa mạnh, hơn nữa rơ ràng Hoa
Kỳ không có tham vọng đất đai ở Việt Nam, ngoài ra
giá trị cổ truyền cao đẹp của Mỹ lúc nào cũng
là tự do, dân chủ và nhân quyền, nếu
không nhờ Mỹ th́ nhờ ai? Do đó trông chờ
vào Mỹ là điều hợp lư và tranh thủ được sự
ủng hộ của Mỹ không những là điều nên làm
mà c̣n là điều cần làm. Nhưng vấn đề được
đặt ra ở đây là t́m được câu trả lời cho
câu hỏi: người Việt Nam có thể trông chờ được
vào người Mỹ tới mức nào? Phạm vi nhỏ hẹp của bài
viết này không cho phép chúng ta trở lại
những lỗi lầm hay mâu thuẫn của Hoa Kỳ trong trận
chiến tranh
Việt Nam đưa đến thảm trạng mà hậu quả c̣n kéo
dài cho đến ngày nay cho cả hai dân tộc. Tuy
nhiên, một vài nhận xét về nền dân chủ
thông thoáng nhưng bất trắc của Hoa Kỳ cùng với
những biến chuyển trên thế giới những năm gần đây
cũng
có thể cho thấy là dầu cho Hoa Kỳ thành thực
có thiện chí muốn giúp một nước nào
đó th́ sự giúp đỡ cũng bị giới hạn nhiều. Bị
ràng buộc bởi những nhu cầu chính trị nội bộ và sự
suy sụp của nền kinh tế như hiện nay hay bị vướng
mắc bên
ngoài bởi hai cuộc chiến Irak và Afghanistan, Hoa Kỳ
thường gặp khó khăn theo đuổi đến nơi đến chốn chính
sách của ḿnh. Nói như vậy không có
nghĩa là Mỹ đă mất hết ảnh hưởng trên chính
trường quốc tế, nhưng nếu Việt Nam muốn trông chờ
vào Mỹ
về một phương diện nào đó th́ cũng nên thận
trọng t́m hiểu những giới hạn mà thực tế không cho
phép bất kỳ một chính quyền nào của Mỹ, dầu
là Cộng Ḥa hay Dân Chủ, vượt ra khỏi được.
C̣n xa hơn nữa, nếu muốn t́m một thế liên minh
chiến lược với Mỹ th́ vấn đề lại thêm nhiều phần
phức tạp.
Vận động quốc tế, dựa vào ảnh hưởng của Mỹ để cùng
với
những nước trong Hiệp Hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN) chế ngự đà bành trướng của Trung Cộng tại
Biển
Đông th́ bắt buộc phải là hướng đi trước mắt cho
Việt Nam nhưng nếu liên minh chiến lược có nghĩa là
trong tương lai Việt Nam sẽ phải trở thành “tiền
đồn” cho một
thế lực này chống thế lực khác th́ kinh nghiệm của
trận chiến tranh Việt Nam cho thấy đó là điều phải
tránh. Hơn thế nữa, nói đến liên minh th́
cũng không nên quên là ngược ḍng lịch
sử, nh́n lại những trường hợp như Hưng Đạo Vương đời
Trần chống
quân Nguyên, B́nh Định Vương đời Lê chống
quân Minh, và Vua Quang Trung chống quân nhà
Thanh th́ vào những thời ấy chỉ có dân tộc
Việt Nam đơn thương độc mă dưới sự lănh đạo của
những anh
hùng dân tộc chống ngoại xâm chứ có
trông chờ được vào liên minh nào
đâu?
Hoàn cảnh
khó khăn hiện tại của đất nước
Bài toán khó
khăn của đất nước trong lúc này là chế độ độc
tài đảng trị của những người Cộng Sản. Đất nước bị
đe dọa bởi
chính nước bạn đàn anh của họ. Có lẽ trong
hàng ngũ lănh đạo của họ cũng có người nh́n
thấy hiểm họa và mong chờ người Mỹ nhưng đảng của họ
há
miệng mắc quai nên không làm thế nào hơn được
là phản kháng cho có lệ, c̣n về tương lai
của dân tộc th́ đành phó thác cho
thời vận. Buông trôi th́ viễn tượng bị đồng
hóa lâu dần cũng trở thành hiện thực, c̣n
nếu phải đối phó với xâm lăng trực tiếp th́ lấy
ǵ mà chống chọi lại được với lực lượng uy hiếp của
Trung
Cộng nay đă được hiện đại hóa? Hai việc phải làm
là vận động quốc tế và trở về với dân tộc để
có thế đứng vững chắc th́ họ không làm hay
không dám làm, trong khi đó th́ lại
đàn áp dân chủ và tôn giáo để
tự đặt ḿnh vào hoàn cảnh bị tách rời ra
khỏi dân tộc, thành thử ra nếu trong hiện tại nói
về hoàn cảnh khó khăn của đất nước th́ hoàn
cảnh đó thực sự bắt nguồn từ chế độ Cộng Sản độc tài
đang
ngự trị trên đầu dân tộc Việt Nam. Chừng nào
c̣n chế độ này th́ người dân Việt Nam
không có cơ hội đóng góp để bảo vệ chủ quyền
đất nước. Người dân Việt Nam chỉ một ḷng một dạ,
hăng
hái đứng dậy để chống ngoại xâm (như đă từng
làm trong lịch sử) nếu cảm thấy được là chống ngoại
xâm có nghĩa là sẽ được sống dưới một chế độ thực
sự dân chủ mang lại tự do và công bằng xă hội
cho mọi người.
Trên đây là
nói về trường hợp người dân sống ở trong nước, nhưng
c̣n trường hợp hơn 3 triệu người dân Việt Nam hay
gốc Việt
Nam sống ở nước ngoài th́ sao? Nếu gặp phải giả
thuyết
Việt Nam bị Trung Cộng trực tiếp tấn công và kêu gọi
“toàn dân kháng chiến” th́ sao? Về trường
hợp giả thuyết này (mà xác suất có lẽ
ít hơn là trường hợp lâu dần bị đồng hóa)
có người đă lên tiếng cho rằng phải chống kẻ
thù chung truớc đă. Viết đến đây, người viết
bài này không khỏi nghĩ ngay đến trường hợp của đất
nước khi toàn thể dân tộc muốn đứng lên để tranh đấu
giành lại độc lập từ tay người Pháp năm 1945. Tất cả
những người yêu nước, tất cả những đảng phái quốc
gia đều
một ḷng chống Pháp nhưng chính quyền lúc
ấy nằm trong tay đảng Cộng Sản và đánh Tây
th́ phải sắp hàng đứng sau đảng Cộng Sản. Thử hỏi,
trong
giai đoạn ấy, từ đảng Xă Hội và Dân Chủ (gần với
đảng Cộng Sản) cho đến những đảng phái quốc gia như
Việt Nam
Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng và tất cả
những tổ chức khác ở ngoài Bắc và trong Nam,
có tổ chức nào thoát khỏi được bàn tay sắt
của những người Cộng Sản khi họ chủ trương tận diệt
những nhóm
khác với họ không? Hết thời chống Pháp lại đến thời
chống Mỹ, thử hỏi Mặt Trận Giải Phóng và Chính Phủ
Lâm Thời Miền Nam sống được bao lâu sau 1975?
Ở vào thời đại toàn cầu
hóa ngày nay, dư luận của cộng đồng các nước
trên thế giới có một ảnh hưởng vô cùng to
lớn. Cho đến nay, trên đường phát triển Trung Quốc
đă tỏ ra hết sức lo lắng bảo vệ thanh danh của ḿnh
trên chính trường quốc tế và luôn luôn
nhắc lại những lời tuyên bố chống chủ trương bá
quyền. Nếu
Trung Quốc công khai xâm lấn Việt Nam th́
hành động này chắc chắn sẽ bị dư luận ở khắp mọi nơi
lên án. Lúc đó cộng đồng người Việt ở nước
ngoài, nếu không được cơ hội cầm súng chống ngoại
xâm, th́ cũng sẽ được cơ hội giúp vào việc
vận động quốc tế, góp một phần không nhỏ vào
công cuộc cứu nước.
Kết
luận
Bài viết
đă dài, quyền lợi dân tộc là vấn đề trọng
đại. Người viết bài này không có cao vọng
đưa ra đề nghị này hay đề nghị khác mà chỉ
làm công việc đưa ra một số nhận định về những việc
đă xẩy ra, mong rằng sẽ làm sáng tỏ được một số
vấn đề đang là mối quan tâm của tất cả những người ở
trong
và ngoài nước, nghĩ tới sự trường tồn của dân tộc,
đang tranh đấu nhằm giải thể chế độ Cộng Sản để toàn
dân
xây dựng một nước Việt Nam thực sự dân chủ, tôn
trọng
nhân quyền và công bằng xă hội, sống
yên lành với các nước lân bang.
Bùi
Diễm
Hoa
Thịnh Đốn,
ngày 12 tháng 10, 2010
Nguồn:
http://www.daivietquocdandang.com/
Giới
Thiệu
Tác Giả Bùi Diễm
Bùi
Diễm
Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia
Bùi Diễm (1923- ) là cựu đại sứ Việt
Nam Cộng
ḥa ở Mỹ.
Thân thế
Ông quê ở Hà Nam, Việt
Nam; cha ông
là nhà nho Ưu Thiên Bùi Kỷ[1], ḍng
dơi phó
bảng Bùi Văn Quế và Bùi Ân Niên.
Bùi Diễm gọi Trần
Trọng Kim
là cậu.
Hoạt động chính trị
Ông hoạt động chính trị trường từ thời học
trường
Bưởi,
vận động cho chính phủ Trần Trọng Kim và đảng Đại
Việt nhưng rồi rời chính trường cho
tới khi nền Đệ
nhất
Cộng ḥa Việt Nam chấm dứt. Trong thời
gian đó
ông làm chủ nhiệm tờ Vietnam Post
xuất bản ở Sài
G̣n bằng Anh ngữ (1954-1963). Đây là
tờ
báo tiếng
Anh đầu tiên ở Việt Nam. Ông cũng là
người sản
xuất cuốn phim Chúng tôi muốn sống,
một tác
phẩm lớn trong ngành Điện
ảnh
Việt Nam.
Khi Thủ tướng Phan Huy
Quát ra chấp
chính, ông giữ chức Bộ trưởng Phủ Thủ tướng.
Ông
cũng là đảng viên Đảng
Đại
Việt.[2]
Thời Đệ
nhị
Cộng ḥa Việt Nam ông được bổ làm đại
sứ
Việt Nam Cộng ḥa ở Washington,
D.C., thay thế đại sứ Vũ
Văn Thái. Chức vụ này ông đảm nhiệm từ năm
1967 đến
năm 1972 th́ chuyển làm đại sứ lưu động cho
đến năm 1975.
Sau năm 1975, ông tỵ nạn tại Hoa Kỳ.
Tại Hải
ngoại
Ông là tác giả cuốn hồi kư
chính trị Gọng ḱm lịch sử. Cuốn này
ấn
bản đầu tiên viết bằng tiếng Anh với tựa The
Jaws of History
rồi sau đó được dịch ra tiếng
Việt. Cuốn
sách thứ hai là cuốn Vietnamese Economy
and Its
Transformation to an Open Market System
xuất bản năm 2004.
Ông là một thành viên trong
Ban Cố vấn của National
Congress
of Vietnamese Americans (NCVA, Nghị
hội Toàn quốc
người Việt tại Hoa Kỳ). Ông vẫn hoạt động
trong Đảng
Đại
Việt và nắm chức Chủ tịch Ban chấp
hành Trung ương
của Đại Việt Cách Mạng Đảng.[3]
Chú thích
Tham
khảo
- Bùi Diễm. Gọng ḱm lịch sử.
Paris: Phạm Quang Khai, 2000.
Nguồn: Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia
|
Bang giao quốc pḥng của Việt Nam
và tác động của
nó trên chính sách ngoại giao
Giáo sư
Carlyle A.Thayer, Chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam
1. Dẫn
nhập
Tài liệu này t́m hiểu một khía cạnh
ít ai chú ư tới về «chính sách
ngoại giao đa phương», chính sách quốc pḥng
và tác động của nó trên chính
sách ngoại giao của Việt Nam. Chính sách ngoại
giao tại Việt Nam luôn luôn thuộc lănh vực điều
hành của Bộ Ngoại Giao và vị Bộ Trưởng thông thường
có chân trong Bộ Chính Trị. Trong trường hợp ngoại
lệ, một thành viên cao cấp của Bộ Chính Trị đảm
nhiệm việc giám sát chính sách ngoại giao.
Trái lại, Bộ Trưởng Bộ Quốc Pḥng luôn luôn
là thành viên của Bộ Chính Trị. Cho đến
khoảng năm 1992 hầu như không có một cơ chế phối hợp
hai
bộ này ngoài Bộ Chính trị. Năm 1992 Hội Đồng Quốc
Pḥng và An Ninh Quốc Gia được thành lập trong
đó những thành viện gồm có các bộ trưởng
ngoại giao, quốc pḥng và an ninh công cộng. Hội
Đồng này chưa hẳn đă đóng vai tṛ phối hợp.
Tóm lại, chính sách quốc pḥng của Việt
Nam, một mặt tuân hành những đường hướng chỉ đạo
tổng
quát của Bộ Chính Trị và Trung Ương Đảng, phần lớn
do Bộ Quốc Pḥng chỉ đạo.
Từ khi Chiến Tranh Lạnh chấm dứt, bối cảnh chiến
lước của chính
sách ngoại giao và quốc pḥng của Việt Nam
đă thay đổi rất nhiều. Những thay đổi khởi sự từ
giữa và
cuối thập niên 1980. Ít nhất hai yếu tố quan trọng
ảnh
hưởng đến tiến tŕnh này. Yếu tố thứ nhất liên quan
đến t́nh h́nh nội bộ của Việt Nam xuất phát từ
khủng hoảng kinh tế xă hội lúc đó Việt Nam phải
đương đầu. Yếu tố thứ hai do tác động bên ngoài
và xuất phát tử «suy nghĩ chính trị
mới» do Liên Bang Xô Viết đề xướng dưới sự
lănh đạo của Mikhail Gorbachev. Do sự hợp lưu của
các ảnh
hưởng nội bộ và ngoại tại, Việt Nam chuyển hướng từ
chính
sách ngoại giao hoạch định theo tiêu chí ư
thức hệ sang khuôn khổ chính sách ngoại giao đặt
trọng tâm nhiều hơn vào lợi ích quốc gia và
ngoại giao thực tiễn. Các nhà phân tích Việt
Nam chú trọng đến các lực lượng kinh tế tổng quát
và tác động của biến chuyển khoa học và kỹ thuật
và xem đó là yếu tố quyết định ổn định tổng thể
(Nguyễn Mạnh Cầm, 1995 : 223 230 và Vũ Khoan, 1995 :
71 76). Sự
tiến triển này có những bước tiệm tiến (Palmujoki :
2004)
và khung ư thực hệ của quá khứ cũng không bị
vứt bỏ hoàn toàn, những dấu vết của quá khứ vẫn
c̣n thấy được ngày nay.
Tháng Chạp năm 1986, tại Đại Hội thứ 6 của Đảng C
ộng sản Việt
Nam, Việt nam áp dụng chính sách đổi mới.
Chính sách này đặc biệt chú tâm đến
việc khắc phục khủng hoảng kinh tế trong nước bằng
cách
áp dụng cải cách kinh tế xă hội và cho
phép đầu tư ngoại quốc vào Việt Nam. Để thực hiện
những
mục tiêu này, Việt Nam phải giải quyết vấn đề Cam
bốt.
Nắm1987, Bộ Chính trị họp mật và thông qua nghị
quyết Số 2, điều chỉnh chiến lược trong chính sách
quốc
pḥng của Việt Nam «chiến tranh nhân dân
và quốc pḥng toàn dân». Kết quả của
chính sách chiến lược mới của Việt Nam là Việt Nam
rút toàn bộ lực lượng quân sự ra khỏi Lào
và Cam bốt và giải ngũ (phục viên) binh sĩ.
Quân đội Việt Nam hứa sẽ tài trợ để thực hiện những
biện
pháp này. Việc điều chỉnh chiến lược hệ trọng này
đặt nền tẳng cho những thay đổi lớn trong chính sách
ngoại giao.
Tháng 5 năm 1988, giới lạnh đạo đảng Việt Nam đồng ư
lập
một đường hướng mới về những mục tiêu của chính
sách ngoại giao. Việc này được thể hiện qua Nghị
Quyết số
13 của Bộ Chính Trị kêu gọi một «chính
sách ngoại giao đa phương» (Chu Văn Chức 2004 : 4
7).
Trọng tâm mới là «duy tŕ ḥa
b́nh, nương theo t́nh h́nh thuận lợi của thế
giới» nhằm mục đích ổn định t́nh h́nh trong
nước và đặt nền tảng cho bước ngoặc quan trọng trong
mối
liên hệ ngoại giao của Việt Nam. Bước xây dựng quan
trọng
kế tiếp trong « chính sách ngoại giao đa phương
» diễn ra tại đại hội đảng lần thứ 6 vào tháng 6
năm 1991 (Vũ Khoan 1995 : 75). Những tài liệu soạn
thỏa về
chính sách được thông qua đại hội này ghi
nhận Việt Nam sẽ « đa dạng và đa phương hoá tương
quan kinh tế với tất cả các nước và tổ chức kinh tế
?
» Nói tóm lại, Việt Nam bây giờ t́m
cách « làm bạn với tất cả các quốc gia?T.
Tháng 9 năm 1989, Việt Nam đơn phương rút quân đội
ra khỏi Cam bốt. Quân đội Nhân Dân Việt Nam,
lên đến 1, 2 triệu người năm 1987, đă giảm kích
thước qua việc giải ngũ 700.000 người trong ṿng 5
năm sau
đó. Tháng 10 năm 1991, Việt Nam kư hiệp định giải
quyết chính trị, kết thúc sự xung đột với Cam bốt.
Việt
Nam không c̣n là một quốc gia hủi trên trường
quốc tế, bị tẩy chay không được trợ giúp và
thông thương. Tóm lại, việc giải quyết xung đột Cam
bốt
là do kết quả thay đổi mối tương quan ngoại giao
trong
vùng, biến sự xung dột giữa hai khối thành sự hợp
tác giữa các nước Đông Nam Á.
Tháng 7 năm 1992 Việt Nam tham dự lần đầu tiên Hội
Nghị
thường niên Khối ASEAN (Hiệp Hội Các Nước Đông Nam
Á) với tư cách quan sát viên. Việt Nam tham
gia Hiệp Định Hữu Nghị và Hợp Tác 1976 của ASEAN tại
hội
nghị này. Khi tham gia như vậy, Việt Nam từ bỏ sử
dụng vơ
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong mối bang giao nước
ngoài và cam kết giải quyết bằng phương thức bất bạo
động
mọi xung đột có thể sẽ xảy ra. Hai năm sau, tại Hội
Nghị ASEAN
1994, Việt Nam được mời gia nhập ASEAN. Và Việt Nam
trở
nên thành viên sáng lập Diễn Đàn Khu
Vực ASEAN vào lúc đó. Đơn xin gia nhập ASEAN được
chính thức chấp nhận vào cuối năm và tháng
7 năm 1995, Việt Nam trở thành hội viên thứ bảy của
ASEAN.
Kể từ đại hội đảng lần thứ bảy năm 1991, Việt Nam đă
thành công trong việc đa dạng hoá mối liên hệ
ngoại giao. Có bảy tiến tŕnh đáng chú
ư: b́nh thường hoá bang giao với Trung Quốc
(tháng 11 năm 1991), tái lập viện trợ phát triển
của Nhật Bản (tháng 11 năm 1992), b́nh thường hoá
bang giao với Hoa Kỳ (tháng 7 năm 1995), thành viên
ASEAN (tháng 7 năm 1995), kư kết Hiệp Định Khung Hợp
Tác với Hiệp Hội Châu Âu (17 tháng 7 năm
1995), thành viên Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế ( WTO)
tháng 1 năm 2007 và thành viên không
thương trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc
(tháng
Giêng 2008). Lần đầu tiên, Việt Nam có quan hệ ngoại
giao với tất cả những thành viên của Hội Đồng Bảo An
Liên Hiệp Quốc và cùng không kém phần
quan trọng với ba trung tâm quyền lực kinh tế chính
của
thế giới : Châu Âu, Bắc Mỹ và Đông Á.
Năm 1989, Việt Nam chỉ có quan hệ ngoại giao với hai
mươi ba
quốc gia không c ộng sản. Sau một năm gia nhập khối
ASEAN, Việt
Nam đă đẩy mạnh mối bang giao với 163 quốc gia.
2. Bang
giao quốc pḥng của Việt
Nam, 1991-2004
Thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, Việt Nam duy tŕ bang giao
quốc
pḥng với một số ít quốc gia; Trung Hoa, Liên Bang
Xô Viết và những thành viên khác của
Hiệp Ước Warsaw là những nước thân cận nhất (2).
Viện trợ
quân sự của Trung Hoa giảm hẳn sau khi Hiệp Định Ḥa
Binh
Paris được kư năm 1973 và chấm dứt năm 1978 79 khi
hai
bên tranh chấp về vấn đề Cam bốt. Trung Hoa và Việt
Nam
giao chiến biên giới tháng Hai tháng Ba năm 1979
và chỉ b́nh thường hoá ngoại giao tháng 11
năm 1991. Thời Chiến Tranh Lạnh, Việt Nam cũng duy
tŕ bang giao
quốc pḥng với/hoặc những mối liên lạc với một số
ít quốc gia thân hữu trong đó có Lào,
Cuba, Ấn Độ, Cam bốt, Miến Điện, Nam Duong và Nam Tư
(Yougoslavia). Vào năm 2004, theo tuyên bố của Bộ
Quốc
Pḥng Việt Nam, Việt Nam đă thiết lập bang giao quốc
pḥng với hơn sáu chục quốc gia (Quân Đội
Nhân Dân, tháng Mười Hai, 2003). Tổng số ba mươi bốn
tùy viên quân sự được chính thức cộng nhận
tại Việt Nam, trong khi đó Việt Nam phái hai mươi
bốn
tùy viên ra nước ngoài (Thông Tấn Xă
Việt Nam, 29 tháng Mười Một, 2004).(3)
Trong bài này danh từ «bang giao quốc
pḥng» dùng để chỉ mối liên hệ quốc
pḥng chính thức giữa Bộ Quốc Pḥng Việt Nam
và đối tác ngoại quốc, chẳng hạn như Bộ Quốc Pḥng
Hoa Kỳ (4). Bang giao quân sự được thiết lập qua
việc trao đổi
phái đoàn, nh́n nhận tùy viên
quân sự, chương tŕnh hợp tác quốc pḥng,
và thỏa hiệp về buôn bán trang bị và vũ khi
và dịch vụ bảo tŕ. Trong thời gian từ tháng
Giêng 1990 cho đến tháng 12 năm 2006, Việt Nam đă
trao đổi 364 phái đoàn quốc pḥng cao cấp với bốn
mươi hai quốc gia (5). Để tiện cho việc phân tích,
những
phái đoàn này có thẻ chia làm năm
loại chính : cấp Bộ (MND), Tổng Tham Mưu Trưởng
(Chief of the
General Staff ?"CGS), cấp lănh đạo của Tổng Cục
Chính Trị
(General Political Departement GPD), cấp lănh đạo
Tổng Cục Hậu
Cần hoặc tương đương (General Logistics Department
GLD) và Cục
Trưởng Bảo Quản lục quân, thủy quân và không
quân (Biểu đồ 1).
Biểu đồ 1: Các chuyến công du cấp cao 1990 2004
cột màu nhạt: khách đến VN ?" cột xanh đậm: đoàn
VN thăm nước ngoài
Cộng với những phái đoàn cao cấp này, thời gian từ
1990 đến 2004 Việt Nam đă tiếp đón ít nhất 31
phái đoàn đại diện cho các đồng nghiệp ngoại quốc
và các trường quốc pḥng của chín nước (6).
Giữa 1990 và tháng 7 năm 2007, Việt Nam tiếp đón
58 thuyền khách của 16 quốc gia.
Trong số 364 trao đổi viếng thăm cao cấp, Việt Nam
tiếp nhận 207
phái đoàn và gởi đi 157 phái đoàn ra
nước ngoài. Khi nhịp độ trao đổi cao cấp đuợc diễn
thành
số ( tổng cộng con số phái đoạn tiếp nhận và gởi đi
cho
đến cuối năm 2004, ba quốc gia chiếm 1/3 tất cả các
phái
đoàn : Lào (40 trao đổi), Trung Hoa (33 trao đổi)
và Thái Lan (26 trao đổi). Hai phần ba c̣n lại gồm
có : Căm bốt (20), Ấn Độ (16) ; Phi Luật Tân và Nga
(13) ; và Hoa Kỳ (11) ; Pháp, Nam Dương và
Tân Gia Ba (10 lần mỗi nước) ; Cuba và Nhật Bản (mối
nước
9 lần) (7) ; Úc Đại Lợi (8), Bắc Triều Tiên, Nam
Triều
Tiên và Mă Lai (7 lần trao đổi mỗi nước) ; Ư
Đại Lợi, Miến Điện và Ukraine (6 lần trao đổi mỗi
nước) ;
và Ba Lan và Slovakia (4 lần trao đổi mỗi nước).
Giữa những năm 1990 và 2004, Việt Nam tiếp đón ba
mươi
bốn phái đoàn cấp bộ trưởng của 16 quốc gia. Đứng
đầu
danh sách các vị khách đến Việt Nam là
các bộ trưởng quốc pḥng của Lào (7 lần thăm
viếng), Thái Lan (5 thăm viến) và Cam Bốt (3 thăm
viếng).
Bộ trưởng quốc pḥng Việt Nam đă thực hiện 40 chuyến
công du sang 20 quốc gia trong cùng một thời kỳ. Bộ
trưởng
quốc pḥng Việt Nam thăm viếng thường nhất Lào (5
lần)
và Trung Hoa (4 lần). Trước khi Việt Nam gia nhập
ASEAN,
Hà Nội tiếp đón các bộ trưởng quốc pḥng
của Căm Bốt, Nam Dương, Lào và Cộng Ḥa Slovak.
Đồng thời lúc đó, bộ trưởng quốc pḥng Việt Nam
thăm viếng Trung Hoa, Nam Dương, Bắc Triều Tiên,
Lào,
Mă Lai, Miến Điện và Phi luật tân.
Thời gian sau khi giải quyết xung đột với Cam Bốt,
người ta chứng kiến
đà phát triển mạnh trong mối liên lạc cấp bộ
trưởng. Việt Nam phục hồi lại mối liên hệ quốc pḥng
với
các « đồng minh truyền thống » chẳng han như
Liên Bang Nga, Belarus, Bulgaria, Cộng Ḥa Czech, Ba
Lan,
Cộng Ḥa Slovak và Ukraine. Về phía Đông
Bắc, Việt Nam trao đổi phái đoàn cấp bộ với Trung
Hoa,
Nhật Bản và Nam Triều Tiên. Đáng chú
ư nhất là việc trao đổi những phái đoàn của
những quốc gia gọi là Tây phương : Úc Đại Lợi,
Áo, Bỉ, Phần Lan, Pháp, Đức, Ư, Thụy Sĩ và
Hoa Kỳ. Cộng với mối liên hệ lâu đời với Cuba và Ấn
Độ, Việt Nam cũng đă khai triển những mối liên hệ
cấp bộ
tại Châu Phi (Algeria và Nam Phi) và Châu Mỹ
La Tinh (Brazil).
Khi nh́n các dữ kiện về những trảo đổi cấp cao trên
b́nh diện thời gian (xem biểu đồ 2), chúng ta thấy
rơ năm 1994 đánh dấu sự khởi đầu thực sự của bang
giao
quốc pḥng. Chúng ta thấy khuynh hướng chung kể từ
đó con số các phái đoàn quốc pḥng
cấp cao đến Việt Nam đă gia tăng một cách đều đặn
và đạt cao điểm vào những năm 2001 và 2003.
Có một sự giảm sút đáng chú ư trong
việc trao đổi phái đoàn vào những năm 1995
và 2003, điều này có lẽ phẩn ánh những điều
kiện kinh tế khó khăn của Việt Nam, tiếp theo đó
là khủng hoảng tiền tệ tại Châu Á , đă
làm cho những sinh hoạt cộng tác quốc pḥng trong
vùng giảm xuống toàn bộ. Con số phái đoàn
Việt Nam gởi đi ngoại quốc đă phản ánh nhưng lại
theo sau
khuynh hướng tổng quát đi lên của các phái
đoàn cao cấp được Việt Nam tiếp đón.
Cần chú ư những trao đổi phái đoàn đại diện
cho Tổng Cục Chính Trị (GPD) chỉ diễn ra giữa những
nước
xă hội chủ nghĩa. Con số trao đổi cao nhất trong
phái
đoàn GDP được thực hiện với Lào (44% tồng số) và
Trung Hoa (29%)
Phạm trù Hậu Cần là phần phái đoàn linh
tinh ở cấp bộ. Phạm trù này phản ánh cơ cấu tổ
chức của Việt Nam trong đó Tổng Cục Trưởng Tổng Cục
Hậu Cần cũng
là thứ trưởng Bộ Quốc Pḥng. Những phái
đoàn ngoại quốc do Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Hậu Cần
tiếp
đón cũng được đặt vào loại này. Phạm trù
Hậu Cần cũng bao trùm những trao đổi giữa cục liên
hệ nước
ngoài (external relations department ?" ERD) của các
cơ
quan thuộc bộ quốc pḥng và những nhóm khác
chẳng hạn như khoa mật mă (Lào) và huấn luyện
quân sự (Nga).
Phạm trù thứ năm của những phái đoàn cao cấp bao
gồm những trưởng ban ( lục quân, thủy quân và
không quân). Một lần nữa, cần lưu ư các lực
lượng quốc pḥng không sắp xếp theo cùng cơ cấu
này. Ví dụ Hoa Kỳ có một số các cấp chỉ huy
tác chiến phụ trách vùng địa lư
trách nhiệm, như Chỉ Huy Thái B́nh Dương (Pacific
Command ?" PACOM). Chỉ Huy Trưởng PACOM của Hoa Kỳ (
trước đây
là CINCPAC) được liệt vào loại Tổng Cục Trưởng Hậu
Cần
cũng như các cấp chỉ huy của những hạm đội Nga và
Pháp. Các dữ liệu cho thấy sự không cân bằng
rơ rệt trong số những trao đổi qua lại. Giữa những
năm 1990
và 2004, Việt Nam đón nhận bốn mươi phái
đoàn trong loại Tổng cục Hậu Cần trong khi đó chỉ
gởi đi
ngoại quốc chín phái đoàn.
Việc trao đổi các phái đoàn quốc pḥng cao
cấp được dùng với nhiều mục đích khác nhau trong
đó có việc bày tỏ thiện chí, thăm viếng
ngoại giao của những viên chức mới nhậm chức, đối
thoại về chiến
lược và một số sinh hoạt hợp tác thực dụng về quốc
pḥng giữa các bộ, các hầu cần quân đội
và kỹ nghệ quốc pḥng. Đoạn này sẽ duyệt
xét một vài liên hệ hợp tác quốc
pḥng đáng lưu ư khởi sự với ba nước mà
Việt Nam đă trao đổi phái đoàn cao cấp nhất.
Biểu đồ 2: Các chuyến công du cấp cao 1992 2006
đường màu hồng: khách đến VN ?" đường xanh đậm:
đoàn VN thăm nước ngoài
3. Liên hệ quốc pḥng
với
các nước trong khối ASEAN
Song phương. Việt Nam đă trao đổi bang giao quốc
pḥng
cấp cao khá ráo riết với sáu nước trong số mười
thành viên của khối ASEAN. Cùng với Lào
và Căm Bốt, danh sách này bao gồm Thái Lan,
Phi Luật Tân, Nam Dương và Tân Gia Ba (Singapore).
Mối liên hệ quốc pḥng với Brunei, Mă Lai và
Miến Điện không có tác dụng quốc pḥng
đáng kể nào.
Cường độ trao đổi bang giao quốc pḥng giữa Thái Lan
và Việt Nam cần được lưu ư. Nội dung chính của mối
liên hệ quốc pḥng là những thăm viếng trao đổi
ngoại giao, trao đổi giữa các trường tham mưu và
các trường cao đẳng quốc pḥng, và an ninh
hàng hải (8). Tuy nhiên cũng có thêm những
vấn đề thực dụng. Ví dụ, tháng Giêng năm 2007, Chỉ
Huy Trưởng Tối Cao của Quan Đội Thái, Đại Tướng
Boonsrang
Niumpradit, đă thảo luận với Tổng Tham Mưu Trưởng
Quân Đội
Nhân Dân Việt Nam (VPA Vietnamese People Army),
Trung Tướng
Nguyễn Khắc Viện về việc hợp tác huấn luyện, tuần
tra
hàng hải, t́m và cứu ngư phủ, tranh đua thể thao
và «những vấn đề khác cùng quan
tâm». Tháng 12 năm 2007, Đại Tướng Anupong Pachinda,
Chỉ Huy Trưởng Quân Đội Hoàng Gia Thái viếng thăm
Hà Nội và bàn thảo với Trung Tướng Nguyễn Hữu
Kham, Phó Tồng Tham Mưu. Vị khách Thái cũng
làm việc với các «cơ cấu» của Quân Đội
Nhân Dân.
Cường độ liên lạc quốc pḥng cấp cao giữa Phi Luật
Tân và Việt Nam đứng hạng thứ hai sau mối liện hệ
với
Thái và Việt Nam. Những thăm viếng quốc pḥng cấp
cao kể từ năm 1994 thường đặt trọng tâm đến những
vấn đề an ninh
tại Biển Nam Hải và những va chạm liên quan đến các
ngư phủ Việt Nam và Thái trên lănh hải
mà cả hai bên đều nhận chủ quyền. (9) Đầu tháng 4
năm 1994, Tổng Thống Fidel Ramos, trong chuyến viếng
thăm chính
thức Việt Nam, đă mời tặng mười chỗ cho sinh viên sĩ
quan
Việt Nam trong Trường Cao Đẳng Quốc Pḥng của Phi
Luật
Tân. Ông cũng đề nghị «trao đổi viếng thăm của
các viên chức cao cấp quân sự, những khoá tu
nghiệp cho các sĩ quan và huấn luyện viên
quân sự và đầu tư trong việc tái thiết bị
quân cụ, trong đó bao gồm phi cơ, để tái xuất
khẩu». Không thấy nói đến kết quả thương thảo. Sau
chuyến viếng thăm của tổng thống Ramos, các viên
chức
quân sự đă thăm viếng vịnh Subic để nghiên cứu khả
năng chuyển sang khai thác thương mại và rút ra
những kinh nghiệm để có thể thương mại hoá Vịnh Cam
Ranh.
Một trong những chỉ dấu sớm sủa nhất cho thấy Việt
Nam chú
ư đến việc trợ giúp kỹ thuật trong việc sửa chữa
và bảo tŕ quân cụ nằm ngoài khối Hiệp Ước
Warsaw xuất hiện vào cuối năm 1991 trong lúc Trung
Tướng
Teddy Rusdy, Phụ Tá Chỉ Huy Trưởng của Quận Đội Nam
Dương. Trong
lúc bàn thảo tại Tổng Cục Kỹ Nghệ và Kỹ Thuật Quốc
Pḥng của Quân Đội Nhân Dân (VPA), Tướng Rusdy
nhận được yêu cầu trợ giúp kỹ thuật trong việc sửa
chữa
và bảo tŕ quân cụ. Nam Dương chấp nhận
nghiên cứu tỉ mỉ về vấn đề này ; nhưng không thấy
có những tiến triển nào khác.
Năm 1993, các bộ trưởng quốc pḥng Nam Dương và
Việt Nam trao đổi thăm viếng. Tướng Đoàn Khuê, Bộ
Trưởng
Quốc Pḥng Việt Nam, đặc biệt chú ư xưởng
đóng tàu và được đưa đến Surabaya để xem tận mắt.
Đây là một chỉ dấu Việt Nam đang xem xét khả năng
kết hợp đối tác trong việc đóng tàu tại Việt Nam.
Năm 1995, một phái đoàn đại diện cho tập đoàn sản
xuất phi cơ của chính phủ Nam Dương đến Việt Nam để
thăm
ḍ khả năng khởi sự công tác tại đây. Một lần
nữa không có dấu hiệu ǵ xuất phát từ những
liên hệ thăm ḍ này.
Khủng hoàng tài chánh năm 1997 tại Á
Đông và ảnh hưởng của nó lên trên Nam
Dương trói buộc khả năng hợp tác của Nam Dương với
Việt
Nam trong lănh vực quốc pḥng. Nam Dương đă phục
hồi quan tâm đầu năm 2002 khi Trung Tướng Johny
Lumintang, Tổng
Thư Kư của Bộ Quốc Pḥng và An Ninh họp bàn
tại Hà Nội với Tổng Cục Hậu Cần và Tổng cục Công
nghiệp Quốc pḥng của Quân Đội Nhân Dân. Những
viếng thăm cao cấp gần đây có tính cách
ngoại giao, chẳng hạn như chuyến viếng thăm tháng 8
năm 2007 của
Chỉ Huy Trưởng Không Quân của Nam Dương .
Bang giao quốc pḥng giữa Singapore vả Việt Nam khởi
sự
vào tháng 3 năm 1995 với việc viếng thăm Singapore
của
Tướng Đoàn Khuê, Bộ Trưởng Quốc Pḥng. Kể từ
đó hai nước đă trao đổi mười một phái đoàn
cao cấp (cho đén tháng 8 năm 2005). Chiều hướng cho
thấy
họ chú tâm và có thể hợp tác
công nghệ quốc pḥng. Ví dụ, tháng 11 năm
1995, cấp chỉ huy của Tổng Cục Kỹ Thuật Quân Đội
(VPA) dẫn một
phái đoàn mười người trong một ṿng thăm viếng
công nghệ quốc pḥng sở tại. Vào cuối năm sau,
Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Quốc Pḥng Bác
Sĩ Tony Tan Keng Yam thăm viếng Việt Nam. Sau khi
thảo luận với đối
tác Việt nam, họ đồng ư Việt Nam sẽ gởi một phái
đoàn sang Singapore để nghiên cứu kinh nghiệm tân
trang và cải tiến hệ thống vũ khí (Thông Tấn
Xă Việt Nam, 27 /11/1996). Tháng 3 năm 1999, Trung
Tướng
Lê Văn Dũng , Tổng Tham Mưu Trưởng, viếng thăm
Singapore
và được mời tham dự một buổi thuyết tŕnh của Tổ Hợp
Kỹ
Thuật Công Nghệ. Năm 2002, báo cáo cho biết
là Singapore và Việt Nam đă đạt thỏa thuận
«trên nguyên tắc» hợp tác thao dợt chiến
hải.
Được biết Hà Nội muốn Singapore Automotive
Engineering (
bây giờ là chi nhánh ST kinetics của ST
Engineering) trợ giúp tân trang thiết giáp M113 APC
thời chiến tranh Việt Nam. Việc đại tu cơ bản 50
chiếc thiết
giáp M113 hiện đang diễn ra tại căn cứ quận sự thành
phố
Hồ Chí Minh. Những bộ phận đă được thu mua qua những
ngă thương mại và hệ thống vũ trang sẽ được lấy ra
cải
đặt từ những kho chiến tích thiết giáp được thiết kế
cho
đơn vị đồn trú miền Nam.
Tháng 9 năm 2007, Bộ Trưởng Quốc Pḥng Singapore Teo
Chee
Hean, viếng thăm Hà Nội để đàm phán với đối
tác Tướng Phùng Quang Thanh. Báo chí thuật
lại hai bộ trưởng trao đổi kinh nghiệm trong việc
xây dựng
quân đội, pḥng chống khủng bố, trợ giúp nhân
đạo và thiên tai và ǵn giữ ổn định. Họ đồng
ư tiếp tục trao đổi phái đoàn. Tháng 11 năm
2007, Tướng Thanh thăm viếng ba ngày đáp lễ
Singapore
và được mời đến các căn cứ không quân
và hải quân tại Lion City. Tháng 3 năm 2008 Đại
Tướng Ng Chee Khern , chỉ huy trưởng Không Quân
Singapore
thăm viếng Hà Nội để bàn thảo việc hợp tác tiến
hành trong những phi vụ t́m kiếm và cấp cứu,
phát triển nguồn nhân lực và huấn luyện ngoại ngữ.
Tướng Khern cũng đă thăm viếng và làm việc với
các sĩ quan Pḥng Không và Không
Quân. Gần đây nhất, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Quốc
Pḥng Singapore, Desmond Kuek thăm viếng Hà Nội
vào tháng 4 năm 2008 và đă thỏa luận với
Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân, Trung Tướng
Nguyễn Khắc Nghiên. Họ đă được thỏa ước hợp tác
quốc pḥng trong việc huấn luyện, đội ngũ quân y và
cứu trợ nhân đạo.
Những liên lạc quốc pḥng giữa Mă Lai và
Việt Nam khởi sự từ năm 1992 những chưa đạt đến mức
cao cấp cho đến
tháng 10 11 năm1994 khi Tướng Đoàn Khuê, bộ trưởng
quốc pḥng Việt Nam, chính thức viếng thăm Kuala
Lumpur.
Hành tŕnh của tướng Khuê bao gồm việc viếng thăm
viện tham mưu Quân Đội Mă lai, Kỹ Thuật Chất Nổ
Syarikat
Mă Lai, Airod Sdn Bhd, Trung Tâm Huấn Luyện Quân Sự
Đặc Biệt Udang và Căn Cứ Hải Quân Lumut. Theo lời
của Bột
Trưởng Quốc Pḥng Seri Najib Tun Razak: «Chúng
tôi đồng ư khai triển một h́nh thức hợp tác
và cộng tác quốc pḥng, nhưng chúng
tôi không đi sâu vào chi tiết. Tôi muốn
họ nh́n thấy công nghệ của chúng tôi
trước». Mặc dù không kư hiệp ước hữu nghị
(MOU : Memorandum of Understanding), hai nước chấp
thuận cải tiến hợp
tác quốc pḥng qua các cuộc thăm viếng, huấn luyện
và hợp tác trong công nghệ quốc pḥng. Mặc
dù đă có những trao đổi cấp cao tiếp theo
đó, nhưng cho đến nay không thấy ai nói đến việc
hợp tác cụ thể về kỹ nghệ quốc pḥng.
Đa phương. ASEAN tránh những sinh hoạt quốc pḥng đa
phương trong quá tŕnh thành lập. Trước năm 2003
những sinh hoạt hợp tác quân sự của các nước trong
khối ASEAN rất là khiêm tốn : thi đấu bóng
đá và bóng chuyền quân đội, thi bắn thiện xạ
(10), họp mặt hai năm một lần các cựu chiến binh
(11). Đợi đến
năm 2003 với sự phê chuẩn Hiệp Định Ḥa Hợp Bali II,
ASEAN
mới đặt tiêu chí trở thành một cộng đồng an ninh
vào khoảng 2015. Kế Hoạch Hành Động của Cộng Dồng An
Ninh
ASEAN bao gồm sáu phần : phát triển chính trị,
h́nh thành và chia sẻ những tiêu chuẩn, ngăn
ngừa xung đột, giải quyết xung đột, xây dựng ḥa
b́nh hậu xung đột, và thực hiện những cơ cấu.
Tháng Năm 2004, Nhóm Làm Việc Hợp Tác An
Ninh của Hội Nghị Đặc Biệt Viên Chức Cao CấpASEAN
yêu cầu
Ban Thư Kư ASEAN sọan thảo một tiền dự án thành
lập Hội Nghị Bộ Trưởng Quốc Pḥng ASEAN (ADMM ?"
ASEAN Defence
Ministers Meeting). Tiền dự án ấn định ADMM sẽ là bộ
phận
bất khả phân của ASEAN và báo cáo trực tiếp
lến Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN. Nó đặc biệt trác
nhiệm
trong bốn lănh vực : (1) đề xướng ḥa b́nh
và ổn định qua đối thoại và hợp tác; (2) vạch
đương hướng cho các viên chức cao cấp quốc pḥng
và quân sự; (3) đề xướng ḷng tín nhiệm
và tin cậy hỗ tương, tính minh bạch; và (4)
góp phần xây dựng Cộng Đồng An Ninh của ASEAN.
Hội Nghị ADMM họp mặt mỗi năm và có tính chất
« mở rộng, uyển chuyển, hướng ngoại » và trợ
giúp các nỗ lực trong vùng để đẩy mạnh đối thoại
an ninh và hợp tác trong đó bao gồm những biện
pháp xây dựng tín nhiệm và hợp tác cụ
thể trong khuôn khổ của ASEAN. Hội Nghị ADMM có
trách nhiệm giám sát cuộc Họp không
chính thức của các Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Quốc
Pḥng , Hội Nghị Đa Phương các Chỉ Huy Trưởng Quân
Đội của ASEAN, Hội nghị các Chỉ Huy Trưởng Không
Quân, Tương Tác Hải Quân của ASEAN, Họp không
chính thức của Quân Báo ASEAN. Hội Nghị ADMM
có trách nhiệm tiến hành đối thoại với các
bằng hữu và đối tác.
Việc chấp thuận đề nghị thành lập Cộng Đồng An Ninh
ASEAN bảo
đảm cho những sinh hoạt đa phương được thực hiện.
Thái Lan chủ
sự tiếp đón cuộc họp đầu tiên của các Chi Huy
Trưởng Không Quân ASEAN vào tháng 3 năm 2004
(12). Hội Nghị này chấp thuận kế hoạch thành lập
những
kênh thông tin trực tiếp để đẩy mạnh hợp tác. Hội
Nghị Cấp Bộ Hàng Năm được tổ chức tại Jakarta vào
tháng 6 năm 2004 tán thành kế hoạch tổ chức những
khoá huấn luyện quân sự đặc biệt đặt trọng tâm
vào việc pḥng chống khủng bố. Nhưng những kế hoạch
này cho đến nay xem ra khiêm nhường và chỉ bao gồm
những sinh hoạt song phương.
Đáng chú ư hơn nữa, Hội Nghị Đa Phương Thứ 5 Chỉ
Huy Trưởng Quân Đội ASEAN tại Tây Java vào
tháng 9 năm 2004 chấp thuận lời đề nghị gia tăng hợp
tác
chống kủng bố qua phương cách trao đổi t́nh báo
và thao tác hỗn hợp. Các chỉ huy trưởng đồng
ư thành lập một nhóm làm việc để soạn thảo
một chương tŕnh chi tiết. Người ta đă ghi nhận lời
tuyên bố của Đại diện của Việt Nam, Phó Tổng Tham
Mưu
Trưởng Tướng Nguyễn Năng Nguyên trong Quân Đội Nhân
Dân sẽ đẩy mạnh hợp tác với các quân đội
trong khối ASEAN « để chống khủng bố và góp phần
xây dựng một ASEAN ḥa b́nh, ổn định, thịnh vượng
và bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia. »
Tháng 11 năm 2007, ASEAN đồng ư một tiến tŕnh cho
Dự Thảo Dự Án và chấp thuận để cho Hội Nghị ADMM mở
rộng
những mối liên hệ qua một cơ chế được mệnh danh là
ADMM
Plus. Một Bản tuyên bố chung được công bố lúc
đó xác nhận một chương tŕnh làm việc ba
năm về đối thoại và hợp tác quốc pḥng.
4. Mua sắm
Quốc Pḥng và Hợp Tác Công Nghệ Quốc
Pḥng
Vào khoảng thời gian 1990 và 2004, Việt Nam trao đổi
phái đoàn cao cấp quốc pḥng với 42 quốc gia.
Báo giới cho biết những cuộc thảo luận về một vài
khía cạnh của việc mua sắm quốc pḥng, hợp tác
công nghệ quốc pḥng , nghiên cứu và
phát triển và huấn luyện kỹ thuật nằm trong lịch
tŕnh thảo luận với ít nhất 23 quốc gia. Đoạn này
t́m hiểu ư định Việt Nam mua sắm vũ khí,
các dàn thiết bị và các trang bị quân
sự khác ; thỏa ước bảo quản vũ khí và hợp
tác công nghệ quốc pḥng.
Việt Nam không dồi dào tài nguyên để cung
hiến cho nền quốc pḥng quốc gia. Quân Đội Nhân
Dân Việt Nam theo truyên thống vẫn bổ sung ngân
sách của ḿnh qua những sinh hoạt kinh tế và
thương mại ; từ khi áp dụng chính sách đổi mới,
các xí nghiệp do quân đội quản lư đă
thỏa hiệp hợp doanh với những đối tác ngoại quốc để
kiếm tiền
mặt. T́nh h́nh tài chánh của Quân Đội
Nhân Dân Việt Nam đặc biệt bấp bênh ngay sau thời
gian Liên Bang Xô Viết sụp đổ. Những con số do Cơ
Quan Kiểm
Soát Vũ Khí và Giải Giới của Hoa Kỳ đưa ra cho
thấy một sự giảm sút rơ nét trong việc nhập khẩu
vũ khí từ 1,1 tỷ Mỹ Kim năm 1991 xuống 10 triệu Mỹ
Kim năm 1992
và 10 triệu Mỹ Kim năm1993 tăng lên 90 triệu Mỹ Kim
năm
1994. Năm 1992, Việt
Nam xoay xở để bù đắp chi phi nhập khẩu bằng cách
xuất
khẩu 10 triệu Mỹ Kim trong việc bán vũ khí. Đây
là lần xuất khẩu vũ khí đầu tiên ghi nhận được kể
từ năm 1988 (13).
Biểu đồ 3 dưới đây cho thấy những chí phí ước định
cho quốc pḥng theo trị giá đồng, đồng tiên Việt
Nam, tính theo phần trăm của tổng số lượng chi phí
của
chính phủ trong thời gian từ 1993 đến 2003 (14). Chi
phí
quốc pḥng ở vào lưng chừng dưới 30% có phần giảm
sút đôi chút vào những năm gần đây.
Biều đồ 4 cho thấy ngân sách quốc pḥng
chính thức chuyển thành Mỹ Kim trong cùng một hời
gian. Ngân sách quốc pḥng đă gia tăng gấp
đôi giữa những năm 1993 và 1997 cho đến 2 tỷ Mỹ Kim,
rồi
giảm xuống trong ṿng hai năm v́ khủng hoàng
tài chánh Châu Á, rồi kể từ đó gia
tăng một cách đều đặn .
Biểu đồ 3: Tỉ trọng ngân sách quốc pḥng hằng năm
Biểu đồ 4: Ngân sách quốc pḥng hằng năm (quy ra
đô la)
Ngân sách quốc pḥng của Việt Nam là một
bí mật quốc gia. Việt Nam rất hiếm khi cung cấp
những
thông tin về việc thu mua vũ khí, những thỏa ước
bảo quản
và hợp tác cộng nghệ quốc pḥng. Ví dụ,
Việt Nam đă chuyền đạt báo cáo về nhập khẩu
và xuất khẩu đề ghi vào Sổ Bạ Vũ Khí Quy Ước của
Liên Hiệp Quốc hàng năm kể từ năm 1994. Trong thời
gian
này Việt Nam báo cáo nhập khẩu vũ khí chỉ
có 4 năm, 1995, 1997, 2004, 2005. Việt Nam ghi «
không » cho tất cả những năm khác. Những báo
cáo này không đầy đủ. Ukraine báo cáo
bán cho Việt Nam những năm 1995, 1996, 2002 và
2003,
không ghi trong báo cáo của Việt Nam (xem Bảng 1)
Bảng 1
Báo Cáo Sổ Bạ Vũ Khí Quy Ước của Liên Hiệp
Quốc [1]
Ghi Chú:
[1] Sổ Bạ Vũ Khí Quy Ước ghi nhận dữ liệu do các
nước
xuất khẩu và nhập khẩu cung cấp theo bày loại
chính : chiến xă, thiết giáp, hệ thống pháo
tầm cỡ lớn, chiến đấu cơ, trực thăng xung kích và
tên lửa và dàn phóng tên lửa.
[2] Báo cáo của Liên Bang Nga cho tài
khoá 2004.
[3] Báo Cáo của Cộng Ḥa Czech cho tài
khoá 2005.
[4] Báo cáo của Ukraine cho tài khoá 2005.
Cho đến tháng 11 năm 1998, Việt Nam bị ngăn cấm
trong việc mua
bán vũ khí và trang bị quân sự v́
luật pháp an ninh Hoa Kỳ cấm cản việc buôn bán
thiết bị quân sự cho Việt Nam trong đó có kỹ thuật
của Hoa Kỳ. Cho đến khi lệnh cấm vận của Hoa Kỳ gỡ
bỏ, Việt Nam buộc
phải t́m những nước có những thiết bị tương hợp với
thiết
bị của Xô Viết. Tuy nhiên, điều này không ngăn
cấm Việt Nam tham ḍ thị trường. giá cả và sự
tương hợpthiết bị quyết định việc thu mua vũ khí và
thiết
bị quân sự của Việt Nam.
Liên
Bang Nga.
Vào giữa năm 1992, Nga thay đổi đột ngột chính
sách của ḿnh và rút ra khỏi vịnh Cam Ranh
và bắt đầu một loạt thương thảo với Việt Nam về
những kỳ hạn
và điều kiện để lưu lại đây. Hai bên không
thỏa hiệp được và tháng 5 năm 2002 Nga rút
toàn bộ ra khỏi Cam Ranh. Tháng 6 năm1994, Nga và
Việt Nam kư một hiệp định hữu nghị thay thế cho Hiệp
Định Hữu
Nghị và Hợp Tác năm 1978. Tháng 8 năm 1998, Việt
Nam và Liên Bang Nga tuyên bố « tinh thần đối
tác chiến lược mới », và hai năm sau, cả hai
bên cuối cùng đạt thỏa thuận về việc giải quyết
những
món nợ đặc biệt.
Liên Bang Nga vẫn tiếp tục là nguồn cung cấp chính
vũ khí và thiết bị quân sự, nhưng đă
có chỉ dấu vấn đề giá cả đă khiến Việt Nam phải đa
hoá nhập khấu. Năm 1994, Việt Nam và Nga đă
kư ba khế ước mua bán quan trọng (15). Khế ước đầu
tiên bao gồm việc bán 6 chiến đấu và oanh tạc cơ
Sukhoi Su 27, một máy thiết bị bay mô h́nh
hoá và một chương tŕnh huấn luyện cho phi
công và nhân viên bảo tŕ. Báo
cáo do Nga và Việt Nam gời cho Sổ Bạ Vũ Khí Quy
Ước Liên Hiệp Quốc xác nhận việc giao 5 chiếc Su 27
SK
và một chiếc Su 27 UBK chiến đấu cơ cho Việt Nam năm
1995. Việt
Nam tiếp tục mua thêm 6 chiếc Su 27s (16). Khế ước
thứ hai
liên quan đến việc bán hai loại chiến hạm
nhanh1241RA
(Fast Attack Craft ?" FAC) ; khế ước thứ ba liên
quan đến việc
bán 4 hệ thống ra đa pḥng không.
Năm 1996, Nga và Việt Nam thiết lập một công ty hợp
doanh
để đồng sản xuất những chiến hạm KBO 200 và loại BPS
500 tại
xưởng hải quân Ba Son tại thành phố Hồ Chí Minh.
Loại đầu tương đương với tàu hộ tống nhỏ và loại thứ
hai
là một loại chiến hạm nhanh nhỏ hơn có trang bị tên
lửa hải đối hải (SSM ?" Surface to Surface Missile).
Việt Nam cũng đề
nghị đồng sản xuất ra đa pḥng không và tên
lửa hải đối hải. Sau đó, Việt Nam mua thêm 4 chiến
hạm
nhanh 1241RA và tên lửa SSM (17) . Giữa hai năm1996
và 1998, Nga tân trang 32 chiến đấu cơ b́nh địa một
chỗ ngồi Su 22M4 và hai chỗ ngồi Su 22UM3.
Năm 1997, nguồn
tin từ công nghệ quốc pḥng Nga cho biết đă
bán mốt số chiến đấu xa BP 3A và chiến xa T 8OU
cho Việt
Nam. Văn Pḥng Thiết Kế Hàng Hải Trung Ương
Almaz
của Nga giao hai loại tàu tuần tra 14310 Svetlyak
vào
tháng 12 năm 2002 để dùng cho việc Tuần Tra Bờ Biển.
Mối liên hệ quốc pḥng giữa hai nước được củng cố
thêm qua chuyến viếng thăm tháng Hai, tháng ba năm
2001 tại Việt Nam của Tổng Thống Nga Vladimir Putin.
Thời gian
ông ở lại đây, cà hai nước đều đồng ư «
thắt chặt hợp tác về thiết bị quân sự để đáp ứng
nhu cầu của Việt Nam ». Năm 2002, Liên Bang Nga liệt
kê đă bán 8 tên lửa và dàn
phóng tên lửa cho Việt Nam trong bản báo cáo
hàng năm gởi cho Sổ Bạ Vũ Khí Quy Uớc Liên Hiệp
Quốc.(18). Năm 2003, Nga và Việt Nam kư kết thỏa ước
mua
bán ba vũ khí quan trọng : 4 chiến đấu cơ Su 30 MKK
(có thể thêm 8 chiếc nữa) ; hai tàu phóng
tên lửa Molnya 1241.8 (hạng Ho A của Việt Nam), cộng
thêm
với tám chiếc lắp ráp tại Việt Nam (19) và hai
khẩu đội (gồm 12 dàn phóng mỗi cái) hệ thống
tên lửa hải không S 300PMU1 trong một khế ước trị
giá 200 triệu Mỹ Kim. Giao dịch về 12 hệ thống này
trị
giá vào khoảng 300 triệu nếu tất cả các thiết bị
được cung cấp. Tổng số chi phí mua vũ khí năm 2003
đước
ước chừng vào khoảng 480 triệu Mỹ Kim.
Năm phi cơ Su 30 được giao vào cuối năm 2004. Tuy
nhiên,
việc mua 8 tám chiếc c̣n lại xem ra quá đắt đối
với Việt Nam. Nhưng chiếc SU 27 và SU 30 cần được
tân
trang để có thể hoạt động với những tên lửa không
đối không, không đối hải và đối hạm, đặc biệt
tên lửa R 77 vượt xa tầm nh́n AAM. Khẩu đội S
300PMU1 được
giao vào tháng 8 năm 2005.
Tháng 3 năm 2005, được biết Việt Nam có thể mua
thêm 8 đến 10 chiến đấu cơ, với loại ưa chuộng SU 27
hoặc SU
30MK. Thiếu hụt ngân sách xem ra là một ngăn trở
lớn và là yếu tố quyết định năm đó Việt Nam mua 40
chiến đấu cơ Sukhoi SU 22 đă dùng. Chương tŕnh Dự
Án 2100 lắp ráp tàu hộ tống nhỏ của Nga
h́nh như đă bị băi bỏ. Người ta luôn
luôn nghi ngờ khả năng Việt Nam có những kỹ năng bản
xứ để
lắp ráp những chiếc tàu tương đối phức tạp như thế.
Cộng
thêm vào những món « cỡ bự »
này, Nga cung cấp cho Việt Nam những phụ tùng và
trợ giúp bảo tŕ và tân trang thiết bị
quân sự. Nhân công quân sự Việt Nam tiếp tục
học tại các trường Cao đẳng quân sự Nga.
Tháng 12 năm 2007, Nga và Việt triệu tập một buổi
họp
thường niên của Ủy Ban Liên Chính Hợp Tác Kỹ
Thuật Quân Sự. Giám đốc của Cục Liên Bang Hợp
tác Quân Sự và Kỹ Thuật đứng đầu phái
đoàn Nga. H́nh như Việt Nam đang muốn thương lượng
với
Nga để mua thêm 6 tàu hộ tống «Tarantul 3 ».
Nhưng loại 3s được trang bị tên lửa SS N 22 Sunburn
giống như
những chiến hạm « Sovremmeny » của Trung Hoa. Việt
Nam mong
muốn có được tàu ngầm tầm cỡ lớn của Nga, khởi sự từ
hai
hoặc ba dàn dựng. Chưa thấy hợp đồng nào được kư
hay sắp được kư cả.
Ukraine.
Có lẽ Ukraine đứng hàng thứ hai sau Liên Bang Nga
là quốc gia cung cấp thiết bị quân sự và huấn luyện
kỹ thuật tại Việt Nam. Hợp tác quốc pḥng giữa Việt
Nam
và Ukraine khởi sự vào tháng 3 năm 1994 khi Tổng
Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân viếng thăm Kiev.
Tổng Tham Muu Phó Quân Đội Nhân Dân
tháp tùng vị thử tướng trong một chuyến viếng thăm
tháng 6 năm đó. Sau đó, được biết Ukraine
bán cho Việt Nam 14 tên lửa R27R1 (470 1) và
dàn phóng tên lửa năm 1995 và 6 phi cơ huấn
luyện MIG 21 năm 1996. Tổng tham mưu trưởng của quân
đội Ukraine
viếng thăm đáp lễ tháng 9 năm 1997 và bàn
thảo hợp tác về việc mua bán thiết bị, kỹ thuật và
huần luyện nhân sự. Kết qua của việc viếng thăm của
bộ trưởng
quốc pḥng Việt Nam tháng 5 năm 2002, Việt Nam và
Ukraine đạt thỏa thuận về một chương tŕnh hợp tác
kỹ
thuật quan sự dài hạn cho đến năm 2005. Theo quy
định của hiệp
định này, Ukraine sẽ trợ giúp Việt Nam tân trang hệ
thống pḥng không của Việt Nam (ra đa, hệ thống liên
lạc và tên lửa địa đối không), chiến đấu không
phận, lực lượng thủy quân, xe bọc sắt và pháo binh.
Đặc biệt, các chuyên viên Ukraine đă thiết
lập kế hoạch để canh tân lực lượng thủy quân và
pḥng không Việt Nam. Những kế hoạch này đ̣i
hỏi sự can thiệp sâu sát của Ukraine trong một số
những
lănh vực như cải tiến xưởng đóng tàu Ba Son tại
thành phố Hồ Chí Minh ; khai triển những thiết bị
thử
nghiệm hàng hải ; đồng sản xuất vũ khí ; trao đổi sĩ
quan
hạng trung ; sửa chữa, tân trang và cung cấp tất cả
mọi
loại thiết bị và vũ khí. Ukraine sẽ huấn luyện từ 30
đến
40 sĩ quan cao cấp Quân Đội Nhân Dân cho đến cấp
tướng tại trường cao đẳng quân sự. Theo báo cáo
Ukraine gởi cho Liên Hiệp Quốc, họ bán 10 phi cơ
huấn
luyện chiến đấu cho Việt Nam vào năm 2002 và 2003. Năm
2005, Việt Nam mua 3
chiếc phi cơ « Fitter » không rơ kiểu
nào của Ukraine.
4. Mua sắm
Quốc Pḥng và Hợp
Tác Công Nghệ Quốc Pḥng (TT)
Ấn Độ. Năm 1994, Ấn Độ và Việt Nam kư một thỏa ước
về hợp
tác quốc pḥng bao gồm việc huấn luyện các sĩ quan
Việt Nam tại Viện Quốc pḥng Ấn Độ, bảo quản thiết
bị quân
sự của Việt nam và tiếp tục thỏa luận đều đặn giữa
hai bộ quốc
pḥng. Một viên chức Ấn Độ mô tả hiệp định nằm trong
khuôn khổ một thỏa ước cấp thấp, trong khi tùy viên
quân sự Việt Nam lại tuyên bố « Chúng
tôi rất cần sự trợ giúp của Ấn Độ trong việc huấn
luyện
nhân sự quốc pḥng, ưu tiên hàng đầu của
chúng tôi. Sự trợ giúp của Ấn Độ về thiết bị
quân sự sẽ là một thỏa ước hợp tác lâu
dài và chúng tôi vẫn đang c̣n thảo
luận về chi tiết ». Không bao lâu sau đó, Việt
Nam kư thỏa ước với Công Ty Hindustan Aeronautics
Ltd
(HAL) để đại tu và bảo quản từ 8 cho đén 10 động cơ
MIG
21 và trợ giúp kỹ thuật liên tục.
Việt Nam xem ra chú tâm nhiều đến việc phát triển
hợp tác công nghiệp quốc pḥng. Ví dụ,
tháng 5 năm 1995, một phái đoàn quân sự do
Tổng Tham Mưu trưởng Quân Đội Nhân Dân lănh
đạo đă thăm viếng Ấn Độ. Phái đoàn đă thăm
quan Hyderabad, Dindigul, Madras, Bangalore, Goa,
Nasik và Pune
để nghiên cứu huấn luyện quân sự và công nghệ
quốc pḥng, trong đó bao gồm những sinh hoạt của
các công ty như HAL, Ordnance Factories Board (Ủy
Ban
Công Xưởng Quân Nhu), Bharat Earth Movers Limited
(Công Ty hữu hạn Đào Xới Bharat)và Goa Shippers
Limited (Công ty hữu hạn đóng tàu Goa).
Sau này, Ấn Độ nhận lời hỗ trợ Việt Nam trong việc
xây
dựng công nghiệp quốc pḥng để sản xuất những vũ
khí cỡ nhỏ và trung b́nh và những sản phẩm
quân nhu (The Times of India, ngày 29/3/2000). Việc
mua
bán vũ khí trong tương lai có thể bao gồm trực
thăng đa năng tiên tiến, chiến hạm và tên lửa chống
chiến hạm và pḥng không.
Năm 2000, Ấn Độ và Việt Nam kư một hiệp định quốc
pḥng rộng tầm (20). Tài liệu này đặt nền tảng cho
sự hợp tác quốc pḥng mỗi lúc một gia tăng
và nâng cấp liên hệ lên đến những buổi họp
định kỳ giữa các bộ trưởng quốc pḥng và trao đổi
viễn kiến chiến lược và chia sẻ t́nh báo. Chiếu
theo hiệp định năm 2000, Ấn Độ sẽ trợ giúp Việt Nam
sửa chữa
và đại tu đội ngũ 120 phi cơ MIG 21 và huấn luyện
phi
công chiến đấu và chuyên viên kỹ thuật Việt
Nam . Hải Quân Ấn Độ sẽ giúp sửa chữa, tân trang
và xây dựng giang thuyền tuần tra gia tốc cho hải
quân Việt Nam và huấn luyện nhân sự kỹ thuật (The
Hindu, 28/3/2000). Hiệp nghị c̣n bao gổm những cuộc
thao dợt hải
quân song phương và phối hợp tuần pḥng của
Cành sát Hải quan Việt Nam và Đội Tuần
pḥng Bờ Biển Ấn Độ.
Tháng10 năm 2002, Việt Nam yêu cầu Ấn Độ huấn luyện
điều
khiển tàu ngầm nhưng không rơ việc này
có liên quan đến việc thu mua năm 1997 hai dàn nhỏ
từ Bác Triều Tiên hoặc là một chương tŕnh
mới. Dù sao đi nữa, lời yêu cầu này biểu hiện giai
đoạn thứ nhất trong việc thực thi ư định dài lâu
phát triển khả năng huy động chiến trận dưới mặt
biển.
Năm kế tiếp (2003), Viêt Nam huần luyện chiến tranh
du
kích cho quân đội Ân Độ. Tháng 5 năm 2003, Ấn
Độ và Việt Nam kư một bản «Tuyên bố Chung về
Khung Hợp Tác Hiểu Biết» trong đó bao gồm : những
hội nghị cấp cao thường kỳ, hợp tác chặt chẽ tại
Liên Hiệp
Quốc và những diễn đàn quốc tế khác, trợ
giúp và tôn trọng và bảo vệ quyền lợi hỗ
tương, từng bưosc phát triển hợp tác trong lănh
vực an ninh và quốc pḥng.
Năm 2007, với những buớc tiến quan trọng, Ấn Độ và
Việt Nam
tuyên bố thiết lập «hợp tác chiến lược» trong
thời gian Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm viếng.
Tháng 11, Ấn Độ
và Việt Nam tổ chức Đối Thoại An Ninh lần thứ ba tại
Tân
Đề Li (New Delhi) và quyết định xúc tiến hợp tác
trong việc huấn luyện các hạ sĩ quan, tổ chức đối
thoại an ninh
hàng năm, chia sẻ giám định về những vấn đề hai nước
cùng quan tâm chung như an ninh hàng hải, quản
lư biến giới và pḥng chống nổi loạn, huấn luyện
trong những công tác ǵn giữ ḥa b́nh
của Liên Hiệp Quốc, và mời những quan sát
viên Việt Nam tham gia những sinh hoạt quân sự của
Ấn Độ.
Tháng 12, Bộ Trưởng Quốc Pḥng Ấn Độ A.K. Anthony
thăm
viếng Hà Nội với sự tháp tùng của Phó Tham
Muu Trưởng và các sĩ quan cao cấp không quân
và hải quân. Ấn Độ thỏa thuận cung cấp Viêt Nam
5.000 phụ tùng thiết yếu cho các chiến hạm loại
Petya
chống tàu ngầm để cho chúng hoặt động hữu hiệu.
Thêm vào đó, Ấn Độ chấp thuận gởi đến Việt Nam một
đội bốn người vào nửa năm đầu 2008 để huấn luyện
công
tác ǵn giữ ḥa b́nh của Liên Hiệp
Quốc. Cuối cùng, hai bên đồng ư thiết lập một
Nhóm Làm Việc Hỗn Hợp để tạo điều kiện dễ dàng cho
việc kư kết Bị Vong Lục Hữu Nghị về hợp tác quốc
pḥng (bao gồm hợp tác về quốc pḥng, bảo vệ
lănh hải , bảo vệ không phận và huấn luyện
nhân viên). Phái đoàn Ấn Độ cũng đă
viếng thăm công nghệ quốc pḥng tại thành phố Hồ
Chí Minh.
Bộ Trưởng Quốc Pḥng Việt Nam nhờ Ấn Độ trợ giúp
trong
việc huấn luyện nhân sự quân sự (21), gia tăng những
trao
đổi phái đoàn, gia tăng hợp tác huấn luyện, hợp
tác giữa hai công nghệ quốc pḥng, gia tăng nhịp độ
thăm viếng hải quân thân hữu, áp dụng kỹ thuật
thông tin và tin học, trợ giúp kỹ thuật cho hải
quân Việt Nam
Gần đây nhất, Trung Tướng Trương Quang Khánh, Tổng
Cục
Trưởng Tổng Cục Công Nghệ Quốc Pḥng, Bộ Trưởng Quốc
Pḥng, tham dự một cuộc triển lăm quốc pḥng quốc
tế, DEFEXPO 2008 (Defense Expo) tại New Delhi tháng
2 năm 2008.
Cùng vào tháng đó Đô Đốc Sureesh
Meht, Tham Mưu Trưởng Quân Đội, thăm viếng Hà Nội
và tại đây ông gặp Thứ Trưởng Quốc Pḥng
Trung Tướng Nguyễn Khắc Viện. Đô Đốc Mehta thanh tra
Công
Ty Đóng Tàu Hồng Hà và cũng thăm viếng
thành phố Hồ Chí Minh trước khi lên đường. Cuối
cùng, vào tháng 4, Chỉ Huy Phó Bộ Tư Lệnh
Hải Quân Đông Ấn, Phó Đô Đốc R.P.Suthan cầm
đầu hái chiến hạm đến cảng Hà Nội. Ông thỏa luận
với Phó Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân, Trần
Quang Khuê.
Châu Âu. Cộng thêm với những thỏa ước mua vũ
khí với Nga và Ukraine, Việt Nam cũng đă thăm
ḍ khả năng mua thiết bị quốc pḥng và hỗ trợ
quân sự với các nước Châu Âu, đặc biệt với
các cựu thanh viên của Hiệp Ước Warsaw .
Đầu những thập niên 1990, Việt Nam mua 9 phi cơ huấn
luyện
Albatross Aero L 39 của cựu Cộng Ḥa Czech và
Slovak,
và sau này nhờ trợ giúp của họ trong việc bảo
tŕ và sửa chữa. Năm 1995, Việt Nam kư thỏa ước
với Omnipol để mua kỹ thuật và thiết bị để sản xuất
súng
phóng tên lửa nhiều ống tại Việt Nam. Tháng
5 2003, bộ
trưởng ngoại giao Czech thăm viếng Hà Nội và đề
nghị trợ
giúp Việt Nam tân trang xe tăng T 72. Ông
bộ
trưởng cũng đề nghị bán những quân phục và thiết bị
chống vũ khí hoá học. Được biết ít nhất 5 chiếc
phi cơ SU 22UM3 cộng ḥa Czech hai chổ ngồi đă được
giao
cho VIệt Nam năm 2005 và có thể hơn 25 chiếc phụ
trội SU
22MU4 đă gởi đến Việt Nam (tài liệu của Ba Lan, xem
ở
dưới).
Tháng 7 năm 1994, Thủ tướng Slovakia với bộ trưởng
quốc
pḥng và một số đại diện của công nghệ vũ
khí tháp tùng đă đến thăm viếng Việt Nam.
Trong thời gian ở Hà Nội họ ghi nhận ư định Việt Nam
mua
xe tăng T 72 và pháo bị. Tháng kế tiếp chủ tịch
nhà nước Việt Nam thăm viếng Slovakia và đề nghị hợp
tác giữa hai công nghệ quốc pḥng, bao gồm việc sản
xuất những chiến hạm quốc pḥng. Tháng 5 năm 2002,
bộ
trưởng quốc pḥng Việt Nam Phạm Văn Trà viếng thăm
Cộng
Ḥa Slovak. Tướng Trà thăm ḍ đối tác để
hợp tác công nghiệp quốc pḥng và tân
trang thiết bị quân sự tại những công xưởng của
Slovak.
Tướng Trà đặc biệt chú ư đến hệ thống pḥng
không dị động Brams, và thiết giáp nhẹ Aligator.
Tướng Trà trở về Hà Nội với kế hoạch đề xuất của
công nghệ quốc pḥng Slovak.
Bulgari và Việt Nam gia hạn hiệp định hợp tác quốc
pḥng năm 1997 trong thời gian viếng thăm của bộ
trưởng quốc
pḥng Việt Nam. Hiệp Định này bao gồm sự hợp tác
trong các lănh vực cung cấp phụ tùng phi cơ MIG
21, sủa chữa thiết bị quân sự, khoa học quân sự và
quân y và trao đổi nhân sự. Tháng 10 năm
2007, Bộ trưởng quốc pḥng Bulgari thăm viếng Việt
Nam để
bàn thảo việc hợp tác quân sự trong việc huấn luyện
ngôn ngữ, văn hoá, thể thao và đặc biết đáng
chú ư hơn là kỹ thuật quân sự.
Tháng 12 năm 1998, Thứ Trưởng Quốc Pḥng Ba Lan thăm
viếng Việt Nam để thảo luận về hợp tác đóng tàu
và bán vũ khí ( gồm có MIG 20 và vũ
khí lục quân). Ba Lan trợ cấp 70 triệu Mỹ Kim cho
Việt Nam
để giúp thành lập công xương đóng
tàu. Tháng 5 năm 2000, Bộ Trưởng Bộ Quốc Pḥng
Việt Nam thăm viếng Ba Lan và ngỏ ư muốn mua trực
thăng
Anaconda và phi cơ Bryza. Cả hai bên thảo luận việc
hợp
tác tương lai trong những lănh vực như tân trang
chiến xa ( hệ thống tác xạ mới), đồng sản xuất đạn
dược
và huấn luyện sĩ quan.
Tháng 10 năm 2003, Việt Nam kư thỏa ước mua đến 10
chiếc
phi cơ chuyên chở STOL (cất và hạ cánh tầm ngắn)
Polskie Zaklady Lotnicze PZL M28 để dùng vào việc
giám sát hải phận và việc tuần tra biên giới
của Ba Lan trị giá ước lượng 40 triệu Mỹ Kim. Hai
phi cơ đă được
giao vào tháng 12 năm 2004 và hai chiếc sau được
giao vào giữa năm 2005. Phi cơ này có thể
do không quân điều khiển. Đầu tháng 3 năm 2005, được
biết Ba Lan có thể cung cấp xe tăng T 72 MBT cùng
với
huấn luyện và bảo tŕ thiết bị cơ bản, cũng nhu đạn
dược. Việc
chuyên chở 150 chiếc xe tăng cũ, có lẽ lấy từ kho
dự trữ
tồn đọng, khởi sự vào quư thứ ba năm 2005. Cũng
năm 2005,
Việt Nam mua 40 phi cơ SU 22M của Ba Lan.
Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân, Tướng Nguyễn
Khắc Viện, viếng thăm Belarus ngày 21 23 tháng 6 năm
2007
và thỏa luận với Bộ Trưởng Quôc Pḥng Tướng Leonid
Maltsev và Đệ Nhất Thứ trưởng quốc pḥng Trung tướng
Sergei Gurulev. Một năm sau (tháng Giêng năm 2008)
Đệ Nhất
Phó Chủ Tịch Ủy Ban Công Nghệ Quốc Pḥng Belarus
viếng thăm Hà Nội để nói chuyện với Bộ Trưởng Quốc
Pḥng Tướng Phùng Quang Thanh.
Ngoài các cựu thành viên Hiệp Ước Warsaw,
Việt Nam thăm ḍ mua vũ khí và hợp tác quốc
pḥng với một số quốc gai Châu Âu. Năm 1997, được
biết Việt Nam đă nhận thiết giáp Pháptrong
ṿng «hai năm qua». Vào giữa năm 1997, Việt
Nam thảo luận với Serbia Montenegro để mua chiến xa
T 55 tân
trang. Năm kết tiếp Phần Lan đề nghị bán cho Việt
Nam những phụ
tùng rời phi đội MIG 21 bỏ xó. Tháng 2 năm 2005,
báo cáo cho biết Lực Lượng Quốc Pḥng Phần Lan dự
trù bán môt lô có đến 70 chiếc xe tăng
T 54 và T 55 thời Liên Bang Xô Viết (MBT Main Battle
Tank).
Tháng 6 năm 1997, Anh Quốc đă dùng chiến hạm HMS
Beaver ghé cảng Việt Nam để bán những thiết bị quốc
pḥng. Tháng 3 năm 1999, Hoàng Thân Andrew
dẫn một phái đoàn 11 xí nghiệp đến thành
phố Hồ Chí Minh để tŕnh bán những thiết bị quốc
pḥng. Cuộc viếng thăm của hoàng thân Andrew trung
hợp với việc ghé cảng của chiến hạm HMS Boxer. Cuối
cùng,
năm 1999 Việt Nam tỏ ư muốn mua vệ tinh liên lạc
quân sự đầu tiên. Các viên chức Việt Nam
đă tiếp xúc với Alcatel, một công ty Pháp,
cũng như Cty Matra Marconi Space, một công ty hỗn
hợp Anh
Pháp (Hà Nội cũng dă tiếp xúc với
các xí nghiệpHoa Kỳ Lockheed Martin và Loral
Space).
Năm 2005, nước Áo chấp thuận tài trợ việc phát
triển trường dạy nghề kết hợp với Bộ Quốc Pḥng của
Việt Nam.
Ngày 15 tháng Giêng năm 2008, nước Áo chấp
thuận cung cấp thêm 15 triệu (Mỹ Kim ?) cho chương
tŕnh
này để sang giai đoạn thứ ba. Tháng 12 năm 2007,
Trung
Tướng Gianni Botondi, Tổng Thư Kư Quốc Pḥng và
Trang Bị Vũ Khí của Ư Đại Lợi chính thức viếng
thăm Việt Nam để bàn thảo về cơ cấu kỹ nghệ quốc
pḥng.
Ư và Việt Nam đồng ư thiết lập một nhóm
làm việc để xúc tiến hợp tác song phương.
Tháng 5 năm 2008, Thứ Trưởng Quốc Pḥng, Trung Tướng
Nguyễn Huy Hiệu, đến Thụy Sĩ để bàn thảo với Cục
Trưởng Quốc
Pḥng, Bảo vệ Dân sự và Thể thao Liên Bang để
đẩy mạnh hợp tác quốc pḥng. Tướng Hiếu tham quan
một số
kỹ nghệ Thụy Sĩ.
Các nguồn cung cấp khác. Chỉ c̣n ba nước
khác bán vũ khí và hỗ trợ nỗ lực hiện đại
hoá quân đội : Israel (Do Thái), Bắc Triều
Tiên và Nam Triều Tiên. Năm 1993 những xí
nghiệp quốc pḥng Israel đề nghị tấn trang toàn đội
phi
cơ, thiết giáp và khẩu pháo do Liên Bang
Xô Viết sản xuất. Tháng Giêng năm 1994, các
viên chức trong Công Nghệ Quốc Pḥng của Bộ Quốc
Pḥng và Tổng Cục Kỹ Thuật thăm viếng Israel để uớc
định
sợ hỗ trợ của Israel trong việc tân trang hệ thống
liên lạc
của Quân Đội Nhân Dân. Năm sau, một công ty
Israel kư kết khế ước tân trang hệ thống liên lạc
quân sự của Việt Nam. Năm 1999, các công ty Israel
đă thất bại trong khế ước bỏ thầu tân trang phi đội
MIG
của Việt Nam. Trong thời gian viếng thăm của Phó Thủ
Tướng
Nguyền Công Tấn tháng 11 năm 1999, người ta được
biết
các kỹ nghệ quốc pḥng của Israel đă kư khế
ước với Việt Nam để xuất khẩu trang bị quốc pḥng.
Không
có chi tiết nào khác được tiết lộ.
Năm 1994, Việt Nam và nước Công Ḥa Nhân
Dân Triều Tiền trao đổi thăm viếng cấp bộ trưởng
quốc
pḥng. Hai bên đồng ư một cuộc trao đổi trong
đó Việt Nam cung cấp gạo để đổi lấy phụ tùng vũ
khí và đạn dược. Tháng 12 năm 1996, Thứ Trưởng
Quốc Pḥng Việt Nam, Tướng Nguyễn Thới Bung, thăm
viếng Bắc
Triều Tiên và kư kết hợp đồng trị giá 100
triệu Mỹ Kim gồm có tiên lửa pḥng không di
dộng Igla (SA 16 Gimlet) và tên lửa liên lục địa tầm
ngắn. Năm sau Việt Nam nhận hai chiếc tàu ngầm Triều
Tiên
Yugo loại nhỏ và tân trang chúng tại Vịnh Cam Ranh.
Tháng 4 năm 1999, Việt Nam mua một số tên lửa SCUD C
địa
đối địa với tầm bắn 550 cây số (với lượng chất nổ
770 kư). Năm 2003,
báo cáo cho biết Bắc Triều Tiên đă
bán một số kỹ thuật quân sự không rơ cho Việt
Nam (Far Eastern Economic Review,
13/2/2003).
Năm 1994, hai năm sau khi Việt nam và Nam Triều Tiên
thiết
lập ngoại giao với nhau, Việt Nam thăm ḍ Tổ Hợp
Hyundai để mua
hải thuyền thần tốc 80 tấn để tuần tra duyên hải.
Các
viên chức của Hyundai không phủ nhận tin này nhưng
tuyên bố họ không xin giấy phép xuất khẩu.
Tháng 4 năm 1995, hai bộ trưởng quốc pḥng đồng ư,
trong cùng nhiều vấn đề khác, trao đổi trạng bị kỹ
nghệ
quốc pḥng. Tháng 10 cùng năm đó, Nam Triều
Tiên thiết lập văn pḥng tuy viên quân sự đầu
tiên tại Hà Nội.
Bộ trưởng quốc pḥng hai nước trao đổi thăm viếng
cuối năm 2000
và đầu năm 2001. Trong cuộc thăm viếng của bộ trưởng
quốc
pḥng Nam Triều Tiên, lịch tŕnh bao gồm việc trao
đổi kỹ thuật quốc pḥng và các công nghiệp
liên thuộc. Trong cuộc viếng thăm đáp lễ của bộ
trưởng
quốc pḥng Việt Nam hai bên thỏa thuận bị vong lục
hữu
nghị ; bị vong lục thứ nhất đề cập đến hợp tác trong
công
nghệ quốc pḥng và hậu cần, trong khi bị vong lục
thứ hai
bao gồm trao đổi huấn luyện quân sự. Bộ trưởng quốc
pḥng
Việt Nam đă thăm viếng nhiều lần các xí nghiệp Nam
Triều Tiên và các nhà chế tạo vũ khí.
Vào lúc đó Công Nghiệp Nặng và Cơ Cấu
Máy Móc Daewoo đang có ư định phối hợp
ngành nghề để tân trang những kho thiết giáp do Hoa
Kỳ sán xuất. Tháng 11 năm 2001, Nam Triều Tiên tổ
chức một cuộc triển lăm sản phẩm quân sự và điện tử
trong lúc ba chiến hạm của họ ghé cảng. Tháng 9
năm 2007, hai chiến hạm Nam Triều Tiên (một tàu khu
trục
và hai tàu hậu cần) ghé cảng thành phố Hồ
Chí Minh. Tháng 1 năm 2008, Chỉ Huy Trưởng Hải
QuânViệt Nam, Phó Đô Đốc Nguyễn Văn Hiền, mở một
thăm viếng hiếm có năm ngày tại Seoul (Hán
Thánh) để bàn thảo việc mở rộng liên hệ giữa hai
lực lượng hải quân. Phó Đô Đốc Hiền gặp gỡ và
bàn thảo với Chỉ Huy Trưởng Hải Quân Tác Chiến của
Nam Triều Tiên, Đô Đốc Song Young Moo. Cả hai vị đô
đốc bàn thảo về việc đẩy mạnh hợp tác trang lănh
vực công nghệ quốc pḥng.
5. Cơ
cấu bang giao giữa Việt Nam và
Trung Hoa, 1991-2007
Hiệp
Hội
Các
Nước
Đông
Nam
Á
(ASEAN).
Bang giao Việt Nam với Trung Hoa được cấu trúc trên
căn
bản đa phương với tính cách là thành
viên của ASEAN, Diễn Đàn ASEAN và các tổ
chức đa phương khác, và song phương qua thỏa ước
khung
hợp tác dài hạn. Khi Việt Nam gia nhập ASEAN năm
1995,
Việt Nam nhận trách nhiệm thi hành tất cả những thỏa
thuận đa phương mà ASEAN đă kư với Trung Hoa.
Tháng 7 năm 1994 ASEAN và Trung Hoa đă thỏa thuận
thành lập hai ủy ban hỗn hợp ?" một về hợp tác khoa
học
và kỹ thuật và hai về hợp tác kinh tế và
thương mại. ASEAN và Trung Hoa cũng đồng ư tham khỏa
nhau
về những vấn đề chính trị và an ninh ở mức độ cao
cấp.
Hội Nghị Các Viên Chức Cao Cấp Trung Hoa và ASEAN
được tổ chức lần đầu tiên tại Hàng Châu (Hangzhou)
tháng 4 năm 1995.
Năm 1996, Trung Hoa được ASEAN chấp thuận vị thế đối
tác đối
thoại chính thức, và tháng 2 cùng năm.
ASEAN và Trung Hoa chính thức hóa sự hợp
tác bằng cách thiết lập Ủy Ban Hợp Tác ASEAN
và Trung Hoa (ASEAN-China Joint Cooperation
Committee (ACJCC).
Uỷ Ban ACJCC lần đầu tiên nhóm họp tại Bắc Kinh và
họ đồng ư Ủy Ban này sẽ « có nhiệm vụ điều
hợp cho tất cả những cơ cấu của ASEAN-Trung Hoa ở
cấp độ điều
hành. » Là đối tác của ASEAN, Trung Hoa
thường xuyên tham dự trong tiến tŕnh tham khảo Hội
Nghị
Hàng Năm Hậu Bộ ASEAN. Việc này diễn ra dưới h́nh
thức hội nghị giữa ASEAN và10 đối tác (ASEAN Ten
Plus
Ten) và một hội nghị riêng biệt giữa các
thành viên ASEAN với mỗi một đối tác (ASEAN Ten
Plus One).
Mối bang giao Trung Hoa và ASEAN tiến triển vào
tháng 11 năm 2002 qua việc kư kết ba tài liệu quan
trọng : Hiệp Định Khung về Cộng Tác Kinh Tế Giữa các
Nuoswc ASEAN và Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc,
Tuyên Bố Chung của Trung Hoa và ASEAN về Hợp Tác
trên Lănh Vực An Ninh Không Quân Sự, Thỏa Ước
về Cung Cách Hành Xử Và Giải Quyết Tranh Chấp
trên Biển Đông (Declaration on the Conduct of
Parties in
the South China Sea ?" DOC). Hiệp ước thứ nhất đặt
nền tảng cho Khu Vực
Thương Mại Tự Do Trung Hoa và ASEAN. Tuyên bố chung
về an
ninh không thuộc lănh vực quân sự được chính
thức hóa trong Bị Vong Lục Hữu Nghị tháng 1 năm
2004. Bị
Vong Lục này là kết quả của hội nghị được tổ chức
tại
Bangkok vào tháng 4 năm 2003 để thảo luận hợp tác
pḥng chống Hội Chứng Hô Hấp Cấp Tính Nặng (SARS)
(23). Một bước tiến quan trọng đă được thực hiện
trong việc
thiết lập khu vực thương mại tự do vào tháng 1 năm
2007
khi Trung Hoa và ASEAN kư kết Hiệp Ước Thương mại
Dịch Vụ
tại hội nghị thứ 10 tại Cebu, Phi Luật Tân.
Khởi đầu, ASEAN muốn thương lượng Quy Ước Hành Xử về
Biển
Đông Hải. Trung Hoa cưỡng lại áp lực ngoại giao của
ASEAN
không chấp thuận một quy ước chính tức liên kết với
pháp lư. Tuy nhiên, Trung Hoa và ASEAN
đă khai triển một hợp tác chưa từng có với Hiệp
Ước DOC (Hiệp Ước về cung cách hành xử và giải
quyết các tranh chấp trên Biển Đông Hải).
Tháng 9 năm2003, Ngô Bang Quốc (Wu Bangguo), chủ
tịch Ủy
Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân, đề nghị khai thác
dầu hỗn hợp và phát triển những vùng chen gối lẫn
nhau tại Biển Đông Hải (xem thảo luận phần dưới).
Đầu năm 2004,
ASEAN và Trung Hoa thỏa thuận thành lập một Nhóm
Làm Việc Hỗn Hợp để thực thi Hiệp Ước DOC.
Đối Tác Chiến Lược v́ Ḥa B́nh và
Thịnh vượng. Tháng 10 năm 2003, khu vực tương tác
của
Trung Hoa với ASEAN được nâng cao khi Trung Hoa gia
nhập Hiệp Ước
Hữu Nghị và Hợp Tác , (24) và Trung Hoa ra một
tuyên cáo chung với ASEAN thiết lập đối tác chiến
lược. Tuyên bố chung là một thỏa ước chính thức đầu
tiên giữa Trung Hoa và một tổ chức địa phương vùng,
cũng như là đầu tiên đối với ASEAN. Tuyên bố chung
bao trùm một lănh vực rộng lớn và bao gồm một
khoản tài trợ để bắt đầu một cuộc trao đổi mới cũng
như hợp
tác trong những vấn đề chính trị.(25)
Tháng 7 năm sau, Hội Viên Hội Đồng Quốc Gia Tang
Jiaxuan
(Đường Gia Tuyền) nêu lên viễn ảnh phát triển
« gia tăng bang giao chiến lược » với ASEAN trong
cuộc thảo
luận với Tổng Thư Kư Ong Keng Yong tại Bắc Kinh. Kết
quả
là Trung Hoa và ASEAN thảo một Kế Hoạch Hành Động
Năm Năm (2005-2010) vào cuối năm 2004. Kế hoạch này,
không kể những cái khác, bao gồm một cam kết chung
để gia tăng những thăm viếng cấp cao thường xuyên và
song
phương, hợp tác trong lănh vực an ninh không
quân sự, đối thoại an ninh và trao đổi hợp tác
quân sự. (26). Kế Hoạch Hành Động dặt ra những mục
tiêu sau :
? Đẩy mạnh sự tín nhiệm hỗ tương trong lănh vực quốc
pḥng và quân sự với nhăn quan duy tric
ḥa b́nh và ổn định trong vùng ;
? Trao đổi đối thoại, tham khảo, hội nghị chuyên đề
về an ninh
và quốc pḥng;
? Thắt chặt hợp tác trong việc huấn luyện quân sự ;
? Chú ư quan sát thao dượt của mỗi bên
và nghiên cứu khả năng thực hiện những cuộc thao dợt
quân sự hỗn hợp song phương hoặc đa phương ; và
? Nghiên cứu và đẩy mạnh hợp tác trong lănh
vực ǵn giữ ḥa b́nh.
ASEAN không sẵn ḷng xúc tiến hợp tác
quân sự với Trung Hoa một cách quá nhanh
chóng. Tháng 5 năm 2004, trong thời gian tân Thủ
Tướng Mă Lai, Abdullah Badawi, viếng thăm Bắc Kinh,
đồng nghiệp
Trung Hoa của ông, Thủ Tướng Ông Gia Bảo (Wen
Jiabao) đề
nghị xem xét việc kết hợp để duy tŕ an ninh đường
hàng hải giao thông qua eo biển Malacca. Lời đề nghị
này được Thượng Tá Vương Tông Xuân(Wang
Zhongchun), phó giám đốc Đại Học Quốc Pḥng Trung
Hoa, đăng trên báo một tháng sau. Trong một
tài liệu tŕnh bày tại diễn đàn Trung Hoa
và ASEAN, ông Vương đề nghị thao dợt và tuần tra
hàng hải ( cũng như trao đổi những tin t́nh báo về
khủng bố). Theo một nhà phân tích, lời đề nghị của
ông Vương được tiếp đón một cách lạnh nhạt, với
nhiều hoài nghi. Tuy nhiên, ba năm sau, Nam Dương
muốn sự
trợ giúp kỹ thuật của Trung Hoa lẫn Nhật Bổn trên
căn bản
ASEAN rộng mở và song phương để thiết lập năng lực
của
các nước có ven biển. (28)
Tháng 11 năm 2004,tại Hội Nghị Thượng đỉnhTrung Hoa
?"ASEAN lần
thứ 8, Thủ Tướng Ôn Gia Bảo một lần nữa lại đề nghị
tạm
gác tranh chấp Biển Đông Hải « trong lúc
t́m cách hợp tác phát triển ». Việc
này đă dẫn đến một bước xuyên phá quang
trọng vào tháng 3 năm sau khi các công ty
dầu hỏa của Trung Hoa, Phi Luật Tân, và Việt Nam kư
kết một Hiệp ước nhằm thử nghiệm địa chấn hỗn hợp
tại Biển Đông
Hải.
Tháng 7 năm 2005, Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào lập lại lời
mời
cộng tác phát triển trong thời gian ông viếng thăm
Brunei, Nam Dương và Phi Luật Tân (30). Tháng
đó, Trung Hoa và ASEAN thành lập một Nhóm
Làm Việc Hỗn Hợp của Hiệp Ước DOC và giao trách
nhiệm cho nhóm này để thực thi Hiệp Ước. Nhóm
Làm Việc nhóm họp lần thứ hai tại Hải Nam vào
tháng 2 năm 2006. V́ những cuộc tấn công chí
tử vào những hải thuyền đánh cá Trung Hoa
vào tháng 5 năm 2006, Trung Hoa, Phi Luật Tân
và Việt Nam đă chấp thuận củng cố hợp tác
trên vùng Biển Đông Hỉa. (31).
Hợp tác chiến lược ASEAN và Trung Hoa được củng cố
qua
việc nhóm họp đầu tiên về an ninh vùng giữa
các viên chức ngành quốc pḥng tại Bắc Kinh
vào tháng 7 năm 2006. ASEAN và Trung Hoa cũng tổ
chức một Hội Nghị Thượng Đỉnh Kỷ Niệm tại Nanning
(Nam Trữ) đẻ
đánh dấu kỷ niệm 15 năm quy chế đối tác của Trung
Hoa.
Cuối năm 2006, ASEAN và Trung Hoa đă thỏa thuận 28
« cơ cấu khung hợp tác », trong đó bao gồm
những tham khảo thường xuyên giữa các viên chức cao
cấp về vấn đề hợp tác chiến lược và an ninh chính
trị, một hội nghị hàng năm giữa các bộ trưởng ngoại
giao,
và một hội nghị thượng đỉnh của cấp lănh đạo chính
quyền (32). Những tiến triển này tạo nên một nền
tảng vững
chắc cho việc phát triển hợp tác an ninh và quốc
pḥng trong tuong lai.
Diễn
Đàn
ASEAN
-
ASEAN
Regional
Forum
(ARF)
Việt Nam là một thành viên sáng lập của Diễn
Đàn ASEAN năm 1994. Tư cách thành viên trong
ARF giúp cho Việt Nam có được một khung đa phương
trong
mối liên hệ an ninh quốc pḥng và tương tác
với Trung Hoa.
Khi Trung Hoa lần đầu tiên tham gia Diên Đàn ASEAN
không mấy ai tin về những sinh hoạt đa phương v́ nó
có thể phương hại đến chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên,
với
thời gian, Trung Hoa đă ḥa nhập trong sự cộng tác
an ninh đa phương dưới sự bảo trợ của ARF. Trung Hoa
đă
đóng một vai tṛ đặc biệt tích cực trong chương
tŕnh làm việc liên hội nghị liên quan đến
tiến tŕnh xây dựng ḷng tín nhiệm.
Ví dụ, tháng 3 năm 1997, Trung Hoa tổ chức Nhóm
Liên Hội Nghị Đẩy Mạnh Tiến Tŕnh Xây Dựng
Tín Nhiệm, và tổ chức lần nữa vào tháng 11
năm 2003.
Năm 1997, Trung Hoa gởi đại diện đến họp ARF của các
Trường Cao
Đẳng Quốc Pḥng và tổ chức họp ARF lần thứ 4 của
các Trương Cao Đẳng Quốc Pḥng tháng 9 năm 2000.
Cuộc họp được Bộ Trưởng Quốc Pḥng Trí Hạo Điền (Chi
Haotian) khai mạc và tuyên bố sự quan tâm của diễn
đàn ARFđối với đối thoại và tham khảo biểu hiện «
một ư niệm an ninh mới » và khuynh hướng « đa
cực hóa » trong vùng. Ông Trí ghi nhận
những điểm gây cấn vẫn c̣n tồn tại, « tinh thần
bá chủ và quyền lực chính trị đă t́m
những con đường mới » và « dân chủ và
nhân quyền » đă được dùng để làm cớ để
can thiệp, và « tinh thần ly khai » đang lan
tràn. Tất cả những điều này sẽ gây nguy hại hoặc
tổn thương đến an ninh và ổn định trong vùng. V́
vậy chúng tôi kêu gọi tất các quốc gia chấp
nhận quy luật mới về an ninh dựa trên sự b́nh đẳng,
đối
thoại, ḷng tin cậy hỗ tương và hợp tác »
(34). Năm 2000, Trung Hoa cũng đóng góp lần đầu
tiên cho Viễn Tượng An Ninh Hàng Năm của ARF và tự
nguyện tŕnh bày những vấn đề an ninh trong vùng.
Trong khi những đóng góp của Trung Hoa trên diễn
đàn ARF trong chương tŕnh xây dựng tín
nhiệm đă chuyển biến theo thời gian, mối bang giao
ngăn ngừa
xung đột có phần giới hạn hơn. Trong Quyển Sách
Trắng
Quốc Pḥng phát hành cuối năm 2000, Trung Hoa đưa
ra những nhận định thận trọng như sau :
« Trung Hoa xác định diễn đàn ARF nên tiếp
tục chú tâm đến những biện pháp xây dựng
tín nhiệm, thăm ḍ những quy tắc và phương
pháp mới về an ninh, và bàn thảo vấn đề ngoại giao
ngăn ngừa xung đột. Đồng thời, Trung Hoa tin tưởng
những cánh
đối tác liên hệ phải thảo luận trước hết về ư niệm,
định nghĩa, nguyên tắc và tầm ảnh hưởng của phương
pháp ngoại giao pḥng ngừa xung đột trong vùng
Châu Á -Thái B́nh Dương và đặt được
đồng thuận trên phương diện này. » (35)
Theo nhận định của một chuyên gia về Trung Hoa « hai
điều
trong những nội dung của tài liệu (Sách Trắng Quốc
Pḥng năm 2000) là tầm quan trong của nền ḥa
b́nh và phát triển được xem như là động lực
thúc đẩy phát triển toàn bộ, và hệ quả bắt
buốc để thực thi chính sách ngoại giao trên căn bản
tiến tŕnh hợp tác đa phương ».(36). Kể từ năm
2000, Trung Hoa luôn đề cao ư niệm an ninh mới làm
khung cho sự hợp tác đa phương. Ví dụ, tháng 7 năm
2002, Trung Hoa phác họa ư niệm an ninh mới trong
một
tài liệu xác định lập trường được tŕnh bày
tại hội nghị các bộ ARF.
Năm 2003, Trung Hoa đă đề xướng một chuóng tŕnh
phổ biến ư niệm an ninh mới. Tại Hội Nghị thường
niên ARF
cấp bộ tại Phnom Penh, Trung Hoa đề nghị thành lập
Hội Nghị
Chính Sách An Ninh bao gồm các viên chức cao
cấp quân sự và dân sự (cấp thứ trưởng) thành
viên của ARF. Mục tiêu của cơ cấu an ninh mới này
là soạn thảo một hiệp ước an ninh để thúc đẩy «
ḥa b́nh, ổn định và thịnh vượng » trong
vùng. Các vien chức Trung Hoa nói rằng Hiệp Ước
mới này sẽ đáp ứng những ưu tư của tất cả thành
viên ARF và bảo đảm an ninh qua hành động hợp nhất
hơn là t́m kiếm « an ninh tuyệt đối cho bản
thân và đe dọa an ninh của những nước khác
»(37). Trung Hoa soạn thỏa và phổ biến tải liệu này
trước khi tổ chức lần đầu tiên Hội Nghị Chính Sách
An Ninh ARF vào tháng 11 năm 2004. (38)
Tại Hội Nghị Cấp Bộ ARF lần thứ 11 năm 2004, Trung
Hoa tŕnh
bày một loạt đề nghị để ARF phát triển trong tương
lai.
Những điều này được tóm tắt như sau :
Để duy tŕ chức năng của diễn đàn và tôn
trọng những quy tắc căn bản trong việc quyết định
qua phương thức thỏa
hiệp, bước những bước tiệm tiến, và hoạt động theo
nhịp độ thoải
mái cho tất cả mọi thành viên để khuyến
khích sáng kiến và sự tham gia tích cực của
tất cả thành viên ; đẩy mạnh không ngừng nghỉ
và củng cố những phương sách xây dựng tín
nhiệm (Confidence-Building Measures ?" CBM) đồng
thời tích cực
chú ư đến vấn đề ngoại giao ngăn ngừa xung đột, để
từng
bước một t́m ra những phương pháp hợp tác
và phương thức giải quyết cho ngoại giao pḥng xung
đột
thích hợp với khu vức và nhu cầu hiện tại ; để
thúc đẩy sự tham gia của các viên chức quốc
pḥng, đẩy mạnh trao đổi và hợp tác giữa
các quân đội của các nước liên hệ và
quân đội có trọng trách trong việc gia tăng
ḷng tin nhiệm hỗ tương ; đề cao hợp tác trong những
lănh vực an ninh không quân sự chẳng hạn như chống
khủng bố và những tội ác vượt qua biên giới quốc
gia.(39)
Sách Trắng Quốc Pḥng 2004 của Trung Hoa nhận diện 5
lănh vực chính của hợp tác an ninh quốc tế : tham
khảo và đối thoại chiến lược ; hợp tác an ninh
vùng ; hợp tác trong lănh vực an ninh không
quân sự, tham gia những công tác ǵn giữ
ḥa b́nh của Liên Hiệp Quốc ; trao đổi quân
sự. Chương 9 nhấn mạnh tầm quan trọng Trung Hoa đặt
vào mối
tương tác giữa ASEAN và Diễn Đàn ASEAN vùng.
Sách Trắng Quốc Pḥng cũng đă vạch ra chính
sách của Bắc Kinh trong vấn đề hợp tác quốc tế trong
lănh vực khoa học liên quan đến quốc pḥng. Theo
tài liệu này, hàng xuất khẩu của Trung Hoa trong
lănh vực nhạy cảm này được quy định bởi ba nguyên
tắc : « Nó chỉ phục vụ cho mục đích giúp đỡ
cho quốc gia tiếp nhận tăng cường khả năng tự vệ
chính
đáng ; điều này không được gây khó
khăn cho ḥa b́nh, an ninh và ổn định trong
vùng và cho thế giới ; việc này không được
dùng để can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia
tiếp nhận. » (40)
Song Phương. Sau mười năm dài lục đục trong vấn
đề
Căm Bốt, các cấp lănh đạo Hà Nội và Bắc
Kinh đă họp mật với nhau tại miền Nam Trung Hoa vào
tháng 9 năm 1990 và thỏa thuận b́nh thường
hóa mối liên hệ song phương. Trung Hoa và Việt Nam
kết thúc cuộc tiếp xúc chính trị cấp cao
vào tháng 11 năm 1991, đặc biệt là chỉ sau khi
Việt Nam chấp nhận giải quyết bằng phương thức chính
trị vấn đề
Căm Bốt. Mối liên hệ chính trị song phương giữa Việt
Nam
và Trung Hoa được các cấp lănh đạo đảng hệ thống
hóa trong một cuộc họp tại Bắc Kinh đầu năm 1999
(Tân Hoa
Xă Nội Địa, ngày 27 tháng 2 năm 1999). Cuối năm
sau hai bên kư kết một « Thông cáo
chung Hợp Tác Hữu nghị trong thiên niên kỷ mới giữa
nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa và Cộng
Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa VIệt Nam » (Thông Tấn
Xă Việt Nam, tháng 12 năm 2000).
Có một điều đáng chú ư là giữa
tháng 2 năm 1999 và tháng 12 năm 2000, nước Cộng
Ḥa Nhân Dân Trung Hoa (PRC) thương lượng khung hợp
tác dài hạn với tất cả 10 thành viên của
ASEAN (41). Thông thường những việc này kết thúc
bằng những hiệp ước do các bộ trưởng ngoại giao kư
kết
hoặc phó thủ tướng. Sáu thỏa ước khung hợp tác
dài hạn đề cập đến việc hợp tác an ninh (Thái
lan,Mă Lai, Brunei, Singapore, Phi Luật Tân và
Lào). Sau đó, những thỏa ước khung hợp tác
dài hạn này được tu bổ bằng những thỏa ước khác
với/ hoặc bị vọng lục hữu nghị.
Đáng lưu ư là không có điều khoản
quốc pḥng trong thỏa ước Trung ?"Việt, có lẽ do vấn
đề
tranh chấp lănh thổ chưa giải quyết tại Biển Nam
Hải. Theo bản
hiệp ước, « hai bên sẽ tự chế không có những
hành động có thể gây khó khăn thêm
và leo thang tranh căi, dùng đến vơ lực
hoặc đe dọa dùng vơ lực.» Những mối liên hệ
quốc pḥng khởi sự qua việc trao đổi phái đoàn của
các Cục Đối Ngoại của Bộ Quốc Pḥng hai nước vào
tháng 2 và tháng 5 năm 1992. Những dữ liệu trong
thời gian từ 2002 đến 2006 cho thấy một sự bất quân
b́nh
trong việc trao đổi phái đoàn ở cấp dộ bộ trưởng. Bộ
trưởng quốc pḥng Việt Nam thăm viếng Trung Hoa 4
lần, trong khi
bộ trưởng quốc pḥng Trung Hoa chỉ thăm viếng Hà Nội
có một lần. Những trao đổi ở cấp độ Tham Mưu Trưởng,
Tổng Cục
Chính Trị và Tổng Cục Hậu Cần cân bằng hơn. Mối
liên lạc cấp trưởng ban chỉ giới hạn trong một
chuyến viếng thăm
của Lực Lượng Không Quân của Thủy Quân Quân đội
Nhân dân Giải phóng năm 1997.
Trung Hoa và ASEAN đă thực hiện 71 thăm viếng quốc
pḥng trong thời gian từ 2002 đến 2006. Mười sáu
cuộc
thăm viếng ở cấp độ bộ trưởng. Trung Hoa đă mở những
thăm viếng
qua lại do các bộ trưởng quốc pḥng dẫn đầu với năm
nước
trong đó có Mă Lai, Phi Luật Tân, Singapore,
Thái Lan và Việt Nam. Việt Nam và Trung Hoa
đă trao đổi 9 phái đoàn cao cấp trong thời gian
này. Trong thời gian từ 2001 đến 2006, Hải quânTrung
Hoa
và Đông Nam Á đă thực hiện 11 đợt thăm viếng
thiện chí trong đó có 7 quốc gia trong
vùng. Chiến hạm của Trung Hoa thăm viếng Việt Nam,
Singapore (2
lần), Thái Lan và Brunei. Tháng 11 năm 2001, chiến
hạm Quân Đội Nhân Dân Giải Phóng Trung Hoa
(PLAN) Jiangwei-II (Giang Vệ II) có trang bị tên lửa
được
điều khiển ghé cảng thành phố Hồ Chí Minh. Việt
Nam vẫn c̣n nợ một chuyến viếng thăm.
Liên hệ quốc pḥng giữa Trung Hoa và Việt Nam hầu
như chỉ tập trung trong việc trao đổi quan điểm về
an ninh vùng,
và những vấn đề ư thức hệ và an ninh biên
giới. Bảng 2 cho thấy những dữ liệu về trao đổi phái
đoàn
ở cấp Quân Sự Vùng trong khoàng những năm 1996
và 2003. Từ khi b́nh thường hóa bang giao, cả
Trung Hoa và Việt Nam đă cố gắng tháo gỡ
ḿn và vứt bỏ những vũ khí chưa nổ trong
vùng biên giới. Từ khi kư kết hiệp định về
biên giới chung tháng 12 năm 1999, cả hai bên đều
khởi sự phân ranh rơ rệt vùng này. Tiến
tŕnh này được dự đoán hoàn tất vào
tháng 6 năm 2008.
Tháng 10 năm 2005, Bộ trưởng quốc pḥng Trung Hoa
và Việt Nam đă thảo luận thăm ḍ về hợp tác
công nghệ quốc pḥng của hai nước. Người ta được
biết
Công nghệ cung cấp vũ khí của nhà nước Trung Hoa,
NORINCO (North Industries Corporation) đă cung cấp
đạn dược cho
vũ khí nhỏ và đại pháo, quân xa và
hợp tác sản xuất đạn dược và súng đại liên.
(42)
Bảng 2
Trao đổi quân sự cấp vùng giữa Trung Hoa và Việt
Nam, 1996-2003
Trong một diễn biến mới hồi tháng Tư năm 2006, Trung
Hoa
và Việt Nam đă tuần tra hỗn hợp tại Vịnh Bắc Việt
(Gulf
of Tonkin). Đây là lần đầu tiên đối với hải
quân Trung Hoa. Tháng Tám 2006, sau khi hại vị
lănh đạo đảng Nông Đức Mạnh và Hồ Cẩm Đào
gặp gỡ tại Bắc Kinh, họ phát hành một thông
cáo chúng ghi rằng « cả hai bên đều có
những nhận xét tích cực về ?việc tuần tra hỗn hợp
của hải
quan của hai nước tại Vịnh Bắc Việt.(43) Cuộc tuần
tra hỗn hợp lần thứ
hai diễn ra vào tháng 12 năm 2006. Một tháng trước
đó Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam (Petro Vietnam)
và Tập Đoàn Dầu Khí Khơi Biển Trung Hoa đă
kư kết hiệp ước khai thác hỗn hợp tại Vịnh Bắc Việt.
Ngày 5 tháng Giêng 2007, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng
đă chuẩn phê việc khai thác dầu khí hỗn hợp.
Tháng Tư năm 2005, Trung Hoa và Việt Nam đă bắt
đầu ở mức độ rất thấp « tham khảo về an ninh quốc
pḥng
» tại Bắc Kinh. Trung Hoa đă khởi sự tham khao về an
ninh
quốc pḥng với Thái Lan và Phi Luật Tân.
6. Ảnh
Hưởng của Quốc Pḥng
trên Chính Sách Ngoại Giao
Những phân tích ở phần trên đă theo
dơi những mối giây liên hệ mỗi lúc một gia
tăng của Việt Nam với Trung Hoa trong bối cảnh bang
giao đa phương
và song phương. Tăng trưởng trong mối liên hệ này
phù hợp với định hướng rộng răi của chính
sách ngoại giao ?" nhằm đa phương hóa và mở rộng
những mối liên hệ ngoại giao, để trở thành một đối
tác đáng tin cậy với tất cả các quốc gia,
và để phát triển hợp tác chiến lược với các
cường quốc. Theo Alexander Vuving, có ít nhất hai
nhóm lănh đạo có thể nhận diện tại Việt Nam,
nhóm «chống đế quốc » và nhóm «
hội nhập ».(44). Nhóm thứ nhất vẫn c̣n để tâm
nghi ngờ những ư đồ của Hoa Kỳ , trong khi nhóm thứ
hai
t́m cách đưa Việt Nam ḥa nhập vào kinh tế
toàn cầu và nhảy vào thị trường của Hoa Kỳ.
Khi những sự cố xảy ra năm 2007 ở biển Nam Hải tạo
ra những cọ
sát nghiêm trọng trong mối bang giao Việt ?"Trung,
Việt
Nam đă chọn lựa phương thức tự kiểm duyệt tất cả mọi
thông
tin công khai về những diễn biến này. Tuy nhiên
vào cuối năm 2007, đă có những bộc phát
tinh thần yêu nước của giới Sinh Viên Việt Nam, tổ
chức
những cuộc biểu t́nh chưa từng có để phản đối những
hành vi của Trung Hoa ở Biển Nam Hải. Đoạn này sẽ
kiểm
điểm lại những sự cố này.
Ngay sau khi Việt Nam được gia nhập Tổ Chức Mậu Dịch
Quốc Tế (WTO),
Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đă tổ chức đại hội
đảng lần
thứ 4, những ngày 15 cho đến 24 tháng Giêng 2007.
Đại hội này quyết định đảng, quân đội, cảnh sát
và các tổ chức quần chúng dưới sự kiểm soát
của đảng phải rút ra khỏi những cơ sở kinh doanh.
Quyền sở hữu
sẽ được chuyển nhượng cho một công ty và công ty
này sẽ quyết định những xí nghiệp nào cần phải
chia thành cổ phần và bán cho những nhà đầu
tư tư nhân.
Ví dụ Quân Đội Nhân Dân quản lư 140
xí nghiệp và có cổ phần trong 20 xí nghiệp
khác. Những xi nghiệp này có những hoạt động kinh
tế rất đa dạng từ việc sản xuất cà-phê, khai thác
hầm mỏ, sản xuất quần áo, mua bán chứng khoán
và khai tác đường giây viễn thông chó
đến những dịch vụ y tế. Năm 2006, các xí nghiệp do
quân đội quản trị thu được $2 tỷ mỹ kim lợi tức, 3%
Tổng Sản
Lượng quốc gia. Việc giải tư sẽ ảnh hưởng đến những
nguồn lợi
tài trợ cho quân đội đsung vào lúc những sự
cố tại Biển Nam Hải đ̣i hỏi phải gia tăng chi phí
quốc
pḥng.
Năm 2006, Đại Hội Đảng Lần Thứ Mười đă thông qua
nghị
quyết nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hải đặc
biệt
chú trọng đến các khu vực có lợi thế tương đối để
phát triển kinh tế hàng hải, duy tŕ quốc
pḥng và an ninh quốc gia trong tinh thần hợp tác
quốc tế. Hội Nghị Trung Ương Đảng CSVN lần thứ 4 họp
vào
tháng Giêng 2007 đă xem xét vấn đề
này. Báo cáo trong kỳ đại hội này cho biết
không có một kế hoạch nhất quán nào để
ḥa nhập phát triển kinh tế của vùng biển với việc
khai thác hải sản trên lănh hải của Việt Nam.
Váv chuyên gia kinh tế dự đoán vào khoảng
năm 2020, kinh tế hàng hải có thể đóng góp
đến 55% của Tổng Sản Lượng quốc gia và giữa 55 và 60
%
sản lượng xuất khẩu.
Đại Hội Trung Ương Đảng lần thứ 4 chỉ thị « Chính
sách Hàng Hải cho năm 2020 » phải thi hành
để ḥa nhập phát triển kinh tế vào bảo vệ
môi sinh và an ninh quốc pḥng quốc gia. Quân
Đội Nhân Dân Việt Nam có bộn phận « bảo vệ
lănh hải và bảo vệ chủ quyền lănh thổ ».
Chính sách về hàng hải đă được hoàn
tất cuối năm nhưng chưa được công khai tuyên bố. Nhà
chức trách Trung Hoa có được một bản sao của tài
liệu này và lưu ư kế hoạch của Việt Nam bao gồm
những khu vực mà Trung Hoa có chủ quyền. Sau đó
Trung Hoa gây áp lực lên trên các xi
nghiệp có dự phóng khai triển lănh vực hàng
hải của Việt Nam, báo cho họ biết là những dịch vụ
thương
mại của họ có thể sẽ bị tổn hại nếu họ tham dự vào
việc
phát triển những vùng Trung Hoa có chủ quyền.
Những tác động đàng sau hậu trường của Trung Hoa đi
kèm với những xác quyết ngoại giao và quân
sự. Ví dụ, Việt Nam đă đưa một bản kháng nghị phản
đối khi Trung Hoa đóng cột móc biên giới tại quần
đảo Hoàng Sa (Xisha ?"Paracel ), lên tiếng cho biết
việc
này vi phạm chủ quyền Việt Nam. Ngày 4 tháng
Giêng năm 2007, Lưu Kiến Siêu (Liu Jianchao), phát
ngôn nhân của Bộ Ngoại Giao, bác bỏ lời phản
kháng này và tuyên bố : « Trung Hoa
có chủ quyền không thể phủ nhận trên các đảo
Hoàng Sa (Xisha) và Trường Sa (Nansha) và
các đảo phụ cận. Và chúng tôi có bằng
chứng lịch sử và công pháp để chứng minh điều
này. » Họ Lưu cũng lưu ư rằng việc cất dựng những
cột móc lănh hải của Trung Hoa là một vấn đề thuộc
chủ quyền của Trung Hoa và các nước khác
không có quyền can thiệp. Họ Lưu nói rằng điều
này dựa trên Quy Ươc của Liên Hiệp Quốc về Luật
Hàng Hải và Luật của Trung Hoa về Lănh Hải
và Vùng Phụ Cận. Trung Hoa đă công bố những
cứ điểm trên quần đảo Hoàng Sa vào đầu năm 1996
(Press Trust of India, Beijing, January 4, 2007).
Trong bối cảnh này, Trung Hoa và Việt Nam tổ chức
hội
nghị lần thứ 13 về các vấn đề biên giới và
lănh thổ tại Nam Ninh (Nanning) vào những ngày 19
và 20 tháng Giêng năm 2007. Cuộc họp này
thiết lập khung thảo luận về những vấn đề lănh thổ
và
lănh hải. Về biển Nam Hải, Thông Tấn Xă Việt Nam
báo cáo : « Liên quan đến những vấn đề
hàng hải, dựa trên căn bản nhận thức chung và hiệp
ước đă kư kết giữa các cấp lănh đạo của hai
nước, cả hai bên thảo luận sâu sát những biện
pháp để duy tŕ ḥa b́nh và ổn định
tại Biển Đông, không có những hành động để
gây thêm rắc rối hoặc làm to chuyện những tranh
căi. Họ đồng ư tiếp tục cơ chế thương thuyết để
t́m kiếm một giải pháp cơ bản và lâu
dài cả hai bên đều chấp nhạn và phù hợp với
luật pháp và thông lệ quốc tế, đặc biệt Quy Ước
Liên Hiệp Quốc năm 1982 về Luật Hàng Hải và
Tuyên Bố về Quy Tắc Úng Xử (Declaration of Conduct
of
Parties ?" DOC)liên quan đến Biển Nam Hải. (45)
Tháng Ba, hăng British Petroleum (BP) và
các đối tác đă đệ tŕnh kế hoạch lên
Bộ Công Nghệ Việt Nam đầu tư $2 tỉ mỹ kim để khai
thác hơi
đốt và năng lượng trong ṿng 10 năm săp tới. Những
kế
hoạch này bao gồm việc thiết lập ít nhất hai ống dẫn
hơi
đốt nối liền với mỏ ngoài khơi biển với hai công
trường
chứa hơi đốt mới, Mộc Tinh và Hải Thạch tại lưu vực
Nam
Côn Sơn trên biển Đông Hải. Kế hoạch của BP cũng bao
gồm việc thiết lập một nhà máy phát điện tại Nhơn
Trạch, thuộc tỉnh Đồng Nai.(46). Hăng BP hiện duy
tŕ một
ống dẫn dầu khí duy nhất nối liền mỏ Lan Tây và Lan
Đô tại lưu vực Nam Côn Sơn với nhà máy điện
Phú Mỹ tại Bà Rịa, Vũng Tàu. Những mỏ mới chuẩn bị
gắn liền với đường ông dẫn dàu khí nằm cạnh những
mỏ hăng BP điều khiển ống dẫn.
Vấn đề hoạt động tương lai của hăng BP mau chóng trở
thành một vấn đề tranh chấp trong mối bang giao VIệt
Trung.
Ngày 9 tháng 4 năm 2007, ông Wu Bangguo, chủ tịch
Quốc Hội Nhân Dân, gặp gỡ đồng nghiệp Việt Nam, ông
Nguyễn Phú Trọng. Ông Wu nói rằng hai nước cần giải
quyết thỏa đáng những vấn đề biên giới trong cố gắng
ǵn giữ ổn định trên biển Đông Hải. Ông Ưu
cũng nói « Hai nước cần xúc tiến ḷng tin
cậy lẫn nhau, giải quyết một cách thỏa đáng vấn đề
biên giới và thực thi những thỏa ước liên hệ.
» (47) Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào (Hu
Jintao) nói với ông Trọng : « Trung hoa sẵn
sàng làm việc với Việt Nam để giải quyết thỏa đáng
vấn đề biên giới lănh thổ và lănh hải để
cùng nhau duy tŕ ḥa b́nh trên những
vùng biên giới. » (48)
Tháng 10, ông Tần Khang (Qin Gang), phát ngôn
nhân của Bộ Ngoại Giao Trung Hoa, được cơ quan
truyền thông
của nhà nước trực tiếp phỏng vấn về ống dẫn dầu khí
nêu trên và kế hoạch Việt Nam họp Quốc Hội để
xác định chủ quyển của ḿnh trên biển Đông
Hải. Ông Tần (Qin) trả lới : « Trung Hoa có chủ
quyển không thể chối căi trên quâdn đảo Trường
Sa (Nansha- Spratly Islands) và những vùng biển tiếp
cận
và những lănh hải bên cạnh? {Do nỗ lực của mội
người, t́nh h́nh hiện nay ở Biển Nam Hải được ổn
định}?
Những hành động mới đây của Việt Nam đă vi phạm chủ
quyền của Trung Hoa và đi ngược lại thỏa hiệp quan
trọng
các cấp lănh đạo hai nước đă đạt được về vấn đề
lănh hải và không đem lại ổn định trong vùng
Biển Nam Hải. » (49). Ông Quin ghi nhận hành động
đơn phương của bất kỳ nước nào trên Biển Đông Hải
là « bất hợp pháp và vô hiệu »
xâm phạm đến chủ quyền của Trung Hoa. (50) Trich dẫn
lời
ông Qin : « Việc này không đem lại ổn định
trong vùng BIển Nam Hải. Trung Hoa đang chú ư theo
dơi và chúng tôi đă có những
lời cảnh báo nghiêm trọng với phía Việt
Nam.»(51).
Trả lời lại, ngày 11 tháng Tư , ông Lê Dzũng,
phát ngôn nhân Bộ Ngoại Giao, cho biết Việt Nam
có đủ chứng cớ lịch sử và căn bản công pháp
để xác nhạn chủ quyền trên những quần đảo Hoang Sa
(Paracel) và Trường Sa (Spratly). Ông Dzũng nói
những hoạt động của Việt Nam trên những đảo và lănh
hải này, bao gồm việc phân lô, thăm ḍ
và khai thác dầu khí là công việc
« hoàn toàn b́nh thường ». Ông
nói : « nhũng hoạt động này phù hợp với Quy
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật trên Biển và Hiệp Ước về
Ứng xử năm 2002 trên Biển Đông Hải. » (52). Ông
Dzũng cũng ghi nhận sự hợp tác của Việt Nam với hăng
BP
có từ năm 2000 và « nằm trong lănh vực kinh
tế tuyệt đối của Việt Nam và thêm lục địa của ḿnh,
và trong phạm vi chủ quyền của Việt Nam. » Các
giếng Lan Tây và Lan Đô đă sản xuất hơi đốt
tự nhiện cho nhà máy phát điện từ năm 2002. (54).
Tháng 4 năm 2007, đương lúc trao đổi những lời minh
định
và lời phản bác, chiến hạm Trung Hoa bắt giữ 4 ngư
dân đánh cá gần quần đảo Trường Sa. Và, do
áp lực của Trung Hoa, tháng 6 hăng BP tuyên
bố ngưng thăm ḍ địa chấn phía Nam Việt Nam cho đến
khi
nào những căng thẳng Trung ?"Việt lắng dịu. T́nh
h́nh trở nên xấu hơn vào ngày 9 tháng
7 năm 2007 khi chiến hạm của Hải Quân của Quân Đội
Nhân Dân Giải Phóng và tàu của ngư phủ
Việt Nam đụng độ gần Trường Sa và kết quả là một
chiếc
thuyền ngư phủ Việt Nam bị dánh ch́m và một ngư
phủ thiệt mạng. (55) Việt Nam giữ im lặng về sự cố
này và
không tiết lộ trên báo chí. Tin tức về sự
đụng độ này do Đài Phát Thành Á
Châu Tự Do(Radio Free Asia- RFA) loan truyền.
Vào cuối năm, Hải Quân Trung Quốc (People ?~s
Liberation
Army Navy ?" PLAN) tập trận quanh quần đảo Hoàng Sa
từ
ngày 16 đến 23 tháng 11 năm 2007 và Việt Nam
đă lên tiếng phản đối việc này. Nhưng không
có hành động nào gây hấn hơn quyết định của
Quốc Hội Trung Hoa (NPC) thiết lập thành phố cấp
huyện Tam Sa
thuộc tỉnh Hải Nam để quản lư hành chánh ba quần
đảo tại Biển Nam Hải, trong đó có quần đảo Hoàng
và Trường Sa. Tin tức về quyết định của Quốc Hội
Trung Hoa
đă tạo nên làn sóng sinh viên biểu
t́nh chống Trung Hoa tại Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh ngày 9 và 16 tháng 12 năm
2007. Trung Hoa lập tức phản đối những cuộc biểu
t́nh
này. Khi những phản đối lắng dịu, Bộ Trưởng Ngoại
Giao Việt Nam
thông báo cho tất cả các Đại Sứ của ASEAN những
cuộc biểu t́nh này có tính bột phát
và không được phép. (56) Nhưng xem ra những cuộc
biểu t́nh này đă được dàn dựng kỹ lưỡng.
Thực ra, Việt Nam bắt chước sách vở của Trung Hoa và
dàn dựng cảnh biểu t́nh « bột phát »
để nói lên sự khó chịu của Việt Nam đối với
hành động của Trung Hoa ở Biển Đông Hải. Nói
cách khác, những cuộc biểu t́nh đă được
khéo léo tổ chức để nói lên những ǵ
nhà cầm quyền âm thầm suy nghĩ nhưng không thể
nói công khai.
Các nhà cầm quyền Việt Nam nằm trong vị thế trên đe
dưới búa. Trên phương diện ngoại giao, Trung Hoa
luôn tỏ vẻ muốn giải quyết những vấn đề nan giải một
cách
ôn ḥa. Tuy nhiên đàng sau hậu trường Trung
Hoa gây áp lực ngoại giao và quân sự
lên Việt Nam. Ông Ngô Bang Quốc, người đă
phát biểu những lời trên đây, cũng chính
là người lănh đạo Quốc Hội Trung Hoa biểu quyết
thành lập huyện Tam Sa, gây nên những phản đối của
Sinh Viên Việt Nam.
Nhằm mục đích giảm bớt căng thẳng đương lên, Ủy Ban
Định
Hướng Hợp Tác Trung Việt họp tại Bắc Kinh ngày 23
tháng Giêng năm 2008. Phái đoàn Việt Nam
có sự hiện diện của Thứ Trưởng Quốc Pḥng Nguyễn Huy
Hiệu, ông Hiệu đă đến gặp gỡ riêng biệt từng
thành viên của Ủy Ban Khoa Học, Kỹ Thuật và
Công Nghệ, Bộ Quốc Pḥng.(57). Trong buổi họp của Ủy
Ban
Định Hướng, cả hai bên đồng ư « xử lư
êm đẹp những vấn đề trong mối liên hệ song phương »
qua « đối thoại và tham khảo ». Nhưng cuối
tháng đó, Trung Hoa tố cáo ngư phủ Việt Nam tấn
công các tàu đánh cá lưới rà
của Trung Hoa trên Vịnh Bắc Việt. Việt Nam phản bác
lời tố
giác này và biện luận là lưới đánh
cá của những tàu đánh cá rối cuộn
vào nhau.
Vị thế hết sức tế nhị của Việt Nam được phơi bày
trong một sự cố
lạ lẫm liên quan đến việc hủy bỏ chuyến viếng thăm
Hà Nội
cua Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ John Negroponte
cuối tháng
giêng 2008. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ chính thức công bố
chuyến đi và cả hai nước Trung Hoa và Việt Nam
thông tin là cuộc viếng thăm sẽ tiếp diễn. Chuyến
bay của
ông Negroponte được sắp xếp trực tiếp đi từ Bắc Kinh
đến
Hà Nội theo một chương tŕnh đă chuẩn bị sẵn
và xác định. Tuy nhiên kư giả ngoại quốc ở
Hà Nội được thông báo là chuyến đi đă
bỉ huy bỏ v́ thời tiết xấu. Nhưng khi kư giả kiểm
chứng
lại họ khám phá các chuyến bay thương mại bay
vào và bay ra khỏi Bắc Kinh không bị thời tiết chi
phối. Các viên chức Việt Nam nói nhỏ gảii
thích như sau : chuyến viếng thăm của ông Negroponte
bị
hủy bỏ v́ áp lực của Trung Hoa không muốn ông
can thiệp vào mối liên hệ song phương. Giới chức
trách Việt Nam cũng đă lên tiếng cho biest Trung
Hoa đe dọa hủy bỏ chuyến viếng thăm Bắc Kinh đă dự
tính
của Bộ Trưởng Ngoại Giao Phạm Gia Khiêm nếu Hà Nội
đóng tiếp ông Negroponte.
Những đụng chạm mỗi lúc gia tăng giữa Trung Hoa và
Việt
Nam đă được đem ra bàn luận trong « hội nghị thượng
đỉnh » các cấp lănh đạo đảng Cộng Sản họp tại Bắc
Kinh từ ngày 30 tháng 5 đến 2 tháng 6 năm 2008.
Một bản tuyên bố chung sau cuộc họp giữa Tổng Bí Thư
Hồ
Cẩm Đào và Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh tiết lộ
Trung Hoa và Việt Nam đă đồng ư nâng cao mối
quan hệ lên cấp độ đối tác chiến lược (58). Vấn đề
Biển
Nam Hải chỉ được đề cập phớt qua trên truyền thông
của
chính quyền nhưng những ǵ được tuyên bố xem ra
đáng chú ư. Có một vài tin đề cập
đến những « vấn đề tồn đọng của lịch sử » và
không đi sâu vào chi tiết. Một bài
b́nh luận trên báo Nhân Dân ngày
30 tháng 5 năm có đề cập thoáng qua « việc
duy tŕ ổn định trên Biển Đông Hải ». Khi
ông Hồ « đề nghị một giải pháp thích hợp cho
những vấn đề hiện tại giữa hai nước trên căn bản
tham khảo hữu
nghị và lợi ích đôi bên. », ông
Mạnh trả lời ông chia sẻ quan điểm của ông Hồ và
oong nói «cả hai nước nên nhanh chóng
thông báo những ưu tư của ḿnh. » Cả hai cấp
lănh đạo đồng ư « cổ vơ một cơ cấu hợp
tác hữu hiệu giữa các bộ ngoại giao và quốc
pḥng, các cơ quan an ninh. Hai cáp lănh
đạo cũng đồng ư cơ cấu thích hợp nhất để xử lư mối
liên hệ là Ủy Ban Định Hướng song phương. Ông Hồ
cũng yêu cầu đối tác của ông chấp thuận kế hoạch 5
năm về hợp tác thương mại.
Lập tức trước khi ông Mạnh thăm viếng Bắc Kinh, h́nh
ảnh
quảng cáo thương mại do truyền h́nh vệ tinh phong đi
xác nhận Trung Hoa đang thiết lập một căn cứ hải
quân tại
đải Hải Nam và phần lớn các chiến hạm và một chiếc
tàu ngầm nguyên tử ngừng trạm tại đây. Để có
thể thấu hiểu tầm quan trọng chiến lược trong việc
thiết lập căn cứ hải
quân tại Sanya (Tam Á), chúng ta cần phải hiểu
ư định và khả năng của Trung Hoa. Từ trước tới nay,
Trung
Hoa không hề cung cấp một tin tức nào về việc này.
Về khả năng, việc xây cất những
cầu tàu
và bến cảng tại căn cứ này cho thấy Căn Cứ Hải Quân
Tam Á được dùng để tiếp nhận những chiến hạm lớn
trong
đó có tàu đổ bộ và có thể
hàng không mẫu hạm nữa (hiện nay Trung Hao chưa có
hàng không mẫu hạm). Việc xây cất tại Hải Nam được
tiến hành cùng lúc với việc thiết lập sân
bay tại Woody Island ( Vĩnh Hưng Đảo) trên quần đảo
Hoàng
Sa (Paracel) và thiết bị các công sự tại Fiery
Cross Reef (Vĩnh Thự Tiều)và duy tŕ sự hiện diện
cảu hải
quân tại Mischief Reef (Đá Vành Khăn ?" Mĩ Tế
Tiều), cả hai thuộc quần đảo Trường Sa (Paracel).
Trung Hoa sẽ gia tăng
khả năng bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông Hỉa và bảo
vệ Đường Hàng Hải Liên Lạc sinh tử của ḿnh (Sea
Lines of Communication - SLOC) xuyên qua Malacca và
eo
biển Singapore ; phần lớn năng lượng của họ đi qua
ngă
này. Đi xa hơn nữa, Trung Hoa cũng sẽ có khả năng đe
dọa
những con đường SLOC mà các nước Nhật bản, Đài
Loan, Nam Triều Tiên tùy thuộc.Trung Hoa sẽ có khả
năng phát động lực lượng chinh phạt tại Biển Đông
Hải
và đường giây hậu cần sẽ được rút ngắn rất nhiều.
Một công tŕnh xây cất khác cho thấy căn cứ
hải quân Tam Á sẽ đóng một vai tṛ chiến
lược cho sự cân bằng cán cân lực lượng trong
vùng. Mốt số căn cứ không dễ ǵ thấy được xây
cất ngầm dưới ḷng đất để đáp ứng những hoạt động.
H́nh ảnh vệ tinh đă xác nhận sự hiện diện loại
tàu ngâm Trung Hoa 094 vào cuối năm 2007. Loại
tàu ngầm 094 là loại chiến thuyền nguyên tử thế hệ
thứ hai và biểu hiện loại vũ khí hải quân nguy hiểm
nhất của Trung Hoa. Năm chiếc tàu ngầm phóng tên
lửa liên lục địa đầu đạn nguyên tử (SSBN - Ballistic
Missile Submarines (Nuclear Powered) có thể hoạt
động vào
năm 2010 theo dự đoán của Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ.
Nghiên cứu những sinh hoạt xây cất do vệ tinh thu
h́nh, người ta được biết căn cứa này có khả năng
chứa những tiềm thủy đỉnh nguyên tử có sức phóng
những hỏa tiễn liên lục địa. Khi các ông sự
này hoàn tất, Trung Hoa có tiềm năng lưu trữ một
phần lớn tiềm thủy đỉnh nguyên tử để thị oai tại
đây.Tiềm
thủy đỉnh nguyên tử tối tân nhất của Trung Hoa hiện
nay
chưa có khả năng hoạt động nhưng khi các tàu ngầm
này chuyên chở 12 Hỏa tiễn Liên Lục Địa phóng
từ Biển, loại tàu ngầm này có năng lực mạnh hơn
nếu Trung Hoa gắn những mũi đạn đa đầu len trên hỏa
tiễn.
Tàu ngầm nguyên tử Trung Hoa có khả năng tuần tra
và bắn từ những nơi ẩn nấp sâu trong ḷng biển
ngoài khơi đảo Hải Nam nếu Trung Hoa có được những
kỹ
năng cần thiết. Cho dên này chưa ai biết rơ bao
nhiêu chiếc trong số năm chiếc tầu ngầm nguyên tử
Trung Hoa
sẽ dùng Tám Á làm căn cứ.
Việc Trung Hoa canh tân hải quân là một thách
đố và là mối đe dọa tiềm tàng cho tất cả
các nước Đông Nam Á và đặc biệt là
Việt Nam. Trung Hoa là cường quốc vượt trội trong
vùng
nếu đem so sánh không những các đội hải quân
của các nước ASEAN mà cả Ấn Độ và Úc
Châu. Mặc dù Trung Hoa đang khai triển khả năng để
đương
đầu với Hải Quân Hoa Kỳ trong những rủi ro đụng chạm
trong
đó có vấn đề Đài Loan, Hải Quân của
Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân sẽ là một
thắch thức nhưng trong mười năm tới và lâu dài hơn,
Hải Quân Hoa Kỳ văn tiếp tục ngự trị biển cả.
Phần 3
7. Kết Luận
Tài
liệu này đă mô tả
những diễn biến trong chính sách quốc pḥng của
Việt Nam sau khi xung đột với Căm Bốt đă được giải
quyết với sự
tan ră của Liên Bang Xô-Viết cho đến ngày
nay. Trong thời gian này, Việt Nam đă áp dụng
chính sách quốc pḥng chuyển từ việc bảo vệ chủ
quyền quốc gia sang đến an ninh tổng quát. Phát
triển
kinh tế là niềm hănh diện của Việt Nam và
quân đội Việt Nam đă bị cắt giảm và ngân quỹ
tài trợ thiếu hụt. Chính sách ngoại giao của Việt
Nam nằm trong những khẩu hiệu hấp dẫn như « chính
sách ngoại giao đa phương » và « làm
bạn với tất mọi nước ». Việt Nam đă đi từ thành quả
nay sang thành quả khác trên đường hội nhập kinh tế
của Việt Nam vào kinh tế thế giới.
Những phân tích trong bài này đă đề
cập đến bốn điểm chính.
Thứ nhất, sự sụp đổ của Liên Bang Xô-Viết đă
phá hủy nỗ lực quốc phong của Việt Nam và tạo nên
một thử thách lớn đối với giới lănh đạo.
Thứ hai, chấm dứt xung đột Căm Bốt đă mở cửa
cho một kỷ
nguyên mới về hợp tác trong vùng và tạo một
cơ hội mới cho Việt Nam trong mối bang giao quốc tế
Thứ ba, bối cảnh chiến lược đă thay đổi cho
phép
Việt Nam thực hiện ngoại giao quốc pḥng và tham gia
vào những chương tŕnh hợp tác quân sự với
một số đối tác mưois.
Thứ tư, do kết quả nỗ lực ngoại giao quốc pḥng,
Việt Nam
đă có khả năng bắt đầu chương tŕnh canh tân
giới hạn nhưng đặc biệt chuyên chú của quân đội bằng
việc tân trang các hệ thống và thu mua những
quân cụ mới.
Khả năng quốc pḥng của Việt Nam bị đe dạo nằng nể
do sự sụp đổ
của chủ nghĩa xă hội tại Đông Âu và
Liên Bang Xô-Viết vào những năm 1989-1991. Gần như
bất th́nh ĺnh và một cách bất ngờ, sự hỗ
trợ quân sự của Liên Bang Xô-Viết giảm xuống đột
ngột
và cuối cùng chấm dứt. Góp phần tạo thêm
khó khăn cho Việt Nam, Liên Bang Nga chuyển việc
bán vũ khí quân sự sang lănh vực thương mại
dựa trên căn bản tiền mặt. Đồng thời, t́nh trạng
kinh tế
nội bộ của Việt Nam buộc ngân sách cho Quân Đội
Nhân Dân Việt Nam bị tiết giảm ngoài sự dự liệu của
quân đội.
V́ vậy Việt Nam phải đương đầu với một t́nh thế
lưỡng nan
cấp bách. Nếu họ không phản ứng nhanh, khối vũ khí
dự trữ và thiết bị quân sự sẽ tiếp tục hư hỏng. Việt
Nam
đặc biệt chú ư đến lực lượng cột trụ không
quân, các chiếc MIG -21, hệ thống pḥng không
và khả năng điều động hải lực tại vùng biển Đông
Hải. Không tiếp cận được những nguồn sản xuất vũ khí
và hệ thống mới, Việt Nam không có khả năng tiếp
tục canh tân lực lượng của ḿnh. Các cấp
lănh đạo quân sự Việt Nam theo dơi sát diễn
tiến Chận Triến Vịnh năm 1990-91 và đi đến kết luận
họ
không c̣n lựa chọn nào khác là canh
tân. Năm 1992, việc Trung Hoa đánh chiếm những ḥn
đảo trên Biển Đông Hải đă đẩy mạnh việc « huy
động cho Trường Sa » và các chuyên viên
kế hoạch quân sự của Việt Nam đă thấy bối cảnh hàng
hải mới.
V́ những lư do này, cấp lănh đạo
chính trị và quân sự Việt Nam giành ưu
tiên cho việc ngăn chặn kho vũ khí và thiết bị
quân sự hư hao thêm. Việt Nam t́m nguồn cung cấp phu
tùng và trưoj giúp ngoại quốc để bảo tŕ,
tân trang và nâng cấp toàn bộ thiết bị quốc
pḥng. Theo một nhà quan sát viên ngoại
quốc, khoảng 60 đến 70% kho thiết bị quân sự của
Việt Nam
đă trở thành lỗi thời vào lúc này.
Ưu tiên số hai của Biệt Nam là t́m những kỹ thuật
quân sự mới thích hợp và chuyển những kỹ thuật
này cho công nghệ quốc pḥng qua các
xí nghiệp hỗn hợp, đồng sản xuất. Trong cố gắng đạt
hai mục
tiêu này ?" bảo tŕ và canh tân ?"
Việt Nam bị giới hạn v́ giá cả, tương hợp tính
và những hạn chế trong việc buôn bán vũ khí
quốc pḥng của Hoa Kỳ.
Bởi v́ quân đội Việt Nam được trang bị bằng thiết bị
Liên Xô, Việt Nam trước tiên phải thương lượng những
khế ước thương mại giá phải chăng với các nhà sản
xuất vũ khí của chính quyền Nga. Sự tan ra của Liên
Bang Xô-Viết đă mở ngơ cho các nguồn cung
cấp thiết bị khác của thời Xô Viết. V́ gặp phải
khó khăn trong vấn đề giá cả với chính quyền Nag,
Việt Nam quay sang Ukraine và thiết lập mối lien hệ
chặt chẽ
trong công nghệ quốc pḥng và thu mua vũ
khí. Ukraine có lẽ xuất hiện như một đối thủ canh
tranh
chính với Liên Bang Nga trong việc mua bán vũ
khí với Việt nam. Thêm vào đó, t́m
những cơ hội tiếp xúc với các quốc gia trong khối
HIệp
Ước Warsaw cũ, đặc biệt là Belarus, Bulgaria, Cộng
Ḥa
Czech, Ba Lan và Slovakia.
Bối cảnh chiến lược của ngoại giao quốc pḥng của
Việt Nam cải
thiện hoàn toàn sau khi Việt Nam rút quân ra
khỏi Căm Bốt và xung đột đă được giải quyết bằng
đường
lối chính trị năm 1991. Bây giờ Việt Nam đă trở
thành một nước « b́nh thường » hơn trong bang
giao quốc tế. Những thay đổi chiến lược này đă cho
phép Việt Nam mở rộng con đường cải tiến quân đội
sang đến
các nước Đông Nam Á, Đông Bắc Á,
Châu Âu và xa hơn nữa. Những giá cả vẫn
là yếu tố g̣ bó.
Ngoại giao quốc pḥng của Việt Nam đáp ứng cho nhiều
mục
tiêu, nhưng mục tiêu đầu tiên là cải thiện an
ninh quốc pḥng. Ngoài việc mua bán vũ khí
và kư kết thỏa ước dịch vụ, Việt Nam c̣n
t́m cách thiện an ninh quốc pḥng bằng phương
cách trao đổi những phái đoàn cấp cao, những thăm
viếng hữu nghị và ngoại giao, đối thoại chiến lược,
tuần tra
hàng hải hỗn hợp và thao dợt, và một số những sinh
hoạt hợp tác quốc pḥng (huấn luyện và đào
tạo quân sự, dạy ngoại ngữ, chuyển giao kỹ thuật,
nghiên
cứu y tế, tháo gỡ ḿn và phế thải quân cụ,
t́m kiếm và cứu cấp, và trợ giúp nhân
đạo và cứu trợ thiên tai).
Điều đáng chú ư là Việt Nam có những
mối liên hệ quốc pḥng ở cường độ mạnh mẽ nhất với
các láng giềng sát cạnh Việt nam, Lào,
Trung Hoa, Thái lan, Phi Luật Tân, Căm Bốt và Nam
Dương. Việt Nam trước tiên phải b́nh thường hóa
bang giao với các địch thủ cũ trong cuộc xung đột
với Căm Bốt.
Cả hai bên phải xây dựng ḷng tin tưởng và
hơn thế nữa ḷng tin cậy để chuyển hóa xung đột
thành hợp tác. Việc khai thông bắt mối liên
lạc quốc pḥng trong vùng, đặc biệt trong thập niên
1990, đă chuẩn bị cho Việt Nam gia nhập ASEAN. Năm
1994
đánh dấu khởi màn ngoại giao quốc pḥng của Việt
Nam.
Ngoại giao quốc pḥng đă cải thiện an ninh của những
vùng ranh giới lănh thổ và lănh hải, nơi
có những tranh chấp chủ quyền lănh vực. Hợp tác
quốc pḥng với Lào và Căm Bốt cũng cho phép
hồi hương những hài cốt của binh sĩ Việt Nam đă chết
trong những chiến trận Đông Dương. Trung Hoa và Việt
Nam
đă hợp tác với nhau để tháo gỡ ḿn
gài ở biên giới và hiện nay đang hoàn tất
tiến tŕnh phân cách thực thụ làn ranh. Ấn
Độ là một trường hợp đặc biệt v́ họ có kinh nghiệm
trực tiếp với các vũ khi thời Liên Bang Xô Viết
và những kỹ thuật thích hợp với Việt Nam.
Việc Việt Nam thu mua vũ khí, đặc biệt là các
chiến đâu oanh tạc cơ SU-27 và SU-30 và các
phi thuyền trang bị tên lửa hải đối hải, chứng tỏ
mối ưu tư
hàng đầu của Việt Nam trong những tranh chấp trên
biển
Đông Hải liên quan đến sự hiện diện của hải quân
Trung Hoa. Tiến triển trong mối liên hệ với Ấn Độ và
Hoa
Kỳ xác định cảm nhận của một vài chuyên gia
nghiên cứu chiến lược là Việt Nam có lẽ đang cố
gắng quân b́nh lực lượng với sự bành trướng của
Trung Hoa.
Tài liệu này cũng tŕnh bày một tiểu luận
nghiên cứu về mối bang giao giữa Việt Nam và Trung
Hoa
và cho thấy mâu thuẫn đang h́nh thành giữa
chính sách ngoại giao và chính sách
quốc pḥng của Việt Nam. Việt Nam đang t́m cách
dùng đ̣n bẩy bang giao với Trung Hoa nhằm mục đích
thúc đẩy phát triển kinh tế, tuy nhiên kế hoạch
phát triển vùng hàng hải trên Biển
Đông Hải của Việt Nam đă gây phản ứng của Trung Hoa
nhằm phá hỏng kế hoạch này. Việt Nam hiện nay đang
phải
đối diện với một thử thách quan trọng trong việc bảo
vệ chủ
quyển quốc gia của ḿnh. Tài liệu này cho thấy
có chỉ dâu Việt Nam đang từng bước khai triển khả
năng thị
oai khiêm nhường của ḿnh trên Biển Đông Hải
và dùng ngoại giao quốc pḥng để hỗ trợ vị thế
thương lượng với Trung Hoa.
Có nhiều bài vở viết về chính sách ngoại
giao không phù hợp với những phân tích
tŕnh bày trong tiểu luận này bời v́
các học giả đă không chú ư nhiều đến
phương diện chiến lược của ngoại giao quốc pḥng của
Việt Nam.
Quân Đội Nhân Dân Việt Nam là một thành
tố quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam
và
là tác nhân ngoại giao càng lúc
càng nổi bật trong vùng và trên phương diện
quốc tế. Mô h́nh thu mua vũ khí của Việt Nam
và mối ưu tư trong vấn đề an ninh biên pḥng
và sự toàn vẹn lănh thổ - điều này theo bản
chất của vấn đề đ̣i hỏi những suy tinh về chính
sách thực dụng - không thể bị đóng khung trong
những nhận định chỉ chú trọng đến xây dựng tiêu
chuẩn hợp tác và xây dựng cơ sở đồng nhất.
Nguồn:
http://ttvnol.com/gdqp/1122038
Vụ Trưởng Á Châu và Thái
B́nh Dương cuả Anh quốc
thuyết giảng về Chính
Sách Ngoại Giao
Ông
Wightman
nói
chuyện
với
phóng
viên
trong
nước tại
Đại sứ quán Anh ở Hà Nội ngày 23/3.
Quan chức Ngoại giao Anh, Scott Wightman vừa
có buổi
nói chuyện về chính sách trước các
nhà lănh đạo tương lai của Việt Nam tại học viện
Chính trị Hồ Chí Minh.
Ông Wightman là Vụ trưởng Á châu
Thái B́nh Dương của Bộ Ngoại giao Anh.
Trong chuyến thăm Việt Nam bốn ngày, nhà ngoại
giao cao cấp của Anh đă gặp ông Ngô Quang
Xuân, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội.
Cạnh đó ông Wightman cũng gặp thứ trưởng Bộ Ngoại
giao Bùi Thanh Sơn; Phó trưởng Ban đối ngoại của
ĐCS,
ông Vương Thừa Phong. Và trợ lư Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao Phạm Quang Vinh.
Trả lời BBC Việt Ngữ ngày 23/3, ông Wightman nhấn
mạnh đến mối liên hệ giữa phát triển kinh tế và
quyền tự do công dân. Cạnh đó ông cũng đề cập
đến những lĩnh vực Việt Nam cần để ư, nếu nước này
muốn
gặt hái thành quả của làn sóng tăng trưởng
toàn cầu mới.
Đầu tiên ông Wightman nói về các
điểm chính trong buổi nói chuyện tại Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Scott Wightman: Đúng vậy. Tôi
là nhà ngoại giao Anh đầu tiên nói chuyện
tại Học viện. Chúng tôi quan tâm đến phát
triển mối liên hệ giữa các thế chế của hai nước
trong lĩnh
vực chính sách công.
Tự do
ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin là
nhân tố
cần thiết cho xă hội VN, mở rộng nền tảng
tăng trưởng kinh tế
Chủ đề chính tôi nói chuyện với các
lănh đạo tương lai của VN là: thách thức kinh tế
toàn cầu, vị trí của Việt Nam trong các
thách thức này. Đặc biệt tôi nhấn mạnh VN có
cơ hội khá lớn trong làn sóng tiếp theo của
toàn cầu hóa, với việc thêm nhiều người gia nhập
giới trung lưu, tại VN cũng như các nước khác, sẽ
thúc đẩy sự h́nh thành của một giai đoạn tăng
trưởng mới. Nếu như VN có những chính sách
đúng.
Có một số đe dọa đối với xu thế tăng trưởng này.
Đó là bảo hộ mậu dịch. Tôi cho rằng quan trọng
là các nước Tây phương cần duy tŕ thị
trường mở, tự do cho hàng xuất khẩu từ các nước
đang
phát triển. Cạnh đó cũng không kém phần quan
trọng những nước như Việt Nam, họ cần tháo gỡ một
số rào
cản đối với đầu tư nước ngoài, những thứ có thể
ḱm hăm tốc độ tăng trưởng tại nền kinh tế mới
nổi. Nếu
họ không điều chỉnh, hậu quả là các nước
giàu sẽ thi hành chính sách bảo hộ, như một
hành động trả đũa. Do vậy tôi nói là
các nước sẽ cùng có lợi trong việc ngăn ngừa mối
đe dọa của bảo hộ mậu dịch.
BBC: Thưa, ông có
nói ǵ đến những trắc trở, hay điểm cần điều
chỉnh, trong
mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và hệ thống
chính trị
một đảng tại Việt Nam hay không?
Scott Wightman: Chúng tôi
không bàn về điểm đó. Tuy nhiên tôi
nhấn mạnh đến sự cân bằng nên có trong chuyện
nhà nước can thiệp vào nền kinh tế, và nên
tự do hóa nhiều hơn trong kinh tế thị trường. Tôi
hiểu
là các nhà hoạch định chính sách tại
VN tin rằng mở cửa thương mại là một trong những
nhân tố
then chốt cho sự thịnh vượng của Việt Nam. Chúng
tôi muốn
khuyến khích họ suy nghĩ làm cách nào
đó để thúc đẩy kinh tế tư nhân, tạo điều kiện cho
nó phát triển tốt hơn v́ kinh tế tư nhân
là khu vực năng động nhất trong mọi lĩnh vực, nơi
phát
kiến mới nảy nở hàng ngày, nếu như nhà nước tạo
điều kiện cho tự do thông tin, ư kiến cá
nhân, và suy nghĩ sáng tạo, lan tỏa.
BBC: Ông nói nhiều đến tiềm
năng của VN, nhất là về mặt tăng trưởng. Vậy ông
có
dành thời gian nhắc đến những thiếu sót trong mô
h́nh tăng trưởng của nước này hay không?
Ông Wightman là
quan chức
ngoại giao Anh đầu tiên nói chuyện tại Học
viện HCM.
Scott Wightman: Tôi không muốn
coi chúng là thiếu sót. Tôi có
tŕnh bày cho các cán bộ, đảng viên
VN quan điểm của nước Anh về nhân quyền. Trong
những lần
nói chuyện với quan chức từ các ngành khác
nhau, tôi có ca ngợi các thành tựu kinh tế
của VN, tiến bộ VN đạt được trong việc cải thiện
quyền kinh tế
và quyền xă hội cho người dân. Cạnh đó
tôi cũng nói rằng Việt Nam, trong giai đoạn tăng
trưởng kế
tiếp, cần phải có tiến bộ trong lĩnh vực quyền dân
sự
và quyền chính trị.
Tôi nói rất rơ điều chúng tôi
quan ngại là quyền tự do phát biểu tại Việt Nam.
Tuần
trước Bộ Ngoại giao Anh vừa công bố báo cáo
toàn cầu về nhân quyền. Có một phần về VN trong
báo cáo đó. Chúng tôi nhấn mạnh VN
cần phải có tiến bộ về tự do ngôn luận, quyền tiếp
cận
thông tin, tôi coi đây là nhân tố cần
thiết để củng cố xă hội VN, mở rộng nền tảng để có
thêm tăng trưởng kinh tế.
BBC: Trong trật tự kinh tế
thế giới
ngày nay, giữa các thách thức lớn tại vùng
Á châu, theo ông Việt Nam cần làm ǵ
và có nên khẩn trương hay không, để
phát huy được tiềm năng của ḿnh?
Scott Wightman: VN nằm trong
nhóm
các nền kinh tế mới nổi không bị ảnh hưởng bao
nhiêu
của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Nước này đạt
được tốc
độ tăng trưởng khoảng 5% trong năm qua. Trong khi
nhiều nền kinh tế
khác, trong đó có nước Anh, rơi vào khủng
hoảng. Điều này cho thấy VN đang trở thành một
nước
có vai tṛ nhất định trong vùng, và
trên thế giới. Tất nhiên vẫn c̣n một số ‘vấn đề’
liên quan đến lạm phát, và tăng trưởng nóng,
tôi cho rằng giới chức đang tiến hành các bước để
kiểm soát chuyện này.
Quan trọng là VN cần xác định lợi thế tương đối
của quốc gia này nằm ở đâu để dịch chuyển nền sản
xuất từ
chỗ làm hàng rẻ xuất khẩu sang những mặt hàng
có hàm lượng chất xám cao hơn.
BBC: Thưa ông Việt Nam đóng
vai như thế nào trong nền ngoại giao Anh ở vùng
Đông Nam Á?
Scott Wightman: Đóng vai chủ
tịch
Asean năm nay, VN trở thành đối tác quan trọng của
nước
Anh. Asean đang ở trong một cung đường quan trọng.
Điều chúng
tôi muốn thấy là Việt Nam cần thể hiện vị thế chủ
tịch
Asean một cách năng động, trước các vấn đề mỗi
nước Asean
đang đối diện. Đồng thời thực hiện vai tṛ lănh
đạo trong
việc thúc đẩy hợp tác với Liên hiệp Âu
châu, cũng như một số nước có tầm quan trọng trong
khu vực
và trên thế giới.
Nguồn:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/03/100324_britain_vietnam_policy.shtml
Chính
sách
Bang
Giao
Với
Trung
Hoa (Hán Quốc) ?
Chính
sách
Bang
Giao
Với
Lân
Bang ?
Chính
sách
Ngoại
Giao
và
Mậu
Dịch
?
Chính
sách
Ngoại
Giao
và
Quốc
Pḥng ?
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa
của
Việt tộc
và phục hồi nền An Lạc
& Tự Chủ.
|