Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.net



Ngục Trung Thư

Đời cách mạng của Phan Bội Châu
Nguyên tác bằng Hán văn của Phan Bội Châu

Bản dịch của Ðào Trinh Nhất



Phan Bội Châu (1867-1940)


Tiểu Sử Phan Bội Châu



Phan Bội Châu sinh vào tháng Chạp năm Ðinh Mão,  tức là năm Tự Ðức thư 20 (1867), cha mẹ đặt tên là Phan Văn San. Về sau, vì sợ phạm húy với Hoàng tử Vĩnh San, tức vua Duy Tân, con thứ của vua Thành Thái, nên đổi lại là Phan Bội Châụ Bội-Châu có nghĩa là đeo ngọc.

Sinh trưởng trong một gia đình lễ giáo, thân phụ ông là Phan Văn Phổ, một nhà nho chân chính rất trọng chữ thanh cần. Thân mẫu ông là bà Nguyễn Thị Nhàn, một nữ sĩ được tiếng là người đức hạnh.

Phan Bội Châu quê ở xã Ðông Liệt, tỉnh Nghệ An. Năm lên 3 tuổi, ông phải theo cha mẹ về ở nơi quê của nội tổ ở làng Ðan Nhiệm, tổng Xuân Liễm, huyện Nam Ðàn, tỉnh Nghệ An.

Từ thuở bé, Phan Bội Châu đã được hấp thụ một nền giáo dục rất chặt chẽ nhờ vào sự đảm đang nuôi nấng, dạy dổ của mẫu thân, nhưng phần lớn cũng nhờ vào sự nghiêm khắc của thân phụ, lúc bấy giờ làm nghề dạy học.

Phan Bội Châu rất mực thông minh. Năm lên 6 tuổi được cho đi học, chỉ trong ba ngày, ông học he^'t  cuốn Tam Tự Kinh. Lên bảy tuổi học đến sách Luận ngữ, ông đã mô phỏng để làm cuốn Phan tiên sinh luận ngữ, có ý mỉa mai chúng bạn nên bị phụ thân quở phạt. Năm 1874, ở Nghệ An có phong trào Văn Thân, dù chỉ mới là một đứa bé lên tám, Phan Bội Châu cũng muốn noi gương của Trần Quốc Toản xưa đã giúp Hưng Ðạo Vương để đại phá quân Nguyên ở Bến Chương Dương nêu cao lá cờ phá cường tặc báo hoàng ân nên ông đã tụ tập bọn trẻ con lại để tập trận giả bằng những súng đạn do chính ông
làm ra.

Năm 1885, hưởng ứng phong trào Cần Vương, Phan Bội Châu tổ chức Sĩ-tử Cần Vương đội. Nhưng nhận thấy rằng công cuộc Cần Vương chỉ có thể đem lại kết quả tốt đẹp khi nào người lãnh đạo là một nhân vật có chân khoa bảng xuất thân, nhất là phải có danh vọng, ông phải đành quay về với lối học cử nghiệp.

Dù rất thông minh và hay chữ, Phan Bội châu thi Hương bao nhiêu lần vẫn trượt. Sở dĩ có chuyện lạ
như thế vì :

* Lối văn khoa cử không thích hợp với người đã có sẵn một tinh thần cách mạng. Do đó, Phan Bội Châu không chịu ép mình trong khuôn khổ của trường quy.

* Nhà nghèo, ông thường làm bài mướn để lấy tiền tại trường thị Ðã có lần vì phạm húy, ông bị bôi tên trong danh sách thí sinh trọn đời. Về sau, nhờ sự vận động của quan Tế-Tửu Trường Quốc Tử Giám là Khiêu Năng Tĩnh, thầy học của ông, ông được đi thi lại. Khóa thi Hương năm Canh Tý (1900), ông thi đỗ Thủ Khoa tại trường thi Nghệ An lúc bấy giờ ông đã 33 tuổi.

Năm 1901, ông có thi Hội nhưng không đỗ, ông cũng chẳng màng đến công danh nữa. Con đường cử nghiệp đối với ông chỉ là phương tiện giúp cho ông mưu đồ việc lớn, chớ chí khí của nhà cách mạng lão  thành Phan Bội Châu đâu đã chịu gởi nơi trường khoa danh.

Tiếng tăm hay chữ và mảnh bằng Giải nguyên đã giúp Phan Bội Châu có uy tín trong việc lãnh đạo công cuộc khởi nghĩa Cần Vương. Ông bắt đầu hoạt động mạnh trong nước.

Sau khi Phan Ðình Phùng mất, phong trào Cần Vương xuống dần và cơ hồ tan rã, Phan Bội Châu đã nối chí nhà lãnh đạo tiền bối. Phan Bội Châu đứng ra kêu gọi dân chúng ở miền Thượng du khởi nghĩa.

Nhận thấy con đường cử nghiệp làm cho dân tộc đi đến chổ yếu hèn, Phan Bội Châu kêu gọi canh tân. Ðể khích động lòng ái quốc của nhóm sĩ phu và nhân dân trong nước, ông đã viết ra tập Lưu cầu huyết lệ tâm thư. Ông đã vào Nam ra Bắc để liên lạc với những nhà ái quốc trong nước để vận động cho cuộc cách mạng có kết quả.

Lúc bấy giờ, những người cùng chí hướng với Phan Bội Châu ở miền Trung như Ðặng Nguyên Cản, Ðặng Thái Thân, Trần Quý Cáp, Ngô Ðức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Nguyễn Cần, ở miền Bắc có Nguyễn Thượng Hiền, Lê Ðại, Nguyễn Quyên, Lương Văn Can, ở miền Nam có Nguyễn Thần Hiến, Trần Chánh Chiếu. Phan Bội Châu cũng đã lên tận Yên Thế xin gặp Hoàng Hoa Thám. Ðể cho công cuộc Cần Vương được thống nhất, ông bàn với ông Tiểu La Nguyễn Văn Thành đồng tôn Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể lên làm Hội Chủ.

Nhận thấy còn phải có sự viện trợ của ngoại bang trong việc cách mạng kháng Pháp, ông bàn với các bạn cho ông được xuất dương.

Năm 1905, Phan Bội Châu xuống tàu, giả làm thương khách qua Tàu rồi sau đó sang Nhật.

Sau khi xuống tàu sang Hương Cảng rồi đến Nhật, Phan Bội Châu đến gặp Lương Khải Siêu, người lãnh đạo công cuộc duy tân của Trung Hoa và sau cuộc chính biến phải lưu vong sang Nhật. Tại đây, Lương Khải Siêu giới thiệu Phan Bội Châu với những vị chính khách Nhật như Bá tước Ðại Ôi và Khuyển Dương Nghị. Hai vị này khuyên ông nên về nước mời Kỳ Ngoại Hầu sang Nhật. Sau đó ít lâu, ông lại sang Nhật.

Năm 1906, Kỳ Ngọai Hầu Cường Ðể và nhiều du học sinh sang Nhật. Phan Bội Châu lại xin cho các du học sinh vào học ở Chấn Võ Học Hiệu và Ðồng Vạn Thư Viện. Cũng trong năm ấy, ông Phan Chu Trinh sang Hương Cảng và qua Nhật. Hai nhà cách mạng cùng họ Phan đã gặp nhau và luận bàn quốc sự. Dù Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu có bất đồng ý kiến, nhưng cả hai đều rất quý mến nhaụ

Cuối năm 1906, Phan Bội Châu lại về nước một lần nữa để dọ đường hầu để chở khí giới về cho Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế.

Năm 1907, Phan Bội Châu lại trở sang Nhật. Sau khi ký thương ước với Pháp xong (năm 1908) chính phủ Nhật đã ra lệnh trục xuất những nhà cách mạng Việt Nam ra khỏi lãnh thổ. Phan Bội Châu và các đồng chí phải trở lại Trung Hoa hoạt động.

Năm 1912, do theo lời yêu cầu của các bạn, Phan Bội Châu qua Xiêm (Thái Lan) một thời gian. Cũng trong năm này, cuộc cách mệnh Tân Hợi của Trung Hoa thành công. Từ Xiêm, ông trở lại Trung Hoa, lập ra Việt Nam Quang Phục Hội chủ trương theo chính thể dân chủ.

Năm 1912, Trung Hoa Dân Quốc được thành lập, Phan Bội Châu được đốc quản tại Thượng Hải là Trần Kỳ Mỹ và đô đốc Auq?ng Tây là Hồ Hán Dân giúp đỡ về tài chánh và tinh thần. Trong thời gian này, Phan Bội Châu giữ chức quyền Tổng lý Việt-Nam-Quang-Phục Hội.

Năm 1913, nhân việc ném bom ở Thái Bình HàNoi Hotel, Hội đồng Ðề Hình của thực dân Pháp xử tất cả 14 án chém, Phan Bội Châu và Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể đứng đầu sổ.

Quân lính ở tỉnh thành Quảng Ðông gây biến, Long Tế Quang đem binh đến dẹp và nhậm chức đô đốc Quảng Ðông. Vì ăn của lót của thực dân Pháp, Long Tế Quang bắt Phan Bội Châu giam vào ngục. Chính trong thời gian bi giam giữ, ông đã viết ra tập Ngục Trung Thư Cuộc thương thuyết của Pháp và Long Tế Quang chưa xong thì chiến cuộc Âu châu bùng nổ (1914-1918), Long tế Quang bị hạ, đảng cách mạng Trung Hoa cứu Phan Bội Châu ra khỏi ngục Quảng Châụ

Năm 1914, Phan Bội Châu lập tại Quảng Châu một cơ quan lấy tên là Tâm Tâm Xã dùng làm nơi liên lạc với những đồng chí và dự định viết sách gởi về nước để giục lòng yêu nước của đồng bào và tuyên truyền tinh thần dân nước.

Trong tháng ba năm ấy, được biết tin toàn quyền Merlin sang công cán bên Nhựt, Phan Bội Châu liền triệu tập các đồng chí quyết đón đường hạ sát Merlin. Phạm Hồng Thái được chọn thì hành việc này. Quả bom ở Sa-Ðiện nổ, tuy không giết được Merlin nhưng đã thức tỉnh được sự say ngủ của đồng bào trong nước và gây một tiếng vang khắp thế giới đều biết.

Năm 1925, nghe theo lời Lý Thụy và Lâm Ðức Thụ, Phan Bội Châu gia nhập vào tổ chức Toàn thế giới bị áp bức nhược tiểu dân tộc nhưng sau đó Lý Thụy và các đồng chí lập mưu bắt Phan Bội Châu nộp cho thực dân Pháp để :

1. Tổ chức lấy được một số tiền thưởng (vào khoảng 15 vạn bạc) hầu có đủ phương tiện hoạt động.

2. Gây một ảnh hưởng sâu rộng trong việc tuyên truyền tinh thần ái quốc trong quốc dân.

Thế là Phan Bội Châu bị bắt tại Thượng Hải, bị giải về Hương Cảng rồi về Hải Phòng, sau cùng bị giam tại nhà giam Hỏa Lò, Hà Nội. Ðể tránh việc làm cho dư luận quá xôn xao về tin Phan Bội Châu bị bắt, thực dân Pháp gắn cho ông cái tên tù quốc phạm là Trần Văn Ðức.

Hội Ðồng Ðề Hình nhóm xử ngày 25 tháng 11 năm 1925 dưới sự chủ tọa của viên giám đốc Brida, Ðốc lý Hàno^.i là Dupuy và đại úy Bollie làm phụ thẩm, Boyer làm bồi thẩm và Arnoux Patrick làm lục sự. Hội Ðồng Ðề Hình cử luật sư Bona ở Hànoi và luật sư Larre ở Hải Phòng biện hộ cho Phan Bội Châu.

Trước những lời lẽ buộc tội gắt gao của Hội Ðồng Ðề Hình, Phan Bội Châu ung dung và chẫm rãi đối đáp một cách rõ ràng khúc chiết. Ðể bênh vực cho hành động hợp lý và quang minh chính đại của mình.

Sau khi hay tin Phan Bội Châu bi án tử hình, phong trào vận động ân xá cho ông nổi lên rầm rộ. Hội Thanh Niên Việt Nam in ra bốn ngàn lá đơn gởi đến các cơ quan chính phủ Pháp, các sứ thần liệt quốc ở Ba Lê, các tổ chức quốc tế yêu cầu can thiệp. Việt kiều ở Pháp họp đại hội bênh vực Phan Bội Châu, gởi điện tín kháng nghị hoặc yêu cầu tới những cơ quan có liên hệ đến vụ án Phan Bội Châụ

Trước sự công phẩn của quốc dân, ngày 24/12/1925, Toàn quyền Varenne, sau khi đề nghị về Pháp, quyết định xin ân xá cho nhà chí sĩ yêu nước. Sau khi được ân xá, Toàn quyền Varenne đưa Phan Bội Châu về an trí ở miền sông Hương núi Ngự (Huế) gọi là để di dưởng tuổi già nhưng kỳ thật chúng định giam lỏng ông.

Tuy nhiên, tấm lòng thiết tha yêu nước của ông không vì thế mà chịu lu mờ. Ông đã âm thầm nhận lãnh chức Cố vấn của Việt-Nam-QuốcDDân Ðảng. Ðã có lần V.N.Q.D.DD định âm mưu đem ông trốn thoát ra ngoại quốc nhưng không thành vì không sao thoát được sự dòm ngó của thực dân Pháp.

Năm 1940, khi phái bộ Nhật tiến vào Ðông Dương thì cũng chính là lúc thời cuộc đã chuyển sang giai đoạn mới cho cuộc Cách mạng dân tộc. Tiếc thay, trong giờ phút nghiêm trọng của lịch sử này, nhà cách mạng lão thành Phan Bội Châu đã lìa bỏ cõi đời theo tiền nhân về bên kia thế giới, lưu lại cho hậu thế một tấm gương sáng và nổi niềm thương nhớ không nguôi.

Trước giờ sắp lâm chung, ông đã cố gắng lấy hết hơi tàn và góp nhặt thần trí, đọc lên một bài khẩu chiếm có những lời lẽ thống thiết như sau :

Nay đang lúc tử thần chờ trước của
Có vài lời ghi nhớ về sau
Chúc phường hậu tử tiến mau.

Phan Bội Châu mất vào ngày 29/10/1940.

Nguồn: http://xuquang.com/dialinhnk/danhsi/pbcts.htm

Lời tựa

Năm 1913, Phan Sào Nam tiên sinh đang ở bên Tàu, bỗng bị Ðô đốc Quảng Ðông là Long Tế Quang vừa ham lợi, vừa sợ oai, bắt tiên sinh hạ ngục và toan giải giao cho chính phủ thuộc địa Ðông Dương. Nếu không có những bạn cách mạng Trung Hoa nhất là Hồ Hán Dân cứu khỏi, thì tiên sinh đã bị bắt về nước hơn 12 năm kia rồi. Lúc ở trong ngục Quảng Châu, tiên sinh thái nhiên viết ra tập sách tuyệt mạng, tựa là Ngục Trung Thư, tự thuật về việc mình bôn tẩu quốc sự mấy mươi năm, lời lẽ rất là thành thật, bi tráng. Ðến văn chương hay thì khỏi phải nói. Anh em VN đồng chí ở Tàu năm 1914, từng đem xuất bản 1 lần. Năm 1938 lại mới in 1 lần nữa. Ai cũng phải nhìn nhận tập văn có giá trị, cả về lịch sử và văn chương. Chúng tôi dịch ra đây để cống hiến đồng bào xem cho biết tiên sinh hoạt động cách mạng ở hải ngoại gian nan nguy hiểm ra sao. Ðộc giả đọc sẽ thấy bậc người tài học và khảng khái như tiên sinh, 20 năm về trước bôn tẩu quốc sự, có thanh danh trọng vọng biết bao, thế mà vẫn cứ giữ đức tự trọng tự khiêm, đến đỗi tự cho mình là ngu, là dở, ấy chính là chỗ trì thủ cao thượng của nhà chí sĩ cựu học, và tiên sinh là người khiến cho chúng ta đáng kính, không lấy sự thành bại luận anh hùng, cũng chính vì chỗ trì thủ đó vậy.

Chẳng bù với nhiều người tự xưng là chí sĩ mưu quốc bây giờ, mỗi việc gì cũng háo thắng háo danh, chưa ra gì đã tự cao tự đại, chúng tôi tưởng họ cần phải học đạo trì thủ còn lâu lắm. Sau khi bị bắt về nước, giam lỏng ở Huế gần 15 năm, cho tới ngày chết, tình cảnh rất tiêu điều, túng bấn, nhưng vẫn "lạc đạo an bần", giữ tròn tiết tháo, từ chối nhất thiết danh lợi của đối phương cám dỗ. Chỉ vì muốn treo cao tấm gương sáng đó mà chúng tôi công bố bản dịch Ngục Trung Thư này ra, không có hậu vọng nào khác hơn.

Ðào Trinh Nhất

Tiểu sử Ðào Trinh Nhất: Ðào Trinh Nhất sinh năm 1899 tại Thái Bình. Ông là con của Ðào Nguyên Phổ và Lương Thị Hòa (cháu nội Lương Văn Can) và là cựu học sinh trường Quốc Tử Giám, Huế.
1921-1925 : Viết báo Hữu Thanh, Thực Nghiệp Dân Báo và France-Indochine ở Hà Nội .
14/11/1925 : Tới Saigon, làm thư ký tại Chez Phan Chu Trinh, số 5 Catinat (đường Tự Do).
22/3/1926 : qua Pháp.
15/4/1926 : Tới Paris liên lạc với Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Như Phong. Viết báo Việt Nam Hồn.
5/1927 : Trở về VN.
1930-1931 : Chủ bút báo Ðuốc Nhà Nam (Flambeau d'Annam) của Bùi Quang Chiêu.
2/1936 : Xuất bản tờ Mai, tấn công Ðại Hội Ðông Dương.
25/7/1939 : Bị trục xuất về Bắc.
1944-1945 : Cộng tác với báo Nước Nam của Lương Ngọc Hiền tại Hà Nội.....

...............................................

1. Vì sao Long Tế Quang bắt tôi hạ ngục ? :

Con chim sắp chết, tiếng kêu đau thương; người ta sắp chết, lời nói ngay thẳng. Những lời tôi nói ra đây có ngay thẳng hay chăng, tôi đâu có biết. Nhưng chỉ biết là lời nói của một người sắp chết thì có.
Mùa đông năm Quý Sửu (1913) tôi đang ở đậu Dương Thành (tức Quảng Châu, tỉnh Quảng Ðông), thì quan Toàn quyền Pháp (Albert Sarraut) ở Ðông Dương sang chơi Quảng Châu, đem vụ án đầu đảng cách mạng nước Nam ra, xin chính phủ Quảng Ðông bắt tôi giao về chính phủ Pháp xử.

Ðô đốc Quảng Ðông lúc bấy giờ là Long Tế Quang chịu theo lời xin ấy, trước ngày cuối năm 8 bữa, bắt tôi giam cầm trong ngục, và báo cho tôi biết rằng sớm muộn sẽ giải tôi giao trả cho người Pháp.

Tôi biết sớm chiều gì đây, đầu tôi cũng lìa khỏi cổ, nhưng tôi vẫn lấy làm vui vẻ. Than ôi ! Bao nhiêu năm bôn tẩu, mưu tính trăm việc mà không nên một việc gì, nghĩ mình tội nặng lỗi nhiều, có vui gì sống nữa mà ham.

Song trước khi chết, không lẽ không thốt ra một vài tiếng kêu đau thương sau chót. Ai biết lòng ta chăng ? Ai bảo ta có tội chăng ? Còn một giây phút trước khi ta phải chôn mình dưới đất, ta cũng muốn cạn lời ta nói. Chiếc bóng bơ vơ trời biển, ngọn đèn leo lét gió mưa, ta thấm giọt lệ còn lưu lại mấy chục năm nay, gom góp lịch sử 1 đời ta, hòa với máu mà viết ra tập sách này. Hỡi ba ngàn muôn đồng bào chí ái chí thân, dầu ai biết lòng ta chăng ? Dầu ai buộc tội ta chăng ? Khi đọc tập sách này, sẽ thấy giọt máu hầu khô, vẫn còn đầm đìa ở trên mặt tờ giấy vậy.

2. Ra đời giữa lúc mất Nam Kỳ đã sáu năm ! :

Triều vua Tự Ðức thứ 15, Nhâm Tuất (Tây lịch 1862), binh Pháp chiếm lĩnh đất Nam Kỳ của ta. Nam Kỳ là kho tàng thiên nhiên của nước ta; cửa biển vào Saigon thật là cuống họng ta, nay đã vào tay người Pháp rồi, ta chưa mất hết cả nước, chỉ là chuyện thời gian sớm muộn đó thôi. Chén vàng đã ụp, nhà lớn sắp tiêu, thương thay cho ta, lại nhè giữa lúc ấy mà sinh ra đời. Thiệt ta sinh ra đời giữa năm Ðinh Mão niên hiệu Tự Ðức thứ 20, nghĩa là lúc Nam Kỳ đã mất sáu năm rồi. Ðầu xanh nào đã biết gì, con thơ chưa lìa bọc mẹ, thế mà tấn kịch biển khóc non gào, sửa soạn đem mi mà liệng vào giữa tấm màn thảm đạm ấỵy. Lồng lộng trời xanh, kẻ ấy là ai đó tá ?

Lúc đầu thế kỷ 18, ngọn sóng mới của Âu học vọt lên cao muôn trượng; những tiếng dội phú cường, hầu như vang động tràn lan cả hoàn cầu. Phải chi ta sớm được đầu thai ở giữa khoảng đó, có lẽ ta không đến đỗi mù mù mịt mịt như ta ngày hôm nay. Nhưng tiếc thay, ta chẳng may sinh ra ở nước Nam ta.

Nước ta từ xưa phụ thuộc vào nước Tàu, địa lý, lịch sử, gốc tích, trải mấy ngàn năm nay, như hai nước anh em đã lâu đời lắm vậy. Bởi đó, nước ta chỉ biết tôn sùng Hán học như thần thánh, mà Hán học xem trọng, chỉ có khoa cử văn từ.

Tôi từ nhỏ tới lớn, vốn có tư chất thông minh, công phu đèn sách dùi mài cũng không bê trễ, nhưng kể đến sự kết quả, chẳng qua chỉ là sự học khoa cử mà thôi. Vì lúc bấy giờ, lối học khoa cử của nhà Thanh, đang sôi nổi như gió cuốn mây bay, người nước mình bắt bóng theo chân, chỉ sợ không giống như người Tàu. Bà con ta muốn cưỡi mây lướt gió, không thể nào không mượn con đường khoa cử, dầu ai có muốn chẳng theo thời đi nữa, cũng không có đường học nào mà đi. Than ôi ! Chổi cùn trong nhà, tự mình xem là của quý, sự ưa thích lâu đời đã thành thói quen thành ra rốt cuộc tôi cũng bị thời trang trói buộc, đến đỗi tiêu hao ngày tháng về nghiệp khoa cử gần hết nửa đời người. Ðó là ả vết nhơ rất lớn trong đời tôi.

3. Cùng anh em đồng chí ra đội Sĩ tử Cần Vương:


Năm tôi 17 tuổi, tức là năm Tự Ðức 36, Quý Mùi, quân Pháp chiếm lấy Hà Nội và các tỉnh Bắc Kỳ. Ðến năm tôi 19 tuổi, nhằm năm Ất Dậu, Hàm Nghi nguyên niên, quân Pháp chiếm kinh thành Huế, vua Hàm Nghi phải chạy : cung điện bày ra cảnh hoang lương, nhởn nhơ bầy nai, đầy dăng ổ quạ, tấn kịch vong quốc mở ra từ tháng Bảy Hàm Nghi năm đầu trở đi vậy. Ôi ! Trời nghiêng đất ngã, lúc này kẻ làm trai đội trời đạp đất, ai nỡ dòm non sông bằng con mắt gỗ đá, trơ trơ cho đành !

Tôi được trời phù hộ cho, máu nóng không vừa, ngay từ hồi còn là thằng trẻ con đọc sách của cha để lại, mỗi khi đọc tới chuyện người xưa hăng hái thành nhân tựu nghĩa (hy sinh vì chính nghĩa), tôi thường nhỏ nước mắt ròng ròng, thấm ướt cả sách. Những chuyện Trương công Văn Ðịnh chết theo Nam Kỳ và Nguyễn công Tri Phương tuẫn thành Hà Nội, tôi hay đàm đạo nhắc nhở tới luôn, mà mỗi lần nhắc tới, khiến tôi vung tay vỗ ngực, tự thẹn cho mình thua sút hai ông đó. Vì tính chất trời sinh cho tôi như thế, không thể nào làm bộ khác hơn được.

Sau lúc kinh thành thất thủ, vua Hàm Nghi ngự giá ra đóng tại sơn phòng tỉnh Hà Tĩnh, các bậc quan nhân đang ở nhà, như Nguyễn Xuân Ôn, Ðinh Văn Chất, đua nhau dựng cờ cần vương, phong trào lan tràn khắp các phủ huyện đều có. Ngó lại tôi còn là 1 tên học trò nhỏ tuổi, nào có thế lực gì dám cùng các cụ cùng nổi lên làm việc lớn. Mình như con chim con, lông cánh chưa đủ, nanh vuốt còn non, tự nghĩ mà buồn. Lại nhớ đến chuyện anh hùng của Ðổng Thiên Vương ngày xưa 3 tuổi cỡi ngựa đánh giặc, tôi nghĩ tôi thật là một thằng trai hèn quá.

Suy đi tính lại, không biết làm cách gì, chỉ còn có cách kêu gào bọn đồng học, tổ chức ra một đội quân học trò giúp vua, gọi là "Sĩ tư cần vương đội". Tôi với bạn thiết Trần Văn Lương là người phát khởi, cùng tôn ông cử nhân Ðinh Xuân Sung lên làm đội trưởng, tôi thì làm đội phó. Ðội này chỉ có lối vài trăm người. Công việc sắp đặt hơi yên, duy có binh lương khí giới chưa có cách tìm đâu cho rạ Vừa gặp lúc người Pháp đem đại binh tới hạ thành Nghệ An, rồi thừa thắng tiến binh đánh giẹp các phủ huyện. Ðội quân của chúng tôi tổ chức, cả lương hướng súng đạn đều không có, thành ra chỉ trong giây lát, như bày muông chim vỡ lở tứ tán. Tôi phải trà trộn trong đám nạn dân mà chạy thoát thân. Tới nay nhớ lại việc tôi đã làm đó, không khác gì trẻ con làm nhà bằng giấy để chơi, không bỏ cho bậc người kiến thức chê cười. Tuy vậy, tôi cũng cứ chép ngay ra đây, vì tấm lòng mưu toan cứu quốc, thật là phôi thai từ việc ấy mà ra. Nghĩ mình bày trò tuy giả, nhưng mà lòng vốn thẳng ngay, cho nên tôi không dám dấu diếm chỗ dở của tôi. Lúc bấy giờ, cửa nhà tôi bị tiêu hủy vì họa binh đao, thân phụ tôi giữa cơn hoạn nạn, lại mang bịnh nặng. Tôi không còn mẹ, cũng không có anh em nào, thành ra không dám bỏ cha mình mà ngó tới việc gì khác. Tôi đành nương náu ở nhà dạy học trò, để chuyên lo săn sóc bịnh cha, cả thảy 9 năm.

4. Muốn hãm tỉnh thành Nghệ An:


Những trong 9 năm ấy tôi vẫn lo nghĩ trau dồi lông cánh để một mai bay nhảy vẫy vùng, chứ không hề xao lãng. Tôi thường cùng anh em đồng chí là bọn ông Vương Thúc Quý (người cha khởi nghĩa, đem hương binh chống với Bảo Hộ, sau bị tử nạn) và Hà Văn Mỹ (là một viên kiện tướng bộ hạ của cụ Phan Ðình Phùng, sau bị quân Bảo Hộ bắt được tự tử mà chết), chúng tôi âm mưu vớ nhau, mỗi năm tới ngày lễ kỷ niệm cộng hòa (14/7), anh em mật hội đồ đảng ở tỉnh thành Nghệ An, toan bề hãm thành. Song quân lính Bảo Hộ đông đảo, việc phòng bị kiên cố lắm, chúng tôi không thể thành sự. Có điều là nhân mấy dịp đó mà anh em giang hồ hiệp khách được làm quen kết bạn với nhau, cũng tức là đầu giây mối nhợ cho cuộc hoạt động của tôi sau này vậy.

Ðến năm tôi ngoài 30 tuổi, đảng Cần Vương khắp trong nước nối nhau vỡ lở tan tành, chỉ còn sót lại một mình cụ Phan Ðình Phùng ở La Sơn, cố sức cầm cự được lâu. Nhưng tới năm Giáp Ngọ, niên hiệu Thành Thái thứ 6, cụ mất. Từ đó trở đi non sông hiu quạnh, việc gánh vác không còn ai. Trải 10 năm, tôi ôm lòng phẫn, nuôi chí to, vẫn rắp ranh ở giữa khoảng núi Hồng sông Lam, dựng lên một cây cờ độc lập. Tới đây tôi không thể nào nín mà không làm được.

Tôi sinh trưởng trong làng xóm dã man, thuở giờ chỉ quen lặn lội trong rừng từ chương khoa cử, nói đến tài học như người Âu châu, thật không có mảy may nào. Song tôi có bẩm chất cang cường, biết nghĩa liêm sỉ, không chịu theo đuôi làm tớ người ta. Vừa gặp trong nước hồi nay cựu đảng đã im hơi bặt dấu, tân đảng thì chưa nẩy nhánh đâm chồi; tôi kết giao họp đảng bao nhiêu lâu, thành ra ở trong xã hội hơi có tiếng tăm hơn trước, thiết nghĩ lúc này chính mình không tự ra tay làm việc, liệu còn chờ ai. Kết quả tôi được như ngày nay, thiệt bởi môt tấc lòng suy nghĩ đó là nguyên nhân vậy.

Tuy thế, tôi dại dột thì thôi. Nghĩ xem thế lực người Pháp lớn lao thế kia, tài sức tôi nhỏ nhoi thế này, tôi ỷ vào quốc dân, mà quốc dân ở vào trình độ còn thấp thỏi ra sao, tôi dựa vào thời thế nhằm lúc khó khăn ra sao, không nói cũng rõ. Vậy mà tôi chẳng dòm trước ngó sau, chỉ cậy mình có bầu máu nóng trơ trơ, toan ra tay làm việc vá trời lấp biển, chẳng phải là tôi điên khùng lắm sao ? Dù sao mặc lòng, tôi cứ việc hăng hái đi tới, không dòm ngó trước sau gì hết. Trong trời đất có ai ngu dại hơn tôi nữa không ?

5. Tôn ông Cường Ðể làm minh chủ :

Số là ban đầu tôi định chiêu nạp bọn anh hùng lục lâm và những người trong đảng Cần Vương còn sót lại để dựng cờ khởi nghĩa ở khoảng Nghệ Tĩnh. Bởi vậy có một lúc nhiều khách rượu làng chơi, cùng tôi giao du lui tới thân mật lắm.
Bộ hạ cũ của Phan tướng công (Phan Ðình Phùng) là Quỳnh Quảng và môn hạ của Bạch Xỉ (một người đồng thời với cụ Phan Ðình Phùng, lấy hiệu Bạch Xỉ, tự xưng hoàng đế, tụ tập ở trên núi Ðại Hàm) là bọn Kiễm và Cọng hay ra vào nhà tôi luôn.

Nhà tôi là nhà làm nghề dạy học, nhưng mà học trò chỉ ở nhà ngoài, còn nhà trong thì chứa đầy khách hào kiệt sơn lâm. Các ông đồ nho trong xóm gặp lúc đi ngang chợt ngó thấy tình trạng như thế, đều lắc đầu lè lưỡi, đến đỗi lần sau các ông không dám day mặt ngó vào nhà tôi nữạa. Việc chúng tôi mưu tính lần hồi chính chắn, gần tới ngày hẹn nhau phải lên rồi.

Song ông bạn thân là Ðặng Thái Thân nói với tôi:

"Xem kỹ lại thời thế chưa có chỗ nào mình đáng thừa cơ làm việc lớn. Bọn ta vội vã làm càn, chắc là không xong việc gì được đâu Nhưng ta cũng phải làm sao để chỉ tỏ cho người Pháp biết rằng quốc dân ta chẳng phải toàn là những hạng người quá hèn, vậy thì ta cứ mạo hiểm làm một phen cũng được, có điều là mong ước sao cho chúng ta cất tiếng lên trước rồi phải có người nối lời sau mới được.

"Nhưng nếu ta chỉ khởi sự trong khoảng Nghệ Tĩnh mà thôi, tôi e như chuyện cái thai đứa nhỏ khó đẻ, ở trong bụng mẹ lọt ra chưa kịp khóc oa oa mấy tiếng thì đã chết non mất rồi. Tôi trộm suy nghĩ mà lo ngại dùm cho tiên sinh chỗ đó.

"Theo ý tôi, trước hết ta nên vô Nam ra Bắc, cầu anh em hào kiệt ở hai nơi cùng làm việc với tạ Ðất Bắc Kỳ vốn nhiều nghĩa sĩ, từ Quảng Nam trở vô Nam Trung cũng không thiếu gì hạng người khảng khái cả. Ta lấy nghĩa đề huề (nâng đỡ) với họ rồi tất cả anh em ba nơi đồng thời khởi nghĩa, để chia bớt sức mạnh của bên địch, mà vây cánh đồ đảng chúng ta đông, như vậy họa chăng mới làm nên công việc".

Ðặng quân vốn người hăng hái, gan dạ, nhân phẩm lại cao, trải 10 năm vừa là thầy vừa là bạn tôi. Ngay ra lời ông ta nói rất nhằm, tôi mới tỉnh ngộ, liền bàn định trước hết hãy vô Nam Trung, rồi sau sẽ ra ngoài Bắc, liên kết với các phe đảng anh em toàn quốc, để sắp đặt khởi nghĩa sau. Lúc bấy giờ bạn đồng niên với tôi, ông Ðặng văn Bá cũng tán thành chí tôi đã định, bèn cùng tôi đi vô trong Nam.

Tôi vô Nam chuyến này, nghe nói trong đảng cần vương 2 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, có viên kiện tướng là Nguyễn Thành, sau khi bị bắt nhờ có Nguyễn Thân cứu dùm, may mà được tha, giờ ông đang ở trong núi làm ăn. Song chí khí hồi xưa vẫn còn nồng nàn, chưa phải là tro tàn lửa nguội, chẳng qua như chim cắt đang đợi có gió thu đó thôi. Mùa xuân, tháng Hai năm Quý Mão, tôi với hai họ Ðặng cùng vô Quảng Nam. Lúc đi ngang Huế, gặp ông Lê Võ từ Bình Ðịnh trở về tới đó.

Lê quân vốn con nhà làm tướng. Bốn người anh đều chết vì nạn nước. Ông nhỏ tuổi nhất trong nhà, thành ra may mắn chưa chết. Khi gặp tôi ở kinh thành, Lê quân tỏ bày chí khí như phơi gan trải mật. Chúng tôi hôm sớm quấn quýt với nhau, trở nên thân thiết. Rồi cùng chúng tôi đi vô Quảng Nam, tìm đến ra mắt cụ Nguyễn Thành. Ông cụ này, hồi khởi nghĩa binh mới có 18 tuổi, đã xông pha hùng hổ, nhiều lần đánh bên địch phải thua; họ khen cụ biết cách cầm quân. Cụ chính là người trội nhất của nghĩa đảng vậỵ.

Chúng tôi đến, cụ mới làm quen mà đã coi như bạn thân lâu ngày. Anh em cùng ngồi quây quần uống rượu nói chuyện. Cụ Nguyễn Thành bàn bạc công việc thiên hạ một cách hùng hồn và rất rành mạch đúng lẽ.

Tôi đem chí muốn ra phân trần. Cụ vỗ tay, nói:

"Hay dữ ! Thuở nay, ai muốn mưu toan đại sự, trước hết phải cần ba điều này : một là thu phục lòng người, hai là góp số tiền lớn, ba là sắp đặt mua sắm quân khí cho đủ. Hễ lòng người đã chịu tin phục thì số tiền lớn có thể góp được. Có tiền thì vấn đề quân giới, không khó giải quyết đâu.

"Nhưng phải hiểu dân trí và tập quán của dân nước nhà, không thể nào bắt chước làm theo châu Âu đươc. Bọn ta muốn có cách kêu gọi nhân tâm cho dễ, nếu muốn mượn tiếng phò vua giúp chúa thì những nhà sang họ lớn kia, ai chịu phụ họa theo mình. Vậy thì ta dầu có bụng cứu nước mặc lòng, chẳng qua chỉ chết thân mình cho tròn được một tiếng vậy thôi, ngoài ra không ăn thua lợi ích gì cho việc lớn.

"Vua Hàm Nghi trốn tránh ở chốn nào, đã lâu không nghe tin tức ra sao. Còn vua Thành Thái hiện tại thì ở trong tay người Pháp kiềm chế, anh em ta không làm cách gì ra vào thân cận bên mình ngài đặng. Sẵn có dòng dõi của đức Ðông cung Cảnh là đích tự Cao hoàng, hiện nay đang còn. Chúng ta khởi nghĩa, nên trước hết tôn ngài lên làm cung chủ; có thế thì danh nghĩa mới thuận, hiệu lệnh được nguyên, mỗi khi ta cất tiếng kêu gào, thuận theo chiều gió, tất nhiên có tiếng vang bóng sâu xa lắm vậy. Các ông tính sao?".

Tôi và hai ông Ðặng, Lê, ban đầu thật chúng tôi chưa hề suy tính tới việc tôn người dòng dõi nhà vua. Tới đây nghe Nguyễn quân, chúng tôi cho là phải lẽ lắm.

Than ôi ! Trí dân chưa mở, thói cũ chưa chừa, chủ nghĩa gia tộc và chủ nghĩa quốc gia, ở giữa mới bắt đầu tiếp xúc như vậy, mình muốn nó đánh đổ bao nhiêu thói quen cổ thời mà quét đi cho sạch, nào có phải là chuyện dễ dàng. Tuy vậy, nghe mấy lời Nguyễn quân vừa mới bày tỏ, tôi không chịu khuất phục cũng chẳng được nào !

6. Ra thăm Hoàng Hoa Thám rồi vô Nam Kỳ :

Tháng 3 năm Quý Mão (1903), tôi tìm tới yết kiến Kỳ ngoại hầu Cường Ðể ở Huế, tỏ bày việc lớn.

Kỳ ngoại hầu hớn hở nói: Lâu nay tôi vẫn nuôi cái chí lớn đó. Ngặt vì từ lúc Hồ Quý Châu và Nguyễn Thu Nam là 2 bạn đồng chí của tôi qua đời đi rồi, tôi để ý tìm kiếm mãi nhưng chưa gặp được ai có thể nói câu chuyện ấy với mình. Nay các ông không từ xông pha muôn dặm, vì chỗ tinh khí với nhau mà tìm đến tôi, tôi xin vui lòng hy sinh tất cả mọi sự, để cùng các ông nằm gai nếm mật, nếu có thể báo đáp quốc ân trong muôn một, dầu tôi có thể tan thây mất xác cũng vui.

Rồi Kỳ ngoại hầu cùng tôi và hai ông Lê, Ðặng đi vô Quảng Nam hội họp các đồng chí ở nhà ông Nguyễn Thành trên núi. Chúng tôi bí mật bàn tính các việc, cùng tôn Kỳ ngoại hầu lên là hội chủ, và giao công việc của đảng từ 2 tỉnh Nam Nghĩa trơ về Nam cho Nguyễn Thành gánh vác, còn hai tỉnh Bình Trị trở ra Bắc thì tôi đảm nhiệm.
Liền tháng Sáu năm đó, tôi trở về Nghệ, rồi thẳng đường ra Bắc Kỳ dạo chơi hơn 10 tỉnh, lên sắp đặt việc đảng và tìm bạn đồng chí.
Rồi tôi lặn lội lên miệt Yên Thế, tới đồn Phồn Xương để yết kiến Hoàng tướng quân Hoa Thám.
Hoàng tướng quân vốn là tay cứng trong đảng cần vương Bắc Kỳ. Từ lúc ông Nguyễn Bích tử trận, ông Nguyễn Thiện Thuật chạy sang Tàu thì đảng cần vương Bắc Kỳ tan rã. Duy có Hoàng tướng quân 1 mình chiếm giữ miền núi tỉnh Bắc Giang, chống cự với Bảo Hộ đã ngoài 10 năm.
Người Pháp chia cắt miệt rừng cho tướng quân cai quản để cùng tướng quân giảng hòa. Người trong nước ta từ đàn bà con trẻ, chẳng ai mà không nghe tiếng tăm Hoàng Hoa Thám lừng lẫy.
Từ hồi nào đến giờ, tôi mới được bước chân vô trong đồn trại này là lần thứ nhất.
Tôi nhớ hôm đó là mùng 8 tháng 8 năm Quý Mão. Cùng đi với tôi 1 chuyến là 2 ông Nguyễn Cừ và Cao điền Nguyễn Ðiển. Hai ông này ở chờ ngoài đồn, chỉ có mình tôi vô trong.
Rủi nhằm lúc Hoàng tướng quân đang mắc bịnh nặng, không thể cùng tôi hội đàm được. Nhưng tướng quân sai người con trưởng là Cả Trọng và 2 viên ái tướng là Cả Dinh và Cả Huỳnh tiếp đãi tôi vui vẻ tử tế.
Tôi ăn ở trong đồn 11 ngày, rồi thổ lộ hết tâm sự mình rồi mới ra đi.
Ðảng (Duy Tân Hội hay Duy Tân Cách Mạng Ðảng) ở Bắc Kỳ từ đó mới tổ chức lại.
Tháng 10, tôi trở vô Kinh, báo cáo việc đảng cho hội chủ hay. Hội chủ nói với tôi :
Nam trung vốn là khu đất của tiên triều gây dựng mở mang, xưa đức Cao hoàng nhờ đó mà khôi phục rỡ ràng nghiệp cũ. Lòng người nhớ cũ rất nhiều. Tiên sinh nên vào 1 chuyến, chắc có ảnh hưởng không phải nhỏ đâu.

Thế rồi trung tuần tháng 12 năm Quý Mão, tôi lên đường vô Nam.
Cuối tháng chạp, tàu đến Saigon.
Qua tháng giêng năm Giáp Thìn, tôi đi Châu Ðốc, Hà Tiên, tìm thăm các hào kiệt ở Thất Sơn. Lại đi dạo khắp các tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Long, Sa Ðéc. Nhân dịp thăm viếng cả những chỗ dấu xưa vết cũ của 2 cụ Nguyễn Huân, Trương Công Ðịnh, trong ý mong mỏi may ra mình có gặp gỡ được sự gì hay chăng ?

Nhưng tôi đi chuyến này, gặp được sự hay rất ít. Thật tôi không ngờ...

7. Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư :
Tháng Ba năm Giáp Thìn (1904), ở Nam Kỳ trở về, tôi lại ngụ ở Huế. Thỉnh thoảng lo tính một chuyện như cách vẽ rắn thêm chân. Ðó cũng là 1 việc quan hệ về lịch sử tôi nên nói. Nguyên lúc vua Ðồng Khánh được lên ngôi rồi, hai nước Pháp, Việt sửa thêm vào tờ điều ước cũ. Bây giờ cắt đất từ Thanh Hóa trở vào, Bình Thuận trở ra gọi là Annam, thuộc về Pháp quốc bảo hộ. Then chốt của chính phủ Bảo Hộ ở trong tay ông Trú Kinh Khâm sứ nắm giữ. Những thực quyền về việc binh việc tài, đều về tay người Pháp chủ trì, còn quan lại thì người nước mình.

Người Pháp chỉ xem xét sai khiến mà thôi. Tôi suy nghĩ nếu như công việc mình tính làm đây mà được bọn người trong quan trường giúp ngầm, tất là dễ dàng nên việc. Song tôi suy đi tính lại bọn làm quan là hạng trí não tầm thường, e mình khó lòng mưu toan với họ, mà rủi mưu toan với họ không xong, thì có tai họa xảy đến cho mình ngay. Tuy vậy mặc lòng, chúng ta là người đã quyết hiến thân cứu quốc thì đầu cổ mình, tính mạng mình, đều có thể hy sinh không sá kể gì, vậy thì con đường họa phước lợi hại, ta cứ dấn mình vào mà di, há nên chần chờ trốn tránh nữa sao?

Tôi bèn quyết kế tìm cách vận động các quan. Lúc ấy, tôi có tiếng hay chữ vang dậy chốn kinh đô, phần nhiêu cụ lớn trong triều muốn được tôi ra vào làm môn hạ các cụ.
Tôi liền viết ra 1 cuốn sách, nhan đề là "Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư" ( "Ryukyús Bitter Tears "; "Letters Written in Tears and Bloods"). Trong đó tôi tả rõ những cái thảm trạng thành tan nước mất, những nỗi nhơ nhuốc đổi chúa làm tôi.

Lại nói đến dân trí phải gấp mở mang, dân khí (sức mạnh của nhân dân) nên gấp bồi dưỡng để làm nền tảng cho việc cứu quốc, v.v... Cuốn sách này gồm có mấy muôn lời nói.

Tôi ôm sách tới ra mắt các cụ lớn, như cụ Ðông các Nguyễn Thảng, Công bộ Ðào Tiến, Lễ bộ Hồ Lễ, Lại bộ Nguyễn Thuật, v.v...Các cụ đều khen lời nói cứng, văn tiết hay, và ngầm cho ý kiến tôi bày tỏ là đúng, nhưng thủy chung các cụ chẳng dám nói rõ ý mình ra sao.
Lanh quanh hết mấy tháng trường như thế, rồi sau tôi biết rõ bọn cụ lớn kia không cậy nhờ gì được mà trông. Ruột gan của họ, chỉ biết có sự phú quý của thân họ, nhà họ.

Trước việc thì họ chỉ ngồi ngó thành bại, sau việc thì họ lựa sóng theo chiều. Nay ta mạo hiểm giải bày tâm sự với họ nhưng thật không chỗ nào trông cậy họ được. Tôi luống thẹn mình kém phần trí sáng, chẳng có tài làm cho tượng đá biết gật đầu, rồi càng nghĩ càng ăn năn trước kia mình tơ tưởng lợi dụng quan trường thật là bá láp. Nhưng việc này không phải là không có kết quả.

Sau khi "Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư" ra đời rồi, các chí sĩ lẩn quất trong kinh đô, đều rõ biết ruột gan tôi ra thế nào. Ví dụ như ông Phan Châu Trinh và ông Trần Quý Cáp- về sau bị tù, chết chém-lúc này làm quen thân mật với tôi, ấy chính là nhờ cuốn "Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư" giới thiệu vậy.

8. Làm sao mua được khí giới?

Lúc bấy giờ, những nghĩa dân hiệp sĩ khắp trong nước đã liên lạc nhất khí với nhau rồi. Từ Bắc vô Huế, khắp các tỉnh thành châu quận trọng yếu, chúng tôi đều ngấm ngầm sắp đặt vây cánh phe đảng đâu đó hẳn hoi, chỉ còn chờ đợi thời cơ là khởi sự.
Vấn đề kiếm tìm những khoảng tiền lớn để làm việc, cũng có anh em gánh vác trách nhiệm quyên góp.

Phải chi mình ở vào những đời Ðinh Lý Lê Trịnh thuở xưa, thì chỉ vung cánh tay mà kêu lên một tiếng, tức thời sóng dậy sấm vang chỉ là việc thành trong khoảng giây lát mà thôi.
Nhưng đời nay thì khác hẳn. Từ lúc đời có súng đạn phát minh ra, bao nhiêu khí giới gọi là gươm giáo đao thương đã hóa ra đồ bỏ. Cái thứ để chặt cây làm mác kia, đời xưa người ta vác đi đánh Tần đuổi Sở được, chứ đời nay có dùng nó làm nên trò vè gì!

Phải biết võ khí của người Pháp tinh nhuệ hơn của người mình muôn ngàn lần. Còn khẩu súng nào ở trong tay người mình, thì ngày đêm có tướng tá Pháp gìn giữ coi chừng hoài. Trong hàng quân ngũ, từ chức cai đội trở lên cũng không có người mình được làm. Nếu muốn dỗ họ trở súng cộng sự với mình, lúc bình thường không phải là chuyện dễ; trừ khi nào có phát sinh đại chiến, họa chăng sự mưu tính mới được thực hiện.
Các ông sách sĩ (người chuyên nghĩ mưu tính kế) trong đảng chúng tôi lúc ấy, gặp phải một vấn đề to lớn khó khăn mà không sao giải quyết được, ấy chính là quân giới.
Trong nước ta có sở chế tạo quân giới nào, đều có binh lính Pháp chiếm giữ, canh gác cẩn mật, nếu bà con mình đi qua hơi liếc mắt nhìn mấy nơi đó cũng bị tội nặng lập tức. Như vậy thì chúng tôi có nhúng tay vô chỗ nào mà lấy khí giới được đâu!

Muốn mua khí giới ở ngoại quốc chở vào cho mình lại cũng không được. Là vì bao nhiêu cửa biển trong nước, cửa nào cũng có nhà chuyên trách của Bảo Hộ cắt đặt, khám xét dò la hết sức nghiêm ngặt. Dầu cho mình mua ở ngoài được, nhưng với một số quân giới rất nhiều, mình có phép tiên, chước quỷ gì mà vận tải nó lọt vô xứ này cho nổi ?
Anh em chúng tôi lo quanh tính quẩn, mất nhiều ngày giờ mà chỉ có vấn đề quân giới, mỗi khi nghĩ đến, ai nấy bức rức lo âu, cám cảnh mình thiếu mất 1 món thứ nhất cần dùng, rồi nhớ lại chuyện Châu lang đời xưa nếu không có ngọn gió đông thì lấy gì mà đánh trận Xích Bích.

*

Cách không bao lâu, bỗng dưng có những tiếng súng nổ ở Lữ Thuận, Liêu Ðông, lướt theo sóng gió vang dội tới đây làm rung động chói chát lỗ tai anh em chúng tôi. Trận Nga - Nhật chiến tranh (1904) mà Nhật đại thắng thật có chỗ hay cho chúng tôi rất lớn. Trong óc chúng tôi đến đây có một thế giới mới lạ mở rạ Nước Nam ta trước khi chưa có Pháp quốc bảo hộ, chỉ biết thế gian này có nước Tàu mà thôi. Tới lúc có Pháp quốc bảo hộ ta rồi thì ta lại chỉ biết có Pháp quốc. Thế giới đổi dời, phong trào mới lạ, thật bà con ta chưa hề mộng tưởng tới đó. Chúng tôi bôn tẩu quốc sự bao lâu, nghĩ có mất xác rụng đầu cũng chẳng sợ, nhưng bất quá là bị cái thiên lương vì nước lo toan nó bắt buộc mình phải vậy đó thôi, chứ đến quy mô xây dựng độc lập ra sao, thì lúc ấy chúng tôi vẫn còn mơ màng như người đi giữa đám sương sa mịt mù vậy.

Từ hồi bỏ nước đi ra ngoài, đầu óc mắt tai mình mới là bắt đầu biến đổi. Nhưng không thể nào không bảo được rằng đó là nhờ trận Nhật - Nga đánh nhau đã làm vang bóng cho tâm não chúng tôi. Than ôi ! Ðến giữa thế kỷ 19, gió Mỹ mưa Âu đã làm ồn ào vũ trụ, vậy mà ngó lại nước mình vẫn còn đang ở trong cơn mơ mộng ngủ say. Lúc bấy giờ dân ta còn mù mịt chuyện đời đã đành, không trách gì được. Nhưng ngay đến hạng người trồi đầu khét tiếng như tôi mà cũng như ếch nằm đáy giếng, khiến ở trong hang, có hiểu biết chuyện đời là gì đâu Nghĩ trong thế giới có thứ người đáng buồn cười mà cũng đáng thương xót, không còn ai hơn bà con nước mình.

Là bởi nước mình thuở trước chỉ đóng cửa ngồi nhà, trăm điều kiến văn gì, quanh quẩn trong vòng chữ nghĩa thi cử Hán học mà thôi; vậy cứ bảo ngay quốc dân mình là bọn tai điếc mắt đui, cũng không phải là nói quá đáng chút nào. Kịp đến khi có người Pháp sang xâm lược, dân ta cũng vẫn còn mắt đui tai điếc. Nếu không có tiếng súng nổ đùng đùng ở Lữ Thuận (Liêu Ðông) đánh thức, thì có lẽ ta cũng chưa biết ngoài nước Pháp ra còn thế giới nào khác nữa.

Sau lúc Nhật - Nga khai chiến, khoảng giữa hai năm Giáp Thìn (1904) Ất Tỵ (1905), cuộc cạnh tranh phấn đấu giữa người Âu người Á, da trắng da vàng, làm cho chúng tôi phải giật mình tỉnh ngủ. Chí hướng chúng tôi càng thêm nồng nàn hăng hái. Song chỉ khổ một nỗi là bị vấn đề quân giới ngăn trở khó khăn, cho nên tới đây chúng tôi phải gắp tìm cách nào giải quyết cho xong.

*

Hạ tuần tháng 10 năm Giáp Thìn (1904), các tay lãnh tụ trong đảng mở cuộc đại hội ở tỉnh Quảng Nam, lấy sơn trang Nam Thạnh làm nơi khai hội. Nhận thấy chỗ này gần kinh đô Huế, tất ông Hội chủ chúng tôi có thể lén tới nhóm hội được.

Lúc đó ông Tăng Bạt Hổ mới ở Hải Phòng vô, trong đảng thêm ra một tay kiện tướng, ai nấy vui vẻ hăng hái lạ thường.

Các lãnh tụ đều nói vấn đề quân giới nếu không có nước ngoài giúp mình thì không xong. Lấy chỗ quan hệ về lịch sử, địa dư, nòi giống mà nói, có thể giúp ta được không ai khác hơn là Trung Quốc. Nhưng từ trận thua ở Lạng Sơn hồi năm Giáp Thân trở đi, Trung Quốc ký điều ước Bắc Kinh, đã phải đem cái chủ quyền phiên thuộc nước Nam mà nhường đứt cho Pháp rồi. Ðến việc Hàm Nghi xuất bôn, trong khoảng mấy năm Dậu, Tuất, thiếu gì các cụ nhà ta chạy sang Trung Quốc cầu viện, nhưng đều bặt mất tin tức. Gương trước mới đó không xa, nước Tàu chẳng giúp gì cho ta được đâu mà mong, vô ích.

Chúng tôi bàn định với nhau, chỉ có cầu viện Nhật Bản. Lúc ấy Nhật Bản mới phát lên hùng cường mà họ cũng là một dân tộc da vàng ở châu Á như ta, lại vừa mới đánh thắng Nga xong, không chừng họ có ý muốn làm bá chủ cả châu Á, vậy thì họ giúp ta để tước bớt khí lực của châu Âu đi, cũng có điều lợi cho họ vậy. Nếu ta sang kêu ca thống thiết với họ, tưởng gì chớ món quân giới, hoặc cho ta mượn, hoặc giúp ta mua, không khó khiết chi!

Ai nấy bàn bạc nhất định như vậy rồi, bèn tính cử một người làm toàn quyền đại biểu đem bức thư của ông Hội chủ qua Nhật lo việc khí giới.

Hồi đó, công việc trong đảng đang cần người có tài làm sứ, nên chi toàn hội cùng cử tôi làm chức đại biểu đi Nhật.

9. Tôi trốn sang Tàu, gặp cụ Nguyễn Thiên Thuật và Lưu Vĩnh Phúc ở Quảng Châu:

Nay tôi vâng mạng của đảng sai khiến, xuất dương là lần đầu tiên. Tôi đi đây, vốn lấy tư cách là đại biểu của đảng cách mạng một nước mà đi, cũng tức là đại biểu cho toàn quốc dân một nước mà đi. Nếu như tôi là một người tài cao trí giỏi, học rộng biết nhiều về mặt ngôn ngữ, văn tự, chính trị, học thuật ngoại quốc cũng thông thuộc nằm lòng, như kẻ nhớ biết mỗi món đồ quý trong nhà họ kia, thế thì mình có mang cái hổ vong quốc mặc dầu, nhưng được điều không thẹn mình là giống người giỏi dang trên đời. Ðược vậy, chẳng phải đủ làm vẻ vang cho dân nước ta ở xứ người sao!

Tiếc thay ! Người thứ nhất được đi ra ngoài cùng thế giới hội diện, lại là người ngu dốt quê mùa như tôi:

Tài đã không có tài, học cũng không nhằm học. Trừ ra 3 câu chữ Hán, chứa đầy bụng cũng như là không. Tấm thân đã là con người mất nước tính mạng vốn không đủ gì trọng khinh, nhưng tài học cũng không đủ gì phẩm lượng, thật mình làm trụy lạc mất cả giá trị quốc dân mình tới đâu mà nói cho xiết. Như vậy thì trời đất mênh mông có chỗ nào dung được mình ? Ðêm khuya nhìn bóng hổ (thẹn) thầm, đến đổi lệ tuôn như máu. Tới nay tôi nhớ lại việc cũ, chỉ xin quốc dân ta lượng xét cho tôi là may!

Nghĩ xem mình đã sinh nhằm non sông còn ấu trĩ, nòi giống còn u mê, chưa được mở mang, cho nên vừa ở trong bọc mẹ lọt ra, không ai chỉ vẽ dìu dắt để mở trí cho mình, lại gặp phải cái cảnh giam hãm xiềng khóa đêm ngày, người ta chỉ sợ mắt mình được thấy, tai mình được nghe, như thế bảo sao mình không ngu muội cho được!


Dầu vậy mặc lòng, ban đầu tôi mới phụng mạng của đảng cử đi ra ngoài, thật tôi chưa biết có nông nổi khổ nhục thế này đâu. Con chim bị nhốt trong lồng lâu ngày, ngó thấy trời rộng mây xanh, thèm thuồng hết sức. Thình lình bây giờ có dịp thoát mình ra khỏi lồng được, thì trong óc hớn hở, chỉ biết cái vui được cỡi mây lướt gió, phóng khoáng tự do, chứ đâu có vội nghĩ tới sau khi ra khỏi lồng rồi thì gặp phải tình trạng ra làm sao. Vì đó mà tôi mạnh bạo vâng mạng của đảng ra đi.

Hạ tuần tháng chạp năm Giáp Thìn (1904), tôi tới Kinh (Huế) yết kiến Hội chủ (Kỳ ngoại hầu Cường Ðể), dặn dò công việc sau khi tôi đi rồi. Lại đi thăm viếng hết thảy những người trọng yếu trong đảng, bàn bạc mọi việc quan hệ. Sắp đặt đâu đó xong cả rồi, liền từ Quảng Nam lên đường khởi hành. Cùng đi với tôi có hai người, là ông Tăng Bạt Hổ và ông Ðặng Tử Kính. Tăng quân lúc trước từng làm mặc khách (văn nhân), giúp bàn việc quân cho Lưu Vĩnh Phúc, có dịp đi du lịch khắp hai tỉnh Quảng và Ðài Loan hơi thông tiếng nói Quảng Ðông. Tháng 4 năm đó (4/1904), Tăng quân mới ở hải ngoại về, nay lại cùng tôi lo lắng việc đảng, và đảng lựa chọn cùng xuất dương với tôi, thật là xứng đáng.

Mồng 2 tháng giêng năm Ất Tỵ (1905) chúng tôi ra Hải Phòng để xuất dương.
Lúc xuống tàu, tôi khẩu chiếm (ứng khẩu) bài thơ từ giả anh em :

Sinh vi nam tử yếu hy kỳ
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di
Ư bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hạ cảnh vô thùy
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng việc si
Nguyện trục trường phong Ðông hải khư
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phị

Bài dịch :
Khác thường bay nhảy mới là trai,
Chẳng chịu vần xoay mặc ý trời !
Trong cuộc trăm năm đành có tớ,
Rồi sau muôn thuở há không ai ?
Non sông đã mất, mình khôn sống,
Hiền thánh đâu còn, học cũng hoài.
Ðông hải xông pha nương cánh gió.
Nghìn làn sóng bạc múa ngoài khơi.

Từ đây trở đi, chúng tôi để chân vào con đường nguy hiểm rồi.
Chính phủ Pháp không cho người VN mình có quyền tự do lai vãng (qua lại). Phàm ai muốn ra xứ ngoài du lịch hay là buôn bán, nếu không được Bảo Hộ cho phép đi, thì tất bị buộc tội ngầm thông với nước ngoài, mưu chuyện làm loạn. Có điều là ai được Bảo Hộ cho phép đi, tức phải là người có tư cách đủ tin cậy hay là khéo chiều lòng mới được; tôi vốn không có đủ những tư cách ấy, thành ra tôi phải đi trốn. Tăng quân đi trốn nhiều lần rồi, đường sá rất quen thuộc thông thạo; ông chỉ vẽ cho tôi cái kế thay hình đổi dạng để qua cửa quan ải cho lọt. Từ Hải Phòng ra Móng Cáy, tôi giả làm chú khách đi buôn, cạo đầu kết bím, đáp một chiếc tàu buôn mà đi.

Lúc tàu đến bến, chúng tôi đợi đêm khuya mới dám mướn một chiếc thuyền đánh cá nho nhỏ, lén qua Trúc Sơn, Trường Sơn là bờ cõi huyện Phong Thành nước Tàu. Chuyến đi này tuy là nguy hiểm, nhưng mà vui thú lạ thường. Ra khỏi bờ cõi rồi, các món giấy tờ quan hệ và tiền bạc của chúng tôi đều còn nguyên lành. Ôi người ta nghiêm cấm mình chừng nào, kết quả bà con mình càng thêm giỏi cái ngón phá cũi xổ lồng chừng nấy, không riêng gì một mình tôi, theo chân nối gót chúng tôi ra hải ngoại, còn thiếu chi người!

Ở lại Trúc Sơn một tuần lễ mới đáp ghe buồm Khâm Châu mà đi Bắc Hải.

Lúc bấy giờ đã bước qua sơ tuần (thời gian từ mùng 1 đến mùng 10) tháng 2, còn có ngọn gió đông bắc thổi khá, thành ra ghe đi chỉ có bảy ngày tới Hiệp Phố. Chúng tôi đổi sang tàu buôn Hồng mao mà đến Hương Cảng. Tàu đến bến, chúng tôi lên bờ, ở loanh quanh hết hơn một tuần lễ. Trong óc tôi lúc này thấy sự vui sướng không biết sao mà nói.

10. Chúng tôi đổi sang tàu buôn Hồng mao mà đến Hương Cảng.

Tàu đến bến, chúng tôi lên bờ, ở loanh quanh hết hơn 1 tuần lễ. Trong óc tôi lúc này thấy sự vui sướng không biết sao mà nói.
Vì tôi mới bỏ nước trốn đi, người Pháp chưa hề nghe biết. Lúc ra khỏi bờ cõi áp chế (dùng sức mạnh để khuất phục), mình thấy hoàn cảnh mình đều là không khí tự do, mặc ý mình đi lại thông thả, trái lại, thân mình về trước không khác gì một con ngựa hay, bị nhốt trong chuồng, lại bị người ta may kín cả mắt lại tối đen, nay bỗng chốc được cắt chỉ mở mắt ra mà chạy nhởn nhơ dong ruổi ở giữa khoảng đồng rộng mênh mông, sung sướng thảnh thơi biết mấy. Nhưng nghĩ mình thì vậy, nhớ tới cái cảnh đồng bào đang bị bó buộc, thì ruột mình muốn đứt ra từng khúc.

Tại Hương Cảng thấy học trò đi học vui vẻ đông đảo, cảnh buôn bán tấp nập đêm ngày; dọc đường không hề thấy ai bị lính bắt đứng lại xét hỏi giấy thân; không có ai đi đêm không đèn mà bị bính thộp ngực dẫn về bót; không có thứ lính tuần hung bạo ngang tàng, bắt bớ người vô tội ở giữa đường, không có cảnh tượng người bản xứ bị người Âu Tây bắt nạt mà phải nép mình 1 bên đường. Ôi ! Hương Cảng cũng là đất dưới quyền ngoại nhân cai trị, nhưng Hương Cảng có vẻ mùa xuân tười cười, không phải như ở xứ mình.

Lúc này tôi nghe nói quan Hiệp đốc Ðại thần Nguyễn Thiên Thuật trước kia vì quốc nạn mà chạy sang Quảng Ðông, giờ đang ngụ trong nhà thờ họ Lưu ở Sa Hà. Nguyễn công là người ngang hàng với bậc thân phụ tôi, lại là 1 tay cần vương ngày trước, nay tôi sang tới đây, chẳng lẽ không nói cho cụ biết. Tôi bèn đi Quảng Ðông, tìm tới viếng cụ. Thấy tôi, cụ hết sức vi mừng, rồi dắt tôi đến yết kiến Uyên Ðình Lưu Vĩnh Phúc.
Lưu bây giờ đã già, nhưng cùng tôi nói lại chuyện cũ ở Bắc Kỳ, thỉnh thoảng Lưu còn vỗ bàn hét lớn, khiến cho tôi tưởng thấy cái hùng phong như hồi đánh nhau với quân Tây ở Cầu Giấy gần Hà Nội vậy. Lúc tôi đến tỉnh thành Quảng Ðông, chính là lúc Sầm Xuân Huyên đang làm Tổng đốc Lưỡng Quảng.

Tôi gởi cho Sầm một bức thư, nói rõ tình hình tỉnh Quảng và nước Nam ở giáp ranh nhau như thể là môi với răng; hễ môi hở thì răng lạnh. Lại nhắc đến tình nghĩa 2 nước lâu đời kẻ chúa người phiên thân thiết với nhau; nay tôi cầu xin họ Sầm giúp cho nước Nam bất cứ về mặt nào cũng được. Nhưng tôi gởi thư mấy ngày, chẳng thấy họ Sầm trả lời gì hết. Chắc lão sợ người Âu Tây như cọp, ấy là thói quen của đám quan lại nhà Thanh, mình không lạ gì.

Trở về Hương Cảng, đợi kỳ tàu qua Nhật. Song vì hồi này cuộc hòa giữa Nga với Nhật bàn định chưa xong, thành ra ở Hương Cảng không có tàu Nhật, tôi phải đáp tàu Chiêu Thương đi lên Thượng Hải. Lúc đó đã sau ngày rằm tháng 3.
Tới Thượng Hải, mới thấy cuộc lữ hành có lắm nông nổi khó khăn đẻ ra lần hồi. Việc khó khăn thứ nhất là ngôn ngữ. Cả tiếng Anh lẫn tiếng Tàu, tôi chưa từng học tập bao giờ.

Cũng may cho mình giao tiếp đều là người Tàu. Nếu biết chữ Tàu thì có thể dùng ngọn bút thay thế cho tấc lưỡi. Nhưng cũng bất tiện đáo để.

Than ôi! Sinh ra giữa thời đại là thế kỷ XIX, XX này, ai không có học thuật giỏi dang thì không thể nào cùng thế giới cạnh tranh sống còn cho được. Ngôn ngữ văn tự chính là kẻ dẫn đường đi tới học thuật. Người ngu dốt quê mùa như tôi, mà khỏi bị đào thải, là may mắn biết bao. Tuy vậy, lúc đó tôi đã 40 tuổi, bị công việc của đảng ràng buộc nơi mình, mình phải vì đảng mà ra sức lo chạy, đến đỗi cơm không biết ngon, chiếu không biết ấm, bây giờ dầu cho mình có muốn ôm sách đi học như hồi thi cử trước kia, cũng không có ngày giờ nào mà đi học được nữạa. Than ôi ! Sa đà ngày tháng, chớp mắt ra không, mài miệt công danh, hối mình đã lỡ, tôi khuyên tất cả thanh niên nước nhà, muôn vàn xin chớ bước lầm vào con đường của tôi.

Thượng tuần tháng 4, tôi đáp tàu Nhật ở bến Thượng Hải, trung tuần thì đến Hoành Tân (Yokohama), tôi tạm ở lại đó hơn một tuần lễ.

Lúc đầu tôi xuất dương không biết một tiếng Nhật nào, lại cũng không ai giới thiệu, thành ra lúc đi đường cần dùng chuyện chi, đều cậy chú lính gác đường; chú chỉ vẽ cho mình một cách rất tử tế.

Thật vậy, lòng tôi rất cảm phục chính sách cảnh sát của Nhật Bản sắp đặt hẳn hoi, trọn vẹn; ngó lại chế độ cảnh sát ở xứ mình mà buồn. Lúc đó nhà văn học Trung Hoa là Lương nhiệm công Khải Siêu (Lương Khải Siêu; Liang Ch'i-Ch'ao) đang ở Hoành Tân làm chủ tờ "Tân Dân Tùng Báo". Nghe nói họ Dương ở Nhật lâu ngày hơi rõ công việc nước Nhật, tôi bèn quyết định trước hết tới ra mắt họ Lương để cầu họ Lương giới thiệu với người Nhật.

Tuy là tôi với Lương chưa hề gặp mặt quen nhau lần nào, nhưng tôi nghĩ Lương là bậc người mới, chắc có con mắt tư tưởng không như bọn tầm thường.. Tôi liền viết một bức thư xong ra mắt. Trong thư có câu như vầy : "Ra đời khóc một tiếng, đã là lương tri, sách vở đọc 10 năm, trở nên thông gia" (Lạc địa nhất thinh khóc, tức dĩ tương tri, đọc thơ thập niên nhỡn, loại thành thông gia). Tôi lấy mấy câu đó làm gốc để cầu ra mắt họ Lương.

Tiếp được thư, Lương mời tôi vào lập tức. Chúng tôi lấy bút mực nói chuyện. Lương hỏi tôi qua đây có ý gì, lại hỏi tình hình người Pháp cai trị nước Việt ra sao. Tôi lấy làm tiếc lúc ấy chỉ kể đại khái, vì câu chuyện quá dài không thể một lúc bút thừa đàm mà nói cho Lương biết hết được. Rồi đó tôi viết ra cuốn "Việt Nam Vong Quốc Sử", đưa trọn bản thảo cho Lương đem ra in. Bước đầu tôi xuất dương mới viết sách là lần thứ nhất.

Sau khi họ Lương gặp tôi rồi, lấy cặp mắt xanh (biết nhận xét bậc hiền tài) đãi tôi rất tử tế. Nhân đó Lương nói cho tôi nghe việc chúng tôi mưu tính cậy nhờ người Nhật giúp cho khí giới để khởi binh đánh đổ chính phủ Pháp. Lương nói : Nhiệt tâm của các ông như thế, sức tôi có được tới đâu tôi giúp liền tới đó, không hề chạy chối. Nhưng nghĩ lại sự giúp sức cho đảng cách mạng đánh đổ chính phủ, thuở nay các nước không có lệ đó bao giờ. Nếu có chăng nữa, chỉ là lúc nào hai nước có chuyện xích mích tới đánh nhau mà thôi. Nay hai nước Pháp - Nhật chưa tới cơ hội xích mích đánh nhau, có khi nào chính phủ Nhật chịu giúp khí giới cho các ông.
"Nghĩ tới cách khác, duy có mấy chính đảng của dân họ đem sức riêng giúp ngầm các ông, họa chăng có thể. Trong mấy dân đảng ở nước Nhật hiện thời, chỉ có đảng Tiến Bộ nhiều thế lực mà Bá tước Ðại Ôi (Count Shigenobu Okuma) và Khuyễn Dưỡng Nghị (Ki Tsuyoshi Inukai) chính là hai người đầu đảng. Nếu các ông muốn làm quen hai người đó thì tôi giới thiệu giùm.

*

Rồi họ Lương cùng tôi đi Ðông Kinh (Tokyo) yết kiến Khuyển Dưỡng Nghị. Sau Khuyển Dưỡng Nghị dẫn tôi ra mắt Bá tước Ðại Ôi. Về sau đảng chúng tôi cùng dân đảng nước Nhật có quan hệ với nhau, đầu giây mối nhợ từ lúc này mà ra vậy.
Mấy ngày sau Khuyển Dưỡng Nghị lại giới thiệu tôi với các yếu nhân trong dân đảng.
Lúc này Phúc Ðảo An Chánh đang làm Tham mưu trưởng, Căn Tàn Nhất làm đầu hội "Ðông Á Ðồng Văn", cả hai đều hoan nghênh tôi.
Tôi liền nhân dịp tỏ bày ý muốn của đảng tôi cầu viện.
Họ nói :
Phàm là nước đồng châu đồng đảng đồng chủng với Nhật Bản thì quốc dân Nhật Bản đều vui lòng giúp đỡ phò trì cho nhau luôn. Nhưng mà việc này có quan hệ đến quốc tế, phải làm sao được chính phủ ngầm chịu giúp cho thì mới có thể làm. Rủi việc đánh Nga vừa mói xong, chính phủ nước tôi chưa rảnh mà ngó ngàng đến việc nào khác được. Các ông rá đợi ít lúc, dân đảng chúng tôi xin hết lòng với các ông, thế nào cũng có ngày đạt tới mục đích, đừng lo.

Họ lại hỏi tôn chỉ của đảng chúng tôi là quân chủ hay dân chủ.

Tôi đáp :
Mục đích của đảng chúng tôi bây giờ cốt thiết hơn hết là làm cách nào bắt buộc người Pháp trả quyền độc lập cho chúng tôi đã, còn như quân chủ hay dân chủ lại là một vấn đề khác, giờ chưa nghĩ đến. Song cứ theo lịch sử nước tôi xưa nay và dân trí hiện tại, thì quân chủ phải hơn. Bởi vậy đảng chúng tôi đã tôn một vị hoàng thân là ông Kỳ ngoại hầu lên làm Hội chủ, thế là chúng tôi sắp đặt quân chủ nay mai đó.
Người Nhật vốn trọng đức Thiên hoàng, tức là tán trợ chính thể quân chủ, cho nên họ cho lời tôi nói là phải. Họ lại nói với tôi :

Nay các ông rước được vị Hoàng thân của quý quốc sang đây, thì giao tình của chúng ta càng thêm tốt đẹp. Các ông nghĩ có phải không ?

Tôi nghĩ việc cầu viện, có thành hay không chưa biết. Nhưng tôi đã trốn ra nước ngoài như vậy, nếu tiếng tăm bay ra, rủi ro muôn một mà Hội chủ có hề gì, chắc là ảnh hưởng tới việc đảng lớn lắm. Bây giờ tôi bèn quyết kế trở về để mời Hội chủ xuất dương.

11. Rước Kỳ ngoại hầu xuất dương

Ban đầu tôi xuất dương chỉ cố chú ý vào vấn đề quân giới. Trong khoảng mấy tháng cơm hàng ngủ trọ ở Ðông Kinh, tôi được nhân dịp biết rõ câu chuyện Nhật Nga đánh nhau và thấy được cái hiện trạng của nước Nhật về chính trị, giáo dục, ngoại giao, thực nghiệp.

Thấy người ta rồi, mình hết sức hổ (thẹn) thầm cho mình lúc trước kia chỉ ngồi co ro trong nước, hèn nào chẳng kiến văn (kinh nghiệm, học thức; những điều mắt thấy tai nghe) mù mờ, tư tưởng bế tắc, không biết gì cả. Hết thảy anh em đồng chí với tôi cũng đều như tôi cả; tôi nghĩ lấy làm tiếc sao không dời được tất cả bà con mình qua ở Anh Hoa Tam Ðảo (tức Nhật Bản) để cho khối óc và tầm con mắt thay đổi mới lạ hẳn đi!
Sau khi quyết định rước Hội chủ xuất dương, tôi tính phải về nước một chuyến mới được.
Thượng tuần tháng 7 năm Ất Tỵ (1905), tôi với ông Ðặng Tử Kính đáp tàu ở Hoành Tân (Yokohama; một cảng lớn trên đảo Honshu) về nước.

Tôi qua Nhật Bản chuyến này, đối với việc đảng sai khiến phó thác, mà tôi bỏ dở dang giữa đường như vầy, thật không khỏi tự lấy làm hổ thẹn. Nhưng có hai việc, có thể gỡ tội cho mình. Một là mưu phò được Hội chủ xuất dương, thì càng thêm vững lòng khuynh hướng của anh em trong nước, mà lại khỏi lo có sự gì nguy hiểm xảy tới. Hai là đem những sự tai nghe mắt thấy mới lạ, cùng là việc mình mưu toan, để bộc bạch với anh em đồng bào, chắc hẳn có phần bổ ích cho cuộc cải lương tấn phát mai sau.. Vịn vào hai lẽ đó, tôi mạnh bạo trở về.

Tháng 8, về tới Hải Phòng, ở nhà một người bạn trong đảng. Sự vui mừng không tả cho hết.
Là vì lúc tôi đến Bắc Hải, đánh liều đáp xuống một chiếc tàu tây, nhờ cậy được một người đồng bào đốt than trong tàu che chở giùm. Tới lúc người tây xuống tàu khám xét thì anh ta giấu tôi ở khoang tàu dưới chót, chung quanh chất đầy than đá, tôi nằm lọt vô giữa im lìm không dám hó hé. Nhờ vậy mà người tây không hay, tôi mới lén về trong nước đặng. Ðó cũng là một việc mạo hiểm mà thành công.

*

Lên bến Hải Phòng rồi, tôi đáp xe lửa đi về Nghệ An.
Trên xe lửa, tình cờ gặp lão Tuần phủ X...tỉnh Thái Bình vốn là tay bợm hót giỏi trong đám quan trường. Lão viết mấy chữ trên miếng giấy nhỏ đưa cho tôi xem, như vầy :
"Ông trốn đi chưa đầy tuần lễ, mật thám đã bủa khắp nơi. Vậy ông sớm liệu đào tẩu cho mau, không thì nguy đấy".

Tôi hơi lo.
Nhưng cái mục đích mình trở về nước nhà chưa đạt được, thì chưa có thể nào đào tẩu, ta cứ việc ở nhà đã, ra sao thì ra. Tôi bèn trốn trở về Hà Tĩnh, ước hẹn những anh em kín đáo tới hội họp tại nhà Ðặng quân (Ðặng Tử Kính). Còn Tử Kính thì đem giấy tờ trọng yếu vô Huế trước để yết kiến hội chủ, rồi đi thẳng vô Quảng Nam, nói việc mình định mưu tính vậy vậy cho đồng chí 2 tỉnh Nam Nghĩa hay. Tôi ở quanh quẩn trong Nghệ Tĩnh, ngày ngày cùng các đảng hữu (anh em đảng viên) bàn định việc làm. Kế đó có thư của đồng chí ở Kinh (Huế) và Quảng gởi tới thôi thúc nên gấp đi ra ngoài. Vì đất Nghệ Tĩnh là đất người Tây để ý dòm nom coi chừng hơn hết, cho nên các đồng chí không muốn tôi ở lần lựa trong chỗ nguy hiểm đó lâu. Vừa may gặp ông Trần Ðông Phong đem lại 15 nén bạc và 200 đồng tặng tôi làm lộ phí, và giục tôi khởi trình.

Thế là tôi lại từ giã non nước Hồng Lam, lên đường bôn ba.

*

Lúc ra đi, tôi lưu Tử Kính ở lại Huế, dặn dò ông Ðặng Thái Lân lo việc hộ vệ Hội chủ xuất dương cho thật vẹn toàn; lại viết thư nhắc nhở cho anh em phải liệu định sẵn sàng món tiền mua sắm và chuyên chở khí giới để sắp đặt khởi sự mai sau. Thượng tuần (sơ tuần; khoảng thời gian từ mùng 1 tới mùng 10 trong tháng) tháng 9, tôi với Nguyễn quân Thức Canh (Nguyễn Thức Canh) từ bến đò Chế Giang ra đi. Cuối tháng ấy chúng tôi đến Hải Phòng, gặp được 1 người làm bồi dưới chiếc tàu tây, tên là Lý Tuệ, tính giùm cho tôi cái kế thoát hiểm.

Lý Tuệ là người có gan dạ, mưu mô, thâm hiểu nghĩa lớn. Về sau, ông ta ngầm giúp công việc kia khác cho đảng chúng tôi được nhiều lắm. Lúc này tìm cách đưa tôi xuất dương, ấy là bước đường thứ nhất của ông ta dấn mình vào quốc sự vậy. Thật là 1 người hăm hở làm việc nghĩa, gặp nạn coi chết như không. Tôi không ngờ giữa lúc mình gió bụi xông pha lại gặp được người như thế. Nghe nói bây giờ này ở trong tù sau khi bị Tổng đốc Lưỡng Quảng [Quảng Ðông + Quảng Tây] bắt vào ngày 24/12/1913) ông ta đã bị đày, còn sống hay chết rồi không rõ.

*

Tháng 10 năm ấy (1905), tôi đến Hoành Tân, vô ở nhà trọ cũ, thấy môt vị thanh niên học sinh ta là Lương Quân Lập Nham (Lương Lập Nham) đã tới đó trước rồi. Tôi xem ra người có khí phách hăng hái, đầu tóc đang để bờm sờm; dò hỏi mới biết ông ta bỏ nhà vượt biển trốn sang Nhật có một mình, lúc lên bờ trong túi chỉ vỏn vẹn có ba đồng xu. Thật vậy, tôi vừa vui mừng vừa chưng hửng. Vì bạn tuổi nhỏ ở nước nhà, một thân một bóng mà dám liều mạng xông pha sóng gió muôn trùng, tới một nước thuở nay chưa nghe thấy bao giờ, Lương Quân chính là người thứ nhất vậy. Té ra Lương Quân vốn là người chứa sẵn kỳ khí, chỉ nghe nói tôi qua Ðông Kinh, thành ra mạnh bạo bỏ nhà bỏ nước ra đi.

Bạn thiếu niên anh tuấn của ta sau này, có mấy người được như Lương Quân?
Kế đó, tôi bôn tẩu giữa khoảng Ðông Kinh - Hoành Tân, thường thường cùng những người tai mắt trong dân đảng nước Nhật nối liền thinh khí (khí đương hăng), nhờ họ chỉ vẽ về điều hay việc phải cho mình rất nhiều. Nhân đấy tôi nghĩ lại dân trí nước mình còn quá thấp thỏi, mà nhân tài cũng thiếu thốn không có. Chừng ấy tôi tự ăn năn việc mình lo toan lúc trước là nông nổi, chỉ bo bo về vấn đề quân giới, nào có phải đó là cái kế tuyệt hay để mưu tính công cuộc độc lập cho nước mình được đâu! Một bữa nọ, tôi đến nhà Lương Khải Siêu, trong lúc bút đàm, có đem ý kiến ấy ra nói, Lương bảo tôi như vầy :

"Cái kế hoạch độc lập của quý quốc có ba đề mục lớn. Một là thực lực riêng ở trong nước các ông. Hai là nhờ hai tỉnh Quảng nước tôi cứu viện. Ba là nhờ sức cứu viện của Nhật. "Hai tỉnh Quảng giúp chỉ là giúp giùm khí giới. Mà Nhật có giúp cũng chỉ giúp về mặt ngoại giao. Còn thì nhất thiết đều trông cậy ở thực lực của quý quốc mà thôi".

12. Hô hào thanh niên sang Nhật cầu học

Lương Khải Siêu nói tiếp: "Thực lực hệ trọng hơn hết, không gì cho bằng nhân tài. Vậy thì tôi tính kế cho quý quốc bây giờ, trước hết ta hãy gắng công ra sức vun trồng nhân tài. Hễ nhân tài có đủ, thì chỉ đợi thời cơ đưa đến là ta làm việc lớn được dễ dàng".
Tôi rất phục lời họ Lương nói phải lắm.

Trở về nhà trọ rồi tôi thao thức suy nghĩ cả đêm, không sao nhắm mắt ngủ được.
Dòm quanh thế giới như rồng bay hổ thét, như điện chớp mây tuôn, nhân tài có ngàn thứ muôn thứ, không có vẻ nào mà không mới lạ. Ngay đến 1 xó Ðông Dương này, nước nhà mình so sánh đã đủ thua kém, người ta muôn phần, mình chẳng có một, còn nói Âu Mỹ làm gì ?

Bởi vậy, nuôi dựng nhân tài là việc cần kíp của mình, không đợi phải nói nữa. Song muốn nuôi dựng nhân tài ta phải làm sao bây giờ, vì cái thực quyền giáo dục nằm cả trong tay chính phủ Pháp bảo hộ? Dầu vậy mặc lòng, anh em chúng tôi còn đây, không lẽ nào bó tay chịu chết sao đành. Giờ chỉ có cách là kêu gào bọn thiếu niên trong nước tỉnh dậy, liều mình trốn ra nước ngoài học tập, như thế thì ta được tự do mở mang trí khôn, mà nước nhà mới chóng có nhân tài đẻ ra được nhiều. Tôi bèn đặt ra bài văn cổ động bà con trong nước giúp tiền cho thanh niên qua Nhật cầu học. Bài này chỉ viết có lơ thơ mấy ngàn chữ, nhưng thật là một bài văn sinh bình (lúc sống ở trên đời) tôi lấy làm đắc ý thứ nhất.

Là vì công việc tôi sắp đặt lo toan từ trước đến giờ, đều chuyên chú vào hiện tượng trước mắt, đến sự mưu đồ sự nghiệp lâu dài bền vững cho nước nhà, thời chỉ có bài văn này mà thôi.Nếu như có hiệu quả, người nước ta du học ngày thêm đông, nhân tài ngày thêm nhiều, dân trí ngày thêm cao, thì không gì nước Nam không có cơ sống lại.
Nhưng thủ đoạn người ta áp bức nặng nề dữ tợn, khiến cho làn sóng du học chưa được năm sáu năm, đã làm cái đích cho muôn ngàn mũi tên nhắm vào đó mà bắn, sự ấy trước kia tôi có dè đâu.Than ôi ! Tài hèn sức mỏng, trăm việc làm đều không được như lòng mình muốn, thành ra đá hết rồi mà biển hận vẫn chưa lấp đầy, oan hồn Tinh Vệ (Tinh Vệ là một loài chim sống ở bờ biển giống chim quạ, chân đỏ, mỏ trắng, thường ngậm gỗ và đá ở núi Tây Sơn để lấp biển Ðông. Tương truyền con gái Viêm Ðế, vì chết đuối nên lòng mang mối căm hờn, hóa thành chim Tinh Vệ ngậm gỗ đá để lấp biển. Nghĩa bóng: việc gì khiến ta tức giận quá sức), đâm ngày chỉ lênh đênh chìm nổi với ba đào (sóng; những cảnh chìm nổi vất vả, gian nan), đau đớn thay!

Bài văn "Khuyên Thanh Niên Du Học" viết xong rồi, thuê in ra mấy ngàn tập, giao cho Tăng quân Bạt Hổ (Tăng Bạt Hổ) đem về nước phát hành. Mùa đông tháng Chạp năm Ất Tỵ (1905), Tăng quân về nước, cốt lo cổ động anh em qua bên Nhật học. Vừa khi đó ông Nguyễn Hải Thần (tức Nguyễn Cẩm Giang, 1878-1959; chết ở Quảng Châu) ở nước nhà trốn qua tới Nhật, gặp tôi ở Hoành Tân được đọc bài văn của tôi, ông lấy làm mừng lắm, tình nguyện gánh vác khoản tiền tổn phí cổ động du học sinh.

Không bao lâu, tiếng vang dội của bài văn tôi làm rung động xôn xao cả nước.
Tháng Giêng năm Bính Ngọ (1906), tôi đến nhà ông Khuyển Dưỡng Nghị để bàn tính về việc đưa học sinh sang học, sắp đặt cho anh em cả trường học, chỗ ở sẵn sàng.
Lúc đó, ông Phước Ðão đang làm hiệu trưởng Chấn Võ Học Hiệu tại Dông Kinh, tôi liền xin cho Trần Hữu Công (tức Nguyễn Thức Canh), Lương Lập Nham và Nguyễn Ðiển 3 người vô học trường ấy. Còn 1 người nữa là Lương Nghị Khanh thì vô học Ðồng Văn Thư Viện. Nước ta 4,000 năm nay chưa hề có người nào du học ngoại quốc, có chăng tự là 4 người này trước hết.

Ôi ! Lịch sử quốc dân ta như thế ai bảo là thằng bé con lụ khụ trăm tuổi cũng phải.
Tháng 2 năm đó, bọn ông Tử Kính (Ðặng Tử Kính) đã phò tá Hội chủ Kỳ ngoại hầu đến Hương Cảng, viết thư sang Nhật gọi tôi qua.

Lúc bấy giờ, bốn người thiếu niên vừa mới được vô học trường Nhật, lại được nghe tin Hội chủ xuất dương (đi ra ngoại quốc) yên ổn, thật mấy năm nay chi có chuyện này tôi thấy vui mừng khoan khoái hết sức. Tôi nóng nẩy muốn biết tình hình trong nước gần đây ra sao, lại sẵn có dịp đi nghênh tiếp Hội chủ, nên chi hạ tuần (từ ngày 21 đến 30 mỗi tháng) tôi đáp tàu qua ở Nhật sang Hương Cảng. Tới đây, vừa gặp Phan quân Châu Trinh (Phan Châu Trinh) mới từ nước nhà qua. Phan quân đi chuyến này, cốt muốn xem xét tình trạng văn minh của Nhật. Sau khi gặp mặt tôi rồi, ông cùng với tôi và Hội chủ cùng xuống Tàu sang Nhật.

Chúng tôi đến Hoành Tân vào hồi hạ tuần tháng 4.
Tôi dẫn Phan quân đi xem khắp các trường học và các nơi danh tiếng ở thành Ðông Kinh, lại giáp mặt nhiều danh nhân nước Nhật. Cách đây mấy tuần, ông nói với tôi:

Xem dân trí Nhật Bản rồi đem dân trí ta ra so sánh, thật không khác gì muốn đem con gà con đọ với con chim cắt già. Giờ bác ở đây, nên chuyên tâm ra sức vào việc văn, thức tỉnh đồng bào cho khỏi tai điếc mắt đui, còn việc mở mang dìu dắt ở trong nước nhà thì tôi xin lãnh. Lưỡi tôi đang còn, người Pháp chẳng làm gì tôi được mà lọ. Tôi cho lời ông nói rất phải. Rồi tôi viết ra tập đầu "Hải Ngoại Huyết Thư". Nhân lúc Phan quân về nước, tôi gởi đem Huyết thư đó về. Ðối với bà con trong nước, tôi là môt người khua động chuông chiều trống sớm để thức tỉnh, thật là tập văn này nối gót "Huyết Lệ Tân Thư" mà ra đời vậy. Cách không bao lâu, bọn anh em trong phái cấp khích (rất nóng nảy) ở Nghệ Tĩnh, như mấy ông Ðại Ðẩu, Thần Sơn, phần nhiều viết thư hối thúc tôi về việc quân giới.

Chỉ một vấn đề đó, khiến cho tôi hao tốn không biết bao nhiêu tâm huyết mà gây ra lắm nỗi thất bại thê thảm, thật là khổ não cho tôi! Các ông ông về phái cấp khích, có bầu máu nóng đáng kính, nhưng đầu óc các cụ chỉ lo xông pha bôn tẩu trên một con đường bạo động mà thôi. Chính tôi lúc chưa bỏ nước ra đi, cũng chỉ có tư tưởng giống y như thế; chừng sau ra ngoài được rộng kiến văn và nhờ người ngoài giáo huấn, tôi mới biết sự nghiệp quang phục nước nhà, không sao có cơ sở thật bền vững thì không làm nên.
Bởi vậy, một mặt tôi cổ võ thanh niên du học, một mặt muốn mở mang tư tưởng ái quốc cho toàn quốc dân, tôi bèn viết ra "Tân Việt Nam Kỷ Niệm Lục", "Việt Nam Sử Khảo", và tập "Hải Ngoại Huyết Thư" nối theo. Mấy thứ sách này lời lẽ thống thiết lâm ly, chỉ có chủ ý là trông mong quốc dân ta lấy Chiêm Thành Chân Lạp làm dấu xe nên tránh và rán theo chân nối gót của Trưng vương, Lê hoàng, mà phát phần hăng hái, tìm lấy sự sống ở trong lúc chủng tộc chưa tiêu, tính mạng chưa tuyệt này, bằng không thì trễ mất.


13. Gặp mặt Hoàng Hoa Thám:

Nhưng mà tôi ngu thật ! Chớ chi dân ta đều khôn thì ai bắt mình làm trâu ngựa được, dân ta mà đều biết yêu nòi thương nước thì ai bắt mình làm nô lệ được ? Nghĩ lại mình ở trong tay người ta ràng buộc mà toan cất tiếng trả lời, nói bàn về chuyện ái quốc bảo, có khác nào ngồi trước mặt đạo tặc mà bàn cách khu trừ đạo tặc đâu. Ai người kiến thức cũng đã sớm liệu cái mưu ấy của tôi tất phải thất bại rồi. Tuy là lúc bấy giờ tôi ôm kế hoạch như thế mặc lòng, nhưng đối với sự yêu cầu của anh em trong phe cấp khích, không thể nào ngảnh mặt làm lơ cho được. Bởi vậy tôi lại tính phải trở về nước lần thứ nhì nữa.

Lần này về nước có hai mục đích.

Một là đi qua các nơi hiểm yếu ở biên giới hai tỉnh Việt (Quảng Ðông), Quế (Quảng Tây) để xem xét địa hình và kết giao với đám hào kiệt trong vùng, hầu sắp đặt những chỗ mượn đường chuyên chở quân giới mai sau. Một mặt khác lại lên Bắc Giang yết kiến ông Hoàng Hoa Thám, muốn xin ông một miếng đất làm khu đồn điền cho anh em cấp khích có chỗ nương thân, đợi ngày có thể giải quyết vấn đề quân giới.

Than ôi! Quân giới! Quân giới ! Nó có phải là vấn đề chốc lát xong được đâu? Ðối với vấn đề này, thật không có giây phút nào tôi đã dời phương châm qua chỗ thông thả tính sao cho ổn thỏa thì hơn.

Tháng 7 năm Bính Ngọ (1906), tôi lại từ giả Nhật Bản về Quảng Ðông, đến Sa Hà ra mắt Mạnh Hiếu Công, vừa gặp người con truởng của cụ Phan Ðình Phùng là Phan quân Bá Ngọc , cũng vừa ở trong nước đến nơi. Phan quân còn nhỏ tuổi mà người thông minh anh tuấn. Lúc tôi còn ở nước nhà đã có dịp gặp gỡ phơi trải ruột gan với Phan quân, nay gặp nhau ở chốn tha hương, tôi vui mừng được gặp 1 bạn tri kỷ. Tôi ngỏ cho Phan quân biết ý tôi muốn về nước, còn Phan quân thì ngỏ ý định sang Nhật.

Sau khi từ biệt Phan quân rồi tôi vội vàng đi Khâm Châu, tìm kiếm 1 người trong nghĩa đảng hồi trước, tên là Tiền Ðức, để cậy va làm người hướng đạo. Chúng tôi đi men một dọc bờ cõi dưới Từ Châu, qua phủ Thái Bình, đến Long Châu, rồi vượt qua cửa ải Trấn Nam Quan. Trước sau cả thảy 5 tuần lễ, bao nhiêu địa thế hiểm trở, tôi đều xem xét kỹ lưỡng. Tiền Ðức cũng có công trong việc này nhiều lắm.

Qua ải Trấn Nam, tới chợ Văn Uyên. Chợ này có đồn lính một viên quan binh tây bốn lon chỉ huỵ. Hễ ai không có thông hành hộ chiếu của lãnh sự Pháp cấp cho thì không đi qua lọt.

Tôi mua được mộ tờ thông hành của của chú khách buôn, mạo danh là một Hoa thương mà đi. Lúc này trên giấy thông hành chưa có lệ phải dán hình ảnh thành ra tôi được bình an vô sự, lên xe lửa ở Ðồng Ðăng mà đi Hà Nội. Hồi này là thượng tuần tháng 9. Xe lửa tới ga Gia Lâm thì tôi xuống, đi đường bộ lên Thái Nguyên, tới Chợ Chu vào thăm Lương Tam Kỳ.

Nguyên là lúc tôi đi ngang qua Thái Bình phủ đã có dịp vào ra mắt quan Thống lãnh Trần Thế Hoa, xin ông giới thiệu tôi với lam Tam Kỳ, bởi Lương là bộ hạ cũ của ông.
Ông Trần lại sai một viên thuộc hạ dẫn đường cho tôi đi đồn điền của Lương.
Lương ở Thái Nguyên, có thế lực khá lớn, cày ruộng nuôi trâu, gần chiếm hết 8/10 của toàn tỉnh. Bộ hạ rất đông, quân giới cũng hơi khá. Chính phủ Pháp phong làm chức Chiếu phủ đại sứ để ràng buộc họ Lương.

Lúc tôi và người của ông Trần đến đây, Lương Tam Kỳ hoan nghênh hết sức. Nhân dịp, tôi thuyết họ Lương phản chính (và giúp sức chúng tôi.
Lương nói : Chừng nào đại binh các ngài hạ Ðông Kinh thì tôi xin đem hai tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn ứng theo.
Tôi xét ý tư va cũng là người chỉ ngồi đợi cho công việc ai làm gần xong thì va mới ghé vào, tự va không có khí tượng mạo hiểm tiến thủ gì hết. Chưa đến lúc sấm mưa vang dậy thì va không giúp mình gì đâu. Ở nhà Lương, mấy ngày, tôi từ biệt ra đi, do đường núi rừng lên tỉnh Bắc Giang tới đồn Phồn Xương, yết kiến Hoàng tướng quân Hoa Thám.
Trước kia Hoàng đã cùng tôi liên lạc thinh khí rồi, nhưng chỉ là những người đem thư lui tới mà thôi. Ðến giờ mới gặp giáp mặt. Lúc này Ðặng quân Thái Thân đang có việc ở Hà Nội, được tin tôi, liền lên Phồn Xương gặp tôi.

Rồi đó chúng tôi xin Hoàng tướng quân cắt đất làm đồn, tính cách thu dụng những đảng viên Nghệ Tĩnh, Hoàng tướng quân vui lòng ừ ngay. Liền dẫn chúng tôi đi xem khắp xa gần, để chúng tôi tùy ý lựa chọn chỗ nào cũng được.
Giữa hồi này ông Ðại Ðẩu cũng đang ở trên đồn. Tôi căn dặn ông vè nói với anh em trong đảng nên tính cách làm ruộng chờ thời.
Không bao lâu có đồn "Tú Nghệ" lập ra. Việc tôi làm chuyến này, là 1 kết quả nho nhỏ vậy.

14. Chính phủ Lâm thời Tân Việt Nam

Nhưng rồi người Tây thình lình khai chiến với tướng quân, làm cho cái thành tích đồn điền của chúng tôi, phút chốc hóa ra tro bụi.

Than ôi ! Xông pha nhọc nhằn trải muôn ngàn dặm, mà chỉ gây nên một cõi mơ màn thất bại, có ai mưu sự mà gặp nông nỗi bất hạnh như tôi vậy chăng ? Ðó chẳng phải chứng cớ tài hèn trí mỏng là gì? Ai nối gót tôi mà dấy lên sau này, nên coi sự sai lầm của tôi mà thay đổi bước đường đi!

Lúc sắp đặt công cuộc đồn điền xong xã đâu đó rồi, đã là hạ tuần tháng 10. Tôi lén xuống Hà Nội gặp ông Ngô Ðức Kế và các đảng hữu ở Kinh (đô) ra, bàn tính các việc. Rồi lại đi Bắc Ninh, lấy nhà ông cử Nội Duệ làm nơi tụ họp bí mật. Hai ông Ðặng Thái Thân và Lê Võ cùng ở Nghệ ra Bắc cùng tôi hội đàm quốc sự. Hồi này tiếng tăm vang dậy, lũ sói chồn bủa khắp tứ vi, anh em đồng chí sợ tôi rủi ro thì nguy, cho nên đều khuyên tôi phải gắp lìa khỏi bờ cõi nước nhà. Thế là tôi lại cáo biệt quốc dân mà xuất ngoại vậỵ.
Khoảng trung tuần tháng chạp, qua cửa ải Nam Quan, do đường Quảng Tây mà đến Ngô Châu, để xuống ghe Ngô Châu đi Hương Cảng. Thượng tuần tháng 2 năm Ðinh Mùi (1907) tới nơi.

Bài văn khuyến học của tôi, truyền bá rồi. Thiếu niên nước nhà trốn người Pháp mà xuất dương, tấp nập trên đường.

Trung Kỳ thì có đám Nguyễn Siêu, Lâm Quảng Trung.
Nam Kỳ thì có đám Ðặng Bình Thành, Hoàng Hưng.
Bắc Kỳ thì có Ðặng Tử Mẫn, Ðàm Khanh, v.v...


Họ tắm gội nắng mưa, xông pha sương gió, liều mạng đi tìm học vấn, nối gót theo chân nhau trên đường sang Quảng Ðông và Hương Cảng. Bởi vậy chúng tôi bèn đặt ra tại Hương Cảng một cơ quan của đảng ta, để có nơi tiếp rước học sinh và thâu nhập bạc tiền cùng các giấy tờ bí mật. Chúng tôi để ông Ðặng Tử kính trông coi. Tôi lại lập ra ở Hương Cảng một hội gọi là Việt Nam Thương Ðoàn Công Hội để giúp đỡ việc cho đảng. Công hội này ông Võ Mẫn Kiến làm người chủ trì. Lúc đó những bà con mình theo người Pháp qua làm ăn tại Hương Cảng cũng động lòng vì nghĩa lớn, rủ nhau vô hội một cách hăm hở vô cùng. Chẳng phải vậy là dấu tỏ ra nhân tâm nước mình chưa chết hẳn đó sao ?

Chỉ tiếc rằng tôi thiếu tài bao bọc, kém sức chu toàn, thành ra mầm giống vừa mới mọc lên thì gió mưa đã làm cho xiêu đổ. VN Công Hội chỉ có cái tên, rồi chưa được mấy năm, lại nhân bị can thiệp mà phải giải tán, đáng thương biết bao !

Từ mùa xuân Ðinh Mùi (1907) đến mùa đông Mậu Thân (1908) là thời kỳ thanh niên ta sang du học thịnh nhất. Trách nhiệm tôi phải gánh vát trong thời kỳ này cũng khó nhọc bộn bề. Nào là chọn người vào học, nào là lo liệu giao thiệp; nào là vận động bạc tiền; nào là liên lạc tình nghĩa, đều là một tay tôi đứng mũi chịu sào hết thảỵy. Tôi nghiễm nhiên như một quan công sứ của nước Nam ở nước ngoài mà lại kiêm cả chức giám đốc kinh lý (đi xem xét công việc) nữa. Giếng sâu tay ngắn, việc lớn tài hèn, tôi vẫn lo sợ công việc tôi gánh vác không kham.

Ðồng thời chúng tôi lại dựng lên Tân Việt Nam Cống Hiến, bắt chước làm như một chính phủ lâm thời của nước Nam ở hải ngoại. Tuy là cách thức sắp đặt còn sơ sài, nhưng có ảnh hưởng tới dân khí trong nước mau lắm.
Không bao lâu, có những việc ám sát quan binh Tây, và dân rủ nhau xin thuế, thình lình nổi lên ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Người Tây bèn đem cái toàn lực bắt cọp trói beo ra phấn đấu với đảng chúng tôi.
Than ôi ! Người Pháp có kim tiền và võ lực mạnh hơn người mình ngàn lần muôn lần; họ lại khôn ngoan giảo hoạt hơn quốc dân ta vạn bội, vậy thì đảng chúng tôi không phải thất bại sao được?

Khoảng năm Thân (1908), năm Dậu (1909), chính phủ Pháp bỏ ra nhiều tiền nuôi bọn chồn tinh cáo già cho đi dò la xét bắt nghĩa đảng. Số mật thám trong nước, sánh lại đông gấp hai số học sinh du học ở ngoài. Phàm là đường lối mưu mô bí mật của đảng chúng tôi đem tiền và thông tin ra ngoài thế nào, chính phủ Pháp nhờ có bọn do thám mà biết ráo kẽ tóc chân răng, tìm cách phá hoại tan nát. Phụ huynh thân tộc các đảng viên phải khóc than giam cầm trong ngục tối, còn bọn ác thám hưng tra (mật thám) thì gầm thét nghêng ngang khắp trong xứ. Người trong đảng ta lúc bấy giờ có muốn bỏ nước trốn ra ngoài, chỉ có cách làm như con trùng lõa lồ thân thể mà thôi.

Vì chính sách người Pháp cốt làm tuyệt đường vận lương của ta, chận nghẹt lối cứu viện của ta, ấy là thủ đoạn có một không hai của họ. Ðồng thời lại vin lấy chỗ quan hệ của tờ Hiệp ước Pháp - Nhật mà giao thiệp với chính phủ Nhật, yêu cầu bắt hộ người đầu đảng ta và giải tán học sinh đoàn Việt Nam ở Nhật.

Học sinh đoàn ta bị hai ách là kinh tế hết phương và ngoại giao bịt lối, thành ra giữa đám gió thảm mây sầu, anh em ta phải từ giã đất nước Nhật Bản mà đi. Chẳng phải vậy thôi, cho đến bao nhiêu sách vở truyền đơn tôi in ra để cổ động quốc dân, nay đều bị chính phủ Nhật tịch biên hết. Tôi với Hội chủ Kỳ Ngoại Hầu cũng bị chính phủ Nhật buộc phải xuất cảnh. Cảnh thất bại của tôi lúc này thật đau đớn, hình như con người bị lột da xé thịt không còn chỗ nào lành lặn nữa vậy.

15. Muốn chở khí giới về giúp Hoàng Hoa Thám

Ôi! Công việc cứu quốc, không có gì cần kíp hơn là vun đắp nhân tài, mà vun đắp nhân tài thì có cách tổ chức ra đoàn học sinh là hay hơn cả. Nhưng chúng tôi gặp phải cảnh ngộ này, không có tài sức nào tổ chức được học đoàn nữa. Duy có để cho anh em học sinh bền lòng gắng chí, tự lo lấy cách tìm đường cầu học mà thôi.

Lúc bấy giờ có người chạy qua Bắc Kinh, như bọn Chung Hạo Sanh, Hồ Học Lãm. Có người tới Quảng Tây như Nguyễn Tiêu Ðẩu (Nguyễn Bá Trác), Nguyễn Siên, Huỳnh Trọng Mậu. Có người chạy sang Xiêm La (Thái Lan), như bọn Hồ Vĩnh Long, Ðặng Quốc Kiều. Cũng có người vẫn lưu lại Nhật, giả mạo làm người Tàu để cầu học, như đám Trần Trọng Khắc, Hoàng Ðình Tuân. Chân trời lênh đênh, ai lo thân nấy. Kể về tinh thần, anh em ta vẫn là một nhóm ái quốc thanh niên, nhưng về hình thức thì bấy giờ họ là một lũ học sinh bơ vơ trôi nổi.

Lúc đó tôi làm thế nào?

Ðối với cảnh ngộ chẳng may của những anh em học sinh chí thân chí ái, tôi chỉ đành vỗ ngực kêu trời, lấy một trận khóc để kết thúc vấn đề ấy thôi. Nhưng mà tấm thân 7 thước đã hứa hẹn với non sông, là thân tôi đây, không thể lấy gì che lấp trách nhiệm cho được. Ðến nông nỗi này tôi không thể nào không chạy qua con đường bạo động. Vẫn biết bạo động với tự sát đều là việc làm của những kẻ kiến thức hẹp hòi, không biết lo xa, nhưng nếu sự thế buộc tự sát, thà rằng xoay ra bạo động mà chết còn hơn. Vì cứ bạo động may ra còn trông được có chỗ thành công trong muôn một. Huống gì tôi đã suy đi tính lại, lúc này bỏ sự bạo động ra không còn có việc gì đáng làm hơn nữa.

Muốn học cách Thân Bao Tự khất binh để cứu Sở (Thân Bao Tự làm quan nước Sở, đời Ðông Châu, bạn chí thân của Ngũ Tử Tự Về sau khi Tử Tư thắng Sở, thì Bao Tự viện binh nước Tần, đẩy lui binh Ngô, cho Sở Chiêu Vương về nước. Xong rồi Bao Tự từ chức, dắt vợ con vô núi ở ẩn) nhưng chỗ nào là Tần Ðình cho mình đứng khóc mà cầu viện binh ? Muốn học cách Việt Vương Câu Tiễn nhịn nhục báo thù Ngô (Ðời chiến quốc, Việt Vương là Câu Tiễn bị bại trận ở Cối Kê và bị Ngô Vương là Phù Sai bắt cả hai vợ chồng đem về nước Ngô cho chăn ngựa.

Câu Tiễn nuôi chí phục thù và xem đất Cối Kê là nơi mà mình mang quốc thù và bị người nhục mạ), nhưng có nơi nào là Cối Kê để cho mình nương thân sắp đặt ? Còn muốn lấy văn tự để cổ động quốc dân gọi là cho xong phận sự đời mình đối với nước non, nhưng khốn thay văn tự cũng không còn lựa chỗ đất nào để gieo rắc tuyên truyền nó được, mới thảm ! Chẳng những thế mà thôi, cho đến những anh em đồng chí ở trong nước cũng đều có cái nguy sớm muộn bị tù tội, bị đày, bị chém nữa kia. Than ôi ! Con thú đến lúc cùng đường túng thế, nếu không phấn đấu may ra còn có đường sống, nếu không thì tất phải chết.

Tháng Tư mùa hạ năm Kỷ Dậu (1909), đảng ta phải trải muôn ngàn cay đắng mới quyên góp được một số tiền nữa gởi ra, tôi đem trao hết cho một hiệu buôn Nhật để cậy họ lén mua quân giới cho mình. Vì chúng tôi muốn bạo động, thế nào cũng phải có ít nhiều quân giới. Quân giới mua xong rồi, do Ðặng quân Tử Mẫn (Ðặng Tử Mẫn) bí mật đem qua Hương Cảng. Lúc ấy là hạ tuần tháng 5 giữa lúc tôi cũng đang ở đó. Vừa nghe tin nước nhà đưa sang, nói rằng Hoàng Hoa Thám tướng quân đang giao chiến với quân Pháp gắp lắm. Chúng tôi thiết nghĩ việc cứu viện họ Hoàng là một việc nghĩa phải làm, không thể nào trì hoãn được. Bởi vậy chúng tôi nghĩ cách làm sao vận tải được khí giới về nước cho mau.

Muốn chở quân giới vào đất Trung Kỳ tất phải mượn đường đi tới Băng-Cốc., kinh đô nước Xiêm, tìm cách yết kiến nhà đương cuộc Xiêm cầu họ giúp đỡ cho mình. 2 quan đại thần lục quân và ngoại giao Xiêm quốc lúc ấy, hơi có ý muốn giúp đảng cách mạng ta, nhưng họ còn đang bàn tính với nhau chưa được nhất quyết.

Tôi lại nghĩ đảng cách mạng Trung Hoa thuở nay rất thạo nghề mật chở quân giới, cho nên tôi lật đật từ giã Xiêm kinh (Băng-Cốc) mà đi Nam Dương, yết kiến Chương Bình Lân. Chính tay họ Chương viết một bức thư, giới thiệu tôi đi tìm kiếm một tay làm đầu đảng cách mạng Trung Hoa để mưu với họ giúp sức cho mình. Sau khi bàn định việc này xong rồi, tôi đã tới một hãng tàu Trung Hoa, thương thuyết với họ về khoản tiền tổn phí chuyên chở. Nếu đừng có việc trở ngăn, thì cái ngày giờ chuyên chở quân giới của chúng tôi đã định xong rồi. Không ngờ đâu bụng mình tính một đằng mà rồi việc làm trái đi một ngả. Trung tuần tháng 2 năm Canh Tuất (1910), tôi ở Nam Dương trở về thì nghe tin nói Bảo Hộ ra tay công phá đảng ta dữ lắm. Người chủ não của đảng ta ở trong nước là ông Ngư Hải đã bị nạn, đến đỗi việc đảng vỡ lở tứ tung. Bao nhiêu quân giới còn giấu đút ở Hương Cảng, vì sự đình trễ lâu ngày, thành ra tai tiếng thấu tới nhà đương cuộc Anh ở Hương Cảng hay dược. Cả thảy hơn 10 hòm súng đạn đều bị chính phủ Anh tịch thâu hết; ông Cảnh Lâm lại vì tội phạm cấm mà bị hạ ngục!

Trời ơi! Tin hung báo đưa tới, không khác gì con dao đâm một mũi chí mạng vào trong cái kế bạo động của tôi. Nhân đó có câu thơ cảm khái (vì bực tức mà cảm xúc trong lòng rồi than thở) như vầy :

Ưu thế kỷ hồ thương hải khấp.
Kinh nhân nhất chỉ ngọc sơn đồi.

Nghĩa là :
Lo nước bao phen sa huyết lệ,
Tin quê đưa tới luống kinh tâm...

Lại còn 1 câu nữa :
Khả vô mãnh hỏa thiêu sâu khứ,
Thiên hựu cuồng phong tông hận tai

Nghĩa là :
Ðã không ngọn lửa thiêu sầu rụi,
Lại có cơn giông thổi giận thêm.
Ấy là những câu tả rõ tình hình cảnh ngộ của chúng tôi lúc bấy giờ.

Từ tháng 3 năm Canh Tuất (1910) trở đi, tôi bước vào thời kỳ hết sức thê lương. Tin tức nước nhà, có khi vắng bặt mấy tháng trời, tôi không tiếp được mảy may nào. Vì Bảo Hộ thẳng tay làm chính sách khám xét thư từ và tịch thâu tiền bạc trong nước gửi ra cho chúng tôi.

Hồi này người Pháp có tính cách làm oai để cho đảng nhân đang bôn đào (trốn tránh vì phạm tội) bên ngoài phải sợ, cho nên chỉ để tiết lộ ra ngoài những tin hung báo rằng đảng nhân nọ kia bên trong đã bị chém giết mà thôi. Thành ra những tin tức đau lòng đứt ruột, không ngày nào không quấn quýt bên mình tôi. Tôi dời về tỉnh thành Quảng Châu, thế mà quan quyền Pháp lại bỏ tiền mua chuộc bọn trinh thám người Tàu để làm khó cho tôị. Ðến đỗi tôi không dám lấy bút mực làm sinh kế nữạ. Sớm tối tôi chỉ nương dựa vào một bà nữ sĩ nghĩa hiệp trên 70 tuổi đầu, làm như bà Phiếu mẫu (bà lão giặt vãi, người đã cho Hàn Tín-lúc còn hàn vi phải đi câu-ăn một chén cơm. Sau khi làm Tể tướng, Hàn Tín đã cho bà lão ngàn lượng vàng để tạ ơn) nuôi cơm cho tôi ăn. Than ôi ! Bà chiếu cố tôi trong chỗ gió bụi lênh đênh, nuôi tôi không biết bao nhiêu bữa cơm mà nói, mà không hề nghĩ tới sự mai sau, trông mình đền đáp gì hết. Thật là Châu Mẫu Việt Thành, khiến cho tôi chết xuống đất cũng còn mang ơn ngậm vành kết cỏ vậy. Bà họ Châu, tên là Bách Linh.

16. Trần Kỳ Mỹ và Hồ Hán Dân giúp sức

Tháng 2 năm Tân Hợi (1911), tôi lại qua Xiêm. Lúc bấy giờ người trong đảng ta cư ngụ nương náu ở nước Xiêm, có bọn các ông Tử Kính, Vĩnh Long, Ngọ Sanh và Minh chung, rủ nhau chịu khó cày cấy ruộng nương, chăn nuôi gà vịt, để làm kế trữ sức lâu ngàỵ.

Các ông viết thư sang Hương Cảng kêu tôi qua.

Tôi suy nghĩ muốn bắt chước Ngũ Tử Tư ngày xưa cày ruộng đợi thời, cũng là kế hay, bèn đáp tàu qua Xiêm. Sang đây, tôi tới ở sở ruộng Bạn-Thầm, tắm gió gội sương, dầm mưa trải nắng, cùng mấy anh em thiếu niên cùng chia sớt đắng cay, hầu cho tiêu bớt nông nỗi đau thương, ăn không ngồi rồi.

Tôi sống cái đời nông phu cực nhọc trước sau được 8 tháng.

Nhưng trong 8 tháng đó, tôi thấy trong mình vui vẻ thơ thới lạ lùng. Lúc khát gặp có suối nước thì uống, lúc đói vớ được trái cây thì ăn, cái ngày giờ cảm khái vô liêu (buồn bã, không có thú vị) của tôi lúc này, chôn đứt ở trong cảnh sống ăn sương hút gió, kể cũng là 1 cách sống thú vị của anh tráng sĩ đang cơn túng thế cùng đường. Bởi vậy, tôi cho câu chuyện đáng ghi chép là phải.

Hồi này rảnh rang nhàn thích, tôi soạn ra được nhiều bài văn quốc ngữ. Nào truyện Lê Thái Tổ, nào truyện Trưng Nữ Vương. Nào là những khúc hát bài ca cổ võ tấm lòng yêu nước, yêu nòi, yêu giống. Tôi đem những bài ấy ra dạy cho những người ở trong sở ruộng học thuộc lòng, sớm tối họ thường nghêu ngao hát làm vui. Ấy là tôi muốn gieo hạt giống cách mạng ở giữa khoảng nước biếc non xanh vậy.

Tháng 10 năm ấy (Tân Hợi, 1911), Phan quân Bá Ngọc (Phan Bá Ngọc) ở Hương Cảng sang Xiêm, đem cái tin Võ Xương khởi nghĩa nói cho tôi nghẹe. Tôi lấy làm động tâm (xúc động) hết sức.

Hồi trước lúc tôi còn ở bên Nhật, từng có cơ hội kết giao với bọn lãnh tụ cách mạng Tàu như Hoàng Khắc Cường, Chương Thái Viêm. Lại cùng bọn Trương Kế và chí sĩ (người có tiết tháo và chí khí hơn người) các nước Triều Tiên, Nhật Bản, Ấn Ðộ và Phi Luật Tân, tổ chức ra hội "Ðông Á Ðồng Minh". Chúng tôi với họ cũng là 1 hạng người đau lòng mất nước, mong phục nghiệp xưa, tôn chỉ vốn là tương hợp. Nay nghe tin quân cách mạng Trung Hoa dấy lên, khiến tôi có cái cảm giác "tiếng đồng reo tiếng chuông ứng".
Nhân đó Bá Ngọc khuyên tôi nên trở về nước Tàụ. Tôi liền từ giả sở ruộng ở Xiêm mà đi.

*
Hạ tuần tháng 11 (1911), tới Hương Cảng, anh em đồng chí tản tác các nơi, giờ đều quần tụ lại đây.

Lúc này tôi viết ra 1 bài chính kiến, tựa là "Liên Á xổ ngôn", cốt bày tỏ kêu gào 2 nước Trung Hoa, Nhật Bản nên đấu sức cùng lòng, để sửa sang đại cuộc châu Á. Bài này truyền ra, những người kiến thức đều khen ngợi tán thành.

Song thời cuộc Ðông Á, đến nay, xoay đổi khác hẳn sự trông mong của mình lúc đó. Thế mới biết việc đời lý luận đi tới sự thật không phải là chuyện dễ dàng. Bọn mình hay ngồi nói ngông tưởng hão, chỉ tổ làm trò cười cho người ta đó thôi.

Mùa xuân năm Nhâm Tý (1912), nước Trung Hoa Dân Quốc được thành lập, cuộc cách mạng thế là xong xôi; tôi bèn đi Thượng Hải, tìm thăm người bạn hào hiệp quen nhau thuở trước là Trần quân Kỳ Mỹ (Trần Kỳ Mỹ).
Giữa lúc này, Trần Kỳ Mỹ đang là Ðốc quân Thượng Hải, giúp cho tôi 1 số tiền lớn. Lâu nay tôi khốn khổ về cảnh túng bấn nghèo nàn, không khác gì người hết gạo nhịn ăn lâu lắm rồi, bây giờ được Trần Kỳ Mỹ vác 1 số tiền lớn lao mà cho mình, khiến mình vui mừng yên ủi, vì lại có tiền để hoạt động.

Vừa gặp lúc Dân Đảng ỏ Quảng Ðông cũng thành công đắc chí, Hồ Hán Dân làm Ðô đốc, cùng với Cảnh sát cảnh trưởng Trần Cảnh Hoa, vốn tỏ ý đồng tình với đảng cách mạng nước ta, cho nên tôi nhân dịp lại đi Quảng Châu và định ở luôn tại đó.

Trung Hoa Dân Quốc dựng lên như có luồng gió tiếng vang, rung động tới nước mình nhiều. Dân khí ta lại phấn chấn đáo để. Những hạng chí khí lại rủ nhau bỏ nước mạo hiểm trốn ra ngoài, chân nối gót nhau tới Quảng Châu đông lắm.

Nhóm ông Liệt Sanh ở Nam Kỳ qua; bọn ông Hải Thần (Nguyễn Hải Thần) ở Bắc Kỳ tới; bọn Ðặng Tử Kính và Ðặng Hồng Phấn thì ở Xiêm sang. Cho tới mấy anh em học tốt nghiệp ở trường Lục quân Quảng Tây lớp nọ, nay cũng đồng thời kéo đến Quảng Châu để hội họp nhau. Chúng tôi có thuê 1 căn nhà ở ngoài thành để làm cơ quan, anh em tới ở đông quá, đến đỗi chật chỗ.

Ðảng viên xã hội Tàu ở Quảng Ðông là các ông Ðặng Cảnh Á và Lưu Sư Phục, cũng ra tay giúp sức đảng cách mạng VN mà vận động giùm với các giới. Chính phủ Quảng Ðông lúc bấy giờ vốn đã sẵn lòng ngó lơ cho ta, thành ra đảng ta tấn hành, mọi việc được thong thả tự nhiên, không bị trở ngăn lo ngại gì cả. Nhờ vậy mà đảng cách mạng ta có vẻ phấn khởi khá lắm.

Anh em đồng chí thấy vậy, đều khuyên nhủ thúc giục tôi nên thừa cơ hội này mà cử đồ đại sự. Sinh bình (lúc sống ở trên đời), tôi vốn ôm chủ nghĩa cấp khích nay lại được da số anh em đồng chí thúc hối tán thành, cho nên tôi càng quả quyết làm, vì đó mới có cái màn thất bại thê thảm lại diễn ra 1 lần thứ hai nữa.

17. Long Tế Quang bắt tôi hạ ngục :

Mồng 5 tháng 5 năm Nhâm Tý (1912), anh em trong đảng sửa sang tổ chức lại, thành ra hội "Việt Nam Quang Phục" (Việt Nam Quang Phục Hội hay Quang Phục Hội; cương lĩnh của đảng dựa trên Tam Dân. Chủ Nghĩa của Tôn Dật Tiên, người vừa thành công trong cuộc cách mạng Tân Hợi, 1911). Các đồng chí cử tôi giữ quyền tổng lý, Hoàng quân Trọng Mậu (Hoàng Trọng Mậu) thì làm bí thư.

Chúng tôi thảo ra thể lệ cách thức đạo quân Việt Nam Quang Phục, lại in ra phiếu quân dụng riêng cho Việt Nam Quang Phục quân dùng với nhau. Một mặt khác chúng tôi mượn in vô số sách vở văn bài cổ động, như là truyện "Hà thành Liệt sĩ" và bài văn khuyên bảo lính tập, rồi sai người chuyển vận về nước, rải phát tứ tung.

Tháng 2 năm Quý Sửu (1913), chúng tôi ủy ông Nguyễn Hải Thần làm chi bộ bộ trưởng hội Việt Nam Quang Phục ở Quế biên (giáp giới tỉnh Quế, tức Quảng Tây), ông Trần Văn Kiện làm chi bộ bộ trưởng ở Xiêm biên, còn ngả Ðiền biên (Ðiền là tên tắt của tỉnh Vân Nam) thì Ðổ quân Chơn Thiết (Ðổ Chơn Thiết) tự nguyện phụ trách. Chúng tôi bàn định lúc nào cử sự (khởi sự làm) thì cả 3 mặt cùng tiến, cho nên sự sắp đặt từ trước sẵn sàng, chỉ còn đợi ngày giờ đến thì làm việc.

Tuy vậy, lúc ấy đảng ta vẫn có một vấn đề khó nổi giải quyết, là vấn đề kinh tế.
Khó quá, kinh tế chưa được sung túc, mà đến khí giới quân lương cũng đều l ngại thiếu thốn nữa mới khổ. Nhưng nếu đừng có việc tai biến (tai họa và biến cố) gì xảy ra 1 cách bất ngờ, để chúng tôi còn có ngày giờ thì vấn đề dầu khó mặc lòng, họa may có thể trù tính xong được. Song chẳng may thuyền xuôi gió ngược, tai biến xảy ra không ngờ, làm cho toàn cuộc mưu tính của tôi hư hỏng tiêu tan như bọt nước bóng mây. Hán Võ Hầu (Gia Cát Khổng Minh) than rằng đời khó được như ý, thật đúng lắm thay !

Mùa hạ năm Quý Sửu (1913), ở tỉnh thành Quảng Ðông có việc quân lính nổi dậy gây biến, cốt đánh đổ Ðô đốc Trần Cảnh Hoa, làm cho Trần phải chạỵy. Long Tế Quang kéo binh tới, tự lãnh chức Ðô đốc Quảng Ðông. Thuở nay, họ Long với đảng cách mạng VN vẫn không quen biết nhau và không quan hệ liên lạc với nhau bao giờ. Ðã vậy mà Long lại là người thù ghét vây cánh Hồ Hán Dân và Trần Cảnh Hoa, chỉ muốn có dịp bài trừ cho tiệt. Thành ra đảng ta bị vạ lây; tôi phải ôm cái cảm khái thỏ chết chồn đau, vì Hồ - Trần thất bại, đảng ta không chỗ nương dựa ở Quảng Ðông nữa. Lúc đó tôi muốn bỏ đi nơi khác cho mau, nhưng vì có công việc của đảng còn ràng buộc, bỗng chốc thu xếp không kịp, tôi đành phải nấn ná ở lại. Nhưng cũng lo phòng thân, tôi lật đật viết thư lên Nguyễn Quân Ðĩnh Nam (Nguyễn Ðĩnh Nam; tức Nguyễn Thượng Hiền), cậy ông tìm cách vận động xin giùm tôi 1 hộ chiếu, để nữa tôi có đi đâu mới được.

Nguyễn quân vốn là người nhiệt tâm với nước. Sơ tuần tháng 7, ông tiếp được thư tôi, lập tức lấy được giấy hộ chiếu của Bộ ngoại giao Bắc Kinh gửi xuống cho tôi. Có tờ hộ chiếu nằm trong tay rồi, tôi bớt lo sợ. Vả lại các bạn đồng chí cùng ở Quảng Ðông với tôi lúc bấy giờ khá nhiều, nếu như đồng thời giải tán, muốn đi đâu cũng phải cần có phí khoản mà hiện tạ tiền bạc không có, thành ra chúng tôi đành chịu nấn ná ở lại đây với nhau, không tính đi đâu được. Cách không bao lâu, có tin báo rằng quan Toàn quyền Ðông Pháp sắp tới Quảng Ðông. Kế 1 tuần sau, thì các cơ quan hành sự của đảng ta đều bị khám xét và được lịnh giải tán. Tôi với yếu nhân của đảng là Mai quân (tức Mai Lão Bạng, 1 linh mục theo VN Phục Quốc Hội, chết năm 1942) cùng bị bắt hạ ngục. Nguyên trước, Hoàng quân Trọng Mậu (Hoàng Trọng Mậu) có việc đi Vân Nam và Phan quân Bá Ngọc (Phan Bá Ngọc) hồi xuống tàu đi Nhật Bản, đều căn dặn tôi nên liệu cơ mà từ giã Quảng Ðông kẻo nguy. Song tôi suy nghĩ các bạn đồng chí đang ở Quảng Ðông với mình vô số, mình không đành lòng nào lo riêng một mình. Vì đó mà tôi cứ do dự chần chờ, mới vương lấy tai ách bây giờ.

Ban đầu mới bị bắt, tôi vẫn tự nghĩ rằng mình không đến nỗi nào phải chết. Ðến lúc thấy cách thức người ta áp giải mình đi dọc đường, nào xiềng tay, nào trói chặt, dẫn vô tới gục thất, họ lại giam trong ngục thất chung 1 chỗ với bọn tù xử tử, bấy giờ tôi mới biết rằng Ðô đốc Long Tế Quang không đãi tôi là hạng tù chính trị, vậy thì ngày giờ tôi chết gần đến nơi rồi!

Từ khi xuất dương tới giờ, tôi được nếm mùi ở tù, lần này là lần thứ nhất. Nhưng Mai quân hơn tôi : lần này ông ta vào ngục là lần thứ 3 rồi. Vào ngục bữa đầu hết, tôi với Mai quân ở chung 1 sà lim. Ðêm hôm ấy, tôi đọc miệng 1 bài thơ an ủi Mai quân như vầy :

Phiêu bồng ngã bối các tha hương
Tân khổ thiên quân phận ngoại thường
Tính mạng kỷ hồi tần tử địa
Tu mi tam độ nhập linh dường
Kinh nhân sự nghiệp thiên đào chú
Bất thế phong vân đế* chủ trương
Giả sử tiền đồ tận di thản
Anh hùng hào kiệt giã dung thường

Ðại ý là :
Bơ vơ đất khách bác cùng tôi :
Riêng bác cay chua nếm đủ mùi.
Tính mạng bao phen gần chết hụt.
Mày râu ba lượt bị giam rồi !
Trời toan đại dụng nên rèn chí,
Chúa* giúp thành công tất có hồi
Nếu phải đường đời bằng phẳng hết ,
An hùng hào kiệt có hơn ai.


(* Vì Mai Lão Bạng là linh mục nên Phan Bội Châu mới có câu này).
Còn tôi thì tự an ủi mình bằng 1 bài thơ nôm như sau :
Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Ðã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Thân nọ vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiều nguy hiểm sợ gì đâu

Làm xong 2 bài thơ, tôi ngâm nga lớn tiếng rồi cả cười, vang động cả 4 vách, hầu như không biết thân mình đang bị nhốt trong ngục.

*

Qua ngày thứ nhì, người ta nhốt riêng tôi và Mai quân mỗi người ở cách biệt nhau một nới. Thế là từ hôm nay, tôi là thằng tù bơ vơ trơ trọi ở chốn tha hương khách địa.
Những nỗi khổ nhục ở trong khám, cố nhiên mình chẳng nên xót xa than thở làm gì. Duy có 1 điều đau đớn là mình phải cách trở anh em, tuyệt hẳn tin tức, mà ở trong ngục chỉ có 1 mình nói tiếng VN cho mình nghe thôi, luống nghĩ tự buồn rầu cho thân phận, rồi lại chạnh niềm nhớ tới công việc thất bại, khiến tôi phải đau lòng mà khóc, nước mắt tầm tã như mưa. Thật là từ lúc cha mẹ đẻ tôi ra đến nay chưa hề lúc nào biết mùi đau đớn như bây giờ. Mà từ lúc cha mẹ đẻ ra, tôi chưa hề nếm mùi đau đớn như vầy, đầu giây mối nhợ là vì cái chí tôi hoài bão từ 30 năm trước.

Cái chí tôi hoài bão ra thế nào?

Thì chỉ muốn đổ máu ra mà mua sự tự do, đánh đổi cái kiếp tôi tớ lấy quyền tự chủ đó thôi. Ôi ! Cái chí tôi hoài bão như thế, cứ lấy thiên chức quốc dân ta mà nói, có ai dám bảo rằng : không nên. Song ôm cái chí đó mà có làm thành việc lớn chăng, thì phải nhờ có bắp thịt cứng ra thế nào, học thức giỏi ra thế nào, thủ đoạn có tài thao túng (cầm nắm và buông thả ra) ra thế nào, thời thế có khéo xoay chuyển thế nào mới được. Ðằng này tôi tự hỏi lấy tôi, bất quá như anh mù cỡi ngựa đui vậy thôi. Bây giờ kết quả thất bại như thế này, chính vì tôi dở mà ra, con than trách gì nữa!

Tuy vậy, tôi nghĩ trong thế giới chẳng lẽ nào có 1 con nước hễ đã xuống rồi thì không bao giờ nó lại lên, chẳng lẽ nào có 1 cuộc đời hễ đã thành rồi thì không có lúc thay đổi; bởi vậy, cái cuộc thất bại của tôi tạo ra ngày nay, biết đâu không phải là cái phước cho quốc dân sau này?

Than ôi ! Dòng dõi Hùng vương chưa chết hết, chuyện cũ Lê hoàng còn mới hoài, phàm là quốc dân ta, ai hoài bão chí muốn như ta, tất có ngàn ta, muôn ta, ức triệu ta, nên lấy việc thất bại trước của một ta mà răn mình, để cho được trở nên những người năng y, không đợi tới 9 lần đứt tay mới hay thuốc!

Tôi lại nghĩ tôi là 1 người trong tay không có lấy 1 miếng sắt, trên mặt đất cũng không có lấy 1 chỗ nào đứng chân, chẳng qua mình chỉ là 1 thằng tay không chân trắng, sức yếu tài hèn, lại đòi vật lộn với hùm beo có nanh dài vuốt nhọn. Ai biết lòng mình thì than tiếc dùm mình mà nói:
Gan to!

Ai muốn bắt lỗi mình thì cả thể bảo mình :
Ngu quá !

Tóm lại, trong đời người thật không có ai ngu lạ như tôi. Nếu có phải tính mạng của tôi đến ngày hôm nay là ngày cùng rồi, khi tôi chết, người ta cứ đặt tên hèn cho tôi là Kỳ Ngu thì đúng lắm, không đổi được chữ nào khác hơn. Nhưng nếu muôn một mà tôi không chết, thì rồi sau thấy beo cọp há lại không thể đánh được ư? Xin quốc dân ta nên xem gương mà tự răn lấy mình.

Lịch ta ngày 25 tháng Chạp năm Quý Sửu (1913).
Sào Nam tử viết tập "Ngục Trung Thư này ở nhà ngục Quảng Châu, sau khi vào ngục được 3 ngày.


 Nguồn : www.vnthuquan.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Ngục Trung Thư
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến di sản văn hóa của Việt tộc. Phục hoạt nếp sống văn hiến để phục hồi nền An Lạc & Tự Chủ.


Trở lên đầu trang

Trở Lại Trang Mặt