Năm
Thứ 4889
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Nguồn gốc Việt (Nam)
của tên 12 con giáp - Măo/Mẹo/mèo
Nguyễn
Cung Thông
nguyencungthong@yahoo.com
Khi so sánh các con vật biểu tượng cho 12
con giáp, điểm khác biệt rơ nét nhất là người Việt
Nam ta dùng con mèo1ửa hé
mở khiến ta phải đặt lại vấn đề nguồn gốc tên gọi
12 con giáp, v́ nếu chúng từ TQ th́ khi nhập vào
các nước hay dân tộc nào đó th́ theo thói thường
hệ thống ‘12 con giáp nguyên thuỷ’ vẫn được duy
tŕ – như thỏ biểu tượng cho chi Măo chẳng hạn -
và nếu có thay đổi th́ không có là bao nhiêu như
gà so với gà trống, dê so với cừu/trừu, heo/lợn so
với heo rừng ...v.v... Giả sử chữ Măo 卯có nguồn
gốc tượng h́nh con mèo như chữ thố/thỏ 兔chẳng
hạn, th́ không ai chất vấn nguồn gốc tên gọi 12
con giáp (động vật) và thập nhị chi làm ǵ. Khi
truy nguyên giáp văn, kim văn và triện văn của chữ
Măo th́ thấy h́nh dạng của h́nh cửa mở hay hai mặt
trăng đối nhau (?) - xem thêm chi tiết trang này
(2003, cập nhật 2008, 2010 – tác giả
Richard Sears) cho chi Măo/Mẹo nhưng người Thái, Lào,
Khme, Nhật, Hàn, Trung Quốc/TQ ... đều dùng con
thỏ. Đây là một cánh c
http://www.chineseetymology.org/CharacterASP/
CharacterEtymology.
aspx?characterInput=
%E5%8D%AF&
submitButton1=Etymology -
Nguồn gốc chữ Măo chẳng dính líu ǵ đến
một loài vật nào, như thỏ chẳng hạn. Chúng ta hăy
nh́n lại vấn đề từ các góc độ khác nhau ngơ hầu có
thể nhận ra được phần nào nguồn gốc chính xác và
hợp lư hơn của Măo/Mẹo. Người viết sẽ tránh dùng
thuật ngữ Ngôn Ngữ Học để bài viết dễ đọc hơn. Một
điểm đáng ghi nhận ở đây là các thông tin trao đổi
trên mạng/Internet và bloggers cũng đáng chú ư:
như có khá nhiều trao đổi về chủ đề 12 con giáp và
loài vật tượng trưng cho chi Măo là thỏ và mèo,
bằng tiếng Anh, Việt, Pháp, Trung (Quốc) ... Tuy
rằng các dữ kiện trên mạng cũng cần phải được kiểm
chứng một cách nghiêm túc, người viết sẽ ghi lại
các nguồn để độc giả có cơ hội tra cứu thêm. Mạng
lưới (toàn cầu) càng ngày càng phổ biến và trở
thành một môi trường giáo dục quan trọng, cũng như
giải quyết một số vấn đề mà trước đây tốn rất
nhiều công sức. Cách đây gần 6 thập niên, học giả
Phan Khôi từng nhận xét '... Người Việt Nam
chúng ta về sau phải sang TQ ở lâu mà nghiên
cứu, may ra t́m được các dấu vết tương quan của
dân tộc ta với dân tộc TQ từ đời thượng cổ ...'
- trang 34, 'Việt Ngữ nghiên cứu' (NXB Đà
Nẵng, 1997). T́nh h́nh bây giờ khác nhiều so với
thời đại của cụ Phan Khôi.
1. Loài mèo được thuần
hoá sớm hơn loài thỏ
Các xương mèo và người khai quật
ở đảo Cyprus cho ta kết luận loài mèo đă sống
chung với loài người và có khả năng được thuần hoá
cách đây khoảng 9500 năm; So với loài thỏ th́ thời
kỳ thuần hoá (domestication) không rơ rệt, nhưng
ước đoán cách đây khoảng 3000 năm mà thôi. Điều
này cũng phù hợp với di chỉ t́m thấy ở Điền Viên
Động2 (Tianyuan cave 田园洞,
gần Bắc Kinh) gồm có xương người, sơn dương, khỉ,
nhím và mèo hoang (civet cat). Ngoài ra, bản tin
từ Tân Hoa Xă (Xinhua News Agency, ngày 22 tháng
Tám, 2006) trên mạng cho ta biết về các xương thú
t́m thấy sau khi bị chôn sống cách đây khoảng 1700
năm. Các xương thú vật t́m thấy gồm có mèo, chó,
heo, dê, trâu và trừu… Mèo c̣n rất thích hợp với
xă hội nông nghiệp v́ là loài động vật ăn thịt
(carnivore): nhà nông thường phải chứa (tồn kho)
các sản phẩm v́ thời tiết thay đổi bất thường, sau
đó các kho hàng hoá này hấp dẫn các loài chuột,
sâu bọ và ngay cả chim chóc cũng đến t́m lương
thực và quấy phá ... Đến nỗi nhà nông chúng ta
phải ra lời ta thán
Cái c̣ các vạc cái
nông
Sao mày dẵm lúa nhà
ông hỡi c̣
(ca dao)
Mèo đă đến như vị
cứu tinh để giải quyết vấn nạn trên; Khác hẳn với
loài thỏ chỉ ăn rau cải (herbivore) và phá hoại
mùa màng – như hiện nay, chính phủ Úc phải t́m các
phương pháp hoá học (như dùng thuốc độc) hay sinh
học (như cấy vi trùng bệnh) để kiểm soát dân số
loài thỏ - thay v́ săn bắn chúng một cách dă man.
Loài thỏ thuần hoá không thể tồn tại khi nhiệt độ
môi trường chung quanh lên trên 32oC,
so với loài mèo có thể sống sót với môi trường ở
nhiệt độ 52oC;
Thân nhiệt (body temperature) của mèo th́ từ 38oC
đến 39oC (so với con người vào khoảng
37.5oC)
tương thích với một xă hội nông nghiệp với khí hậu
ôn hoà, c̣n thỏ lại là nguồn thực phẩm có lượng
prôtêin cao cho xă hội du mục và săn bắn.
2.
Tư duy nông nghiệp tổng hợp và cụ thể qua ngôn
ngữ
Liên hệ Măo Mẹo và
mèo rất dễ hiểu: các âm này đều thuộc thanh vực
trầm3 (trọc) và nguyên âm e (của Mẹo
mèo) là dạng cổ hơn của nguyên âm a (của Măo) như
hè hạ (Hán Việt), xe xa, keo giao, vẽ hoạ, mè
(vừng) ma, chè trà, beo báo ...v.v... Tương quan
tự nhiên c̣n thể hiện qua cách dùng ḷng (bụng dạ)
- bộ phận thấp nhất trong cơ thể con người - thay
v́ tim hay năo bộ (óc): ḷng tốt hay tốt bụng (hảo
tâm HV), buộc ḷng, mất ḷng ... Khi nhập vào
tiếng Hán, ḷng trở thành đảm 膽:
theo GS Axel Schuessler4 th́ đảm 膽
có gốc phương Nam (Nam Á, Austroasiatic) và một
dạng âm cổ phục nguyên là *tlam?. Schuessler ghi
nhận âm cổ Bahna Bắc/ProtoNorthBahnar là
*klàm (gan/liver), tiền Việt-Mường/Proto
Viet-Muong *lɔ:m, Katuic *luam hay dạng khác hơn
với phụ âm đầu t- như tiền Palaunic/proto Palaunic
*kơntɔ:m (gan). Tra thêm các ngôn ngữ láng giềng
ta thấy klơm (gan, tiếng Kơho), tho-lom (gan,
tiếng Khme) so với L̉NG tiếng Việt gồm các bộ phận
như ruột, gan ... ‘Phật Thuyết Đại Báo Ân Trọng
Kinh’ c̣n dùng 'ḷng gan đều nát' (ḷng
chữ Nôm thường dùng lộng 弄,
làơ theo Việt Bồ La 1651) phản ánh tương
quan can đảm (Hán) và ḷng gan/ruột gan (Việt);
Ngoài ra cách dùng lơm súng (ḷng súng, ṇng
súng), lơm chuối, lơm cây (ḷng cây)... cho thấy
liên hệ trực tiếp giữa dạng L̉NG - LƠM, thật ra
khi phát âm L̉NG bây giờ - tiếng Việt luôn đóng
môi lại (môi hoá, như L̉NG) chứ không để môi mở
như các dạng LONG của tiếng Anh, Pháp … Tiếng
Mường (Bi) c̣n dùng ‘ḷm’ là gan: ‘ho
ưa ăn ḷm củi’ (tôi thích ăn gan heo). klơm
là gan (tiếng Biat), k'lơm (gan, tiếng Boloven)
...v.v...
Tóm lại, ta có cơ sở đề nghị
cấu trúc dạng cổ phục nguyên *tlam? hay *klam? đă
nhập vào tiếng Hán cho ra dạng đảm 膽.
Trường hợp âm cổ phương Nam *tlam?/klam? (ḷng,
một ḷng) trở thành đảm (can đảm, đảm lược ...)
khi nhập vào tiếng Hán không phải là hiếm, ta c̣n
có những trường hợp như *krong (sông) khi nhập vào
tiếng Hán trở thành *kong hay jiāng BK (giang HV),
...v.v...
Nh́n
rộng
ra hơn, tên 12 con giáp Tư Sửu Dần ... Măo ...
Tuất Hợi khi nhập vào tiếng Hán đă mất đi phần nào
ư nghĩa nguyên thuỷ của tên gọi các loài động vật
rất gần gũi với nhà nông. Không những thế, chúng
c̣n được tô son điểm phấn (Hán hoá) và rất khó
nhận ra các liên hệ cụ thể nguyên thuỷ: chúng trở
thành những khái niệm trừu tượng (được ‘nâng cấp’)
trong bói toán và cách ghi ngày tháng (kết hợp với
Thập Can); Đây cũng là một lợi thế của nhóm thống
trị có chữ viết sẵn (chữ Hán) và khả năng tổ chức.
Lợi thế của một hệ thống chữ viết có sẵn như chữ ô
vuông (chữ Hán) có thể là chỉ thêm một dấu phẩy
nhỏ mà nghĩa lại đổi hẳn đi. Thí dụ như chữ quốc5
chẳng hạn, một dạng chữ quốc 囯
cổ đại viết bằng bộ vi 囗 hợp với chữ vương
王
hàm ư lănh thổ có giới hạn/biên giới và có vua
đứng đầu, tuy nhiên khi thêm một dấu phẩy nhỏ vào
bên phải chữ vương th́ vương 王
lại trở thành ngọc 玉. Chữ quốc cổ đại
囯 với
chữ vương - phản ánh chế độ vua chúa phong kiến -
nay đă thay bằng chữ quốc với chữ ngọc 国 hàm ư
lănh thổ (bộ vi) chứa những tài sản quư báu (như
dân chúng, ngọc ngà châu báu/đất đai ...). Chữ
quốc với chữ ngọc 国 cũng là loại chữ
giản thể rất thông dụng hiện nay. Hiện tượng 'thay
đổi chữ viết' một cách thâm thuư6 trên
có thể giải thích được chữ thố/thỏ 兔
đă dùng thay cho chữ miễn/*măn/ văn 免
- âm *măn đă từng có nghĩa là mèo trong tiếng Việt7.
Sự lẫn lộn8 giữa mèo và thỏ c̣n thấy
trong cách dùng dă miêu 野猫 để chỉ loài thỏ
hoang (wild rabbit)9 và mèo hoang trong
văn hoá TQ và đáng được đào sâu hơn.
3.
Lẫn lộn giữa các loài mèo và thỏ … trong văn hoá
TQ
Thố tôn 兔
猻 (thỏ tôn) là loài
mèo hoang đang từ từ biến mất: loài thú này ở
Trung Á, Tây Bá Lợi Á, Kashmir, Nepal, Thanh Hải ,
Nội Mông Cổ , Hà Bắc , Tứ Xuyên , Tây Tạng , Tân
Cương ... Thố tôn hay Xá Lị tôn 猞 猁 孫
: tiếng Anh c̣n dùng cụm từ Steppe cat và
chúng hay sống trong các khu sa mạc. Khi người Hán
tràn xuống phía Nam và Tây, ta thấy hiện tượng lẫn
lộn ‘trông/nh́n mèo ra thỏ’ (trông gà hoá cuốc)
như cách gọi Thố tôn này: các lẫn lộn trên giải
thích được phần nào tại sao chi thứ tư Măo Mẹo
liên hệ đến mèo chứ không phải là thỏ từ nguyên
thuỷ. H́nh sau trích từ trang mạng Bách Khoa TQ
http://zh.wikipedia.org/
wiki/%E5%85%94%E7%8C%BB
hay xem thêm http://baike.baidu.com/view/39824.htm
Thố
tôn 兔狲
Thỏ và Mèo
Thố tôn c̣n được gọi
là dương xá lị 洋猞猁, ô luân 烏倫,
mă năo 瑪 瑙, mă năo tặc 瑪瑙勒
Xá
lị
猞猁
là loài mèo hoang (lynx).
Miêu
là từ HV nghĩa là mèo, nhưng nghĩa Hán cổ đại của
miêu là loài hổ ít lông chứ không phải là mèo; Dữ
kiện này hỗ trợ cho khả năng Măo 卯
chỉ là một cách kư âm của một tiếng nước ngoài
(tiếng Việt cổ) nhập vào tiếng Hán. Đây
là
định
nghĩa của miêu
【 爾雅 ·
釋 獸】 虎竊毛, 謂之虦貓
【Nhĩ
Nhă·Thích
Thú】
hổ thiết mao,vị chi sạn miêu
Sạn/sàn 虦
theo Ngọc Thiên cũng là mèo. Sạn/sàn虦 c̣n viết là 虥
(chữ hiếm - tần số dùng là 11 trên 237243358) chỉ
loài mèo hoang có vằn.
Thố/thỏ 鵵
hay 𨿮
nghĩa cổ là một loài chim
Văn hay *măn 梚 (chữ
hiếm) chỉ một loài cây theo cổ thư TQ; Nhưng giọng
Hẹ lại đọc là t'u2 (như âm thổ) - so
với hai âm măn (mèo) và thố/thỏ.…
4.
Các
cách giải thích khác nhau
Để hiểu tại sao
người Việt lại dùng mèo cho chi Măo 卯,
một cách giải thích thường gặp10 trong
tài liệu TQ là âm Măo khi nhập vào tiếng Việt đọc
giống như mèo hay miêu HV nên người Việt dùng mèo
làm biểu tượng thay v́ thỏ. Điều này không hợp lư
v́ các lư do sau
3.1 Mèo là แมว maew (tiếng
Thái), maaw (Lào) ... nhưng thỏ lại là
loài vật biểu tượng cho chi Măo ở Thái, Lào! Điều
lầm lẫn giữa Măo và mèo lại càng rất khó xẩy ra
khi đất Giao Chỉ có những liên hệ rất gần với các
triều đại phương Bắc (Hán ... Đường) so với các
dân tộc khác ở phía tây Giao Chỉ.
3.2 Nếu mèo đọc
gần như Măo và được dùng làm loài vật
tượng trưng cho chi thứ tư này, rất khó giải thích
tại sao nga (ngỗng trời ... c̣ biển) gần
gũi với dân ta (đánh cá, gần biển ...), đọc gần
giống âm cổ *ngwa của Ngọ 午,
lại không là loài vật biểu tượng cho chi Ngọ? C̣n
âm cổ Mùi (Vị) 未 của chi thứ tám
đọc gần với âm muỗi, tại sao người Việt
lại dùng dê chứ không là muỗi ... và c̣n nhiều các
âm giống khác nữa ....v.v... Ngoài ra, tuy chữ Nôm
c̣n quá ‘trẻ’ để phân tích liên hệ ngữ âm của tên
gọi 12 con giáp, nhưng cũng có vài điểm đáng chú ư
là mèo
(cũng như meo)
thường dùng chữ miêu 貓 HV như
'Lẻo
lẻo
doành xanh con mắt mèo' (Bạch Vân Thi Tập,
Nguyễn Bỉnh Khiêm 1491-1585)
Nhưng
méo
th́ chữ Nôm dùng Măo 卯 (có khi
cộng thêm dấy nháy)
'Tṛn
tṛn
méo
méo
in đ̣i thuở’ (Hồng Đức Quốc âm Thi Tập, soạn
bởi quần thần và Lê Thánh Tông 1442-1497).
Do
đó, hai âm Măo
và mèo
đă có sự phân biệt ít nhất từ thời nhà Lê, và xác
suất nhầm lẫn giữa Măo11 (âm Hán trung
cổ, nhập ngược vào VN khoảng từ thời Đường
Tống) và mèo (âm thượng cổ) trong tiếng Việt rất
nhỏ!
3.3 Khuynh hướng tổng
quát và tự nhiên của chữ viết loài người
tiến hoá từ cụ thể và đơn giản đến trừu tượng12.
Thí dụ như tên gọi các loài vật được dùng với
nghĩa mở rộng hơn, trừu tượng hơn như mặt chuột
(so với mặt rồng), thân trâu ngựa, ăn như mèo
ngửi, tính t́nh như rắn rít ... Thành ra, suy luận
từ âm Măo cho ra mèo th́ không phù hợp với khuynh
hướng tự nhiên; Đáng lẽ là từ mèo (loài vật, cụ
thể) cho ra âm Măo (hệ thống ghi thời gian, trừu
tượng, bói toán/số mệnh) mới hợp lư hơn. Hệ thống
gọi tên các con vật cụ thể (đơn giản) và rất gần
gũi với nhà nông khi nhập vào văn hoá Hán đă trở
thành hệ thống ghi nhận thời gian, bói toán (trừu
tượng, phức tạp); Hệ thống 12 con giáp này cùng
khởi sắc khi văn hoá Hán phát triển cực mạnh (Tần,
Hán ... Đường, Tống ...) và ảnh hưởng đến các khu
vực chung quanh, đây lại là hiện tượng nhập
ngược mà ít người ư thức được trong trường
hợp Việt Nam.
3.4 Có những cách
giải thích không có cơ sở khoa học, đầy
cảm tính như sự thay đổi giữa mèo và thỏ là sự
xuyên tạc sự thật13 , hoặc dựa vào
những ‘huyền thoại’ không thể kiểm chứng khách
quan được: người viết chỉ ghi nhận vắn tắt ở đây
mà thôi.
Từ những góc độ nh́n khác nhau như
trên, ta thấy khả năng nguồn gốc tên gọi 12 con
giáp có thể đến từ tiếng Việt cổ. Thật ra th́
người Việt chúng ta không cần phải lư giải tương
quan rất tự nhiên giữa Măo Mẹo và mèo, cũng như Tư
chút *chuốt chuột, Ngọ ngựa, Hợi *Gỏi cúi (heo),
Sửu *tlu trâu ... Người Việt không phải dùng các
từ ghép so với văn hoá TQ như Măo Thố 卯兔
, Tư Thử 子鼠, Sửu Ngưu 丑 牛để giúp ta nhớ đến
tương quan Măo mèo, Tư chuột, Sửu tlu/trâu .....
Chính các ngôn ngữ hay dân tộc nào dùng thỏ thay
v́ mèo cho chi Măo/ Mẹo mới cần phải giải thích sự
khác biệt này: đây là sự vay mượn hay cố t́nh thay
đổi? …. Không phải là hoàn toàn nghịch lư khi tổ
tiên c̣n dặn ḍ con cháu rằng
Trăm năm bia đá th́
ṃn
Ngàn năm bia miệng
vẫn c̣n trơ trơ
5.
Phụ chú và phê b́nh thêm
Để cho liên tục,
người đọc có thể xem thêm các bài viết về chi Măo
(hai bài trước số thứ tự là phần 4, 4A) chủ đề
"Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp" trên
trang mạng khoahoc.net, dunglac.com ... của cùng
một tác giả (Nguyễn Cung Thông), hay lên google và
đánh tên nguyencungthong th́ sẽ có loạt bài liên
hệ đă đăng ớ các địa chỉ/website khác nhau. Ngoài
hiện tượng đổi chữ (dùng dấu phẩy chẳng hạn), lẫn
lộn (mèo thành thỏ), chúng ta cũng nên để ư đến
hiện tượng nhập ngược (Măo nhập ngược vào ngôn ngữ
Việt với dạng cổ mèo đă hiện diện). Hiện tượng
nhập ngược lại (back-loan) trong quá tŕnh giao
lưu văn hoá như Bụt-Phật, tên 12 con giáp (gốc
Việt cổ) trong tiếng Việt không phải là hiếm -
nhất là khi các dân tộc sống gần nhau qua một thời
gian rất dài; Một thí dụ gần đây hơn và thường
được nhắc đến đă xẩy ra vào thế kỷ 20 khi Nhật Bản
du nhập văn minh Tây phương và dùng một số từ gốc
Hán, sau đó các từ này nhập ngược lại tiếng Hán và
sau đó nhập vào tiếng Việt
Xí nghiệp
(HV) 企業
qi4 ye4 (Bắc Kinh) kigyō
(Nhật)
Điện
tử 電子
dian4 zi3
denshi
Nguyên
tử 原子
yuan2 zi3 genshi
Trang mạng Việt Nam Văn
Hiến
Trang
: Nguồn Gốc Việt
cuả 12 con giáp - Măo/Mèo/Mẹo
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email:
thuky@vietnamvanhien.org
Trang mạng Việt Nam Văn
Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc. Thắp
sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến hầu phục
hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.
|