Tác Giả
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888)
Nguyễn Đình Chiểu
Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia
Bước tới
điều hướngBước tới
tìm kiếm
Nguyễn Đình
Chiểu (chữ Hán: 阮廷炤; 1822–1888),
tục gọi là Đồ Chiểu (khi
dạy học), tự Mạnh Trạch,
hiệu Trọng Phủ, Hối
Trai (sau khi bị mù)
là một nhà thơ lớn của miền Nam Việt
Nam trong nửa cuối thế kỷ 19[1].
Thân thế và sự
nghiệp
Nguyễn Đình Chiểu
sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ (1 tháng 7 năm 1822),
tại quê mẹ là làng Tân Thới [2], phủ Tân Bình,
huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (thuộc
phường Cầu Kho, Quận
1, Thành phố Hồ
Chí Minh ngày nay).
Ông xuất thân
trong gia đình nhà nho. Cha ông là Nguyễn Đình
Huy, người làng Bồ Điền, xã Phong An [3], huyện Phong
Điền, tỉnh Thừa Thiên;
nay thuộc huyện Phong
Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Lớn lên, ông cưới vợ ở đây và đã có hai con
(một trai và một gái). Mùa
hạ, tháng 5 năm Canh Thìn (1820)
Tả quân Lê Văn Duyệt được
triều đình Huế phái
vào làm Tổng trấn Gia Định Thành.
Đến đầu mùa thu, Nguyễn Đình Huy đi theo
Tả quân, để tiếp tục làm thư lại ở Văn hàn ty
thuộc dinh Tổng trấn. Ở Gia Định, ông Huy có thêm người
vợ thứ là bà Trương Thị Thiệt, người làng Tân
Thới, sinh ra bảy con (4 trai, 3 gái) và
Nguyễn Đình Chiểu chính là con đầu lòng.
Đi học
Thuở bé, Nguyễn
Đình Chiểu được mẹ nuôi dạy. Năm lên 6, 7
tuổi, ông theo học với một ông thầy đồ ở
làng.
Năm 1832,
Tả quân Lê Văn Duyệt mất. Năm sau (1833),
con nuôi Tả quân là Lê Văn Khôi, vì bất mãn đã làm
cuộc nổi dậy chiếm thành Phiên An ở Gia Định,
rồi chiếm cả Nam
Kỳ. Trong cơn binh biến, cha của Nguyễn
Đình Chiểu bỏ trốn ra Huế,
nên bị cách hết chức tước. Song vì thương con,
cha ông lén trở vào Nam, đem ông ra gửi cho
một người bạn đang làm Thái phó ở Huế để
tiếp tục việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống ở
Huế từ 11 tuổi (1833)
đến 18 tuổi (1840),
thì trở về Gia Định.
Năm Quý Mão (1843),
ông đỗ Tú tài ở
trường thi Gia Định lúc 21
tuổi. Khi ấy, có một nhà họ Võ hứa gả con gái
cho ông [4].
Năm 1847,
ông ra Huế học
để chờ khoa thi năm Kỷ
Dậu (1849)[4]. Lần
này, ông cùng đi với em trai là Nguyễn Đình
Tựu (10 tuổi).
Mẹ
mất, bị mù lòa
Ngày rằm tháng 11 năm Mậu Thân (31 tháng
12 năm 1848),
mẹ Nguyễn Đình Chiểu mất ở Gia Định.
Được tin, ông bỏ thi, dẫn em theo đường bộ trở
về Nam chịu tang mẹ.
Trên đường trở về,
vì quá thương khóc mẹ, vì vất vả và thời tiết
thất thường, nên đến Quảng Nam thì
Nguyễn Đình Chiểu bị ốm nặng. Trong thời gian
nghỉ chữa bệnh ở nhà một thầy thuốc vốn dòng
dõi Ngự y, tuy bệnh không hết, nhưng ông cũng
đã học được nghề thuốc. Lâm cảnh mù mắt, hôn
thê bội ước, cửa nhà sa sút... Nguyễn Đình
Chiểu đóng cửa chịu tang mẹ cho đến năm 1851,
thì mở trường dạy học và làm thuốc ở Bình Vi (Gia Định).
Truyện thơ Lục
Vân Tiên (SGK ngữ
văn 9) của ông có lẽ
được bắt đầu sáng tác vào thời gian này [5].
Năm 1854,
Nguyễn Đình Chiểu cưới Lê Thị Điền (1835-1886,
người làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc, trước thuộc Gia Định;
nay thuộc tỉnh Long An) làm vợ. Bà Điền là em
gái thứ năm của Lê Tăng Quýnh, học trò ông, vì
cảm phục và mến thương thầy, đã xin gia đình
tác hợp. Truyện thơ Dương
Từ-Hà Mậu của ông có
lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này [5].
Dạy
học, làm thuốc và sáng tác thơ văn yêu nước
Năm 1858,
quân Pháp nổ
súng vào Đà Nẵng. Vấp phải sự kháng cự
quyết liệt của quân và dân Việt, họ vào Nam
đánh phá thành Gia Định vào
đầu năm 1859.
Sau khi tòa thành này thất thủ (17 tháng 2 năm 1859),
Nguyễn Đình Chiểu đưa gia đình về sống ở Thanh
Ba (Cần Giuộc), tức quê vợ ông. Vô
cùng đau đớn trước thảm cảnh mà quân Pháp đã
gây nên cho đồng bào ông, và rất thất vọng về
sự hèn yếu, bất lực của triều đình, ông làm
bài thơ "Chạy giặc"[6].
Đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu (16 tháng 12 năm 1861) [7], những
nghĩa sĩ mà trước đây vốn là nông dân, vì quá
căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã quả cảm tập kích đồn
Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số
quân của đối phương và viên tri huyện người
Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười
lăm nghĩa sĩ bỏ mình[8]. Những
tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn
trong nhân dân. Theo yêu cầu của Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang,
Nguyễn Đình Chiểu làm bài "Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc", để đọc tại buổi truy điệu
các nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận đánh này.
Sau Hòa ước Nhâm
Tuất 1862, ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ mất
về tay Pháp, theo phong trào "tỵ địa" [9],
Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình rời Thanh Ba
(Cần Giuộc) về Ba Tri (Bến Tre), vì không thể
sống chung với họ. Chia tay với bạn bè thân
quen, ông làm bài thơ "Từ biệt cố nhân".
Về Ba
Tri, ông tiếp tục dạy học, làm thuốc và
đem ngòi bút yêu nước của mình ra phục vụ cuộc
đấu tranh anh dũng của đồng bào Nam Kỳ suốt
trong hơn 20 năm, dù đã mù lòa [10].
Năm 1863,
em trai út ông là Nguyễn Đình Huân theo Đốc
binh Là chống Pháp, hy sinh ở Cần Giuộc.
Tháng 8 năm 1864,
thủ lĩnh cuộc kháng chiến chống Pháp ở Gò Công là Trương Định bị
thương rồi tuẫn tiết ở Ao Dinh; xúc động,
Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế và mười hai
bài thơ liên hoàn để điếu ông.
Năm 1867,
Kinh lược sứ Phan Thanh Giản và
Đốc học Vĩnh Long Nguyễn Thông tổ
chức đưa di hài nhà giáo Võ Trường Toản từ
làng Hòa Hưng (Gia Định) về táng ở Bảo Thạnh (Ba
Tri), Nguyễn Đình Chiểu có đến dự lễ
rước.
Ngày 4 tháng 8 năm
đó (1867),
Phan Thanh Giản tuẫn tiết vì không giữ được
thành Vĩnh Long, Nguyễn Đình Chiểu có làm hai
bài thơ điếu ông. Có thể ông bắt đầu soạn
quyển thơ Ngư tiều vấn
đáp nho y diễn ca trong
năm này.
Năm 1868,
thủ lĩnh kháng Pháp ở Ba Tri là Phan Tòng (còn
có tên là Phan Ngọc Tòng)
hy sinh, ông làm 10 bài thơ điếu.
Năm 1877,
Nguyễn Đình Chiểu dời đến ở làng An Bình Đông
(sau đổi là An Đức) cách chợ Ba Tri khoảng hai
cây số[11]
Năm 1883,
Tỉnh trưởng Bến Tre là
Michel Ponchon đã đến nhà để yêu cầu ông nhuận
chính quyển thơ Lục Vân Tiên, đồng thời ngỏ ý
trao trả lại ruộng vườn của ông mà họ đã chiếm
đoạt [12]. Ông
khẳng khái nói: "Đất vua không ai trả thì đất
riêng của tôi có sá gì", rồi khước từ mọi hứa
hẹn giúp đỡ của chính quyền thực dân. Lại hỏi
ý muốn riêng của ông, ông đáp "muốn tế vong
hồn nghĩa sĩ Lục tỉnh", và được viên Tỉnh
trưởng chấp thuận. Sau đó, ông tổ chức lễ tế
tại chợ Ba Tri, và đọc bài "Văn tế nghĩa sĩ
trận vong Lục tỉnh" [13].
Qua đời
Năm 1886,
vợ ông là bà Lê Thị Điền mất lúc 51 tuổi. Buồn
rầu vì vợ mất, vì cảnh nước mất nhà tan đã bấy
lâu, vì bệnh tật ngày càng trầm trọng [14], hai
năm sau, ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý (3 tháng 7 năm 1888),
Nguyễn Đình Chiểu cũng qua đời tại Ba Tri, thọ
66 tuổi. Ngày đưa tiễn nhà thơ Nguyễn Đình
Chiểu về cõi vĩnh hằng, cánh đồng An Đức rợp
trắng khăn tang của những người mến mộ ông [15].
Ông được an táng
cạnh mộ vợ, nay thuộc ấp 3, xã An Đức, huyện Ba
Tri, tỉnh Bến Tre [16].
Tác
phẩm chính
- Lục
Vân Tiên (truyện
thơ Nôm, bắt đầu soạn khoảng 1851),
gồm 2082 câu thơ lục
bát. Đây là một "bản trường ca ca ngợi
chính nghĩa, những đạo đức đáng quý đáng
trọng ở đời" đã làm nên tên tuổi Nguyễn Đình
Chiểu [17], và
là một tác phẩm lớn của văn
học Việt Nam, được nhân dân, đặc biệt
là nhân dân Nam Bộ yêu
chuộng [15].
Sau thời gian phổ biến theo lối truyền
miệng, truyện Lục Vân Tiên đã được Duy Minh
Thị (tên thật là Trần Quang Quang ở Chợ Lớn)
khắc in lần đầu ở Trung Quốc trước
năm 1864,
và đã được các nhà văn như Aubaret, Abel de
Michels, Bajot...dịch ra tiếng nước ngoài [18]
- Dương Từ – Hà Mậu (truyện
thơ Nôm, bắt đầu soạn khoảng 1854).
Căn cứ bản Tân Việt (Sài
Gòn, 1964)
do Phan
Văn Hùm sao lục và
hiệu đính, thì tập thơ gồm 3.456 câu, trong
đó phần lớn là thơ lục bát, có xen thơ luật Đường (33
bài) và các thể khác...[19].
Tác giả mượn câu chuyện này để nói lên thái
độ của ông đối với đạo Phật và Công
giáo Rôma mà ông
không tán thành [20].
- Ngư
Tiều vấn đáp nho y diễn ca (Ngư
tiều y thuật vấn đáp, 1867?),
gồm 3.642 câu, trong đó phần lớn là thơ lục
bát, có xen 21 bài thơ và một số bài thơ ca,
phú…trích từ các sách thuốc Trung Quốc [21].
Đây là một quyển sách dạy nghề làm thuốc
chữa bệnh, viết dưới hình thức truyện thơ
Nôm. Song giá trị chủ yếu ở việc tác giả đã
lồng tư tưởng yêu nước vào nội dung y thuật [22].
Ngoài ra, ông còn
để lại khoảng 37 bài thơ và văn tế, trong số
đó có nhiều bài nổi tiếng, như:
- Chạy giặc (1859)
- Từ biệt
cố nhân (1859)
- Tế Cần
Giuộc sĩ dân trận vong văn (tức Văn
tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, 1861)
- Mười hai
bài thơ và bài văn tế Tướng quân Trương
Định (1864)
- Thơ điếu
Đông các Đại học sĩ Phan Thanh Giản (2
bài, 1867)
- Mười bài
thơ điếu Ba Tri Đốc binh Phan Tòng (1868)
- Lục tỉnh
sĩ dân trận vong văn (Văn
tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, chưa biết
đích xác thời điểm sáng tác)[23].
- Hịch kêu
gọi nghĩa binh đánh Tây (chưa
xác định thời điểm sáng tác)
- Thảo thử
hịch (Hịch đánh chuột, chưa xác định thời
điểm sáng tác)
- Ngóng gió
đông (chưa xác định
thời điểm sáng tác)
- Thà đui (chưa
xác định thời điểm sáng tác), v.v...
Sự nghiệp văn
chương
Nguyễn Đình Chiểu
là một nhà nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa,
tuy mang tật mù lòa, và gặp lúc biến loạn mà
vẫn giữ được phẩm cách thanh cao. Ông không
chỉ là người con có hiếu, người thầy thuốc mẫu
mực, mà còn là một nhà thơ yêu nước, đã để lại
nhiều tác phẩm có giá trị.
Ông là nhà thơ có
quan niệm văn chương nhất quán. Ông chủ trương
dùng văn chương biểu hiện đạo lý và chiến đấu
cho sự nghiệp chính nghĩa. Nói khác hơn, ông
làm thơ là để "chở đạo, sửa đời và dạy người"[24] Vì
vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen chê
công bằng, rạch ròi, và đều bộc lộ một tấm
lòng thương dân, yêu nước của ông.
Sự nghiệp văn
chương của ông, có thể chia thành hai thời kỳ
sáng tác:
- -Giai đoạn đầu (những
năm 50 của thế kỷ 19): Trong giai đoạn
này, ông viết "Lục Vân Tiên" và "Dương Từ-Hà
Mậu". Có thể xem đây là thời kỳ khẳng định
tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng yêu nước yêu
dân của ông.
- -Giai đoạn sau bắt
đầu từ ngày quân Pháp đến chiếm lấy Gia
Định (1859)
cho đến khi ông qua đời (1888):
Ngòi bút của ông ở giai đoạn này gắn bó mật
thiết với cuộc sống của người dân mất nước.
Trong nhiều tác phẩm như "Chạy Giặc", "Văn
tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", "Lục tỉnh sĩ dân
trận vong", v.v,...ông đã lên án mạnh mẽ
quân Pháp xâm lược, phê phán triều đình nhu
nhược, đồng thời ca ngợi tinh thần nghĩa khí
và những tấm gương chiến đấu anh dũng của
nhân dân. Đây là giai đoạn phát triển cao và
rực rỡ của sự nghiệp văn chương Nguyễn Đình
Chiểu Lỗi chú thích: Không
có
</ref> để
đóng thẻ <ref> .
So với các trước
tác của các nhà văn cùng thời, Nguyễn Đình
Chiểu đã có một thái độ tích cực hơn, vì dân
vì nước hơn. Tuy không đứng vào hàng ngũ cầm
khí giới, nhưng ông rất có cảm tình với họ,
chia sẻ với họ cái hờn mất nước, lòng căm ghét
quân địch và bọn hợp tác...[25].
Giai
thoại
Mộ
Nguyễn Đình Chiểu (trái), mộ vợ ông
(phải), phía xa là mộ Sương
Nguyệt Anh và đền
thờ của ông
Thực dân Pháp cho Tôn Thọ Tường,
là bạn của Đồ Chiểu đến dụ dỗ ông. Đến mấy
lần, nhưng lần nào đều bị Đồ Chiểu tìm cớ lánh
mặt, Sau Tường gửi tặng hủ mắm cá lóc, mà
Tường nói rõ trong thư là chính tay của vợ
mình làm, để biếu bạn xưa. Sau khi ăn gần hết,
Đồ Chiểu mới phát hiện ở dưới đáy hũ có mấy
nén vàng, ông vô cùng tức giận, viết thư trách
Tôn Thọ Tường và sai người trả lại vàng.
Michel Ponchon,
tỉnh trưởng tỉnh Bến Tre cũng đã
mấy lần thân hành đến nhà Đồ Chiểu. Có lần lấy
cớ nhờ nhuận sắc bản Lục
Vân Tiên, nhưng ông giả vờ điếc đặc. Có
lần viên quan này thông báo việc trả lại ruộng
đất ở Tân Thới (Gia Định) cho Đồ Chiểu, nhưng
nhận được câu trả lời: "Đất vua còn phải bỏ,
thì đất tôi sá gì!". Lần khác, M. Ponchon đặt
ra vấn đề cấp dưỡng, Đồ Chiểu nói: "Tôi đây
đang sống đầy đủ trong sự tôn kính của các môn
đệ và sự quý mến của đồng bào. Điều đó đã làm
tôi thỏa mãn lắm rồi"...Duy nhất có một lần,
M. Ponchon hỏi Đồ Chiểu về một ước nguyện. Đồ
Chiểu nói chỉ mong ước chính phủ Pháp cho ông
tổ chức một buổi lễ tế vong hồn những người
dân đã chết trận, và đã được viên quan này
đồng ý. Hôm đó, tại chợ Đập (nay là chợ Ba
Tri), nghe Đồ Chiểu đọc bài văn tế thảm thiết,
đông đảo mọi người đến dự đều không cầm được
nước mắt...[26].
Thông
tin liên quan
- Nguyễn Đình
Chiểu có tất cả là ba người con trai và ba
người con gái. Trong số ấy có nữ sĩ Sương
Nguyệt Anh (con gái
thứ năm)[27] và
Nguyễn Đình Chiêm (con trai thứ sáu) đều là
người có tiếng trong giới văn chương.
- Toàn thể khu
đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu tại huyện Ba Tri (Bến
Tre) đã được Bộ Văn hóa Thông tin công
nhận di tích Lịch sử
Văn hóa ngày 16
tháng 3 năm 1993.
Vinh danh
- Trong thời
kỳ chiến
tranh Việt Nam, vào năm 1965 Hội
Văn nghệ Giải phóng Miền Nam đã
lập ra Giải
thưởng Nguyễn Đình Chiểu dành
tặng cho các tác giả, tác phẩm nổi bật trong
lĩnh vực văn học, nghệ thuật ở miền
Nam.
- Nhiều tên
đường tại các thành phố (Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt v.v.) và
tên trường học (nhất là các trường dành cho
trẻ em khuyết tật) ở Việt Nam mang tên ông.
Tên
đường phố
Cuối năm 1945,
chính quyền Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa của Mặt
trận Việt Minh đã
cho đổi tên đường mang tên người Pháp trước
đây thành đường phố mang tên danh nhân người
Việt Nam, trong đó có phố Nguyễn Đình Chiểu ở
thành phố Hà
Nội (nay là phố Phủ
Doãn) và ở thành phố Hải Phòng (nay
là phố Tôn Thất Thuyết). Tuy nhiên, sau khi
thực dân Pháp chiếm lại được các thành phố này
vào cuối năm 1946 thì
tên phố Nguyễn Đình Chiểu cũng bị mất đi và
trở lại bằng các tên đường mang tên người Pháp
như cũ.
Sau đó, chính
quyền Quốc gia Việt
Nam do Bảo Đại đứng
đầu vốn trực thuộc khối Liên hiệp Pháp cũng
cho đặt tên đường phố mang tên Nguyễn Đình
Chiểu tại các thành phố này trên cơ sở một lần
nữa xóa bỏ tên đường mang tên người Pháp cũ.
Cụ thể, từ đầu năm 1951 tại
thành phố Hà
Nội lại có phố Nguyễn
Đình Chiểu tại khu vực làng Ngũ Xã cũ nằm ven
bờ hồ Trúc Bạch; đến năm 1954 tới
lượt thành phố Hải Phòng cũng
cho đổi tên ngõ Đồng Lùn cũ thành ngõ Nguyễn
Đình Chiểu. Tuy nhiên, sau đó ở Hải
Phòng ngõ này đã đổi
lại tên cũ thành ngõ Đồng Lùn cho đến nay; và
tại Hà
Nội đến năm 1964 trên
cơ sở cho rằng con phố Nguyễn Đình Chiểu ngắn
và nhỏ như vậy hoàn toàn không phù hợp với
công lao to lớn của ông đối với đất nước,
chính quyền Hà
Nội lại cho đổi tên
phố Nguyễn Đình Chiểu cũ thành phố Nam Tràng
và giữ nguyên cho đến ngày nay; còn phố số 296
vốn chưa có tên nằm ven hồ Bảy Mẫu thì cho đặt
tên là phố Nguyễn Đình Chiểu.
Từ năm 1950,
tại vùng Hòa Hưng, Sài Gòn đã có một con đường
nhỏ mang tên đường Nguyễn Đình Chiểu. Đến năm 1955,
chính quyền Sài Gòn đổi tên thành đường Hòa
Hưng cho đến ngày nay.
Ở Thành phố Hồ
Chí Minh trước năm 1975 (lúc
đó bao gồm Đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định)
có tới hai con đường mang tên Nguyễn Đình
Chiểu:
- Tại Đô thành
Sài Gòn cũ, từ ngày 22 tháng 3 năm 1955 đường
Nguyễn Đình Chiểu được đặt tên cho một con
đường khá nhỏ ở vùng Tân Định, đi ngang qua
Viện Pasteur, nối từ đường Hai Bà Trưng đến
đường Trương Minh Giảng (nay là đường Trần
Quốc Thảo). Ngày 14 tháng 8 năm 1975,
đường Nguyễn Đình Chiểu cũ bị thay đổi tên
thành đường Trần
Quốc Toản, còn đường Phan
Đình Phùng cũ thì
đổi tên thành đường Nguyễn Đình Chiểu theo
Quyết định của Ủy ban Quân quản thành phố
Sài Gòn - Gia Định.
- Tại xã Phú
Nhuận thuộc quận Tân Bình, tỉnh Gia
Định cũ, từ sau năm 1955 cũng
có một con đường ngắn và nhỏ mang tên là
đường Nguyễn Đình Chiểu, giữ nguyên tên cho
đến ngày nay.
Ảnh
-
Cổng vào
khu di tích đền thờ và mộ Nguyễn Đình
Chiểu tại xã An Đức, (Ba
Tri).
-
Đền thờ
Nguyễn Đình Chiểu trong khu đền mộ.
-
-
Chân dung
Nguyễn Đình Chiểu
Chú thích
- ^ Theo Văn học thế
kỷ XIX, tr. 405.
- ^ Theo Nguyễn
chí thế phả do
Đồ Chiểu biên soạn, và cha ông là Nguyễn
Đình Huy hiệu chính. Trương
Vĩnh Ký trong
truyện Lục Vân Tiên(Sài
Gòn, 1889) chép là
làng Tân Khánh. Rất có thể Tân Thới về
sau được đổi thành Tân Khánh, hoặc là cả
hai nơi này về sau nhập làm một. Làng
Tân Thới ở đâu, hiện nay chưa xác định
được, chỉ biết ở tại Tân Triêm, thuộc
vùng Cầu Kho xưa có phần mộ của bà
Trương Thị Thiệt (mẹ Đồ Chiểu). Vậy rất
có thể làng Tân Thới ở vùng Cầu Kho,
thuộc quận
1, Thành phố Hồ Chí Minh ngày
nay (theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập,
tập 1, tr. 21).
- ^ Có người cho rằng
Đồ Chiểu thuộc dòng họ Nguyễn Đình ở
Phước Yên, thuộc huyện Phong Điền (Thừa
Thiên-Huế). Vì vậy, nhóm biên soạn
Nguyễn Đình Chiểu toàn tập đã đi đến đó.
Sau khi xem xét gia phả dòng họ vừa kể,
nhóm biên soạn đã kết luận rằng "quê
quán Đồ Chiểu đúng là ở xã Bồ Điền, vì
gia phả dòng họ Nguyễn Đình không có
chép Đồ Chiểu cùng các cụ tổ khác của
ông" (Nguyễn Đình Chiểu toàn tập,
tập 1, tr. 23).
- ^ a ă Theo Nguyễn
Đình Chiểu toàn tập, tập 1, tr.
26.
- ^ a ă Theo Nguyễn
Đình Chiểu toàn tập, tập 2, tr.
439.
- ^ Theo Văn
học lớp 11 (nâng
cao), tập 1, tr. 23.
- ^ Ghi theo Văn
học lớp 11 (nâng
cao, tập 1, tr. 31) và Nguyễn
Đình Chiểu toàn tập (tập
2, tr. 439). Văn
học thế kỷ XIX (do
PGS. Hoàng Hữu Yên làm Chủ biên, NXb
Khoa học xã hội, 2004, tr. 407) ghi là
"ngày 14 tháng 12 năm 1861".
- ^ Ghi theo Từ
điển Văn học (bộ
mới, Nhà xuất bản Thế giới, 2004, tr.
1971). Văn học lớp
11 (nâng cao)
ghi khoảng 20 người (Nhà xuất bản Giáo
dục, 20037, tr 30). Theo công văn của
Tuần phủ Gia Định Đỗ
Quang là 27
người, theo Huỳnh
Tịnh Của là 15
người (dẫn lại theo Văn
học thế kỷ XIX, tr. 407). Theo Nguyễn
Đình Chiểu toàn tập (tập
2, tr. 441), thì người chỉ huy cuộc tập
kích là Đỗ
Trình Thoại.
- ^ Tỵ địa: khi quân
Pháp chiếm dần Nam Kỳ, người
dân ở vùng tạm chiếm chạy sang vùng tự
do để lánh quân xâm lược. Vùng đất người
dân chạy đến gọi là "tỵ địa" (giải thích
theo Ngữ văn 11 (nâng
cao), tập 1, tr. 36).
- ^ Ghi theo Văn
học thế kỷ XIX (tr.
405). Văn học lớp
11 (nâng cao,
tập 1, tr. 36) viết: "khi về Ba Tri,
Nguyễn Đình Chiểu tham gia kháng chiến
dưới cờ của Trương
Định và Đốc binh
Là". Tuy nhiên, theo GS. Dương
Quảng Hàm, thì "Trương Định có mời
ông ra làm quân sư cho mạnh thanh thế,
nhưng ông từ chối" (Văn học Việt Nam,
Trung tâm học liệu Sài
Gòn xuất bản,
1968, tr. 144).
- ^ Khi về Ba Tri,
Nguyễn Đình Chiểu làm nhà ở đâu chưa tra
được. Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (tập
2, tr. 447), thì đến năm 1877,
ông mới đến ở làng An Bình Đông, và
rồi mất ở đây.
- ^ Ghi theo Nguyễn
Đình Chiểu toàn tập (tập
1, tr. 33). Văn học
lớp 11 (nâng
cao, tập 1, tr. 36) ghi là "Ponchon tìm
cách mua chuộc ông, cấp đất cho, nhưng
ông từ chối".
- ^ Lược kể theo Nguyễn
Đình Chiểu toàn tập (tập
1, tr. 33).
- ^ Theo Lê Chí Dũng,
Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1129.
- ^ a ă Theo Văn
học lớp 11 (nâng
cao), tập 1, tr. 36.
- ^ Năm 1959,
di cốt của con gái Nguyễn Đình Chiểu là
nữ sĩ Sương
Nguyệt Anh cũng
đã được cải táng bên cạnh mộ vợ chồng
ông.
- ^ Câu trong ngoặc
kép là của Phạm
Văn Đồng (dẫn
lại theo Từ điển
văn học bộ mới, tr. 886).
- ^ Theo Nguyễn Đình
Chiểu toàn tập (tập
1), tr. 67.
- ^ Ở các bản khác,
số câu có khác hơn.
- ^ Theo Văn
học thế kỷ XIX, tr. 421.
- ^ Căn cứ bản in
trong Nguyễn Đình
Chiểu toàn tập, tập 2.
- ^ Theo Văn
học thế kỷ XIX, tr. 423.
- ^ Theo Lê Chí Dũng
(Từ điển văn học, bộ mới, tr.
1129), Đồ Chiểu viết bài "Lục tỉnh sĩ
dân trận vong" văn năm 1874.
Theo Nguyễn Đình
Chiểu toàn tập (tập
2, tr. 448), bài này được làm năm 1884,
để đọc trong buổi lễ tế nghĩa sĩ Lục
tỉnh tại chợ Ba Tri, sau khi được chủ
tỉnh Bến Tre chấp thuận.
- ^ Theo Lê Chí Dũng, Từ
điển văn học (bộ
mới), tr. 1129.
- ^ Nhận xét của GS. Phạm
Thế Ngũ, Việt
Nam văn học sử giản ước tân biên (tập
3, Quốc học tùng thư, Sài Gòn, 1965),
tr.29.
- ^ Lược kể theo
Huỳnh Ngọc Trảng, Ngàn
năm bia miệng, Sở Văn hóa Thông
tin Long An xuất bản, 1984,
tr.101-102.
- ^ Theo tục lệ ở Nam
Bộ, con đầu lòng kể thứ hai, nên
mặc dù Sương Nguyệt Anh là con gái thứ
tư trong gia đình, nhưng được gọi là thứ
năm. Tương tự, Nguyễn Đình Chiêm cũng
vậy.
Sách tham khảo
chính
Thư Mục
Nhóm mạng Việt
Nam Văn Hiến
www.vietnamvanhien.net (Tin tức cập nhật
thường xuyên)
www.vietnamvanhien.org (Thuần ngữ,
tải nhanh)
www.vietnamvanhien.com (Kinh tế & Tài chánh)
www.vietnamvanhien.info (Tủ Sách Văn
Hiến, có hơn 7100 Tác
phẩm )
Email:
thuky@vietnamvanhien.net
Lấy
Tâm Lực thay cho vũ lực để giải trừ quốc nạn là phục
hoạt nếp sống Văn Hiến và phục
hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.
Lấy Nhân Tâm làm phương tiện,
dụng Dân Tâm làm quốc sách "An Dân & Lạc Quốc"
là kim chỉ nam cuả thể chế Dân Chủ Văn Hiến.
|