NGUYÊN NHÂN CHIẾN TRANH
1960-1975
Trần Gia Phụng
1.
NGUYÊN NHÂN BIỂU KIẾN
Theo lời nhà nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH), nguyên nhân
chính mà VNDCCH đưa quân tấn công Việt Nam
Cộng Hòa (VNCH) từ năm 1960 là vì VNCH không
tôn trọng và không thi hành hiệp định Genève ngày 20-7-1954 về việc tổ chức tổng
tuyển cử để thống nhất đất nước. Bên
cạnh đó, cũng theo quan điểm của nhà nước VNDCCH, người
Hoa Kỳ càng ngày có mặt càng nhiều ở VNCH
nên dân Việt Nam phải “chống Mỹ cứu nước”.
Quả thật, sau hiệp định Genève
đúng một năm, thủ tướng VNDCCH là Phạm Văn Đồng, gởi thư
ngày 19-7-1955 lần đầu tiên cho thủ tướng Quốc Gia Việt
Nam (QGVN) là Ngô Đình Diệm, yêu cầu mở hội
nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955 như đã quy
định trong hiệp định Genève ngày 20-7-1954, để bàn
về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước.
Ngày 10-8-1955, Ngô
Đình Diệm đã bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, dựa
vào lý do rằng chính phủ QGVN không
ký vào hiệp định Genève và
nhất là vì không
có bằng chứng nào cho thấy VNDCCH đặt quyền lợi quốc gia
lên trên quyền lợi Quốc tế Cộng sản.
Chính thể QGVN đổi thành
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) vào ngày 26-10-1955. Tuy chính phủ VNCH nhiều lần từ chối,
Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các
ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958 để tuyên
truyền với quốc tế. Lần cuối, Ngô
Đình Diệm, lúc đó là tổng thống VNCH,
bác bỏ đề nghị trên vào ngày 26-4-1958.
Để hiểu rõ vấn đề nầy, tốt nhất
nên trở lại với hiệp định Genève
ngày 20-7-1954. Danh xưng
chính thức của hiệp định Genève là
Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt
Nam, nghĩa là hiệp định Genève chỉ
là một hiệp định có tính cách thuần
tuý quân sự, không phải là một hòa
ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị
nào cho tương lai Việt Nam.
Sau khi Hiệp định đình
chỉ chiến sự ở Việt Nam và các hiệp định đình
chỉ chiến sự ở Lào và Cambodia được ký kết,
các phái đoàn tham dự hội nghị Genève họp
tiếp và ngày 21-7-1954 thông qua bản "Tuyên
bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại
hòa bình ở Đông Dương".
Bản tuyên bố gồm 13 điều, trong
đó quan trọng nhất là điều 7. Điều
nầy
ghi
rằng: "Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt
Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện
trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho
nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo
đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử
tự do và bỏ phiếu kín. Để
cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết
cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ
ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng
7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những
nước có chân trong Ban Giám sát và
Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định
đình chỉ chiến sự. Kể từ
ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền
trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về
vấn đề đó." (1)
Khi chủ tịch phiên họp là
Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn,
thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp,
Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa,
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH), Lào và
Cambodge (Cambodia) trả lời miệng rằng "đồng ý". (2) Không có phái đoàn
nào ký tên vào bản tuyên bố nầy, nghĩa
là bản tuyên bố không có chữ ký. Điều đó chứng tỏ rằng những nước tham
dự hội nghị không cam kết và cũng không yêu
cầu các bên liên hệ cam kết là sẽ thi
hành tổng tuyển cử, nên không yêu cầu
bên nào ký vào bản tuyên bố để cam kết
hay để giữ lời cam kết.
Một văn kiện quốc tế không có
chữ ký thì chỉ có tính cách gợi
ý, hướng dẫn chứ không có tính cách
cưỡng hành. Đây chỉ là
lời tuyên bố (déclaration) của những phái
đoàn, có tính cách dự kiến tương lai Việt
Nam. Hơn nữa, những hiệp định
với đầy đủ chữ ký mà còn bị vi phạm trắng trợn,
huống gì là những bản tuyên bố không chữ
ký.
Phái đoàn Hoa Kỳ và
phái đoàn QGVN không ký vào Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày
20-7-1954 và cũng không đồng ý bản "Tuyên bố
cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại
hòa bình ở Đông Dương" ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn Hoa Kỳ và
QGVN đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái
đoàn để minh định lập trường của mình.
Tuy nhiên, chính phủ QGVN vẫn
tôn trọng Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt
Nam ngày 20-7-1954 và thi hành việc chia hai
nước Việt Nam theo thỏa thuận quốc tế.
Ngoài ra, lúc đó, Hoa
Kỳ càng ngày càng tăng viện cho VNCH.
Nhà nước VNDCCH quan ngại rằng nếu để
cho VNCH yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ
giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào
đó chắc chắn VNCH (với nền kinh tế tự do) sẽ vượt xa VNDCCH (với
nền kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng sản). Đó
chính
là
điều mà VNDCCH thực sự lo lắng.
Sự hiện diện của người Hoa Kỳ ở VNCH chẳng
những khiến cho VNDCCH rất quan ngại, mà cả Trung Quốc cũng
không yên tâm. Trước
đây, Hoa Kỳ hậu thuẫn cho chính phủ Quốc Dân Đảng
Trung Hoa (QDĐTH), chống lại đảng Cộng Sản Trung Hoa (CSTH). Năm 1949, đảng CSTH thành công. Mao Trạch Đông tuyên bố
thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (gọi
tắt là Trung Quốc) ngày 1-10-1949. Chính phủ QDĐTH
chạy ra Đài Loan. Tuy nhiên
Trung Quốc vẫn quan ngại Hoa Kỳ yểm trợ cho QDĐTH trở lui lục địa Trung
Quốc.
Trung Quốc mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ khắp
nơi trên thế giới, hơn cả Liên Xô chống Hoa Kỳ. Nay Hoa Kỳ lại có mặt ở miền Nam Việt
Nam, gần sát với Trung Quốc nên Trung Quốc rất quan ngại. Vì vậy, VNDCCH đưa ra thêm
chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”, vừa để khích động
lòng yêu nước của dân chúng Bắc Việt chống
lại VNCH, vừa để thi hành chủ trương chống Mỹ của Trung Quốc
và Liên Xô, ngõ hầu kêu gọi viện trợ
của khối CSQT.
Như thế, rõ ràng các
lý do “thống nhất đất nước” và “chống Mỹ cứu nước” chỉ
có tính cách biểu kiến bên ngoài,
dùng làm chiêu bài động binh, trong khi
lý do thật sự được nhà nước VNDCCH che đậy chính
là tham vọng lớn lao của đảng LĐ muốn đánh chiếm
toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, mà kế hoạch đã
được đảng LĐ chuẩn bị từ trước khi ký hiệp định Genève
ngày 20-7-1954.
2. KẾ HOẠCH LIỄU CHÂU: THAM VỌNG CỦA
ĐẢNG LĐ
Hội nghị Genève về Đông Dương
với 9 phái đoàn là Anh, Pháp, Hoa Kỳ,
Liên Xô, CHNDTH, và bốn chính phủ liên
hệ ở Đông Dương là QGVN, VNDCCH (VM), Lào, Cambodge
(Cambodia), bắt đầu ngày 8-5-1954, một ngày sau khi kết
thúc trận Điện Biên Phủ.
Hội nghị Genève kéo
dài cho đến ngày 21-7-1954, có thể chia
thành hai giai đoạn: Giai đoạn thứ
nhứt từ ngày khai mạc đến 20-6-1954. Giai
đoạn
thứ
hai từ ngày 10-7-1954 đến 21-7-1954. Giữa
hai
giai đoạn nầy, trong khoảng thời gian
20 ngày tạm nghỉ để các phái đoàn về nước
tham khảo và nghỉ ngơi, xảy ra ba sự kiện quan trọng: 1) Tại Pháp, Mendès France
chính thức nhận chức thủ tướng ngày 21-6-1954. Ông hứa hẹn với dân chúng
Pháp sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong vòng bốn
tuần lễ và sẽ ký kết hiệp ước chậm nhất vào
ngày 20-7-1954, nghĩa là Pháp dứt khoát rời
bỏ Việt Nam. 2) Tại Việt Nam, Ngô
Đình Diệm chính thức cầm đầu chính phủ QGVN
ngày 7-7-1954 (ngày Song thất). 3) Trong thời gian nghỉ họp, Chu Ân Lai,
thủ tướng Trung Quốc và là trưởng phái đoàn
Trung Quốc tại Genève, về nước và mời Hồ Chí Minh
bí mật hội họp tại thị trấn Liễu Châu (Liuzhou), thuộc
tỉnh Quảng Tây (Kwangsi hay Guangxi), từ 3
đến
5-7-1954. Lúc đó, dư
luận thế giới hoàn toàn không biết đến hội nghị nầy. Nội dung hội nghị nầy không được VNDCCH
tiết lộ, mà chỉ được phía Trung Quốc tiết lộ sau năm 1975.
Trong cuộc họp Liễu Châu, Chu
Ân Lai ép Hồ Chí Minh phải chấp nhận giải
pháp chia hai Việt Nam, đồng thời Châu Ân Lai
còn đưa ra kế hoạch cho VM rằng trước khi rút ra Bắc, VM
nên kiếm cách phân tán và chôn
giấu võ khí ở lại miền Nam, để hữu dụng về sau.
Về phía phái đoàn VM,
Võ Nguyên Giáp, tháp tùng theo Hồ
Chí Minh, đã trình bày trong cuộc họp rằng
nếu phải rút ra Bắc, thì VM chỉ rút những người
làm công tác chính trị bị lộ diện; phần
còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy, có
thể từ 5,000 đến 10,000 người.(3) Trong
số
những
người cộng sản gài lại ở miền Nam Việt Nam, có
cả Lê Duẫn, bí thư Trung ương cục miền Nam của đảng LĐVN.(4)
Như thế, rõ ràng đảng LĐ
đã sắp đặt kế hoạch trường kỳ mai phục, chuẩn bị lực lượng tấn
công miền Nam Việt Nam, trước khi ký kết hiệp định Genève vào ngày 20-7-1954. Vì vậy, đảng LĐ sẵn sàng
chà đạp hiệp định Genève để thực hiện
chủ trưong của đảng LĐ, xâm chiếm miền Nam Việt Nam.
Muốn tiến đánh miền Nam Việt Nam,
cộng sản Bắc Việt rất cần viện trợ Quốc tế cộng sản (QTCS), nhất
là Liên Xô và Trung Quốc.
Khi Trung Quốc đưa ra tuyên bố về
lãnh hải ngày 4-9-1958, theo đó ranh giới biển của Trung Quốc là 12 hải lý từ
bờ biển, thì ngay sau đó, để lấy lòng Trung Quốc,
Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, vội vàng viết quốc thư đề
ngày 14-9-1958, gởi Chu Ân Lai, thủ tướng Quốc vụ viện
Trung Quốc, nhìn nhận tuyên bố của Trung Quốc. Tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung
Quốc gồm có 4 điểm trong đó điểm 1 và điểm 4 được
dịch như sau:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân
dân Trung Quốc là 12 hải lý. Điều
lệ
nầy
áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc
trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi,
Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các
hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần
đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức
Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường
Sa], và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
. . . . . . . . . . . . . .
(4) Điều (2) và (3) bên trên cũng áp
dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo
Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung
Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung
Quốc...(5)
Tuyên bố ngày 4-9-1958 của
Trung Quốc xác định hai điều: 1) Chiều rộng của lãnh hải
Trung Quốc là 12 hải lý. 2) Sau tuyên bố của Mao Trạch Đông
năm 1939 xác định Việt Nam là một nước phụ thuộc Trung
Quốc,(6) nay một lần nữa Trung Quốc mặc nhiên
khẳng định rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
của Việt Nam, thuộc về lãnh thổ Trung Quốc và gọi theo
tên Trung Quốc là Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa]
và Nam Sa [Nansha tức Trường Sa].
Thế mà Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc
Việt, với sự đồng ý của Hồ Chí Minh và bộ
Chính trị đảng LĐ, ký công hàm ngày
14-9-1958, tán thành quyết định về lãnh hải của
Trung Quốc. Nguyên văn phần nội dung
chính của công hàm như sau:
“Chính phủ nước Việt
Nam dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán
thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958
của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy
và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có
trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý
của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Hoa trên mặt bể.” (Bản công hàm của Phạm Văn
Đồng quá nổi tiếng, xin miễn chú thích.)
Tán thành bản tuyên
cáo ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Quốc
có nghĩa là VNDCCH đồng ý điều 4 trong bản
tuyên cáo của Trung Quốc là đúng, tức
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc.
Dầu Hoàng Sa và Trường Sa nằm về
phía nam vĩ tuyến 17, thuộc quyền kiểm soát của VNCH chứ
không phải VNDCCH, nhưng cũng thuộc về tổ quốc Việt Nam. Đây là một hành vi chẳng
những vi phạm Hiệp định Genève, mà
còn phản quốc trắng trợn của Hồ Chí Minh và tập
đoàn lãnh đạo đảng LĐVN, chỉ vì tham vọng
đánh chiếm miền Nam.
3. QUYẾT ĐỊNH TẤN CÔNG MIỀN NAM VIỆT
NAM
Sau cuộc CCRĐ giai đoạn 5, Trường Chinh
phải rời chức tổng bí thư đảng LĐ, và Hồ Chí Minh
kiêm nhiệm chức nầy kể từ 30-10-1956. Đảng
LĐ
chuyển
công tác Lê Duẫn, từ bí thư Xứ uỷ
Nam Bộ ra Bắc giữ chức Uỷ viên thường vụ Bộ chính trị để
phụ tá cho Hồ Chí Minh khoảng đầu năm 1957.
Vào năm 1958, Lê Duẫn được
bí mật gởi vào miền Nam nhằm nghiên cứu tình
hình. Khi trở ra Bắc vào
cuối năm nầy, Lê Duẩn viết bản báo cáo đề nghị
đánh chiếm miền Nam bằng võ lực. Bản
báo
cáo
của Lê Duẫn là nền tảng của quyết
định quan trọng của hội nghị Trung ương đảng (TƯĐ) LĐ lần thứ 15 ở
Hà Nội.
Tại hội nghị nầy, ngày 13-5-1959,
ban chấp hành TƯĐLĐ đưa ra
nghị quyết thống nhất đất nước
(tức đánh chiếm miền Nam bằng võ lực) và đưa miền
Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa. (Nghị quyết đăng trên
Nhân
Dân ngày
14-5-1959).
Quyết tâm xâm lăng miền Nam
của Bắc Việt thật rõ ràng. Ngày
12-9-1959,
Phạm
Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt tuyên bố với
Lãnh sự Pháp tại Hà Nội: "Ông
nên nhớ là chúng tôi sẽ đến Sài
Gòn ngày mai." Trong một
lần khác, vào tháng 11 cùng năm, Phạm Văn
Đồng nói với vị Đại diện Canada trong Uỷ ban Kiểm soát
Đình chiến: "Chúng tôi sẽ đẩy người Mỹ
xuống biển."(7)
Cùng ngày đưa ra nghị quyết
thống nhất đất nước, chiếm miền Nam bằng võ lực (13-5-1959),
nhà cầm quyền Hà Nội cử thượng tá Võ Bẩm,
người Quảng Ngãi, lên đường vào Nam, lập đường
dây liên lạc với các lực lượng gài lại trong
Nam. Sau đó, ngày 1-6-1959,
một toán gồm 32 cán bộ miền Nam tập kết, bắt đầu ra đi mở
đường vào Nam. Đó là
con đường Trường Sơn, là dãy núi được xem
là sống lưng của toàn cõi Đông Dương, để đưa
quân xâm nhập Nam Việt Nam. (8)
Vào năm sau, tại Hà Nội, từ
ngày 5-9 đến ngày 10-9-1960, diễn ra Đại hội đảng LĐ lần thứ III, được mệnh danh là "Đại
hội xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực
hiện thống nhất nước nhà". Đại hội
đưa ra hai mục tiêu lớn của đảng LĐ là xây dựng miền
Bắc tiến lên Xã hội chủ nghĩa và tiến chiếm miền Nam bằng võ lực. Cuối Đại hội nầy, Hồ Chí Minh được bầu
làm chủ tịch đảng LĐ, Lê Duẫn làm bí thư thứ
nhất (chứ không phải tổng bí thư) thay Trường Chinh
(vì những sai lầm trong cuộc CCRĐ.) Bộ
chính
trị
gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy
viên dự khuyết. (9)
Điểm chót của việc chuẩn bị trong
cuộc tấn công miền Nam là việc công bố thành
lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam
ngày 12-12-1960 tại Hà Nội. Mặt
trận
nầy
chính thức ra mắt vào ngày 20-12-1960 tại
chiến khu Dương Minh Châu ở Tây Ninh, Nam Việt Nam.
KẾT LUẬN
Như thế, rõ ràng
nguyên nhân gây ra cuộc chiến năm 1960-1975
không phải vì QGVN và sau đó VNCH
không tôn trọng hiệp định Genève
(20-7-1954). Quốc Gia Việt Nam đã
thi hành đúng đắn việc tập trung và rút
quân về miền Nam, thực hiện kế hoạch chia hai Việt Nam ở
sông Bến Hải ngang qua vĩ tuyến 17. Bản
"Tuyên
bố
cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn
đề lập lại hòa bình ở Đông Dương" ngày
21-7-1954 trong đó có điều 7 là điều đề nghị một
cuộc tổng tuyển cứ giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam,
không có chữ ký của bất cứ phái đoàn
nào, nên không có tính cách
pháp lý để cưỡng hành.
Chuyện "giải phóng miền Nam” hay
“chống Mỹ cứu nước” chỉ là chiêu bài nhằm
khích động quần chúng, vì Bắc Việt dư biết trước
đó Hoa Kỳ đã giúp Tây Đức, Nhật Bản, Nam
Triều Tiên, mà người Mỹ không hề xâm lăng
các nước nầy. Chiêu
bài “chống Mỹ cứu nước” còn được sử dụng nhắm mục
đích kêu gọi viện trợ của Liên Xô và
Trung Quốc, vì theo đúng đường lối của CSQT.
Nguyên nhân thực sự duy nhất
đưa đến chiến tranh 1960-1975 chỉ là tham vọng độc quyền cai trị
Việt Nam của đảng LĐ do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Các lãnh tụ đảng LĐ lúc
đó chẳng những muốn độc chiếm Việt Nam, mà còn
muốn làm bá chủ cả Đông Dương nữa. (Trích Việt sử đại cương tập 6.)
TRẦN GIA
PHỤNG
(phungtrangia@yahoo.com)
CHÚ
THÍCH
1.
Thế Nguyên, Diễm
Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973,
Trình
Bày:
Sài Gòn 1973, tr. 53. Vì
các
văn bản ký kết tại
Genève được viết bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp.
2.
Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris: Nxb. Nam Á 2002,
tr. 2642.
3.
Tiền Giang, Chu
Ân
Lai
dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai
và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản
xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954,
chương
27 "Hội nghị Liễu Châu then
chốt".(Nguồn: Internet).
4.
Chính Đạo, Việt
Nam niên biểu nhân vật chí, Văn Hóa, Houston,
1997, tr. 202.
5.
http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm (trích ngày 26-10-2009).
6.
Năm 1939, trong một
tài liệu của đảng Cộng Sản Trung Quốc, tựa đề là
“Cách mạng Trung Quốc và đảng Cộng Sản Trung Quốc”, Mao
Trạch Đông đã xác quyết: “Các nước đế quốc,
sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ
thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu
Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận, Anh chiếm Miến Điện,
Bu-tan, Hương Cảng, Pháp chiếm An-Nam.” (Nxb. Sự Thật, Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua
[tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam, không đề tên
tác giả], Hà Nội: 1979, tr. 16.) Như
thế
trong
quan niệm của Mao Trạch Đông, An-Nam (tức Việt Nam)
là nước phụ thuộc Trung Quốc.
7.
Nguyễn Đình Tuyến, Những biến cố lớn trong
30 năm chiến tranh tại Việt Nam 1945-1975, Houston, Texas, 1995, tr. 49.
8.
Con đường nầy chạy dọc
theo Trường Sơn, đã từng được người xưa gọi là thượng đạo
và sử dụng, như Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng bỏ
Quy Nhơn theo đường núi ra Nghệ An năm 1802, hoặc vua Hàm
Nghi (trị vì 1884-1885) từ Lao Bảo (Quảng Trị) qua Ai Lao về
Quảng Bình năm 1885. Ngoài
ra, trong chiến tranh 1946-1954, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt
phái đoàn cố vấn quân sự để giúp đỡ VM, do
tướng Vi Quốc Thanh cầm đầu. Khi muốn kiếm
cách tiến quân xuống phía Nam, tháng
10-1953, Mao Trạch Đông đã đưa ra cho Vi Quốc Thanh kế
hoạch ba điểm để mở đường Trường Sơn. Ba
điểm đó là: 1) Một là
dùng hai đại đoàn bộ binh và nửa đại đoàn
pháo binh chiếm Lai Châu, chiếm toàn bộ Tây
bắc, chuyển qua Thượng Lào và Trung Lào. 2) Hai là
cương quyết khai thông con đường Nam tiến [đường núi
Trường Sơn]; đó là con đường huyết mạch; đo đạc thật
nhanh, xây dựng kế hoạch, chia giai đoạn để hoàn
thành. 3) Ba
là
điều
động cán bộ, quân đội các liên
khu 3, 4 làm công tác mở vùng; đánh
được nơi nào thì củng cố nơi ấy. Mao
Trạch
Đông
tóm gọn kế hoạch nầy trong 12 chữ: “Hai đại
đoàn rưỡi, một đường quốc lộ, ba lớp cán bộ ”. (Vu
Hóa Thẩm, “Đồng chí Vi Quốc Thanh trong viện trợ Việt Nam
đấu tranh chống Pháp”, trong Hồi ký của những người trong
cuộc, ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự
Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, một nhóm
tác giả, Bắc Kinh: Nxb Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002,
Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch, Dương Danh Dy hiệu đính, bản
in của tạp chí Truyền Thông, Montreal, số 32& 33, tt.
103-104.)
9.
Mười một ủy viên
chính thức: Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Trương Chinh,
Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp,
Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Lê
Thanh Nghị, Hoàng Văn Hoan. Hai ủy
viên dự khuyết: Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn (cả 2 đều
chính thức từ 1972.) (http://www.cpv.org.vn trích
ngày 15-8-2007.)