PHẢN BIỆN LẠI BÀI VIẾT CỦA
ÔNG
TS. NGUYỄN GIA KIỂNG :
"Trí thức Việt Nam muốn để lại di chúc
nào ?"
NGUYỄN SƠN HÀ
Trong bài viết đăng
trên trang "Thông Luận" của ông (và
"danchimviet.online") với
tựa đề nêu trên, ông đã đưa ra vấn đề : "Các phát biểu của hội
nghị vẽ ra chân
dung của một chế độ cực kỳ vô lý, nhưng
tại sao nó vẫn kéo dài?" ;
và ông đã phân tích vấn đề với 4
lý do mà ông cho là :
" Nếu những phân tích sau đây có
làm phiền
lòng một số trí thức thì tác giả xin được
thứ lỗi và xin hiểu cho rằng những khuyết tật
được nêu ra sau đây đã hiện diện
nơi chính người viết." ;
Hay có thể
nói cách khác là ông "suy bụng ta, ra bụng người." !
Cho nên, vì chính nghĩa của hai chữ VĂN
HÓA
viết
Hoa, và cũng vì là phận sự của tôi,
như tiền nhân Nguyễn Công Trứ
đã nói : "trong vũ trụ này không
đâu không là phận sự" (vũ trụ nội
mạc phi phận sự) ; do đó
tôi buộc lòng phản bác lại những tư tưởng nghịch
lý của ông, đối với nghĩa
nguyên thủy của hai chữ VĂN HÓA viết Hoa, hầu để chỉnh đốn
những tư tưởng sai lầm
mà ông đã gieo rắc đó đây. Vì
vậy, tôi không có gì ngạc nhiên khi
ông đã đổ lỗi
cho văn hóa như ông đã viết : "Lý do thứ hai là di sản văn hóa"
và "Lý do thứ ba, hậu quả của di
sản văn hóa" làm cho "tư
tưởng chính trị chúng ta quá kém"
như ông nói, nên đã không
thực hiện được vấn đề dân chủ ở Việt-Nam, và ông
đã đề nghị giải pháp "văn
hóa tổ chức" mà ông chủ trương.
Nhưng trước
khi bàn về "Lý do di sản văn
hóa", và
"hậu
quả của di sản văn hóa" này của ông, trước
tiên tôi xin được hỏi
ông dựa vào đâu mà ông đi
nói : "Lý do thứ nhất của thảm kịch này
là tư tưởng
chính trị của chúng ta quá kém.
Chúng ta tự hào là có bốn ngàn năm
văn hiến nhưng chúng ta không có
một
nhà
tư tưởng nào, chưa nói tới tư tưởng chính trị." Nếu nói như ông
thì Nguyễn Du
(1766-1820) cũng không phải là nhà tư tưởng của
Việt-Nam, thì tại sao tác phẩm
nổi tiếng của ông ta là "Đoạn Trường
Tân Thanh" lại được phổ biến dưới tên "Truyện
Kiều" cho đến ngày nay, và đã được dịch ra
nhiều
thứ tiếng ; hơn nữa còn được dạy trong một vài Đại
Học lớn hiện nay ở ngoại
quốc mà tôi được biết như Yale University hay Cambridge
University, hay ở Nhật (Université Impériale de Taihoku) ?? Vì nếu nói
kiểu "ăn cháo
đá(i) bát" như ông, thì tại sao thiên
hạ lại đi đọc và học tác phẩm của ông
ta, nếu văn hào Nguyễn Du không phải là nhà
tư tưởng ? Nên tự hào là trí
thức như ông mà đi tuyên bố một điều như vậy,
thì nếu không nói ông thiển cận,
hàm hồ thì cũng phải nói là ông
xuyên tạc !
Nếu không
thiển cận, hàm hồ và xuyên tạc thì tại sao
ông lại đi khẳng định: "Vẫn có những trí thức
dân chủ gạt phăng chủ nghĩa cá nhân như là
đồng nghĩa với chủ nghĩa ích kỷ mà
không làm phiền lòng ai, trong khi chủ
nghĩa
cá
nhân chính là nền tảng của dân chủ. Bản
Tuyên Ngôn Phổ Cập về Quyền Con Người
(hay Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền) không
khác
gì
hơn là tuyên cáo của chủ nghĩa cá
nhân." ? Đọc đoạn
này ông viết, làm tôi tự hỏi ông tiến
sĩ này có hiểu tiếng Việt không vậy, vì theo
nghĩa hàn lâm tức nghĩa thông dụng, thì "chủ
nghĩa cá nhân"
(individualism) là đặc tính riêng của mỗi người
sống khác biệt và biệt lập đối
với người khác, hay đối với quần chúng ; trong khi
"dân chủ"
(democracy) là một hệ thống chính quyền được thành
lập bởi lá phiếu của người
dân đi bầu, đi bỏ phiếu để cử kẻ đại diện cho
tiếng nói của mình.
Như vậy mà ông lại đi bảo "chủ
nghĩa cá nhân chính là nền tảng của
dân
chủ" rồi phang luôn "Bản
Tuyên Ngôn Phổ Cập về Quyền Con Người (hay Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền) không
khác gì hơn là tuyên cáo của chủ
nghĩa cá nhân.", thì nếu không bảo
ông thiển cận, hàm hồ và xuyên
tạc, thì phải nói là ấu trĩ mới đúng !
Hơn nữa khi ông nói : "Lý
do thứ
hai là di sản văn hóa. Từ ngày lập
quốc, khi bị ngoại thuộc cũng như lúc tự chủ, chúng ta
được nhào nặn trong nền văn
hóa Khổng Giáo coi làm chính trị chủ yếu
là để làm quan. Tâm lý này được
duy trì hầu như nguyên vẹn dưới chế
độ cộng sản bởi vì chủ nghĩa
Mác-Lênin không khác gì Khổng
Giáo.", thì tôi mới hiểu thêm
lý do tại sao ông đã lấy cái tựa đề
"Tổ Quốc Ăn Năn" cho cuốn sách nổi tiếng của ông,
mà có kẻ bảo là ông
viết theo đơn đặt hàng, thì giờ đây tôi thấy
cũng không sai ! Vì phải tự
cho mình cao trọng hơn Tổ Quốc mới đi bảo "Tổ Quốc Ăn Năn",
và mới đi
chê trí thức khác như ông viết : "Sự
hụt hẫng về tư tưởng của trí thức Việt Nam có thể thấy
được dễ dàng." (sic) !
Nhưng ở đây tôi không chút khó khăn
mà lại thấy rõ "sự hụt hẫng về tư tưởng"
của ông hơn là của trí thức Việt
Nam ! Vì nếu ông đã hiểu đúng nghĩa
nhóm chữ "di sản văn hóa"
thì ông đã không đi đổ thừa cho văn
hóa. Vì "di sản" phải là những sản
phẩm có giá trị bên ngoài như văn học,
nghệ thuật… hay giá trị bên trong về tinh thần như
luân lý, đạo đức… thì tổ
tiên mới quý trọng và cất giữ để di
truyền lại cho con cháu thế hệ mai sau ; chứ nếu là
đồ vô giá trị thì ai
mà đi cất giữ làm gì cho mất công vô
ích, thì đâu còn gì mà gọi
là "di sản" phải không ? Vả
lại, văn hóa không chỉ là những sản phẩm với sinh
hoạt và tổ chức của con người,
do con người và cho con người ; mà còn
là tất cả mọi sự vạn vật trên đời
này, còn gọi là Đạo, như tôi đã diễn
giải trong bài VĂN
HÓA
viết
Hoa của tôi. Cho nên khi nói "di
sản
văn hóa" tức là Tinh Hoa Văn Hóa của một dân
tộc, mà đối với dân tộc
Việt, chính là triết lý nhân sinh, là
Minh Triết Việt, là Đạo Trời, Đạo Việt, Đạo
Nhân tức là Đạo làm Người. Và hễ
nói Minh Triết tức là lý giải minh nhiên
thấu triệt cho mọi sự vật, nên không hề ứ đọng hay bế tắc.
Vì Minh Triết xây dựng
trên con người tức lấy con người làm nền tảng, nên
con người vừa là đối tượng vừa
là cứu cánh. Nói cách khác Minh
Triết lấy minh Tâm làm đường đi và thành
Tính
làm điểm đến. Vì vậy, nếu bảo "di
sản
văn hóa" và "hậu
quả di sản văn hóa" là lý do làm
cho "tư tưởng chính trị chúng ta
quá kém" để lớp
trí thức VN
không tạo nên được một nền dân chủ, thì chứng
tỏ là nhà trí thức TS. NGKiểng đã
không hề có một nhận thức đúng nghĩa về Văn
Hóa ! Vả lại nếu ông Kiểng đã có
học hỏi tận tường về Khổng giáo bằng điều tra và
nghiên cứu (chứ tíếng Việt
đúng nghĩa, đúng cách không ai nói
kiểu rừng rú như VC là "điều
nghiên" !), thì đã biết Khổng giáo
là từ Nho giáo, mà Nho giáo tức là
Nguyên Nho, là Việt Nho, nên còn gọi
là Đạo Nho. Vì Khổng Tử đã viết : "Thuật
nhi bất tác ; tín nhi háo cổ"
(LN.IV.7,1). Khổng Tử
nói : "Ta chỉ truyền thuật lại cái đạo của tiền
nhân thánh hiền cho đời
sau, chứ ta chẳng có làm ra ; ta tin tưởng và
hâm mộ đạo lý người
xưa." Do đó nói Khổng Giáo (hay đạo Khổng) như
ông Kiểng là không đúng, mà
phải nói là Nho giáo hay Đạo Nho. Vả lại, Nho
giáo đã định nghĩa chính trị
là : "chính giả chính dã.
Tử suất
chính thục cảm bất chính ?", tức chữ
chính (cai trị) do nơi chữ
chính (ngay thẳng) mà ra. Cai trị
(chính) tức là lo lắng cho dân trở nên ngay
thẳng, chính đính. Nay bậc đại
phu quân tử là bậc dẫn đầu trong dân chúng
mà tự mình chính đính, thì
còn ai
dám ăn ở bất chính ? Như vậy nếu nói "Khổng Giáo coi làm chính trị
chủ
yếu là để làm quan." thì nếu
không xuyên tạc, thì cũng là
"dốt
hay nói chữ" như ông bà xưa đã
nói !
Điều này lại càng đúng cho
ông Kiểng khi ông viết :
"Tâm lý này được duy trì hầu như
nguyên vẹn dưới chế độ cộng sản bởi vì chủ nghĩa
Mác-Lênin không khác gì
Khổng Giáo." Với câu này chứng tỏ là
ông Kiểng nếu không hàm hồ,
xuyên tạc và ngu dốt, thì đã không
chà đạp cái "di
sản văn hóa"
của tiền nhân ! Vì : "Chủ
nghĩa Marx-Lenin là thế giới quan, hệ tư tưởng chính trị
của giai cấp công
nhân, biểu hiện lợi ích của giai cấp này trong
nhiệm vụ xây dựng lại xã hội một
cách cách mạng." (Wikipedia
tiếng Việt), nên đã dẫn đến cái chế
độ cộng sản, ma mộc bất
nhơn đã tàn sát trên 100 triệu người
vô tội trong thế kỷ vừa qua, và hiện nay
đang còn là mối đe dọa cho hòa bình thế
giới ! Trong khi đó Nho giáo là
triết lý nhân sinh, là Minh Triết, là Đạo
làm Người với tôn chỉ "Thiên Thời - Địa
Lợi - Nhân Hòa"
tức là "tùy thời chi nghĩa"
với "tùy cơ ứng biến" để
sống thích nghi, hòa hợp sao cho "thuận
thiên" trong mọi hoàn cảnh, để con người được
thành Nhân, thành Thánh,
thành Thần. Vì phải sống thuận để hòa nên không hề có một tư tưởng
cách mạng nào ; vậy mà bảo là "chủ nghĩa Mác-Lênin không
khác gì Khổng Giáo", thì tôi đành phải nói là
"hết nước nói" !
Nên chính vì không hiểu
biết về Nho giáo, để đừng
nói là ngu dốt nên mới suy diễn kiểu hàm hồ
rằng : "Sự hèn nhát và xu thời
được Khổng Giáo
nâng lên thành những giá trị. Khổng Tử để
lại một lời giáo huấn vàng ngọc
cho kẻ sĩ : “Nước nguy thì chớ vào, nước loạn thì
chớ ở, hoàn cảnh tốt thì ra
làm quan, hoàn cảnh xấu thì ẩn mình”
(Nguy bang bất nhập, loạn bang bất cư,
thiên hạ hữu đạo tắc kiến hiện, thiên hạ vô
đạo tắc ẩn – Luận
Ngữ) ; mà không hiểu nổi đó là "phong
thái thích nghi" theo quy
luật tự nhiên là "thuận
thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong", giống như khi tiết trời tuyết
lạnh phải làm sao cho người mình ấm áp, còn
như khi khí trời nóng nực thì làm
sao cho người mình mát mẻ mới thoải mái !
Nên khi suy diễn với đầu óc duy lý bằng
lý luận biện
chứng một chiều thì dĩ nhiên là "suy
bụng ta, ra bụng người" cho nên
mới viết :
"Sau đó nếu có dấn thân
chính trị thì cũng chỉ làm chính trị kiểu
nhân sĩ, nghĩa là hoặc không tham gia
một tổ chức nào hoặc nếu có tham gia thì cũng
chủ yếu để lợi dụng tổ chức
cho tham vọng cá nhân của mình, chứ không
phải để xây dựng tổ chức như là
một nhịp cầu phải có để dẫn tới một tương lai đáng mong
ước từ một hiện tại
không chấp nhận."
Tôi không cần phải phản
biện về cái giải pháp "văn hóa tổ
chức"
mà ông Kiểng chủ trương để có ý
thức dân chủ. Vì một khi đã không
có nhận thức
đúng nghĩa của VĂN HÓA với chủ Đạo, thì có
là "văn hóa tổ chức" với nội
dung gì đi nữa, cũng chỉ là "thùng
rỗng
kêu to" ! Nên chỉ bấy nhiêu, đã đủ
chứng minh cái giọng thầy đời
của ông Kiểng vì nó mang đầy tính chất thiển
cận, hàm hồ, xuyên tạc, ngu si, để
đừng nói là ấu trĩ ! Vì vậy tiền
nhân Khổng Tử từ xưa đã nói một câu bất hủ
để đời, để khuyên dạy con cháu là : "Học
mà không biết suy nghĩ là đồ ngu ; còn
suy nghĩ mà không chịu học là đồ
điên." ("Học nhi bất tư, tắc
võng ; tư nhi bất học, tắc
đãi.")
Nguyễn
Sơn Hà
(18/12/2010
tức 13/11 năm Canh Dần)
Trí
thức
Việt Nam muốn để lại di chúc
nào?
NGUYỄN GIA KIỂNG
Và
những
bào thai trong bụng mẹ lỡ sinh ra
Sẽ
suốt đời nguyền rủa lũ ông cha
(Nguyễn Chí Thiện)
Tiến Sĩ
Nguyễn Gia Kiểng
Một người bạn gửi cho
tôi “Biên bản Hội Thảo Khoa Học Hội
Khoa Học Kinh Tế Việt Nam và Trung Tâm Thông Tin
và Dự Báo Kinh Tế – Xã Hội Quốc
Gia” với lời nhắn “đọc ngay”.
Quả thực
đó là một tài liệu đặc sắc. Trước hết vì
thành
phần tham dự. Xin kể một vài nhân vật: GS Trần Phương –
nguyên Phó Thủ tướng;
ông Vũ Khoan – nguyên Phó Thủ tướng; PGS Trần
Đình Thiên – Viện trưởng Viện
Kinh Tế; GS Phan Văn Tiệm – nguyên Thứ trưởng Bộ Tài
Chính; Việt Phương –
nguyên Cố vấn của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng; bà Dương Thu
Hương – nguyên Phó
Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước; GS Đào
Xuân Sâm – nguyên Trưởng bộ môn Quản lý
Kinh tế trường Nguyễn Ái Quốc; PGS Võ Đại Lược –
nguyên Viện trưởng Viện Kinh Tế
Thế Giới; GS Đào Công Tiến; cựu Đại sứ Nguyễn Trung; TS
Nguyễn Mại; Ông Vũ Quốc
Tuấn; TS Lê Đăng Doanh; GS Nguyễn Đình Hương; GS Lê
Du Phong; Bà Phạm Chi Lan;
TS Lưu Bích Hồ; GS Vũ Huy Từ v.v., với sự hiện diện của một số
thành viên tổ soạn
thảo cương lĩnh, không thấy nêu tên và chức vụ
nhưng chắc chắn phải là những đảng
viên cao cấp và có trình độ kiến thức cao để
được chỉ định tham gia soạn thảo định
hướng của đảng và thay mặt đảng theo dõi buổi hội thảo
này. Những tên tuổi trên
đây cho thấy thành phần tham dự hội thảo là những
trí thức ưu tú và có uy tín
nhất của chế độ. Họ cũng là những trí thức được ưu
đãi nhất, những trí thức có
nhiều lý do nhất để ủng hộ chế độ. Họ được yêu cầu
góp ý cho các văn kiện chuẩn
bị cho Đại Hội XI (gồm Cương Lĩnh Chính Trị, Báo
Cáo Chính Trị và Chiến Lược
Phát Triển Kinh Tế – Xã Hội 2011 -2020).
Chính
vì thế mà nội dung cuộc thảo luận gây ngạc
nhiên.
Đã không có một phát biểu nào thuận
lợi, dù là tương đối. Cũng không có một
phê
phán ôn hòa nào. Chỉ có những phủ
nhận và chê bai mỉa mai, quả quyết, gay gắt,
thậm chí khinh bỉ.
Một vài
trích dẫn:
(…) Cần nhận thức
lại chủ nghĩa xã hội (CNXH),
cần thay bằng một mô hình văn minh hơn;
(…) Quá dài, rất trùng lắp, những điều
cũ kỹ, lạc hậu,
sai lầm quay lại nhiều quá. Rất nhiều điều chỉ có thể
là dự báo khoa học lại
coi là chủ trương, ví dụ: đến giữa thế kỷ XXI Việt Nam
thành thế này, thế kia;
giữa các văn kiện không có tư tưởng thống nhất,
các văn kiện tụt lùi xa so với
Đại Hội IX, X.
(…) Đánh giá sai nhiều lắm… nguy hiểm
quá. Văn kiện không
có định hướng, trở nên vô nghĩa. Các văn kiện
hiện quá lạc hậu so với thời đại.
(…) Nhận định về quốc tế, về các nước XHCN và
tình hình đất
nước sai, nên bỏ đi!
(…) Phải nhằm vào cải cách chính trị
chứ không chỉ kinh tế;
cải cách thể chế chính trị thành một vấn đề bức
xúc, không giải quyết thì không
phát triển được. Phải xây dựng hiến pháp mới.
Đã đến lúc phải đổi mới hệ thống
chính trị, phải phân định rõ vai trò
lãnh đạo của Đảng, chức năng của nhà nước.
Quốc hội hiện chưa phải là cơ quan lập pháp!
(…) Văn kiện không phản ánh được cuộc sống. Đổi
mới chính
trị chưa theo kịp đòi hỏi, đang cản trở.
(…) Phải xác định cho rõ vai trò
lãnh đạo của Đảng: lãnh
đạo là ai? Ai cho anh quyền lãnh đạo? Phải nhìn
thẳng vào sự thật. Lừa được người
ta chứ không lừa được thực tiễn đâu!
(…) Tư duy lý luận lạc hậu, mâu thuẫn, xa rời
thực tiễn;
thụt lùi so với đại hội trước. Lòng tin của dân đối
với Đảng, với chế độ giảm.
(…) Xem thường lịch sử: nói CNXH là điều kiện
để độc lập,
các triều đại trước có CNXH đâu mà vẫn độc
lập. Không gắn với thời đại, xem thường
thiên hạ.
(…)Viết thế nào thì viết, nhưng đừng đao to
búa lớn quá,
cái gọi là chủ nghĩa cộng sản đã là ảo
tưởng rồi.
(…) Tỉnh nào cũng có xi măng, sân bay,
nhà máy thép, cảng
biển… đầu tư nham nhở.
(…) Loài người đi đến chỗ dân chủ. Nhưng thế
nào là dân
chủ? Đảng quyết mọi thứ mà lại không chịu trách
nhiệm gì. Thế mới chết chứ.
(…) Tại sao các văn kiện lại ngổn ngang thế? Cương
lĩnh
thất bại, tuyên truyền thất bại. Lý luận chính trị
chưa bao giờ suy đồi như bây
giờ. Ngổn ngang quá. Giả dối quá. Thật là bi kịch.
Cảnh ngộ của Đảng ta từ sau
Đại Hội XI bắt đầu bước vào suy đồi.
(…)Toàn là giả dối cả. Nếu đưa cái
cương lĩnh chiến lược
này ra mà thông qua thì sẽ ra sao đây?
Quả đấm thép không đấm vào đối thủ mà lại
đấm ngay vào chính ta.
(…) Dân được nói mới là dân chủ.
Đảng vẫn đặt dân tộc sau
giai cấp. Dự thảo văn kiện đánh giá:“Dân chủ trong
Đảng được mở rộng”. Tôi nghĩ
trong Đảng là mất dân chủ nhất. Hầu như không
có nhận định nào trong văn kiện
là đúng sự thật thực tiễn.
(…) Đảng có dựa vào công nhân
không? Có dựa vào nông dân
không? Tôi nghĩ không. Vậy dựa vào cơ sở
nào? Có dựa vào trí thức không? Cũng
không nốt!
(…) Tình trạng mua quan bán chức lộ liễu,
công khai, hết
sức nguy hiểm. Thị trường quan chức bóp chết tất các thị
trường khác. Cơ chế
tuyển dụng, tuyển chọn cấp cao như thế nào? Không
công khai minh bạch. Người
lãnh đạo ở các cấp không có chịu
trách nhiệm gì cả về quyết định của mình. Bộ
Giao Thông, Bộ Xây Dựng … cầu đổ, nhà đổ ,
không thấy nói gì về trách nhiệm cả.
Một đất nước như vậy thì không mong đợi gì!
(…) Chưa bao giờ vấn đề nghiêm trọng như bây
giờ. Dân
không còn tin Đảng như trước nữa. Không ai quan
tâm nữa. Cương lĩnh đầy dẫy cái
sai, cái mơ hồ. Nói XHCN mà không biết
nó là cái gì? Nhiều chuyện ta tự lừa dối
mình và lừa dối người khác.
v.v.
Và
biên bản của cuộc hội thảo kết luận như sau:
“(Các
phát biểu trên đây) dù không được chấp
nhận, nhưng
ít ra cũng lưu vào văn bản, lưu lại hậu thế rằng năm 2010
có một số nhà kinh tế
đã nói như vậy, để hậu thế biết rằng, hóa ra đất
nước cũng còn những trí thức
không đến nỗi dốt nát”.
Bỏ qua suy luận
của một số người theo đó cuộc hội thảo
này đã được sự khuyến khích của một số thế lực
trong đảng để bêu xấu ông Nguyễn
Phú Trọng, trưởng ban soạn thảo các văn kiện chuẩn bị cho
Đại Hội XI và một
trong những ứng cử viên vào chức tổng bí thư,
câu hỏi đầu tiên đặt ra sau khi đọc
biên bản cuộc hội thảo này là: Còn
trí thức Việt Nam nào ủng hộ chế độ cộng sản
nữa hay không khi ngay cả những trí thức mà
nó ưu đãi nhất cũng đã quay lưng lại
với nó một cách phẫn nộ? Hỏi cũng là trả lời,
những người trí thức khác chỉ có
thể thù ghét hơn.
Vậy
mà chế độ vẫn tồn tại. Vậy trí thức có vai
trò nào
trong xã hội Việt Nam ngày nay?
Chủ nghĩa cộng
sản phủ nhận vai trò lãnh đạo của trí thức.
Những trí thức nổi tiếng đã ủng hộ đảng cộng sản trước
đây hoặc trong thâm tâm
không đánh giá cao chính mình hoặc
không thực sự là những trí thức lớn như nhiều
người nghĩ. Nhưng ngày nay chủ nghĩa Mác-Lênin
đã được cả thế giới, và chính
các trí thức Việt Nam, nhìn nhận là một sai
lầm thì quan điểm trí thức lãnh đạo
xã hội phải lấy lại chỗ đứng của nó, chỗ đứng của một sự
thực phải được tôn trọng.
Thảm kịch lớn nhất của đất nước hiện nay là trí thức
không lãnh đạo mà còn bị
lãnh đạo, trí tuệ phải phục tùng bạo lực, quả đấm
nghĩ thay cho cái đầu.
Các
phát biểu của hội nghị vẽ ra chân dung của một chế độ
cực kỳ vô lý, nhưng tại sao nó vẫn kéo
dài? Đây phải là câu hỏi mà trí
thức Việt
Nam phải đặt ra cho mình và cố gắng trả lời. Trong tinh
thần đó kẻ viết bài
này, vì cũng tự coi là một thành phần của
khối trí thức Việt Nam, xin mạo muội
đóng góp một vài ý kiến. Nếu những
phân tích sau đây có làm phiền
lòng một số
trí thức thì tác giả xin được thứ lỗi và
xin hiểu cho rằng những khuyết tật được
nêu ra sau đây đã hiện diện nơi chính người
viết.
Lý do thứ nhất của thảm kịch này là tư tưởng chính trị của
chúng ta quá kém. Chúng ta tự hào
là có bốn ngàn năm văn hiến nhưng chúng ta
không có một nhà tư tưởng nào, chưa
nói tới tư tưởng chính trị. Khuyết tật này
không khó khắc phục nếu chúng ta thực sự muốn khắc
phục. Trí thức Việt Nam có
thừa khả năng để đạt tới một tư tưởng chính trị, nhưng
hình như chúng ta có một
đồng thuận là chính trị không cần học, chính
trị là thực hành, không cần lý
thuyết, và không chịu hiểu rằng không có
gì thực dụng hơn một lý thuyết đúng. Một
trong những hậu quả là chúng ta chỉ nhìn dân
chủ dưới những thể hiện hình thức
của nó: bầu cử tự do, tam quyền phân lập v.v. Sự hời hợt
đó khiến chúng ta
không có thâm tín về dân chủ, vì
thế nếu có cổ võ cho dân chủ cũng không
có sức
thuyết phục. Làm sao có thể có thâm
tín về dân chủ khi chỉ biết về nó một cách
sơ sài như vậy? Mà khi chính mình đã
không thực sự tin thì làm sao có thể thuyết
phục được người khác? Chỉ có sự hiểu biết thấu đáo
mới có thể đem lại thâm tín,
quyết tâm và sức thuyết phục. Dân chủ không
giản dị như vậy. Nó là thành quả
không ngừng được bổ túc của một cuộc thảo luận lớn
kéo dài từ nhiều thế kỷ nay
và vẫn còn tiếp tục (sẽ không có cái
gọi là the end of history!).
Sự
hụt hẫng về tư tưởng của trí thức Việt Nam có thể thấy
được dễ dàng. Vẫn có những trí thức dân chủ
gạt phăng chủ nghĩa cá nhân như là
đồng nghĩa với chủ nghĩa ích kỷ mà không làm
phiền lòng ai, trong khi chủ nghĩa
cá nhân chính là nền tảng của dân chủ.
Bản Tuyên Ngôn Phổ Cập về Quyền Con Người
(hay Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền) không
khác gì hơn là
tuyên cáo của chủ
nghĩa cá nhân. Nó lấy con người làm
cứu cánh và qui định một không gian cá
nhân
mà nhà nước không thể xâm phạm.
Adam Smith – Điều
nghiên về bản chất và
nguyên nhân của sự thịnh vượng của các quốc gia
Một thí dụ khác là kinh tế thị trường. Đa số
trí thức Việt Nam coi chủ thuyết
kinh tế thị trường, mà Adam Smith là người cổ võ
nổi tiếng nhất, như là một lý
thuyết kinh tế theo đó nhà nước không nên can
thiệp mà cứ để cho các tác nhân
kinh tế trao đổi với nhau qua thị trường rồi tự nhiên sẽ
có một bàn tay vô hình
an bài tất cả một cách thỏa đáng. Nếu quả thực như
thế thì nó đã bị vất bỏ từ
lâu rồi vì rất sai, ngay cả dưới một chế độ tư bản.
Không có “bàn tay vô hình”
nào dẫn dắt kinh tế cả, kinh tế thị trường đòi hỏi những
luật lệ nghiêm túc và
những biện pháp kiểm soát chặt chẽ nếu không muốn
rơi vào hỗn loạn và khủng hoảng.
Tác phẩm Điều Nghiên Về Bản Chất và Những
Nguyên Nhân của Sự Thịnh Vượng Của
Các Quốc Gia (An Inquiry into the Nature and Causes of the
Wealth of Nations)
là một tác phẩm về triết lý chính trị,
chính vì thế mà hai thế kỷ rưỡi sau nó vẫn
còn giá trị của một tác phẩm lớn.
Người ta
thường đả kích chủ trương “kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” là đã gán
ghép một cách tổ chức kinh tế và một triết
lý
chính trị mâu thuẫn với nhau. Cách phản bác
này không sai nhưng thiếu sức thuyết
phục vì thiếu chiều sâu. Thực ra cụm từ này
còn ngớ ngẩn hơn nhiều vì nó gán
ghép hai triết lý chính trị đối chọi với nhau;
kinh tế thị trường chỉ là một
tên gọi khác của chủ nghĩa cá nhân, nền tảng
của dân chủ.
Một
hậu quả của sự thiếu tư tưởng chính trị là cuộc thảo
luận bênh vực dân chủ trở thành nhạt nhẽo. Nếu
dân chủ chỉ giản dị như thế thì
ai chẳng biết, có gì để nói, và ai cần nghe
ai? Một hậu quả khác là phong trào
dân chủ không mạnh và không có được sự
liên tục thế hệ đáng lẽ nó phải có. Tại
sao? Đó là vì chỉ có tư tưởng mới có
thể gắn bó được những con người và các thế
hệ. Các tôn giáo sở dĩ qui tụ được nhiều người
và lưu truyền được từ đời này
sang đời khác là vì niềm tin của họ được
nhìn như một tư tưởng. Đầu tư vào tư
tưởng chính trị là điều trí thức Việt Nam phải
làm. Khẩn
cấp.
Khổng Tử
Lý do thứ hai là di sản văn hóa. Từ ngày
lập quốc, khi bị
ngoại thuộc cũng như lúc tự
chủ, chúng ta được nhào nặn trong nền văn hóa
Khổng
Giáo coi làm chính trị chủ yếu là
để làm quan. Tâm lý này được duy trì
hầu như
nguyên vẹn dưới chế độ cộng sản bởi vì chủ nghĩa Mác-Lênin
không khác gì Khổng
Giáo. Với một quan niệm như vậy thì dấn thân
chính trị, dù là để chống lại một
bạo quyền, không hề là một nghĩa vụ đạo đức mà chỉ
xuất phát từ tham vọng danh
lợi cá nhân, một tham vọng thấp hèn vì
làm quan chỉ là làm tay sai không điều
kiện. Sự hèn nhát
và xu thời được Khổng Giáo nâng lên
thành những giá trị. Khổng
Tử để lại một lời giáo huấn vàng ngọc cho kẻ sĩ: “Nước
nguy thì chớ vào, nước
loạn thì chớ ở, hoàn cảnh tốt thì ra làm
quan, hoàn cảnh xấu thì ẩn mình” (Nguy
bang bất nhập, loạn bang bất cư, thiên hạ hữu đạo tắc kiến,
thiên hạ vô đạo tắc
ẩn – Luận Ngữ). Sau đó nếu có dấn thân chính
trị thì cũng chỉ làm chính trị kiểu
nhân sĩ, nghĩa là hoặc không tham gia một tổ chức
nào hoặc nếu có tham gia thì
cũng chủ yếu để lợi dụng tổ chức cho tham vọng cá nhân của
mình, chứ không phải
để xây dựng tổ chức như là một nhịp cầu phải có để
dẫn tới một tương lai đáng
mong ước từ một hiện tại không chấp nhận. Phải khẩn cấp trả lại
cho đấu tranh
chính trị nghĩa thực và đúng của nó, nghĩa
là đấu tranh để cải thiện xã hội, để
tôn vinh quyền làm người và đem lại phúc lợi
tối đa cho thật nhiều người. Sứ mạng
cao cả và khó khăn này kéo theo hai hệ
luận: một là khi đất nước không may lọt vào
tay một chính quyền thô bạo thì đấu tranh để thay
đổi nó là một bổn phận chứ
không phải chỉ là một chọn lựa; hai là muốn đạt mục
tiêu to lớn đó thì phải có
sức mạnh, nghĩa là phải có đội ngũ. Đấu tranh
chính trị không bao giờ là đấu
tranh cá nhân cả, mà luôn luôn
là đấu tranh có tổ chức. Trí
thức
Việt Nam muốn
giành tự do hay chỉ xin tự do?
Lý
do thứ ba, hậu quả của di sản văn hóa trên nhưng có
tầm
quan trọng đặc biệt của nó, là chúng ta
hoàn toàn thiếu văn hoá tổ chức. Tôi
đã
viết khá nhiều về đề tài này, ở đây chỉ xin
nhấn mạnh một điều là không nên lầm
văn hóa tổ chức với kỹ thuật tổ chức; người ta có thể
biết tổ chức chu đáo một
hội nghị, thậm chí điều khiển một cơ quan, mà vẫn
không có văn hóa tổ chức. Một
cách tóm lược, văn hóa tổ chức là
toàn bộ những kiến thức, tập quán, phản xạ,
cách suy nghĩ và hành động khiến ta một mặt hiểu
tầm quan trọng của tổ chức và
cảm thấy có nhu cầu sinh hoạt trong tổ chức, và mặt
khác suy nghĩ và hành xử một
cách phù hợp để giữ gìn và phát
triển tổ chức. Trí thức Việt Nam hiếu học và có
thể bỏ ra hàng chục năm để nghiên cứu một đề tài
chuyên môn nhưng lại không chịu
bỏ ra vài tháng để đọc vài cuốn sách cơ bản
về tâm lý xã hội. Kết quả là họ
không thấy có nhu cầu phải tham gia một tổ chức nào
và nếu đã gia nhập một tổ
chức thì thường thấy có rất nhiều lý do để rời bỏ
tổ chức. Sự thiếu văn hóa tổ
chức còn được trầm trọng hóa nơi trí thức trong
nước vì một nguyên nhân khác,
đó là sự kiện các tổ chức bị cấm đoán,
ngoại trừ những tổ chức được coi là những
công cụ của đảng cộng sản.
Trí
thức Việt Nam hình như chưa thấy được sự nghiêm trọng
của sự thiếu vắng văn hóa tổ chức. Một câu hỏi: Lấy
tiêu chuẩn nào để đánh giá
mức độ văn minh và tiến hóa của một dân tộc? Ta
có thể trả lời một cách quả quyết
và dứt khoát: Đó là văn hoá tổ chức.
Văn hóa tổ chức quyết định phẩm chất và
triển vọng của các dân tộc. Việc đảng cộng sản cấm sinh
hoạt tổ chức phải được
coi là rất độc hại vì có tác dụng cột
chân đất nước trong sự thấp kém. Phải coi
đấu tranh cho quyền tự do kết hợp (nghĩa là thành lập
hoặc tham gia các tổ chức)
như là một trong những cuộc đấu tranh sống còn của đất
nước.
Cũng cần ý
thức rằng đối với các cá nhân sự thiếu vắng
văn hoá tổ chức có hai hậu quả nghiêm trọng:
° Một
là, vì thiếu văn hoá tổ chức chúng ta
không có tổ
chức, rồi vì không có tổ chức chúng ta
cô đơn và bất lực, đến lượt nó cảm giác
bất lực khiến chúng ta nhút nhát.
° Hai
là, tổ chức – dĩ nhiên là tổ chức đúng
nghĩa, do
các thành viên tự nguyện lập ra để theo đuổi một
mục đích chung, chứ không phải
là tổ chức công cụ của chính quyền – là một
môi trường sản xuất và sàng lọc ý
kiến (1), sự thiếu vắng tổ chức khiến trí tuệ bị bế tắc
và giới hạn.
Quan
trọng hơn hết, lý do thứ tư là sự ngộ nhận rất lớn về
tiến trình thay đổi chế độ. Phần lớn trí thức Việt Nam
cho rằng phương thức tốt
nhất để thay đổi chế độ là hợp tác để dần dần cải thiện
nó từ bên trong. Diễn
nghĩa: không ra mặt phản kháng mà chỉ cố sống lương
thiện, hành xử đúng và khéo
léo gợi ý khi cơ hội cho phép. Phương thức
này được ưa chuộng vì sự tiện nghi
và an toàn của nó nhưng nó sai hoàn
toàn. Nó không thay đổi được chế độ mà
còn
củng cố chế độ và triệt tiêu cả sự lương thiện lẫn
ý muốn thay đổi, trong nhiều
trường hợp nó chỉ là một ngụy biện cho thái độ
phục tùng vụ lợi. Tiến trình
thay đổi một chế độ cũng như một tổ chức, như lịch sử đã chứng
minh và được
trình bày đầy đủ trong mọi nghiên cứu về sinh hoạt
tổ chức và đấu tranh chính
trị, ngược hẳn với quan điểm này và có thể
tóm lược như sau:
• Nhận thức về sự
cần thiết phải thay đổi xuất hiện nơi một
số người;
• Những người
này liên kết với nhau và tự cô lập với phần
còn lại để tranh đấu cho lập trường đổi mới. Họ đảm nhận vai
trò thiểu số với
những hậu quả của nó, như bị trù dập, thậm chí bị
tiêu diệt.
• Họ dần dần mạnh
lên, thuyết phục được hoặc khắc phục được
phần còn lại và áp đặt sự thay đổi.
Liên kết
với nhau và tự cô lập là điều kiện bắt buộc để
có thể thành công của những người muốn thay đổi.
Nếu không, nếu chấp nhận luật
chơi hiện hành, họ sẽ bị hòa tan trong “thực tại”
và ý chí thay đổi sẽ tiêu
tan. Hơn thế nữa, có mọi triển vọng là chính họ
cũng sẽ bị lưu manh hóa trong một
bối cảnh xã hội bất lương. Đi với ma mặc áo giấy.
Như
để chứng minh rằng chính trị và đời sống chỉ
là một,
đây cũng là quá trình tiến hóa của
mọi chủng loại. Lấy thí dụ tiến hóa từ vượn
lên người; những con vượn đầu tiên nơi những biến đổi ban
đầu xuất hiện đã sống
biệt lập với những con vượn khác và tiếp tục tiến
hóa để thành người, nếu không
chúng đã bị tiêu hóa nhanh chóng
trong cả khối lớn của chủng loại, và vượn vẫn
là vượn chứ không thành người.
Hãy tạm
dừng lại trong bốn nguyên nhân chính đó. Sự
kéo
dài của chế độ vô lý này, trong đó
một đảng vừa thiếu trí tuệ vừa không lương
thiện lại đã mất hết tính chính đáng
đã cầm quyền một cách độc đoán quá
lâu và
còn ngang ngược khẳng định sẽ tiếp tục thống trị đất nước một
cách độc đoán
trong thời gian vô hạn định mà không gặp chống đối
nào đáng kể, được nhiều người
giải thích là vì dân trí ta
còn kém. Như thế phải chăng hệ luận tự nhiên
là tất
cả những gì chúng ta có thể làm hiện nay
chỉ là một cố gắng văn hóa nhằm nâng
cao dân trí? Không gì sai hơn nhận định
này. Hoa Kỳ và các nước Châu Âu
đã thiết
lập được dân chủ vào lúc dân trí của
họ còn ở một mức độ rất thấp so với chúng
ta hiện nay. Và họ không có PC, internet và
điện thoại di động; chung quanh họ
cũng chỉ có những chế độ quân chủ tuyệt đối. Và cả
thế kỷ sau khi đã bước vào kỷ
nguyên dân chủ tuyệt đại đa số vẫn không biết đọc,
biết viết! Họ đã có dân chủ
vì may mắn có được những trí thức đúng
nghĩa, những trí thức có tư tưởng dân chủ
và dám giành quyền lãnh đạo xã hội
thay vì chấp nhận thân phận dụng cụ của kẻ cầm
quyền. Như vậy không nên đổ lỗi cho dân trí
Việt Nam thấp mà hãy lương thiện
nhìn nhận là trí thức Việt Nam kém.
Kém về hiểu biết, do chỉ học để lấy bằng cấp
và đi làm chứ không đầu tư vào tư tưởng
và chính trị. Các trí thức Việt Nam
có
thể chủ quan mà tưởng rằng họ hiểu biết về chính trị khi
họ đã có bằng kỹ sư cơ
khí hay tiến sĩ luật nhưng thực ra họ không biết.
Và càng kém vì không dám.
Có
lẽ chính vì không dám mà họ
không tìm hiểu phải đấu tranh chính trị như thế
nào, rồi không biết.
Trong mọi xã hội cần thay đổi người ta thường phân biệt
những người không muốnvà những người không thể. Thảm
kịch của Việt Nam là vấn đề
không đặt ra như thế, đại đa số trí thức vừa không
biết vừa không dám. Có bao
nhiêu người dám chấp nhận mất thẻ đảng và những
quyền lợi mà nó bao hàm? Và
trong số những người dũng cảm này có bao nhiêu
người biết đấu tranh đúng phương
thức? Cũng không thể trốn tránh sau cái lý
cớ “không làm chính trị”. Dấn thân
chính trị trong hoàn cảnh đất nước hiện nay là một
mệnh lệnh của lương tâm và
lòng yêu nước. Chính trị không phải là
tất cả, nhưng nếu chính quyền tồi tệ thì
tất cả đều bế tắc.
Các trí thức ưu tú trong hội nghị này
tuyên bố: “Trách
nhiệm của nhà nghiên cứu là nói trung thực,
thẳng thắn, với tinh thần xây dựng,
mong muốn Đảng mạnh lên, đất nước mạnh lên”. Tại sao lại cứ
phải mong muốn “Đảng
mạnh lên” dù Đảng đã chỉ là một đảng như mọi
người và chính các vị cũng đã thấy?
Tại sao “trách nhiệm của nhà nghiên cứu” lại kỳ cục
như vậy? Có gì là “trung thực,
thẳng thắn” trong thái độ này? Cùng lắm là
tháí độ tôi trung!
Một trí
thức không tham dự hội nghị, ông Lê Hiếu Đằng, một
đảng viên cộng sản và một nhân vật cao cấp trong Mặt
Trận Tổ Quốc, nhận định
đúng đắn hơn:
“Lúc
này hơn lúc nào hết, chúng ta phải đặt
quyền lợi của
đất nước, của dân tộc lên cao nhất, hơn mọi lợi ích
riêng tư, phe nhóm”.
Người ta chỉ
có thể đồng ý và ủng hộ lập trường này.
Và
tiếp theo là gì? Ông Lê Hiếu Đằng nhận định:
“Trong cuộc đấu tranh cho dân
chủ, chúng ta không có gì
phải sợ, tôi muốn nhắc lại điều tâm niệm này cho
chính mình mà cũng là điều muốn
nhắn gửi các đồng chí, đồng đội, bạn hữu của mình
và tất cả những ai còn trăn
trở với những vấn đề của đất nước, của dân tộc. Mà tại sao
chúng ta phải sợ? Những
người phải sợ là những người đi ngược lại lợi ích của đất
nước, của nhân dân.
Chắc chắn họ sẽ bị nhân dân chối bỏ, bị lịch sử phủ nhận”.
Càng đáng tán thành. Chỉ mong những người
như ông Lê Hiếu
Đằng quyết tâm tiến tới và đừng quên rằng đấu tranh
chính trị bao giờ cũng phải
là đấu tranh có tổ chức, nếu không chỉ là
lãng mạn.
Không
có gì phải sợ? Tôi e rằng ông Lê Hiếu
Đằng hơi chủ
quan hoặc quá lạc quan. Dĩ nhiên là tình
hình không còn như trước, xã hội Việt
Nam đã chín muồi cho một chuyển hóa dứt
khoát về dân chủ và những người dân chủ,
nhất là những người trong guồng máy đảng và
nhà nước cộng sản, có thể tranh đấu
cho dân chủ mà không phải chịu đựng những hy sinh
quá lớn nếu tranh đấu một
cách thông minh. Bằng cớ là các trí
thức tham dự hội nghị đã có thể nói những
điều họ đã nói và chắc sẽ không gặp
khó khăn nào. Nhưng dầu sao cũng vẫn phải sẵn
sàng chấp nhận một số thiệt thòi nếu đấu tranh thực sự,
nghĩa là đấu tranh có tổ
chức, điều mà đảng cộng sản còn cấm kỵ. Trở ngại
và rủi ro có thực chứ không phải
là hoàn toàn không có gì phải
sợ. Vả lại chẳng có cuộc đấu tranh nào mà lại
không đòi hỏi hy sinh. Nhưng chính vì những
hy sinh này mà những người dám dấn
thân đấu tranh cho dân chủ đáng được trân
trọng.
Các
trí thức tham dự hội nghị kết luận rằng các phát
biểu
của họ dù không được chấp nhận “nhưng ít ra cũng
lưu vào văn bản, lưu lại hậu
thế rằng năm 2010 có một số nhà kinh tế đã
nói như vậy, để hậu thế biết rằng,
hóa ra đất nước cũng còn những trí thức
không đến nỗi dốt nát”.
Ý
muốn để lại một di chúc cho mai sau là một ý muốn
cao cả
mà người ta chỉ có thể kính trọng. Tuy nhiên
có một cái gì vừa mập mờ vừa ai
oán trong kết luận này khiến người ta không khỏi
phân vân. Dốt nát là một khái
niệm tương đối. Ai cũng dốt nát trên những điều mà
mình không biết và nói chung
chúng ta chỉ hiểu biết trên một số ít địa hạt, phần
còn lại chúng ta đều dốt cả.
Nhưng có một vấn đề mà mọi người trí thức đều phải
quan tâm là tình hình chính
trị của đất nước hiện nay. Ai cũng đồng ý là phải đấu
tranh để thay đổi chế độ,
và như thế cần có tư tưởng chính trị và cần
biết phương pháp đấu tranh chính trị.
Về điểm này chúng ta đã thực sự ra khỏi sự dốt
nát chưa?
Nghiêm trọng
hơn là chúng có dám tranh đấu thay đổi chế
độ không? Nếu dám thì dù không biết
chúng ta cũng có thể học hỏi để biết. Chỉ sợ chúng
ta không dám. Hội nghị muốn
để lại cho hậu thế một di chúc rằng năm 2010 có những
trí thức Việt Nam không dốt
nát, nhưng giữa dốt nát và hèn nhát,
ký ức nào tủi hổ hơn cho con cháu?
Nguồn: Thongluan.org
—————————————————————-
Ghi
chú:
(1) Nguyễn
Gia Kiểng, Tổ chức và sự hình thành của ý
kiến, Thông Luận tháng 01/2006