Nguyễn Văn Tuấn là một nhà khoa học y
khoa chuyên về dịch tễ học và di truyền loăng
xương. Ông hiện là giáo sư thỉnh giảng cao cấp
tại Đại học New South Wales, Úc[1]
Tiểu sử
Ông sinh ra tại Kiên
Giang, cha ông là một chiến sĩ Vệ quốc
quân người B́nh
Định đă vào Nam theo chiến dịch Nam tiến
thời chống Pháp. Ông lớn lên ở Kiên Giang và rời
Việt Nam năm 1981 sang định cư tại Australia năm
1982.[2]
Khi sang Úc định cư, ông bắt đầu bắc các công
việc phụ bếp, rồi làm phụ tá trong pḥng thí
nghiệm sinh học tại Bệnh viện St. Vincent’s.
Từ năm 1987-1997: Ông lần lượt tốt nghiệp Thạc
sĩ Đại
học Macquarie (Úc), Tiến sĩ thống kê,
chuyên về dịch tễ học Đại
học Sydney (Úc), Tiến sĩ y khoa Đại
học New South Wales (Úc), Nghiên cứu sinh
sau tiến sĩ (postdoc) tại Đại
học Basle, Trung tâm nghiên cứu lâm sàng
Sandoz (Thụy Sĩ) và Bệnh viện St Thomas (Anh).
Năm 1997, ông tốt nghiệp Tiến sĩ Y khoa nội
tiết học, và được bổ nhiệm làm Phó Giáo sư Dịch
tễ học trường Y thuộc Đại học Wright States
(Mỹ), Năm 1998 ông được bổ nhiệm Phó Giáo sư y
khoa tại trường này.
Năm 2009, ông được bổ nhiệm Giáo sư Đại
học New South Wales (Úc) và là hiện là
giảng viên cao cấp tại trường này.
Ngoài công việc thỉnh giảng ông c̣n là một nhà
nghiên cứu khoa học với các công việc như Trưởng
nhóm nghiên cứu tại Viện
nghiên cứu Y khoa Garvan, Úc và là Nghiên
cứu viên cao cấp Hội
đồng quốc gia về nghiên cứu y khoa và y tế Úc
(NHMRC).[1]
Trên trường quốc tế ông đă có gần 150 công
tŕnh nghiên cứu khoa học mà 70% là về di truyền
học, 30% là dịch tễ học, đă từng làm giáo sư
thỉnh giảng tại nhiều nước như Mỹ, Anh, Hồng
Kông.[2]
Ngoài lĩnh vực Y khoa tạo nên tên tuổi, ông
cũng dành thời gian viết về nghiên cứu văn học
và báo chí, với những bài viết sắc sảo trên
những tờ báo lớn ở Việt Nam.
Những
đóng góp với Việt Nam
Sau chiến tranh Việt Nam, những tác hại của chất
độc màu da cam mà quân đội Mỹ đă rải xuống
Việt Nam đă để lại nhiều di hại đối với người
dân Việt Nam, mặc dù các tài liệu nghiên cứu ở
nước ngoài nói nhiều tới vấn đề này song do
những điều kiện khách quan ở trong nước có rất
ít những công tŕnh đánh giá về tác hại này, với
những kinh nghiệm và chuyên môn của ḿnh ông đă
viết cuốn Chất độc da cam, dioxin và hệ quả
được Nhà xuất bản Trẻ xuất bản vào tháng
07.2004. Đây là cuốn sách đầu tiên viết về chất
độc da cam ở Việt Nam một cách có hệ thống đă
được in ra tiếng Pháp và tiếng Anh.[2]
Ngoài công tŕnh được in ra tiếng Anh và tiếng
Pháp trên, ông c̣n tiếp tục đăng tải trên các
báo ở Việt Nam và nước ngoài nhiều bài viết khác
tŕnh bày những bằng chứng chứng minh rằng chất
độc da cam không chỉ để lại hệ quả cho người dân
Việt Nam, mà ngay cả lính Mỹ. Ông dẫn chứng dữ
kiện cho thấy Mỹ đă tiến hành một cuộc chiến
tranh hóa học bất hợp pháp lớn nhất trong lịch
sử nhân loại, bất chấp các Công ước Quốc tế như
Quy ước La Hague (1907), Công ước Geneva (1925),
Nghị quyết của Liên hiệp quốc (1929) về việc cấm
sử dụng chất độc hóa học trong chiến tranh. Đây
cũng chính là luận điểm mà luật sư đại diện cho
nạn nhân chất độc da cam gọi là “tội ác chiến
tranh”,“tội ác chống nhân loại” không thể dung
thứ được và phải được xét xử một cách công bằng.
Riêng ông xem đó như một sự “ṣng phẳng của lịch
sử” trong đó công lư phải được tôn trọng.[2]
Ông là người đầu tiên đem ngành loăng xương về
Việt Nam và sáng lập hội loăng xương. Đem y học
thực chứng về Việt Nam và in cuốn sách đầu tiên
về chuyên ngành này, ông cũng là người đầu tiên
giới thiệu ngôn ngữ thống kê R ở Việt Nam, và
cho đến nay cuốn sách R của ông vẫn là cuốn nhập
môn duy nhất về R cho sinh viên cả nước dùng.
Tính đến nay ông đă in 10 cuốn sách tại Việt
Nam. Ông đă hướng dẫn sinh viên và cộng tác với
các đồng nghiệp ở Việt Nam trong lĩnh vực của
ông trên 15 công tŕnh nghiên cứu đă được đăng
trên các tập san quốc tế, ông đă đào tạo được 4
tiến sỹ giúp Việt Nam và đă tổ chức các hội nghị
chuyên ngành và mời hàng ngàn các đồng nghiệp
quốc tế về Việt Nam. Ông thường xuyên về Việt
Nam thỉnh giảng, mỗi lần như vậy kéo dài cả nửa
tháng.
Ông viết rất nhiều các bài viết về giáo dục, về
kinh nghiệm nghiên cứu khoa học để chia sẻ với
các sinh viên và đồng nghiệp trẻ ở Việt Nam trên
blog của ḿnh và báo chí
trong nước, các ư kiến của ông được tiếp nhận
tốt ở Việt Nam và được đánh giá cao. Ngoài ra
ông c̣n tham ra tranh đấu chủ quyền biển đảo cho
Việt Nam thông qua báo chí, diễn đàn và các tổ
chức quốc tế.
Xem
thêm
Liên kết
ngoài
Chú thích