Nho giáo là của Việt Nam,
Tàu chính là dân học mướn viết
nhờ.
Kim
Định
Câu trên mới
nghe ai cũng cho là kỳ lạ nhưng nó sẽ bớt
tính cách kỳ lạ khi nói thêm rằng: Tàu chỉ
là chủ của Nho giáo tự đời Tần Hán mà
thôi, còn hai đợt trước thì chính chủ là
Việt Nam.Và câu này sẽ trở nên thường khi
xét tới những chứng lý được viện dẫn ra.
Ta có thể nói những chứng lý đó khá vững
mạnh. Trước hết là nền văn hóa nông nghiệp
bao giờ cũng cao hơn văn minh du mục như
đã được rất nhiều học giả ghi nhận và
chứng minh. Chúng tôi đã chứng minh và dẫn
thêm mấy nhân chứng như Chu Cốc Thành,
Oppeinheimer và Whitehead (quyển
Adventures of ideas đã được dịch sang
tiếng Việt do nhà Văn Đàn xuất bản “Bước
đường phiêu lưu của những dòng tư tưởng”
tr.224). Bằng chứng cụ thể: văn hóa
Mohenjodaro nông nghiệp cao hơn văn minh
Aryen du mục.
Điểm thứ
hai là khắp trên thế giới đâu đâu văn hóa
nông nghiệp cũng bị văn minh du mục tiêu
diệt: Aryen thắng Dravidiens, Hellens
thắng Minoens… và do đó duy trì đẳng cấp
cùng các đặc ân và chế độ nô lệ để du mục
được ăn trên ngồi trốc. Song le tuy thắng
mặt ngoài nhưng lại chịu ảnh hưởng về mặt
tinh thần của nông nghiệp cho nên ngày nay
những nhà nghiên cứu đứng đắn không ai dám
phủ nhận phần đóng góp lớn lao của
Dravidiens vào nền văn hóa Ấn Độ. Nếu vậy
thì tại sao ta lại không tìm xem Viêm Việt
đã đóng góp những gì vào nền văn hóa Nho
giáo; vì Viêm Việt cũng gặp trường hợp
tương tự như Dravidiens đối với Hoa tộc là
Aryen.
Điểm ba là
nếu Dravidiens còn đóng góp vào văn hóa
thì phương chi là Viêm Việt vì Viêm Việt
hơn Dravidiens nhiều điểm: trước hết khi
Hoa tộc tràn vào thì chưa có kinh điển như
Aryen đã có Vệ Đà. Thế mà lúc ấy Viêm Việt
đã có “tam phần, ngũ điển, bát sách, cửu
khâu” vì thế chính Hoa tộc tuy thắng thế
cũng đã phải mập mờ chấp nhận như trong
những câu nói: “tích giả Hoàng Đế đắc Si
Vưu nhi minh ư thiên đạo” và trong biết
bao truyện truyền kỳ khác như chúng tôi sẽ
lần lượt phanh phui.
Chính đó
là lý do khiến những yếu tố đóng góp của
Hoa tộc như óc võ biền, óc tôn quân, óc
thượng luật bao giờ cũng bị coi thường.
Trái lại Nho giáo luôn luôn đề cao Văn
trên Võ, nhơn trị, lễ trị trên pháp trị
hình luật… dân trên quân nghĩa là tính
chất văn hóa nông nghiệp vẫn giữ phần trội
ít ra trong phạm vi văn hóa lý thuyết.
Huống chi trong hiện thực như trong đời
sống chính trị thì Viêm tộc được đóng góp
phần rất then chốt tuy không có tiếng,
nghĩa là Viêm Việt vẫn thành công khá
trong chủ trương “vua trị vì, quan cai
trị” c’est le roi qui règne mais ce sont
les mandarins qui gouvernent. Trị vì thuộc
vương triều thường là của Hoa tộc, còn cai
trị thì thuộc các quan, tức là phía dân
phía Viêm Việt vì các quan hay người hiền
thì hầu hết xuất thân từ nông nghiệp ông Y
Doãn cày ruộng ở đất Hữu Sằn. Ông Bá Lý Hề
chăn trâu, ông Thuấn cày ruộng v.v… Chính
nhờ chủ trương này mà Viêm Việt đã tham
gia tích cực vào đời sống chính trị và đã
đạt những thành quả mà chưa bao giờ người
Dravidiens đã dành được trên đất Ấn Độ của
họ. Nghĩa là tuy họ sống trong đất cha ông
giối lại nhưng chỉ như là những nô lệ, hay
ít nhất không được tham dự tích cực vào
đời sống chính trị văn hóa như Viêm Việt.
Chính nhờ đó mà chế độ nô lệ đã được bãi
bỏ, và thiết lập ra chế độ công điền bình
sản, bình quyền đi học: xóa bỏ sự phân
cách giữa Hoa tộc và Viêm tộc để cho hai
bên cùng một quyền lợi như nhau.
Trở lên là
những chứng lý rút ra trước hết do các
kinh điển và sách vở của Tàu, còn của Việt
Nam thì ta chỉ dùng để kiện chứng, như vậy
là bớt được rất nhiều phần chủ quan mà
những lý chứng đó còn có được tầm phổ biến
và khách quan cả khi so sánh với các nền
văn minh khác, cũng như khi xét về nội
tình văn hóa Việt nho, vì thế chúng tôi
không ngần ngại cho rằng chính sự tin
tưởng như quen làm cho tới nay rằng Việt
Nam mượn Nho giáo của Tàu là câu nói thiếu
chiều sâu nên là sai lầm, và chính bởi tin
sai lầm như vậy nên cho tới nay người mình
vẫn hoàn toàn bất lực không thiết lập nổi
nền Quốc học như chúng tôi sẽ đề cập trong
quyển “Vấn đế quốc học”.
Bạn sẽ
nói: nếu quả có thực như thế vậy tại sao
từ trước tới nay không ai nhìn thấy, không
thấy có cuộc tranh đấu nào. Thưa rằng có
nhiều điều cũng khá hiển nhiên mà vẫn nằm
trong thiên nhiên phải chờ có người biết
khám phá. Và vì chưa khám phá nên không có
đấu tranh.
Riêng
trong trường hợp Việt Nho thì còn khó nhìn
ra hơn nữa vì Việt Nho đã thành công trong
những mục tiêu chính vì thế không còn gì
để mà tranh đấu cũng như không còn phải
tranh đấu cho ai. Trước hết là cho ai. Nếu
ai ấy là Viêm Việt thì không còn nữa vì đã
pha máu quá nhiều lần rồi, biết bao ông
Hoa lấy bà Việt rồi, nên ít thế hệ không
còn vấn đề thị tộc, chủng tộc. Cái mức
đồng hóa của Viêm Việt mãnh mẽ đến đâu chỉ
cần lấy dân Do Thái làm nhân chứng. Do
Thái sinh sống trong văn hóa Âu Tây hai
ngàn năm mà nay vẫn còn duy trì óc chủng
tộc, đang khi Do Thái vào nước Tàu thì mất
luôn óc chủng tộc. Vì thế bên Viễn Đông
không có óc kỳ thị chủng tộc, ít ra tới độ
đủ để tranh đấu, vì ai cũng được quyền như
ai. Nghiêu Thuấn là Đông Di Tây Di cũng
được làm thiên tử, có chăng chỉ còn vấn đề
quan quyền và dân gian nhưng bờ cõi phân
ranh này cũng đã được phá vỡ từ khi thực
thi câu “hữu giáo vô loài”. Cửa đã mở ra
rồi tranh đấu cái chi nữa. Vậy tại sao nay
lại nhắc tới?
Thưa vì
hiện chúng ta đang từ chối Nho giáo như là
đồ mượn của Tàu, nên cần phanh phui lại để
nói lên tác quyền của cha ông, nói lên
phần đóng góp của nhiều ngàn đời tiên tổ
vào một nền văn hóa chung, mà nay lại còn
cần thiết cho nước nhà hơn khi nào hết. Vì
thế phanh phui ra sự thực thì không phải
để tranh đấu với ai mà chính là để chúng
ta thâu hồi lại cái di sản của chúng ta.
Để sự thu hồi được hiện thực chúng ta hãy
tìm cách nhận diện nền văn hóa cố cựu đó
trong mấy điểm sau đây:
- Nguồn
văn minh là nông nghiệp
- Gốc văn
hóa là Viêm tộc mà
- Việt tộc
nằm trong khối đó.
Điểm trước
hết là nông nghiệp. Nông nghiệp vẫn trường
tồn ngược với du mục đã tiêu trầm nhưng đã
trao tính chất du mục sang công thương
nghiệp, nên công thương nghiệp là kẻ kế tự
của du mục, muốn tìm hiểu du mục thì phải
tìm hiểu qua thương, công. Thương công
thường ở thành thị, còn nông nghiệp phải
gắn liền với đồng quê. Văn hóa Tây Âu nặng
về thương công thuộc homo mercator (thương
nhân) và homo faber (công nhân) cả hai đều
xem vật tự ngoại, nhất là mercator
(Instinct. Bandoin 158). Bởi thường sống ở
thành thị xa thiên nhiên nên dễ để trụt
mất nội dung của các biểu tượng, vì thế dễ
trở thành trừu tượng (Creel 297), văn hóa
trở thành nhân vị đứng ngoài đời sống là
do đó. Ngược lại văn hóa nông nghiệp vì
không thể cưỡng ép thiên nhiên như bắt
thảo mộc mọc mau chậm theo ý mình, nhưng
phải hòa hợp với tứ thời, bát tiết, nhịp
theo hai mùa lớn là Xuân Thu với gieo gặt.
Vì thế có một sự liên đới rất cụ thể và
mật thiết giữa người với thiên nhiên, được
kết tinh trong câu nói của Vương Sung
“thiên nhơn đồng đạo, chữ hán”. Chính vì
đó mà tính chất của nó là yêu chuộng hòa
bình, chống chiến tranh (Creel 77), đặt
Văn trên Võ nên không có anh hùng ca (của
riêng dân hiếu chiến).
Văn minh
nông nghiệp còn một đặc tính nữa là yêu
nhà, yêu nước, vì thế đề cao non nước, đề
cao thổ thần nên trong câu nói trung quân
ái quốc thì chữ “Aùi quốc” có màu sắc nông
nghiệp, yếu tố địa vực (locale) trái lại
chữ “Trung quân” lộ vẻ du mục đề cao người
cầm đầu (personnel) vì văn minh du mục
lang thang không nhà, không nước, hay
thương công cũng không thiết với nước
bằng: hễ “đâu dễ sống dễ kiếm ra tiền thì
đấy là tổ quốc”, ubi bene vivere ibi
patria, vì thế trào lưu vô gia đình vô tổ
quốc phát xuất từ văn minh thương nghiệp
và ngày nay hai chữ nhà và nước đã trụt
mất rất nhiều nội dung là do sự lấn át của
nên văn minh công thương du mục vậy. Nền
văn minh này đã khởi đầu lấn át nông
nghiệp từ lâu lắm: mãi từ ngày Cain giết
chết em là Abel. Cain và Abel là hai biểu
tượng cho hai nền văn minh nông nghiệp và
du mục. Khi nói Cain giết Abel thì cũng là
nói “du mục lấn át nông nghiệp” và được
thể hiện qua lịch sử như anh Hellens đối
với em Minoens, anh Aryens dối với em
Dravidiens, anh Hoa đối với em Viêm v.v…
và đâu đâu cũng thế: anh Cain giết em Abel
cách này hoặc cách khác, ít hoặc nhiều.
Phần lớn
là nhiều, đôi khi là ít và ít hơn hết thì
phải kể đến các em Viêm bởi các em này đã
không để cho các anh Hoa làm mưa làm gió
như bên Tây Âu hay Ấn Độ, nhưng đã chiến
đấu nhất là trên phương diện tinh thần để
cuối cùng đưa người đại diện vào việc kiến
thiết văn hóa. Và những người đại diện đó
chính là dân tộc. Vì thế dân tộc chính là
yếu tố thứ ba định tính nền văn minh Viễn
Đông. Thực ra thì ở đâu cũng có câu “tiếng
dân là tiếng trời” = “vox populi vox
caeli”, “the people are never wrong”.
Nhưng không đâu người ta chịu để cho dân
có tiếng nói, hoặc khuyến khích lắng nghe
dân nói, hoặc gần dân để nghe dân nói, vì
dân bao giờ chả nói và lới nói của dân đã
kết tinh lại trong các câu ca dao, tục
ngữ. Trên thế giới này không đâu là không
có ca dao tục ngữ, chính nó làm nên cái
minh triết của dân gian, của các dân tộc =
la sagesse populaire, la sagesse des
nations. Tuy nhiên đâu đâu ca dao tục ngữ
cũng chỉ có ở đợt tản mác, vụn mảnh không
được kể đến. Đặc biệt nơi Viêm tộc nhờ đã
tranh đấu nên ca dao có được một địa vị
trong kinh và do đó tiếng dân đã được đóng
góp vào việc làm nền kinh điển, tức làm
nên những sách cao quý nhất của một nước.
Cũng như sau này đến lượt các sách cổ điển
dân chúng vẫn đóng góp vào việc sáng tác.
Vì thế tác quyền bên Viễn Đông không được
chú ý nhiều là vì nó không có tính chất cá
nhân nhưng là công cộng.
Điểm thứ
bốn là trong khối dân lớn lao của Viêm tộc
đó thì ngành đại diện chính là Lạc Việt.
Mấy hệ kia như Tạng, Mon-Khmer, Âu Việt…
bị đồng hóa với Ấn Độ; Miêu Việt đồng hóa
với Hoa tộc chỉ còn có Lạc Việt là đại
diện duy nhất còn lại của Viêm tộc lúc
trước đã chiếm lãnh toàn bộ Trung Hoa cổ
đại và xuất hiện trước thị dân là Hoa tộc
(Socio XVII, xem thêm Chu Cốc Thành trong
Trung Quốc thông sử). Rồi sau mở đầu cho
một cuộc tháo chạy dần dần trước kẻ xâm
lăng: chạy từ Tây sang Đông từ Bắc xuống
Nam, cuối cùng giữ cho mình được hai miền
Đông Nam nhất là Nam nhưng khắp nơi đều để
lại nhiều đại biểu, và tuy vì chính trị
nên phải li biệt kẻ Bắc người Nam nhưng
tình trong thì vẫn một nhà. Không hiểu vì
hậu ý nào mà phần lớn học giả đời nay lại
cố ý chối bỏ mối liên hệ này, cho đó chỉ
là những “ước đoán mong manh”. Mong manh
sao được khi có đầy những tang chứng nằm
tản mác trong nhiều sử liệu nước Tàu, bởi
vì cuộc di cư này không phải chỉ có xảy ra
một lần lúc nước Sở diệt nước Việt, nhưng
là trước nữa, rất lâu trước nữa, và mãi
cho tới gần đây chỉ từng vài trăm năm vẫn
còn. Thời Vương Mãn (đầu kỷ nguyên) biết
bao nhân sĩ miền Bắc vùng Hoàng Hà chạy
xuống lập nghiệp ở xứ Giao Chỉ mà đại biểu
điển hình hơn cả là Sĩ Nhiếp, người đã lập
ra “học phái nước Nam” lấy khẩu hiệu là
“Đạt ư tòng chính” để vượt qua những tranh
luận suông giữa hai phái kim văn và cổ văn
trên Bắc, nhờ đấy văn hóa Giao Chỉ ảnh
hưởng quật lại Trung Hoa. Cũng như Triệu
Đà đại diện chính trị nhân lúc Hán Sở
tranh hùng đã đứng lên giết quan lại nhà
Tần để lập ra Nam Việt. Lại còn những vụ
bắt cóc người Quảng Đông Quảng Tây bán làm
nô lệ cho người Việt Nam.
Trong quyển “Văn hiến thông khảo” (tr.26)
Mã Đoan Lâm có kể lại văn kiện nhắc đến vụ
này và nói mỗi năm tới hàng ngàn người Tàu
bị bắt như thế. Nho sĩ thì giá đắt gấp
bội. Đây là một sự kiện hiển nhiên mà bất
cứ ai khởi công nghiên cứu cũng gặp thấy.
Đến nỗi gần đây có người quả quyết dân
Việt Nam
là người Trung Quốc di cư sang đây tron
thời Bắc thuộc. Đó là câu nói tuy quá đáng
nhưng đứng ở phương diện tìm về nguồn gốc
dân tộc thì gần với sự thực hơn những
khuynh hướng đi tìm nguồn dân tộc về phía
Mã Lại, Indonésie… tuy gần nhưng chưa sát
vì cũng còn là câu nói có tính cách duy sử
nghĩa là coi huyền sử như truyện nhảm nhí
nên không nhìn ra chỗ đứng lớn lao của
Việt tộc. Địa vị này chỉ nhận ra được khi
chịu chú ý đến huyền sử vì chính huyền sử
mới là quãng quyết định cho thời khai
quốc, chính trong thời xa xăm đó mới kết
tinh lên những thói tục riêng biệt và nhất
là ngôn ngữ để làm thành một lò đúc đủ
mạnh đặng đồng hóa các lớp dân cư đến sau.
Các lớp này dầu có Tàu đến một trăm phần
trăm và có đông đến mấy cũng chỉ ít thế hệ
là đã bị tôi luyện trong cái lò Việt rồi.
Khác xa với người Anh di cư sang Mỹ đã di
cư luôn cả ngôn ngữ và thói tục nước Anh.
Điều đó không có đối với người Tàu di cư
sang đất Việt. Vì thế ta có thể kết luận
nước Việt Nam
đã được thành lập lâu đời trước và được
huyền sử ghi nhận trong huyền thoại “ba vĩ
tích của Lạc Long Quân”. Huyền sử kể rằng
Lạc Long Quân đã tiêu diệt được Ngư tinh,
Hồ tinh, Mộc tinh. Câu chuyện có nghĩa
rằng Lạc Long Quân đã chống lại văn minh
phương Bắc (Ngư tinh cá sống dưới nước,
Bắc phương thuỷ; phương Tây là Hồ tinh:
vật tổ thú; Mộc tinh = phương Đông) để duy
trì văn hóa phương Nam hành hỏa, chính
ngọn lửa này đã nung đỏ khối sắt (hồng =
Viêm nhiệt) liệng vào miệng con ngư tinh,
có nghĩa là lấy văn hóa Viêm tộc chống văn
hóa của quần chúng thuỷ tộc (Bắc phương).
Đó cũng chính là ngọn lửa đã phun ra tự
miệng con ngựa của Phù Đổng Thiên Vương để
đuổi quân thù. Thiên là dân, Vương là chủ,
Phù Đổng Thiên Vương là tinh thần dân chủ
của văn hóa phương Nam,
của Việt tộc. Xem thế đủ biết tinh thần
văn hóa Việt tộc đã thành lập lâu đời
trước những người từ phương Bắc đến sau dù
thuộc dòng máu Viêm hay Hoa cũng chỉ ít
lâu là bị giết như Ngư tinh… nghĩa là bỏ
tiếng nói, thói tục phương Bắc để nhận
ngôn ngữ và phong thổ Việt Nam.
Vậy thì
trên dải đất này bản chất Việt Nam trổi
vượt hơn bản chất Tàu nên phải gọi là Việt
tộc mà không thể kêu là Tàu, và như thế
muốn tìm đến nguồn gốc chân thực của Việt
Nam thì phải tìm về tới Hồng Bàng thị; óc
khoa học trung thực đòi phải như thế vì
nếu bỏ quãng đó thì không thể nào giải
nghĩa nổi thực thể Việt Nam, bao gồm tiếng
nói và thói tục riêng như vừa bàn. Bởi vậy
chúng tôi cho câu nói “dân Việt chỉ là
người Tàu di cư sang đây” là quá đáng, tuy
nhiên có tác động hay ở chỗ giúp người
Việt nhớ lại nguồn gốc dòng tộc mình không
nên tìm từ phía Nam (Mã Lai, Indonésie)
nhưng phải tìm về phía Bắc. Làm như thế
mới là đúng theo chiều toàn thể, tức là
con đường di chuyển chung của nhân loại.
Không cứ gì người Việt người Thái từ Bắc
tiến dần xuống miền Nam, mà bên Âu Châu
cũng xảy ra một hiện tượng như thế với các
đợt tràn lấn của các dân miền Bắc: người
Aryen tràn xuống Ấn Độ chiếm đất của
Dravidiens… Tất cả còn lưu lại chứng tích
không thể vì thiếu sử liệu mà phủ nhận cái
thực thể lớn lao này được. Huống chi còn
biết bao tang chứng sống động khác thuộc
thể chế của nước của nhà: quan, hôn, tang,
tế… Không nên bắt chước mấy học giả ti hí
mắt lươn để cho tiểu tiết che lấp cái toàn
thể. Chúng ta cần vượt qua lối giải nghĩa
của sử học khách quan này, để tìm ra cái ý
nghĩa uyên nguyên gắn liền với tiềm thức
(psychanalyse du Feu. Bachelard p.91) có
rất nhiều bảo đảm. Làm như thế mới có
nhiều hy vọng nhìn ra cái di sản thiêng
liêng của tổ tiên mà chúng ta có sứ mạng
phải khai quật và vun tưới. Vì thế một lần
nữa chúng tôi xin nhấn mạnh đến mấy việc
lớn sau đây:
Việc lớn
hơn cả là trong khắp thế giới các dân bản
thổ hoặc bị tiêu diệt hầu trọn vẹn như bên
Úc, Mỹ hoặc một phần như dân Phi Châu,
hoặc bị đồng hóa hay nằm trọn vẹn trong
vòng nô lệ như bên La-Hy và Ấn Độ. Riêng
có Viễn Đông thì dân bản thổ đã không bị
tiêu diệt lại còn đồng hóa chính người xâm
lăng. Việc này đã xảy ra ở những thời
khuyết sử nên có phần lu mờ nhưng đã được
kiện chứng do các đời sau: Hung Nô, Hồi
Hột, Ki, Nguyên, Mãn… tất cả đều bị đồng
hóa. Điều này không ai chối cãi được. Vậy
chúng ta có thể nương vào đó kết luận
ngược trở lên đến Hoàng Đế, Thần Nông và
con cháu Thần Nông (tức văn minh nông
nghiệp) đã đồng hóa con cháu Hoa tộc của
Hiên Viên du mục. Dâu trong tiểu tiết có
thể sai chạy ít hay nhiều đi nữa, nhưng
trong đại cuộc thì kết luận được như thế.
Việc thứ
hai là kinh điển do dân gian Viêm Việt
khởi công… Điều này cũng xảy ra mãi từ
thời khuyết sử, nhưng lại được kiện chứng
bằng các đời sau với những sách như Tam
Quốc, Thuỷ Hử, Tây Du Ký… Trước khi thành
tác phẩm bất hủ thì những sách đó đã trải
qua một quá trình thai nghén hình thành
dài lâu trong dân chúng. Điều này không ai
chối cãi được, và vì thế nó là kiện chứng
rất vững cho chúng ta suy luận ngược lên
về tác giả kinh điển.
Việc thứ
ba là sự trường cửu bền bỉ của nền văn hóa
Nho giáo. Không có một cuộc xét lại nào từ
nền tảng giống các nền văn hóa khác cả. Ở
đây tuy có biến đổi nhiều lắm nhưng toàn ở
ngàn ngọn định chế tuỳ thời, còn về tinh
tuý thì trường tồn y nguyên, thế mà các
đợt tấn công từ ngoài tới thì cứ liên miên
hết các loạt Hung Nô, Hồi Hột… lại đến các
đợt Kim, Mông, Mãn… Dầu vậy nó vẫn đủ tiềm
lực chỗi dậy nổi, như thế tỏ ra nó không
phải là một cái gì hời hợt như một ý hệ do
một cá nhân suy nghĩ ra. Cá nhân dẫu có
tài ba tới đâu cũng là cá nhân, có tác
động lâu lắm cũng trong vòng ba bốn chục
năm. Ngược lại dân là “vạn đại chi dân” nó
trường tồn và những gì do dân kiến tạo,
lớn lên với dân đều bền bỉ như dân vậy.
Điểm thứ
bốn cũng rất lớn lao và thuộc riêng nước
nhà đó là một đàng lịch sử nước ta chứng
tỏ một óc quật cường bất khuất thế mà lại
không bao giờ chối bỏ Nho giáo thì phải kể
là nó có mối liên hệ thâm sâu nào đó. Và
mối liên hệ đó thuộc văn hóa như chính
những người muốn chối rồi cũng phải công
nhân (Maspéro Chine p.17). Và nền văn hóa
này sau những suy luận trên ta nhận ra
không chỉ là vay mượn nhưng chính là cha
ông tiên tổ ta đã đóng góp vào việc tạo
dựng nên nó, và như thế Nho giáo là của
nước ta cũng như của nước Tàu, cả hai đều
là tác giả. Và đó là lý do sâu xa nhất nằm
ẩn trong tiềm thức dân tộc khiên cho tiền
nhân ta không hể chống Nho giáo mặc dầu về
chính trị vẫn chống Tàu mãnh liệt.
Đó là mấy
sự kiện lớn lao về văn hóa Việt nho, chính
nó đã cho phép chúng tôi đưa ra nhiều
quyết đoán mới lạ trong sách này. Những
quyết đoán đó nếu chỉ dựa vào chính sử,
hay khảo cổ thì không dám đưa ra. Nhưng
chúng ta biết chính sử đã bị nhà cầm quyền
bóp méo và xuyên tạ nhiều lần, còn khoa
khảo cổ thì phạm vi quá hẹp hòi lại còn
rất bấp bênh, vì thế chỉ dựa vào có hai
khoa ấy thì không đủ. Trái lại khi nhìn
dưới ánh sáng của 4 sự kiện lớn lao vừa kể
trên thì những câu quyết đoán trong sách
này tuy đi ngược chiều xưa nay lại tỏ ra
có nên tảng hơn. Những sự kiện lớn lao đó
ví được như cung đầu cung cuối của câu
nhạc mà mỗi nhạc khí cần hòa hợp. Thí dụ
câu “hồ xự hồ xang” thì ba nốt giữa có thể
bỏ, hoặc đổi hồ ra xê hoặc thêm bớt cung
tuỳ cái hứng riêng, miễn sao hợp ở nốt đầu
và cuối là vẫn giữ được hòa âm của tiết
điệu. Những điều chúng tôi quả quyết trong
sách này về tác quyền của Việt Nam cũng
thế: đúng với những điều lớn, còn các chi
tiết có sai chạy đôi chút cũng không quan
trọng đến nỗi làm hại được đường hướng lý
tưởng đã đề nghị ra mặc dầu vẫn còn phải
nghiên cứu thêm để tăng phần chính xác. Và
đó là việc cần phải làm mãi mãi, trong lúc
chờ đợi chúng ta cần phải có một lý tưởng.
Durkheim nói rất đúng rằng khi nhận thấy
một phong tục đã sống lâu đời với một dân
tộc nhất định nọ thì phải hiểu là nó đã
thích nghi được với những hoàn cảnh của
khu vực đó. Viễn Đông ta nói “thuận thiên
giả tồn” cũng một ý nghĩa, tức cái gì
trường tồn thì là thuận thiên, hiểu là
thuận tâm lý phong thổ và những điều kiện
thời gian không gian, nên là những thực
thể cần phải kể tới không thể vì thấy
không hợp định đề của mình mà gạt bỏ đi
được.
|