Nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng,
nhà giáo, dịch giả
Phạm Công Thiện(1941-2011)
là một thi sĩ, nhà
văn,triết gia, học giả,
và cư sĩPhật giáongườiViệt Namvới
pháp danhNguyên Tánh.[1]Tuy
nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề
triết gia, ông vẫn được coi là một triết
gia thần đồng, một hiện tượng dị thường
củaSài Gònthập
niên 1960[2]và
của Việt Nam với những tư tưởng ít người
hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ.
Bút danh khác: Hoàng Thu Uyên.
Phạm Công
Thiện sinh ngày 1 tháng 6 năm 1941 tạiMỹ Tho[3]trong
một gia đìnhCông giáo. Từ tuổi
thiếu niên ông đã nổi tiếng thần đồng về
ngôn ngữ, năm 15 tuổi đã đọc thông viết
thạo năm ngoại ngữ Anh, Pháp, Nhật, Hoa,
và Tây Ban Nha, ngoài ra còn biếttiếng Sanskritvàtiếng Latinh.[4]
Năm 1957, 16
tuổi, ông xuất bản cuốn tự điểnAnh
ngữ tinh âm, nhưng từ vài năm trước
đó cho đến khi rời Việt Nam vào năm 1970,
ông đã cộng tác với các báo và tạp chíBông
Lúa,Phổ Thông,Bách
Khoa,Văn,Giữ
Thơm Quê Mẹ. Từ những năm cuối thập
niên 1950 ông đi dạy Anh ngữ tại một số
trường tại Sài Gòn. Năm1960, ông khởi sự
viết cuốnÝ thức mới
trong văn nghệ và triết họckhi
chưa được 19 tuổi.[1]
Ðầu năm
1964, ông chuyển raNha Trangsống
để an dưỡng sau một cuộc "khủng hoảng tinh
thần." Tại đây ông quy y ở chùa Hải Ðức,
lấy pháp danh Nguyên Tánh. Một thời gian
sau ông lại về Sài Gòn.
Từ năm
1966-1968, ông là giám đốc soạn thảo tất
cả chương trình giảng dạy cho tất cả cácphân khoacủaViện Đại học Vạn Hạnh.
Từ năm 1968-1970, giữ chức trưởng phân
khoa Văn học và Khoa học Nhân văn của viện
đại học. Tại đây ông cũng là sáng lập viên
và chủ trương biên tập của tạp chíTư
Tưởng.
Ông rời Việt
Nam từ năm 1970, chuyển sang sống ở
Israel, Ðức, rồi sống lâu dài tại Pháp.
Tại đây ông lập gia đình và sau đó làm
giáo sư triết học Tây phương của Viện Ðại
học Toulouse. Năm 1983, ông sang Hoa Kỳ,
định cư ở Los Angeles, làm giáo sư ởCollege
of Buddhist Studies. Từ khoảng năm
2005, ông sang cư ngụ tại Houston, tiểu
bang Texas cho đến lúc qua đời ngày 8
tháng 3 nằm 2011 (mồng 4 tháng 2 năm Tân
Mão).
Tác phẩm
Thơ, văn, tiểu
luận
Tiểu luận về Bồ Đề
Đạt Ma, tổ sư Thiền tông(Tân
Ý Thức, Nha Trang, 1964)
Ý thức mới trong văn
nghệ và triết học(An
Tiêm, Sài Gòn, 1965; in lần thứ 4, 1970)[5]
Trời tháng Tư(An
Tiêm, Sài Gòn, 1966)
Ngày sanh của rắn(Hoa
Nắng, Paris, 196?; An Tiêm in chính thức
tại Sài Gòn, 1966; Trần Thi in lần mới
nhất, California, 1988), thơ.[6]
Im lặng hố thẳm(An
Tiêm, Sài Gòn, 1967 và 1969; Phạm Hoàng,
1969)[7]
Hố thẳm của tư tưởng(An
Tiêm, Sài Gòn, 1967; Phạm Hoàng in lần
thứ 3, 1970)[8]
Mặt trời không bao
giờ có thực(An
Tiêm, Sài Gòn, 1967; Phạm Hoàng in lần
thứ 2, 1969)[9]
Chỉ còn tiếng thơ
trên mặt đất — Trở về Rainer Maria
Rilke(1969)
Henry Miller(Phạm
Hoàng, Sài Gòn, 1969)
Bay đi những cơn mưa
phùn(Phạm
Hoàng, Sài Gòn, 1970)[10]
Ý thức bùng vỡ(Đồng
Nai, Sài Gòn, 1970)
Đi cho hết một đêm
hoang vu trên mặt đất(1988)[11]
Sự chuyển động toàn
diện của tâm thức trong tư tưởng Phật
giáo(1994)
Triết lý Việt Nam về
sự vượt biên(1995)
Nguyễn Du, đại thi
hào dân tộc(Viện
Triết lý Việt Nam và Triết học Thế giới,
California, 1996)
Khơi mạch nguồn thơ
thi sĩ Seamus Heaney, Giải Nobel Văn
Chương 1995(Viện
Triết lý Việt Nam và Triết học Thế giới,
California, 1996)
Làm thế nào để trở
thành một bậc bồ tát sáng rực khắp bốn
phương trời(1998)
Tinh tuý trong sáng
của đạo lý Phật giáo(1998)
Trên tất cả đỉnh cao
là im lặng(Trần
Thi, California, 1988; Văn hóa Sài Gòn
tái bản, TP. Hồ Chí Minh, 2009), thơ.
Một đêm siêu hình với
Hàn Mặc Tử(2000)
Khai ngôn cho một câu
hỏi dễ hiểu: Triết học là gì?(2000)
Đối mặt với 1000 năm
cô đơn của Nietzsche(2000)
Dịch phẩm
Tự do đầu tiên và
cuối cùng(An
Tiêm, Sài Gòn, 1968), dịch củaJiddu
Krishnamurti.
Về thể tính của chân
lý(Hoàng Đông
Phương, Sài Gòn, 1968), dịch củaMartin Heidegger.[12]
Triết lý là gì?(An
Tiêm, Sài Gòn, 1969), dịch của Martin
Heidegger.[13]
Tôi là ai? Đây là
người mà chúng ta mong đợi!, dịch
củaFriedrich Nietzsche.(Phạm
Hoàng, Sài Gòn, 1969)[14]
"Phạm Công Thiện ao
ước trở thành một nghệ sĩ lớn, như
Rimbaud, trong khi nhiều người cầm bút
khác lại ca tụng Phạm Công Thiện như
là một triết gia. Tôi thì tôi coi Phạm
Công Thiện chủ yếu là một nhà thơ và
một nhà tuỳ bút. Nói cách khác, theo
tôi, Phạm Công Thiện là một nhà thơ
trước khi là một nhà tuỳ bút; là một
nhà tuỳ bút trước khi là một nhà văn;
là một nhà văn trước khi là một nhà tư
tưởng; là một nhà tư tưởng trước khi
là một người phá phách và là một người
phá phách trước khi là một kẻ lập dị.
Suốt mấy chục năm nay, Phạm Công Thiện
luôn luôn chịu đựng một sự đánh giá
bất công cũng như những sự khen ngợi
oan ức khi người ta nhìn ông theo một
chiều hướng khác, ngược lại."[15]
"Lúc nào cũng nồng
nhiệt. Lúc nào cũng rộng rãi. Lúc nào
cũng cực đoan. Có người cực đoan vì
đần. Phạm Công Thiện cực đoan nhưng
vẫn toát lên vẻ thông minh và rất
thông thái. Sự cực đoan ở nhiều người
khác gợi lên ấn tượng hẹp hòi và hung
bạo. Phạm Công Thiên cực đoan một cách
hồn nhiên và vô hại. Bao trùm lên tất
cả, ông cực đoan một cách chân thành
và duyên dáng. Đọc, thấy ngay ông cực
đoan, nhưng không ai nỡ bắt bẻ. Bắt
bẻ, tự nhiên có cảm giác là mình tỉnh
táo một cách nhỏ nhen [...] Không ít
người vẫn cho văn của Phạm Công Thiện
là tối tăm. Tôi nghĩ ngược lại. Vấn đề
không chừng là ở cách đọc [...] Tôi đã
đọc (lại) các tác phẩm của Phạm Công
Thiện như đọc những bài thơ. Với một
tâm cảm thơ. Và tôi thấy mọi thứ đều
dễ dàng. Trong vắt."[16]