Nguyễn Vĩnh Châu:
Thưa ông, theo tài liệu
của CSVN th́ ông Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của
ông Hồ Chí Minh là một nhà ái quốc,
đă từ quan v́ chống đối triều đ́nh. Sự kiện
này có đúng không?
Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu:
Cha ông HCM là Phó Bảng
Nguyễn Sinh Huy, gốc làng Sen (Kim Liên), huyện
Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An. (Sắc chỉ là tên gọi
ngoài đời) Đậu Phó Bảng năm 1901, ông Huy
không theo học trường Hậu Bổ mà từng làm việc
với
Bùi Quang Chiêu, rồi bổ làm Thừa Biện Bộ Lại.
Sau
cuộc nổi dậy mùa Xuân 1908 của dân miền Trung,
thăng
bổ làm tri huyện B́nh Khê (B́nh Định).
Theo tài liệu Pháp,
tháng 1/1910, Tri huyện Huy bị ngưng chức v́
"nghiện rượu
và tàn ác với dân chúng" (đánh
chết một nông dân trong cơn say). Ngày
19/5/1910, bị
chính thức tống giam v́ tội danh trên. Qua
tháng 8/1910, được miễn tội, chỉ bị cách chức.
Nguyễn Vĩnh Châu:
Theo sự nghiên cứu và
những sử liệu mà ông có, xin ông vui
ḷng tŕnh bày sự nghi vấn về tên thật
và ngày sinh của ông Hồ Chí Minh.
TS Vũ Ngự Chiêu:
Theo tài liệu Pháp và
Việt (như thư xác nhận Côn được nhận vào trường
Quốc Học (Huế) ngày 8/7/1908, và bản án tử
h́nh khiếm diện năm 1929 của tỉnh Vinh, bằng Hán
ngữ pha
chữ Nôm), tên thực Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh
Côn, với những bí danh như Nguyễn Tất Thành,
Nguyễn
Sinh Xin (?),Nguyễn Ái Quốc, v.. v....
Một số tác giả trong nước tự động
sửa thành Nguyễn Sinh Cung [chỉ dựa theo lập
luận rằng v́
anh là Khiêm].
Năm 1911, trong hai lá thư xin
vào trường Ecole Colonale (Paris) viết từ
Marseille, Nguyễn Sinh
Côn tự xưng là Nguyễn Tất Thành. Trong những thư
từ, từ 1912 tới 1914, c̣n có tên "Paul
Thành."
Từ năm 1919, đổi thành Nguyễn
Ái Quấc hay Quốc. Theo học giả Nga Anatoli
Sokolov, HCM
có tất cả trên 150 bí danh khác nhau.
Ngày và năm sinh của HCM cũng
có nhiều vấn đề.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành (HCM)
tự
khai sinh năm 1892.
Ngày 17/5/1945, báo
chí VNDCCH công bố ngày sinh nhật 19/5/1890 của
HCM
và yêu cầu dân chúng treo cờ làm lễ
mừng trong 3 ngày. (Cứu Quốc [Hà Nội],
17/5/1945).
Sử gia Huỳnh Kim Khánh cho rằng
HCM
chọn ngày này để ghi nhớ ngày thành lập
Việt Nam Độc Lập Đồng Minh tức Mặt Trận Việt
Minh (19/5/1941).
Nếu thế, ngày 19/5 cũng có thể để kỷ niệm ngày
19/5/1910, khi cha HCM bị cầm tù, cách chức,
khiến HCM
phải rời trường Quốc Học ra đi, và khởi đầu sự
nghiệp
chính trị.
Có dư luận cho rằng HCM đă
ngụy tạo ngày sinh 19/5/1890 để bắt dân chúng
Hà Nội treo cờ đón tiếp Cao ủy d’Argenlieu sẽ
đến thăm
chính thức Hà Nội vào ngày hôm sau,
18/5/1945, để bàn thảo về chuyến đi Pháp sắp tới
của Hồ.
Đồng thời, cũng để chứng tỏ sự yểm trợ của dân
chúng
với Hồ và chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến.
Việc này có thể xảy ra, v́ HCM là loại
người sử dụng mọi phương tiện để đạt mục đích.
Nguyễn Vĩnh Châu:
Thưa ông, được biết, ông
đă khám phá một sự kiện rất quan trọng là
việc ông Hồ Chí Minh nộp đơn xin học trường
thuộc địa của
Pháp. Xin ông cho biết diễn tiến sự việc này
ra sao
và ảnh hưởng của công tŕnh khám phá
này như thế nào?
TS Vũ Ngự Chiêu:
Đầu tháng 2/1983, khi làm
việc trên kho tài liệu trường Ecole coloniale,
tức học
hiệu huấn luyện các viên chức thuộc địa Pháp,
trên đường Oudinot, quận 7, Paris, tôi vô t́nh
khám phá ra nhiều hồ sơ học viên người Việt tại
học
hiệu này, như Bùi Quang Chiêu, Đèo Văn
Long, Phan Kế Toại, Trần Trọng Kim, Lê Văn Miễn,
v.. v... tổng
cộng khoảng 97 người (CAOM (Aix), Ecole
Coloniale, cartons 27, 33 &
Registers). Mục đích của tôi là t́m hiểu về
những viên chức thuộc địa Pháp cùng thế hệ
Tây học Việt Nam đầu tiên (ngoài những người tốt
nghiệp các lớp huấn luyện ở các tu viện như
Trương Vĩnh
Kư, Nguyễn Trường Tộ, v.. v...) để dùng cho
chương Biến
đổi văn hóa và xă hội của luận án Tiến sĩ.
Thật vô t́nh, t́m thấy tập hồ sơ xin nhập học nhưng
không
được
chấp
nhận của Nguyễn Tất Thành, tức HCM sau
này, cùng một người bồi khác được chủ Pháp
mang về Paris. Ngoài hai lá thư viết tay gửi
Tổng thống
Pháp và Bộ trưởng Thuộc Địa, đề ngày 15/9/1911
tại Marseille, c̣n thêm ba tài liệu của Hội đồng
quản trị trường. Trong biên khảo tam ngữ Một
ngôi trường
khác cho Nguyễn Tất Thành (Paris: 1983) tôi
đă tŕnh bày khá rơ: Người
mà chúng ta biết như HCM sau này đă rời
nước không v́ muốn t́m đường cứu nước, mà
chỉ v́ những tao ngộ bản thân (cha bị cách
chức,
tống giam, nên phải bỏ học nửa chừng, v..
v...). Từ cổng hậu
đóng kín của trường Thuộc Địa, HCM sẽ t́m thấy
cánh cửa mở rộng của Đại Học Phương Đông của
Liên Sô Nga 12 năm sau.
Năm 1991, trong tập Vàng Trong
Lửa,
hai Giáo sư Trần Văn Giàu và Trần Bạch Đằng
đă nhắc đến tập sách nhỏ này, nhưng không
nêu tên tác giả Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn
Thế Anh. Nên thêm rằng sử gia Nguyễn Thế Anh
đồng ư
viết chung với tôi tập sách trên, cũng như phổ
biến
các tài liệu trên tờ Đường Mới, nhưng ông
Anh không phải là người phát hiện những tài
liệu trên. Ít tháng sau, khi tôi đang
làm việc ở Aix-en Provence, Nguyễn Thế Anh cho
tôi biết
hai sử gia Pháp, tức Hémery và Brocheux,
tuyên bố họ đă khám phá ra tài liệu
này từ trước. Tôi chẳng mấy quan tâm. Vấn đề
là tại sao Hémery và Brocheux không
công bố các tài liệu trên trước chúng
tôi (vào mùa Hè 1983)? Và những người
làm phim truyền h́nh chiến tranh VN cũng sử dụng
tài liệu trên.
Một số học giả Mỹ cho rằng khi
công
bố tư liệu trên, tôi đă có ư muốn
discredit [hạ giá] HCM. Nhưng sự thực lịch sử
chỉ là sự
thực lịch sử. Đáng trách chăng là thái
độ thiếu nghiêm chỉnh và lương tâm nghề nghiệp
của
một số học giả (kể cả William A. Williams). V́
tư tâm hay
một lư do nào đó, họ đă gạt bỏ những tư
liệu đi ngược lại lập luận và diễn dịch [thiên
tả] của họ.
Điều này ảnh hưởng không ít đến công
tŕnh nghiên cứu của tôi. Tôi đă
không nhận chỗ dạy học tại Đại học Georgetown,
Oat-shinh-tân, v́ mất đi ḷng trọng vọng một số
trong những "học giả".
Thật khó tin, nhưng có thực,
là một số sách dùng dạy sử cho các lớp năm
thứ nhất hay thứ hai đại học Mỹ vẫn c̣n ghi HCM
đă rời
nuớc năm 1912 để t́m đường cứu nước. Có người
c̣n
tuyên bố chẳng cần t́m hiểu thêm về HCM, dù
tác phẩm của họ chứa đầy những lỗi lầm sơ đẳng
về Đảng CSVN.
"As far as the Americans are concerned," người
ta nói, ngần ấy
kiến thức về HCM đă quá đủ. "Life goes on!"
Nguyễn Vĩnh Châu:
Như ông biết, CSVN cho rằng
HCM
là nhà tư tưởng vĩ đại, lỗi lạc. Theo sự
nghiên cứu
của ông sự thật như thế nào?
TS Vũ Ngự Chiêu:
Tôi nghĩ HCM là người của
hành động hơn tư tưởng. Tư tưởng chỉ đạo của HCM
chỉ là
"luật kẻ yếu." Một ấn bản mới của Câu Tiễn tân
thời giữa
thế kỷ XX. HCM rất lưu loát và rộng răi trong
việc
ca tụng người có thể giúp đỡ ḿnh, và
không tiếc lời đả kích những đối thủ. Các
nhà cung văn không tiếc lời ví HCM như
thánh, thần, Phật, Chúa, v.. v... Nhưng đọc kỹ
những
ǵ Hồ đă viết hay tuyên bố, chỉ có 2 điểm
đáng ghi nhận:
Thứ nhất, cho tới thuở trung niên,
tức vào khoảng năm 1919-1920, Hồ vẫn tin tưởng ở
nhân
và dân quyền. Trong 8 điểm đệ tŕnh cho Hội nghị
Versailles mùa Hè 1919, HCM tỏ vẻ rất tin tưởng
ở những
quyền tự do cá nhân, như tự do hội họp, tư
tưởng,
báo chí, v.. v... Trong các thư từ gửi đi từ
Hà Nội năm 1945-1946, Hồ vẫn ca ngợi nhân quyền
cùng nguyên tắc cao cả của Hiến chương Liên Hiệp
Quốc, v... v... như ánh sáng chỉ đạo.
Thứ hai, từ năm 1922-1923, HCM bắt
đầu
nói về cách mạng, theo mẫu Marxist-Leninist. Hồ
kêu
gọi đoàn kết vô sản thế giới, lập liên minh
công-nông chống lại liên minh tư bản thực
dân-Ki-tô giáo. Tháng 10/1923, tại Đại
Hội Nông dân quốc tế, Hồ đă tố cáo thực
dân và nhà Chung cấu kết với nhau để "câu
rút giới nông dân nghèo khổ."Khoảng ba năm
sau, trong những bài giảng cho đoàn viên Việt
Nam
Thanh Niên Kách Mệnh Đồng Chí Hội ở Canton
(Quảng Châu), HCM hô hào phải làm Kách
Mệnh. [Xem Đường Kách Mệnh, in lại trong Văn
Kiện Đảng
Toàn Tập [VKDTT], I:1924-1930, 2002:13-82];
David G. Marr, [On
Trail, 1981:131n, 374-376] Theo Hồ, "Văn chương
và hy vọng"
trong tập sách gối đầu giường của cán bộ Thanh
Niên
chỉ ở trong hai chữ "kách mệnh, kách mệnh, kách
mệnh." [The literary value and hope of this book
are confined in two
words: Kach menh, Kach menh, Kach menh
["Revolution, Revolution,
Revolution."] Rồi Hồ trích dẫn Lenin: "Không kó
lư luận kách mệnh, th́ không kó
kách mệnh vận động. . . Chỉ kó theo lư luận
kách mệnh tiền fong, đảng kách mệnh mới làm nổi
trách nhiệm kách mệnh tiền fong."[ 25]
Trong 23 điều nói về tư cách
người làm kách mệnh, 16 điều chẳng có liên
hệ ǵ đến duy vật biện chứng. Không thấy nguyên
tắc
thực tập liên lũy [praxis] của Marx, tức ư muốn
làm
thử, rồi rút ra kinh nghiệm cho những hành động
tương lai
[that is the will to act in order to test belief
and obtain the
additional grounds for further action. (Marr, On
Trail,
1981:378)]Hành động với HCM chỉ là thực hiện chủ
thuyết
Marxist-Leninist hơn là giải quyết những vấn đề
theo công
tâm "Muốn làm kách mệnh th́ phải biết: Tư
bản và đế quốc chủ nghĩa nó lấy văn hóa và
tôn giáo làm cho dân ngu. Nó
làm cho dân chúng nghe thấy cách mạng
th́ sợ rùng ḿnh. Vậy kách mệnh trước hết
phải làm cho dân "giác ngộ." [23] Tóm lại,
tư tưởng HCM chỉ có việc sao chép tư tưởng
Lenin, Stalin
và Mao Trạch Đông. HCM thiên về hoạt động hơn tư
tưởng.Việc cơ quan tuyên truyền CSVN đề cao tư
tưởng HCM
có lư do riêng. Nhưng ít khi thực sự
v́ chính Hồ. Mà v́ những mục tiêu
giai đoạn của người cầm quyền. Hăy lấy một thí
dụ. Năm
1969, Lê Duẩn đă công bố ngày chết của HCM
chậm 1 ngày (từ 2/9 tới 3/9), hay sửa lại, cắt
xén di
chúc của HCM. Một nguyện vọng nhỏ nhoi của HCM
là được
hỏa táng để phát động phong tục hỏa táng trong
nước bị tảng lờ. Nói theo Brocheux, HCM đang bị
"cầm tù"
trong Lăng Ba Đ́nh. Thực ra, chẳng có dấu hiệu
tôn trọng tư tưởng Hồ nào thiết thực hơn là
giúp mang xác ướp của Hồ ra khỏi Lăng Ba Đ́nh,
và hỏa táng.
Nguyễn Vĩnh Châu:
Ông có thể cho biết,
lư do tại sao ngày nay đảng CSVN lại tung ra
chiến dịch
học tập đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh?
TS Vũ Ngự Chiêu:
Lănh đạo CSVN có lư do
riêng của họ, khó đoán biết. Nhưng một cách
tổng quát, có thể nghĩ rằng tinh thần "hủ
Marxist-Leninist" khiến cán bộ tuyên giáo đang
muốn
phỏng theo gương Trung Nam Hải bắt dân Trung Hoa
"học tập" kinh
nghiệm Hán hóa thuyết Marist-Leninism." Người ta
chỉ đổi
đi năm chữ "tư tưởng Mao Trạch Đông" bằng "tư
tưởng Hồ
Chí Minh."
Nguyễn Vĩnh Châu:
Theo ông tại sao HCM lại
có thể tự viết sách đề cao ḿnh, tự gán cho
ḿnh là "Cha già dân tộc" vô
cùng lố lăng như trong cuốn "Những mẩu chuyện
về đời hoạt động
của Hồ Chủ tịch" với bút danh "Trần Dân Tiên"?
TS Vũ Ngự Chiêu:
HCM là một người hành động,
một cán bộ cách mạng chuyên nghiệp [agitprop].
Việc
HCM tự viết sách đề cao ḿnh hay sai người ca
tụng
ḿnh là việc phụ. Mục đích chính cần thực
hiện là ca ngợi một nhân vật HCM chí thiện,
chí thần, chí thánh. HCM rất ít khi quan
tâm đến những khuôn thước giá trị tư bản, thực
dân hay phong kiến mà HCM quyết tâm hủy diệt.
Cũng
nên thêm là "tư cách" hay "đạo đức" của người
Cộng Sản, theo HCM, không giống quan điểm "phong
kiến, thực
dân"
[Tệ đoan cung văn này, dĩ
nhiên, không do cơ quan tuyên giáo Cộng Sản
độc quyền. Tại miền Nam, từng có huyền thoại về
"điều trần"
Nguyễn Trường Tộ, "nhà ngôn ngữ học" Trương Vĩnh
Kư, hay "đầy vua không Khả, đào mả không
Bài"–Khả, tức Ngô Đ́nh Khả, cha ruột Tổng thống
Ngô Đ́nh Diệm (1897-1963), xuất thân thông
ngôn cho Tây, tích cực trong việc đánh dẹp
phong trào Cần vương do Phan Đ́nh Phùng
lănh đạo, và rồi được Pháp ủy thác
giám hộ vua Thành Thái, với chức vụ Đề đốc
kinh thành. Bài là Nguyễn Hữu Bài, cha đỡ
đầu Diệm, từng được Pháp cử làm Tổng lư triều
Nguyễn từ 1925 tới 1932, trong thời gian ấu
vương Bảo Đại du học ở
Pháp. Bàn tay Bài và quan lại Việt từng đẫm
máu dân chúng miền Trung trong giai đoạn
1926-1932.
Sau này, vào tháng 8/1944, Giám mục
Ngô Đ́nh Thục viết thư cho Toàn Quyền Jean
Decoux khoe kể công lao hăn mă của họ Ngô với
Bảo hộ Pháp. Năm 1982, tôi nhờ Linh Mục Cao Văn
Luận gửi
một bản sao thư trên cho cựu Tổng Giám Mục Thục,
yêu
cầu cho biết ư kiến. Không thấy hồi âm; ít
lâu sau nghe tin ông Thục đă chết v́
điên loạn ở Mỹ.
Nhưng khi tôi cho công bố
tài liệu trên năm 1989, có người cho rằng đó
là "tài liệu giả"–hiểu theo nghĩa sau đó có
người in trộm tài liệu trên từ báo Lên
Đường (Houston) vào sách họ, nhưng đă cố
ư tẩy xóa một vài chi tiết trong thư.]
Nguyễn Vĩnh Châu:
Nhiều tác giả ngoại quốc vẫn
nhận xét HCM là một người có tinh thần quốc
gia,
chỉ dùng chủ nghĩa CS để giải phóng dân tộc
khỏi
ách đô hộ. Theo sự t́m hiểu của ông
th́ sự thật như thế nào?
TS Vũ Ngự Chiêu:
Tôi nghĩ cách diễn tả "tinh
thần quốc gia" quá trừu tượng, chứng tỏ sự thiếu
hiểu biết, đưa
đến sự đánh giá sai lầm HCM. Trên cơ bản, HCM
là người nuôi tham tâm giành đoạt
chính quyền bằng mọi giá và giữ vững độc quyền
cai
trị. Cũng cần lưu ư là HCM, theo tôi, không
là một cán bộ Cộng Sản thuần thành.
Liên hệ giữa Hồ và Quốc Tế
Cộng Sản có nhiều vấn đề.
Từ năm 1932, Nguyễn Ái Quốc
đă bị QTCS khai tử.
Từ 1933-1938: NAQ phải sống với bí
danh mới "Lin" hay "Linov," không được giao công
tác
ǵ. Năm 1935, chỉ được Lê Hồng Phong và Hà
Huy Tập cho 1 ghế dự khuyết trong Ban Trung Ương
Chấp Ủy, lo việc
phiên dịch các tài liệu của Đảng CSVN gửi
Pḥng Đông Dương của QTCS. Năm 1938, vội vă rời
Mat-scơ-va sang Diên An (Trung Hoa) để tránh bị
Stalin
thanh trừng. Nên chẳng có ǵ ngạc nhiên khi
từ năm 1943-1944, HCM đă t́m cách móc nối
cơ quan t́nh báo Mỹ. Từ sau chiến dịch Meigo của
Nhật–tức
cuộc bắt giữ hầu như toàn bộ chính phủ bảo hộ
Pháp
tại Đông Dương trong hai ngày 9-10/3/1945–HCM
bắt đầu
chính thức hợp tác với Phi Đoàn Cọp Bay 14 của
Chennault tại Vân Nam. Và rồi, cơ quan OSS [T́nh
báo chiến lược] Mỹ từ tháng 3 đến tháng 8/1945
(Frank Tan, thuộc GBT, và rồi Deer Team, OSS, ở
Kim Lộng,
Tuyên Quang). Sau ngày 19/8/1945, viên chức Mỹ
đóng vai đường giây ngoại giao của HCM, giúp
chính phủ Hồ tồn tại qua cuộc chiếm đóng của
Trung Hoa,
và phần nào giúp Hồ thành lập chính
phủ liên hiệp với Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt
Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, tổ chức bầu cử Quốc
Hội,
chính thống hóa chế độ VNDCCH hầu kư Tạm ước
6/3/1946 tại Hà Nội, và rồi Modus vivendi ngày
14/9/1946 tại Paris.
Nói cách khác, yếu tố
ngoại cường thống trị và ảnh hưởng sự thăng tiến
của HCM.
Chiêu bài "quốc gia"–HCM tự nhận nhiều lần chỉ
thuộc
Đảng Quốc Gia, và từng giải tán Đảng CSĐD
ngày 11/11/1945–chỉ quan trọng trong nội địa
Việt Nam.
Nguyễn Vĩnh Châu:
Theo sự nghiên cứu của ông
th́ ông HCM có trách nhiệm ǵ trong
việc đảng CSVN sát hại các đảng viên những
đoàn thể quốc gia trong thời gian những năm
45-46?
TS Vũ Ngự Chiêu:
Dù có trực tiếp cho lệnh hay
không, HCM phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Mặc dù Vơ Giáp cùng Bộ Nội Vụ ra tay
tàn sát các đảng phái chống Cộng khi HCM
đang ở Pháp, HCM được báo cáo tuờng tận chi tiết
những vụ án ngụy tạo xét xử cán bộ Việt Quốc,
hay
cuộc tàn sát VNQDĐ tại Hà Nội với lư do
"bắt tay Pháp làm đảo chính nhân dịp Quốc
Khánh 14/7 của Pháp." Dĩ nhiên, nên lưu
ư rằng, năm 1945-1946, HCM chưa hoàn toàn kiểm
soát được guồng máy chính quyền. Trong nội bộ
Đảng, HCM cũng không hoàn toàn kiểm soát
được phe cực đoan như Trường Chinh Đặng Xuân Khu
và Hạ
Bá Cang (Cung?), tức Hoàng Quốc Việt, v.. v...
Đó là chưa kể tinh thần địa phương
Nam-Trung-Bắc.
Nhưng những lời tuyên bố của HCM tại phiên họp
kỳ II của
Quốc Hội, từ 28/10 tới 9/11/1946, chứng tỏ HCM
phê chuẩn việc
làm của Giáp cũng như công an Việt Minh.
Nguyễn Vĩnh Châu:
Là một nhà sử học,
ông nghĩ ǵ về lập luận cho rằng dù ông HCM
có nhiều lỗi lầm nhưng vẫn có công giải
phóng VN khỏi ách thực dân?
TS Vũ Ngự Chiêu:
Với những tài liệu đă giải
mật (tháng 11/2008), không ai phủ nhận được tài
năng của HCM trong việc lănh đạo Đảng CSVN tới
chiến thắng
cuối cùng của Đảng này. Nhưng cách diễn tả
"giải phóng VN khỏi ách thực dân" cần xét
lại.Sau Thế Chiến Thứ Hai, phong trào giải
thực–hiểu theo nghĩa
thực dân Trung Cổ–xuất hiện ngay trong tâm ư
dân chúng các cường quốc thuộc địa. Thực dân
Pháp bị thất bại ở Việt Nam cơ bản là do quốc
dân
Pháp và Việt đều muốn chấm dứt nó. Thế giới cũng
chuyển biến sang một h́nh thức "trật tự mới"–tức
vùng ảnh
hưởng của các siêu cường–đặc biệt là Liên
Sô Nga và Liên Bang Mỹ, hai "siêu cường"
lănh đạo hai khối vô sản và tư bản. Sự nghiệp
chính trị của HCM cho tới khoảng năm 1968-1969
phải được
đánh giá trong hệ thống chính trị thế giơi chiến
tranh lạnh "lưỡng cực" này. Và, rồi sự chia rẽ
giữa Bắc
Kinh và Mat-scơ-va từ năm 1958, dẫn tới chính
sách
ḥa hoăn đa cực (bao gồm thế tay ba Mỹ-Nga-Trung
Cộng tại
Đông Nam Á).
Nên ghi nhớ là ngay đến
Ngô Đ́nh Diệm, năm 1954-1955, cũng khua chiêng,
gơ trống cho thành tích "bài phong, đả
thực"–nhờ phép lạ Mỹ.
Trường hợp HCM và Đảng CSVN,
thoát khỏi "ách thực dân Trung Cổ Pháp" để
bị trói buộc vào "ách thực dân mới
Hán Cộng." Khó thể gọi là "giải phóng VN
khỏi ách thực dân."
Nguyễn Vĩnh Châu:
Theo ông th́ trong cuộc
Cải Cách Ruộng Đất, ông Hồ Chí Minh có
trách nhiệm ǵ không ?
TS Vũ Ngự Chiêu:
Trước khi nói đến trách nhiệm
của HCM hay Đảng CSVN, cần t́m hiểu rơ ràng về
vai tṛ cải cách ruộng đât trong các
xă hội nông nghiệp, rồi đến trường hợp cá biệt
Việt
Nam.
A. Cải cách ruộng đất [CCRĐ]–tức
làm
sao
có
sự
phân
phối
ruộng
đất hợp lư để
nông dân có đất cày cấy–là điều quan
tâm hàng đầu của những nhà cai trị các
xă hội nông nghiệp muốn dân giàu, nước mạnh.
Trong Đường Kách Mệnh, HCM từng
viết:2. Tây đồn điền choán ruộng cách nào?
Nhiều cách.
Phần th́ Tây đồn điền cướp,
phần th́ các nhà thờ đạo chiếm. Các cố đạo
chờ năm nào mất mùa, đem tiền cho dân cày
vay. Chúng nó bắt dân đem văn khế ruộng cầm cho
nó và ăn lời thật nặng. V́ lời nặng quá,
đến mùa sau không trả nổi, th́ các cố xiết
ruộng ấy đem làm ruộng nhà thờ."[ 73]
3. Chính phủ Pháp đăi
dân cày An Nam thế nào?
Tư bản Tây và nhà thờ
đă choán gần hết đất ruộng, c̣n giữ được miếng
nào th́ chính phủ lại đánh thuế thật nặng,
mỗi năm mỗi tăng.[ 73] 10 phần lấy mất một.[
p.73]
Mua rẻ nhân dịp dân phải
đóng thuế; xuất cảng. Nó chở đi chừng nào,
th́ dân ta chết đói nhiều chừng ấy.
4. Bây giờ nên làm thế
nào? phải tổ chức nhau để kiếm đường giải
phóng.[ 74]
5. Cách tổ chức dân cày
thế nào?[ 74] Bất kỳ tiểu điền chủ trở xuống đều
được
vào; (trừ đại địa chủ, mật thám, cố đạo, say mê
rượu chè, cờ bạc và a phiến)[74]
Nông hội chống rượu chè,
a-phiến khiến mất giống ṇi.
Biết kách mệnh tinh thần,
kách mệnh kinh tế, th́ kách mệnh chính trị
cũng không xa.Từ đầu thập niên 1930, cải cách
ruộng
đất, hay cách mạng thổ địa, là một chiêu bài
của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Những khẩu hiệu
như "Thanh
trừ trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận
ngọn" được nêu ra từ cuộc nổi dạy 1930-1931 tại
Nghệ-Tĩnh
và Nam Kỳ, và thống trị các tài liệu
tuyên truyền của Đảng CSĐD cho tới năm
1935-1936.
Lư luận Marxist-Leninist phía sau chiêu bài
sắt máu này là cuộc đấu tranh giai cấp giữa
liên minh nông-công chống lại và tiêu
diệt giai tầng địa chủ phong kiến, nhằm thủ tiêu
hệ thống sản
xuất cổ truyền, tiến tới việc xây dựng một xă
hội
công bằng mà ai nấy đều được hưởng tương ứng với
những
ǵ ḿnh sản xuất, trên đường tiến đến xă hội
Cộng Sản, ở đó ai nấy đều làm theo khả năng,
được hưởng
theo nhu cầu.
V́ mục tiêu cuối
cùng–tức xă hội cộng sản, nơi nhà nước bị thăng
hoa, chỉ có những người lao động sản xuất tự
quản lư
công hữu–chưa đủ điều kiện chào đời, Đảng Cộng
Sản
và liên minh công-nông tiếp tục duy tŕ
nhà nước chuyên chính vô sản, hay "dân
chủ tập trung," thẳng tay tiêu diệt giai cấp địa
chủ phong kiến,
lấy đất chia cho người nghèo, để họ tự làm chủ.
Những
nhà tiểu tư sản mới này sẽ giúp tăng gia sản
xuất
lương thực, tạo nên thặng dư để góp vốn vào việc
công nghệ hóa nền kinh tế. Sự phát triển đồng
thuận
và song hành này sẽ giúp đất nước sớm hiện
đại hóa, nâng cao đời sống công nông,
phát triển nền văn hóa lành mạnh.
B. Đấu tranh Giảm Tức, Giảm Tô:
Từ năm 1945, chính phủ Việt Nam
Dân Chủ Cộng Ḥa [VNDCCH] đă bắt đầu phát
động chính sách đ̣i hỏi giảm tô (tức giảm
tiền thuê ruộng đất) và giảm tức (giảm tiền vay
lăi), nhưng có nơi thi hành, nơi không. Một
trong những lư do chính là giai đoạn 1945-1946
c̣n có những nhu cầu và khó khăn, phức tạp
cần giải quyết, liên hệ đến chính sự sinh tồn
của chế độ.
Từ đầu năm 1947 tới năm 1949,
chính
sách nông thôn của Hồ chưa có thay đổi
đáng kể, ngoại trừ những biện pháp tận thu, giảm
chi,
trên nguyên tắc "chớ nên mị dân." Tuy
nhiên, chiến thắng của Mao Trạch Đông ở Hoa lục
(1949)
và sự thành h́nh của "giải pháp Bảo
Đại" (1948-1949) khiến Hồ chẳng c̣n lựa chọn nào
khác hơn trở lại với khối tân Quốc tế Cộng Sản
(Cominform), do Liên Sô Nga lănh đạo. Bên cạnh
những chuẩn bị tái lập Đảng Cộng Sản Đông Dương
(dưới tên mới Đảng Lao Động Việt Nam từ năm
1949-1951),
và do nhu cầu tăng gia thu nhập cũng như củng cố
sự yểm trợ của
giới nông dân (bần cố nông và bần nông),
từ đầu năm 1949, BTV/TW Hội nghiên cứu chủ nghĩa
Mă Khắc
Tư ra Chỉ thị ngày 3/1/1949 cho các Khu ủy về
sách
lược vận động tranh đấu bắt các địa chủ giảm tô
25% như
chính phủ qui định. Mục tiêu lần này được mở
rộng
tới các địa chủ "công giáo, và chỉ thị
trên c̣n qui định việc giảm tiền xin lễ, nhưng
tránh không chạm đến tín ngưỡng." (VKĐTT, 10,
2001:176-177)
Đầu tháng 6/1949, BTV/TW lại gửi
điện ngày 1/6/1949 cho Liên khu [LK] IV về phong
trào khuyến khích địa chủ hiến đất. (VKĐTT, 10,
2001:241) Ngày 14/7/1949, HCM kư Sắc Lệnh Giảm
Tô.
Ngày 14/10/1949, BTV/TW ra chỉ thị tạm cấp ruộng
đất của Việt
Gian cho người nghèo. (VKĐTT, 10, 2001:299-303)
Ngày
22/10/1949, BTV/TW chỉ thị LK IV vận động giảm
tô 25%.
(VKĐTT, 10, 2001:307-308)
Ngày 18/11/1949, BTV/TW ra
Thông tri về việc chấn chỉnh tổ chức nông dân:
Khéo léo đưa địa chủ ra khỏi Hội Nông Dân Cứu
Quốc bằng cách tổ chức vào những hội khác (Phụ
lăo, Liên Việt) Thành phần BCH HNDCQ phải có
bần cố nông, có người trẻ. Không nên có
phú nông; nếu có chỉ để làm v́. Ra
sức tổ chức Hội nông dân trong vùng Công
Giáo. [Lê Văn Lương]. (VKĐTT, 10, 2001:314-315)
Ngày 5/7/1950,Trường Chinh đọc
báo cáo về chính sách nông thôn
tại phiên họp mở rộng của Ban Kinh tế TW [5 tới
7/7/1950]. (VKĐTT,
11,
2001:591-
626)
Ngày
17/7/1950:
Ban
Thường vụ TW chỉ thị
"hoàn thành giảm tô, thực hiện giảm tức."
Tại Đại hội tái lập Đảng CS
[Lao Động] vào tháng 2/1951, Tổng Bí thư
Trường Chinh nhấn mạnh là CCRĐ chỉ nhắm vào giảm
tô, giảm tức. Địa chủ hiến đất đai. Kháng chiến
thắng
lợi sẽ CCRĐ. [Ngày 16/4/1951 Hồ Viết Thắng được
cử
làm trưởng Tiểu ban Nông vận (c̣n có Trương
Việt Hùng, Nguyễn Hữu Thái, Trần Đức Thịnh, Ca,
Nông, Di, Đào). (VKĐTT, 12, 2001:526- 527)]
Ngày 22/4/1952, Hội nghị TW lần
thứ
ba của ĐLĐVN [22 tới 28/4/1952] vẫn c̣n ra nghị
quyết:
"Trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh."
(VKĐTT,
13, 2001:65- 75) Về chính sách ruộng đất sẽ tập
trung
vào giảm tô, giảm tức, lôi kéo địa chủ; tịch
thu ruộng đất của Pháp và Việt gian cho dân
cày nghèo. Chưa thủ tiêu bóc lột phong kiến.
( VKĐTT)13, 2001:118- 128).
C. Chính thức phát động
CCRĐ:
Năm 1952, Mao Trạch Đông mời Hồ
Chí Minh qua Bắc Kinh, ép phải cải cách ruộng
đất.
Đồng thời thực hiện chỉnh quân, chỉnh huấn.
(Hoan,
1987:359-367). Ngày 15/8/1952, Ban Bí thư [BBT]
Đảng
LĐVN ra chỉ thị bổ sung chỉ thị 37 về chính sách
ruộng đất: Từ nay "Dựa vào bần cố nông, đoàn kết
chặt chẽ vơí trung nông, liên minh với phú
nông, lôi kéo hoặc trung lập một số địa chủ,
đánh đuổi đế quốc và đại địa chủ phong kiến phản
động."
(VKĐTT, 13, 2001:239) Ngày 25/11/1952, BBT
ra
thông tri về việc điều tra nông thôn. (VKĐTT,
13,
2001:347- 360)
Đầu năm 1953, Trung Cộng cử Kiều
Hiểu
Quang, Phó Bí thư Quảng Tây, phụ trách
đoàn cố vấn cải cách ruộng đất. (Theo
Hoàng Tùng, La Quí Ba cũng ép Hồ phải đấu
tố Nguyễn Thị Năm, tức Cát Thành [Hanh] Long.
"Mấy
ngàn người bị xử tử." (Tài liệu truyền
tay
kư tên Hoàng Tùng. Hoàng Tùng
phục vụ trong Ban Tuyên huấn của Trường Chinh,
nên
có những thông tin đặc biệt. Theo tài liệu
đă dẫn, HCM rất bất măn về áp lực của Bắc Kinh,
nhưng không dám chống đối. Xem thêm infra.)
16/4/1951: Nghị quyết ngày
16/4/1951
của BCH/TW về việc thành lập các ban và tiểu ban
giúp việc:Ban Tuyên huấn: Trường Chinh, Phạm Tô,
Tố
Hữu, Trần Quang Huy, Hoàng Tùng, Xuân Thủy,
Lê Quang Đạo, Nguyễn Chương, Nguyễn Khánh Toàn,
Minh Tranh.
Ban Mặt Trận: Hoàng Quốc Việt,
Thoại
Sơn, Hồ Viết Thắng, Xuân Thủy, Trần Cung, Lê
Thành
Lập, Dương Bạch Mai.
Ban Kinh tế-Tài chính: Phạm
Tô, Cù Vân, Trần Đăng Ninh, Hồ Viết Thắng,
Lê Văn Hiến, Đặng Việt Châu, Bùi Công
Trừng, Nguyễn Văn Tạo, Trần Danh Tuyên, Nguyễn
Đức Thụ.Tiểu
ban Nông vận: Hồ Viết Thắng, Trương Việt Hùng,
Nguyễn Hữu
Thái, Trần Đức Thịnh, Ca, Nông, Di, Đào.
(VKĐTT, 12, 2001:526- 527)
Cũng có nhân chứng cho rằng
cuối tháng 3/1950, khi từ Bắc Kinh trở lại Tuyên
Quang, Hồ
tuyên bố với Ban Thường vụ Trung ương Hội Nghiên
Cứu Chủ
Nghĩa Mă Khắc Tư (tức Đảng CSĐD, đă được
bí mật tái khai sinh từ năm 1948-1949) là Stalin
muốn làm cách mạng thổ địa, và Hồ muốn làm
cách mạng thổ địa với sự tiếp tay của TC. (Vơ
Nguyên Giáp, CĐTVV, 2001:349-350) Một tài liệu
TC ghi ngày 5/3/1953, khi cùng HCM [dưỡng bệnh ở
TH] rời
Bắc Kinh về VN, Vi Quốc Thanh được HCM kể lại
những chi tiết về chuyến
qua Mat-scơ-va cuối năm 1952, và ư định thực
hiện
CMTĐ, theo lệnh Stalin. "Không thể đứng giữa một
ngọn
đ̣n sóc. (Vu Hóa Thẩm [Vương Chấn Hoa], "Vi Quốc
Thanh," (Vu Hóa Thẩm, LQB, 2008:59)
D. Hội nghị kỳ 4 Đảng LĐVN
(25-30/1/1953):
Theo tài liệu chính thức của
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Hội nghị lần thứ tư
Trung ương Đảng
LĐVN (25-30/1/1953) đă quyết định tiến hành cải
cách ruộng đất, tức phong trào đấu tố (rập khuôn
Trung Cộng).
Ngày 25/1/1953, HCM đọc báo
cáo về t́nh h́nh trước mắt và nhiệm vụ
CCRĐ. Triệt để giảm tô, tiến tới CCRĐ. Theo Hồ,
từ 1945,
đă thực hiện giảm tô, nhưng tới nay chưa đúng
mức:
có nơi giảm, nơi chưa giảm. Nay phải triệt để
thực hiện giảm
tô. Phải phát động quần chúng nông dân
tự giác tự nguyện đứng ra đấu tranh triệt để
giảm tô giảm
tức và giành lấy ưu thế chính trị ở nông
thôn. Đảng và chính phủ phải lănh đạo,
tổ chức, giúp đỡ, kiểm tra. Sau đó sẽ cải cách
ruộng đất. Nông dân là nền tảng của vấn đề dân
tộc, và cũng là nền tảng của cách mạng dân
chủ chống phong kiến, chống đế quốc. Muốn kháng
chiến thắng lợi
phải nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của
nông dân, chia ruộng đất cho nông dân. CCRĐ
sẽ giúp Đảng LĐ Việt Nam giải quyết nhiều vấn
đề:
Về quân sự: Nông dân hăng
hái tham gia bộ đội; đồng thời làm tan ră ngụy
quân.
Về kinh tế-tài chính:
nông dân đủ ăn đủ mặc, sẽ giúp phát triển
công thương nghiệp, hăng hái đóng thuế nông
nghiệp.
Về chính trị: Nông dân
nắm ưu thế trong làng xă, "nhân dân dân
chủ chuyên chính sẽ được thực hiện rộng khắp và
chắc chắn."
Về văn hóa: "có thực mới vực
được đạo." Nông dân no đủ sẽ phát triển văn
hóa.
Những vấn đề như thương binh, công
an
nhân dân dễ giải quyết.
Về Mặt Trận Liên Việt: Nông
dân sẽ chiếm đa số, cơ sở công nông liên minh
vững chắc hơn.
Đấu tranh triệt để giảm tô giảm
tức làm đà cho CCRĐ.
E. Hồ nêu lên kinh nghiệm
CCRĐ ở Trung Hoa:
Tới cuối năm 1952, đă hoàn
thành CCRĐ, chia đất cho nông dân. Hơn
500,000,000 nông dân được chia hơn 700 triệu mẫu
ruộng.
Nông dân giữ lại được hơn 30 triệu tấn thóc địa
tô. Hăng hái tăng gia sản xuất: Năm 1950 lương
thực tăng
20% so với năm 1949; năm 1952 tăng 40%. Thành
phần xă hội
thay đổi rất nhiều: trung nông tăng từ 20% tới
80%; bần
nông giảm từ 70% xuống c̣n 10-20%. Về chính trị,
chỉ tại bốn khu Hoa Trung, Trung Nam, Tây Nam và
Tây
Bắc nông hội đă có hơn 88 triệu hội viên,
trong đó hơn 30% là phụ nữ; 60% đến 80% nông
dân tổ chức thành những đội đổi công, hợp tác
xă. Nông dân trở thành trụ cột của
chính quyền ở nông thôn; nhân dân
dân chủ chuyên chính và công nông
liên minh trở nên vững chắc. Công nghệ và
thương nghiệp mau phát triển; văn hóa cũng lên
vùn vụt. Hơn 49 triệu trẻ em nông dân được đi
học.
V́ tŕnh độ giác ngộ lên cao, phong
trào chống tham ô lăng phí, quan liêu
và chống Mỹ, giúp Triều nông dân hăng
hái tham gia. (HCMTT, 7:1953-1955, 1996:8-9.
Thực ra HCM không hoặc không
muốn nói đến thực trạng sắt máu của bài học
CCRĐ Trung Hoa. Từ ngày 1/10/1949 tới cuối tháng
8/1951, có tới 28,000 bị hành quyết tại Quảng
Đông. Trong nửa năm đầu 1951, khoảng 800,000
phiên
ṭa xét xử phản cách mạng, và 135,000 người
bị tử h́nh. Từ 1949 tới 1952, khoảng 2 triệu
người bị
hành quyết. Hơn 2 triệu người khác bị gửi vào
các trại cải tạo. ( Maurice Meisner, Mao’s
China, 1977:81).
Năm 1952, Mao và Đảng CSTH
đă khiến giai cấp đại địa chủ ngừng hiện hữu,
nhưng cả Mao lẫn
Hồ, đều hiểu rằng CCRĐ chưa phải là cách mạng
XHCN.
Theo lư luận Marxist-Leninism, đây mới chỉ là
giai
đoạn "tư sản" [bourgeoisie] của cách mạng, hay
cái gọi
là "Tân Dân Chủ" của Mao. Nói theo Marx, "chế
độ Bonaparte [Pháp] là triều đại của nông
dân."
Mục tiêu chính của Mao chỉ
là: mở rộng cơ sở ủng hộ; kiểm soát hành
chính xuống các xă thôn; làm gia tăng
mức sản xuất nông phẩm. Bài diễn văn ngày
14/6/1950
của Liu Shaoqi [Lưu Thiếu Kỳ] hầu như đă được
phỏng dịch lại
trong bản báo cáo của HCM: thực hiện CCRĐ từng
bước
với sự thận trọng và biệt phân, trong khi lượng
sản xuất
nông phẩm gia tăng; phải dựa vào bần và cố
nông, liên minh với trung nông, và vô
hiệu hóa phú nôngHồ cũng không nhắc ǵ
đến những con sóng bạo lực và sự phẫn nộ của 20
triệu
người Hoa bị "vạch thành phần" là địa chủ, sự
chống đối
của họ [107- 108]. Bi thảm hơn nữa là dù CCRĐ
đă hoàn tất, t́nh trạng nghèo khổ của
nông dân TH không thay đổi. Chỉ có Đảng
CSTH đại thắng khi thay thế những kỳ hào cũ của
các
thôn xă bằng những người trẻ trung hơn, giúp đẩy
mạnh việc trung ương tập quyền cho Đảng và Trung
Hoa
Nhân Dân Cộng Ḥa Quốc. Đồng thời chuẩn bị cho
bước tái tổ chức kế tiếp, tức tập trung sản xuất
[collectivation].Trường Chinh báo cáo về mục
đích,
ư nghĩa, phương châm, phương pháp và kế
hoạch thực hiện CCRĐ. (VKĐTT, 14:30- 83.
Ngày 30/1/1953, ra Nghị Quyết
"Thẳng
tay phát động triệt để giảm tô." (VKĐTT, 14:128-
132)
F. Ngày 5/2/1953, Trường
Chinh ra chỉ thị về cách phổ biến Nghị Quyết của
Hội nghị lần
thứ tư BCHTW (khóa II): chỉ phổ biến CCRĐ tới
cấp khu ủy
và đại đoàn ủy, nhưng tạm thời giữ bí mật thời
điểm thực hiện. Cấp tỉnh ủy và trung đoàn ủy chỉ
nói giảm tô, tiến tới CCRĐ. Cấp dưới, không
nói đến CCRĐ, chỉ nói đến 5 công tác
trong năm 1953. (VKĐTT, 14:136-137).
Trong khi đó, Hồ liên tục xuất
hiện phát động các kế hoạch rập khuôn Trung Cộng
khác: Ngày 5/2/1953, HCM nói chuyện trước Hội
nghị
nông vận và dân vận toàn quốc. Hôm sau,
6/2/1953, HCM nói chuyện trước lớp chỉnh huấn
cán bộ
Đảng, Dân, Chính ở cơ quan TW. Hồ nhắc nhủ các
cán bộ: "Ngồi giữa hai ghế th́ nhất định sẽ
ngă."
Ngày 22/4/1953, Ban Bí thư ra
chỉ thị v/v 10 điều kỷ luật của cán bộ khi thi
hành
CCRĐ. Ngày 24/4/1953, Ban CHTW ra Chỉ thị v/v
phát
động quần chúng trong năm 1953.
Chỉ thị của BCT ngày 4/5/1953 v/v
Mấy vấn đề đặc biệt trong phát động quần chúng
trong năm
1953 phản ảnh khía cạnh sắt máu của kế hoạch
CCRĐ:
Trừng trị địa chủ phản động và
gian
ác
Mức thoái tô, dây dưa
tiền công
Tước vũ khí của địa chủ [vụ đồn
điền
Vũ Ngọc Hoành]
Yêu cầu về tŕnh độ tổ chức
trong cuộc phát động quần chúng
Chỉ thị số 43/CT/TW của BCT ngày
10/6/1953 v/v Hướng dẫn công tác phát động quần
chúng. (VKĐTT, 14:223- 234. Theo tin
quân sự
Pháp, thời gian này tại miền Bắc, Pháp chỉ kiểm
soát được 1,129 làng (trên tổng số 7,000
làng). (10H 282).
Phản ứng của dân chúng,
và nhất là cán bộ cực kỳ xúc động.
Ngày 29/6/1953, Thông Tri của Ban Bí thư về vấn
đề
tuyên truyền phát động quần chúng. ghi
nhận
"Ngay đến một số cán bộ lănh đạo chưa thấm nhuần
đường
lối của CP. Nhiều nơi, địa chủ và ngay cả phú
nông,
trung nông tự tử."( VKĐTT, 14: [tr. 246])
Ngày 3/7/1953, để trả lời những
thắc
mắc như "có CCRĐ trong kháng chiến hay không?,"
BCT khẳng định Hội nghị TW lần thứ 4 (1/1953) đă
quyết định
CCRĐ trong kháng chiến.
G. Luật CCRĐ 19/12/1953:
Trung tuần tháng 11/1953, tại Hội
nghị lần thứ 5 BCH/TW Đảng LĐVN và Hội nghị Toàn
quốc lần thứ nhất Đảng LĐVN (14-23/11/1953), kế
hoạch CCRĐ
được chính thức công bố. Bước kế tiếp chỉ c̣n
là việc của Quốc Hội. Ngày Thứ Ba, 1/12/1953,
Quốc Hội
VNDCCH họp khóa thứ ba [tới 4/12/1953]. HCM tham
dự. Đọc
báo cáo về t́nh h́nh thế giới, kháng
chiến và CCRĐ.
Trên mặt trận tuyên truyền,
người ta chỉ được giải thích là lấy ruộng đất
của "địa
chủ phong kiến, Việt Gian ác ôn" chia cho người
nghèo, với khẩu hiệu người cày có ruộng.
Trên thực tế, để tiêu diệt cái gọi là chế độ
sản xuất phong kiến, chính phủ Hồ áp dụng "công
lư bần nông," tức các phiên ṭa đấu
tố, bắt ép những người bị qui [vạch] vào thành
phần địa chủ, cường hào, ác ôn hay Việt Gian
phải
nhận cả những tội lỗi họ chưa bao giờ vi phạm;
rồi sau đó xử tử
h́nh, hạ tầng công tác hay tập trung cải tạo.
Đợt thí nghiệm ở Thái
Nguyên (dân số 10,781 người) từ tháng 12/1953
tới
tháng 3/1954. Tịch thu, trưng thu, trưng mua
2,609 mẫu cho 6,089
nông dân. (VKĐTT, 15:1954, p. 201).
Số nạn nhân của kế sách
CCRĐ được ước lượng từ 15,000 tới 50,000 người.
(Catton, 2002;
Brocheux, 2003:225).
Cần nhấn mạnh, mục tiêu chiến lược
của CCRĐ vào thời gian này: bên cạnh quyết
tâm "tiêu hủy giai cấp địa chủ phong kiến," nhắm
mở rộng sự
kiểm soát các làng xă, tiêu diệt khả
năng chống đối của địa chủ, gia tăng thu nhập
lương thực và
thuế, gia tăng số người nhập ngũ và "dân công"
phục
vụ nhu cầu chiến trường (lên tới hơn 100,000
trong chiến dịch
Điện Biên Phủ). Măi tới sau đợt cải cách ruộng
đất thứ 5 vào mùa Xuân-Hè 1956–trong
không khí chống đối, bất măn khắp nơi, kể cả
biến
cố nông dân Quỳnh Lưu nổi dạy, Vơ Giáp phải
mang quân lính đến đánh dẹp–Hồ mới họp Hội nghị
TWĐ lần thứ 10 (khóa II, 8-10/1956), nh́n nhận
khuyết
điểm, tự chỉ trích và phê b́nh; rồi tự
ḿnh thay Trường Chinh làm Tổng Bí thư, và
trừng phạt chiếu lệ những cán bộ điều khiển
chính
sách cải cách ruộng đất. (TTLTQG 3 (Hà Nội)
có một số tư liệu của Kho Quốc Hội đă giải mật.
Bộ Văn
Kiện Đảng Toàn Tập cũng in lại khá đầy đủ những
nghị
quyết và chỉ thị cơ bản về chính sách CCRĐ của
Đảng Cộng Sản từ năm 1949 tới 1957. Xem, Chính
Đạo, "Mặt
Trận Nông Thôn: Từ Cải Cách Ruộng Đất tới Ấp
Chiến Lược;" Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, tập II
(Houston: Văn
Hóa, đang in).
HCM đă chịu áp lực của Bắc
Kinh để thực hiện việc cướp đoạt tập thể tài sản
dân
chúng này. nhưng qui trách cho sai lầm của
Trường
Chinh, không phải do các cố vấn TQ. (Hoan,
1987:366-367)
Kết luận sơ khởi của chúng tôi
là cuộc cách mạng thổ địa vừa từ trên xuống
(theo
nghĩa do đảng LĐVN lănh đạo, phát động, tổ chức
và kiểm soát) vừa từ dưới lên (bạo lực tự
phát của giới nông dân nghèo khổ, ao ước được
chia đều phương tiện sản xuất, kể cả đất đai)
chỉ mới thành
công về chính trị và quân sự hơn kinh tế
và xă hội hay văn hóa.
Nguyễn Vĩnh Châu:
Trong vụ án "Nhân Văn-Giai
Phẩm", ông Hồ Chí Minh có trách nhiệm
ǵ không?
TS Vũ Ngự Chiêu:
Vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm
là hậu quả đương nhiên của quyết định độc quyền
cai trị
bằng họng súng của Đảng CSVN. Là Chủ tịch Đảng
và Nhà Nước, HCM chịu trách nhiệm. Riêng với
HCM, đó c̣n là sự phản bội chính những
đ̣i hỏi thuở trung niên của Hồ.
Nguyễn Vĩnh Châu:
C̣n về vụ thảm sát Tết Mậu
Thân ở Huế, ông Hồ Chí Minh có chịu
trách nhiệm ǵ không ?
TS Vũ Ngự Chiêu:
Thời điểm này, HCM hầu như
không c̣n thực quyền. Lê Duẩn-Lê Đức Thọ
đă nắm hết quyền lực. Vấn đề đặt ra là liệu
những
viên chức địa phương đă vượt qua chỉ thị vào
tháng 1/1968 của Lê Duẩn? (Phá cho tan hậu cứ
VNCH,
tức các đô thị).
Nguyễn Vĩnh Châu:
Hiện tại, nhiều đồng bào trong
nước cũng như hải ngoại rất quan tâm và bất
b́nh về
vấn đề mất đất, mất các quần đảo do Trung Cộng
chiếm đoạt. Vậy,
theo ông th́ ông Hồ Chí Minh có
trách nhiệm ǵ không?
TS Vũ Ngự Chiêu:
Dĩ nhiên là có. HCM
là người cầm đầu Đảng và Nhà Nuớc. Thư
ngày 14/9/1958 của Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân
Lai–tự
nguyện nh́n nhận biên giới do Trung Cộng tự vẽ,
với những
dấu chấm ở vùng lănh hải phía Nam–phải được sự
phê chuẩn của HCM và Bộ Chính Trị Đảng Lao
Động Việt Nam như Lê Duẩn, Vơ Nguyên
Giáp, Hoàng Văn Hoan, Lê Đức Thọ, v.. v...
Bắc Kinh và Hà Nội thường
nói về t́nh "môi hở, răng lạnh," hay "viện trợ
không kèm móc câu hay tḥng lọng."
Thực tế, việc cắt đất cắt biển là những lưỡi câu
và
tḥng lọng mà dân tộc Việt đang và sẽ chịu
đựng.