Việt Nam Văn Hiến
Năm
Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
TRUYỆN PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG
HAY LÀ SỰ
TÍCH THÁNH GIÓNG
Tạ-quốc-Tuấn
(Thân gửi bác sĩ
Lê-đình-Thái &
tiến sĩ Lê-đình-Thông để
tưởng nhớ những ngày Sóc-sơn)
Tranh Phù Đổng Thiên Vương
(ảnh cuả datviet.com)
Ảnh
của Cao Tường
Núi Sóc Sơn chụp từ Đền
Thượng Phù Đổng Thiên Vương: Chân Không Diệu
Hữu.
Hầu như không người
Việt-nam nào lại không biết chuyện Phù-đổng
Thiên-vương hay Thánh Gióng, một vị thiếu
niên anh hùng vào buổi sơ khai của lịch sử
Việt-nam, theo truyền thuyết, đã dẹp tan giặc Ân từ phương
bắc tràn xuống xâm lăng nước Văn lang, rồi sau khi thắng
trận đã về trời, không màng công danh bổng
lộc của triều đình hay sự tôn vinh của dân tộc.
Hành vi của Thánh Gióng đã gieo muôn
vàn kính phục trong lòng dân tộc. Họ
đã đặt nhiều sự tích về Ngài cùng những
người, những sự kiện liên quan đến cuộc kháng chiến chống
quân Ân của Ngài.
I.
Sự Tích
Thánh Gióng
Sự tích về Thánh Gióng
có rất nhiều và tản mác. Trong bài
này chúng tôi căn cứ vào các truyền
thuyết, thần tích, cố đúc kết lại thành một
tài liệu đơn giản.
Tục truyền rằng vào thời Việt-nam lập quốc
có một người khổng lồ dân gọi là ông Đổng.
Ông người to lớn và nhất là rất cao, cao đến độ đầu
đội trời, chân đạp đất, vai chạm những đám mây.
Tiếng ông nói oang oang như sấm nổ, mắt toé ra
những tia chớp. Mỗi khi thở, ông phun ra nếu không phải
là mây đen thì là gió bão hay
giông tố.
Tuy khổng lồ, người ông không chậm chạp
chút nào. Ông đi rất nhanh, nhanh đến nỗi gây
ra bão táp. Mỗi bước chân ông dài từ
đỉnh núi này qua đỉnh núi kia và làm
lún cả đá, thủng cả đất. Chân ông dẫm
nát ruộng lúa, vườn cà, và làm gẫy
nhiều cầu tre. Hiện nay ở nhiều nơi tại tỉnh Bắc-ninh còn nhiều
dấu vết chân ông: gò làng
Bình-tân (xã Thị-cầu, huyện Quế-võ),
núi Dam (xã Nam-sơn, cùng huyện), núi
Khám (xã Việt-đoàn, huyện Tiên-sơn), bờ
giếng làng Bưởi-nôi (xã An-bình, huyện
Gia-lương), thôn Đổng-viên (nay là Gióng Mốt,
xã Phù-đổng, huyện Tiên-sơn), Cổ-viên
(còn gọi là Vườn Cũ, Đổng-viên hay Vườn Đổng). Ngay
trên đỉnh Núi Sóc (ở huyện Đa-phúc, tỉnh
Vĩnh-phú) cũng có dấu chân ông Đổng nữa.
Vẫn theo truyền thuyết, ông Đổng thường
cào đất thành đồng ruộng, vun đá thành đồi
gò, và xẻ cát thành sông bãi.
Ông hay xuất hiện vào những ngày đầu hè,
vào khoảng thời gian hay có giông bão,
cà đã ra trái và lúa chiêm trổ
đòng. Trước và trong ngày ông xuất hiện bao
giờ cũng có gió bão, sấm sét, mà
người xưa cho là lúc ông hái cà. Do
đó người dân gọi gió vào thời gian đó
là “gió hái cà ”.
Do sự tích này làng
Gióng xưa mang tên là Kẻ Đổng. Ở đấy có tục
trồng riêng một sào cà để dành cho ông
Đổng về hái. Còn ở các ruộng khác, cạnh mỗi
cây cà người dân làng cắm một "que
bông" (que tre dài, ở một đầu vót thành xơ
xoắn xít dính vào thân que như hoa
cà) để dành cho ông, kẻo ông trẩy cà
gây ra thiệt hại cho cả mùa cà.
Đời vua Hùng thứ 6 (có tài liệu
nói là vua Hùng thứ 3), ở làng Gióng
(tên chữ là Phù-đổng), bộ Vũ-ninh(1), có một thiếu phụ đã lớn
tuổi và nghèo, lấy chồng lâu năm mà
không có con. Sau khi chồng chết, bà sống một
mình trong một túp lều tranh, sinh sống bằng việc trồng
cà trong khu vườn cạnh nhà và mò cua bắt ốc
ngoài đồng.
Vào một đêm mưa to gió lớn,
ông khổng lồ Đổng về Đổng-viên, vườn của bà.
Ông đã dẫm nát khu vườn cà của bà
và để lại một dấu chân to cỡ năm gang tay. Sáng
hôm sau bà thức dạy, ra ngoài vườn, trông
thấy dấu chân đó, bà bèn ướm thử bàn
chân mình vào. Bà còn thấy rau bị dẫm
nát nhưng chưa bị úa vàng nên tiếc rẻ
hái về nấu canh ăn. Sau đó bà thấy trong
mình chuyển động rồi có thai. Vì việc này
bà bị dân làng nhiếc móc và đuổi ra
khỏi làng. Bà bỏ lên ở rừng Trại Non (nay là
thôn Phù-dực) và sinh ông Gióng dưới
bóng cây trên một gò nổi giữa đầm.
Trời ban cho nhiều cua, ốc, cá để bà
ăn lấy sữa nuôi con và nhiều đá đẽo thành
thống để bà tắm rửa cho con, liềm để bà cắt rốn cho con,
và chõng để cho con bà nằm. Mặc dù
đã ăn uống mau lớn, nhưng cho tới ba tuổi cậu bé vẫn nằm
im trên chõng đá, không đi lại, không
nói cười. Ai cũng nghĩ là cậu bé bị câm.
Trong khi đó, người dân Việt đang
cùng nhau nỗ lực xây dựng quốc gia mới thành lập,
nước Văn-lang. Họ không ngờ một tai họa lớn lao sắp đổ lên
đầu.
Viện cớ Văn lang thiếu triều cống, vua Ân ở
phương bắc định thác danh đi tuần thú phương Nam để
tìm cách xâm chiếm nước này. Khi hay tin,
vua Hùng đã triệu quần thần lại hỏi xem nên
đánh hay nên giữ. Lúc ấy có một vị phương sĩ
đề nghị nhà vua cầu xin Long-vương, tức Lạc-long quân,
ông tổ của nhà vua, âm trợ.
Vua Hùng nghe lời, bày đàn trai
giới, tế trong ba ngày thì trời bỗng mưa dữ dội và
sấm sét, rồi có một ông lão cao to lớn ngồi
bên đường, cười nói múa hát. Khi được
tâu trình, nhà vua thân đến bái yết,
vì cho rằng đây là một vị thần nào
đó. Nhà vua xin ông lão bói xem giặc
Ân có sang đánh Văn-lang hay không và
được thua như thế nào. Lão già cho hay phải ba năm
sau giặc Ân mới đến nơi. Lão nói thêm
là khi giặc đến thì phải chỉnh tề khí giới, tinh
luyện quân sĩ, rồi tìm xem trong nước có ai
là kẻ phá được giặc thì phong tước lộc. Hễ được
người ấy thì dẹp yên được giặc. Nói xong ông
lão bay lên trời mà đi. Nhà vua lúc
đó mớI biết ông già chính là tổ
Lạc-long quân giáng hiện.
Đúng ba năm sau có tin cáo cấp
là giặc Ân đánh tới. Chúng đi đến đâu
thì ra sức tàn phá xóm làng,
nhà cửa. Những người dân bất hạnh không chạy trốn
kịp đều bị giết hại không nương tay. Chúng không tha
bất cứ một ai, đàn ông, đàn bà, người
già, trẻ con. Chúng bắt đàn bà con
gái về làm tôi tớ hay tì thiếp, còn
đàn ông con trai phải đi cắt cỏ cho ngựa đá
chúng ăn, nếu ngựa không ăn thì chúng giết
chết họ. Chúng còn bắt họ phải trồng ngược cây
và nếu cây bị chết thì chúng sẽ giết. Dường
như không có cách nào ngăn cản chúng
cả.
Vua Hùng bèn phái sứ giả đi
khắp nơi trong nước tìm người có thể dẹp giặc. Khi sứ giả
đến làng Gióng thì đột nhiên cậu bé
bật nói được, xin mẹ gọi sứ giả đến hỏi xem có việc
gì. Tuy hoảng sợ, bà mẹ cũng vui mừng, chiều con, liền
báo cho hàng xóm biết con mình nói
được và nhờ họ mời sứ giả đến.
Lúc trông thấy sứ giả, cậu bé
rời chõng đá, đứng phắt dạy, bảo sứ giả về tâu với
vua xin cho đúc một con ngựa sắt cao 18 trượng, một gươm sắt
dài 7 thước và một cái nón sắt để đi
đánh giặc. Sứ giả về tâu vua. Vua mừng lắm, ra lệnh cho
tìm 50 cân sắt để đúc ngựa, gươm và
nón. Sứ giả mang các thứ này cho cậu bé.
Lại có một truyền thuyết cho rằng có
một vị thần trên trời đã mách thầm cho cậu
bé cứ rèn đồ sắt mà đánh giặc thì
thế nào cũng đánh tan được giặc. Theo một số người kể
lại, vị thần đó chính là ông tổ nghề thợ
rèn ờ các làng Gióng, Na (tức Y-na)
và Mòi (tức Mai-cương) thuộc bộ Vũ-ninh. Tên vị ấy
nguyên là Hồng, sau dân gọi trệch đi là Hường
để tránh tên hèm.
Cậu bé lúc ấy đã đột
nhiên to lớn, xẻ núi lấy sắt, gọi một nghìn thợ
rèn ờ các làng trên tới đúc ngựa,
gươm và nón sắt. Tuy có nhiều sắt nhưng cũng
không đủ, chỉ đúc được một con ngựa rỗng ruột. Lúc
nhận được ngựa, ông Gióng mới vỗ nhẹ vào con ngựa
một cái là con ngựa đã bẹp dí lại. Thợ
rèn phải tìm thêm sắt đúc một con ngựa
khác, với đủ cả các bộ phận, cơ quan trong người. Chỗ
các thợ rèn họp nhau lại để rèn ngựa, gươm
và nón sắt cho ông Gióng là
làng Mòi. Hiện nay ở trong làng hãy
còn rải rác khắp nơi các xỉ sắt. Ở bên
rià làng có các Cồn Phó Lò,
Cồn Cây Táo Trong, Cồn Cây Táo Ngoài,
tương truyền chính là các đe của các
ông thợ rèn thời đó. Chi chít chung quanh
làng có tới 99 cái ao, vốn là dấu
chân ngựa sắt thợ rèn đã đem đi dạo trước khi trao
cho ông Gióng.
Được ngựa, gươm và nón sắt rồi,
ông Gióng xin mẹ thổi nhiều cơm cho ông để ăn xong
ông sẽ đi đánh giặc. Cơm mẹ thổi không đủ cho
ông ăn. Hàng xóm nấu thêm mà ông
ăn vẫn chưa được no. Cơm bà mẹ và hàng xóm
thổi chỉ là cơm chay, gồm cơm và cà thôi. Do
đó, sau này để nhắc lại sự tích ông ăn hết
cơm cà của làng Gióng, người ta mới có
câu nói là "Ra Gióng lấy
cà, về nhà lấy cơm" và câu ca:
Bảy nong cơm, ba nong cà,
Uống một hơi nước, cạn đà khúc
sông.
Cứ ăn hết một nong cơm, ông Gióng lại
cao thêm một cây sào. Ăn xong cơm thì
ông ruỗi chân đứng lên, cao hơn 10 trượng(2), đến nỗi vải mặc không che
kín thân, phải lấy thêm hoa cây lau nối
vào. Lại có một truyền thuyết khác nói rằng
áo của ông cũng làm bằng sắt, nhưng vì
không đủ sắt nên áo đó phải quấn thêm
bông lau.
Ông Gióng vừa ăn cơm xong thì
có tin giặc Ân đã kéo đến núi
Trâu (còn gọi là núi Vũ-ninh, vì
núi nằm ở hạt Vũ-ninh thuộc huyện Quế-võ, tỉnh Bắc-ninh).
Ông liền tuốt gươm, hô to rằng ông là
thiên tướng, rồi đội nón sắt, nhảy lên lưng ngựa phi
như bay, xông đến trước quân địch rất là dũng
mãnh.
Có truyền thuyết kể rằng khi ông
Gióng nhảy lên lưng con ngựa sắt thì ngựa
thét ra lửa cháy cả một bãi đất rất rộng (nay
là làng Cháy, gồm các thôn
Phù-luân, Phù-đảo và Phù-chẩn, ở cạnh
làng Phù-đổng), rồi phi vút đi gây nên
một trận bão gió làm xiêu cả cây cỏ.
Chân ngựa dẫm lún cả đất thành ra những ao
chuôm nằm rải rác dọc các đường cái, nay
còn thấy từ cuối huyện Thuận-thành đến huyện
Quế-võ (cả hai ở trong tỉnh Bắc-ninh). Phân ngựa rơi
vãi thành đá ong, xỉ sắt, hiện còn thấy ở
những nơi dân gian cho là ông Gióng đã
thắng cương ngựa, như Quế-tân, Dũng-võ và
Mòi.
Ông Gióng và đoàn
quân xông tới chân núi Trâu, chém
giặc rất dữ dội. Quân giặc quá hoảng sợ, quay lại
đánh chém lẫn nhau, chết rất nhiều. Tướng giặc bị giết
tại trận. Có thuyết cho rằng tướng giặc bị ông
Gióng chém là nữ tướng, và vì vậy
bài hát của làng Gióng trước Đền
Gióng (hay Đền Thượng) vào ngày Hội Gióng
có nói đến 28 tướng nữ:
Nhớ xưa thứ sáu Hùng-vương,
Hai mươi tám tướng, tướng cường nữ nhung.
Cậy thế xâm thượng khoe hùng,
Quân sang đóng chặt một vùng
Vũ-ninh.
Ngựa đá của tướng giặc bị chém đứt
đầu. Mình ngựa lăn trên đồi làng Cựu-tự (ở cuối
xã Ngọc-xá, nay giáp xã Châu-phong)
và đầu ngựa văng xa đến tận chân núi Phả-lại. Hiện
nay ở hai nơi này còn những tảng đá có
hình thù tương tự đầu và mình ngựa.
Trong lúc đánh nhau, gươm sắt của
ông Gióng gãy đôi, một đoạn cắm trên
đỉnh núi Trâu, một đoạn ông Gióng đeo
bên mình. Thuận tay, ông nhổ luôn các
bụi tre ngà bên đường làm vũ khí,
đánh thẳng xuống đầu giặc Ân, khiến nhiều tên bị
chết hay bị thương. Do đó, ở làng Gióng mới
có câu hát là:
Đứa thì sứt mũi sứt tai,
Đứa thì chết nhóc vì gai tre
ngà.
Tre ngà mọc thành rừng ở phiá
đông bắc làng Thất-gian (xã Châu-phong). Đất
nơi ông Gióng nhổ bật các bụi tre lõm xuống
thành một đầm nước (đầm Thất-gian) và các
cành tre ông Gióng vứt tung đi các ngả nay
hãy còn mọc từng bụi nhỏ, cạnh những ao đầm, vốn
là những vết chân ngựa, tại các làng
Ngọc-xá, Dũng-quyết, Đức-thành, Mai-cương (nay thuộc
huyện Quế-võ), Giang-sơn, Đông-cứu,
Lãng-ngâm, An-bình (nay thuộc huyện Gia-lương),
Đông-côi và Gia-định (nay thuộc huyện
Thuận-thành). Điểm đáng chú ý là
theo dân ở những nơi này, dù người ta nhiều lần
chặt tre đi mà tre vẫn cứ mọc lại như cũ.
Thấy khí thế dũng mãnh của ông
Gióng như vậy và lại thấy tướng của mình tử trận
rồi, đám giặc Ân bèn sụp lạy xin hàng.
Sau khi dẹp xong giặc Ân, ông
Gióng ngồi nghỉ ở làng Cựu-tự. Ông buộc ngựa sắt
vào hai cọc đá (nay còn cao lối 3 thước tây,
vòng to khoảng 60 phân tây, cắm sâu xuống một
bệ đá hình bầu dục). Quá mệt mỏi vì
xông trận nên con ngựa sắt của ông sùi bọt
mép mà biến thành một bãi cát
màu trắng. Hiện nay ở xã Ngọc-xá, huyện
Quế-võ, có một bãi cát trắng tinh ở xa bờ
sông, gọi là Bạch-nha Sa hay là Bãi
Bùng.
Sau đó người ngựa lại lên đường đi tới
làng Mai-cương, nơi đúc ngựa sắt. Ông buộc ngựa ở
đây, rướn mình qua sông Đuống, quì gối, vục
đầu xuống uống nước giếng làng Bưởi-nôi (nay là
xã An-bình, huyện Gia-lương). Vì ông ăn trầu
trước khi uống nước nên nước giếng làng Bưởi-nôi
ngày nay có màu đỏ. Phiến đá bên bờ
giếng có mang vết gối ông Gióng quì.
Đoạn ông lại phi ngựa tới bến Bồ-đề, rồi ngừng
lại uống nước một lần nữa bên bờ sông Hồng. Ở đây
còn thấy trên một phiến đá lớn tại thôn
Phù-viên một dấu lõm in dấu chân ngựa
ông Gióng.
Ngựa ông vượt sông Hồng đi đến
làng Cáo (nay là làng Xuân-tảo)
bên bờ Hồ Tây (trong thành phố Hà-nội). Tại
đây ông cởi áo mặc và bỏ lại nửa cây
gươm gẫy, đoạn giở cơm nắm ra ăn. Ăn xong ông xuống hồ tắm, rồi
lên ngựa đi về phía núi Sóc. Qua
Đông-đô (xã Nam-hồng, huyện Đông-anh, ngoại
thành Hà-nội ngày nay), ông lại nghỉ một lần
nữa. Hai bên đường chạy từ đây qua huyện Kim-anh đến huyện
Đa-phúc (cả hai thuộc tỉnh Vĩnh-phúc ngày nay)
có rất nhiều ao chuôm mà tục truyền đó
là dấu chân ngựa ông Gióng. Điểm đáng
chú ý là càng đến gần núi Sóc
những dấu chân ngựa càng rõ, trông như những
giếng nước thẳng hàng nhưng so le. Theo dân địa phương,
những giếng này không bao giờ cạn nước, bờ giếng
không bao giờ sứt lở.
Theo một truyền thuyết khác, khi ông
Gióng ghé vào một làng uống nước và
được biết tên làng là Khốn, ông bảo với lũ
trẻ chăn trâu lúc đó đang chơi ở đấy về nói
với các cụ trong làng đổi tên thành
làng Mát. Do đó làng Khốn mới có
tên khác là Kẻ Mát, tên chữ là
Thanh-nhàn. Hai bên bờ khe làng, nơi dân
chúng bảo là chỗ ông Gióng xuống múc
nước uống, hiện nay có rất nhiều vết chân ông
Gióng và ngựa của ông.
Khi đến chân núi Sóc (cuối
dãy núi Tam-đảo, nay ở huyện Sóc-sơn, ngoại
thành Hà-nội) ông Gióng ghìm cương
ngựa lại. Ngựa hí và dậm chân xoay bốn phía.
Do đó, ở làng Mã hiện còn nhiều ao
chuôm dày chi chít như dấu chân ngựa
ông Gióng.
Tại núi Sóc, ông đã cưỡi
ngựa bay về trời, chỉ để lại cái áo vắt trên
cành cây. Cây ấy nay gọi là cây
Dịch-phục. Trong dẫy núi Tam-đảo còn có đỉnh
núi Sọ Ngựa (Phù-mã), tương truyền là đầu
ngựa ông Gióng. Lại có thuyết cho rằng ông
Gióng phi ngựa lên vúi Vệ-linh, một tên
khác của núi Sóc, trèo lên cây
đa mà bay về trời.
Trong dân gian từ vùng ông
Gióng sinh cho tới nơi ông phi ngựa về trời, cùng
là những nơi khác ông đi qua, còn kể lại rất
nhiều chuyện khác nữa. Theo họ, trong lúc dẫn quân
ra chiến trường, ông đã được nhiều người theo chân
đi đánh giặc. Những người này thuộc đủ các hạng,
các giai cấp trong xã hội.
Họ là những trẻ chăn trâu, chăn
bò. Một truyền thuyết nói rằng khi đoàn quân
của ông Gióng đi qua làng Nội-xá, gần
làng Gióng, thì có một đám trẻ chăn
trâu bò đang chơi đùa, rước cờ lau, đánh
trống, gõ khăng, trông thấy. Chúng vội buộc
trâu bò lại rồi nhập đoàn quân ông
Gióng.
Lại có người đang câu cá
bên bờ sông, mấy người đang mang nỏ đi săn thấy đoàn
quân ông ồ ạt kéo qua, bèn vác cả cần
câu, mang cả nỏ, nhập bọn luôn để đi đánh giặc.
Cũng có nhiều người vốn làm ruộng. Ở
làng Trung-mầu (huyện Gia-lâm, ngoại thành
Hà-nội) có một ông đang cầm vồ đập đất ngoài
ruộng. Khi trông thấy đoàn quân ông
Gióng đi ra bãi chiến trường đánh giặc Ân,
ông ta bèn bỏ công việc ruộng nương, vác vồ
đi theo luôn. Hiện nay ở làng Trung-mầu có thờ
ông Cầm Vồ. Dân chúng còn gọi ông ta
là ông Đường Ghênh (tên một cánh đồng
làng này) hay ông Quách-nhân
(tên trong thần tích). Vào ngày Hội
Gióng, dân làng Trung-mầu rước ông lên
đền Gióng dự hội.
Họ cũng có thể là những anh em sinh
đôi, sinh năm. Ở Võ-giàng (nay là
Quế-võ) có một cặp sinh đôi. Khi lớn lên,
người anh ở làng Cán (tức là Can-vũ), người em ở
làng Ngườm (hay Nghiêm-xá). Khi đoàn
quân ông Gióng trảy qua ruộng nơi hai anh em đang
đập đất, hai người bèn ném vồ, chạy tới xin ông
Gióng cho theo tong quân. Dân chúng ở
đây còn kể lại là sau khi thắng giặc, hai anh em
cũng biến mất. Chiếc vồ của người anh làm bằng gỗ nên khi
người anh ném đi để đi theo đoàn quân nó
đã biến thành rừng gỗ quanh đền Ông Anh ở
làng Cán; còn chiếc của người em làm bằng
tre, sau biến thành rừng tre quanh đền Ông Em ở
làng Ngườm. Hàng năm, đến ngày Hội Gióng,
người ở Phù-đổng và Sóc-sơn đến rừng tre
làng
Ngườm
chặt tre mang về vót thành
"que bông cà" để rước ông Gióng và
thành đũa để thờ ông.
Một cặp sinh đôi khác tên
là Dực và Minh, người làng Hà-lỗ và
Hà-phong (nay là xã Liên-hà, huyện
Đông-anh, ngoại thành Hà-nội). Họ từ trong một bọc
sinh ra. Trước kia họ đã đánh nhau với giặc Ân
trong một thời gian rất dài nhưng không thắng. Sau họ nhập
vào đoàn quân ông Gióng ở Cầu
Bài, làng Rỗ. Thắng giặc rồi họ cũng lên trời
hóa. Người em, tên là Minh, phi ngựa đến gò
Hạ-nham núi Độc (ở huyện Định-hóa, tỉnh
Thái-nguyên) rồi biến mất. Người anh đi tìm em khắp
nơi không thấy nên cũng lên trời hóa ở
làng Tuy-xá (nay thuộc về huyện Đại-từ, cùng tỉnh).
Làng Y-na có một thiếu phụ phúc
đức, thường chữa bệnh miễn phí cho dân làng,
nên được mọi người mến. Một hôm có chiếc cầu vồng
năm màu xuất hiện trên trời rồi nhằm thẳng người bà
mà sa xuống. Bà liền thụ thai, sau sinh ra một cái
bọc nở ra năm người con trai. Năm họ 12 tuổi thì mẹ mất.
Cùng năm ấy giặc Ân tràn tới. Năm anh em,
cùng 35 người dân làng trai tráng khoẻ mạnh,
kéo nhau nhập vào đoàn quân ông
Gióng lúc đó ở gần núi Trâu. Sau khi
dẹp tan giặc Ân, vua Hùng phong cho năm ông giữ đất
Quế-dương và cho lấy làng Y-na làm dinh cơ. Giữa
lúc cả làng mở hội ăn mừng, chiếc cầu vồng năm màu
lại xuất hiện, sa xuống đưa năm ông về trời. Làng Y-na về
sau tách đôi: một là làng Y-na thờ ba
ông lớn nhất và làng kia là làng
Bò (nay là Bồ-sơn) thờ hai ông sau. Hai làng
kết nghĩa anh (Y-na) em (Bò). Trai gái hai làng
không bao giờ lấy nhau.
II.
Ý Nghĩa Huyền
Thoại Thánh Gióng
Mặc dù sự tích Thánh
Gióng rất hay và đã được lưu truyền trong
dân gian hàng nghìn năm, nhưng một số người
đã không tin, cho rằng sự tích ấy có
tính cách hoang đường, một câu chuyện thần thoại.
Chẳng hạn trong bài "Từ Tư Duy Thần Thoại Đến Tư Duy
Lịch Sử " sách Hùng Vương Dựng Nước,
Trần-quốc-Vượng đã viết: "Ông Gióng
là một nhân vật thần thoại. Phù Đổng Thiên
Vương đánh giặc Ân thời Hùng Vương thứ 6 đã
là một nhân vật lịch sử hóa." (tập III, tr. 404). Trần-trọng-Kim trong sách Việt-nam Sử Lược cũng đưa ra nhận xét rằng: "Truyện này là truyện tục truyền như vậy, chứ
không có lẽ tin làm sự thực được." (ấn bản
1971, q. I, tr. 15)
Theo nhiều người, huyền thoại Thánh
Gióng biểu thị sự ấu trĩ của dân tộc. Họ không tin
những sự kiện như là một đứa bé không biết
nói từ lúc lọt lòng mẹ đến năm lên ba, thế
mà chỉ mới nghe tin có sứ giả triều đình đến
làng mình là đã đột nhiên bật
nói lên được và còn đòi triều
đình đúc cho mình ngựa sắt, gươm sắt, nón
sắt để dùng đi đánh giặc. Họ còn cho là phi
lý chuyện cậu bé lên ba đó đã ăn một
hơi hết bảy nong cơm, ba nong cà và uống cạn một
khúc sông vẫn chưa đủ no, đã khát. Vẫn theo
họ, làm sao mà vừa ăn uống xong cậu bé đã
vươn mình một cái người cao tới 10 trượng (nghĩa
là gấp 13, 14 lần người thường), lại còn cưỡi ngựa sắt
phi ra chiến trường đánh nhau với giặc ngoại xâm,
chém đầu 28 tướng giặc (dù là nữ tướng theo như
truyền thuyết) như chẻ tre. Nhất là họ không có
cách nào giải thích hợp lý và khoa
học việc cậu bé đó đã bay về trời sau khi
hoàn thành sứ mạng.
Tuy nhiên, đáng may là những
người quan niệm như vậy chỉ là thiểu số. Đành rằng sự
tích Thánh Gióng là một câu chuyện
huyền thoại, có thể cho là hoang đường, nhưng trong
tín ngưỡng dân tộc Việt-nam, Thánh Gióng
là một vị thiên sứ, một thần tướng, vâng mệnh Trời
xuống nước Văn-lang để cứu dân Việt thoát khỏi tai kiếp
ngoại xâm. Họ tin câu chuyện như có thật và
nhất là họ "vẫn nuôi trong lòng một
hình ảnh linh thiêng phản chiếu tinh thần dân tộc
độc lập tự cường coi như quyền sống bất khả xâm phạm."(3)
Do đó, nếu chúng ta chỉ nhìn sự
tích Thánh Gióng bằng con mắt duy lý
và bằng tinh thần "sợi tóc chẻ làm tư",
đúng là chúng ta không thể giải thích
thỏa đáng những vấn nạn do sự tích này mang lại.
Trái lại, nếu chúng ta nhìn nó bằng một đầu
óc cởi mở, phóng khoáng, không bị
bóng mây duy lý, duy vật, hay bất cứ duy gì
đi nữa che mờ, để tìm hiểu ý nghĩa thâm sâu
của sự tích Thánh Gióng, những gì người
dân thực thà, chất phác, cả "quê mùa"
nữa, gửi gấm vào đó, chúng ta sẽ hiểu tại sao
đã mấy nghìn năm rồi mà người dân Việt vẫn
không hề quên lãng vị anh hùng cứu quốc ấy,
cho dù sau họ đã bị người Trung-quốc đô hộ hơn 11
thế kỷ (207/180 TCN-939 SCN) và đã dùng đủ mọi
cách xóa bỏ những dấu tích của một lịch sử oai
hùng và một nền văn minh sáng chói của họ.
Tuy câu chuyện Thánh Gióng
là một sự tích thần thoại và vì nó
là thần thoại nên nó phải hoang đường, nhưng
nó vẫn tượng trưng cho lý tưởng người anh hùng
dân tộc của nhân dân Việt-nam theo quan niệm
bình dân.
Vốn thực thà chất phác, người
bình dân Việt-nam ngay từ khi biết sống quây quần
với nhau thành một quốc gia vẫn nuôi trong lòng
hình ảnh một người anh hùng lý tưởng là một
con người hồn nhiên và trong trắng, có khả năng
siêu phàm, biết xả thân cứu nước giúp
dân, và không màng công danh lợi lộc.
Đức tính hồn nhiên trong trắng của
người anh hùng lý tưởng ấy đã thể hiện qua
hình ảnh một cậu bé không nói không
cười.
Nếu nói thì con người khó
tránh khỏi sai lầm, đấy là chưa kể nói lắm khi
còn có hại nữa. Nói nhiều dễ trở nên ba hoa,
vọng ngôn, lộng ngôn, ngoa ngôn, khoe khoang về
mình và chê bai, dè bỉu, nói xấu
người khác, làm thương tổn đến danh dự người, làm
mất lòng người. Hơn nữa, con người có ít
nói thì mới có nhiều thì giờ và
tâm trí để suy nghĩ đắn đo, cân nhắc từng
hành động, từng cử chỉ, từng ý nghĩ của mình,
chẳng phải chỉ để làm lợi cho mình, mà cốt để
có thể phục vụ người khác được.
Con người ít nói hay không
nói không phải là con người câm, ì
cù lì, mà chính là con nguời chỉ
nói khi nào thật cần thiết như cậu bé
Phù-đổng đã bật nói khi nghe tiếng gọi cứu quốc,
và chỉ nói những gì liên quan đến việc
đánh dẹp quân xâm lăng.
Con người anh hùng dân tộc lý
tưởng ấy cũng cần có khả năng cứu quốc độ dân. Cái
khả năng đó không phải là khả năng tầm thường
mà là siêu phàm, nghĩa là có
thể làm được cái mà không ai khác
làm được. Con nguời đó chỉ có thể thấy nơi
các thiên sứ, thần tướng, những nguời do Trời sai xuống
trần gian để làm công việc phi phàm. Cậu bé
Phù-đổng chính là con người đó, một
thiên tướng vâng lệnh Trời xuống nước Văn-lang giúp
dân Việt đánh đuổi kẻ thù xâm lăng.
Khả năng siêu phàm của Thánh
Gióng khiến chúng ta liên tưởng đến các vĩ
tích của Lạc-long quân, vị sơ tổ của nhân dân
Việt-nam, như được diễn tả qua Truyện Mộc tinh, Truyện Hồ
tinh, Truyện Ngư tinh, v.v., trong sách Lĩnh-nam
Chích
Quái của Trần-thế-Pháp. Vì thế
không phải là một sự tình cờ mà trong sự
tích Thánh Gióng, cũng được Trần-thế-Pháp
thuật lại thành Truyện Đổng Thiên-vương
trong sách này, đã kể việc ông tổ Lạc-long
quân xuất hiện để mách đường chỉ lối cho hậu duệ là
vua Hùng đi tìm cậu bé làng
Phù-đổng, con người có khả năng siêu phàm,
có thể cứu nước giúp dân được. Điểm này
còn nhắc chúng ta nhớ đến Truyện
Hồng-bàng cũng ở trong sách Lĩnh-nam
Chích Quái đã nói là sau khi cha
Lạc-long quân và mẹ Âu-cơ chia tay nhau cùng
với đám con đi định cư khắp nơi trong nước, mỗi khi dân
Việt lâm nguy bao giờ cũng kêu gọi và được tổ
Lạc-long quân đến cứu giúp.
Mặt khác, vẫn theo quan niệm bình
dân của người Việt-nam, người anh hùng lý tưởng
phải biết xả thân cứu nước giúp dân khi quốc gia
lâm nguy. Quan niệm này đã được diễn tả qua sự
tích Thánh Gióng.
Bất cứ người nào sống trong nước Việt-nam,
dù chỉ là một trẻ thơ như Thánh Gióng, cũng
có bổn phận chẳng những là đối với gia đình
và họ hàng mình mà trên hết phải
có nhiệm vụ đối với quốc gia, dân tộc. Tùy khả
năng, mỗi người có thể thi hành nhiệm vụ đó một
hay nhiều cách khác nhau. Cách nào cũng
được, kể cả việc dùng pháp thuật, miễn là
có thể phục vụ quốc gia dân tộc một cách hữu hiệu.
Tới đây chúng ta không khỏi không nhớ đến bộ Đại Việt Sử Lược (thường được gọi là Việt
Sử
Lược) của tác giả khuyết danh (có thuyết cho
tác giả là Trần-chu-Phổ hay Trần-Phổ, có thuyết
cho là Hồ-tông-Thốc, lại có thuyết cho là
Sử-hi-Nhan) đã nói về vua Hùng thứ nhất dựng nước
Văn-lang như sau (q. 1, tờ 1a):
"Đến đời Châu Trang-vương ở bộ
Gia-ninh có người lạ dùng pháp thuật áp
phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng-vương,
đóng đô ở Văn-lang, hiệu là nước Văn-lang, phong
tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết
nút. Truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng-vương."(4)
Pháp thuật ở đây không nên
hiểu là bùa phép, ngải gồng, v.v., và cũng
không nên hiểu là "ảo thuật"(5)
. Nó chính là sự khéo sử dụng các
đặc tính của mọi tài nguyên sẵn có trong
nước mà người khác không biết đến. Pháp
thuật đó không được nhằm làm lợi cho cá
nhân hay gia tộc của kẻ sử dụng, mà là để
làm lợi cho quốc gia, dân tộc. Trong sự tích
Thánh Gióng, pháp thuật đó chính
là sự rèn sắt luyện kim thành võ khí
giết giặc.
Hơn nữa, người anh hùng lý tưởng
còn là anh hùng vô danh. Thực ra tuy
vô danh nhưng tên tuổi vẫn để đời.
Chúng ta không biết tên thật của
vị thiếu niên anh hùng đã dẹp tan giặc xâm
lăng. Đến cả họ tên cha mẹ của vị đó chúng ta cũng
không biết nốt. Chúng ta chỉ biết vị anh hùng được
gọi theo tên nơi ra chào đời, đó là
Phù-đổng hay Gióng. Tuy nhiên, cái tên
Gióng hay Phù-đổng này đã được lưu truyền
muôn đời vạn kiếp, trong quá khứ cũng như trong hiện tại
và sẽ còn được lưu truyền mãi mãi trong
tương lai cho đến vô tận, ngày nào còn
có người Việt-nam trên mặt địa cầu.
Hơn nữa, trong sự tích Thánh
Gióng, ngoài Ngài ra còn có biết bao
nhiêu người khác cũng đã góp phần vào
công cuộc kháng chiến chống quân xâm lăng
mà chúng ta không biết họ tên, hay quá
lắm là chỉ biết tên một vài người thôi, nhưng
lại không biết ngay cả họ của các vị đó nữa. Tuy
thần tích ở những nơi thờ họ có chép, nhưng chưa
chắc đó chính là tên thật của họ, mà
có thể chỉ là tên do hậu thế đặt với một ngụ
ý nào đó, giống như trường hợp tên của 18 vị
vua Hùng vậy.
Mô thức Phù-đổng Thiên-vương
đã được cả triệu anh hùng bằng xương bằng thịt noi theo
trong các cuộc chiến chống ngoại xâm từ sau Thánh
Gióng cho đến ngày nay. Khi giang sơn có nạn, họ
đứng lên cứu nước, và chỉ nghĩ đến điều đó
thôi. Họ đâu cần ai biết đến họ tên của mình
làm gì.
Lại nữa, danh đã không màng
thì lợi đâu có thiết. Đó là một quan
niệm khác về người anh hùng lý tưởng của dân
Việt-nam.
Sau khi dẹp tan giặc xâm lăng, khử bạo trừ
hung, cứu nòi giúp nước, cậu bé làng
Gióng cho là mình đã đền xong nợ nước
nên đã biến đi, chứ không ở lại nhận tước vua lộc
nước và lòng sùng kính của nhân
dân. Ngay cả tấm áo che thân Phù-đổng
Thiên-vương cũng bỏ lại. Một người một ngựa về trời, hiểu
là sống mai danh ẩn tích. Hơn nữa, theo các truyền
thuyết, như thuật lại bên trên, nhiều người phục vụ trong
đoàn quân của Thánh Gióng cũng noi gương
ngài sau khi dẹp tan giặc Ân đã về trời.
Phê bình việc Thánh Gióng
không màng danh lợi, cố giáo sư Nguyễn-đăng-Thục
đã viết rằng(6):
"Đấy là cái triết
lý 'Chí công vô tư, công thành
thân thoái' trong tinh thần truyền thống của dân
tộc. Nó là một triết lý tự nhiên như hệ
thống Lão-Trang nhưng có điểm khác biệt là
nó công nhận tinh thần quốc gia dân tộc, một quyền
tự nhiên và siêu nhiên của nhân loại,
cho nên Đổng Thiên-vương đã hưởng ứng tiếng gọi
thiêng liêng của tổ quốc mà bước vào
hành động nhập thế hiện sinh, cũng chém, cũng giết, chỉ
có không cầu mong gì vào kết quả của
hành động. Đấy là triết lý hành động
vô cầu mà cận đại Nguyễn-công-Trứ đã nhắc lại.
Chữ vô cầu là chữ thiên
tiên,
Đem bẩm Trời, Trời cũng phải khuyên,
Khuyên chữ anh hùng yên sở ngộ.”
Nói tóm lại, huyền thoại Thánh
Gióng quả là một "huyền thoại lãng mạn
cao đẹp" như lời Trần-quốc-Vượng(7).
Mặc
dù
bị
một số người chỉ trích, huyền thoại này
không vì thế mà phai mờ. Nó được luôn
nói tới vì nó nhằm nhắc nhở nhân dân
Việt-nam hãy luôn luôn nhớ đến một kỳ tích
trong đời sống dân tộc vào lúc quốc gia mới được
thành lập và bắt đầu mở mang, và nhất là
vì nó diễn tả đúng quan niệm bình dân
về người anh hùng dân tộc lý tưởng mà
nhân dân mong muốn thấy lại xuất hiện vào những
lúc quốc gia lâm nạn.
III. Những Yếu Tố Tương Phản Trong Sự
Tích Thánh Gióng
Đặc điểm của tư tưởng triết lý Việt-nam
là sự dung hòa các nguyên tố tương phản như
là âm dương, đất trời, thực ảo, v.v. Tuy nhiên, cho
dù có tương phản, các nguyên tố đó
lại dung hòa với nhau, phụ trợ nhau, để làm nên một
nhân dáng đặc biệt.
Sự tích Thánh Gióng dẹp giặc
xâm lăng cứu nước giúp dân có thể dùng
làm thí dụ điển hình để chứng minh đặc điểm
này. Sự tích đã chứa đựng nhiều nhân tố
và chi tiết tương phản. Tuy nhiên, các tương phản
đó lại trợ giúp nhau để làm nổi bật những quan
niệm, những ý nghĩ, những mơ ước của ngưòi Việt-nam từ
thuở lập quốc cho đến hiện tại.
Điểm nổi bật trong sự tích Thánh
Gióng là Thánh Gióng chính là
kết quả của sự giao hòa giữa thực và ảo, giữa thực thể
và ý niệm, giữa dương và âm, giữa trời
và đất.
Mẫu thân Thánh Gióng là
một bà mẹ có thực, một người bằng xương bằng thịt
có sống, có chết. Đó là một thực thể hữu
cơ, và vì hữu cơ nên hữu hạn, hữu sinh hữu diệt,
hữu thủy hữu chung. Trái lại, phụ thân Thánh
Gióng chỉ là một người cha ảo, không có
thực. Đây chỉ là một ý niệm về hiện tượng
thiên nhiên hơn là một sự vật tự nhiên. Do
đó, thân phụ Thánh Gióng không phải
là một thực thể hữu cơ. Vì chỉ là ý niệm
nên không có sống có chết, và cũng
không có giới hạn nữa. Nói cách khác,
phụ thân Thánh Gióng vô tận vô
biên, vô hình vô tướng, vô thanh
vô sắc.
Cũng vì là con người bằng xương bằng
thịt, mẫu thân Thánh Gióng đã mang
các đặc tính của con người. Bà yếu đuối về thể
xác, địa vị xã hội thấp kém. Bà bị
dân làng khinh bỉ khi thụ thai một cách không
tự nhiên sau khi dẫm dấu chân ông khổng lồ Đổng
và bị đuổi ra khỏi làng mà không có
cách gì bào chữa và không có
ai chống đỡ. Bà cũng mang những lo âu, những đau khổ,
những quan tâm, những dè dặt như mọi phụ nữ khác.
Bà sinh trưởng và chết trên mặt đất, sống nhờ đất
(như trồng cà, rau ...), vì thế đã mang luôn
các đặc tính, cá tính của đất. Nói
cách khác, bà chính là Đất,
là Khôn.
Ngược lại, phụ thân Thánh Gióng
là Trời, là Càn. Ông tượng trưng cho uy lực
toàn năng của trời, của vũ trụ, của thiên nhiên, qua
hình ảnh mưa giông, gió bão, sấm chớp, v.v.
Ông có sức lực vô địch. Vạn vật phải chịu khuất phục
ông, chứ ông không chịu thua ai. Ông muốn
làm gì thì làm, chẳng ai ngăn cản được. Mỗi
một cử động của ông đều mang lại những biến đổi của vũ trụ, đều
gây đổ nát, thiệt hại.
Trong con người và sự nghiệp Thánh
Gióng chúng ta có thể thấy được sự hài
hòa giữa cái mềm dịu hòa nhã của Đất, của
Khôn, của Âm cũng như cái cứng rắn, cái
hùng mạnh, cái uy thế của Trời, của Càn, của Dương.
Thánh Gióng tuy là trẻ con
mà lại sai khiến được người lớn. Ông nói gì
tất cả mọi người đều nghe, bảo gì mọi người đều làm. Tuy
con nhà bình dân, thuộc hạng cùng đinh,
ông lại có uy thế sai khiến được cả triều đình.
Trên từ vua quan dưới đến thứ dân, ai ai cũng nhất nhất
nghe theo, làm theo ý muốn của ông. Ông
đòi có ngựa sắt, gươm sắt, nón sất, là
triều đình cung cấp cho ngay không nề hà khó
khăn, tốn kém. Ông đói, ông khát
thì cả làng đua nhau làm cơm nấu nước cho
ông dùng. Ngay cả đám giặc xâm lăng hung bạo
và đông đảo cũng phải khuất phục trước uy lực của cậu
bé làng Đổng. Một mình một ngựa, chưa hề ra trận
lần nào, thế mà cậu bé ấy đã chém
đầu tướng giặc nhiều kinh nghiệm chiến trường, đã hàng
phục được hàng nghìn hàng vạn quân xâm
lăng.
Tuy trong việc chiến đấu chống quân thù
ông đã được nhiều người giúp đỡ, nhưng họ đều theo
ông vì thấy ông tuổi nhỏ mà chí lớn,
người thì hữu hạn nhưng lại làm công việc
siêu phàm vô hạn. Họ tùng phục Thánh
Gióng và làm việc theo sự chỉ huy của ông,
chứ không có ai sánh được với ông cả. Họ chỉ
là những người phụ thuộc, những thừa tác viên, chứ
không ai đủ khả năng làm lu mờ uy thế của Thánh
Gióng hay thay thế ông được.
Mặt khác, sự hòa hợp giữa trời
và đất, giữa âm và dương, còn biểu thị qua
các chi tiết khác liên quan đến bản thân
và hành động của Thánh Gióng. Từ một cậu
bé lên ba bé nhỏ (âm), yếu ớt (âm), nhu
mì (âm), dễ thương (âm), sinh sống trên mặt
đất (đất), không nói không cười (âm),
không đi không đứng (âm), cứ nằm trơ trơ (âm)
trên chõng đá (đất), thế mà chỉ cần ăn hết
bảy nong cơm với ba nong cà và uống cạn khúc
sông (đất), Thánh Gióng đã đột nhiên
lớn như thổi thành con người khổng lồ (dương), có một sức
mạnh vô biên (dương), đánh chém giặc như chẻ
tre (dương), và sau khi dẹp tan giặc xâm lăng do nhiều nữ
tướng chỉ huy (âm) lại ăn uống (âm) vài lần nữa, sau
đó mới bay về trời (dương). Điểm đặc biệt là những lần ăn
uống (đất) này đều xảy ra ở bên bờ sông, bờ giếng,
khe nước (đất), chứ không phải là ở trong nhà. Yếu
tố đất hiện rõ ở đây. Chúng ta thấy một sự chuyển
vận theo hướng đi lên là từ đất tới trời hay từ âm
tới dương.
Chiều hướng chuyển vận từ âm tới dương
còn được diễn tả bằng việc Thánh Gióng chiến thắng
quân xâm lăng. Như đã nói ở một đoạn
bên trên, truyền thuyết cho rằng giặc Ân có 28
nữ tướng chỉ huy đã bị bại dưới tay Thánh Gióng.
Việc lựa chọn nữ tướng Ân đáng chú ý.
Trước hết, gạt bỏ sang một bên vấn nạn
quân của nhà Ân có thực đã sang
xâm lăng nước Văn-lang không sang một bên (sẽ
bàn tới trong phần IV, Tìm Hiểu Về Việc
Quân Ân Xâm Lăng Nước Văn-lang, bên dưới),
điều đáng nói là tên nước phái
quân sang xâm lăng nước Văn-lang là “Ân”. Từ “Ân”
này
trong
Hoa
ngữ phát âm giống một từ khác
là “âm”, vì cả hai
cùng đọc là “yin”.
Chi tiết này khiến chúng ta phải hỏi
tại sao nhà Ân bên Trung-quốc mới đầu gọi là
nhà Thương sau mới gọi là Ân, thế mà
các tài liệu đều nói là quân Ân
xâm lăng, chứ không phải là quân Thương.
Thực vậy, trong 644 năm cai trị Trung-quốc,
nhà Thương (1766-1122 TCN) đã dời đô sáu lần
và đặt quốc hiệu hai lần. Khi lật đổ nhà Hạ (2205-1766
TCN), Tử Thiên-ất , tức vua Thang (sử sách còn gọi
là Thành-thang) đã đặt quốc hiệu là Thương.
Kinh đô mới đầu là ấp Bạc (nay là thành phố
Thương-khưu thuộc tỉnh Hà-nam), 1766-1557 TCN; sau dời đến Ấp
Hiêu (nay là vùng đất tây-nam thành
phố Huỳnh-dương cùng tỉnh), 1557-1534 TCN; Ấp Tương (vùng
đất phía tây thành phố An-dương cùng tỉnh),
1534-1525 TCN; Ấp Cảnh (ở phía nam thành phố
Hà-tân thuộc tỉnh Sơn-tây), 1525-1517 TCN; Ấp
Hình (nay là thành phố Hình-đài
thuộc tỉnh Hà-bắc), 1517-1401 TCN; Ấp Ân (nay là
huyện và thành phố Yển-sư thuộc tỉnh Hà-nam),
1401-1198 TCN, và quốc hiệu đổi gọi là Ân; Ấp
Triều-ca (địa khu đông-bắc huyện Kỳ cùng tỉnh), 1198-1122
TCN.
Trong khi đó, sau khi thuật lại chiến
công của Thánh Gióng, Truyện Đổng
Thiên Vương trong sách Lĩnh-nam
Chích Quái đã kết luận là từ đó "Đời nhà Ân trải qua hai mươi bảy vua, sáu
trăm bốn mươi bốn năm, không
dám đem binh sang đánh nữa"(8).
Nói
cách
khác,
việc xâm lăng này phải
hiểu là, theo Truyện Đổng Thiên Vương,
đã xảy ra trong đời vua đầu tiên của vương triều là
Thang (1766-1753 TCN) và vương triều lúc đó
là Thương, chứ chưa phải là Ân.
Như vậy, tại sao Truyện Đổng
Thiên Vương lại nói quân xâm lăng
là Ân? Phải chăng vì có sự trùng
âm giữa hai từ “Ân”
và “âm”? Hơn nữa, con số
28 tướng giặc khiến chúng ta liên tưởng đến 28 ngôi
sao sáng ban đêm (nhị thập bát tú), một biểu
tượng của âm. Như thế vẫn chưa hết. Hai mươi tám tướng
giặc lại là nữ tướng chứ không phải là nam tướng.
Việc chọn tướng giặc là nữ cốt để tượng trưng cho âm. Dĩ
nhiên đối lập với âm là dương.
Nguyên tố dương được diễn tả bằng Thánh
Gióng, một người nam (dương) khổng lồ (dương), cưỡi ngựa sắt
(dương) và đánh tan giặc (dương). Như vậy là dương
đã tương khắc với âm.
Tuy nhiên các nguyên tố tương
phản này không vì thế mà bị cách biệt
hay tách rời nhau. Trái lại, chúng quyện lấy nhau,
hòa vào nhau, làm nên một. Đúng
là thái cực sinh lưỡng nghi và lưỡng nghi hồi
thái cực.
Một đặc điểm khác về Thánh
Gióng là mặc dù ông đã giết giặc
không chùn tay, nhưng đó không phải vì
bẩm sinh ưa chém giết hay khát máu, mà
chẳng qua chỉ là để đáp lại tiếng gọi của tổ quốc
vào lúc gặp nguy khốn. Vì thế sau khi làm
xong nhiệm vụ đối với quốc gia dân tộc, Thánh Gióng
đã "công thành thân thoái,"
không như những người khác ở lại cõi đời để tận
hưởng công danh, phú quí, bổng lộc của triều
đình cũng như sự ngưỡng mộ của nhân dân. Đây
có thể coi là mâu thuẫn hay tương phản nơi con
người Thánh Gióng. Mặc dù không theo đạo
nào, Thánh Gióng đã có tác
phong của người ngộ đạo. Trúc-sơn Mai-đăng-Đệ đã viết về
những tương phản trong con người Thánh Gióng như sau:
"Sắc mà không, không
mà sắc, thiền mà động, động mà thiền, quả
là một vị hiệp Phật, nhập thế được, xuất thế cũng được, cứu
người được, giết người cũng được. Ngày nay đền Gióng tế
chay, đền Sóc tế mặn, có lẽ là bậc thái
thượng không thể lấy pháp môn tầm thường mà
luận chăng? Cho nên lấy công đánh giặc mà
nói, nên gọi là cứu quốc anh hùng, lấy sự
ngộ Đạo mà nói, nên gọi ông là
Vô-Ngôn Bồ-tát."(9)
Trên đây chúng tôi chỉ kể
sơ qua một số sự kiện biểu tượng sự dung hòa các
nguyên tố tương phản nhưng phụ trợ trong sự tích
Thánh Gióng. Nếu nghiên cứu kỹ hơn, chúng ta
có thể sẽ nhận thấy nhiều sự kiện khác nữa. Đáng
tiếc là sự dung hòa các nguyên tố tương
phản, vốn là đặc trưng của tư tưởng triết lý Việt-nam,
ít còn thấy có, nếu không nói
là không còn có, nơi các anh
hùng dân tộc khác sau Thánh Gióng nữa.
IV. Tìm Hiểu Về Việc Quân
Ân Xâm Lăng Nưóc Văn-lang
Như đã nói ở một đoạn bên
trên, truyền thuyết về việc Thánh Gióng giết giặc cứu nước đã được Trần-thế-Pháp thuật lại trong
Truyện Đổng Thiên-vương sách Lĩnh-nam
Chích Quái. Các tài liệu sau đó
cũng viết tương tự như vậy. Điều khiến
chúng ta chú ý là Truyện
nói đến quân xâm lăng Ân và, sau khi
thuật lại những kỳ tích của Thánh Gióng trong việc
đánh giặc, Truyện kết luận bằng câu: "Đời nhà Ân hai mươi bảy vua, trải qua sáu
trăm bốn mươi năm, không dám đem binh sang đánh nữa."
Tác giả Minh-Văn trong bài "Kỷ
Niệm
Phù
Đổng
Thiên Vương: Nhân Ngày Hội
Gióng" cũng viết rằng: "Thời đó có
giặc Ân từ bên Tàu tràn sang nước ta..."
(Viet Magazine, số 608, ng. 1-14/5/1997, tr. 29).
Như vậy rõ ràng là các
tác giả đã cho rằng quân xâm lăng đây
là quân của nhà Ân bên Trung-quốc. Tuy
nhiên, có nhiều lý do để nghi ngờ tính
cách xác thực của chi tiết này.
A. Lý Do 1:
Các Tài Liệu Không Đồng
Nhất về Thời Gian Có Cuộc Xâm Lăng của Quân Ân
Điều nhận xét đầu tiên là sử
sách và truyền thuyết không đồng nhất về thời gian
xảy ra cuộc xâm lăng của quân Ân.
Truyện Đổng Thiên Vương trong
sách Lĩnh-nam Chích Quái, dựa
vào truyền thuyết, thuật rằng việc này xảy ra vào
đời vua Hùng thứ 3. Trái lại, sách Đại
Việt
Sử
Ký
Toàn Thư của Ngô-sĩ-Liên lại
chép rằng vụ xâm lăng của quân Ân xảy
vào đời vua Hùng thứ 6 (NK, q. 1, tờ 3b-4a). Đa số
các tài liệu khác cũng theo thuyết của Đại
Việt
Sử
Ký
Toàn Thư.
Ngoài hai bài của hai tác giả
Trần-quốc-Vượng và Minh-Văn kể trên, trong phần Tiếm Bình bài “Ký Về Sự
Tích Sóc Thiên Vương” trong sách Việt Điện U Linh Tập của Lý-tế-Xuyên,
nhà bình luận Cao-huy-Diệu đã viết rằng "Sử có chép rõ đời vua Hùng thứ 6";
sách
Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của
Lê-ngô-Cát và Phạm-đình-Toái kể
rằng "Sáu đời Hùng vận vừa suy" (Chuyện
Phù-đổng Thiên Vương, câu 1).
Ngay cả các tài liệu trong thế kỷ thứ
20 vẫn theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, như
Nam-hải Dị Nhân Liệt Truyện của
Phan-kế-Bính (tr. 141), Việt-nam Sử Lược của
Trần-trọng-Kim (ấn bản năm 1971, q. I, tr. 14), Tóm
Tắt Niên Biểu Lịch Sử Việt-nam của Hà-văn-Thư
và Trần-hồng-Đức (tr. 11), v.v. Chính tác giả
Minh-Văn cũng 4 lần nhắc đến vua Hùng thứ 6: (a) "Thánh
Gióng,
vị
anh
hùng trẻ tuổi đã giúp vua
Hùng thứ 6 dẹp tan giặc Ân" (tr. 28); (b) "Hùng
Huy
Vương
thuộc
chi thứ 6 họ Hồng Bàng làm vua nước Văn
Lang, thường gọi là Hùng Vương thứ VI, truyền được 2 đời
(1712-1632 Trước Tây Lịch)" (tr. 29); (c) "đời
vua Hùng thứ 6, nhân trong nước có giặc Ân
xâm phạm lãnh thổ..." (nt); và (d) "Thánh
Gióng
sinh
vào
giữa thời vua Hùng thứ VI"
(nt.).
Lại nữa, trong bài ca nhân dân
địa phương hát trước bàn thờ Thánh Gióng
trong ngày hội ở Đền Phù-đổng ngày 9 tháng
4 âm lịch cũng có câu:
Thứ (thứ) sáu là
(là) Hùng (á) vương,
Nhớ (á) xưa là (là) nhớ
(á) xưa,
Thứ (thứ) sáu là (là)
Hùng (á) vương...
Nếu là một sự kiện lịch sử có thực
thì tại sao thời gian của sử kiện lại không được ghi
chép nhất định? Đành rằng vì thiếu tài liệu
chính xác nên những sử kiện khác xảy ra ở
nước Việt-nam trước thời Bắc thuộc (207/179 TCN - 939 SCN) đều
không được ghi rõ niên đại, nhưng ít nhất
các việc ấy phải được ghi chép là xảy ra trong đời
vua nào. Đằng này, việc quân Ân xâm
lăng, nếu có thực, là một sử kiện hết sức quan trọng
vì có liên quan đến sự sống còn của quốc
gia, lại chỉ được truyền thuyết và các tài liệu kể
bất nhất, khiến chúng ta càng có cớ hoài
nghi sự hiện hữu của cuộc xâm lăng này.
B. Lý Do 2: Sử
Sách Trung-quốc Không
Nói Tới Việc Nhà Ân Xâm Lăng Văn-lang
Mặt khác, chỉ có sử sách của
người Việt-nam mới đề cập tới việc này, còn các
tài liệu của người Trung-quốc không hề nói tới,
dù chỉ là thoáng qua, cuộc xâm lăng nước
Văn-lang của nhà Ân.
Chúng tôi đồng ý là trước
năm 1928 có rất ít tài liệu của người Trung-quốc
viết về nhà Thương/Ân, cho nên người ta không
biết nhiều về vương triều này, cũng như những biến cố có
liên quan tới vương triều, hoặc xảy ra ở Trung-quốc dưới quyền
cai trị trong 645 năm của vương triều, đến nỗi có một số người
tin là nhà Thương/Ân chẳng qua chỉ là một
vương triều thần thoại không khác gì Bàn-cổ,
Thiên-hoàng thị, Địa-hoàng thị,
Nhân-hoàng thị, Hữu-sào thị, Toại-nhân thị,
Phục-hi thị, Nữ-oa thị, Thần-nông thị, Hoàng-đế Cơ
Hiên-viên (2697-2598 TCN), Thiếu-hiệu Kỷ Chí
(có tài liệu viết là Cơ Kỷ-chí, có
tài liệu viết là Cơ Thanh-dương, 2598-2515 TCN), Huyền-đế
Cơ Chuyên-húc (2515-2437 TCN), Đế Khốc Cơ-Thuân
(2437-2367 TCN), Đế Chí Cơ-Chí (2367-2358 TCN), Đế
Nghiêu Cơ Phóng-huân (có tài liệu viết
là Cơ Y-kỳ Phóng-huân, có tài liệu
viết là Cơ Duẫn-kỳ Phóng-huân, 2357-2258 TCN), Đế
Thuấn Diêu Trọng-hoa (2255-2205 TCN) và nhà Hạ
(2205-1766 TCN) chỉ là những nhân vật hoặc vương triều
thần thoại, truyền thuyết thôi.
Tuy nhiên, từ năm 1928 trở đi, người ta
đã dần dần biết được nhiều về nhà Thương/Ân nhờ
việc tìm thấy hơn 100.000 mảnh xương thú hay mu
rùa trên có viết chữ(10)
phát xuất trong triều đại này. Mặc dù các
tài liệu giáp cốt nói trên đã ghi
chép nhiều trận chiến tranh trong thời nhà
Thương/Ân, nhưng không có tài liệu nào
nói là quân Ân đã xâm lăng nước
Văn-lang.
Sự thiếu sót này có thể giải
thích bằng một trong hai nguyên nhân.
Thứ nhất, có thể người ta vẫn chưa tìm
thấy một tài liệu thành văn nào trong đó
có ghi cuộc xâm lăng nước Văn-lang. Lập luận này
rất hợp lý. Tuy cho tới nay người ta đã tìm thấy
hơn 100.000 mảnh giáp cốt ghi chép rất nhiều việc xảy ra
trong thời nhà Thương/Ân(11),
nhưng
như
thế
vẫn chưa đủ, vì còn có nhiều vấn đề
các tài liệu đó không đề cập tới. Vụ
xâm lăng nước Văn-lang, nếu thực sự có, biết đâu
đã chẳng nằm ở trong các tài liệu mà
ngày nay các nhà khảo cổ học vẫn chưa khai quật
thấy.
Thứ hai, cũng có thể là không hề
có vụ xâm lăng này. Theo thiển ý của
chúng tôi, đây mới là nguyên
nhân, như chúng tôi sẽ chứng minh trong lý do
4 bên dưới. Không có lý gì rất nhiều
tài liệu Trung-quốc đã ghi chép những vấn đề
kém quan trọng hơn có liên quan đến nước và
người Việt-nam trước thời Bắc thuộc, như tính chất đất đai
và tổ chức chính quyền (rất nhiều tài liệu
nói về việc này, thí dụ: Giao-châu
Ngoại
Vực
Ký của tác giả khuyết danh được Lịch
Đạo-nguyên dẫn trong sách Thủy Kinh Chú,
Thái-bình Hoàn Vũ Ký
của Nhạc-Sử, v.v.), hay những gì không có
liên hệ, trực tiếp hay gián tiếp, đến Trung-quốc, như việc
Thục-Phán đánh chiếm Văn-lang (được nói tới trong
sách Giao Quảng Ký của
Hoàng-Sâm), việc người Lạc-Việt cha con tắm chung
sông (trong tờ sớ năm 46 TCN của Giản Quyên-chi
trình lên Hán Nguyên-đế Lưu-Thích,
48-32 TCN, được thuật lại trong Hán Thư của
Ban-Cố), v.v., mà vụ xâm lăng một nước xa xôi
là Văn-lang nếu thành công sẽ giúp cho
lãnh thổ Trung-quốc lan tới tận bắc bộ Trung phần Việt-nam
ngày nay (biên giới nước Văn-lang) lại không được
một tài liệu nào nói tới, trừ phi thực sự
không có vụ xâm lăng đó.
C. Lý Do 3: Hai Nước
Văn-lang và Thương/Ân Ở
Cách Nhau Quá Xa
Mặt khác, nước do nhà Thương/Ân
cai trị ở quá xa nước Văn-lang, nên không dễ
gì Ân có thể xâm lăng Văn-lang được.
Thương nguyên là tên một địa khu
do Đế Nghiêu ban cho Tử-Tiết, người anh cùng cha (Đế Khốc
Cơ-Thuân) khác mẹ (mẹ Tiết là vợ thứ hai của Đế
Khốc tên là Tử Giản-định, còn mẹ Đế Nghiêu
là Khánh-đô, vợ thứ ba). Địa khu này nay
là thành phố Thương-khưu thuộc tỉnh Thiểm-tây.
Xin mở một dấu ngoặc ở đây. Tuy cha của hai
người là Đế-Khốc mang họ Cơ của tằng tổ là
Hoàng-đế Cơ Hiên-viên, nhưng vì mẹ của Tiết
họ Tử và vì lúc đó chế độ mẫu hệ còn
thịnh hành ở Trung-quốc nên Tiết mang họ Tử của mẹ(12).
Truyền qua 12 đời (Chiêu-minh, Tương-thổ,
Xương-nhược, Tào-ngữ, Minh, Chấn, Vi, Báo-đinh,
Báo-ất, Báo-bính, Chủ-nhâm và
Chủ-quí) đến đời Tử Thiên-ất thì vì Tử
Thiên-ất diệt được nhà Hạ nên được tôn
làm vua, tức vua Thành-thang (1766-1753 TCN).
Thành-thang (thường được gọi tắt là
Thang) đã lấy tên đất phong của tổ tiên, Thương,
làm quốc hiệu và đồng thời cũng là tên của
vương triều(13). Năm 1401
TCN, quốc hiệu đổi là Ân cho đến khi vương triều bị
nhà Châu diệt năm 1122 TCN.
Lãnh thổ chính của nhà
Thương/Ân, tức điện phục, gọi là Trung-Thương,
nằm
ở
hai
bên bắc ngạn và nam ngạn Hoàng-hà,
phần lớn ở bắc bộ tỉnh Hà-nam, một phần đồng bằng ở chân
cao nguyên Sơn-tây chạy tới rặng Thiên-sơn (rặng
núi ở tây bộ, ngăn cách Trung-quốc và
Tây-bá-lợi-á của Nga), và một phần nam bộ
tỉnh Hà-bắc ngày nay. K.C. Wu viết trong sách The Chinese Heritage rằng Trung-Thương dài khoảng
300 cây số và rộng lối 200 cây số (tr. 155-156).
Ở bốn phương điện phục là “tứ thổ” (Bắc-thổ,
Tây-thổ, Nam-thổ, và Đông-thổ) là đất của
các chư hầu (phần nhiều mang tước bá, điền, hầu).
Ở bên ngoài "tứ thổ" là
các "phương" với hàng ngàn bộ lạc du mục, kể cả
thần phục lẫn không thần phục nhà Thương/Ân. Rất
nhiều tên các bộ lạc này, như được ghi trong
các tài liệu giáp cốt, cho đến nay vẫn chưa ai đọc
được, vì thế chỉ có một số "phương" được biết tên
như là: (a) Khương-phương (có thuyết cho là ở
tây bộ tỉnh Hà-nam ngày nay, có thuyết cho
là ở cực nam tỉnh Sơn-tây và các vùng
phụ cận thuộc hai tỉnh Thiểm-tây và Hà-nam,
có thuyết cho là ở bắc bộ tỉnh Thiểm-tây); (b)
Thổ-phương (ở bắc bộ tỉnh Sơn-tây); (c) Công-phương(14) (ở bắc bộ tỉnh
Thiểm-tây); (d) Châu-phương (có tài liệu cho
là ở lưu vực sông Vệ thuộc tỉnh Thiểm-tây, có
tài liệu cho là ở lưu vực sông Phần thuộc nam bộ
tỉnh Sơn-tây); (e) Triệu-phương (có lẽ là ở trung
bộ tỉnh Thiểm-tây); (f) Ngẫu-phương (có thuyết cho
là ở lưu vực sông Hoài vùng tỉnh An-huy,
có thuyết cho là ở lưu vực sông Hán
vùng tỉnh Hồ-bắc); (g) Nhân-phương (ở trung và hạ
lưu sông Hoài vùng tỉnh Giang-tô và
nam bộ tỉnh Sơn-đông); (h) Hướng-phương (gần
huyện
Hà-nội
thuộc
tỉnh Hà-nam); (i) Quỉ-phương
(có tài liệu cho là đất tỉnh Thanh-hải ngày
nay, có thuyết cho là đất tỉnh Quí-châu,
có thuyết cho là đất Kinh-Sở, tức vùng hai tỉnh
Hồ-bắc và Hồ-nam, v.v.) Ngoài ra, còn có
một số “phương” tuy biết tên nhưng vị trí chưa định được,
như: Chỉ-phương, Hổ-phương, Vu-phương, Di-phương, v.v.
Tất cả điện phục, tứ thổ và các phương
hợp lại thành đế quốc Thương hay Ân, dài 1.000
cây số từ đông sang tây và 1.500 cây số
từ bắc xuống nam (K.C.Wu, tr. 156). Như vậy, lãnh thổ của đế
quốc tuyệt đối không ra ngoài trung lưu và hạ lưu
Hoàng-hà và khu vực sông Hoài. Mỏm
cực nam của đế quốc chỉ mới tới sông Hoài(15).
Trong khi đó, lãnh thổ nước Văn-lang
của các vua Hùng ở phía bắc chỉ mới lên tới
vùng nay là các tỉnh Tuyên-quang, Cao-bằng,
Lạng-sơn, Quảng-ninh. Cho dù có dựa theo truyền thuyết
(được Trần-thế-Pháp thuật lại trong Truyện
Hồng-bàng sách Lĩnh-nam Chích
Quái) mà tính thì lãnh thổ nước
Văn-lang cũng chỉ mới lên tới hồ Động-đình (nằm ở bắc bộ
tỉnh Hà-nam, giữa 6 huyện Nhạc-dương, Hoa-dung, An-hương,
Thường-đức, Hán-thọ và Nguyên-giang ngày
nay), nghĩa là cách mỏm cực nam của đế quốc
Thương/Ân ít nhất là 600 cây số. Hoặc nếu
theo vị trí các bộ hợp lại thành nước Văn-lang,
trong đó có hai bộ, vẫn theo Truyện Hồng-bàng,
thuộc phần đất nay thuộc lãnh thổ Trung-quốc là Ninh-hải
và Thang-tuyền, thì Văn-lang và Thương/Ân
còn cách nhau xa hơn nữa. Thực vậy, bộ Ninh-hải là
phần đất ở miền nam châu Khâm thuộc tỉnh Quảng-đông
(năm 1965 huyện Khâm-châu được tách ra khỏi tỉnh
Quảng-đông, nhập vào Quảng-tây Đồng tộc tự trị khu
và năm 1978 huyện Khâm-châu được cải làm
thành phố Khâm-châu thuộc Quảng-tây
Tráng tộc tự trị khu) và bộ Thang-tuyền ở gần
Ung-châu (nay là thành phố Nam-ninh cũng thuộc
Quảng-tây). Ninh-hải hay Khâm-châu cách mỏm
cực nam đế quốc Thương/Ân 1.300 cây số, còn
Thang-tuyền hay Nam-ninh cách cũng tới 1.100 cây số.
Khoảng cách 600 cây số, 1.100 cây
số hay 1.300 cây số là một đoạn đường dài rất
đáng kể vào thế kỷ thứ 18 TCN. Đấy là chưa
nói giữa Văn-lang và đế quốc Thương/Ân còn
có nhiều bộ lạc hoặc là không thần phục, hoặc
là thù nghịch với, nhà Thương/Ân và
không phải là thành phần của đế quốc
Thương/Ân. Vì thế việc quân Ân xâm lăng
Văn-lang khó mà có thể có được, dù
là theo Truyện Đổng Thiên-vương trong
sách Lĩnh-nam Chích Quái
quân Ân phải 3 năm mới sang đánh Văn-lang được.
D. Lý Do 4:
Nhà Thương/Ân Không Hề
Xâm Lăng Nước Nào
Tuy nhiên, dù cho là quân
Ân xâm lăng vào đời vua Hùng thứ 3 hay đời
vua Hùng thứ 6, việc này không chắc có thực.
Chúng ta biết nhà Thương/Ân bắt
đầu thành lập năm 1766 TCN và bị diệt vong năm 1122 TCN.
Trong khi đó, theo Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư, nhà Hồng-bàng cai trị nước Văn-lang
trong năm 2879-258 TCN (NK, q. 1, tờ 5b); trái lại, theo Việt Sử Lược của tác giả khuyết danh, vua
Hùng đầu tiên áp phục được các bộ lạc
và tự xưng là Hùng-vương vào đời Châu
Trang-vương bên Trung-quốc (q. 1, tờ 1a), tức là trong
khoảng năm 696-681 TCN; còn theo cách tính gần
đây của một số học giả căn cứ vào kết quả các vụ
khai quật khảo cổ học ở thôn Phùng-nguyên (thuộc
xã Kinh-kệ, huyện Lâm-thao, tỉnh Phú-thọ)
thì nước Văn-lang được thành lập khoảng năm 2000 TCN.
1.
Trước hết, nếu theo thuyết của Việt Sử Lược cho rằng
vua Hùng thứ 1 dựng nước Văn-lang đời Châu Trang-vương
thì tuyệt đối không thể có việc quân Ân
sang xâm lăng nước Văn-lang, bởi vì, như đã
nói ở một đoạn bên trên, nhà Thương/Ân
đã bị diệt vong năm 1122 TCN, tức là hơn 400 năm trước
khi nước Văn-lang được thành lập, thì làm
gì còn quân Ân nữa để xâm lăng nước
Văn-lang?
Chúng tôi không phủ nhận việc
Cơ-Phát, thủ lĩnh bộ lạc Châu (sinh tụ ở vùng nay
là huyện Kỳ-sơn thuộc tỉnh Thiểm-tây), đánh bại vua
Trụ Tử-Tân (1155-1122 TCN; vua Trụ tự thiêu chết) và
diệt được nhà Thương/Ân, đã lên ngôi
vua, tức Vũ-vương (1122-1115 TCN), khai sáng vương triều
Châu (1122-256 TCN), và lấy đất Tống (nay là
thành phố Thương-khưu thuộc tỉnh Hà-nam; đất này
do vua Tử Vũ-ất, 1191-1154 TCN, xưa ban cho con trai là Vi-tử)
ban cho Vũ-canh, con của vua Trụ, để lo việc tế tự vua
Thành-thang. Tuy nhiên, đến đời Châu
Thành-vương Cơ-Tụng (1115-1078 TCN), vì Vũ-canh
làm phản nên bị giết, và đất Tống được ban lại cho
Vi-tử, với tước Tống-công. Nước Tống truyền qua nhiều đời (sử
sách chỉ kể tên 19 đời cuối cùng, từ Tống
Mục-công Tử-Hòa, 730-720 TCN, đến Tống Khang-vương
Tống-yển, 328-286 TCN), sau bị nước Tề diệt năm 286 TCN. Lãnh
thổ nước Tống là địa khu nay chạy từ thành phố
Thương-khưu thuộc tỉnh Hà-nam ở phía đông tới huyện
Đồng-sơn thuộc tỉnh Giang-tô ở phía tây.
Như vậy, nước Tống của hậu duệ của nhà
Thương/Ân ở quá xa nước Văn-lang, cách 2.350-2.450
cây số. Hơn nữa, giữa hai nước cũng còn có rất
nhiều nước khác (thực ra là bộ lạc) của các người
phi Hán tộc (hay phi Hoa-hạ), đặc biệt là nước Sở
(lúc đó ở vùng nay là tỉnh Hồ-bắc) rất hiếu
chiến và đã nhiều lần làm khó dễ cho
nhà Châu, nên khó mà quân nước
khác có thể đi qua được. Do đó lại càng
không thể có việc quân Tống sang xâm lăng
Văn-lang để có thể cho rằng người ta đã lầm quân
Tống với quân Ân (dù họ cùng chung tổ
tiên).
2.
Trái lại, nếu theo thuyết của Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư cho rằng nhà Hồng-bàng bắt đầu cai
trị nước Văn-lang năm 2879 TCN thì sao?
Năm 2879 TCN là năm Lộc-Tục được cha
là Đế Minh (cháu ba đời Viêm-đế họ Thần-nông)
phong làm vua nước Xích-quỉ, hiệu là Kinh-dương
vương. Chúng ta hãy giả thiết (xin nhấn mạnh là
“giả thiết”):
a. Vua Kinh-dương "cưới con gái
vua Động-đình tên là Long-nữ" (theo Truyện
Hồng-bàng) trong cùng năm thụ phong. Tuy Truyện
Hồng-bàng không nói nhà vua lấy Long-nữ
(có tài liệu viết là Thần-long nữ) năm nào,
nhưng theo tục lệ mấy nghìn năm ở Trung-quốc trước khi
thiên Thân Thuộc trong bộ Dân
Pháp (tức Dân Luật) được công bố năm 1930
và thi hành năm 1931, con trai lấy vợ muộn lắm là
năm 16 tuổi và con gái lấy chồng muộn lắm là năm
13 tuổi (như được diễn tả trong câu ngạn ngữ “nữ thập tam, nam
thập lục”). Chúng ta giả thiết nhà vua lấy vợ năm 20 tuổi
cho tiện tính.
b. Năm sau, 2878 TCN, Long-nữ sinh
Sùng-Lãm.
c. Sùng-Lãm nối ngôi cha năm 20
tuổi, tức năm 2859 TCN, hiệu là Lạc-long quân, và
cùng năm này Lạc-long quân lấy vợ là
Âu-Cơ.
d. "Âu-Cơ và Lạc-long
quân sống chung với nhau; cùng năm đó sinh ra một
bọc... qua bảy ngày, trong bọc nở ra trăm trứng, mỗi trứng
là một con trai" (vẫn theo Truyện
Hồng-bàng). Nói cách khác, Âu-Cơ
sinh 100 con trai năm 2859 TCN trong giả thiết của chúng ta.
e. Cũng 20 năm sau, năm 2840 TCN, một người con
trong số 50 người theo mẹ ở lại trên đất liền, Truyện
Hồng-bàng gọi là người “hùng
trưởng”(16), được 49 anh em kia suy
tôn làm vua, tức vua Hùng thứ nhất.
Nếu theo các giả thiết trên, 18 vị vua
Hùng cai trị nước Văn-lang tổng cộng 2582 năm (2840-258 TCN)
và mỗi người ở ngôi trung bình 143 năm. Tuy việc
này vô lý, nhưng cũng có thể tạm
(chúng tôi xin nhấn mạnh chữ “tạm”) chấp nhận được nếu
chúng ta nhớ rằng ở Trung-quốc vào thời thượng cổ,
có hai người đã trị vì nước 100 năm:
Hoàng-đế (2697-2598 TCN) và Đế Nghiêu (2357-2258
TCN).
Nếu vụ xâm lăng của quân Ân xảy
vào đời vua Hùng thứ 3 thì đó là
vào khoảng năm 2295-2152 TCN (theo giả thiết nói
trên), ngang với đời Đế Nghiêu, Đế Thuấn, cùng
các vua Đại Vũ Tự Văn-mệnh (2205-2197 TCN), Tự-Khải (2197-2188
TCN), Tự Thái-khang (2188-2159 TCN) và Tự Trọng-khang
(2159-2146 TCN) của nhà Hạ. Lúc đó vương triều
Thương/Ân chưa được thành lập (mãi 380 năm sau)
thì làm sao có quân Ân xâm lăng
Văn-lang được?
Còn nếu xảy vào đời vua Hùng
thứ 6 thì đó là vào khoảng năm 1866-1723
TCN (vẫn theo giả thiết nói trên), ngang với đời
các vua nhà Thương (chưa gọi là Ân): Tử
Thiên-ất hay Thành-thang, Tử Ngoại-bính (1754 TCN),
Tử Trọng-nhâm (1753-1752 TCN), Tử Thái-giáp
(1752-1748 TCN), Y-doãn (1748-1741 TCN) và Tử
Thái-giáp (lần thứ hai, 1741-1721 TCN).
Trong 13 năm tại vị, Thành-thang không
có lần nào phải đụng binh cả, tuy ông rất
thích việc võ và muốn được người ta tôn
mình là "Vũ-đế"(17).
Để
củng
cố
địa vị và bảo vệ tương lai của vương triều mới được
thành lập còn trong trứng nước, Thành-thang
lúc nào cũng lo làm hòa với khoảng 3.000
chư hầu lớn nhỏ. Các nước chư hầu ở "tứ thổ " đều hoàn
toàn thần phục nhà Thương/Ân nên
Thành-thang không phải lo việc đánh dẹp (đến cuối
thời nhà Thương/Ân mới có chư hầu gây loạn).
Hơn nữa, không lâu sau khi lên
ngôi, Thành-thang đã phải lo đối phó với một
biến cố rất quan trọng là trong nước đã xảy ra trận đại
hạn hán kéo dài 7 năm, đến nỗi cát
nóng bỏng như bị nung, đá bị nhừ ra, cả đến sông
Lạc (Lạc-thủy) cũng bị khô cạn sạch. Nhà vua phải lo
cách trị nạn và phải sai người đúc đỉnh ba
chân để cúng tế thần sông. Ngoài ra, cũng
vì nạn này ông mới quyết định dời đô từ ấp
Bạc sang Tây-bạc (nay là thành phố Yển-sư
cùng tỉnh) ở cách đó 280 cây số về
phía tây-bắc, vì nơi đây bắc có
sông Lạc (lúc đó có nước trở lại) lợi cho
việc canh nông hơn là ấp Bạc, còn ở các
phương tây, nam và đông có núi cao
hiểm trở nên dễ phòng thủ. Ngoài ra, Tây-bạc
lại gần ấp An (nay là một bộ phận của thành phố
Vận-thành thuộc tỉnh Sơn-tây, cách
Tây-bạc/Yển-sư 190 cây số về phía tây-bắc),
kinh đô cũ của nhà Hạ, nên dễ canh chừng mọi hoạt
động của con cháu nhà Hạ hay những người còn tưởng
nhớ đến vương triều này. Công việc dời đô cũng chiếm
nhiều thời giờ và tâm trí của ông, khiến
ông không thể nghĩ tới việc đánh chiếm những nước
lân cận, chứ đừng nói là xâm lăng nước
Văn-lang quá xa xôi.
Mặt khác, Thành-thang có ba
người con trai: Tử Thái-đinh, Tử Ngoại-bính và Tử
Trọng-nhâm. Thái-đinh chết rất sớm, trước khi
Thành-thang lên ngôi, nên sau khi
Thành-thang qua đời, Ngoại-bính kế vị, nhưng chưa đầy 1
năm (1754 TCN) thì qua đời. Trọng-nhâm kế nhiệm, nhưng chỉ
được 2 năm (1753-1752 TCN) thì chết. Y-duẫn
(ngườI Việt-nam quen đọc là Y-doãn),
tù trưởng bộ lạc Hữu-sân (ở Sân-trủng-tập,
phía bắc huyện Tào thuộc tỉnh Sơn-đông ngày
nay) và là sủng thần của Thành-thang, mới đầu đưa
cháu đích tôn của Thành-thang, Tử
Thái-giáp (con của Tử Thái-đinh) lên
ngôi, nhưng được 5 năm thì cho là
Thái-giáp đã lỗi đạo làm vua (theo ý
Y-duẫn), nên năm 1748 TCN đã đày
Thái-giáp đến ấp Đồng(18),
gần
nơi
có
mộ của
Thành-thang, rồi tự lập làm
vua. Năm 1741 TCN, Thái-giáp từ ấp Đồng khởi binh
kéo về giết Y-duẫn đoạt lại ngai vàng(19).
Từ đó cho đến khi chết
Thái-giáp không lần nào động binh. Đối với
gia đình của Y-duẫn, vì thế lực bộ lạc Hữu-sân rất
lớn nên Thái-giáp phải nhiệm dụng hai con trai của
Y-duẫn, một cho làm tù trưởng bộ lạc Hữu-sân
và một cho làm đại thần là chức quan coi việc
công bố và thi hành các mệnh lệnh, bố
cáo của nhà vua, cùng là lo việc nghi lễ
trong các dịp lễ lớn.
Nói cách khác, vì trong
triều đình nhà Thương lúc đó có
nhiều biến cố trọng đại nên không thể phái
quân đi xâm lăng nước Văn-lang được, cho dù
vì lý do nước này không chịu triều cống (sẽ
nói thêm ở đoạn E bên dưới).
3.
Còn nếu theo thuyết cho rằng nước Văn-lang được thành lập
khoảng năm 2000 TCN (thời kỳ bắt đầu văn hóa
Phùng-nguyên), thì trong 1742 năm nhà
Hồng-bàng cai trị Văn-lang (2000-258 TCN), mỗi vị vua
Hùng ở ngôi trung bình là 97 năm. Như vậy
vua Hùng thứ 3 trị vì khoảng năm 1806-1709 TCN, ngang đời
vua cuối cùng nhà Hạ là Kiệt Tự
Lý-quý (1818-1766 TCN) và các vua
Thành-thang, Ngoại-bính, Trọng-nhâm,
Thái-giáp (2 lần), Y-duẫn, và Ốc-đinh (1721-1692
TCN) nhà Thương/Ân; hay vua Hùng thứ 6 trị
vì năm 1515-1418 TCN, ngang với đời các vua Tổ-ất
(1526-1507 TCN), Tổ-tân (1507-1491 TCN), Ốc-giáp
(1491-1466 TCN), Tổ-đinh (1466-1434 TCN) và Nam-canh (1434-1409
TCN) nhà Thương/Ân.
Trong đời vua Hùng thứ 3 không thể
có quân Ân xâm lăng nước Việt vì hai
lý do.
Thứ nhất, trong khoảng thời gian 1806-1766 TCN của
đời vua Hùng thứ 3 (theo giả thiết nói trên), ở
Trung-quốc nhà Hạ đang tiến dần đến chỗ diệt vong. Vua Kiệt
lúc đó chỉ lo việc đánh dẹp bộ lạc Hữu-thi ở
Mông-sơn (vùng ranh giới huyện Mông-ân thuộc
tỉnh Sơn-đông ngày nay) năm 1786 TCN, bộ lạc Hữu-mân
(vùng đông-bắc huyện Kim-hương cùng tỉnh) năm 1769
TCN, và nhất là lo chống chọi lại quân của Tử
Thiên-ất nổi dạy năm 1766 TCN.
Mặt khác, Kiệt là một ông vua
tàn ác và hoang dâm vô độ, nên
ngoài mấy vụ đánh dẹp kể trên chỉ biết hưởng lạc
(nhất là từ khi bắt được một người con gái bộ lạc Hữu-thi
tên là Thi Muội-hỉ về làm phi), và
thích hành hạ người (như giam tù Tử Thiên-ất
năm 1777 TCN, người 11 năm sau sẽ nổi lên chống lại Kiệt
và diệt nhà Hạ), giết người (như giết gián thần
Quan Long-phùng năm 1767 TCN), nên đâu có đầu
óc tính chuyện đi xâm lăng một nước quá xa
xôi như Văn-lang. Vả lại, truyền thuyết cũng như nhiều sử
sách nói rõ quân xâm lăng là
quân Ân, chứ không phải quân Hạ.
Thứ hai, trong khoảng thời gian 1766-1709 TCN của
đời vua Hùng thứ 3 (vẫn theo giả thuyết nói trên),
ngoại trừ việc Tử Thái-giáp nhà Thương/Ân
khởi binh đánh giết Y-duẫn ra (nhưng chỉ có một số
ít tài liệu theo thuyết này), các vua từ
Thành-thang đến Ốc-đinh (và cả các vua khác
cho đến hết thời nhà Thương/Ân) rất bận khuất phục
các nước và bộ lạc chư hầu ở "tứ thổ" và
các "phương" xung quanh Trung-Thương nên không thể
mở cuộc xâm lăng nước Văn-lang quá xa xôi.
Còn trong đời vua Hùng thứ 6,
(1515-1418 TCN, theo giả thiết), thì sao?
Trong đời 5 vua Tổ-ất, Tổ-tân, Ốc-thân,
Tổ-đinh và Nam-canh, chỉ có các bộ lạc du mục ở
các "phương" đôi khi chống lại triều đình
thì các vua này hoặc là thân chinh
hoặc là sai một chư hầu đi đánh dẹp. Vì bận rộn
như vậy, không có vua nào trong thời gian
này có đủ quân để có thể phái đi
xâm lăng Văn-lang. Hơn nữa, đa số các bộ lạc bất phục
này lại ở miền tây bộ của đế quốc, chứ không
có bộ lạc nào ở nam bộ chống lại triều đình để cho
quân Ân có thể sau khi đánh dẹp xong tiến
luôn xuống xâm lược Văn-lang.
Dựa vào hai nhận xét trên,
chúng tôi không đồng ý với Truyện
Đổng
Thiên-vương trong sách Lĩnh-nam
Chích Quái cũng như với sách Nam-hải
Dị
Nhân
Liệt
Truyện nói rằng vì vua Hùng
thứ 3 (Truyện Đổng Thiên-vương) hay thứ 6 (Nam-hải Dị Nhân)
đã không tiến cống với nhà Ân (Nam-hải Dị
Nhân nói rõ là "nhà
Ân bên Tàu") nên vua nhà Ân
mới giả tiếng đi tuần thú để đem quân sang cướp nước
Văn-lang.
Chúng tôi cũng không đồng
ý với tác giả Minh-Văn cho rằng "giặc
Ân từ bên Tàu tràn sang nước ta" (tr. 29)
trong đời vua Hùng thứ 6, tức là trong thời gian
1712-1632 TCN (tác giả không cho biết căn cứ vào
đâu mà định rằng vua Hùng thứ 6 trị vì trong
thời gian này). Năm 1712-1632 TCN ngang với đời các vua
Ốc-đinh, Thái-canh (1692-1667 TCN), Tiểu-giáp (1667-1650
TCN), Ung-kỷ (1650-1638 TCN) và Thái-mậu (1638-1563 TCN)
nhà Thương/Ân. Không một tài liệu Trung-quốc
nào nói đã có những vụ đánh dẹp ngay
cả các nước hay các bộ lạc không thần phục
nhà Thương/Ân trong thời gian này, chứ đừng
nói là xâm lăng nước Văn-lang.
E. Lý Do 5: Văn Lang
Không Hề Triều Cống Nhà
Thương/Ân
Truyện Đổng Thiên-vương và sách Nam-hải Dị
Nhân đều cho rằng vì thấy Văn-lang đời vua Hùng
thứ 3 (Truyện Đổng Thiên-vương) hay thứ 6 (Nam-hải Dị Nhân)
không triều cống nên vua Ân đã giả đi tuần
thú để đem quân sang xâm chiếm. Nói
cách khác, nước Văn-lang đã có lệ triều
cống Trung-quốc ít nhất là trong thời nhà
Thương/Ân rồi.
Lý luận này có đáng tin
không? Câu trả lời là không.
Nước Việt chỉ bắt đầu triều cống Trung-quốc từ năm
972 SCN, đời vua Đinh Tiên-hoàng (968-979), trở đi, nghĩa
là hơn 3.000 năm sau thôi.
Thực vậy, trong khi Đinh-bộ-Lĩnh đang đánh
dẹp Loạn Thập Nhị Sứ Quân (945-967) ở nước ta thì ở
bên Trung-quốc xảy ra việc Triệu Khuông-dận lật đổ
nhà Hậu-Châu (951-960) do Quách-Uy dựng nên.
Sau khi Triệu Khuông-dận được quân sĩ tôn làm
vua, hiệu là Thái-tổ (960-976), khai sáng
nhà Tống (960-1280) -- không nên lầm với nước Tống
của hậu đại nhà Hạ đã nói ở đoạn D bên
trên và với nhà Tống họ Lưu cai trị Trung-quốc năm
420 - 479 -- ông sai tướng Phan-Mỹ
mang quân đánh nhà Nam-Hán do Lưu-Ẩn lập(20).
Vì Đinh-bộ-Lĩnh, sau khi dẹp xong Loạn Thập
Nhị Sứ Quân và lên ngôi hoàng đế, hiệu
Tiên-hoàng, sáng lập vương triều Đinh, thấy trong
nước hãy còn nhiều rối loạn, thế nước yếu kém, e
rằng quân Tống có thể thừa cơ sang đánh chiếm nước
ta, nên năm 972 đã sai con trưởng là Nam-Việt-vương
Đinh-Liễn sang thăm nhà Tống (TTBK, q. 1, tờ 4a; CMCB, q. 1, tờ
5), đem biếu sản vật địa phương (CMCB, q.
1, tờ 5).
Xin mở một dấu ngoặc ở đây. Theo sách Việt Sử Lược, người đi sứ là Nguyễn-tử-Du (q. 1,
17b), chứ không phải là Đinh-Liễn.
Nhân việc triều cống ấy, Trần-trọng-Kim
đã viết trong sách Việt-nam Sử Lược rằng:
"Năm nhâm-thân (972)
Tiên-hoàng lại sai Nam-việt-vương là Liễn đem đồ
phương vật sang cống nhà Tống. Vua nhà Tống sai sứ sang
phong cho Tiên-hoàng làm Giao-chỉ quận vương
và phong cho Nam-việt-vương Liễn làm Tĩnh-hải-quân
Tiết độ sứ, An-nam đô hộ.
"Từ đó nước ta cứ giữ lệ sang triều cống nước
Tàu." (q. I, tr. 86)
Các vương triều trước nhà Đinh
không hề triều cống Trung-quốc, tuy có việc hiến
rùa thần và chim trĩ trắng cho một vài vua
Trung-quốc. Thực vậy, theo một số tài liệu Hoa và Việt
thì:
1.
Người Việt-thường thị đã:
a. Hiến rùa thần cho Đế Nghiêu, như
được đề cập trong các sách Thông
Chí của Trịnh-Tiều, Cương Mục Tiền Biên
của Kim Lý-tường; cả hai tài liệu của người Trung-quốc
này được sách Khâm Định Việt Sử
Thông Giám Cương Mục của Quốc sử quán triều
Nguyễn nhắc lại.
b. Hiến chim trĩ trắng cho Châu
Thành-vương Cơ-Tụng năm 1110 TCN (được thuật lại trong
các sách của người Trung-quốc như Thượng Thư
Đại Truyện của Phục-Thắng, Hàn Thi Ngoại Truyện
của Hàn-Anh, Hiếu Kinh Vĩ của tác giả
khuyết danh, và được các tài liệu của người
Việt-nam kể tới, như Truyện Bạch Trĩ
trong sách Lĩnh-nam Chích
Quái, Việt Sử Lược, Đại Việt
Sử Ký Toàn Thư, Việt Sử Tiêu
Án của Ngô-thời-Sĩ, Khâm Định Việt
Sử Thông Giám Cương Mục của Quốc sử quán triều
Nguyễn).
c. Hiến chim trĩ trắng cho Hán Bình-đế
Lưu-Khản (1-6), được chép trong bộ Hán Thư
của Ban-Cố.
2.
Người quận Nhật-nam hiến chim trĩ trắng cho Hán Quang-vũ-đế
Lưu-Tú (25-58) và cho Hán Chương-đế
Lưu-Huyên (76-89); cả hai việc này được kể trong bộ Hậu-Hán Thư của
Phạm-Diệp.
Về ý nghĩa chuyện hiến rùa thần
và chim trĩ trắng đã được trình bày kỹ
trong bài “Chuyện Việt-nam Hiến Rùa Thần
và Bạch Trĩ Cho Trung-quốc”, nên không cần nhắc
lạI ở đây.
Việc Việt-thường thị, được đồng hóa với nước
Văn-lang, hiến rùa thần và chim trĩ trắng, nếu có
thực, thì cũng chỉ là một hành vi giao hảo giữa
hai nước như chúng ta thường thấy trong bang giao quốc tế của
hai quốc gia độc lập và ngang hàng nhau, chứ không
phải là việc triều cống của một nước thần phục nước khác,
mà sự thiếu sót hay chậm trễ thường là
nguyên nhân của những cuộc chiến tranh trừng phạt thường
thấy trong lịch sử Trung-quốc. Còn việc người quận Nhật-nam hiến
chim trĩ trắng cho hai vua Hán cũng không thể coi
là việc người Việt triều cống vua Hán được, bởi vì
việc này xảy ra trong thời kỳ nước ta bị nhà
Đông-Hán đô hộ (43-220) và đây
là việc làm lấy lòng hay tâng công của
quan lại đô hộ Hán, chứ không phải của nhân
dân Việt.
Nói cách khác, Văn-lang
(và người Việt khi bị đô hộ) không hề triều cống
Trung-quốc nói chung và nhà Thương/Ân
nói riêng để rồi vì không có triều
cống nên mới bị quân Ân xâm lăng.
F. Lý Do 6: Trong
Quân Đội Thương/Ân
Không Có Nữ Tướng
Theo truyền thuyết, quân xâm lăng
Ân do 28 nữ tướng chỉ huy, như được diễn tả trong bài ca
được dân địa phương hát trước bàn thờ Thánh
Gióng vào dịp Hội Gióng (sẽ xét trong phần
V bên dưới):
Hai (mà) mươi là (là)
tám tướng,
Tướng (tướng) cường là (là) nữ
(á) nhung,
Tướng (tướng) cường là (là) nữ
(á) nhung.
Tác giả Minh-Văn cũng nhắc đến truyền thuyết
này qua việc kể chuyện các thiếu nhi nam nữ diễn lại
tích Thánh Gióng đánh giặc Ân: "... trong khi 28 thiếu nữ đóng tượng trưng vai giặc
Ân..." và "Hai
mươi
tám
cô
thiếu nữ theo các dân kiệu về đền
Phù Đổng." Việc quân xâm lăng Ân do 28 nữ
tướng chỉ huy chỉ là một sự tưởng tượng không có
thực.
Trong thời nhà Thương/Ân có
Phụ-Hảo (còn gọi là Hậu Tân), 1 trong 63 ngườI vợ(21) của vua Tử Vũ-đinh
(1325-1266 TCN) đã từng cầm quân đánh giặc ở tứ
thổ. Tuy nhiên, đây chỉ là một trường hợp ngoại lệ
hi hữu. Hơn nữa, không thấy cả sử sách lẫn truyền thuyết
nói bà đã chỉ huy quân Ân sang
xâm lăng nước Văn-lang. Chúng ta có thể nói
được rằng, từ thời dựng nước cho tới những thập niên đầu thế kỷ
thứ 20, Trung-quốc không hề có nữ binh, cũng như là
nữ tướng. Tuy có những chuyện như Hoa Mộc-lan giả trai thay cha
đi tòng quân đánh giặc hay chuyện Mộc Quế-anh
và Dương Gia Thập Tam Nữ Tướng chống giữ giang sơn nhà
Tống họ Triệu, nhưng đây chỉ là những chuyện hư cấu
thôi, mặc dù những người nam dòng họ Dương như
Dương-Nghiệp (tức Dương lão lệnh công trong tiểu thuyết Dương Gia Tướng của tác giả khuyết danh) và
con là Dương Diên-chiêu (tức Dương lục lang trong
tiểu thuyết Dương Gia Tướng), v.v., hoặc là tử
chiến ngoài chiến trường (Dương-Nghiệp) hoặc mấy chục năm trấn
giữ biên cương không cho quân Khiết-đan
xâm nhập nước Tống họ Triệu (Dương
Diên-chiêu) là những người có thực.
Chúng tôi không phủ nhận
là ở Trung-quốc thời xưa trong dân gian có
không ít nữ nhân đã hợp sức cùng chồng
con, anh em hay trai tráng trong địa phương chống lại kẻ địch,
dù là kẻ đạo tặc hay phỉ loạn trong nước hoặc giặc ngoại
xâm, nhưng họ chỉ là những người vì tình thế
bắt buộc, phải chiến đấu để tự vệ, chứ không phải là những
quan binh, dân binh, chính qui hay bị động viên,
và được huấn luyện. Lịch sử Trung-quốc trước năm 1906 chưa hề
có một phụ nữ nào lãnh đạo những cuộc khởi nghĩa
hay kháng chiến(22)
như các bà Trưng, bà Triệu của Việt-nam, dù
đã có đàn bà trực tiếp cai trị quốc gia như
Lữ-hậu (còn gọi là Lữ Cao-hậu, húy Lữ-Trĩ, 187-179
TCN) thời nhà Hán hay làm vua như Vũ
Tắc-thiên (húy Vũ-Chiếu, 684-705) thời nhà Đường
(618-907), v.v. Ngay cả trường hợp Tần Lương-ngọc, sống đời hai vua
Minh Thần-tông Chu Dực-quân (1573-1620) và
Trang-liệt-đế Chu Do-kiểm (1620-1644) được giữ chức vụ quân sự
cũng chỉ là một bổ nhiệm ngoại lệ và bà cũng chưa
hề ở trong quân đội, chưa hề thụ huấn quân sự bao giờ(23).
G. Lý
Do 7: Không Có Thái Tử Ân Nào
Tên là Thạch-linh
Trong tập Les Fêtes de
Phù-Đổng của Nguyễn-văn-Huyên có một đoạn viết
rằng giặc Ân xâm lược Văn-lang do thái tử nhà
Ân tên là Thạch-linh chỉ huy. Điều này cũng
không đúng.
Trước khi đi xa hơn, chúng ta nên biết
qua nghĩa của từ "thái tử". Ở Trung-quốc,
thái tử là người con trai trưởng do người vợ cả của vua
sinh ra (đích tử) được lập để làm người kế vị vua
(hoàng tự). Tuy nhiên, từ này trong thời nhà
Châu còn được dùng để gọi đích tử của một
chư hầu cũng được lập để kế vị người đó. Từ thời nhà Minh
trở đi, thái tử gọi là "hoàng thái tử" để
phân biệt với các con trai khác của nhà vua
cũng được gọi là thái tử.
Chúng tôi nói lời của
Nguyễn-văn-Huyên không đúng là bởi vì
các con của các vua nhà Thương/Ân
không ai có tên húy, tên tự hoặc
tên hiệu là Thạch-linh. Theo quyển Ân
Bản Kỷ trong sách Sử
Ký của Tư-mã Thiên, trong số 31 vua nhà
Thương/Ân chỉ có 17 người là thái tử trước
khi lên ngôi. Đó là: Thái-giáp
(con của Thái-đinh), Ốc-đinh (con của Thái-giáp),
Tiểu-giáp (con của Thái-canh), Trọng-đinh (con của
Thái-mậu), Tổ-ất (con của Hà-đản-giáp),
Tổ-tân (con của Tổ-ất), Tổ-đinh (con của Tổ-tân), Nam-canh
(con của Ốc-giáp), Dương-giáp (con của Tổ-đinh), Vũ-đinh
(con của Tiểu-ất), Tổ-canh (con của Vũ-đinh), Lẫm-tân (con của
Tổ-giáp), Vũ-ất (con của Canh-đinh), Thái-đinh (con của
Vũ-ất), Đế Ất (con của Thái-đinh), và Đế Tân hay
Trụ (con của Đế Ất). Không có ai tên húy,
tên tự hay tên hiệu là Thạch-linh cả. Ngay cả những
vị vua khác của vương triều này cũng vậy.
Nói tóm lại, vì bảy lý
do kể trên, chúng tôi không tin là
quân sang xâm lăng Văn-lang thời vua Hùng (dù
là Hùng-vương thứ 3 hay là thứ 6) là
quân của nhà Thương/Ân từ bên Trung-quốc sang.
Trái lại, đây có lẽ chỉ là quân của
một bộ lạc nào đó ở gần Văn-lang (giống như quân
Thục của Thục-Phán đánh chiếm nước Văn-lang năm 258 TCN).
Hiện nay chúng tôi vẫn chưa định được
một cách đích xác tên và vị
trí của bộ lạc đó, mà chỉ nghĩ rằng tên của
bộ lạc không phải là Ân mà là một
tên nào đó mang âm tương tự âm "ưân" hay "ư-ân".
Từ
“ân” được dùng để ghi
âm bằng Hán tự tên bộ lạc có quân sang
xâm lăng thời vua Hùng đọc là “yin” (tương tự âm Việt ngữ “in” hay “yin”) theo
âm Hoa ngữ hiện đại (từ thế kỷ kỷ thứ 13 đến nay), còn
âm thượng cổ (từ thế kỷ thứ 11 TCN đến thế kỷ thứ 6 SCN)
và trung cổ (từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 12) là “ ˛'iĕn” (tương tự âm Việt ngữ “ưân” hay “ư-ân”),
như
được
phiên
thiết là “ư thân thiết”
trong các sách Thuyết Văn Giải Tự của
Hứa-Thận và Đường Vận của Tôn-Miên,
hay “ư cân thiết” trong các sách Tập Vận của Đinh-Độ và Cổ Kim Vận Hội
của Hoàng Công-thiện.
Chúng tôi còn nghĩ rằng
quân Ân nói ở đây cũng rất có thể
chính là giặc ở ngay trong nước Văn-lang (lúc
đó không thể gọi là "xâm lăng"
được).
Chúng
ta
nên nhớ là truyện Ký
Về Sự Tích Sóc Thiên Vương trong sách Việt Điện U Linh Tập của Lý-tế-Xuyên chỉ
nói trống không là “trong nước
có giặc” (quốc nội hữu tặc), chứ không xác định
là giặc ở trong nước hay giặc từ ngoài nước xâm
nhập và giặc mang tên gì.
V. Hội
Gióng
Trong dân gian vẫn lưu truyền câu ca dao:
Mồng bảy hội Khám, mồng
tám hội Dâu,
Mồng chín đâu đâu, trở về hội
Gióng.
hay là:
Ai ơi, mồng chín tháng tư,
Không đi hội Gióng cũng hư mất đời!
hoặc:
Lâm râm hội Khám,
U ám hội Dâu,
Vỡ đầu hội Gióng.
Ngày mồng 9 tháng 4 âm lịch
là ngày hội Gióng được tổ chức rất trọng thể tại
làng Gióng (nay là xã Phù-đổng, tỉnh
Bắc-ninh) để kỷ niệm việc Phù-đổng Thiên Vương đã
đánh tan giặc xăm lăng Ân vào thời kỳ Việt-nam mới
lập quốc. Thực ra hội Gióng được cử hành trong nhiều
ngày, từ ngày 5 đến 12 tháng tư âm lịch, với
ngày lễ chính là mồng 9. Địa điểm chính nơi
hội được tổ chức là đền thờ Thánh Gióng, thường
gọi là Đền Thượng.
Để tưởng nhớ công lao cứu quốc của vị thiếu
niên anh hùng dân tộc, người sau khi dẹp xong giặc
Ân đã biến mất, không màng danh lợi, vua
Hùng thứ 6, theo một số tài liệu, không biết
báo đáp cách nào bèn tôn vị
anh hùng đó làm Phù-đổng Thiên Vương
và sai lập đền thờ ngay ở trong vườn của ngôi nhà
nơi vị anh hùng đã ra chào đời tại làng
Gióng, cấp 100 mẫu ruộng để làm lễ xuân thu nhị kỳ.
Mấy ngàn năm sau, vua Lý Thái-tổ (1010-1028)
đã cho trùng tu ngôi đền ngay sau khi nhà
vua hạ chiếu dời đô từ Hoa-lư ra thành Thăng-long. Đến thế
kỷ thứ 17, dời Hậu-Lê (1428-1788) đền lại được trùng tu.
Đền là một kiến trúc to lớn, đẹp đẽ,
xây trên nền nhà cũ của Thánh Gióng,
với một tam quan phía trước. Trong chính điện có
bức tượng lớn Thánh Gióng. Hai bên có hai
hàng tượng các quan văn võ và lính
hầu cận. Bên ngoài thềm điện có đôi rồng
chầu, đôi sư tử đá và bia đá ghi lại
công đức Thánh Gióng. Ngoài ra còn
có đôi chóe sứ cổ do bà Đặng-thị-Huệ (tục
gọi là bà Chúa Chè), thứ phi của
chúa Trịnh-Sâm (1767-1782), dâng.
Nhiều ngày trước hội Gióng, dân
làng Gióng cử ra 6 người trai tráng để làm
6 vị tướng của Thánh Gióng. Họ mang cờ, kéo
đoàn quân gồm 100 người, kể cả quân thám
sát và vận lương. Ngoài ra còn có 28
nữ tướng tượng trưng cho giặc Ân. Tất cả tập luyện đánh
trận từ ít nhất là một tháng trước để diễn lại sự
tích Thánh Gióng dẹp giặc Ân.
Ngày mồng 5 là ngày tổng tập
diễn. Theo nghi lễ cổ truyền, cuộc tổng tập diễn có chiêng
trống và múa hát kèm theo. Ngày mồng
6 là ngày rước nước từ giếng Đền Mẫu về đền Gióng.
Đền Mẫu, mang tên là điện
Khánh-quang, là nơi thờ mẫu thân Thánh
Gióng. Đền xây ở ngoài đê làng
Phù-đổng. Đằng trước đền có một cái ao hình
bầu dục, nơi hàng năm dân làng lấy nước rước về Đền
Gióng dùng vào việc cúng bái. Gần
đó là khu vườn gọi là Cố-viên (Vườn cũ) hay
Đổng-viên (Vườn Đổng), ngày trước là vườn cà
thuộc gia đình Tháng Gióng. Trong vườn có
một tấm bia nhỏ và một tảng đá có in sâu dấu
chân người khổng lồ mà truyền thuyết cho là dấu
chân của ông Đổng, phụ thân Thánh
Gióng, mà bà mẫu thân Thánh
Gióng đã ướm thử chân mình vào do
đó mới thụ thai sinh ra Thánh Gióng.
Qua mồng 7 có lễ rước cỗ chay, cũng từ Đền
Mẫu về Đền Gióng. Gọi là cỗ chay vì cỗ chỉ gồm
có cơm và cà là hai món ăn phổ biến
nhất thuở xưa của người dân địa phương và, theo truyền
thuyết, đó cũng là hai món ăn mẫu thân
Thánh Gióng và dân làng đã dọn
ra cho Ngài ăn trước khi đi dẹp giặc Ân. Trong phần tế lễ
ngày hôm này có những điệu hát thờ ca
ngợi chiến công của Thánh Gióng và
các điệu vũ truyền thống trên hồ trước Đền Gióng.
Phần này do phường Ải-lao phụ trách.
Ngày mồng 8 các giáp duyệt lại
28 cô gái tướng giặc Ân để tuyển chọn xem các
cô nào đẹp nhất theo thứ bậc trên dưới.
Hội Gióng được tổ chức rất trọng thể
vào ngày hội chính, mồng 9.
Bắt đầu là việc rước cờ từ Đền Mẫu sang Đền
Gióng. Trong lúc đi đường, đoàn quân của
Thánh Gióng biểu diễn các động tác theo
nhịp trống và chiêng. Ngoài ra, thỉnh thoảng lại
có pháo đốt chào mừng. Phường Ải-lao tiếp
đó diễn trò bắt hổ qua điệu múa hổ. Mục này
gồm có múa hát theo điệu chiêng trống.
Sau đó thì có tin giặc Ân
tràn tới. Lập tức có ba hồi chiêng trống.
Đoàn quân của Thánh Gióng mở đầu đám
rước lớn. Họ mặc quần áo đủ màu, hàng ngũ chỉnh
tề, có cờ quạt và lọng che, đi theo bờ đê, tới Đền
Mẫu thì dừng lại bái lạy trước khi tiến ra chiến trường.
Trận chiến bắt đầu bằng điệu múa cờ lệnh theo tiếng nhạc,
chiêng và trống thúc giục. Khi điệu múa cờ
lệnh dứt thì cũng là lúc giặc Ân, do
các nữ tướng điều khiển, tan rã.
Đến đây đoàn quân chỉnh đốn lại
hàng ngũ rồi cùng đám rước kéo về Đền
Gióng dự tiệc khao quân do hàng tổng khoản
đãi. Trong lúc họ đang dự tiệc lại có tin cấp
báo là giặc Ân quay trở lại. Lập tức đoàn
quân Thánh Gióng bỏ bàn tiệc, đổ ra nơi
có giặc. Họ lại xông vào trận chiến theo lệnh
múa cờ, chém đầu tướng giặc, lấy thủ cấp về dâng
lên Thánh Gióng. Tiếp theo là các
điệu hát ca ngợi chiến thắng giặc Ân, các
trò vui công cộng, kéo dài từ chiều cho đến
quá nửa đêm.
Ngày mồng 10 là lễ rước vãn. Lễ
này gồm phần duyệt quân, tạ ơn Thánh Gióng
và kiểm điểm vũ khí.
Ngày 11 có lễ rước nước của ba
quân từ giếng Đền Mẫu về Đền Gióng để rửa vũ khí.
Sau đó lại có nhiều trò vui và múa
hát suốt ngày.
Hội Gióng chấm dứt ngày 12 với cuộc
rước cờ và báo thắng trận trước trời đất. Buổi lễ kết
thúc bằng lễ hạ hồi với bản Lạc-thành, ca ngợi chiến
thắng giặc Ân.
Mặc dù sự tích Thánh
Gióng có thể là một thần thọai hoang đường, nhưng
người dân Việt vẫn tin như có thật. Do đó
hàng năm nhân dân tổ chức một hội tế lễ linh
đình nhiều ngày cốt là để nhắc nhở cho nhau nhớ
lại một kỳ tích trong đời sống dân tộc ngõ hầu giữ
cho lòng tin đó khỏi bị thời gian làm phai mờ.
Theo giáo sư Nguyễn-đăng-Thục, họ "vẫn nuôi
trong lòng một hình ảnh linh thiêng phản chiếu tinh
thần dân tộc độc lập tự cường, coi như quyền sống bất khả
xâm phạm."(24)
Chú
Thích
(1) Vị trí bộ Vũ-ninh thời Hồng-bàng
(2879-258 TCN) không được rõ. Có thuyết cho rằng bộ
này tương đương với tỉnh Bắc-ninh ngày nay. Thực ra
tên Vũ-ninh mới có từ thời Ngô thuộc (222-265).
Đó là tên một huyện thuộc quận Giao-chỉ (tương
đương với bắc bộ Việt-nam). Cương vực huyện Vũ-ninh thời Ngô
thuộc tương đương với hai huyện Quế-võ và Gia-lương tỉnh
Bắc-ninh ngày nay.
(2) Đơn vị đo chiều dài của người Việt thời
Hồng-bàng như thế nào không rõ. Theo
giáo sư Đằng-đường Minh-bảo (Todo Akiasu), vào thời
nhà Châu (1122-256 TCN), 1 trượng Trung-hoa = 225
phân tây (Kan-go to Nihon-go, nxb. Tú-Anh,
Đông-kinh, 1969, tr. viii). Nếu đơn vị đo lường của người Việt
khi đó tương tự thì Thánh Gióng cao 22
mét rưỡi hay 73 ft 8 in.
(3) Nguyễn-đăng-Thục, Tư Tưởng Việt-nam: Tư
Tưởng Triết Học Bình Dân, Khai trí,
Sài-gòn, 1964, tr. 115 (gọi tắt: Tư Tưởng).
(4) Châu Trang-vương Cơ-Tha làm vua năm
696-691 TCN. Bộ Gia-ninh chính là huyện Mê-linh
thời Hán thuộc (111 TCN - 221 SCN). Theo truyền thuyết, vua
Hùng định đô ở đây và đây cũng
là đất bản bộ của gia đình hai bà Trưng-Trắc
và Trưng Nhị.
(5) Trần-quốc-Vượng đã dùng từ này
trong bản dịch Việt ngữ bộ Đại Việt Sử Lược, nxb. Văn Sử Địa,
Hà-nội, 1960, tr. 14.
(6) Tư tưởng, sđd., tr. 118-119.
(7) Trần-quốc-Vượng, "Căn Bản Triết Lý Người Anh
Hùng Phù-đổng và Hội Gióng," Trong
Cõi, nxb. Trăm Hoa, Garden Grove, California, 1993, tr. 127.
(8) Chỗ này Trần-thế-Pháp đã lầm.
Nhà Thương/Ân có 31 vua trị vì 645 năm. Nếu
tính riêng, thời kỳ gọi là Thương có 19 vua
trị vì 364 năm (1766-1401 TCN), và thời kỳ gọi là
Ân có 12 vua trị vị 280 năm (1401-1122 TCN).
(9) Trúc-sơn Mai-đăng-Đệ, Việt Sử Đại
Toàn, Hà-nội, 1944, trích dẫn trong Tư Tưởng, sđd., tr. 118.
(10) Theo Đổng Tác-tân trong Giáp
Cốt
Học
Lục
Thập Niên, nxb. Nghệ Văn, Đài-bắc, 1965,
tr. 11-13.
(11) Xem hai sách sau của Trương Quang-trực (một
đề tên là Kwang-chih Chang và một đề tên
là K.C. Chang): (a) Shang Civilization, Yale
University Press, New Haven & London, 1980; (b) Studies
of
Shang
Archaeology, cùng nhà xuất bản, 1986.
(12) Giống như trường hợp 25 người con trai của
Hoàng-đế Cơ Hiên-viên, 11 người không
có họ, còn 14 người mang 12 họ khác nhau
là: Cật, Cơ, Châm, Dậu, Đằng, Huyên, Hy, Kỳ, Kỷ,
Nhâm (người Việt-nam thường đọc là Nhậm hay Nhiệm),
Tuân và Y.
(13) Thời xưa ở Trung-quốc tên vương triều cũng
là tên nước. Còn tên “Trung-quốc” (lần đầu
tiên do Tư-mã Thiên dùng trong sách Sử Ký) chỉ được chính thức dùng từ
sau cuộc cách mệnh Tân-hợi 10.10.1911.
(14) Từ “công” ở đây thời nhà
Thương/Ân viết với chữ “công” (= khéo; người thợ;
quan) ở trên và chữ “khẩu” (= cái miệng) ở dưới. Từ
viết lối này đã biến mất từ lâu, không thấy ở
trong bất cứ tự điển nào, kể cả bộ cổ nhất ngày nay
còn tồn tại là Thuyết Văn Giải Tự của
Hứa-Thận (biên soạn từ năm 100 đến năm 121)
(15) Sông Hoài (Hoài-hà,
còn gọi là Hoài-thủy) phát nguồn từ
núi Đồng-bá ở tây-nam huyện Đồng-bá thuộc
tỉnh Hà-nam ngày nay, chảy qua các huyện Phụ-nam,
Cố-thượng, Phụng-đài, Hoài-viễn, Bạng-phụ, và
Ngũ-hà ở bắc bộ tỉnh An-huy, và qua các huyện
Tứ-hồng, Hoài-âm, Liên-thủy, và Tân-hải
ở bắc bộ tỉnh Giang-tô.
(16) Nhiều người đã hiểu lầm từ “hùng
trưởng” được dùng trong Truyện Hồng-bàng nên dịch
là “con trưởng” hay “con trai trưởng”. Vấn đề này
đã được chúng tôi trình bày trong
bài “Ai Là Vua Hùng Thứ Nhất?” đăng trong Viet Magazine, số 607, ng. 15-30.4.1997, tr. 41-45.
(17) Xem Sử Ký của Tư-mã
Thiên, q. 3, Ân Bản Kỷ; và Thi Kinh,
q.
7,
Thang
Tụng.
(18) Nay là huyện Vạn-vinh (do hai huyện Vạn-tuyền
và Vinh-hà hợp lại năm 1954) thuộc tỉnh Sơn-tây.
Bá-Dương lại cho rằng ấp Đồng ở huyện Ngu-thành thuộc
tỉnh Hà-nam ngày nay (Trung-quốc Lịch Sử
Niên Biểu , Tinh quang xbx., Đài-bắc, Đài-loan,
1977, q. thượng, tr. 87).
(19) K.C. Wu viết trong sách The
Chinese Heritage là sau khi Trọng-nhâm chết, Y-duẫn
tôn Thái-giáp lên ngôi, sau vì
Thái-giáp không giữ bổn phận làm vua
nên bị Y-duẫn đày đi ấp Đồng. Sau 3 năm Y-duẫn thấy
Thái-giáp biết ăn năn hối cải nên lại đưa
Thái-giáp về phục vị rồi sau một thời gian quan
sát thấy Thái-giáp thực sự đã thay đổi hẳn
Y-duẫn mới cáo quan về hưu. Hơn nữa, Y-duẫn còn thọ hơn
Thái-giáp vì ông chết trong đời Ốc-đinh
(1720-1691 TCN). Khi chết, Y-duẫn được Ốc-đinh cho an táng theo
nghi lễ thiên tử. Vẫn theo K.C. Wu, trong suốt triều đại
nhà Thương/Ân, Y-duẫn được con cháu vương triều
này tôn sùng ngang với vua Thành-thang.
(Crown Publishers, New York, 1982, tr. 165-169).
(20) (a) Lãnh thổ nhà Hậu-Châu gồm
đất các tỉnh Hà-nam, Sơn-đông, Thiểm-tây,
Cam-túc và Hồ-bắc, cùng nam bộ tỉnh Hà-bắc
và bắc bộ tỉnh An-huy ngày nay. (b) Lãnh thổ
nhà Nam-Hán nay là địa khu gồm toàn tỉnh
Quảng-đông cùng nam bộ Quảng-tây Tráng tộc tự
trị khu -- và góc phía nam tỉnh Phúc-kiến.
(21) Vua có 3 vợ chính thức là
Tân (tức Phụ-Hảo), Quí và Mậu; ngoài ra sử
sách còn đề cập tới 60 người vợ khác nữa.
(22) Mãi tới năm 1906-1907 mới có nữ thi
nhân kiêm nhà báo, nhà giáo,
nhà cách mệnh Thu-Cẩn (1877-1907) được ủy nhiệm
lãnh đạo phân bộ Chiết-giang của tổ chức cách mệnh
mang tên là Quang-phục Hội, tổ chức và điều khiển
trường huấn luyện quân sự cùng là trực tiếp huấn
luyện các nghĩa quân của Hội, và lãnh đạo kế
hoạch lật đổ triều đình Mãn-Thanh (1644-1911). Bà
bị bắt trong khi chiến đấu chống lại quân triều đình
và bị xử trảm.
(23) Tần Lương-ngọc là vợ của Mã
Thiên-thừa, tuyên phủ sứ sảnh Thạch-trụ (nay là
Thạch-trụ Thổ Gia Tự Trị Huyện thuộc tỉnh Tứ-xuyên). Khi chồng tử
trận trong vụ dẹp quân phản loạn Xa-sùng-minh (thuộc tộc
Quả-la, người Việt gọi là Lô-lô) ở
Bá-châu (nay là thành phố Tuân-nghĩa
thuộc tỉnh Quí-châu), bà thay thế chồng chỉ huy dẹp
loạn, sau được ban hàm đô đốc kiểm sự (chánh nhị
phẩm, có nhiệm vụ phụ tá đô đốc, và đô
đốc là người đứng đầu 1 trong 5 đô đốc phủ ở cấp trung
ương, cai quản việc binh của một quân khu) và giữ chức
tổng binh quan (tương đương với chức tư lệnh vùng ngày
nay). Đời vua Sùng-trinh bà nhiều lần phá tan
các lưu tặc khiến chúng không dám xâm
phạm biên cảnh.
(24) Tư Tưởng, sđd., tr. 115.
Tác giả Tạ
Quốc
Tuấn
Trích:http://www.dunglac.org
Nhóm
mạng
Việt
Nam
Văn
Hiến
Trang
: Phù Đổng Thiên
Vương
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email:
thuky@vietnamvanhien.net
"Bất chiến tự nhiên
thành" chi kế
Văn Hiến
ngàn năm sử đã
đề
Phá tan giặc Cộng bằng
Tâm lược
"Nhân Chủ (tự chủ) - An Vi (an
lạc)" khai lối về
|
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống
Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc
& Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.
|