Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm Thứ 4889 www.vietnamvanhien.net Trang Nhị Vị Phu Tử
Tuyết Sơn Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm Giai thoại Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm tân hợi 1491, thuộc đời vua Lê Thánh Tông Hồng Ðức thứ 22 tại thôn Trung An, làng Cổ An, huyện Vĩnh Bảo Hải Dương. Thân phụ cụ Văn Ðình, thân mẫu Nhữ Thị Thục, người đất Tiên Minh, làng An Tử hạ. Ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm là Nhữ Văn Lan, đã làm rạng rỡ dòng họ và quê hương với bảng vàng tiến sĩ, khoa thi năm Quí mùi, niên hiệu Quang Thuận, đời Lê Thánh Tông, được nhà Vua tin dùng, phong chức Thượng thư bộ Hộ. Theo tài liệu để lại bà Nhữ Thị Thục là bậc nữ lưu tài hoa vào bậc nhất chốn kinh kỳ thời bấy giờ. Con gái Hộ bộ thượng thư Nhữ văn Lân, được phong là Từ thục phu nhân. Bà giỏi văn chương và tài học về Lý số. Biết trước những gì có thể xảy ra và mộng lớn con cái nên danh phận không thể chờ thời. Như Nguyễn Du đã viết sau nầy “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” .Trạng Trình có người em cũng tài giỏi về lý số, người đời gọi là Trạng Bùng Phùng Khắc Khoang cùng mẹ khác cha. Nguyễn Bỉnh Khiêm huý là Văn Đạt, tự Hanh Phủ, người làng Trình Tuyền (Trung An), huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương, nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng. Nguyễn Bỉnh Khiêm,lúc trẻ ông học với Lương Ðắc Bằng được truyền cho quyển “Thái ất thần kinh” từ đó ông tinh thông về Lý học,Tướng số học giỏi, nghiên cứu về lý số với thiên tài “thần thông” có khả năng siêu quần, quán chúng về thấu thị, thần giao cách cảm, ông biết nhà Lê Trung Hưng, nên chờ đúng số mệnh năm 44 tuổi dự thi đỗ Giải Nguyên, đời nhà Mạc (1527-1592), làm việc bên cạnh Tả thị Lang, Ðông Các Ðại Học Sĩ, làm quan được 8 năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần vua nghe không. Ông cáo quan năm 1542 về vườn, lập Bạch Vân am và hiệu Bạch Vân Cư Sĩ mở trường dạy học cạnh sông Hàn giang còn có tên Tuyết giang nên học trò gọi ông “Tuyết giang Phu tử “ thơ mang triết lý của Thái Ất là nguồn tri thức hữu thể, về đời sống nhân sinh với càng khôn trong vũ trụ. Thái Ất còn gọi là Lý Thiên, Lý Địa và Lý Nhân
Ngư ông bất ngộ Ðào Nguyên khách Khởi thức hưng vong thế cổ kim hay Nhàn trung hoa thảo túc Cung xuânTà dương độc lập đô vô sự
Dù Nguyễn Bỉnh Khiên không còn làm quan, nhưng vua Mạc Phúc Hải phong cho ông tước Trình Nguyên Hầu vào năm Giáp thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn nghành lý học, giống như (Trình Y Xuyên,Trình Minh Ðạo bên Trung Hoa). Sau đó được thăng chức Thượng thư bộ Lại, tước hiệu Trình quốc Công. Từ đó người đời gọi ông là Trạng Trình. Nhờ học phương pháp tính theo Thái ất, tiên đoán được biến cố trước và sau 500 năm. Người Trung Hoa khen Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “An Nam lý học hữu Trình Tuyền” Tục truyền rằng Năm Bính ngọ (1546) Mạc Phúc Hải mất truyền ngôi lại cho con Mạc Phúc Nguyên mãi đến năm mậu thân (1548) vua Trang Tông mất, Trịnh Kiểm lập Thái tử tên Duy Huyên lên ngôi tức Trung Tông được 8 năm thì mất không có con nối nghiệp. Trinh Kiểm muốn làm vua nhưng còn sợ dư luận, nên sai người đến Hải Dương hỏi ý khiến Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. ông không nói gì chỉ bảo người giúp việc ngụ ý : “năm nay mất
mùa, thóc giống không tốt, chúng mày
nên tìm giống cũ mà gieo mạ, gữi chùa thờ
Phật thì ăn oản.. “ Sau đó Trịnh Kiểm
tìm con cháu họ Lê, lên làm vua. Dù Trạng
Trình ở ẩn, vua Mạc cũng như các chúa Trịnh,
Nguyễn có việc hệ trọng vẫn cho người đến hỏi ý
ông. Ông thường kín đáo khuyên Vua cố
gắng tránh chiến tranh để nhân dân khỏi chết
chóc. Trong năm Quang Thiêu (Lê Chiêu
Tôn) có việc biến loạn, Nguyễn Bỉnh Khiêm
không muốn tiếng tăm với đời lúc bấy giờ Trịnh Tuy, Mạc
Ðăng Dung cũng cố ý muốn tranh quyền, đánh nhau mấy
năm dài. Ông tính số Thái Ất, biết có
nhà Lê lại khôi phục được làm bài thơ Non sông nào phải buổi bình thời Thú đánh nhau chi khéo nực cười Cá vực, chim rừng, ai khiến đuổỉ Núi xương sông tuyết, thảm đầy vơi Ng ựa phi chắc có hồi quay cổ (1) Thú dữ nên phòng lúc cắn người (2) Ngán ngẫm việc đời chi nói nữa
Bên
đầm
say
hát,
nhởn nhơ chơi Hoành sơn nhất đái Sau
khi
nhà
Lê
bị
Mạc Đăng Dung (1483-1541) chiếm ngôi,
con của vị tướng triều Lê là Nguyễn Hoàng Dụ trốn
sang Lào, được vua Lào cho nương náu ở xứ Cẩm
Châu, trấn Nam Phủ, tỉnh Thanh Hoá. Năm Quý Tỵ
(1532) Nguyễn Kim lập con út vua Chiêu Tông
lên làm vua, gọi là Trang Tông. Nguyễn Kim mất, để lại hai người
con trai là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng
(1525-1613) cả hai tuy còn ít tuổi nhưng đã bộc lộ
tài năng xuất sắc hơn người. Trịnh Kiểm không khỏi lo sợ
cả hai sau này có thể tranh giành địa vị với
mình, nên đã ngấm ngầm ngăn trở, và
vì thế Nguyễn Uông chỉ mắc một lỗi nhỏ, Trịnh Kiểm cũng
buộc Nguyễn Uông phải chịu phép gia hình. Nguyễn
Hoàng thấy anh bị hại, sợ đến lượt mình, liền cử người
kín đáo lên hỏi Trạng Trình. Trạng
không trả lời cụ thể, chỉ đứng ngắm đàn kiến bò
trên hòn non bộ trước sân nhà và thốt
lên một câu: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” Nghĩa
là
từ
núi
đèo
ngang ở Quảng Bình kia
có thể yên thân được muôn đời . Từ câu
nói đó, Nguyễn Hoàng nghiệm ra rằng trạng
Trình đã bày cho kế đi vào phương Nam lập
nghiệp. Từ năm 1558 Nguyễn Hoàng vội vàng đến nói
riêng với chị là bà Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho
vào trấn phiá Nam, năm mậu ngọ (1558) đời vua Anh
Tông Trịnh Kiểm tâu vua cho Nguyễn Hoàng vào
trấn đất Thuận Hoá, phía Nam dãy Hoành Sơn.
Nhờ thế mà lập nên cơ nghiệp của họ Nguyễn ở Đàng
Trong, truyền nối lâu dài.
Ngoài ra rất nhiều lời sấm được lưu truyền qua dân gian
nhiều lời bàn diễn giải khác nhau câu : ” Cẩu vĩ
trư đầu, xuất thánh nhân ” ứng nghiệm
vào việc vua Gia Long lên ngôi từ (1802-1819) thống
nhất sơn hà vào năm Nhâm tuất ngày
02-05-1802. trải qua 13 triều đại .Hoàng đế cuối cùng Bảo
Ðại trị vì từ 1929 và thoái vị năm 1945 . Tương truyền Trạng Trình nói trước nhà Mạc suy vong, tuy nhiên con cháu họ Mạc về đất Cao bằng tuy nhỏ nhưng được 3 đời là Mạc Kính Cung, Mạc Kinh Khoan và Mạc Kinh Vũ . Dòng dõi họ Mạc bị bắt, bị giết nhiều người đổi họ lưu lạc khắp nơi để mưu cầu sự sống Trạng Trình có 3 người vợ và 12 người con (7 trai 5 gái) các con trai đều có chức tước sau nầy. Ông mất ngày 28 tháng 11 năm đinh dậu, niên hiệu Diên Thành thứ 8 nhà Mạc (1585) hưởng thọ 94 tuổi. Trước khi chết, Trạng có ghi vào gia phả và dặn con cháu rằng: Bình sinh ta có tấm bia đá sẵn và đã sơn kia. Khi ta mất rồi, hễ hạ quan tài xuống phải để tấm bia đá ấy lên nắp rồi lấp đất. Chờ khi nào có khách tới viếng mộ và nói rằng: "Thánh nhân mắt mù" thì phải lập tức mời người ấy vào nhà, yêu cầu họ đổi hướng lại ngôi mộ cho ta. Nếu trái lời ta, dòng dõi về sau sẽ suy đồi lụn bại đấy. Con cháu nghe lời, làm y như đã dặn. Nhưng chờ mãi đến năm mươi năm sau, mới có người khách đến nhìn mộ cụ một lúc rồi nói: Cái huyệt ở đằng chân sờ sờ thế kia mà không biết, lại tự đem để mả thế này. Vậy mà thánh nhân gì chớ, hoạ chăng là thánh nhân mắt mù. Người trong họ nghe được, chạy về báo với trưởng tộc. Ông này vội vàng ra đón người khách Tầu kia về nhà, xin để xoay ngôi mộ kia lại. Ra đó là một nhà phong thuỷ (Feng Shui) trứ danh ở phương Bắc. Ông ta sang là để đi tìm xem di tích của Trạng, bấy lâu ông ta đã nghe tiếng đồn. Khi nghe vị trưởng tộc nói, ông ta sẵn lòng làm ngay, và tự đắc cho rằng mình giỏi hơn Trạng Trình. Ông ta bảo: Không cần phải đem đi đâu xa cả, chỉ đào lên rồi xoay lại, nhích đi một chút là được. Ông trưởng tộc bèn tụ họp con cháu lại, đưa thầy địa lý Tầu ra đổi lại ngôi mộ. Lúc đào đến tấm bia đá, ông ta làm lạ bảo đem rửa sạch xem những gì trên đó. Khi tấm bia được rửa sạch, mới thấy mấy câu thơ hiện ra: tạm dịch nghĩa:
Ngày nay mạch lộn xuống chân Năm mươi năm trước mạch dâng đằng đầu. Biết gì nhữg kẻ sinh sau ? Thánh nhân mắt có mù đâu bao giờ ?
Đọc tới đâu vị khách Tầu đổ mồ hôi hột đến đó, ra Trạng Trình mà ông ta nghe đồn là giỏi thật. So với Trạng, có lẽ ông còn thua xa. Năm 1930 Việt Nam Quốc Dân Ðảng lãnh tụ Nguyễn Thái Học (1901-1930) lãnh đạo cuộc tổng khởi nghiã ngày 10.2.1930 đánh Tây ở các tỉnh : Yên Bái, Hưng Hoá, Lâm Thao, Hải Dương, Kiến An. Thất bại bị Pháp đìên cuồng ném bom tàn phá làng Bảo an để trả thù. Có lời đồn Trạng Trình đã tiên đoán : Kìa kìa gió thổi lá rung cây Rung Bắc rung Nam rung tới Tây Tan tác kiến kiều an đất nước Xác xơ cổ thụ sạch am cây Lâm giang nổi gió mù thao cát Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy Một ngựa một yên ai sùng bái Nhắn tin nhà vĩnh bảo cho hay „
Thoát nạn sập nhà
Trước lúc mất, Trạng có giao cho con cháu một ống tre sơn son thếp vàng, bịt kín hai đầu, và dặn đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh Thống đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan thì sẽ cứu được tình thế gia đình. Khi Trạng mất, hằng trăm năm sau, con cháu Trạng lâm vào cảnh đói nghèo, sa sút, nhưng tuyệt đối không được mở ống ra xem trước thời hạn. Trạng còn dặn kỹ trừ quan Tổng đốc ra, không ai được mở ống, vì thế ống vẫn giữ nguyên vẹn. Trải qua bảy đời, cái ống tre ấy mới được rước lên dinh quan Tổng đốc, đúng ngày giờ đã ghi trong gia phả. Đang nằm nghỉ, nghe tin con cháu cụ Trạng mang thư đến gặp, quan Tổng đốc rất ngạc nhiên, không biết vì cớ gì, nên truyền cho vào, đồng thời quan ngồi dậy để đi ra cửa. Quan Tổng đốc vừa bước khỏi giường nằm được mấy bước thì bỗng rầm một cái, chiếc sà nhà không biết bị mọt ăn hỏng từ bao giờ, rơi ngay xuống chỗ giường vừa nằm. Thật là một phen hú vía! Nếu ông không kịp ngồi dậy nhận thư Trạng, thì mạng ông đã khó mà sinh tồn. Quan Tổng đốc mở ống tre ra xem, thấy bên trong có một cuộn giấy, đề hai câu thơ: Ngã
giải
nhĩ
thượng
lương
chi ách, Nhĩ cứu ngã tử tôn
chi bần Nghiã
là
Cứu người thoát nạn đổ nhà, Ngươi nên cứu cháu con ta khỏi nghèo Chưa hết kinh hoàng vì chuyện chiếc sà nhà vừa rơi xuống, ông thoát nạn nhờ ra lấy lá thư. Quan Tổng đốc biết rằng trạng Trình đã cứu ông thoát chết, nên ông ta ân cần mời cháu trạng Trình về tư thất đãi hậu hỹ, sau đó đưa ra rất nhiều tiền để giúp con cháu cụ Trạng.
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) phá đền Năm Minh Mạng (1791-1840) năm thứ 14, Nguyễn Công Trứ được vua điều đi khẩn hoang ở vùng Hải Dương, Nguyễn Công Trứ thấy địa thế cần phải đào con sông, đào sông thì phải phá đền thờ Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông ra lệnh cho dân phu phá đền để khai phá công trường. Khi sai người đào mang bát hương ra, Nguyễn Công Trứ chợt thấy dưới bát hương có một tấm bia đá nhỏ phủ vải điều. Nguyễn Công Trứ lau sạch đọc được các câu đã ghi :
Minh Mạng thập tứ Thằng Trứ phá đền Phá đền phải làm đền Nào ai đụng đến doanh điền nhà bay Nguyễn Công Trứ lập tức thảo sớ về kinh, xin bãi bỏ lệnh phá đền. Ông còn cho người sửa sang lại đền Trạng khang trang hơn. Từ đó, ông không còn nghĩ đến việc phá đền để đào sông nữa.
Cha con thằng Khả Tục truyền trong làng
có cha con ông Khả đi bắt dế (chuột) kiếm sống. Khi đến
bên mộ Trạng, hai cha con vướng víu thế nào lại
làm đổ tấm bia trên mộ. Dân làng rất
sùng kính trạng Trình, nên khi thấy bia mộ
bị đổ, họ nổi giận bắt cả hai cha con, kêu nộp phạt ba quan tiền
mới tha, vì khi tấm bia đổ xuống thấy có hàng chữ
ở sau: Cha con thằng Khả. Đánh ngã bia tao
Làng
xóm
xôn
xao.Bắt
đền quan tám Cha
con ông Khả chịu nộp phạt, nhưng dân làng phải tha
cha con về nhà chạy tiền. chỉ tìm được có một quan
tám, dân làng không chịu, cha con ông
Khả ngẫm nghĩ mới tìm được cách, cha con bèn
nói với dân làng: Cha con tôi bị Trạng
Trình bắt phạt có quan tám, "Tam quán"
nói lái lại thành quan tám .
Ðúng như cha con ông Khả đã tìm đủ số
tiền Thơ văn của Trạng trình Nguyễn Bỉnh Kiêm còn lại hơn 100 bài trong bộ Bạch Vân Thi Tập, được dịch ra chữ quốc ngữ thơ mang nặng tình người, khuyên người đời biết điều nhân nghĩa, ngoài ra còn một số giai thoại truyền tụng trong nhân gian…. và những lời sấm ký có giá trị. 1/ ứng nghiệm về sau nhà Lê khôi phục 2/ ứng nghiệm nhà Trịnh
giữ nhà Lê Tài liệu tham khảo
Việt Nam Sử lược : Trần Trọng Kim Tự Ðiển nhân vật lịch sử : Nguyễn Quyết Thắng Những câu chuyện lịch sử tập 3 : Trần Gia Phụng Thái Ất thần Kinh nhà xuất bàn văn Hoá
Nguyễn Quý Đại
|
|
Nguồn:
http://vi.wikipedia.org
Trong lịch sử nước nhà
có hai nhân vật được tôn hiệu là phu tử (bậc
hiền triết) đó là Tuyết Giang phu tử Nguyễn Bỉnh
Khiêm và La Sơn phu tử
Nguyễn Thiếp. Hai nhân vật cách nhau gần 200 năm. Tuyết Giang phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm là
người
đỗ
đạt
tuyệt
đỉnh: Trạng Trình và Trình Quốc
công còn La Sơn phu tử chỉ đỗ cử nhân (Hương giải),
lận đận trong đường khoa cử và chỉ làm quan triều
Lê tới tri huyện rồi giữa chừng treo ấn từ quan về sống ẩn dật
trên núi Thiên Nhẫn (nay thuộc Hà Tĩnh). Cả
hai đều là nhân vật trung tâm của thời đại, chủ yếu
do thời cuộc biến loạn tạo nên một nhân cách đặc
biệt. Tuyết Giang phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ trạng nguyên
ở đời Mạc rồi ra làm quan thời Mạc, cuối đời trở về mở trường
dạy học bên dòng Tuyết Giang, vừa đào tạo
nhân tài, vừa tu luyện tâm đức bằng sấm ký để
đời soi sét. La Sơn phu tử cũng vậy, sau khi từ quan lại mở
trường dạy học trò, vui thú điền viên và
ngao du sơn thuỷ. Điểm chung thứ 2 là cả hai bậc hiền triết đều
được các đời vua chúa trọng nể, hỏi xin ý kiến.
Việc vua Lê, vua Mạc rồi chúa Trịnh, chúa Nguyễn
với Nguyễn Bỉnh Khiêm tới hỏi về hậu vận đã được sử
sách chép truyền. Với La Sơn phu tử cũng vậy, năm 1789
chúa Trịnh Sâm khi muốn thoán đoạt ngôi vua
Lê đã vời cụ ra để dạm hỏi ý cụ, cụ đã can
ngăn chúa Trịnh đừng tiếm ngôi vua. ở thời thế ấy hiếm
có ai dám thẳng ngay ngăn chúa như vậy!
La Sơn phu tử đã trải qua 3 triều đại, đặc biệt là giai
đoạn hợp tác với nhà Tây Sơn. Nổi tiếng là
chuyện La Sơn phu tử đã góp một câu nói
giúp Quang Trung đại phá quân Thanh vào
mùa xuân Kỷ Dậu 1789: "Việc quân phải chóng".
Sau ngày thắng trận trở về Phú Xuân, qua Nghệ An,
vua Quang Trung lại vời ông tới để ban khen: "Một lời nói
mà dấy nổi cơ đồ". Từ lúc thi đậu cử nhân khi mới
20 tuổi, La Sơn phu tử đã tỏ chí ẩn dật, không ham
hố quan trường. Nét đặc biệt của La Sơn phu tử nổi rõ
trong một hoàn cảnh éo le khi nhà Tây Sơn
nổi lên và triều Lê mạt vận, giặc Thanh theo
gót vua Lê Chiêu Thống tràn sang. Cũng giống
các sỹ phu thời bấy giờ, La Sơn phu tử cũng ngóng thờ vua
Lê mà thôi, nhưng với nhãn quan thời thế xa
rộng, cụ đã hợp tác với nhà Tây Sơn như một
lẽ tự nhiên. Ban đầu là vì nghĩa cử, khi có
giặc ngoại xâm thì sẵn sàng dẹp bỏ mọi niềm
riêng vì nghĩa nước. Điều đó thể hiện ở câu
nói giúp vua Quang Trung phá tan quân Thanh
nhanh chóng. Nhưng khi vua Quang Trung phá tan quân
Thanh ngỏ ý vời cụ ra làm quan 3 lần thì đều bị cụ
từ chối. Cuối cùng mới nhận chức đứng đầu Sùng
Chính Viện - như Thượng thư bộ học - góp phần cải
cách nền giáo dục ở triều đại mới.
Nguồn:
http://www.suutap.com
Nguyễn Thiếp (25 tháng 8 năm Quý Mão 1723-1804), tên hiệu phổ biến là La Sơn phu tử, huý là Minh, tự là Quang Thiếp, quê làng Mật Thôn, xã Nguyệt Úc hay Nguyệt Áo (tục gọi là Nguyệt Ao), tổng Lai Thạch, huyện La Sơn. Tổng La Thạch sau này lại thuộc về huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Thiếp sinh ra trong một gia đình thuộc dòng dõi vọng tộc, là con cháu Lưu Quận công, Cao tổ của Phu tử là Nguyễn Bật Lạng đậu Bảng nhãn (dưới Trạng Nguyên, trên Thám Hoa) trong một Chế khoa dưới triều Lê Thần Tông niên hiệu Thịnh Đức nguyên niên (năm 1633). Năm 20 tuổi (1743) ông đỗ giải Hương, đến năm 26 tuổi, ông đi thi Hội một khoa vào tam trường. Từ đây, ông thề không đi thi nữa, và quyết tâm dứt bỏ con đường sĩ hoạn, chỉ vì ông thấy rõ lối học từ chương, khoa cử chẳng những vô ích cho bản thân và quốc gia, mà còn di hại cho tiền đồ Tổ quốc và hậu thế không ít.
Năm 1756, ông làm Huấn đạo rồi năm 1762 thăng Tri phủ. Năm 1768 từ quan về ở ẩn trên núi Thiên Nhẫn, Hà Tĩnh. Chúa Trịnh Sâm nhiều lần cho mời nhưng ông không ra tham chính nữa. Đặc biệt là ông có đi thăm mộ Phạm Viên (Tiên ông đắc đạo) và thăm Bạch Vân Am của Nguyễn Bỉnh Khiêm vào lúc 55 tuổi và 58 tuổi (1777-1780).
Nguyễn Thiếp có nhiều tên tự hay tên hiệu, hoặc do ông tự đặt, hoặc do người đương thời xưng tặng, chẳng hạn: Lam Hồng Dị Nhân, Khải Xuyên, Lạp phong cư sĩ, Điên ẩn, Cuồng ẩn, Hạnh am, Hầu lục niên, Lục niên Tiên sinh, La Giang phu tử, La Sơn phu tử...Đầu năm 1787, Nguyễn Huệ sai 4 viên quan cao cấp ở
bộ Binh và bộ Hình mang thư đến mời Nguyễn Thiếp. Bức thư
có đoạn: "Đã lâu nay nghe tiếng Phu tử, đức tuổi
đều cao, kinh luân sẵn có. Chính tôi muốn tới
nhà gặp mặt, để thỏa lòng tìm kiếm khó
nhọc…". Vốn là một ẩn sĩ, lại chưa hiểu Nguyễn Huệ, nên
lần đầu nhận thư, Nguyễn Thiếp đã khéo léo đưa ra
3 lý do để từ chối. Tháng 8 năm 1787, Nguyễn Huệ lại cử
quan Lưu Thủ là Nguyễn Văn Phương đưa thư mời La Sơn Phu Tử. Lời
lẽ trong thư lần này thống thiết, chân tình: "Phu
tử là danh sĩ hơn đời: vì định bụng không chịu
cùng quả đức chứng khởi thiên hạ, nên mới nêu
ba lẽ không ra. Nhưng nay thiên hạ loạn như thế này,
sinh dân khổ như thế này, mà Phu tử nhất định ẩn
không ra, thì sinh dân thiên hạ làm
sao… Mong Phu tử nghĩ đến thiên hạ với sinh dân, vụt dậy đi
ra, để cho quả đức có thầy mà thờ, cho đời này
có thầy mà cậy. Như thế mới ngõ hầu khỏi phụ
ý trời sinh ra kẻ giỏi". La Sơn Phu Tử lại từ chối. Ngày
13 tháng 9 năm Thái Đức thứ 10 (1787), Nguyễn Huệ lại sai
quan Thượng thư bộ Hình là Hồ Công Thuyên
dâng lá thư thứ ba lên Nguyễn Thiếp. Phần kết của
lá thư có đoạn: "Mong Phu tử soi xét đến tấm
lòng thành, vụt dậy mà đổi bụng; lấy lòng
vì Nghiêu Thuấn quân dân mà ra dạy bảo,
giúp đỡ. Quả đức xin im nghe lời dạy bảo, khiến cho quả đức thỏa
được lòng ao ước tìm thầy, và đời này được
nhờ khuôn phép của kẻ tiên giáo. Thế
thì may lắm lắm". Nhưng, một lần nữa La Sơn Phu Tử vẫn chối từ.
Song, Nguyễn Huệ không nản lòng. Cuối năm 1787, ở
ngoài Bắc Hà, Vũ Văn Nhậm cậy thế lộng quyền. Trên
đường kéo quân ra Bắc trị tội Nhậm, Nguyễn Huệ nghỉ lại
tại Nghệ An, đồng thời cho người đưa thư mời và rước La Sơn Phu
Tử tới. Đây là lần đầu tiên Nguyễn Huệ và
Nguyễn Thiếp gặp nhau. Theo sách Lê mạt tiết nghĩa lục,
trước khi chia tay La Sơn Phu Tử, Nguyễn Huệ đã phải thốt
lên: "Người ta đồn rằng Tiên sinh là kẻ sĩ của
thiên hạ. Tiếng ấy thật không ngoa".
Thế nhưng, La Sơn Phu Tử vẫn chưa đồng ý ra giúp Nguyễn Huệ, phụng sự nhà Tây Sơn. Mãi đến khoảng cuối năm 1788 Nguyễn Thiếp mới bắt đầu trở thành "quân sư" cho Nguyễn Huệ - Quang Trung. Sau khi lên ngôi Hoàng đế, Nguyễn Huệ kéo đại quân Tây Sơn ra Bắc quyết chiến với quan xâm lược Mãn Thanh. Trên đường hành quân, Quang Trung ghé lại Nghệ An thăm hỏi La Sơn Phu Tử. Nhà vua hỏi: "Quân Thanh sang đánh, nay ta đem quân chống cự, về kế công thủ và số được thua, tiên sinh cho biết thế nào?" . Nguyễn Thiếp bình thản: "Nay trong nước trống không, lòng người li tán. Quân Thanh ở xa lại, tình hình quân ta sức mạnh sức yếu không biết, thế công thế thủ không hay. Chúa công ra chuyến này chẳng qua mươi ngày là giặc Thanh sẽ tan". Nhận định của La Sơn Phu Tử thật sâu sắc. Dựa vào sự phân tích này vua Quang Trung đã không ngần ngại tuyên bố trước ba quân, tướng sĩ: "Nay ta tới dây thân đốc việc binh, kế chiến thủ ra sao đều đã có phương lược định sẵn. Chỉ nội mười ngày nữa, thế nào ta cũng quét sạch giặc Thanh". Đồng thời, đức vua quả quyết: "Nay hãy ăn Tết Nguyên đán trước, đợi đến mồng bảy tháng giêng, vào thành Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta nói xem có đúng như vậy không".
Quả nhiên, nhận định của La Sơn Phu Tử giống như lời tiên tri. Đúng vào ngày mồng 5 tháng giêng năm Kỉ Dậu (1789), quân Tây Sơn đã đập tan 30 vạn quân Mãn Thanh, tiến vào giải phóng Thăng Long. Sau ngày đại thắng, Quang Trung không quên ơn La Sơn Phu Tử. Trong bức thư gửi Nguyễn Thiếp, nhà vua thổ lộ: "Trẫm ba lần xa giá Bắc thành, Tiên sinh đã chịu ra bàn chuyện thiên hạ. Người xưa bảo rằng: Một lời nói mà dấy nổi cơ đồ. Lời Tiên sinh hẳn có thế thật". Đồng thời, ngài ban chiếu cấp cho Nguyễn Thiếp thuế xã Nguyệt Ao để làm tuế bổng và ban lộc dưỡng lão cho ông.
La Sơn Phu Tử chính thức hợp tác với nhà Tây Sơn vào năm 1790. Tháng 10 năm ấy, vua Quang Trung ban chiếu lập Viện Sùng Chính và cử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng. Kể từ đó, La Sơn Phu Tử đã có nhiều đóng góp quan trọng đối với nhà Tây Sơn và Quang Trung nói riêng. Với cương vị Viện trưởng Viện Sùng Chính, Nguyễn Thiếp đã đề ra những cải cách về văn hóa, giáo dục của nước nhà cuối thế kỷ thứ XVIII. Trong đó, công lao lớn nhất của Nguyễn Thiếp là thực hiện chủ trương của Quang Trung: chấn hưng, đề cao chữ Nôm, đưa chữ Nôm trở thành văn tự chính thức của nước Việt. Cùng với các đồng sự ở Viện Sùng Chính, La Sơn Phu Tử đã dịch nhiều bộ sách quan trọng từ Hán tự sang Nôm, như các bộ: Tiểu Học, Tứ Thư (gồm 42 tập) và các bộ Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch… Đồng thời, La Sơn Phu Tử còn là một nhà giáo có công lớn đối với nền giáo dục nước nhà. Ngay tại khoa thi Hương đầu tiên dưới triều đại Quang Trung (tổ chức ở Nghệ An vào năm 1789), Nguyễn Thiếp được cử làm Chánh Chủ khảo. Đáng lưu ý, La Sơn Phu Tử đã được Quang Trung tin tưởng giao cho việc thẩm định đức độ và tài năng của những người mới ra hợp tác với nhà Tây Sơn. Đặc biệt, ngoài Viện Sùng Chính, La Sơn Phu Tử còn được vua Quang Trung giao phó một nhiệm vụ cực kì hệ trọng. Đó là việc chọn địa điểm để xây dựng kinh đô mới của triều đại nhà Tây Sơn tại khu vực giữa núi Kỳ Lân và núi Phượng Hoàng (Nghệ An). Kinh đô mới được đặt tên Phượng Hoàng Trung Đô. Tiếc rằng công việc đang tiến hành dang dở thì vua Quang Trung đột ngột băng hà.
Quang Trung qua đời, Cảnh Thịnh còn nhỏ tuổi, mọi quyền bính rơi vào tay Bùi Đắc Tuyên. Đáng lo ngại là nội bộ của triều đại nhà Tây Sơn ngày càng rạn nứt, "chia 5 xẻ 7". Trước bối cảnh đó La Sơn Phu Tử quyết định xin trả lại lộc dưỡng lão mà Quang Trung ban cho trước đây. Chuyện kể rằng, sau khi tiêu diệt nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh - Gia Long có cho người mời La Sơn Phu Tử đến và hỏi: "Ngụy Tây Sơn mời Tiên sinh làm thầy, Vậy Tiên sinh dạy nó ra sao?". Nguyễn Thiếp ung dung trả lời: "Có tám điều trong sách Đại Học, có chín điều trong sách Trung Dung, người giỏi thì làm được, người không giỏi thì không làm được". Thế rồi, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp lại trở về vùng núi Thiên Nhẫn làm một ẩn sĩ. Gia phả họ Nguyễn ở Mật Thôn - Nguyệt Ao, chép rằng: "Cụ ở lại trên núi, tự lấy làm vui, không bận lòng đến việc trần ai nữa".
Ông để lại tác phẩm Lạp Phong văn cảo, Hạnh am thi cảo gồm hơn 100 bài thơ chữ Hán và một số bài từ. Những di cảo về chữ Nôm còn lại rất ít, trong số đó đáng chú ý là bài “Qua Luỹ Sơn”. Thơ Nguyễn Thiếp bàn về thế thái nhân tình. Nguyễn Thiếp không tố cáo xã hội, nhưng qua thơ ông cũng thấy nạn tham quan ô lại đang đục khoét dân lành. Lời thơ mộc mạc, chân chất, ít điển tích, không có hình ảnh độc đáo.
Nguồn: http://vi.wikipedia.org