Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4888

www.vietnamvanhien.net




Trang Tham Luận về:

Quốc Hội


Kính Thưa Quý Vị

  Trang Tham Luận nầy là phần dành cho sự góp ý cuả quý vị về một giải pháp thay thế chế độ độc đảng đương thời cũng như một sự hình thành, tổ chức và điều hợp một thể chế mới như là một nước Việt Nam Văn Hiến, như thế nào và ra sao?

  An lạctự chủ có phải là một nguyện vọng thiết tha cuả đại đa số đồng bào không?

  Một thể chế dân chủ đa nguyên, dân chủ nhị nguyên hay dân chủ văn hiến hay là dân chủ nhân bản có phải là một bước tiến tất nhiên của nhân loại và dân tộc Việt Nam không?

  Chế độ độc đảng đương thời có cần được thay thế không? Quốc dân Việt Nam có muốn thay thế chế độ phong kiến, độc đảng trị Cộng Sản  phi nhân bản, phản dân chủ đương thời không ?

  Ngay chính quí vị và các bạn có thật sự muốn và làm một cái gì đó để thay thế chế độ đương quyền không ?

  Nền tảng văn hiến ngàn đời của Việt tộc có thể làm một thế trận công tâm toàn diện để giải thể chủ nghĩa Cộng Sản và giải tán đảng Cộng Sản tại Việt Nam bằng một giải pháp "Lấy tâm lực thay cho vũ lực" hay là "Bất chiến tự nhiên thành" không?

  Lấy Tâm Lực thay cho vũ lực là tranh đấu trong ôn hoà và nhân bản để giải trừ quốc nạn; Lâý tình người thay cho hận thù và dối trá; Lấy nghiã làm người thay tham nhũng và độc quyền,

"Bất chiến" không có nghiã là không chiến đấu hay không tranh đấu gì hết mà có nghiã là tranh đấu nhưng không tranh giành, chiến đấu nhưng không đổ máu, không giết người. Một Nghiã sỹ hành xử khác với một chiến sỹ. Nghiã sỹ chỉ cứu người, giúp ngươì, an dân và lạc quốc. Sách lược Công Tâm  được coi như là một giải pháp "bất chiến" vậy.
                                                                                                                                                         


 
Sự thay thế chế độ độc quyền, tham nhũng và thối nát đương thời sẽ phải là một cuộc thức tâm của quốc dân đồng bào trong bước tiến tất nhiên của nhân quyền, dân quyềnquốc quyền. Bạo lực và bạo động không có chổ đứng, không được phép ứng dụng, không được tiếp nhận và không được chấp nhận...?

 Đại cuộc phục hồi nền an lạctự chủ không phải là một cuộc chiến bằng vũ lực (súng, đạn), không phải là một cuộc "thánh chiến" bằng thánh quyền, thần quyền hay chủ thuyết; Lại càng không phải là một cuộc chiến ủy nhiệm của thế lực ngoại bang. Nó là một hành vi tự vệ bằng sự thức tâm của quốc dân đồng bào để sống còn trước cơn quốc nạn, trước cảnh quốc phá, gia vong...?

 Đề cao tinh thần dân chủ Diên Hồngthắp sáng niềm tin Diên Hồng có góp phần tích cực và làm sáng ngời tinh thần dân chủ văn hiến không...?

  Sách lược công tâm phải lấy nhân tâm làm phương tiện, lấy dân tâm làm chiến sách cho cứu cánh an lạctự chủ, có phải là một giải pháp "Bất chiến tự nhiên thành" không..?

Kính mời quý vị tham luận

  Trong mỗi  đề tài tham luận cần thời gian để chiêm nghiệm và thảo luận . Vì gợi ý cho một đề án nầy là cuả chung quốc dân đồng bào, cần phải được sự đồng tâmhiệp thông cuả đại đa số (ít nhất là 67% ) để có được sự đồng thuận hiệp lực mà khởi động như một giải pháp thay thế cho chế độ độc đảng phi nhân nhân bản, phản dân chủ đương thời . Nó phải thể hiện được dân tâmdân trí một cách trung thực và trong sáng. Có được vậy thì sự thành tựu mới thật sự đạt được cứu cánh an lạctự chủ một cách bền vững mà không phải là một sự tranh giành quyền bính và lợi lộc bằng bạo lực cuả chủ nghiã hay là một sự dàn xếp cuả thế lực ngoại bang nào đó. Lại càng không phải là một sự trả thù tàn nhẫn, tắm máu đồng bào như đã xảy ra trong những năm 1954, 1968 và 1975...!

  Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến thiết tha mong mõi nhận được sự đóng góp xây dựng cuả quý vị hầu có được một sự đồng tâm thiết thực và một sự đồng thuận khả thi để Việt tộc sánh vai tiến bước với nhân loại trong thế kỷ thứ 50 cuả Việt lịch và thiên niên kỷ thứ ba của tây lịch.


Trân Trọng Kính Mời


Điện thư : thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến những biên khảo, sáng tác và ý kiến của quý vị và các bạn nhằm mục đích bảo tồn di sản văn hóa. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống văn hiến hầu phục hồi nền "An Lạc &Tự Chủ" ngàn đời của Việt tộc.





Lấy Nhân Tâm làm phương tiện, dụng Dân Tâm làm quốc sách: "An Dân & Lạc Quốc"


Quốc Hội là gì?

Nguyễn Học Tập

Ai trong chúng ta cũng nghe nói đến quyền lực Quốc Gia được phân chia ra thành các quyền Lập Pháp (Quốc Hội), Hành Pháp (Chính Phủ) và Tư Pháp (Tòa Án).

Trong một Quốc Gia dân chủ, Quốc Hội Lập Hiến (hay Ủy Ban Soạn Thảo Hiến Pháp) được đề cử để đề thảo ra Hiến Pháp và Quốc Hội Lập Pháp, được dân chúng tuyển chọn ra để soạn thảo luật pháp.

Quốc Hội là cơ quan Lập Pháp của quốc Gia, có nhiệm vụ soạn thảo luật pháp. Nhưng đó có phải là nhiệm vụ chính yếu của Quốc Hội không? Từ ngữ "Lập Pháp", được gán cho là nhiệm vụ của Quốc Hội phải được hiểu theo ý nghĩa nào cho đúng đắn?

Những dòng dưới đây được viết ra để chúng ta trả lời câu hỏi trên, đồng thời giúp chúng ta hiểu biết về nguồn gốc lịch sử Quốc Hội của các Quốc Gia tân tiến trên thế giới, xác định rõ vai trò chính của Quốc Hội, cũng như những hệ tại của vai trò đó trong cuộc sống Quốc Gia.

I - Quốc Hội ở Thế Kỷ XII - XIV.

Quốc Hội trong thời quân chủ không được thiết lập và có vai trò của Quốc Hội trong các Quốc Gia dân chủ Tây Âu hiện tại.

Quốc Hội của Vương Quốc Sicilia ở thế kỷ XII chẳng hạn là Hội Đồng Tư Vấn của Vua, thành viên được Vua chỉ định, có nhiệm vụ bàn thảo góp ý với Vua trong việc cai trị đất nước. Nhưng mọi quyết định đều do Vua định đoạt lấy. Cơ chế của Quốc Hội Vương quốc Sicilia bắt nguồn từ thời Đế quốc Roma.

Quốc Hội của các tổ chức Xã Ấp (Comuni) thời Trung Cổ cũng có thể chế tương tự như Quốc Hội của Vương Quốc Sicilia, là những Hội Đồng Tư Vấn của thành phố, thôn ấp như thời Thị Xã (Polis) của Hy Lạp.

Các tổ chức vừa kể chỉ họp khi được Vua hay giới cầm quyền Xã Ấp triệu tập để bàn thảo các vấn đề được trình bày, rồi giải tán sau đó.

Ở Tây Ban Nha thời kỳ nầy có "Cortes" và ở Pháp có "États Généraux de Paris", là những Hội Đồng Tư Vấn và Cơ quan Tư Pháp của Vua. Quốc Hội của thành phố Paris chỉ có nhiệm vụ ghi vào hồ sơ (enregistrer) các ấn chỉ của Vua.

Mặc dầu các Quốc Hội "Tư Vấn và Tư Pháp" trên được Vua hay dân chúng triệu tập, chỉ định một cách nào đó để giải quyết những vấn đề cần thiết, nhưng những tổ chức manh nha rời rạc trên không có cách gì đâm chồi nẩy mậm thành Quốc Hội theo ý muốn mà chúng ta hiểu hiện nay, bởi lẽ ở các Quốc Gia trong thời Trung Cổ, thể chế quân chủ tập quyền các lãnh chúa là tối thượng, bóp nghẹt hết mầm mống dân chủ manh nha trong các "Tiền Quốc Hội" (Préparlementaire) trên.

II - Nguồn Gốc Quốc Hội.

Quốc Hội Anh quốc thế kỷ XVI. 2

Một tổ chức muốn trở thành cơ cấu Quốc Hội theo ý nghĩa của chúng ta, nhứt phải thỏa mãn 3 điều kiện sau đây:

a) phải là một tổ chức có tính cách dân cử,
b) Tư cách đại diện phải có tính cách phổ quát. Nói cách khác, cơ cấu đại diện phải là đại diện cho đa số dân chúng trong cộng đồng Quốc Gia, để tiếng nói của mình là tiếng nói của đại chúng.
c) Tư thế của tổ chức đại diện hay Quốc Hội phải đặt Quốc Hội có khả năng thảo luận, mặc cả với Hành Pháp (Vua, trong trường hợp Anh quốc). Điều đó có nghĩa là Hành Pháp (Vua) nếu muốn được Quốc Hội chấp thuận, Hành Pháp (Vua) phải nhượng bộ một phần quyền bính nào đó. Nói cách khác, Quốc Hội có khả năng đối thoại với Hành Pháp (Vua), là phía bên kia đối với Hành Pháp (Vua), là chiếc cầu gạch nối giữa Hành Pháp và dân chúng.

Ba điều kiện vừa kể đã được thể hiện tại Quốc Hội Anh vào thế kỷ 15. Trong lúc Cách Mạng đang diễn tiến cũng như sau đó, vào thế kỷ 16, Quốc Hội Anh luôn luôn xác định mình là xướng ngôn viên chính thức của Quốc Gia đối với Vua.

Đọc lại những văn kiện đòi hỏi quyền hành của dân chúng Anh trong thế kỷ 17 và 18, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. Văn kiện Statute Book là khế ước Magna Carta của năm 1225 được thay đổi (C. Fraith Thompson, Magna Carta, Ist Role in the Making consstitution 1300-1629, Minesota University Press, 1948).

Văn kiện Habeas Corpus Act 1679, văn kiện Bill of Rights 1689, văn kiện Act of Settlement 1701 là những tài liệu nói lên ý thức của dân Anh về quyền hạn của mình đối với Vua.

Viên đá nền tảng của cả tòa nhà ý thức Quốc Hội được dân chúng Anh tuyên bố ở thế kỷ 17 như sau:

"Nhà Vua ở trong Quốc Hội " (The King in Parliament).

Quyền hành pháp vẫn nằm trong tay Vua, nhưng thuế má phải được Quốc Hội tán đồng. Luật pháp chỉ có thể ban hành (enacted), với điều kiện là Nhà Vua ở trong Quốc Hội, tức là được quốc Hội, gồm có Vua, các quân tước (Lords) và đại diện làng mạc xã ấp chấp thuận. Sau đây là nguyên văn của điều kiện tiên quyết đó để cho luật lệ được ban hành có giá trị:

"By the advice and consent of the King, the Lords and the Commons in this Present Parliamentassembled and by the autority of the same" (luật muốn được ban hành và có giá trị phải được sự đóng góp ý kiến và đồng thuận của Vua, các vị quân tước và đại diện xã ấp trong Quốc Hội nầy đang nhóm họp và được chính Quốc Hội cho phép) (cit. by C.H. Mcllwain, Constitutionalism and the Changing World, Cambridge, Cambridge University Press 1939,227).

Điều đó nói lên nhiệm vụ của Quốc Hội Anh không phải chỉ có trách nhiệm kiểm soát luật pháp đối với Vua, để Vua không được ra luật tùy tiện, mà còn có quyền góp ý kiến vào đường lối chính trị của Vua, tức là bàn luận, góp ý sửa đổi luật pháp trước khi được ban hành.

Qua lịch sử Quốc Hội Anh vừa kể, chúng ta thấy rằng Quốc Hội
- không chỉ thừa nhận nhiệm vụ đại diện cho dân chúng để chuyển đạt lên Vua nguyện vọng của dân,
- mà còn kiểm soát không cho Vua tự do thao túng ra luật lệ tùy tiện,
- cũng như có quyền tham gia vào việc biến cải đường lối chính trị Quốc Gia qua việc điều hành chính luật pháp cho thích hợp.

Quốc Hội Anh có tư cách trổi vượt khá xa đối với các Tiền Quốc Hội thời Trung Cỗ và cả đối với Quốc Hội Pháp cùng thời đó.

Không kể đến các Tiền Quốc Hội thời Trung Cỗ, là những cơ quan Tư Vấn và Tư Pháp của Vua, Quốc Hội Pháp chỉ được (hay chỉ có) nhiệm vụ ghi vào hồ sơ án chỉ của Vua để rồi ban hành sau đó. Có lẽ Quốc Hội Pháp lúc đó cũng chỉ có tính cách Tư Vấn đối với Vua, tức là bàn góp ý kiến vói Vua trước khi ghi vào hồ sơ các ấn chỉ. Vua có toàn quyền định đoạt tất cả mọi vấn đề.

Nói cách khác, Quốc Hội Pháp lúc bấy giờ chỉ là tổ chức ngoại vi (corps externe) đối với mọi quyết định của Quốc Gia.

Trái lại quốc Hội Anh qua văn kiện vừa kể là một cơ chế cấu trúc nội tại (structure interne) đối với các quyết định của xứ sở. Với viên đá nền tảng

"Nhà Vua ở trong quốc Hội",

Quốc Hội Anh (Vua, quân tước và đại diện xã ấp) không những có quyền và bổn phận Tư Vấn (bàn góp ý kiến với Vua), ghi hồ sơ luật pháp sắp được ban hành, mà còn có quyền "bàn cãi, sửa đổi và biểu quyết đồng thuận, cho phép (and by the authority of the same)", thì luật pháp ban hành mới có giá trị.

Đọc qua nguyên văn với những dòng suy nghĩ vừa qua, chắc chắn chúng ta đã ghi nhận hai điểm nổi bật của quốc Hội Anh lúc bấy giờ:
1) Quốc Hội có quyền kiểm soát hành động của Vua đối với dân, hạn chế kiểm soát Vua không được ra luật thuế má cách nào đó tuỳ tiện.
2) Quốc Hội có quyền, nhiệm vụ bàn cãi cũng như sửa đổi làm cho luật pháp ban hành hợp với đường lối lợi ích cho quốc dân, hay quốc Hội có quyền tham dự vào việc định hướng đường lối chính trị Quốc Gia.

Một yếu tố quan trọng khác chúng ta cần ghi nhận là mặc dù Quốc Hội Anh lúc bấy giờ đã trở thành một cơ chế cấu trúc nội tại trong việc định hướng và quyết định của guồng máy quyền lực Quốc Gia, Quốc Hội vẫn là một tổ chức tách biệt và độc lập đối với quyền Hành pháp (Vua vẫn nắm gìữ quyền hành xử quyền bính trong tay).

Yếu tố quan trọng đó có những hệ tại thiết yếu đối với cuộc sống tự do dân chủ của người dân. Trong những dòng kế tiếp chúng ta sẽ có dịp đề cập đến điểm then chốt vừa kể cho cuộc sống Quốc Gia.

III - Cơ Quan Tư Pháp và Quốc Hội.

Qua phần trình bày trên, chắc chắn nhiều người sẽ đưa ra thắc mắc: quốc Hội Anh như vừa kể, hành xử quyền kiểm soát và định hướng chính của mình để bênh vực quyền lợi của dân chúng và mưu cầu lợi ích cho đất nước. Cơ quan Tư Pháp (Tòa Án) cũng dùng luật pháp để bênh vực quyền lợi cho dân. Vậy thì đâu là sự khác biệt giữa cơ quan Tư Pháp và Quốc Hội?

a ) Như trên chúng đã có dịp trình bày, Hội Đồng Tư Vấn và Cơ quan Tư Pháp, những tổ chức Tiền Quốc Hội thời Trung Cỗ, là những cơ cầu do vua lập ra. Mặc dầu cũng có những tổ chức Tiền Quốc Hội cũng dùng vị thế của mình để bênh vực quyền lợi, sinh mạng và tài sản của dân, nhưng họ không phải là những tổ chức do dân bầu ra, nên họ không có tư cách đại diện cho dân.

Nói cách khác, Hội Đồng Tư Vấn khi đưa ra ý kiến về đường hướng chính trị hay luật pháp nào đó, thì ý kiến của Hội Đồng chỉ là ý kiến cá nhân hay cùng lắm cũng chỉ là ý kiến của một nhóm người đơn phương, họ không nhân danh dân chúng cử tri đã ủy thác nhiệm vụ cho họ để phát biểu ý kiến.

Ngược lại, Quốc Hội là một cơ chế dân cử. Tiếng nói của Quốc Hội là tiếng nói của dân chúng, phát biểu nguyện vọng của dân chúng. Quyết định của Quốc Hội là những quyết định nhân danh và thể hiện ý muốn của dân.

b ) Điểm khác biệt thứ hai là điểm khác biệt giữa Cơ Quan Tư Pháp và Quốc Hội. Cơ Quan Tư Pháp không làm ra luật (lập pháp). Tư Pháp chỉ dùng luật lệ đã có sẵn, được soạn thảo sẵn hoặc theo luật tự nhiên (lex naturalis) hoặc theo tập tục truyền thống (traditio) để xét xử.

Vị thẩm phán không làm ra luật (jus dare), mà chỉ giải thích và áp đụng luật (jus dicere) đã có sẵn theo tinh thần của luật pháp (secundum legem).

Trái lại, Quốc Hội (cơ quan lập pháp) với tư cách đại diện dân cử của mình, không những để kiểm soát Hành pháp (Vua, Chính Phủ), để bênh vực quyền lợi, phát biểu thể hiện ước vọng của dân chúng để định hướng đường lối chính trị của xứ sở qua việc ban hành những luật lệ mới. Dĩ nhiên Quốc Hội, trong lúc thi hành nhiệm vụ lập pháp của mình cũng dựa vào tinh thần luật lệ và tập tục đã có sẵn, nhứt là những nguyên tắc nền tảng của Hiến Pháp.

IV - Quốc Hội và Chính Phủ.

Qua tư tưởng vừa đề cập, chúng ta thấy rằng Quốc Hội Anh ở thế kỷ 17 là một cơ chế độc lập và tách biệt đối với Hành Pháp.

Quốc Hội là chiếc cầu gạch nối giữa Hành Pháp và dân chúng. Vị trí khởi thủy của Quốc Hội Anh lúc bấy giờ là ở phân nửa cầu. Quốc Hội không thuộc về khối dân chúng, mà cũng không phải là thành phần của Hành Pháp (Hoàng Gia).

Nhưng vị trí ban đầu đó dần dần không còn nằm ở chính giữa cầu nữa, nhất là Quốc Hội của các nước dân chủ ngày nay (và còn đặc biệt hơn nữa Quốc Hội ở các Quốc Gia Đại Nghị Chế). Càng ngày Quốc Hội càng xích sát gần về phía Hành Pháp, (trong Đại Nghị Chế, thường thì đa số lãnh đạo Hành Pháp cũng là đa số trong Quốc Hội, do đó mà Chính Phủ phải được đa số thành viên Quốc Hội tín nhiệm mới lãnh đạo được việc cai trị đất nước, cf. Anh quốc và Đại Nghị Chế). Thái độ vừa kể không có gì là khích lệ, nhứt là khi đất nước chỉ do một chính đảng lãnh đạo, như Đảng Cộng Sản ở Việt Nam chẳng hạn.

Như trên chúng ta đã nói, Quốc Hội được bầu lên để đệ đạt nguyện vọng của dân chúng đối với vua. Quốc Hội Anh đã hành xử tư cách đại diện của mình bằng cách kiểm soát hành động của Vua và cùng với Vua soạn thảo ra những luật lệ mới.

Vị thế khởi thủy đó của Quốc Hội Anh dần dần được Quốc Hội ở các Quốc Gia dân chủ hiện đại biến đổi. Quốc Hội hiện nay ở các nước dân chủ không những là cơ quan đại diện của dân chúng đối với Hành Pháp, mà còn là tiếng nói của Chính Phủ trước dân chúng theo đường lối chính trị của Chính Phủ (dĩ nhiên là đã được Chính Phủ và Quốc Hội thỏa thuận trước khi soạn thảo chương trình và luật pháp). Nhiệm vụ của quốc Hội hiện thời là nhiệm vụ lưỡng diện.

Một mặt Quốc Hội là cơ chế dân cử, nên nhiệm vụ trước tiên của Quốc Hội là đại diện cho dân chúng, nói lên tiếng nói của dân đối với cơ quan Hành Pháp.

Đàng khác Quốc Hội cũng có nhiệm vụ nói lên đường hướng chính trị, hướng đi của Quốc Gia nhằm mưu ích cho toàn dân. Do đó những quyết định luật pháp của Quốc Hội phải luôn luôn quan tâm đến nhu cầu chung của quốc Gia. Với vị trí vừa kể, Quốc Hội khó mà giữ được vị trí phân hai giữa dân và Chính Quyền. Đối với nhiều quyết định, Quốc Hội đã nhiều lần mặc nhiên trở thành cơ cấu nội tại của Chính Quyền. Quốc Hội đầu tiên của Anh Quốc và những quốc Hội kế tiếp đối thoại, tranh cãi với Chính quyền để bảo vệ dân. Quốc Hội của nhiếu quốc Gia hiện đại là cơ quan quyền lực của Chính quyền, là bình phong cho tư cách hợp pháp các hành động của Chính Quyền.

Tình trạng càng trở nên nghiêm trọng hơn khi Chính Quyền lũng đọan, mua chuộc được Quốc Hội. Ở hầu hết các nước dân chủ hiên đại, các chính đảng chiếm đa số đương quyền cũng là những chính đảng chiếm đa số trong Quốc Hội. Do đó ý muốn của chính đảng đương quyền cũng sẽ dễ dàng trở thành "hợp pháp", được Quốc Hội phê chuẩn.

Tiền liệu cho những điều bất trắc có thể xảy ra như vừa kể, Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức đặt nặng vai trò của Viện Bảo Hiến, quyền can thiệp hữu hiệu của Chính Quyền các Tiểu Bang và giao cho thành phần thiểu số đối lập ngay trong Quốc Hội Liên Bang có thực quyền can thiệp vào tính các hợp hiến hay vi hiến của các đạo luật có thể được giới Hành Pháp Liên Bang soạn thảo và được Hạ Viện Liên Bang (Bundestag) "bồ nhà" có thể "chuẩn y, nhất trí" với phe nhóm đa số đương quyền (Điều 93, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức, Cfr. Quốc Hội Cộng Hoà Liên Bang Đức, Cơ Chế Chống Độc Tài và Bất Ổn).

V - Nhiệm vụ của Quốc Hội.

Qua những dòng vừa kể, mặc nhiên chúng ta đã đề cập đến nhiệm vụ của Quốc Hội.
Những nhiệm vụ trên được Walter Bagehot liệt kê như sau:

1 - Nhiệm vụ đại diện cho dân chúng.
2 - Kiểm soát luật pháp.
3 - Kiểm soát và hướng dẫn đường lối chính trị Quốc Gia.
4 - Chọn lựa đúng đắn một Chính Phủ để điều hành Quốc Gia (Walter Bagehot, The English Constitution, London, Eyre and Spottswoods, 1959,322).

Walter Bagehot cho rằng nhiệm vụ quan trọng nhứt của quốc Hội là làm sao chọn lựa đích đáng cơ chế Hành Pháp để điều hành Quốc Gia. Nếu Quốc Hội lựa chọn được Chính quyền xứng đáng, thì nhiệm vụ kiểm soát luật pháp cũng như hướng dẫn đường lối chính trị quốc Gia sẽ giảm bớt đi.

Trong khi đó thì dường như kinh nghiệm thường nhật cho chúng ta những dữ kiện ngược lại. Người ta có cảm tưởng là nhiều Quốc Hội hiện tại có khuynh hướng "bất tín nhiệm" để cản trở, truất phế Chính Phủ hơn là cũng cố.

Dưới đây chúng tôi xin đơn cử một vài ví dụ về nhiệm vụ của Quốc Hội Ý đối với Chính Phủ, điển hình vai trò Quốc Hội trong một thể chế dân chủ.

Trước hết sau cuộc bầu cử và được Tổng Thống bổ nhiệm, Thủ Tướng và Nội Các Chính Phủ phải được Quốc Hội Lưỡng Viện bỏ phiếu tín nhiệm mới được hoàn toàn giao phó quyền hành xử quyền lực quốc Gia:

- "Trong vòng 10 ngày sau khi thành lập, Chính Phủ phải được Lưỡng Viện Quốc Hội bỏ phiếu tín nhiệm" (Điều 94, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
- Và Quốc Hội (Thượng cũng như Hạ Viện) chỉ cần có 1/10 số dân biểu tỏ ý bất tín nhiệm, có thể đưa ra bàn cãi để thu hồi sự tín nhiệm trên bất cứ lúc nào (Điều 94, id.).
- Quốc Hội có nhiệm vụ và quyền chuẩn y hay bác bỏ ngân sách Quốc Gia hàng năm: "Quốc Hội chuẩn y mỗi năm ngân sách quốc gia do chính phủ đề ra.."

Và một khi đạo luật về ngân sách được chuẩn y, chính phủ không có quyền tăng thêm thuế và ngân sách chi tiêu tùy ý Điều 81, id.).

Quốc Hội có quyền tuyên bố tình trạng chiến tranh cũng như cho phép Chính Phủ ký kết các thỏa ước quốc tế (Điều 78 và 80, id.).

- Và một trong những quyền hạn quan trọng là Quốc Hội có thể hạch hỏi và điều tra Chính Phủ bất cứ lúc nào mà Quốc Hội cho là cần phải can thiệp (Điều 82, id.).

Hiện nay chúng ta có khuynh hướng và theo ngôn ngữ thông dụng gọi Quốc Hội là cơ quan Lập Pháp.

Thật ra khi chúng ta chọn các vị đại biểu vào Quốc Hội, chúng ta không chọn họ theo tiêu chuẩn là họ có khả năng "làm ra luật" hay không, mà là có cùng chí hướng với chúng ta, có khả năng đại diện chúng ta hay không.

Nhiệm vụ chính của Quốc Hội Anh lúc đầu không phải là "làm ra luật" (lập pháp), mà là "chuẩn y hay bác bỏ" dự án luật. Đọc lại nguyên bản của điều kiện Quốc Hội:

"Sự đóng góp ý kiến, sự đồng thuận... và phải được Quốc Hội cho phép", chúng ta sẽ thấy rằng nhiệm vụ chính của Quốc Hội là chuẩn y hay bác bỏ dự án luật sắp được công bố.

Dĩ nhiên có nhiều phương cách để chuẩn y hay bác bỏ. Có thể có loại chuẩn y "nhắm mắt ký đại", hay nói theo ngôn ngữ của thời Việt Nam Cộng Hoà là làm "nghị gù, nghị gật".

Nhưng cũng có cách chuẩn y bằng cách duyệt xét kỹ lưỡng, đưa ra những phán đoán cân nhắc điều khoản nào nên giữ, điều nào cần bị cắt bỏ, thêm bớt sửa đổi để đạo luật thành đường lối chính trị Quốc Gia: "phải có sự đóng góp ý kiến, sự đồng thuận...và được Quốc Hội cho phép" là vậy.

Nhưng đù là đóng góp ý kiến, đồng thuận,... cho phép, nhiệm vụ chính của Quốc Hội không phải là lập pháp (làm ra luật), mà là góp ý kiến, chuẩn y hay bác bỏ luật. Như vậy Lập Pháp không có nghĩa là làm ra luật, mà "làm thế nào để luật được ban hành là một đạo luật hữu lý và có lợi cho quốc gia". Bởi lẽ khi chúng ta chọn dân biểu vào Quốc Hội chúng ta không đòi buộc họ phải có Cữ Nhân hay Tiến Sĩ Luật, có khả năng chuyên môn để làm luật, soạn thảo luật.

Vấn đề "soạn thảo luật" sẽ được giao cho một ủy ban chuyên môn có trách nhiệm soạn thảo chớ không phải Quốc Hội.

Chúng ta cần chú ý đến tư tưởng vừa kể về nhiệm vụ của Quốc Hội là chuẩn y hay bác bỏ luật cũng như hướng dẫn đường lối chính trị quốc gia bằng luật pháp. Đi ra ngoài nhiệm vụ chính yếu vừa kể, Quốc Hội có thể rơi vào cạm bẩy của danh từ Lập Pháp (làm luật), nhứt la khi Quốc Hội xích lại gần Hành Pháp, nhất cử nhất động của Chính Phủ đều được Quốc Hội làm ra luật. Quốc gia sẽ tràn đầy luật; luật lớn, luật nhỏ, luật con, luật cháu.., thay vì Quốc Hội đứng biệt lập với Hành Pháp để chuẩn y hay bác bỏ, duyệt xét và hạn chế, sửa đổi để Hành Pháp không được đưa ra những dự án, quyết định tùy hỷ.

Người Roma trong thời cực thịnh của đế quốc họ đã đưa ra nhận xét:
"Khi nào luật pháp (jus) bị hoàn toàn tuỳ thuộc vào ý muốn tự tiện của những ai muốn làm ra luật (jussum, để ra lệnh), thì luật pháp sẽ mất đi mọi tính cách công bình của nó (justum)" (G. Sartori, Elementi di teoria politica, Bologna, Il Mulino, 1990,244).

Câu nói vừa kể gợi cho chúng ta nhớ lại một trong những tư tưởng then chốt của Quốc Hội: Quốc Hội là một cơ quan chính trị của Quốc Gia, biệt lập và độc lập đối với Hành Pháp.

Trong một nước dân chủ thực sự, luật pháp muốn có hiệu lực và công bằng phải được Cơ Quan "Chuẩn Y hay Bác Bỏ" tách rời khỏi Hành Pháp quyết định, để giữ mức thăng bằng và giới hạn quyền lực của Hành Pháp đối với dân chúng.

Một ngày nào đó Quốc Hội không còn biệt lập và độc lập đối với Hành Pháp để "chuẩn y hay bác bỏ", như trong thể chế "Đảng Lãnh Đạo, Nhà Nước quản Lý, Dân Làm Chủ", làm chủ với hai bàn tay trắng, không còn một tất quyền lực trong tay, chúng ta chỉ còn sống trong một Quốc Gia, trong đó quyền Hành Pháp (nhứt là hành pháp theo lệnh lãnh đạo của Đảng) thao túng áp đặt trên đầu chúng ta những gì họ thích.

Quốc Hội là một cơ quan phân quyền trong một nước dân chủ là vậy.

Nguồn: http://www.lenduong.net




Quốc Hội và Chính Quyền Trong Hiến Pháp Dân Chủ

 Nguyễn Học Tập

"Việc hành xử quyền lập pháp không thể được ủy thác cho Chính Quyền, nếu không với những nguyên tắc và tiêu chuẩn định hướng, chỉ trong thời gian giới hạn và các đối tượng được xác định".

Chúng tôi vừa trích dẫn điều 76 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc, liên quan đến mối tương giao đúng đắn phải có trong thể chế Dân Chủ, giữa hai quyền lực Quốc Gia, Lập Pháp và Hành Pháp.
Quyền lập pháp là quyền của Quốc Hội.
Quốc Hội là cơ quan dân cử, chính danh đại diện ý muốn của dân chúng trong cuộc sống thường nhật của Cộng Đồng Quốc Gia.
Luật pháp, được Quốc Hội "lập ra" hay đúng hơn được sinh ra qua tiến trình "chuẩn y hay bác bỏ" của Quốc Hội là dụng cụ tiên khởi để thực hiện đường lối chính trị Quốc Gia.
Kết quả của tiến trình "chuẩn y hay bác bỏ" đó của Quốc Hội, luật pháp được "lập ra" để xác định và thực hiện, bảo đảm và thăng tiến các quyền của cá nhân người dân, cũng như lợi ích của cuộc sống chung Cộng Đồng Quốc Gia.
Trong cuộc sống thường nhật và liên tục, luật pháp do Quốc Hội "chuẩn y hay bác bỏ" được "lập ra" để đáp ứng lại nhu cầu và ước vọng của dân chúng, của Cộng Đồng Quốc Gia, đáp ứng lại tình thế biến chuyển của cuộc sống.
Quyền lập pháp là quyền của Quốc Hội, quyền thực hiện luật pháp là thẩm quyền của Chính Quyền.
Điều 76 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc vừa kể cho thấy quyền lập pháp của Quốc Hội có thể được ủy tác cho Chinh Quyền (Hành Pháp) với một số điều kiện được Hiến Pháp tiền liệu đưa ra để giới hạn.
Điều vừa kể cho thấy quyền Lập Pháp là quyền thường nhiệm tự nhiên của Quốc Hội, Chính Quyền được giao cho hành xử quyền Lập Pháp của Quốc Hội là hành xử quyền hành trong một ít trường hợp bất thường và phải tuân giữ những giới hạn không thể vượt qua được Hiến Pháp tiền liệu, tiền liệu để bảo đảm nguyên tắc phân quyền cho Thể Chế Dân Chủ, nền tảng của tổ chức Cộng Đồng Quốc Gia.

Luật pháp được Quốc Hội "chuẩn y hay bác bỏ" lập ra là dụng cụ tiên khởi và thông thường để xác định, bảo vệ, thực hiện và phát huy triển nở quyền và tự do của người dân trong cuộc sống Cộng Đồng Quốc Gia:
- "Nền Cộng Hoà nhận biết và bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân hay con người như thành phần xã hội, nơi mỗi cá nhân triển nở con người của mình và đòi buộc chu toàn các bổn phận liên đới không thể thiếu trong các lãnh vực chính trị, kinh tế và xã hội" (Điều 2, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
- "Bổn phận của Nền Cộng Hoà là dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội, là những chướng ngại, trong khi giới hạn thật sự tự do và bình đẳng của người dân, không cho phép mỗi người được triển nở hoàn hảo con người của mình và tham gia thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở"
(Điều 3, đoạn 2, id.).

Với những mục đích vừa kể của tổ chức Quốc Gia, được Hiến Pháp nêu ra "...mỗi người được triển nở hoàn hảo con người của mình và tham gia thiết thực vào tổ chức chinh trị, kinh tế và xã hội của xứ sở", luật pháp được Quốc Hội "lập ra" là những dụng cụ tiên khởi để thực hiện lý tưởng và ước vọng được ghi trong Hiến Pháp.
Luật pháp còn được xem là những dụng cụ "thông thường" để bảo vệ, thực thi và phát huy quyền và tự do của con người, mỗi cá nhân cũng như lợi ích chung của cuộc sống Cộng Đồng Quốc Gia, so với Hiến Pháp là dụng cụ "bất thường", được soạn thảo ra chối bỏ định chế phi nhân độc tài trước đó của Phát Xít Benito Mussolini và mở rộng một tương lai sáng lạn hơn cho con người trong Thể Chế Dân Chủ mới của dân chúng Ý (R. Guastini, Le fonti di diritti e interpretazione, Trat. dir. priv. Judica e Zatti, Milano 1993, 149s).

I- Quyền lập pháp hạng hai của chính quyền

Qua những gì vừa được bàn đến, quyền Lập Pháp là quyền của Quốc Hội và quyền thực hiện luật pháp, áp dụng luật pháp hay Hành Pháp là quyền đặc thù của Chính Quyền.
Chính Quyền có quyền và nhiệm vụ thực hành các đạo luật đã được Quốc Hội "chuẩn y hay bác bỏ" lập ra trước.
Nói cách khác, qua các đạo luật được lập ra, Quốc Hội đã đưa ra đường lối chính trị Quốc Gia và chỉ thị cho Chính Quyền phải thực hiện. Như vậy, Hành Pháp là thực hiện đường lối chính trị Quốc Gia, được Quốc Hội đề ra và chỉ định qua các đạo luật đã được soạn thảo.
Đó là những đạo luật ở cấp một, những đạo luật được Quốc Hội "lập ra". Nhưng như tục ngữ người Ý có câu: "Tra parlare e fare, c’è di mezzo il mare!" (Giữa nói và làm, còn có cả một đại dương!).

Như vậy, muốn thực hiện các đạo luật của Quốc Hội vào hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của xứ sở, đối nội cũng như đối ngoại, và nhứt là trước những hoàn cảnh thay đổi, Chính Quyền cần giải thích sao cho thích hợp với hoàn cảnh và thích ứng các chỉ thị tổng quát được đạo luật của Quốc Hội chỉ định vào hoàn cảnh và thời điểm cá biệt, cũng như phương thức thích hợp phải được áp dụng, làm cách nào để
- "Các cơ quan công quyền phải được tổ chức theo các chỉ thị của luật pháp, tổ chức thế nào để bảo đảm được hiệu năng và không thiên vị của nền hành chánh" (Điều 97, đoạn 1 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).

Để giải thích và thích ứng các đạo luật chỉ thị tổng quát của Quốc Hội, Chính Quyền phải viết thành văn bản những quy tắc (normes), có hiệu lực luật định hạng hai, dựa theo và bên dưới các điều khoản luật được Quốc Hội lập ra trước đó.

Các quy tắc được Chính Quyền soạn thảo ra được gọi là những đạo luật hạng hai, đối luật pháp của Quốc Hội. Và dĩ nhiên trong một Thể Chế Dân Chủ, theo nguyên tắc phân quyền, các quy tắc của Chính Quyền soạn ra để áp dụng không thể nào là:
- những điều khoản luật triển hạn hoặc xóa bỏ các đạo luật hiện hành của Quốc Hội,
- những quy tắc có hiệu lực luật định, nếu các quy tắc đó không nằm trong khuôn khổ quyền hạn và mục đích đã được luật pháp của Quốc Hội hay các điều khoản của Hiến Pháp xác định (Pietro Perlingieri, Commento alla costituzione italiana, ed. Scientifiche Italiane, Napoli 2001, 519).

Nói như vậy, không phải là Chính Quyền của Thể Chế Dân Chủ được Hiến Pháp khoán trắng cho muốn giải thích, thích ứng ra quy tắc, sắc luật thế nào tùy hỷ, mà các quy tắc hay sắc luật đó phải được một đạo luật Quốc Hội ủy thác cho và không thể đi ra ngoài hay đi ngược lại các đạo luật hiện hành của Quốc Hội (E. Palici si Suni, La regola e eccezione: Istituzioni parlamentari e potestà normative dell’esecutivo, Giuffré, Milano 1988).

Và đó là những gì đã được Hiến Pháp xác định:
- "Chính Quyền không được, nếu không có sự ủy quyền của Quốc Hội, ban bố các sắc luật có hiệu lực luật định của đạo luật thông thường" (Điều 77, đoạn 1, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc). Những gì vừa kể,
- * không được triển hạn hoặc xoá bỏ các đạo luật hiện hành,
- * không được vượt ra ngoài khuôn khổ, mục đích được luật pháp và Hiến Pháp xác định,
- * mỗi sắc luật hay quy tắc của Chính Quyền ban ra phải được một đạo luật ủy thác của Quốc Hội cho phép trước, cho thấy Hiến Pháp đã tiền liệu quyền soạn thảo và ban bố sắc luật có hiệu lực luật định của Chính Quyền không thể "xâm phạm, lấn đất, dành quyền" của Quốc Hội, cơ quan dân cử, là tiếng nói đại diện cho ý muốn của dân chúng trong cuộc sống đất nước. Dân Chủ là vậy! Dân chủ không phải ai muốn làm gì thì làm, mà là mỗi người, mỗi đoàn thể, mỗi cơ chế tự do sống và hành xử trong lằn mức hiến định và luật định của mình.
Các vị soạn thảo Hiến Pháp 1947 Ý Quốc không thể thả lỏng cho Chính Quyền "giải thích, thích ứng" luật pháp và áp dụng cách nào tùy hỷ bằng các sắc luật, nghị định, quy tắc.

Tình trạng Benito Mussolini giải thích luật pháp và áp dụng tùy hỷ, ở Ý ai cũng nghe nói đến, bởi đó trên đầu môi chót lưỡi của họ, họ luôn luôn khuyên chúng ta phải thận trọng:
- "Fatta le legge, fatti gli inganni!" (Đạo luật được thảo ra, là các thủ đoạn lường gạt đã được dọn sẵn!).
Quyền "làm ra luật" của Chính Quyền phải được Quốc Hội cho phép (đạo luật ủy thác) và Quốc Hội luôn luôn có Ủy Ban Điều Tra đối với cách hành xử, nội dung và lằn mức các sắc luật của Chính Quyền. Ủy Ban đó có thẩm quyền của một Ủy Ban Tư Pháp:
- "Ủy Ban Điều Tra Quốc Hội tiến hành điều tra và và tìm hiểu có cùng quyền hạn và giới mức như là một cơ quan tư pháp" (Điều 82, đoạn 2, id.)
(L. Calassare, Regolamenti dell’esecuvito e principio di legaltà, Cedam, Padova 1966, 288).

Quốc Hội của Đảng và Nhà Nước Dân Chủ CHXHCNVN nhà mình có bao giờ biết thiên hạ trên thế giới hành xử như vừa kể không?
Hỏi đế mượn ý cho Quốc Hội mình, tự xét lương tâm xem mình có phải là đại diện cho dân, tiếng nói của dân và vì dân kiểm soát cả cách hành xử luật pháp và lập luật của Chính Quyền không.
Nếu Quốc Hội của Đảng và Nhà Nước nhà mình không hành xử như Quốc Hội một Quốc Gia dân chủ, thì Quốc Hội mình ngồi đó để làm gì?


II- Quyền lập pháp hạng nhứt của chính quyền

Chúng ta vừa đề cập đến quyền lập pháp của Chính Quyền, được soạn thảo ra các quy tắc (norme), sắc luật (decreti legislativi) là những văn bản giải thích và thích ứng với môi trường và hoàn cảnh để áp dụng các đạo luật của Quốc Hội, định hướng đường lối chính trị Quốc Gia. Các quy tắc, sắc luật được gọi là những văn kiện luật pháp hạng hai, so với các đạo luật Quốc Hội, bởi lẽ là những lối giải thích và thích ứng để áp dụng các đạo luật đã được Quốc Hội "lập pháp", "chuẩn y hay bác bỏ" cho nẩy sinh ra trước. Nhưng quyền "lập pháp" của Chinh Quyền không phải chỉ có vậy.
Hiến Pháp cũng tiền liệu trong một ít trường hợp, Chính Quyền cũng có thể tự mình đứng ra "làm ra luật" để áp dụng, đáp ứng với tình thế đòi buộc, bởi lẽ tiến trình "lập pháp" thông thường của Quốc Hội là tiến trình lâu dài, không giải quyết được nhu cầu cấp bách của tình thế, cũng như nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến các lãnh vực chuyên môn, Quốc Hội không có đủ khả năng giải quyết. Đó là các trường hợp Quyền Lập Pháp Hạng Nhứt cửa Chinh Quyền.
Hạng Nhứt, bởi vì các sắc luật (decreti leggislativi) để giải quyết các vấn đề chuyên môn hay sắc lệnh (decreti legge) để giải quyết các vấn đề khẩn cấp không tùy thuộc vào một điều khoản luật thông thường nào khác đã được Quốc Hội "lập ra" trước đó. Nhưng dù sao đi nữa, muốn được thẩm quyền soạn thảo ra sắc luật hay sắc lệnh, Chính quyền cũng phải hội đủ những điều kiện hiến định.
- * đối với các vấn đề phức tạp trong cuộc sống thường nhật, mà Quốc Hội không có khả năng hiểu biết chuyên môn để có thể soạn thảo ra đạo luật để thi hành. Hoặc do chính Quốc Hội, hoặc theo lời yêu cầu của Chính Quyền, Quốc Hội sẽ đề thảo ra một đạo luật ủy nhiệm (legge di delega), được đa số thành viên Quốc Hội chấp nhận, ủy nhiệm cho Chính Quyền soạn thảo sắc luật để giải quyết vấn đề liên hệ.

Dĩ nhiên là đạo luật ủy nhiệm phải hàm chứa các
- "nguyên tắc và tiêu chuẩn hướng dẫn, thời gian giới hạn và mục tiêu được xác định" (Điều 76, id.), như chúng ta đã trích dẫn ở đầu bài viết.
Và chắc chắn sắc luật được Chính Quyền đề thảo ra cũng sẽ không thể đi ra ngoài các lằn mức hạn định vừa kể, nếu không muốn bị Viện Bảo Hiến xem là đạo luật vi hiến và trở thành vô hiệu.

- * kế đến trong trường hợp khẩn trương Chính Quyền có thể đề thảo ra những sắc lệnh (decretti legge), không cần đợi có được đạo luật ủy nhiệm của Quốc Hội. Tuy nhiên, sắc lệnh đó phải được Quốc Hội biến cải thành luật trong vòng 60 ngày. Và đó là những gì được tuyên bố ở điều 77:
- "Trong trường hợp cần thiết và khẩn cấp, Chính quyền có thể dùng các nghị định tạm thời có hiệu lực luật định, do chính mình chịu trách nhiệm, nhưng trong cùng ngày được công bố, Chính Quyền phải đệ trình các phương thức tạm thời đó trước Quốc Hội để được Quốc Hội hoán chuyển thành đạo luật. Trong thời gian năm ngày, dầu cho Quốc Hội đã bị giải tán, Quốc Hội cũng sẽ được triệu tập và nhóm họp lại. Các nghị định tạm thời đó ngay từ đầu đã mất hiệu lực, nếu không được hoán chuyển thành luật trong vòng 60 ngày, kể từ ngày được công bố" (Điều 77, đoạn 1 và 2, id.).

Qua những gì vừa kể, Chính Quyền muốn có được thực quyền hiến định để "làm ra luật",
- phải được đạo luật ủy nhiệm của Quốc Hội để đề thảo ra sắc luật, trong thời gian thông thường,
- sắc luật được soạn thảo phải tuân theo lằn mức hiến định,
- và sắc lệnh được soạn thảo phải được Quốc Hội hoán chuyển thành luật trong vòng 60 ngày.

Điều đó cho thấy trong Thể Chế Dân Chủ không có cách hành xử "lưỡng đầu chế" (bicefalismo) hay (dualismo) của hai trung tâm quyền lực lập pháp.

Hiến Pháp 1947 Ý Quốc, trong lãnh vực lập pháp, đặt Chính Quyền trực thuộc và dưới quyền giám định của Quốc Hội với
- * "đạo luật ủy nhiệm" (điều 76),
- * "phải được Quốc Hội hoán chuyển sắc lệnh thành đạo luật trong vòng 60 ngày" (điều 77),
- * "bị đặt dưới quyền kiểm soát của Ủy Ban Điều Tra Quốc Hội, có thẩm quyền bắt buộc thẩm vấn, yêu cầu trưng chứng cớ và tố cáo, tuyên án phạm pháp, bất tín nhiệm như là một cơ quan tư pháp" (điều 82, đoạn 2).

Thể Chế Dân Chủ là thể chế đặt trọng tâm thượng đẳng xây dựng Quốc Gia trên nền tảng Quốc Hội, cơ quan dân cử, là tiếng nói phát biểu lý tưởng và ước vọng của người dân. Nhiệm vụ lập pháp, định hướng đường lối chính trị Quốc gia là nhiệm vụ của Quốc Hội.
Nhiệm vụ thi hành luật pháp là nhiệm vụ của Chính Quyền. Chính Quyền chỉ được Hiến Pháp và luật pháp của Quốc Hội giao cho quyền lập pháp trong các trường hợp để bổ túc cho Quốc Hội và tùy thuộc vào Quốc Hội.
Giữa Quốc Hội và Chính Quyền, trong trách nhiệm và quyền hạn lập pháp, không có địa vị đồng đẳng, mà là địa vị của Chính Quyền tùy thuộc, bổ túc khi cần và trong giới hạn xác định.
Chính Quyền thi hành quyền lập pháp của mình, không phải là để bổ túc cho đường lối chính trị hướng dẫn Quốc Gia của Quốc Hội, cho bằng tạo ra những phương thức thực hiện chính hướng đã được Quốc Hội đề xướng (G. Zagrebbelsky, Il sistema delle fonti del diritto, Utet, Torino 1992, 162).

Cho đến một lúc nào đó, nếu Quốc Hội thấy mình không còn có đủ khả năng "lập pháp" để hướng dẫn đường lối chính trị Quốc Gia, bảo đảm quyền và tự do của người dân, Quốc Hội phải nhận thức tự lương tâm mình nên giải tán.
Chính Quyền không thể cho rằng mình có thể thay thế Quốc Hội trong nhiệm vụ "lập pháp" để lo cho dân. Một Chính Quyền vừa lập pháp vừa hành pháp tùy hỷ là Chính Quyền độc tài, Mussolini cũng đã hành xử không khác gì.

Đạo luật Hiến Pháp của điều 76 đang bàn đặt giới hạn bắt buộc Quốc Hội hành xử trong lằn mức không thể thiếu, khi soạn thảo và tuyên bố đạo luật ủy nhiệm giao cho Chính Phủ quyền lập pháp trong một vài trường hợp cá biệt nào đó: "với các nguyên tắc, tiêu chuẩn hướng dẫn, thời gian giới hạn và mục dích xác định" (điều 76).

Lằn mức bắt buộc đó đối với Quốc Hội, giảm thiểu tự do của Quốc Hội, nhưng đồng thời cũng là phương thế bảo vệ Quốc Hội và bảo chứng quyền và tự do của dân chúng. Quốc Hội không thể khoán trắng, giao đại, ủy nhiệm thả cửa cho Hành Pháp, khiến Quốc Hội không còn một tấc quyền trong tay và Chính Quyền biến thành Chính Quyền Phát Xít độc tài Mussolini, soạn thảo và hành xử luật lệ tùy hỷ lên đầu lên cổ dân chúng.
Đạo luật ủy nhiệm của Quốc Hội không hàm chứa nội dung được điều 76 nêu lên, là đạo luật tự nó đã vi hiến và từ đó kéo theo các cách hành xử của Chính Quyền được đạo luật ủy nhiệm cho phép cũng là những cách hành xử vi hiến, từ sắc luật đến áp dụng (L. Paladin, Commento all’ art 76 della costituzione, in Commentario della costituzione, a cura di G. Branca, Zanichelli, Bologna 1979, 5).

Và tính cách vi hiến hay hợp hiến đó, không phải Quốc Hội tự mình đứng ra phán quyết, cũng không phải do Chính Quyền thoả thuận với Quốc Hội đứng ra ếm nhẹm, mà là do Viện Bảo Hiến, "cơ quan đứng giữa và đứng trên", được Hiến Pháp thiết lập để công minh bảo vệ Thế Chế Dân Chủ và bảo vệ người dân:
- "Viện Bảo Hiến phán quyết * về những mối bất đồng liên quan đến tính cách hợp hiến của các đạo luật, nghị định, sắc luật có hiệu lực luật định của Quốc Gia hay của các Vùng,
* về những mối tương phản giữa các quyền lực Quốc Gia, * về những tranh chấp giữa tổ chức Quốc Gia và các Vùng cũng như giữa các Vùng với nhau
(Điều 134, đoạn 1 2 và 3 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).

Và với những quyền được Hiến Pháp giao phó vừa kể, Viện Bảo Hiến đã không ngần ngại cho là vi hiến, đặt ngoài vòng pháp luật đạo sắc lệnh số 400/1988 của Chính Phủ Ý lúc đó. Sau 60 ngày công bố, không được Quốc Hội đồng thuận chấp nhận hoán chuyển thành đạo luật, Chính Phủ thu hồi để rồi sau đó lại sao ý bản chính đệ trình, xin Quốc Hội triển hạn cứu xét. Đó là lối hành xử quanh co, bất chính và vi hiến, ngược lại những gì đã được Hiến Pháp xác định lằn mức ở điều 77, chúng ta vừa trích dẫn ở trên.
Chính Phủ có nhiệm vụ thi hành luật pháp và có thể xử dụng quyền lập pháp, tùy thuộc vào Quốc Hội và trong các lằn mức và điều kiện không thể vượt qua, được Hiến Pháp ấn định.
Thể Chế Dân Chủ của các Quốc Gia Tây Âu gìn giữ một cách tôn kính sự lựa chọn vừa kể được Hiến Pháp tuyên bố.
Quyền lập pháp của Chính Quyền tùy thuộc vào Quốc Hội bảo đảm cho thể chế dân chủ được xây dựng trên quyền tối thượng của người dân: Quốc Hội là cơ quan dân cử, tiếng nói đại diện cho người dân, chủ nhân quyền tối thượng Quốc Gia (A. Cerri, Delega legislativa, in Enc. dir., Treccani, vol X, Roma 1988, 2).
Dân Chủ là vậy!
Dân Chủ không phải chỉ tuyên bố mà có, mà còn phải tiền liệu các phương thức cần thiết để thực hiện và bảo đảm, tránh độc tài và lạm dụng.


Nguồn: http://www.lenduong.net


Lấy Nhân Tâm làm phương tiện, dụng Dân Tâm làm quốc sách: "An Dân & Lạc Quốc" là kim chỉ nam cuả thể chế Dân Chủ Văn Hiến.




Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Tham Luận: Quốc Hội
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email: thuky@vietnamvanhien.net


Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến những biên khảo, sáng tác và ý kiến của quý vị và các bạn nhằm mục đích bảo tồn di sản văn hóa. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống văn hiến hầu phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ"ngàn đời của Việt tộc.