![]() Năm Thứ 4888 www.vietnamvanhien.net ![]() Trang Tham Luận QUỐC SÁCH
![]() Chính sách
phục quốc và kiến quốc.
Sơn Hà
Ngày 07-03-2009, giờ 05:45 Nếu ai đã có nghiên cứu
về nguồn gốc văn hoá Việt thì có lẽ đã biết truyện
"gậy thần 9 đốt" của thần Thái Bạch với "sách ước
3 trang" của thần Tiểu Long tặng cho tiều phu Kỳ
Mạng để cứu nhân độ thế. "Sách ước" với "gậy thần"
đó là ý nghĩa nền tảng của Tinh Hoa Văn Hoá Việt,
là Minh Triết và cũng là Đạo Việt, còn gọi là Đạo
Trời mà cũng chính là Đạo Nhân tức là Đạo làm
người.
Vì vậy muốn phục quốc và kiến quốc cần phải có "chính sách" đó là "sách ước" với "gậy thần" tức là "chủ đạo". Nên chữ "sách" hàm ý là quy luật điển chương, và cũng có nghĩa như "quy củ". Mà hễ nói quy củ nghĩa là theo mẫu mực, và mẫu mực chính là Tính Bản Nhiên mà cũng là Thiên mệnh chi vị Tính. Nên cuối cùng "chính sách" đó là Văn Hoá Dân Tộc. TẠI SAO CHÚNG TA CẦN PHẢI TRỞ VỀ VĂN HOÁ DÂN TỘC (Trích tác phẩm Việt Triết Nhập Môn của triết gia Kim-Định) Muốn hiểu thế nào là Văn Hoá Dân Tộc và tại sao chúng ta phải vận động cho sự lớn mạnh của nền văn hoá đó thì cần xét tới mấy yếu tố sau đây trước hết nên phân loại các thứ văn hoá để nhận diện nền văn hoá truyền thống, sau nói tới trình trạng hiện nay và khả năng hướng vọng tương lai thế nào. Có thể phân loại văn hoá ra ba loại chính và một loại tùy. Ba loại chính là tôn giáo, ý hệ và tâm linh, còn loại tùy là tập hợp cả ba loại trên. 1/ Loại thứ nhất là Văn Hoá tôn giáo. Như các xã hội cổ xưa hầu hết trải qua nền văn hoá này. Thí dụ rõ rệt là Âu Châu Trung cổ và các nước thuộc Ấn Độ giáo. Sở dĩ gọi là văn hóa tôn giáo vì các thể chế trong nền văn hóa này bao giờ cũng y cứ trên những niềm tin, thí dụ thể chế chia dân ra bốn lọai bên Ấn Độ: tăng lữ, chiến sĩ, thuơng gia và lao động là y cứ trên niềm tin rằng có những người sinh ra do Brahma và do đấy được xếp cao thấp tùy sinh ra bởi miệng, tay, bụng, chân của Brahma. Hễ sinh ra từ miệng thì làm tăng, bởi tay là quý tộc, bởi bụng là thương gia, v.v… Bên Âu Châu thời tiền cách mạng tôn giáo không còn mạnh bằng bên Ấn Độ nên phẩm trật xếp quý tộc trên giáo sĩ, rồi mới đến đệ tam cấp (noblesse, clergé, tiers état). Một nét khác đặc trưng của nền văn hóa này là thần quyền, tức niềm tin rằng mọi quyền cai trị đều phát xuất do nguồn gốc tôn giáo nên một là giáo sĩ trực tiếp cai trị, hai là ủy quyền cho thế quyền. Sự ủy quyền này thường được diễn ra bằng trao triều thiên, thí dụ khi vua đăng quang thì nhận triều thiên từ đại diện giáo quyền. 2. Lọai hai là văn hóa Ý hệ hay là Triết học. Ý hệ thường là sự phản ứng lại niềm tin cho là vô lý hay ít ra không thể kiểm chứng, vì vậy người ta lập ra một nền văn hóa chống lại tôn giáo và thường có tính cách vô thần, thí dụ rõ nhất là ý hệ Mác xít. Cũng có khi không do óc bài tôn giáo, nhưng vì ích lợi quốc gia, thí dụ để tránh những xích mích do các tôn giáo cùng sống trong một nước thì người ta nghĩ đến việc thiết lập một nền tảng dân sự hay là độc lập y cứ trên những cái mọi người có thể kiểm chứng như sự kiện khách quan và lương tri, thí dụ một số lớn văn hóa Âu Châu hiện đại. 3. Lọai ba là văn hoá Tâm linh Văn hóa tâm linh là lọai tham bác cả tôn giáo lẫn triết học. Nó giống triết học vì căn cứ trên những yếu tố mà lý trí có thể kiểm chứng hay ít ra có khả năng thể nghiệm được. Tuy nhiên lại giống tôn giáo vì nó vẫn dùng cả tình cảm và ý chí đến cùng tột gọi là tâm linh nên sâu hơn triết và vì thế giàu khả năng thống nhất con người như kiểu tôn giáo. Lọai này vì giàu yếu tố tâm linh có tính chất siêu việt nên tôi cũng gọi là Minh Triết (Sagesse) tức là tinh hoa của triết lý nhân sinh. Gọi là triết lý tức là triết học gắn liền với Minh Triết nên ăn vào đời sống. Bởi thế cũng gọi là triết lý nhân sinh để phân biệt với triết học thường chỉ là chuyện trường ốc hàn lâm. Như thế đây là lọai văn hóa rất cao quý. Và xin nói ngay rằng Việt Nho đã đạt được trình độ này. Dấu hiệu là sự phân công: "sĩ, nông, công, thương", khác với Âu, Ấn chỉ có "tăng, quý, dân" mà không có sĩ đại diện cho tâm linh. Vì sĩ không phải như trí thức chuyên chú về lý trí, giáo sĩ chuyên về tình cảm, còn kẻ sĩ thì chú ý đến cả lý cả tình. Vì thế đó là nét đặc trưng ít có ở nơi khác; ngòai Nho giáo nguyên thủy thì Âu hay Ấn đều đang vương vấn nơi tôn giáo hay ý hệ. Nhưng vì cả hai không ổn nên gây ra một lọai văn hóa thứ tư. Đó là lọai pha tạp ba lọai ảnh hưởng của tôn giáo, ý hệ và công cảm hay lương tri. Lọai này đã muốn vượt ra khỏi vòng tay tôn giáo, nhưng về triết mới đạt đợt ý hệ mà bất lực như đã nói trên nên phải dùng công cảm (le sens commun) cũng gọi là lương tri (le bon sens) hoặc là công luận (hậu quả của luơng tri) cả ba đều là những khía cạnh của một bình diện trí thức thông tục ban ra cho con người xài đỡ, nhất là trong việc sinh sống với chiều hướng thông thường biểu lộ bằng ca dao tục ngữ hay là minh triết thường dân, thường nghiệm (sagesse populaire or sagesse empirique). Nó tạm đủ cho đời sống hàng ngang trong xã hội, chứ không thể giải quyết được những vấn đề lớn lao như nguồn gốc vũ trụ, cứu cánh con người, những vấn đề thời gian không gian nên nhà Phật chỉ gọi là "tục đế" (cái biết thông tục), Nho không gọi là "lý trí". Vì không bao quát tòan thể con người gồm cả thân xác lẫn tâm linh. Bởi thế phải nói là nó thiếu hướng thiếu hồn, chỉ có tính cách chấp vá: chọn một ít luân lý của tôn giáo, với kinh nghiệm thông thuờng và một chút lý luận của triết học làm thành lọai văn hóa tạp nham, và đó là nền văn hóa Âu Mỹ hiện đại. Vì Âu Mỹ lãnh đạo thế giới nên nó cũng đang trở nên văn hóa của chung thế giới với nhiều sắc thái khác nhau tùy liều lượng các chất pha, nhưng đều gặp nhau ở chỗ bác tạp nông cạn, nên gây ra phân hóa trầm trọng khắp nơi. Đó là đại để bốn lọai văn hóa. Bây giờ xét sâu hơn về phương diện mục đích của văn hóa. Sứ mạng văn hóa là phải cải hóa bằng cảm hóa. Muốn thế cần có một chủ đạo, một cơ sở tinh thần với những giá trị nền tảng. Dấu hiệu của những cái đó là thống nhất và lâu dài. Vì thế ta có thể dùng sự thống nhất và lâu dài làm hai tiêu chuẩn đo lường sự xâu xa của một nền văn hóa. Một nền văn hóa càng được thống nhất và càng được bền lâu thì càng mạnh càng cao. Theo đó ta có thể nói như thế này. Xuyên qua lịch sử lòai người, ta chỉ nhận ra được có hai lọai văn hóa mạnh nhất: một là tôn giáo, hai là tâm linh. Vì cả hai hàm chứa một cái gì siêu việt nên huy động tòan thể con người, gây nên những văn hiến hay tôn hiến (tức tu sĩ) và cũng huy động tòan thể một nhóm người cấu kết với nhau, vì thế khi cần chọn văn hóa thì chỉ có thể tìm trong hai lọai này. Lọai tôn giáo có phần mạnh hơn nhưng gặp cái bất tiện là chỉ hiện thực được trong nước có một tôn giáo. Còn khi nước có đa giáo, 2, 3 trở lên, thì nền thống nhất văn hóa không thể thực hiện được nữa. Bởi vì tôn giáo nào cũng kéo theo một số tập tục riêng, thí dụ Hồi giáo không ăn thịt heo, Ấn giáo không ăn thịt bò. Có tôn giáo ăn chay, tôn giáo khác lại ăn mặn thả dàn. Đó là những tập tục tư riêng mà nếu không bỏ đi thì đấy là nguồn chia rẽ. Người xưa nói: "tính tương cận, tập tương viễn": khi người ta chú trọng đến tính con người thì sẽ thân cận hòa hợp với nhau. Còn khi chấp nê vào những tập tục thì sẽ chia lìa nhau. Đó là chân lý muôn thuở và đã hiện thực trải qua nhiều đời như thấy đầy gương trong lịch sử và hiện còn đang xảy ra đó đây như giữa Kitô giáo và Hồi giáo bên Phi Luật Tân (tỉnh Coxabato), bên Irlande từ mấy năm nay hai bên Công giáo và Tin lành không ngớt đánh nhau, bên dân Biafra ở Phi châu năm xưa giữa Công giáo và Cổ giáo, bên Ấn Độ giữa Ấn giáo với Hồi giáo… Tóm lại nếu đưa mắt nhìn xuyên qua lịch sử nhân lọai thì bao giờ cũng thấy nghi ngút khói chiến tranh tôn giáo, không bộc lộ thì âm ỉ… điều ấy chứng minh cho câu "tập tương viễn". Muốn thống nhất thì phải làm thế nào cho các tôn giáo từ bỏ những tập tục tư riêng kia, nhưng đấy cả là một điều diệu vợi vì những tập tục đó đã gắn liền với tôn giáo từ lâu nên được coi là linh thiêng hoặc như tín điều bất khả thay đổi, không dễ gì bỏ đi được như ta thấy rõ trong vụ giết bò cái đã làm xôn xao dư luận Ấn Độ năm xưa. Thế mà duy trì tập tục thì lại lạ mầm mống chia rẽ dân con trong nước, vì thế những người sáng suốt muốn để tôn giáo vào phạm vi riêng tư cá nhân, còn phạm vi quốc gia thì cốt phát huy một nền chủ đạo dân sự, tức độc lập với tôn giáo, hầu làm chỗ đứng chung cho mọi người dân bất cứ thuộc tôn giáo nào. Đó là điểm cần cho hết mọi nước đa giáo mà cũng là điều mà các quốc gia Tây phương đã nhận thức và khởi công từ hai thế kỷ nay, nên dẫn đến cái mà tôi gọi là: Nền văn hóa ý hệ hay là triết học xây dựng hòan tòan trên lý trí bên ngòai ảnh hưởng của tôn giáo. Lý do thì chính đáng nhưng không may đó lại là một lối cụt, bởi chưng triết học căn cứ trên lý trí và lương tri. Nhưng vì đó là những cơ năng hạn hẹp nên dễ sinh ra độc hữu. Với con người tư riêng là dùng có lý gảy bỏ tình nên không gây nổi văn hiến tức cán bộ hay tông đồ trung thực mà chỉ tạo ra được có trí thức ít đi được vào đời. Còn đối với tha nhân thì là thiếu thống nhất vì có quá nhiều ý hệ, thí dụ Âu Tây hiện nay là Mácxít, Hiện sinh, Hiện tượng, Cơ cấu v.v… Đó là cánh thập nhị sứ quân tất nhiên sẽ đưa đến chỗ bơ vơ không biết theo hướng nào, vì quá nhiều hướng, quá nhiều ý hệ. Nếu như ý hệ nào nhờ hòan cảnh mà nắm được chính quyền thì sẽ giở trò độc quyền như Phát xít hay Cộng sản là bóp nghẹt tự do cá nhân bằng công an vòng trong vòng ngòai, bằng những trại giam đồ sộ để cầm tù không ai muốn tín nhiệm nữa. Thế là dẫn đến cái thứ văn hóa tạp hợp. Gọi thế vì nó vô hồn vô hướng, và có gọi là văn hóa chẳng qua vì thói quen chứ không phải văn hóa, mà chỉ là văn học, văn chương, văn nghệ, bởi để được xưng danh là văn hóa thì phải có chủ đạo, có cơ sở tinh thần, có những giá trị nền tảng. Vì không thế thì làm sao mà cảm hóa để mà cải hóa? Văn hóa Tây âu hiện thiếu cái đó nên mắc cả ngàn thứ bệnh (nói như Jung: Our own western culture sickens with a thousand ills). Đó là lý do tại sao Nietzsche gọi văn hóa Tây Âu là sự trống rỗng tinh thần (Nihilisme occidental). Tuy nhiên, đó chỉ là tiếng tri hô của giới thức giả rất hiếm họa. Còn đại chúng kể cả giới trí thức thì vẫn đi theo nền văn hóa tạp hợp này. Sở dĩ như vậy vì các nước Âu Tây cường thịnh không bị nước nào đe dọa về kinh tế, chính trị, lại có khoa học tiến bước huy hòang khiến cho hầu hết tưởng văn hóa Âu Tây đã là lý tưởng. Nhưng đó là một niềm tin tai hại. Vì khi không đủ những điều kiện giàu sang như Tây Âu mà cũng đòi theo lối văn hóa Tây Âu thì sẽ phơi trần bộ mặt thực phũ phàng tàn tệ như thấy ở vài nơi chẳng hạn El Salvador: tài sản trong nước thu dồn vào tay một thiểu số may mắn khiến cho đại chúng lâm cảnh sống bần cùng nên đâm ra đủ các tệ đoan: trộm đạo, tham nhũng, và các tội ác đến độ trầm trọng. Xét tới xét lui thì chỉ còn thể đặt hy vọng vào nền văn hóa tâm linh và đó cũng chính là nền văn hóa dân tộc ta: chỉ có hướng đó là có thể giúp văn hóa tránh được những bất tiện và bao gồm được những ơn ích. Nhưng hiện nay chúng ta đã để mất vì mấy lý do thuộc thời thế sau: Thứ nhất vì Nho giáo là cột trụ nền văn hóa tâm linh đó lại không còn chính truyền vì đã bị Hán Nho xuyên tạc nên bị ngộ nhận rất nhiều và do đó đã không được chú ý đến. Cho được chú ý đến, cần phải khám phá ra Nho giáo nguyên thủy mà tôi cũng gọi là Việt Nho, nhưng đó là điều cho tới nay chưa ai làm được. Thứ đến vì nền văn hóa tâm linh chỉ xuất hiện bên Á Châu nên không được chú ý săn sóc là vì Á Châu đã thụt lùi trong nền văn minh cơ khí nên tất cả nền đạo đức cổ truyền cũng bị đánh tụt giá xuống theo. Chính vì thế mà ngay những nước thuộc văn hóa Nho đã không còn thiết tha đến Nho nữa. Có nói tới thì cũng chỉ như một môn cổ sử trong văn học dành cho một số rất nhỏ nhà chuyên môn. Vì thế mà đi đến một thứ văn hóa tạp nham. Hiện tình văn hóa Việt Nam Như trên đã nói, văn hóa tạp nham có nhiều tiểu lọai, nên ta cũng cần biết văn hóa ta hiện nay thuộc tiểu lọai nào. Muốn nhận diện một nền văn hóa thì có hai tiêu chuẩn khá trung thực: a. Môt là xét nội dung chương trình giáo dục. b. Hai là xét việc đánh giá các thành phần xã hội. Về chương trình giáo dục thì nội dung sâu thẳm là nền chủ đạo hướng dẫn chương trình đó. Thí dụ nước ta xưa là Nho giáo mà vì Nho giáo đã đạt tâm linh mà tôi cũng gọi Văn Tổ tức là thứ văn cao cả huy động tòan thân tâm con người nên có những người hy hiến thân tâm cho thứ văn hóa đó và gọi là văn hiến, nước ta xưa kêu là "văn hiến chi bang" là vì thế. Còn tới khi mất nước vào tay Pháp thì ta cũng mất luôn nền độc lập văn hóa và từ đấy chúng ta đã đi theo văn hóa Pháp nghĩa là tạp hợp vì không có chi gọi được là chủ đạo. Chỉ có một số ý kiến triết được cho học ở lớp đệ nhất trung học thì phần lớn chỉ là luân lý (logic) vô sắc thái, còn khoa luân lý (morale) thì là lịch sử những học thuyết về luân lý: ông nói thế này, bà nói thế khác, học xong không biết theo cái nào. Cho nên phải kết luận đó là nền giáo dục vô chủ đạo và bộ giáo dục thực ra chỉ là bộ học vấn lo truyền thụ một số tri thức bất kỳ nào cũng được miễn là tri thức. Bây giờ bàn đến điều hai là việc định các thành phần xã hội. Khi nước ta còn độc lập, còn là văn hiến chi bang thì đẳng cấp giá trị thành phần xã hội là sĩ, nông, công, thương. Quan trọng nhất là sĩ nhì nông. Đấy là một bậc thang giá trị lý tưởng thuộc nông nghiệp lúa mễ của Văn Lang quốc. Vì là Văn Lang hay sau này là văn hiến nên đặt kẻ sĩ làm đầu. Đó là bậc thang duy nhất trên hòan cầu ở hai điểm: một là kẻ sĩ đứng đầu, liền sau là nông đúng vị trí văn hóa nông nghiệp vốn trọng Minh Triết. Các văn minh Âu Ấn vì gốc du mục nên đặt quý tộc đứng đầu, nhì đến giáo phẩm… Bên Ấn thì tăng lũ đứng đầu nhì đến quân đội… Ở cả hai nơi không có sĩ, cũng không có nông: quả là du mục, rõ nhất là Ấn với những cấp tăng, võ, tài, công. Bên Âu thì quý tộc nổi nhất, rồi đến giáo sĩ, sau đến đệ tam cấp gồm phần nhiều thương gia. So vậy mới thấy bảng sĩ, nông, công, thương là nét đặc trưng cao quý của ta xưa là Minh Triết hay tôn giáo. Nông là nền tảng kinh tế xã hội với nền tảng dân chủ không tên nhưng chân thực vì không có quý tộc truyền dòng mà chỉ có kẻ sĩ do dân xuất hiện. Thứ tự trên đã được hiện thực là kẻ sĩ vẫn làm quốc sự, cố vấn, và làm quan cai trị. Đó là những người như Bá Lý Hề, Lã Vọng, Nguyễn Trãi, v.v… Platon đã ước ao triết gia làm vua nhưng không bao giờ hiện thực được. Là bởi triết lý đã không đạt, lại còn mong ước quá cao ở chỗ đòi làm vua. Bên Nho chỉ xin làm có vấn, làm quan, triết lại đạt thân nên đã hiện thực suốt mấy ngàn năm từ ngày khai quốc. Mãi cho tới thời kỳ Pháp thuộc thì mới bị xếp xó để chỗ cho thứ tự mới là "dân thầy, dân thợ, dân chợ, dân quê". Thầy đây chỉ là thầy thông thầy phán, một thứ công chức tùy phụ giúp chính quyền bảo hộ chứ không có đạo lý nào như kẻ sĩ. Còn vai chánh là thợ, với dân chợ tức thương gia. Đúng là du mục. Nông thì bay mất, chỉ còn lại nơi chữ dân quê, hiểu là quê mùa so với tỉnh thành văn minh (được gọi là dân chợ…). Đến đời Mỹ văn hóa xuống một đợt nữa với cấp bậc mới là "nhất đĩ, nhì cha, ba sư, tứ tướng"! Nghĩa là xếp theo số tiền kiếm ra được… Ta có thể dùng chữ đó làm một phẩm từ để chỉ văn hóa bác tạp đến độ đánh đĩ với hết mọi nẻo mà không có chi là trụ cột. Nếu có trụ cột thì sự thu thập trở nên phong phú, còn thiếu trụ cột thì thu thập trở nên bác tạp. Không còn chi đáng tên cột trụ ngọai giả ít tôn giáo nhưng chỉ kể tới như thế lực chính trị. Vì vậy cuối cùng là nhà binh tức du mục. Thế là những người di tản chạy ra nước ngòai với gia tài đã bị phân tán cùng cực như trên thì còn trong tay cái chi nếu không là mấy mảnh vụn chứ có cơ sở tinh thần, có phương thức bao quát chi đâu để mà gọi là Đạo, là chủ đạo. Có cố cứu vớt cũng chỉ được có văn và sử thiếu phần u linh được biểu lộ trong kinh và triết. Vì thế nay nếu chúng ta không làm một cố gắng vượt bực thì sự lăn trên dốc phân tán càng ngày càng chạy theo đà gia tốc, vì văn hóa thiếu hai yếu tố rất quan trọng là thống nhất và trường cửu. Cái đó chỉ có thể tìm trong tâm linh, nói cụ thể là trong bộ sách có cả Kinh lẫn Triết. Hai điều đó chỉ có thể đạt được bằng một cố gắng phi thường. An Việt muốn thử làm chuyện này. Chúng tôi hy vọng hồn thiêng sông núi còn đủ mạnh nên còn nhiều những bậc trí giả trong nước hiểu tầm quan trọng và tiếp tay. Kim-Định Nguồn: http://www.vietland.net ![]() Lấy Nhân Tâm làm phương tiện, dụng Dân Tâm làm quốc sách "An Dân-Lạc Quốc" là kim chỉ nam cuả thể chế Dân Chủ Văn Hiến. Trang Tham Luận: Quốc Sách www.vietnamvanhien.net www.vietnamvanhien.org www.vietnamvanhien.info www.vietnamvanhien.com Email: thuky@vietnamvanhien.net Trang mạng Việt Nam Văn
Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến những biên khảo,
sáng tác và ý kiến của quý vị và các bạn nhằm mục
đích
bảo tồn di sản văn hóa. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống văn hiến hầu phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời của Việt tộc. |