Phạm Trần Anh
Giới Thiệu Tác
Giả Phạm Trần Anh
. Đốc sự Hành Chánh.
. Biên Khảo Lịch sử và văn hóa
Dân tộc Việt.
. Hội viên Văn bút Quốc tế.
. Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị
và Tôn giáo VN.
. Hội Quốc Tế Nghiên Cứu Biển
Đông Nam Á.
TÁC PHẨM:
1.
Nguồn Gốc Việt Tộc.
2. Đoạn Trường Bất Khuất.
3. Huyền Tích Việt.
4. Sơn Hà Nguy Biến.
5. Hoàng Sa Trường Sa, Chủ Quyền Lịch sử của
VN.
6. Chan Chứa Bao Tình.
7. Quốc Tổ Hùng Vương.
|
Lăng
Quốc Tổ Hùng Vương
Nhớ xưa Quốc Tổ mở nền
Việt Nam Văn Hiến Sử thiên Việt Hùng
Bọc điều trăm họ thai chung
Đồng bào tiếng gọi vô cùng Việt Nam
PHẠM
TRẦN ANH
KÍNH DÂNG
HỒN THIÊNG SÔNG NÚI
DÒNG GIỐNG RỒNG TIÊN
Quốc Tổ Hùng Vương Lập
quốc
Anh thư hào kiệt đời đời
Bảo quốc An dân
VIỆT
NAM
NAM QUỐC SƠN HÀ NAM ĐẾ
CƯ
TIỆT NHIÊN ĐỊNH
PHẬN TẠI THIÊN THƯ
NHƯ HÀ NGHỊCH LỖ LAI XÂM
PHẠM
NHỮ ĐẲNG HÀNH KHAN THỦ
BẠI HƯ!
LÝ THƯỜNG KIỆT
Sông núi trời Nam của nước Nam
Sách trời định rõ tự muôn ngàn
Cuồng ngông giặc dữ vào xâm lấn
Chuốc lấy bại vong lẫn nhục* tàn!
PHẠM TRẦN ANH (cẩn dịch)
* Nhục ở đây xin hiểu là
da thịt và cũng là nỗi ô nhục
DI CHÚC MUÔN ĐỜI !
"Các
người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều
bậy bạ,
trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói
một đường làm một nẻo.
Cho nên cái họa lâu đời
của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường
chuyện vụn vặt xảy ra
trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới
chuyện khác lớn hơn. Tức
là họ không tôn trọng biên giới qui ước.
Cứ luôn luôn đặt ra những
cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được
ta, thì gậm nhấm ta.
Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần
họ sẽ biến giang san của ta từ
cái tổ đại bàng
thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải
nhớ
lời ta dặn:
""" Một tấc
đất của tiền nhân để lại,
cũng không
được để lọt vào tay kẻ khác
Ta
muốn lời nhắn nhủ này
như
một di chúc cho con cháu muôn đời sau."
Quá khứ là gốc rễ của tương
lai, rễ càng đâm sâu thì cây mới vững
vàng và càng vươn cao.
VUA TRẦN NHÂN TÔN
(1279-1293)
Chúng ta đều do Tổ
Tiên sinh ra, không cứ là trai gái già trẻ, không
cứ là chi tộc nào, dòng họ nào... Chúng ta đều là
"CON RỒNG CHÁU TIÊN" , đều từ một bào thai của mẹ
Âu nên tất cả từ một mẹ sinh ra các ngành các chi
mà thôi.
Cành cây lớn muôn lá, gốc vốn ở rễ. Nước có
nghìn dòng sông, muôn ngọn suối, vốn có gốc từ một
ngọn nguồn. Cảnh vật còn như vậy, huống chi là con
người chúng ta. Con người sinh ra đời, đời đời nối
tiếp về sau, đều do các người đời trước nuôi nấng
dìu dắt vậy.
Ngưỡng mộ và tưởng nhớ Tổ Tiên, chúng ta
hãy lấy việc siêng năng mà bồi đắp cho gốc rễ. Lấy
sự cần kiệm làm răn rồi tu nhân tích đức, giàu
lòng thương người hơn là chê bai ghen ghét người.
Là con cháu thì chúng ta phải nối tiếp
truyền thống của Tổ Tiên, chứ lẽ nào con cháu mà
lại không suy nghĩ về ý nghĩa thâm trầm cao đẹp
nói trên hay sao?
HOÀNG
ĐẾ
QUANG TRUNG
Nói chuyện với các bô lão làng Vân
Nội
BÁCH VIỆT TỪ ĐƯỜNG TỘC PHẢ
Chú giải của La Sơn Phu Tử
CÂY CÓ GỐC MỚI NỞ
NGÀNH SANH NGỌN
NƯỚC CÓ NGUỒN MỚI
BỂ RỘNG SÔNG SÂU
NGƯỜI TA NGUỒN GỐC
Ở ĐÂU
CÓ TỔ TIÊN TRƯỚC
RỒI SAU CÓ MÌNH
CÂY CÓ CỘI
NƯỚC CÓ NGUỒN
CHIM CÓ TỔ
NGƯỜI CÓ NGUỒN
CÓ TỔ CÓ TÔNG
CÓ TÔNG CÓ TỔ
TỔ TỔ TÔNG TÔNG
TÔNG TÔNG TỔ TỔ
MỚI LÀ NGƯỜI ...
CÓ TỔ CÓ TÔNG
TỔ TỔ TÔNG TÔNG
TÔNG TỔ CŨ
CÒN NON CÒN NƯỚC
NON NON NƯỚC NƯỚC
NƯỚC NON NHÀ!
TẢN ĐÀ
TỰ TÌNH
DÂN TỘC …
Mỗi dân tộc đều có những
truyền kỳ lịch sử được thần thoại hoá thể hiện lòng tự
hào dân tộc mang tính sử thi của mình. Thật vậy, huyền
thoại Rồng Tiên về ngọn nguồn huyết thống Việt tuy
đượm vẻ huyền hoặc nhưng lại tràn đầy tính hiện thực,
thấm đậm nét nhân văn của truyền thống nhân đạo Việt
Nam. Huyền sử con Rồng cháu Tiên là niềm tự hào của
nòi giống Việt. Đã là người Việt Nam thì từ em bé thơ
ngây đến cụ già trăm tuổi, từ bậc thức giả uyên bác
đến bác nông dân suốt đời chân lấm tay bùn, không ai
không một lần nghe truyện cổ tích Họ Hồng Bàng. Thật
vậy, ai trong chúng ta mà không biết về nguồn cội Rồng
Tiên với thiên tình sử của “Bố Lạc Mẹ Âu” mở đầu thời
kỳ mở nước của dòng giống Việt.
Truyền thuyết
Việt Nam nói đúng hơn đó là truyền kỳ lịch sử Việt Nam
được hư cấu dưới lớp vỏ huyền thoại nhưng thực chất
lại đề cao con người với ý nghĩa nhân bản truyền
thống. Truyền thuyết Việt Nam biểu trưng một triết lý
văn hoá cao đẹp không những thấm đậm tính nhân đạo,
chan chứa vẻ nhân văn, tràn đầy tình đồng bào, nghĩa
ruột thịt qua hình tượng “Bọc điều trăm
trứng nở trăm con”. Từ ý niệm đồng bào dẫn đến
lòng yêu nước, thương nòi, yêu quê cha đất tổ, tất cả
đã trở thành giá trị đạo lý truyền thống của nền văn
minh đạo đức Việt Nam. Henri Bernard Maitre đã ca tụng
nét đẹp văn hiến của Việt tộc qua đền thờ gọi là “Văn
miếu”. Văn Miếu không phải để cầu kinh hay làm bùa
phép mà là nơi trang trọng ghi ơn các anh hùng dân
tộc, các danh nhân văn hoá, các vị Tiến sĩ với những
chuẩn mực đạo đức để con cháu đời sau ghi sâu vào tâm
khảm bài học về đạo làm người Việt Nam, xứng đáng với
hoài bão của Tiền Nhân.
Đối với người
Việt, việc thờ cúng Ông bà Tiên tổ là đạo lý làm
người, một phần trong đời sống tâm linh của người
Việt. Từ xa xưa người Việt coi trọng đạo nghĩa nên
thường nghĩ tới ngày giỗ của người thân hơn là chú
trọng đến ngày sinh nhật của mình. Ngày nay, dù giới
trẻ quan tâm nhiều đến ngày sinh nhật nhưng cũng không
quên những ngày kỵ giỗ người thân trong gia đình. Đạo
thờ cúng ông bà là một “Việt đạo” thể hiện đạo lý làm
người của Việt tộc. Linh mục Cadière một thừa sai
ngoại quốc đến Việt Nam truyền giáo phải thốt lên “Việt Nam là một dân tộc có tinh thần tôn
giáo cao độ”.
Học giả P. Mus
nghiên cứu về Việt Nam cũng thừa nhận rằng “Dân tộc Việt có một đời sống tâm linh cao,
người Việt không làm việc, họ tế tự”.Thật vậy,
người ngoại quốc ngạc nhiên khi thấy “Mỗi
gia đình Việt Nam là một nhà thờ, nhà nào cũng có
bàn thờ gia Tiên ở chính giữa nhà. Trong đời sống
tâm linh Việt, Nhất cử nhất động, việc gì cũng tràn
đầy tính chất thiêng liêng, thờ phượng, tế lễ, cúng
giỗ với tất cả tấm lòng chí thành. Đây chính là điểm
đặc thù độc đáo thấm đậm bản sắc dân tộc, tràn đầy
vẻ nhân văn của triết lý văn hoá nhân chủ. Thật vậy,
trong đời sống tâm linh Việt không chỉ hiển hiện ở
bàn thờ Gia Tiên mà đền thờ ngự trong tâm thức mỗi
người. Người Việt không tham dự vào các buổi lễ để
được ban phát ân sủng, mà họ hiệp thông cầu nguyện
như một người “Tư Tế” với tất cả tính chất thiêng
liêng của một tôn giáo”. Điều này thể hiện giá
trị cao đẹp đặc trưng đời sống tinh thần của người
Việt cổ.
Thờ cúng
tổ tiên chính là đạo lý làm người, là cái gì thiêng
liêng cao cả truyền từ đời này sang đời khác. Chính
dòng sống tâm linh này đã góp phần bảo tồn dòng giống
Việt. Truyền thống thờ cúng ông bà không còn là một
tập tục, một tín ngưỡng đơn thuần mà đã trở thành đạo
lý của dân tộc. Đạo thờ cúng ông bà được xem như Tổ
Tiên chính giáo của đạo làm người Việt Nam mà Nguyễn
Đình Chiểu một sĩ phu yêu nước thế kỷ XIX đã ân cần
nhắc nhở “Thà đui mà giữ đạo nhà, Còn hơn
sáng mắt ông cha không thờ”. Người Việt Nam ai
cũng biết uống nước phải nhớ nguồn vì “Công
cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn đạo hiếu
mới là đạo con ..! Ơn cha mẹ thề không lỗi đạo, Thờ
sống sao thờ thác làm vầy. Công cha nghĩa mẹ xưa
nay, Con nguyền ghi nhớ thảo ngay một lòng”.
Đây chính là
điểm độc đáo của dòng sống tâm linh Việt vẫn tiếp nối
truyền lưu trong mỗi con người Việt Nam chúng ta hôm
nay và mãi mãi về sau. Thật vậy bên cạnh
đời sống thực tế khổ đau trước mắt, vẫn hiển
hiện một đời sống tâm linh sâu thẳm thấm đậm tính nhân
bản hiện thực cao đẹp. Chính dòng sống tâm linh đó đã
tạo cho mỗi người Việt Nam một quan niệm sống lạc quan
yêu đời, an nhiên tự tại nhưng vẫn sẵn sàng hy sinh
mạng sống cho nền độc lập thực sự, quyền tự do thực sự
và sự ấm no hạnh phúc thực sự cho toàn dân Việt Nam.
Lịch sử Việt là lịch sử của sự thăng trầm
từ khi lập quốc đến ngày nay trải qua hàng ngàn
năm đô hộ của giặc Tàu, gần một trăm năm nô lệ
giặc Tây và hơn nửa thế kỷ nô dịch văn hóa ngoại
lai. Trong suốt trường kỳ lịch sử, Hán tộc bành
trướng với ưu thế của một nước lớn đất rộng người
đông cùng với những thủ đoạn thâm độc quỉ quyệt
xóa đi mọi dấu vết cội nguồn, bóp méo sửa đổi lịch
sử khiến thế hệ sau chỉ biết tìm về lịch sử trong
một mớ “chính sử” hỗn độn mơ hồ. Mỗi một triều đại
Hán tộc đều chủ tâm thay đổi địa danh, thủy danh
xưa cũ của Việt tộc cùng với ảnh hưởng nặng nề của
một ngàn năm đô hộ của sự nô dịch văn hóa khiến ta
chấp nhận tất cả như một sự thật mà không một chút
bận tâm. Thế nhưng, lịch sử vẫn là lịch sO#7917;
của sự thật dù bị sửa đổi vùi lấp hàng nghìn năm
dưới ánh sáng của chân lý khách quan trước thềm
thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.
Bước sang thiên
niên kỷ thứ ba, ánh sáng của sự thật soi rọi vào quá
khứ bị che phủ hàng ngàn năm bởi kẻ thù Hán tộc bành
trướng. Trong thiên niên kỷ thứ hai, nhân loại sửng
sốt trước cái gọi là “Nghịch lý La Hy” khi trước đây
nhân loại cứ tưởng tất cả nền văn minh Tây phương là
của đế quốc Hy Lạp La Mã để rồi phải xác nhận đó chính
là nền văn minh của Trung Quốc. Cuối thiên niên kỷ thứ
hai, nhân loại lại ngỡ ngàng khi thấy rằng cái gọi là
nền văn minh Trung Quốc lại chính là nền văn minh của
đại chủng Bách Việt.
Vấn đề đặt ra
cho chúng ta là phải nhìn lại toàn bộ lịch sử Việt để
phục hồi sự thật của lịch sử để xóa tan đám mây mờ che
lấp suốt mấy ngàn năm lịch sử bởi kẻ thù truyền kiếp
của dân tộc. Trong lịch sử nhân loại, có lẽ không một
dân tộc nào chịu nhiều mất mát trầm luân như dân tộc
Việt với những thăng trầm
lịch sử, những khốn khó thương đau. Ngay từ thời lập
quốc, Việt tộc đã bị Hán tộc với sức mạnh của tộc
người du mục đã đánh đuổi Việt tộc phải rời bỏ địa bàn
Trung nguyên Trung quốc xuống phương Nam để rồi trụ
lại phần đất Việt Nam bây giờ. Trải qua gần một ngàn
năm đô hộ, với chiến thắng Bạch Đằng Giang năm 938 của
Ngô Quyền mới chính thức mở ra thời kỳ độc lập của
Việt tộc.
Trong suốt
trường kỳ lịch sử, tuy bị Hán tộc xâm lấn phải bỏ
trung nguyên xuống phương Nam nhưng nền văn hóa của
Việt tộc đã thẩm nhập vào đất nước và con người Hán
tộc để hình thành cái gọi là văn minh Trung Quốc.
Chính sử gia chính thống của Hán tộc là Tư Mã Thiên đã
phải thừa nhận một sự thực là: “Việt tuy
gọi là man di nhưng tiên khởi đã có đại công đức với
muôn dân vậy ..!”. Vạn thế sư biểu của Hán tộc
là Khổng Tử đã ca tụng nền văn minh rực rỡ, xác nhận
tính ưu việt của nền văn minh Bách Việt ở phương Nam.
Trong sách Trung Dung Khổng Tử đã viết như sau:
“Độ luợng bao dung, khoan hòa giáo hóa,
không báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương
Nam, người quân tử ở đấy..! Mặc giáp cưỡi
ngựa, xông pha giáo mác, đến chết không chán, đó là
sức mạnh của phương Bắc. Kẻ cường đạo ở đó ..”.
Trong kinh “Xuân
Thu”, Khổng Tử đã ghi lại bao nhiêu trường hợp cha
giết con, con giết cha, cha cướp vợ của con, con cướp
vợ của cha, anh chị em dâm loạn với nhau, bề tôi giết
chúa … Điều này chứng tỏ Hán tộc du mục vẫn còn dã man
mạnh được yếu thua, bất kể tình người, bất kể luân lý
đạo đức. Thế mà chính sử Trung Quốc cứ vẫn sao chép
Việt tộc là man di, các Thứ sử Thái Thú Hán vẫn lên
mặt giáo hóa dân Việt trong khi Bách Việt ở phương Nam
đã đi vào nền nếp của văn minh nông nghiệp từ lâu.
“Vạn thế Sư
biểu” của Hán tộc là Khổng Tử cũng đã phải đem những
nghiên cứu, sưu tập, học hỏi của nền văn minh Bách
Việt phương Nam đặt để thành những quy luật, trật tự
cho xã hội phương Bắc. Tất cả những “Tứ thư, ngũ kinh”
được xem như tinh hoa của Hán tộc đã được chính Khổng
Tử xác nhận là ông chỉ kể lại “Thuật nhi bất tác”, sao
chép lại của tiền nhân chứ không phải do ông sáng tác
ra. Ngày nay, sự thật lịch sử đã được phục hồi khi
giới nghiên cứu đều xác nhận hầu hết các phát minh gọi
là văn minh Trung Quốc từ nền văn minh nông nghiệp đến
văn minh kim loại, kỹ thuật đúc đồng, cách làm giấy,
cách nấu thủy tinh, cách làm thuốc súng, kiến trúc nóc
oằn mái và đầu dao cong vút … tất cả đều là của nền
văn minh Bách Việt.
Chính một vị vua
của Hán tộc, Hán Hiến Đế đã phải thừa nhận như sau:
“Giao Chỉ là đất
văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn
vật khả quan, nhân tài kiệt xuất ..!”.
Bước sang
thế kỷ XX, dân tộc Việt chưa tháo gỡ được cái ách
thống trị của thực dân Pháp thì chủ nghĩa cộng sản đã
tràn vào Việt Nam đưa dân tộc Việt vào thế khốn cùng.
Cộng sản Việt Nam đã núp dưới chiêu bài giải phóng dân
tộc để bành trướng chủ nghĩa cộng sản, tạo cơ hội cho
tư bản nhân danh thế giới tự do nhảy vào can thiệp,
ngăn chặn làn sóng đỏ xuống Đông Nam Á. Hậu qủa là gần
một chục triệu người đã phải hi sinh oan uổng để rồi
hơn tám mươi sáu triệu đồng bào đang phải sống dở chết
dở dưới chế độ cộng sản bạo tàn phi nhân và đất nước
Việt Nam ngày nay vẫn còn là một đất nước nghèo nàn
nhất thế giới. Với chủ trương nô dịch của cộng sản,
biết bao thế hệ Việt Nam bị nhồi nhét nền văn hóa
Mác-Lê phi nhân tàn bạo mà hậu qủa là tạo ra những cỗ
máy vô hồn, những con người vô cảm lạnh lùng, mất gốc.
Hơn ba triệu
đồng bào Việt Nam đã phải bỏ nước ra đi tìm tự do nên
thế hệ con em chúng ta ở hải ngoại phần nào bị ảnh
hưởng của văn hóa ngoại lai mang tinh thực dụng, quên
đi bản sắc văn hóa truyền thống Việt chan chứa tình
người. Chính vì vậy, vấn đề hết sức khẩn thiết là làm
sao phải phục hoạt văn hóa Việt, phục hưng minh triết
Việt để tẩy rửa mọi ý hệ ngoại lai, mọi ý đồ thẩm nhập
văn hóa “Đại Hán” đang được những tên “Thái thú mới”
xác Việt hồn Tàu đang thi hành mệnh lệnh của quan thầy
Trung Cộng ra sức nhồi sọ dân tộc Việt. Hơn lúc nào
hết, tìm về nguồn cội dân tộc là một yêu cầu lịch sử
để thế hệ con em chúng ta hiểu rõ về bản sắc văn hoá
truyền thống của dân tộc Việt, hiểu rõ về huyền thoại
Rồng Tiên, về Quốc Tổ Hùng Vương thời lập quốc, về đời
sống văn hoá tâm linh Việt, về những lễ tết, hội hè
đình đám của dân tộc Việt. Để từ đó, thế hệ con em
chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về cội nguồn dân tộc, thấy rõ
hơn gía trị cao đẹp của bản sắc văn hóa truyền thống
Việt, hãnh diện tự hào là “con Rồng cháu Tiên” của một
dân tộc có gần năm ngàn năm văn hiến. Chúng
ta phải cùng nhau tìm hiểu rõ hơn về cội nguồn dân tộc
để thấy rõ hơn giá trị cao đẹp của bản sắc văn hóa
truyền thống Việt. Chúng ta có quyền tự hào là “con
Rồng cháu Tiên” của một dân tộc có gần năm ngàn năm
văn hiến, chúng ta hãnh diện được làm người Việt Nam
yêu nước thương nòi ngẩng cao đầu sánh vai cùng các
cường quốc trong thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.
Chúng ta
phải làm sao xứng đáng với tiền nhân, chúng ta phải
làm gì để không hổ thẹn với hồn thiêng sông núi, với
anh linh của những anh hùng liệt nữ Việt Nam. Toàn thể
đồng bào trong nước và Hải ngoại cùng nắm chặt tay
nhau, muôn người như một cùng đứng lên đáp lời sông
núi để cứu quốc và hưng quốc, tô điểm giang sơn gấm
vóc, xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng.
Chính niềm
tự hào dân tộc sẽ thôi thúc lòng yêu nước của thế hệ
trẻ, phấn kích ý chí vươn lên làm một cuộc cách mạng
xã hội, cách mạng khoa học kỹ thuật siêu vượt ngõ hầu
sánh vai cùng các cường quốc trong thiên niên kỷ thứ
ba của nhân loại.
Mùa Giỗ Tổ 4.889 (2010 DL)
TRẦN TÌNH
Là người Việt Nam,
chúng ta tự hào là con RỒNG cháu TIÊN thế nhưng, mỗi
khi tìm về nguồn cội dân tộc thì nỗi ray rứt niềm
băn khoăn làm nhức nhối tâm can biết bao con dân đất
Việt. Ngay từ khi còn cắp sách đến trường, bài học
thuộc lòng thuở đầu đời “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ
như nước trong nguồn chảy ra”. Biết bao câu hỏi được đặt ra
trong đầu óc ngây thơ trong trắng như núi Thái Sơn ở
đâu thì được thầy trả lời ở bên Tàu. Tại sao công
cha nghĩa mẹ lại so sánh với núi Thái Sơn ở bên Tàu?
Lớn lên học văn chương truyện Kiều của đại thi hào
Nguyễn Du thì lại được giảng thêm là Nguyễn Du phỏng
theo cốt truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân
bên Tàu. Nhân vật Từ Hải quê ở Việt Đông, người anh
hùng Việt tộc “Đầu đội trời, chân đạp đất, vùng vẫy một thời” cũng lại ở bên Tàu.
Thế rồi ai trong chúng ta mà chẳng một lần ấm ức xen
lẫn hoài nghi khi nghe nói về huyền thoại Rồng Tiên,
truyền thuyết khởi nguyên của dân tộc bị một số trí
thức Tây học chê là hoang đường huyền hoặc. Chúng ta
lại càng hổ thẹn hụt hẫng khi đọc quyển sử “Việt Nam
thời khai sinh” của Linh mục Nguyễn Phương khẳng
định người Việt chúng ta gốc là người Tàu ...!
Thật đáng
buồn là các sử gia thời quân chủ phong kiến thì nhất
nhất chỉ tin vào chính sử Trung Quốc còn các nguồn
gốc sử liệu khác thì chê là ngoại thư không thể tin
được. Thậm chí các ông nho sĩ ta thời trước còn tôn
thờ Sĩ Nhiếp là sĩ vương trong khi các ông quên hẳn
một điều là dù muốn dù không, Sĩ Nhiếp cũng là một
tên thái thú sang cai trị dân ta. Chính Sĩ
Nhiếp chứ không ai khác đã đem chữ Hán nô dịch đồng
hoá dân tộc ta. Dân ta không chịu học chữ Hán, vẫn
dùng ngôn ngữ Việt cổ nên Sĩ Nhiếp cấm dân ta
viết chữ tượng thanh của Việt tộc.
Trước đây,
một số sử gia tuy không cho rằng người Việt ta là
gốc Tàu nhưng chịu ảnh hưởng của Tàu trên nhiều
phương diện nên cũng tán đồng luận điểm áp đặt của
các nhà Nhân chủng cho rằng dân tộc ta thuộc giống
Mông cổ ngành Phương Nam. Ngày nay, các nhà sử học
CHXHCNVN viết sử theo nghị quyết của Đảng CS nên đã
không những không dám nói lên sự thật lịch sử mà lại
còn nhất tề phụ hoạ với luận điểm cho rằng nước Văn
Lang ta chỉ mới hình thành hơn 600 năm TDL cho phù
hợp với sử quan bành trướng Đại Hán xa xưa mà hiện
nay là “Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc” anh em, họ phủ nhận cương giới của nhà nước
Xích Qui sơ khai của Việt Tộc, chống lại sử quan dân
tộc của những người Việt nam chân chính mà họ phê phán
là khuynh hướng dân tộc cực đoan hẹp hòi .
Chính vì
những ấm ức hổ thẹn đó, chúng tôi mới đủ can đảm
viết quyển sách nhỏ này. Bản thân người viết không
có tham vọng viết sử mà chỉ muốn nói lên những ý
nghĩ của người Việt Nam yêu nước xuyên suốt dòng vận
động lịch sử của dân tộc. Quyển sách này ra đời
trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, điều kiện sức
khoẻ, tài chính và thời gian không cho phép được
lãnh hội những cao kiến của các bậc thức giả cũng
như tham khảo nguồn sách sử nhiều nên chắc chắn còn
nhiều thiếu sót. Tuy nhiên, chúng tôi cũng mạnh dạn
đặt vấn đề, đưa ra những giả thuyết để có cái nhìn
tổng quát xuyên suốt toàn bộ quá trình lịch sử dân
tộc hầu mong nhận được những cao kiến đồng tình đóng
góp hoặc phê bình phản bác của các bậc thức giả,
những người Việt Nam yêu nước chân chính để vấn đề
nguồn cội dân tộc ngày càng sáng tỏ. Được như vậy,
người viết sẽ rất hân hạnh vì đã góp được phần nhỏ
nhoi của mình trong công cuộc tìm về nguồn cội dân
tộc, chu toàn bổn phận của một con dân đất Việt
Đồng thời người viết
cũng xin chân thành cảm ơn bằng hữu và những người
có lòng ưu tư về nguồn gốc dân tộc đã giúp đỡ khích
lệ cá nhân tôi hoàn thành quyển sách này. Chúng tôi
cũng xin trân trọng tác giả những nguồn sửû liệu và
xin được phép tham khảo ngõ hầu sáng tỏ thêm nguồn
cội dân tộc chúng ta. Một số tư liệu ghi chép đã lâu
trong điều kiện khó khăn nên không nhớ rõ xuất xứ,
xin quý vị thông cảm. Chúng tôi may mắn là người đi
sau nên có được điều kiện tham khảo những nguồn sử
liệu mới nhất của nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc,
Triết gia Kim Định, giáo sư Nguyễn Đoàn Tuân, giáo
sư Cung Đình Thanh và Bác sĩ Trần Đại Sĩ nên
mạnh dạn đặt vấn đề tìm về cội nguồn dân tộc.
Đứng trên quan điểm dân tộc, chúng tôi chỉ dùng
chữ “Nhà” thân thương cho các triều đại của nước ta
như nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần còn
Hán tộc thì chúng tôi dùng chữ “Triều” (đại) như triều
Thương, triều Chu, triều Hán. Thứ nữa, lấy năm thứ
nhất Dương lịch làm điểm mốc lịch sử cho thật chính
xác thay vì từ Công nguyên như vẫn dùng từ trước đến
nay. Sau cùng, chúng tôi quan niệm rằng yêu nước tất
phải trân trọng tất cả những thăng trầm hưng phế của
dòng vận động lịch sử mà biết bao thế hệ đã vun trồng
bằng máu và nước mắt để viết lên những trang sử hào
hùng hoành tráng. Đồng thời phải học biết về lịch sử
để hiểu rõ hơn về nguồn cội dân tộc, hiểu rõ giá trị
cao đẹp và ý nghĩa tuyệt vời của huyền thoại Rồng
tiên. Tri ân tiền nhân chưa đủ mà chúng ta phải học
tập, noi gương các danh nhân anh hùng khai sáng văn
hoá, các anh hùng dân tộc của thời xa xưa thấm đậm
trong tâm thức Việt để rồi dân tộc sẽ sản sinh ra
những anh hùng của một ngày mai. Chính vì vậy, có thể
nói lịch sử là ngọn nguồn của lòng yêu nước, chính
lịch sử quá khứ anh hùng của một
dân tộc sẽ là tương lai xán lạn huy hoàng của dân tộc
đó. Nói theo sử gia thời danh Arnol Toynbee thì “Nếu thiếu những sự thách thức tức là thiếu
yêu cầu bức bách đòi hỏi phải biết vận dụng được một
cách vượt bậc khả năng xoay chuyển tình thế thì
không có điều kiện để một cộng đồng người thể hiện
được sức mạnh và sự sáng tạo của mình. Chính sự đáp
ứng thích hợp trước những thách thức, sự vận dụng
một cách vượt bậc khả năng xoay chuyển tình thế, đã
đưa tới những thành tựu văn hoá lớn tạo nên bản lĩnh
của các dân tộc và có thể nói lịch sử hình thành một
nền văn minh lớn, không bao giờ diễn ra trên một con
đường bằng phẳng với những bước đi bình thản...”.
Trên thế
giới có lẽ không một dân tộc nào mà chịu đựng thử
thách gian nan khốn khó hơn dân tộc Việt. Lịch sử
cũng đã chứng minh dân tộc ta đáp ứng được những
yêu cầu bức bách, sự thách thức của từng thời đại
để Việt Nam là một trong 35 nền văn minh của nhân
loại còn tồn tại mãi đến ngày nay. Chúng ta có
quyền tự hào và tin tưởng hãnh tiến hướng về tương
lai trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ thứ III.
Tuy nhiên chúng ta không thể đứng yên mà trông chờ
vào cái gọi là “Định mệnh lịch sử” mà
nên nhớ rằng, “Lịch sử hôm nay là
chính trị của những ngày qua và
chính trị ngày nay sẽ là lịch sử ở ngày
mai ”. Lịch sử là cuộc trưng cầu dân ý
mỗi ngày của một dân tộc thế nên chính chúng ta,
mỗi ngày đang góp phần lịch sử vào tương lai của
dân tộc chúng ta.
Trong ý thức đó chúng tôi xin mời quý vị,
chúng ta cùng tìm về cội nguồn Việt tộc, Việt Nam
thời lập quốc từ truyền thuyết đến hiện thực lịch
sử Việt Nam.
Mùa
giỗ tổ Việt Lịch 4879 (DL 1999)
PHẠM TRẦN ANH
GIỖ
TỔ
HÙNG VƯƠNG
GIỖ TỔ
HÙNG VƯƠNG
10-3
Âm lịch
“Dù
ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mồng
mười tháng ba…
Hàng năm cứ vào ngày mồng
mười tháng ba Âm lịch, nhân dân cả nước nô nức kéo
về đền Hùng để dự lễ giỗ Tổ Hùng Vương, người khai
mở nước Văn Lang xa xưa của Việt tộc. Truyền thống
uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây đã đi
vào tâm thức Việt như một nguồn suối tâm linh làm
phong phú thêm đời sống tinh thần của người Việt.
Ngay tự thuở xa xưa, người Việt cổ đã có một
đời sống tâm linh siêu vượt. Người Việt cổ đã sớm
nhận thức được cuộc sống thường nhật để tìm ra lẽ
sống của cả một đời người nên không chỉ tin vào thần
thánh mà còn tin vào chính con người. Chính vì vậy,
từ xa xưa người Việt ngoài việc thờ cúng thần linh
giúp cho cuộc sống còn thờ cả nhân thần là những
người khi còn sống đã giúp dân giúp nước, giúp ích
cho địa phương. Đặc biệt người Việt có truyền thống
thờ cúng Tổ tiên, ông bà cha mẹ là những người trực
tiếp sinh đẻ ra mình, nuôi dưỡng mình thành người.
Ngay cả ông Trời, đối với người Việt là cư dân sống
bằng nghề nông nên tôn thờ ông trời đã ban cho những
giọt nước mưa tưới xuống đất để hạt giống nảy mầm,
cây cối đâm chồi nảy lộc. Ông trời được dân gian
Việt kêu cầu đến “Trời ơi” mỗi khi gặp sự đau buồn,
dân gian còn nhân cách hoá ông trời thân thương từ
chân trời, lưng trời đến mặt trời và nếu cần thì sẵn
sàng bắc thang lên hỏi ông trời, chứ không thần
thánh hoá kiểu Hán tộc là có một ông Ngọc Hoàng
Thượng đế toàn quyền ban phát, toàn quyền sinh sát
trên thượng giới và cả ở dưới trần gian nữa.
Một nhà Việt Nam học người Pháp Léopold
Cadìere đã nhận định về tín ngưỡng và thực hành tôn
giáo của người Việt Nam như sau: “Với
người Việt, Trời không phải là một vị thần, ít
nhất là trong quan niệm dân gian. Đó là ông Trời,
đấng hình như thuộc về thế giới siêu việt. Hoàng
đế tế trời một cách trọng thể còn dân gian thì cầu
trời, kêu trời hàng ngày bằng ngôn ngữ thông
thường. Ý niệm trời thấm sâu vào tâm tư người Việt
và được biểu lộ thường xuyên mỗi ngày qua ngôn ngữ
một cách minh nhiên đến nỗi ta không thể thấy rằng
ý niệm trời chính là một nguyên lý cơ bản và cao
cả nhất đối với đời sống tín ngưỡng của người Việt”.
Trong khi đó, phương
Tây với nền văn minh hết duy thần, duy linh, duy
tâm, duy lý rồi duy vật thái quá khiến con người cảm
thấy bất an nên thường đặt ra những vấn nạn như
chúng ta từ đâu đến rồi chết sẽ đi về đâu? Chính
những câu hỏi xa vời không bao giờ giải đáp được nên
con người trở nên vô thần hoặc phải tìm đến tôn giáo
chấp nhận một cách vô thường. Với niềm tin đơn giản
chân chất của người Việt cổ thì Tổ Tiên, ông bà cha
mẹ đã sinh ra mình chứ không phải do một thần linh
nào từ trên trời. Chính vì thế phải biết ơn cha mẹ
đã sinh thành dưỡng dục mình nên người. Bổn phận con
người là phải hiếu thảo với cha mẹ, anh chị em
thương yêu đùm bọc lẫn nhau vì cùng một mẹ mà ra.
Huyền thoại Rồng Tiên với Bố Lạc mẹ Âu của Việt tộc,
chúng ta cùng một bào thai mẹ Âu, trăm họ cũng cùng
từ một gốc Bố Rồng mẹ Tiên mà ra cả. Trên thế giới
duy nhất chỉ có dân tộc ta mới có hai chữ “Đồng
bào”, chúng ta cùng một bào thai mẹ sinh ra nên đối
với mọi người, chúng ta cũng dùng tình thân mà đối
xử, mới gọi nhau là bà con cô bác như trong một nhà
vậy.
Người Việt có một đời sống tinh thần tâm linh
sâu thẳm, thể hiện tình cảm thiêng liêng cao cả mà
không một dân tộc nào có được. Đạo lý làm người dạy
chúng ta rằng khi sống là phải biết tri ân thờ cúng
ông bà cha mẹ để mai này khi ta có chết đi thì cũng
về với ông bà cha mẹ mà thôi. Từ việc hiếu thảo thờ
cúng cha mẹ, ông bà tiên tổ đến ý thức tôn thờ ông
Tổ của dòng giống: Quốc tổ Hùng Vương cũng như các
anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá đã hun đúc ý
thức cao độ về lòng yêu nước thương nòi, tạo cho mỗi
con dân đất Việt niềm tự hào về dòng dõi con Rồng
cháu Tiên của Việt tộc. Hiện nay ở Việt Nam vẫn còn
tôn thờ nhân thần và đạo thờ cúng ông bà vẫn còn
trân trọng bảo lưu, đó chính là bản sắc văn hoá đặc
trưng của dân tộc và cũng là đạo lý làm người của
Việt tộc. Truyền thống cao đẹp này trải qua hơn sáu
ngàn năm lịch sử vẫn thấm đậm trong lòng dân tộc với
bao thăng trầm biến đổi của dòng vận động lịch sử.
Cho tới nay và mãi mãi về sau, hàng hàng lớp lớp thế
hệ trẻ Việt Nam vẫn tưởng nhớ về cội nguồn dân tộc
với tất cả lòng hãnh diện tự hào Việt Nam.
Tự xa xưa, tiền nhân ta đã chọn ngay mồng
mười tháng ba là ngày giỗ Tổ Hùng Vương. Tháng ba là
tháng Thìn, tháng của bố Rồng và ngày mười là ngày
của mẹ Tiên nên tiền nhân đã giỗ
quốc
Tổ
vào
ngày
mồng
10
tháng
3
hàng
năm.
Đền Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh còn có tên
là núi cả, núi cao nhất 175 mét trong quần thể 100
ngọn núi ở Vĩnh Phú. Theo Hùng triều Ngọc phả, Thần
phả xã Tiên Lát huyện Việt Trì tỉnh Hà Bắc thì đến
đời Hùng Vương thứ 16 là Hùng Tạo Vương huý Đức Quân
Lang mới dời đô xuống Việt Trì,
Phong Châu. Hùng Tạo Vương trị vì từ năm Tân
Dậu 660 TDL đến năm Nhâm Thìn 569 TDL ngang với thời
Chu Linh Vương đời Đông Chu. Đền Hùng gồm Đền Hạ,
Đền Trung, Đền Thượng với Lăng vua Hùng. Từ dưới đi
lên qua cổng Đền cao 8m1, nóc cổng hình dáng tám
mái, hai bên là phù điêu hình 2 võ sĩ cầm đao và
chùy bảo vệ đền. Khách hành hương chỉ bước lên 225
bậc đá là lên đến đền Hạ. Tương truyền nơi đây mẹ Âu
đã sinh ra bọc trăm trứng sau nở thành trăm người
con trai. Bước thêm 168
bậc thang đá là đến Đền Trung toạ lạc ngang sườn núi
Nghĩa Lĩnh, theo tương truyền thì đây là nơi Lang
Liêu đã gói bánh dày bánh chưng dâng vua cha để cúng
tiên tổ nhân ngày Tết. Chính tại nơi đây, vua Hùng
thường hội các Lạc Hầu Lạc Tướng để bàn việc nước.
Đền Trung thờ phượng các vua Hùng và dòng dõi, có cả
bệ thờ công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa. Ngay ở gian
giữa đền Trung treo bức đại tự “Hùng Vương Tổ miếu”
nghĩa là miếu thờ Tổ Hùng Vương, gian bên phải treo
một bức đại tự “Triệu Tổ Nam bang” nghĩa là Tổ muôn
đời của nước Nam, gian bên trái treo bức “Hùng Vương
Linh tích” nghĩa là Huyền tích linh thiêng của vua
Hùng.
Bước thêm 132 bậc thang đá nữa là tới đền
Thượng. Đền Thượng có 4 nếp nhà: Nhà chuông trống,
nhà Đại Bái, nhà Tiền Tế, Cung thờ. Trên vòm cung
cửa chính ra vào được trang trí phù điêu hình 2 vệ
sĩ phương phi làm nổi bật bức hoành phi 4 chữ “Nam
Việt Triệu Tổ” nghĩa là Tổ Triệu muôn đời của nước
Việt. Trong nhà Đại bái có câu đối bất hủ:
Mở lối
đắp nền bốn hướng non sông về một mối
Lên
cao nhìn rộng, nghìn trùng đồi núi tựa đàn con …
Trong nhà Tiền tế đặt một Hương án trên để
tráp thờ bên trong đặt một triện gỗ hình vuông có
khắc 4 chữ: “Hùng Vương tứ phúc”.
Đặc biệt có treo một bức hoành phi trong đó có câu “Quyết sơ dân sinh” nghĩa là cuộc sống
của nhân dân là điều quyết định đầu tiên của người
lãnh đạo. Ngay từ thời vua Hùng đã lấy dân làm gốc,
Tất cả của dân, do dân
và vì dân, còn giá trị mãi đến muôn đời*. Bên phải
đền Thượng là cột đá thề của An Dương Vương, bên
trái đền Thượng là Lăng vua Hùng nhìn về hướng Đông
Nam, kiến trúc theo hình khối vuông, trên có cổ diêm
8 mái, đỉnh chóp đắp hình rồng uốn lượn nổi lên 3
chữ khắc chìm: “Hùng Vương Lăng”.
Trên mỗi mặt tường đều đắp mặt hổ phù, thành bậc đắp
kỳ lân, cửa chính của Lăng nổi lên 2 câu đối tri ân
Quốc Tổ Hùng Vương:
“ Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản sông Đà…
non
nước vẫn quay về đất Tổ …
Văn
minh đương buổi mới, con Hồng cháu Lạc…
Giống
nòi còn biết nhớ mồ ông..!
Hàng năm vào ngày mồng mười tháng ba là ngày
lễ hội Hùng Vương được xem như Quốc lễ của cả một
dân tộc. Thời xưa đích thân nhà vua đứng chủ tế với
đủ nghi thức tế lễ long trọng. Lễ vật gọi là lễ Tam
sinh gồm nguyên một con heo, một con bò và một con
dê. Bánh chưng và bánh dày là lễ vật không thể thiếu
được cũng như khi cử hành tế lễ phải có đầy đủ bộ
nhạc cụ đặc biệt là chiếc trống đồng độc đáo của
Việt tộc.
Sau phần tế lễ là phần lễ hội với cuộc rước
bánh dày bánh chưng và rước cỗ chay, rước voi và
cuối cùng là lễ rước kiệu bay truyền thống của dân
gian các làng xung quanh vùng đất Tổ. Mỗi làng đều
đem theo kiệu riêng của làng mình từ các làng do vị
bô lão dẫn đầu rồi đến thanh niên trai trẻ mặc võ
phục thuở xưa tay cầm đủ loại cờ quạt sắc màu rực
rỡ. Tất cả tề tựu dưới chân đền chờ cử hành tế lễ
tạo nên một rừng người, rừng cờ hoa với đủ sắc màu.
Mọi người nô nức dự lễ hội, già trẻ rộn rã tiếng
cười nhưng khi tiếng chiêng tiếng trống khai lễ thì
không khí trang nghiêm u mặc bao trùm cả một vùng
đất Tổ. Sau phần tế lễ rước kiệu là phần hội hè với
đủ mọi trò vui chơi cho nam thanh nữ tú tham dự
thưởng ngoạn. Mở đầu là cuộc thi đua thuyền truyền
thống của các đội thuyền Rồng của các làng trong hồ
Đá Vao ngay cạnh chân núi. Dọc bờ hồ vòng quanh ven
chân núi đủ các trò vui chơi nào là những rạp tuồng
chèo, những cây đu tiên, những trò chơi dân gian như
đánh cờ người, trò tung còn giữa thanh niên thiếu nữ
ngày xuân, những phường hát Xoan của các nơi về tụ
hội tổ chức hát Xoan với những làn điệu dân ca
truyền thống mỗi độ xuân về.
Việt tộc là cư dân nông nghiệp nên thường tổ
chức lễ tết hội hè quanh năm suốt tháng nhưng lễ hội
đền Hùng mang một ý nghĩa hết sức cao đẹp. Dự lễ hội
đền Hùng chính là cuộc hành hương trở về nguồn cội
dân tộc trong tâm thức mỗi con dân đất Việt. Lễ hội
đền Hùng không đơn thuần là cuộc chơi xuân với những
hội hè đình đám mà để chúng ta hướng vọng về Quốc tổ
Hùng Vương, người truyền thừa sự sống và khai mở đất
nước Văn Lang cho tất cả chúg ta. Trên thế giới ngày
nay, có lẽ chỉ có dân tộc Việt Nam có Quốc tổ để tôn
thờ và có một huyền thoại Rồng Tiên đẹp như áng sử
thi để chúng ta có quyền tự hào gọi nhau là đồng
bào, là anh em ruột thịt cùng một mẹ sinh ra:
“ Bọc điều trăm họ thai chung,
Đồng bào
tiếng gọi vô cùng Việt Nam…
ĐỀN THỜ VUA HÙNG
Theo Ngọc phả Đền Hùng do Hàn lâm viện Đại học sĩ
Nguyễn Cố phung soạn vào năm Hồng Đức nguyên niên
1470, sau được Hàn lâm Thị Độc sao lại năm Hoàng
Đinh Nguyên niên 1600 thì Đền Trung tức Hùng Vương
Tổ miếu được xây vào thế kỷ XIV, bị quân Minh phá
huỷ vào thế kỷ XV. Đến thời Lê (1427-1573) đền được
xây dựng lại theo bố cục hình chữ nhất cùng với Gác
chuông và Thiền Quang Tự nay chỉ còn 2 phần tiền tế.
Đền Thượng cũng được xây dựng vào thời kỳ này, đến
thế kỷ XVII-XVIII đền Hạ mới được xây dựng.
Năm 1823,
vua Minh Mạng cho xây dựng Miễu “Lịch đại Đế vương”
ngay tại kinh thành Huế. Nhà vua đã bàn bạc kỹ lưỡng
với bộ Lễ để đưa các nhân vật lịch sử vào thờ trong
miếu. Bản tâu trình của bộ Lễ lên vua Minh Mạng như
sau: “Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân thực là thuỷ
tổ của nước Việt ta. Thế thì từ ngoại kỷ trở về
trước phải lấy các vị sáng thuỷ mà thờ. Từ nhà Đinh
về sau thì giềng mối mới rõ. Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại
Hành, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông Lê Thái Tổ thừa vận
lần lượt nổi lên, đều là vua dựng nghiệp một đời.
Trong khoảng ấy, anh chúa trung hưng như Trần Nhân
Tông ba lần đánh bại quân Nguyên, hai lần khôi phục
xã tắc. Lê Thánh Tông lập ra chế độ, mở rộng bờ cõi,
công nghiệp rạng rỡ vang rền… đều nên liệt vào miếu
thờ”.
Đến năm Tự Đức thứ 27
(1874) ra sắc chỉ sửa chữa lại đền Thượng trên núi
Nghĩa Lĩnh và cho khắc 2 bia đá dựng tại khu đền
thờ. Năm Duy Tân thứ sáu (1912) cho trùng tu cung
trong điên ngoài qui thứ như ngày nay. Năm Khải Định
thứ 7 (1922) lại cho sửa sang thêm Lăng mộ và trùng
tu đền Giếng thờ 2 công chúa Tiên Dung con vua Hùng
thứ 3 lấy Chử Đồng Tử và công chúa Ngọc Hoa, con vua
Hùng thứ 18 lấy Cao Sơn tức Sơn Tinh (Thánh Tản
Viên). Năm 1935, vua Bảo Đại cho trùng tu và mở rộng
thêm diện tích đền và cho dựng bia đá ngày 10 tháng
3 năm Canh Thìn “Đền vua Hùng là nơi thờ các vua họ
Hồng Bàng trong lịch sử tối cổ của nước Việt ta”.
Thời xưa, hàng năm tổ chức quốc lễ vào mùa Thu nhưng
đền đời vua Khải Định năm 1917, Tuần phủ Phú Thọ là
Lê Trung Ngọc xin bộ Lễ lấy ngày mồng 10 tháng 3 Aâm
lịch hàng năm làm Quốc lễ, trước ngày giỗ vua Hùng
thứ 18 một ngày.
* Theo cách tính
ngày tháng Việt Lịch của dân tộc, thì tháng 3 là
tháng Thìn, và đếm từ Tý trong 12 con giáp, thě ngŕy
10 lŕ ngŕy Dậu. Theo 12 địa chi, Dậu là gà, thuộc
lồi chim, và chim là biểu hiệu của Tiên. Cũng vậy,
địa chi Thìn đã mang nghĩa là Rồng. Ngày 10 tháng 3
là ngày Tiên, tháng Rồng. Ngày 10 tháng 3 được Tổ
Tiên chọn chính là để giúp con cháu dễ dàng nhận
thức về nguồn gốc dân tộc của mình. Ngày nay chúng
ta khơng những bảo lưu truyền thống giỗ Tổ Hùng
Vương mà cịn xem ngày 10-3 ÂL là ngày nhớ ơn bậc
sinh thành dưỡng dục mình nên người: “Ngày của Cha
mẹ (Parent’s Day)” đối với mọi người Việt Nam chúng
ta.
** Theo học giả Trần
Quốc Vượng thì Việt Trì và vùng xung quanh Vĩnh Phú
là đỉnh cao nhất của tam giác châu sơng Hồng. Sơng
Hồng là tên gọi cuối thế kỷ thứ XIX do màu nước của
sơng. Sách Thuỷ Kinh chú ở thế kỷ thứ VI gọi nĩ là
Tây Đạo, phiên âm từ một tên Tày cổ: Nậm Tao mà tên
Việt hiện nay cịn giữ được ở Việt Trì là sơng Thao.
Tam giác châu sơng Hồng được giới hạn bởi dải núi
Tam Đảo ở rìa Đơng Bắc và dải núi Tản Viên ở rìa Tây
Nam. Nĩi theo ngơn ngữ Phong thuỷ cận địa lý học thì
đất tổ với trung tâm điểm Việt Trì ở ngã ba Bạch Hạc
ngoảnh mặt hướng biển hậu chấm xa là dải Hồng Liên
Sơn chất ngất trời Nam, tay “Long” là dải Tam Đảo
với dưới chân nĩ là sơng Cà Lồ. Tay “Hổ” là dãy Tản
Viên với dưới chân nĩ là sơng Tích, sơng Đáy. Trước
mặt là sự “Tụ thuỷ” rồi “Tụ nhân””trên đơi bờ nhị
thuỷ với các đầm lớn trũng lầy như đầm Vạc Vĩnh Yên,
ao Vua, suối Hai Sơn Tây…Thế đất đĩ bảo đảm một viễn
cảnh phát triển ngàn năm, hơn bốn ngàn năn nếu tính
từ người Việt cổ Phùng Nguyên đến ngày nay. Bao
quanh điểm Việt Trì là những núi đồi lơ nhơ như bát
cơm mà dân gian hình dung thành bầy voi trăm con mà
tới 99 con chầu về đất tổ.
*** Tư tưởng vì dân
này mãi đến ngày 19-11 năm 1863, mới được Tổng Thống
Abraham Lincoln khẳng định “Nhất định sẽ khai sinh
nền tự do và chính phủ Của Dân, Do Dân và Vì Dân
nhất định sẽ khơng biến mất khỏi mặt địa cầu này”
tại lễ khánh thành Nghĩa trang Quốc gia tại
Gettysburg.
LỊCH SỬ VIỆT
NAM
QUỐC TỔ HÙNG
VƯƠNG
Sau những quyển Nguồn Gốc
Việt Tộc, Huyền Tích Việt, Đoạn Trường Bất Khuất,
Sơn Hà Nguy Biến, Hồng Sa Trường Sa, nay Phạm Trần
Anh mới cho ra thêm thêm Quốc Tổ Hùng Vương. Những
quyển Sơn Hà Nguy Biến và Hồng Sa Trường Sa nằm
trong một lãnh vực chính trị chống sự xâm lược của
Trung Cộng hiện nay mà tơi xin hẹn sẽ cĩ dịp nĩi
chuyện trong dịp khác. Hơm nay tơi chỉ xin đề cập
đến Quốc Tổ Hùng Vương mà thật ra cùng các tác phẩm
Nguồn Gốc Việt Tộc và Huyền Tích Việt nằm chung
trong một lãnh vực chung tơi gọi là “văn hiến Việt
Nam”.
Đoạn Trường Bất Khuất cho
thấy sĩ khí cao cả, bản tính cương cường, tinh thần
bất khuất của con người Phạm Trần Anh trong hơn hai
mươi năm trời sống đày đoạ, khổ sở trong lao tù cộng
sản. Con người đặc biệt này, nhân hoàn cảnh đau khổ
đó vừa để nghiền ngẫm về một chủ trương chính trị tố
giác những tệ hại của chế độ độc tài, phi nhân hiện
hữu của Việt Cộng và Trung Cộng, vừa để hết tâm trí
mình vào công cuộc suy tư sâu xa về nguồn gốc dân
tộc Việt và nền văn minh khá cao của dân tộc này từ
trước khi có sự bành trướng của văn hoá Hán tộc trên
khắp Trung Hoa ngày nay.
Các sử gia, các khoa học
gia, các học giả Việt Nam và ngoại quốc xưa nay cũng
đã có nhiều người từng nghiên cứu và viết về đề tài
này. Người ta đi tìm dấu vết, chứng tích, sưu tầm
tài liệu, phân tích, tìm cách cắt nghĩa, nêu ra giả
thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn hoá/văn
minh của giống dân này từ lúc khởi đầu. Phạm Trần
Anh cũng làm công việc đó, nhưng kết quả nghiên cứu
của ông cho thấy ông có cái nhìn mới mẻ hơn, thuyết
phục hơn về gốc tích, vùng địa lý và văn minh của
những người Việt thuở xa xưa.
Có ba nguồn tài liệu chính
mà xưa nay ai cũng tựa trên đó để tìm hiểu về đề tài
trên. Trước hết là những chứng tích lịch sử tìm thấy
trong sử Tàu. Hầu hết các sử gia Việt Nam và ngoại
quốc từ trước tới giờ thường hay dựa trên sử Tàu để
viết nên sử Việt mà không để công đánh giá cho thật
đúng những sử liệu này. Phạm Trần Anh đã để công
phân tích và nhận định khá rõ ràng chính xác về tâm
lý (mặc cảm tự tôn) của những người Trung Hoa tác
giả của những bộ sử đó. Ông cho thấy phần đông các
nhà viết sử Trung Quốc đều có mặc cảm tự tôn với
định kiến xem dân tộc Việt là một loại dân mọi (Nam
Man và Đông Di), kém văn minh, xem nước Việt như một
nước phụ dung luôn tùng phục nước Tàu, cho nên họ
không bao giờ chấp nhận những sự thật lịch sử nào
cho thấy có sự thấp kém của Trung Hoa đối với Việt
Nam. Bởi khuynh hướng chung tự tôn đó của các nhà
viết sử Tàu nên một số những sự thật lịch sử đã bị
bóp méo.* Theo ông những sự thật lịch sử này chỉ có
thể tìm thấy trong những tác phẩm của những người
Việt viết ra và thường bị các sử gia Trung Quốc gạt
ra ngoài chính sử của họ. Thành ra những ai chỉ dựa
trên các bộ sử của Tư Mã Thiên, hay những bộ Tiền
Hán Thư, Hậu Hán Thư, Đường Thư, Lương Thư . . . đều
có thể đi vào con đường sai lầm cố tình của Trung
Quốc. Theo ông thì người Việt chúng ta nên khai thác
những bô sử do chính người Việt mình viết mới có hy
vọng đến gần với sự thật hơn.
Một nguồn tài liệu quan
trọng nữa mà xưa nay những nhà viết sử đã hoặc coi
thường, hoặc không biết khai thác nên đã không có
cái nhìn đúng về toàn thể nền văn minh gốc của người
Việt. Nguồn tài liệu đặc biệt đó là huyền sử, truyền
thuyết về giồng giống người Việt. Phần lớn chúng ta
đều biết những truyền thuyết Rồng-Tiên, Lạc Long
Quân-Âu Cơ, chuyện 100 trứng nỡ ra 100 người con
trai, chuyện 50 theo cha xuống biển, 50 người theo
mẹ lên núi, chuyện mười tám đời Hùng Vương, chuyện
Phù Đổng Thiên Vương, chuyện nỏ thần, chuyện Trọng
Thuỷ-Mỵ Châu. . . Tất cả những sách sử về Việt Nam
đều có đề cập đến những truyền thuyết này nhưng hầu
hết đều xem như những câu chuyện thần thoại, không
có giá trị khoa học đối với nhà viết sử, và do đó
không có liên hệ chặt chẽ với sự thật lịch sử. Phạm
Trần Anh, trái lại, đặt nặng giá trị của huyền sử
đối với lịch sử đúng thật của dân tộc Việt Nam. Theo
ông ý nghĩa của các câu chuyện, tên của các nhân
vật, địa danh trong các câu chuyện đều mật thiết
liên hệ tới vùng địa lý và nền văn minh xưa của dân
tộc Việt Nam. Đối với ông huyền sử Việt là một kho
tàng tài liệu rất có giá trị lịch sừ nếu người ta
biết triệt để khai thác và ông đã làm công việc đó
qua tác phẩm “Huyền Tích Việt” của ông. Từ những dấu
vết tìm thấy trong những sách sử do người Việt sáng
tác mà người Trung Hoa đã gạt bỏ ra ngoài chính sử
của họ đến những tên người, địa danh, cùng ý nghĩa
của các huyền sử Việt, Phạm Trần Anh đã dựng lại
buổi đầu của giống nòi Lạc Việt trên vùng đất bao la
của cả hơn phân nữa nước Tàu ngày nay trải dài từ
phía Nam sông Hoàng Hà xuống tận đồng bằng sông Hồng
ở Bắc Việt, với những đặc tính văn hoá đã mở mang mà
người Hán khi vào xâm chiếm Trung Quốc đã phải học
hỏi, thấm nhuần và chiếm hữu, biến thành văn hoá
Trung Quốc.
Nước Việt mênh mông với nền
văn hoá mở mang từ thuở xa xưa đó cũng đã được Phạm
Trần Anh đối chiếu với nguồn tài liệu thứ ba, là kết
quả của những công trình nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học như văn hoá xã hội học (anthropology), khảo
cổ học (archeology), sinh vật học (biology), ngôn
ngữ học (linguistic), khoa di truyền (nghiên cứu
chủng tộc theo DNA). Kết quả của những công trình
nghiên cứu khoa học này phần lớn cho thấy giả thuyết
của Phạm Trần Anh có giá trị đúng về nước Việt và
nền văn hoá xưa của dân tộc Việt trước khi bị Hán
tộc xâm chiếm.
Quốc Tổ Hùng Vương
với những chương “Truyền Thuyết Khởi Nguyên Dân
Tộc”, “Huyền Thoại Rồng Tiên , Bức Thơng Điệp Lịch
Sử”, đào sâu thêm về tính chắc thực cũng như ý nghĩa
sâu xa của nguồn gốc dân tộc Việt qua hình ảnh của
Hùng Vương , người đã khai sáng ra nước Việt. Người
đĩ là ai? Cĩ phải là “Hậu Duệ của Thần Nơng” khơng?
Phạm Trần Anh đi tìm câu trả lời trong cái mịt mù
của cổ sử.
Một nhà văn Pháp bảo
“l’historian est le romancier du passé”. Sử gia phải
nhờ đến sức tưởng tượng của mình chắc khác gì một
nhà viết tiểu thuyết để tìm mơ tả lại lịch sử trong
quá khứ xa xơi mịt mù của thời gian. Ở đây Phạm Trần
Anh cũng phải bỏ nhiều cơng phu truy tầm để làm sống
lại cả một thời xa xơi mấy ngàn năm xưa. Bách Việt
là gì? Liên hệ thế nào với truyền thuyết “trăm
trứng”, và với danh xưng trăm họ? Ở thời tiền sử xa
xơi đĩ nước Việt đã cĩ một trình độ văn minh như thế
nào, người Việt đã cĩ một nền minh triết ảnh hưởng
đến tư tưởng của người Trung Hoa (Hán Tộc) như thế
nào?
Đọc Quốc Tổ Hùng Vương
người Việt của chúng ta ngày nay sẽ rất hãnh diện
với nguồn gốc dân tộc mình cũng như với nền văn hiến
mấy nghìn năm của dân tộc Việt mà xưa nay khi nĩi
đến từ ngữ “bốn ngàn năm văn hiến” đã cĩ khơng ít
người cĩ vẽ nghi ngờ khơng dám chắc. Phạm Trần Anh
đưa ra nhiều lý lẽ và chứng cứ để biện minh một cách
thuyết phục là dân Việt Nam đã thật sự cĩ gần năm
ngàn năm văn hiến.
Cùng với quyển Nguồn Gốc
Dân Tộc Việt, và quyển Huyền Tích Việt, quyển Quốc
Tổ Hùng Vương của Phạm Trần Anh góp phần rất lớn vào
công việc tìm hiểu nguồn gốc của người dân Việt, tìm
hiểu nước Việt lớn lao xưa, và nhất là tìm hiểu
trình độ văn minh của người Việt từ hàng ngàn năm
trước. Kết quả của nhiều năm nghiền ngẩm, nghiên cứu
của ông đã giúp chúng ta có những kiến thức vững
chắc hơn về nền văn hiến của chúng ta, chính nền văn
hiến đó đã là nền tảng của văn hoá Trung Hoa sau này
chớ không phải ngược lại. Người Hán đã vào Trung
Quốc, xâm chiếm đất nước này, bành trướng về phương
Nam lấn áp nước Việt xưa. Chính người Hán đã học
hỏi, thấm nhuần văn hoá Việt thuở xa xưa, chiếm lấy
văn hoá Việt làm văn hoá Trung Hoa, rồi lại đem văn
hoá đó ảnh hưởng lại người Việt chúng ta sau này khi
họ xâm lấn đô hộ dân mình.
Công trình biên soạn của
Phạm Trần Anh đem lại nhiều hãnh diện cho dân tộc
Việt Nam. Huyền Tích Việt cũng như Nguồn Gốc Dân Tộc
Việt và Quốc Tổ Hùng Vương rất xứng đáng có một chỗ
đứng quan trọng trong tủ sách của người Việt Nam,
nhất là cho các thế hệ sau này.
Nguyễn Thanh Liêm
* Theo tác giả vì
Hán tộc là dân du mục nên có mặc cảm tự ti trước văn
hĩa Việt nên từ mặc cảm tự ti trở thành tự tơn xem
thường các dân tộc khác.
LỜI NÓI ĐẦU
Mỗi
dân tộc đều có những truyền kỳ lịch sử được thần
thoại hoá thể hiện lòng tự hào dân tộc mang tính sử
thi của mình. Thật vậy, huyền thoại Rồng Tiên về
ngọn nguồn huyết thống Việt tuy đượm vẻ huyền hoặc
nhưng lại tràn đầy tính hiện thực, thấm đậm nét nhân
văn của truyền thống nhân đạo Việt Nam. Huyền sử con
Rồng cháu Tiên là niềm tự hào của nòi giống Việt. Đã
là người Việt Nam thì từ em bé thơ ngây đến cụ già
trăm tuổi, từ bậc thức giả uyên bác đến bác nông dân
suốt đời chân lấm tay bùn, không ai không một lần
nghe truyện cổ tích Họ Hồng Bàng. Thật vậy, ai trong
chúng ta mà không biết về nguồn cội Rồng Tiên với
thiên tình sử của “Bố Lạc Mẹ Âu” mở đầu thời kỳ mở
nước của dòng giống Việt.
Truyền thuyết
Việt Nam nói đúng hơn đó là truyền kỳ lịch sử Việt
Nam được hư cấu dưới lớp vỏ huyền thoại nhưng thực
chất lại đề cao con người với ý nghĩa nhân bản
truyền thống. Truyền thuyết Việt Nam biểu trưng một
triết lý văn hoá cao đẹp không những thấm đậm tính
nhân đạo, chan chứa vẻ nhân văn, tràn đầy tình đồng
bào, nghĩa ruột thịt qua hình tượng “Bọc
điều trăm trứng nở trăm con”. Từ ý niệm đồng
bào dẫn đến lòng yêu nước, thương nòi, yêu quê cha
đất tổ, tất cả đã trở thành giá trị đạo lý truyền
thống của nền văn minh đạo đức Việt Nam. Henri
Bernard Maitre đã ca tụng nét đẹp văn hiến của Việt
tộc qua đền thờ gọi là “Văn miếu”. Văn Miếu không
phải để cầu kinh hay làm bùa phép mà là nơi trang
trọng ghi ơn các anh hùng dân tộc, các danh nhân văn
hoá, các vị Tiến sĩ với những chuẩn mực đạo đức để
con cháu đời sau ghi sâu vào tâm khảm bài học về đạo
làm người Việt Nam, xứng đáng với hoài bão của Tiền
Nhân.
Đối với người
Việt, việc thờ cúng Ông bà Tiên tổ là đạo lý làm
người, một phần trong đời sống tâm linh của người
Việt. Từ xa xưa người Việt coi trọng đạo nghĩa nên
thường nghĩ tới ngày giỗ của người thân hơn là chú
trọng đến ngày sinh nhật của mình. Ngày nay, dù giới
trẻ quan tâm nhiều đến ngày sinh nhật nhưng cũng
không quên những ngày kỵ giỗ người thân trong gia
đình. Đạo thờ cúng ông bà là một “Việt đạo” thể hiện
đạo lý làm người của Việt tộc. Linh mục Cadière một
thừa sai ngoại quốc đến Việt Nam truyền giáo phải
thốt lên “Việt Nam là một dân tộc có
tinh thần tôn giáo cao độ”.
Học giả P. Mus
nghiên cứu về Việt Nam cũng thừa nhận rằng “Dân tộc Việt có một đời sống tâm linh
cao, người Việt không làm việc, họ tế tự”.Thật
vậy, người ngoại quốc ngạc nhiên khi thấy “Mỗi gia đình Việt Nam là một nhà thờ, nhà
nào cũng có bàn thờ gia Tiên ở chính giữa nhà.
Trong đời sống tâm linh Việt, Nhất cử nhất động,
việc gì cũng tràn đầy tính chất thiêng liêng, thờ
phượng, tế lễ, cúng giỗ với tất cả tấm lòng chí
thành. Đây chính là điểm đặc thù độc đáo thấm đậm
bản sắc dân tộc, tràn đầy vẻ nhân văn của triết lý
văn hoá nhân chủ. Thật vậy, trong đời sống tâm
linh Việt không chỉ hiển hiện ở bàn thờ Gia Tiên
mà đền thờ ngự trong tâm thức mỗi người. Người
Việt không tham dự vào các buổi lễ để được ban
phát ân sủng, mà họ hiệp thông cầu nguyện như một
người “Tư Tế” với tất cả tính chất thiêng liêng
của một tôn giáo”. Điều này thể hiện giá trị
cao đẹp đặc trưng đời sống tinh thần của người Việt
cổ.
Thờ cúng
tổ tiên chính là đạo lý làm người, là cái gì thiêng
liêng cao cả truyền từ đời này sang đời khác. Chính
dòng sống tâm linh này đã góp phần bảo tồn dòng
giống Việt. Truyền thống thờ cúng ông bà không còn
là một tập tục, một tín ngưỡng đơn thuần mà đã trở
thành đạo lý của dân tộc. Đạo thờ cúng ông bà được
xem như Tổ Tiên chính giáo của đạo làm người Việt
Nam mà Nguyễn Đình Chiểu một sĩ phu yêu nước thế kỷ
XIX đã ân cần nhắc nhở “Thà đui mà giữ
đạo nhà, Còn hơn sáng mắt ông cha không thờ”.
Người Việt Nam ai cũng biết uống nước phải nhớ nguồn
vì “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ
như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính
cha, cho tròn đạo hiếu mới là đạo con ..! Ơn cha
mẹ thề không lỗi đạo, Thờ sống sao thờ thác làm
vầy. Công cha nghĩa mẹ xưa nay, Con nguyền ghi nhớ
thảo ngay một lòng”.
Đây chính là
điểm độc đáo của dòng sống tâm linh Việt vẫn tiếp
nối truyền lưu trong mỗi con người Việt Nam chúng ta
hôm nay và mãi mãi về sau. Thật vậy bên cạnh đời sống thực tế khổ đau
trước mắt, vẫn hiển hiện một đời sống tâm linh sâu
thẳm thấm đậm tính nhân bản hiện thực cao đẹp. Chính
dòng sống tâm linh đó đã tạo cho mỗi người Việt Nam
một quan niệm sống lạc quan yêu đời, an nhiên tự tại
nhưng vẫn sẵn sàng hy sinh mạng sống cho nền độc lập
thực sự, quyền tự do thực sự và sự ấm no hạnh phúc
thực sự cho toàn dân Việt Nam.
Lịch sử Việt
là lịch sử của sự thăng trầm từ khi lập quốc đến
ngày nay trải qua hàng ngàn năm đô hộ của giặc Tàu,
gần một trăm năm nô lệ giặc Tây và hơn nửa thế kỷ nô
dịch văn hóa ngoại lai. Trong suốt trường kỳ lịch
sử, Hán tộc bành trướng với ưu thế của một nước lớn
đất rộng người đông cùng với những thủ đoạn thâm độc
quỉ quyệt xóa đi mọi dấu vết cội nguồn, bóp méo sửa
đổi lịch sử khiến thế hệ sau chỉ biết tìm về lịch sử
trong một mớ “chính sử” hỗn độn mơ hồ. Mỗi một triều
đại Hán tộc đều chủ tâm thay đổi địa danh, thủy danh
xưa cũ của Việt tộc cùng với ảnh hưởng nặng nề của
một ngàn năm đô hộ của sự nô dịch văn hóa khiến ta
chấp nhận tất cả như một sự thật mà không một chút
bận tâm. Thế nhưng, lịch sử vẫn là lịch sử của sự
thật dù bị sửa đổi vùi lấp hàng nghìn năm dưới ánh
sáng của chân lý khách quan trước thềm thiên niên kỷ
thứ ba của nhân loại.
Bước sang
thiên niên kỷ thứ ba, ánh sáng của sự thật soi rọi
vào quá khứ bị che phủ hàng ngàn năm bởi kẻ thù Hán
tộc bành trướng. Trong thiên niên kỷ thứ hai, nhân
loại sửng sốt trước cái gọi là “Nghịch lý La Hy” khi
trước đây nhân loại cứ tưởng tất cả nền văn minh Tây
phương là của đế quốc Hy Lạp La Mã để rồi phải xác
nhận đó chính là nền văn minh của Trung Quốc. Cuối
thiên niên kỷ thứ hai, nhân loại lại ngỡ ngàng khi
thấy rằng cái gọi là nền văn minh Trung Quốc lại
chính là nền văn minh của đại chủng Bách Việt.
Vấn đề đặt ra
cho chúng ta là phải nhìn lại toàn bộ lịch sử Việt
để phục hồi sự thật của lịch sử để xóa tan đám mây
mờ che lấp suốt mấy ngàn năm lịch sử bởi kẻ thù
truyền kiếp của dân tộc. Trong lịch sử nhân loại, có
lẽ không một dân tộc nào chịu nhiều mất mát trầm
luân như dân tộc Việt với những
thăng trầm lịch sử, những khốn khó thương đau. Ngay
từ thời lập quốc, Việt tộc đã bị Hán tộc với sức
mạnh của tộc người du mục đã đánh đuổi Việt tộc phải
rời bỏ địa bàn Trung nguyên Trung quốc xuống phương
Nam để rồi trụ lại phần đất Việt Nam bây giờ. Trải
qua gần một ngàn năm đô hộ, với chiến thắng Bạch
Đằng Giang năm 938 của Ngô Quyền mới chính thức mở
ra thời kỳ độc lập của Việt tộc.
Trong suốt
trường kỳ lịch sử, tuy bị Hán tộc xâm lấn phải bỏ
trung nguyên xuống phương Nam nhưng nền văn hóa của
Việt tộc đã thẩm nhập vào đất nước và con người Hán
tộc để hình thành cái gọi là văn minh Trung Quốc.
Chính sử gia chính thống của Hán tộc là Tư Mã Thiên
đã phải thừa nhận một sự thực là: “Việt
tuy gọi là man di nhưng tiên khởi đã có đại công
đức với muôn dân vậy ..!”. Vạn thế sư biểu của
Hán tộc là Khổng Tử đã ca tụng nền văn minh rực rỡ,
xác nhận tính ưu việt của nền văn minh Bách Việt ở
phương Nam. Trong sách Trung Dung Khổng Tử đã viết
như sau:
“Độ luợng bao dung, khoan hòa giáo hóa,
không báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương
Nam, người quân tử ở đấy..! Mặc giáp cưỡi
ngựa, xông pha giáo mác, đến chết không chán, đó
là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ cường đạo ở đó
..”.
Trong kinh
“Xuân Thu”, Khổng Tử đã ghi lại bao nhiêu trường hợp
cha giết con, con giết cha, cha cướp vợ của con, con
cướp vợ của cha, anh chị em dâm loạn với nhau, bề
tôi giết chúa … Điều này chứng tỏ Hán tộc du mục vẫn
còn dã man mạnh được yếu thua, bất kể tình người,
bất kể luân lý đạo đức. Thế mà chính sử Trung Quốc
cứ vẫn sao chép Việt tộc là man di, các Thứ sử Thái
Thú Hán vẫn lên mặt giáo hóa dân Việt trong khi Bách
Việt ở phương Nam đã đi vào nền nếp của văn minh
nông nghiệp từ lâu.
“Vạn thế Sư
biểu” của Hán tộc là Khổng Tử cũng đã phải đem những
nghiên cứu, sưu tập, học hỏi của nền văn minh Bách
Việt phương Nam đặt để thành những quy luật, trật tự
cho xã hội phương Bắc. Tất cả những “Tứ thư, ngũ
kinh” được xem như tinh hoa của Hán tộc đã được
chính Khổng Tử xác nhận là ông chỉ kể lại “Thuật nhi
bất tác”, sao chép lại của tiền nhân chứ không phải
do ông sáng tác ra. Ngày nay, sự thật lịch sử đã
được phục hồi khi giới nghiên cứu đều xác nhận hầu
hết các phát minh gọi là văn minh Trung Quốc từ nền
văn minh nông nghiệp đến văn minh kim loại, kỹ thuật
đúc đồng, cách làm giấy, cách nấu thủy tinh, cách
làm thuốc súng, kiến trúc nóc oằn mái và đầu dao
cong vút … tất cả đều là của nền văn minh Bách Việt.
Chính một vị
vua của Hán tộc, Hán Hiến Đế đã phải thừa nhận như
sau:
“Giao Chỉ là đất
văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn
vật khả quan, nhân tài kiệt xuất ..!”.
Bước
sang thế kỷ XX, dân tộc Việt chưa tháo gỡ được cái
ách thống trị của thực dân Pháp thì chủ nghĩa cộng
sản đã tràn vào Việt Nam đưa dân tộc Việt vào thế
khốn cùng. Cộng sản Việt Nam đã núp dưới chiêu bài
giải phóng dân tộc để bành trướng chủ nghĩa cộng
sản, tạo cơ hội cho tư bản nhân danh thế giới tự do
nhảy vào can thiệp, ngăn chặn làn sóng đỏ xuống Đông
Nam Á. Hậu qủa là gần một chục triệu người đã phải
hi sinh oan uổng để rồi hơn tám mươi sáu triệu đồng
bào đang phải sống dở chết dở dưới chế độ cộng sản
bạo tàn phi nhân và đất nước Việt Nam ngày nay vẫn
còn là một đất nước nghèo nàn nhất thế giới. Với chủ
trương nô dịch của cộng sản, biết bao thế hệ Việt
Nam bị nhồi nhét nền văn hóa Mác-Lê phi nhân tàn bạo
mà hậu qủa là tạo ra những cỗ máy vô hồn, những con
người vô cảm lạnh lùng, mất gốc.
Hơn
ba triệu đồng bào Việt tự do nên thế hệ con em chúng
ta ở hải ngoại phần nào bị ảnh hưởng của văn hóa
ngoại lai mang tinh thực dụng, quên đi bản sắc văn
hóa truyền thống Việt chan chứa tình người. Chính vì
vậy, vấn đề hết sức khẩn thiết là làm sao phải phục
hoạt văn hóa Việt, phục hưng minh triết Việt để tẩy
rửa mọi ý hệ ngoại lai, mọi ý đồ thẩm nhập văn hóa
“Đại Hán” đang được những tên “Thái thú mới” xác
Việt hồn Tàu đang thi hành mệnh lệnh của quan thầy
Trung Cộng ra sức nhồi sọ dân tộc Việt. Hơn lúc nào
hết, tìm về nguồn cội dân tộc là một yêu cầu lịch sử
để thế hệ con em chúng ta hiểu rõ về bản sắc văn hoá
truyền thống của dân tộc Việt, hiểu rõ về huyền
thoại Rồng Tiên, về Quốc Tổ Hùng Vương thời lập
quốc, về đời sống văn hoá tâm linh Việt, về những lễ
tết, hội hè đình đám của dân tộc Việt. Để từ đó, thế
hệ con em chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về cội nguồn dân
tộc, thấy rõ hơn gía trị cao đẹp của bản sắc văn hóa
truyền thống Việt, hãnh diện tự hào là “con Rồng
cháu Tiên” của một dân tộc có gần năm ngàn năm văn
hiến. Chúng ta phải cùng nhau
tìm hiểu rõ hơn về cội nguồn dân tộc để thấy rõ hơn
giá trị cao đẹp của bản sắc văn hóa truyền thống
Việt. Chúng ta có quyền tự hào là “con Rồng cháu
Tiên” của một dân tộc có gần năm ngàn năm văn hiến,
chúng ta hãnh diện được làm người Việt Nam yêu nước
thương nòi ngẩng cao đầu sánh vai Nam đã phải bỏ
nước ra đi tìm cùng các cường quốc trong thiên niên
kỷ thứ ba của nhân loại.
Chúng ta
phải làm sao xứng đáng với tiền nhân, chúng ta phải
làm gì để không hổ thẹn với hồn thiêng sông núi, với
anh linh của những anh hùng liệt nữ Việt Nam. Toàn
thể đồng bào trong nước và Hải ngoại cùng nắm chặt
tay nhau, muôn người như một cùng đứng lên đáp lời
sông núi để cứu quốc và hưng quốc, tô điểm giang sơn
gấm vóc, xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng.
Chính
niềm tự hào dân tộc sẽ thôi thúc lòng yêu nước của
thế hệ trẻ, phấn kích ý chí vươn lên làm một cuộc
cách mạng xã hội, cách mạng khoa học kỹ thuật siêu
vượt ngõ hầu sánh vai cùng các cường quốc trong
thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.
Mùa Giỗ Tổ
4.889Việt Lịch (2010 DL)
TRUYỀN THUYẾT
KHỞI NGUYÊN
DÂN TỘC
Mỗi dân
tộc đều có những truyền kỳ lịch sử được thần thoại
hoá thể hiện lòng tự hào dân tộc mang tính sử thi
của dân tộc đó. Nữ sĩ Blaga Dimitrova cũng như nhiều
học giả ngoại quốc khác đã hết sức ngạc nhiên xen
lẫn thán phục khi nghiên cứu về lịch sử Việt Nam,
một dân tộc mà huyền thoại và hiện thực đan quyện
hoà lẫn với nhau đến độ khó có thể phân biệt đâu là
huyền thoại đâu là hiện thực nữa. Thật vậy, huyền
thoại Rồng Tiên về cội nguồn huyết thống Việt tuy
đượm vẻ huyền hoặc nhưng lại tràn đầy tính hiện
thực, thấm đậm nét nhân văn của truyền
thống nhân đạo Việt Nam.
Là người
Việt Nam, từ em bé thơ ngây đến cụ già trăm tuổi, từ
bậc thức giả đến bác nông dân chân lấm tay bùn, ai
cũng một lần được nghe truyền thuyết Rồng Tiên.
Chúng ta tự hào là con Rồng cháu Tiên của Bố Lạc Mẹ
Âu với thiên tình sử đẹp như một áng sử thi mở đầu
thời kỳ dựng nước của dòng giống Việt. Truyện họ
Hồng Bàng về khởi nguyên dân tộc, lần đầu tiên được
Hồ Tông Thốc chép trong tác phẩm “Việt Nam thế chí”
vào thế kỷ XIV đời Trần nhưng sách đã bị quân Minh
tịch thu tiêu huỷ nên không còn nữa. Đầu thế kỷ XIV,
Trần Thế Pháp và Lý Tế Xuyên đời Trần đã chép lại
những truyền thuyết dân gian vào bộ sách “LĨNH NAM
TRÍCH QUÁI” và “VIỆT ĐIỆN U LINH” để truyền lưu cội
nguồn giống dòng Việt cho đời sau. Trần Thế Pháp tác
giả Lĩnh Nam Trích Quái viết: “Từ thời
Xuân Thu Chiến Quốc chưa có quốc sử để ghi chép
cho nên nhiều truyện bị mất đi, may còn truyện nào
không bị thất lạc được dân gian truyền miệng thì
đó là SỬ ở trong truyện chăng? Than ôi, Lĩnh Nam
Liệt truyện sao không khắc vào đá, viết vào tre mà
chỉ truyền tụng ở ngoài bia miệng !? Từ đứa trẻ
đầu xanh đến cụ già tóc bạc đều truyền tụng và yêu
dấu, lấy đó làm răn, rất quan hệ đến cương thường,
phong hoá. Ôii ! Há đâu phải là điều lợi nhỏ
???”.
Năm 1329, Lý
Tế Xuyên viết Việt Điện U Linh cũng ấp ủ hoài bão
bảo lưu truyền thuyết về nguồn cội dân tộc nên ông
cho rằng: “Xem truyện họ HỒNG BÀNG thì
hiểu lai do việc khai sáng nước HOÀNG VIỆT. Trời
đã sai chim huyền điểu giáng thế sinh ra vua
Thương thì hẳn có việc trăm trứng nở thành trăm
con trai chia trị Nam quốc. Truyện họ Hồng Bàng
không thể mất được”. Học giả Lê Quí Đôn trong
“Kiến văn Tiểu lục” viết năm 1777 đã nhận định: “Hồi đầu niên hiệu Khai Hựu (1329-1341)
nhà Trần, Lý Tế Xuyên phụng mệnh chép Việt Điện U
Linh tập, ghi đền miếu thờ các vị thần, có trình
bày hạo khí linh tích 8 vị Đế vương Lịch đại và 12
vị nhân thần. Sách này lời văn trang nghiêm, sự
việc xác thực, cũng tỏ ra tài nhà sử học lành
nghề. Trong sách có dẫn Giao Châu ký của Tăng Cổn,
Sử ký của Đỗ Thiện và truyện Báo cực. Những sách
này đều không còn thấy lưu truyền ..!”.
Mãi đến
đời Lê, sử gia Ngô Sĩ Liên mới chính thức đưa thời
đại Hùng Vương vào bộ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ. Quan
niệm của ông khi viết sử là để “Xét rõ
nguồn gốc xưa nay của trị loạn để bạo biếm khen
chê răn đời”. Ngô Sĩ Liên tuy mới chép thời
đại Hùng Vương trong phần ngoại kỷ chứ chưa chính
thức ghi vào chính sử cốt ý để cho thế hệ đời sau
soi sáng cội nguồn qua các công trình nghiên cứu để
minh nhiên lý giải nguồn gốc dân tộc. Sử gia Ngô Sĩ
Liên viết:
“Nước ĐẠI VIỆT
ta ở về phía Nam Ngũ Lĩnh, thế là Trời đã chia bờ
cõi Nam Bắc hẳn hòi. Thủy tổ của ta là con cháu
Thần Nông. Trời đã sinh ra vị chân chúa vì thế mới
cùng Bắc triều đều làm chúa Tể một phương”.
Đại Việt Sử ký
Toàn thư chép về họ Hồng Bàng như sau: “Xưa
cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh
sinh ra Đế Nghi, Rồi sau Đế Minh đi tuần du phương
Nam, đến dãy Ngũ Lĩnh gặp Vụ Tiên nữ sinh ra Vương
(Lộc Tục). Vương là bậc Thánh trí thông minh. Đế
Minh yêu quí lạ thường, muốn cho nối ngôi. Vương
cố nhường cho anh mình, không dám vâng mệnh. Đế
Minh vì thế lập Đế Nghi là con trưởng nối dòng trị phương Bắc. Lại phong
cho vua là Kinh Dương Vương, trị phương Nam, đặt
t&ececirc;n nước là Xích Quỉ. Vương lấy con
gái Chúa Động Đình tên là Thần Long, sinh ra Lạc
Long Quân. Lạc Long Quân huý là Sùng Lãm, nhà vua
lấy con gái của Đế Lai là nàng Âu Cơ, sinh ra trăm
trai. Tục truyền là sinh ra trăm trứng, ấy là Tổ
của Bách Việt (Trăm giống Việt). Một
hôm vua bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống Rồng,
nàng là giống Tiên, thuỷ hoả khắc nhau, sum hợp
thật khó”. Bèn cùng nàng từ biệt, chia năm chục
con theo mẹ về núi, năm chục con theo cha về miền
Nam. Có sách chép là về biển Nam. phong con cả là Hùng Vương nối
ngôi”.
Truyền
thuyết thoạt nghe có vẻ hoang đường huyền hoặc thế
nhưng vấn đề là chúng ta phải đặt mình vào thuở ban
sơ cách đây mấy ngàn năm mới thấy rõ Tổ tiên ta đã
sống ra sao và suy nghĩ thế nào ở thời cổ đại? Từ đó
mới có thể hiểu được những gì mà Tổ tiên ta đã gửi
gấm cho chúng ta qua bức thông điệp lịch sử đó. Làm
sao có chuyện trứng nở ra người? Chi Âu Việt của
người Việt cổ chọn vật linh biểu trưng là chim nên
mẹ Âu đẻ ra trăm trứng là như thế. Chim Phượng Hoàng
của người Việt tung cánh bay theo hướng mặt trời,
vừa diễn tả ý niệm người Việt thiên cư dần về hướng
Đông xuống miền bể, mặt khác chim bay lên trời cao
được huyền thoại hóa thành hình tượng Tiên trong tâm
thức của người Việt cổ. Thật ra chữ “Tiên” bao gồm 2
chữ Sơn (núi) và nhân (người) nên ý người xưa chỉ
muốn diễn tả là người ở trên miền núi (chi Âu Việt)
mà thôi.
Mỗi
dân tộc đều có những truyền thuyết độc đáo mang sắc
thái đặc thù biểu trưng riêng của dân tộc đó. Vì thế
ngay cả những dân tộc mà ngày nay được xem là văn
minh cũng đều có một con vật biểu trưng cho dòng
giống như Ấn Độ là voi, Tàu là con cọp, Pháp là con
gà trống Gaulois, Anh là con sư tử, Mỹ là con chim
Ưng (đại bàng) nên Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ lấy chim
đại bàng và Pháp lấy con gà làm quốc huy cho cả
nước.
Theo cơ cấu
luận thì Sử ký là sử hàng ngang ghi chép các biến
cố, các sự kiện thực tế với những con người cụ thể
theo năm tháng, còn Huyền sử được gọi là Sử hàng dọc
mang tính tâm linh, xoay quanh những tác động lý
tưởng biểu thị bằng những hình tượng nguyên sơ giàu
phổ biến tính. Thật vậy, cái biểu tượng uyên nguyên
đó có thật như một lý tưởng nhưng chưa hiện thực
được. Đó là những nguyên lý được kết tinh và tiềm ẩn
trong đời sống tâm linh của một dân tộc như trong
huyền sử Rồng Tiên thì Âu Cơ chỉ là hình tượng
nguyên sơ.
Mẹ Âu Cơ
là chi tộc thờ chim của Việt tộc nên việc mẹ đẻ ra
một cái bọc trăm trứng
là chuyện bình thường cũng như cái bọc không chỉ nói
về cái bọc mà nó biểu tượng cho ý niệm công thể, ý
nghĩa của 2 chữ đồng bào cùng chung một bào thai của
mẹ Âu Cơ. Cũng thế trăm con không nhất thiết phải là
một trăm mà hàm ý số nhiều và quan trọng nhất là thư
tịch cổ Trung Hoa chép về cộng đồng Bách Việt, đã
chứng minh sự thật lịch sử của huyền thoại mà ta cứ
tưởng là huyền hoặc hoang đường.
Ngày nay
không ai phủ nhận được giá trị của huyền thoại và truyền thuyết
được coi như lịch sử dân gian mà đôi khi nó có giá
trị trung thực hơn cái gọi là chính sử của các chế
độ độc tài xưa và nay. Beaudelaire một thi sĩ nổi
tiếng đã nhìn nhận sức mạnh của truyền thuyết huyền
thoại vì đó là “Sử cô đọng của các dân
tộc”. Đại văn hào Pháp Victor Hugo khi viết
“Truyện kỳ các thời đại” ông đã tìm về nguồn cội,
khai thác các truyền thuyết thần thoại xa xưa vì
theo ông, đó là “Lịch sử được lắng nghe
ở ngưỡng cửa của truyền thuyết. Truyền kỳ có phần
nào hư cấu nhưng tuyệt đối không có ngụy tạo”.
Thật vậy, truyền thuyết tự thân nó không phải là
lịch sử biên niên nhưng truyền thuyết là có thật, nó
phản ảnh những ý nghĩa có thật của một thời lịch sử
ban sơ mà người xưa ký thác vào đó dưới lớp vỏ hư
cấu huyền hoặc để truyền lưu gửi gấm cho những thế
hệ sau. Một triết gia nói: “Tất cả nền minh triết cũng như trí
khôn loài người đều ẩn tàng
trong các huyền thoại, truyền kỳ lịch sử dân gian”.
Vấn đề là phải
làm sao hiểu được những lý tưởng uyên nguyên, những
tâm linh sâu thẳm hàm tàng ẩn chứa qua những hình
tượng nguyên sơ trong đó. “Tất cả đã
được nói rồi trong các thần thoại, vấn đề chúng ta
là chỉ còn phải tìm hiểu” như P.Ricoeur đã
viết. Nói theo Jung, một triết gia thời đại thì: “Truyền thuyết huyền thoại hàm chứa những
ý nghĩa lịch sử trung thực nhất, vì nhân vật thần
thoại là sản phẩm đúc kết biết bao suy tư của một
thời đại tạo dựng nhưng nó phải chờ thế hệ sau
diễn đạt bằng ngôn từ minh nhiên lý giải”.
Ngày nay
không ai phủ nhận được giá trị của huyền thoại và
truyền thuyết được coi là lịch sử dân gian có giá
trị trung thực hơn cái gọi là “chính sử” tại một số
nước độc tài hiện nay. Nói cách khác như Jung, một
triết gia thời đại thì “Huyền thoại là
đạo sống của một dân tộc” mà theo Wallace
Cliff thì “Nếu dân tộc nào để mất đi
huyền thoại là đánh mất mạch nối vào nguồn cội quá
khứ của tổ tiên và cũng sẽ mất luôn căn bản cho
việc xây dựng tiền đồ của dân tộc đó”. Thật
vậy Laurens va de Post đã xem huyền thoại là di sản
thiêng liêng nhất vì nó diễn tả tinh thần dân tộc ở
mức độ cao nhất. Micia Eliado cũng cho rằng “Huyền thoại là gia sản quí báu nhất vì
tính chất thiêng liêng điển hình và mang lại ý
nghĩa sống cho cả một dân tộc”. Lịch sử đã
chứng minh lời của Karl Jung là “Dân tộc
nào quên đi huyền thoại thì dân tộc đó dù là những
dân tộc văn minh nhất sớm muộn cũng sẽ tiêu vong”.
Trong lịch sử loài người, nhiều cộng đồng người đã
không tồn tại được với thời gian vì không có truyền
thuyết khởi nguyên của dân tộc. Huyền thoại là di
sản thiêng liêng nhất, quí báu nhất mà tiền nhân đã
để lại cho hậu thế. Huyền thoại là mạch sống nối cội
nguồn quá khứ với thế hệ hiện tại và mai sau, là gia
sản cao quí vô giá ghi nhận những cảm nghiệm nội tâm
của người xưa đã thực chứng suốt dòng vận động của
lịch sử.
Huyền thoại
Rồng Tiên đã thấm sâu trong lòng mỗi người chúng ta
để trở thành đạo sống của dân tộc Việt. Với phương
pháp nghiên cứu huyền thoại, chúng ta nghiên cứu
huyền sử, tìm về nguồn cội dòng giống qua những gửi
gấm của người xưa là một việc làm hết sức đúng đắn
và cần thiết. Vấn đề đặt ra là với một thái độ
nghiêm túc, một phương pháp khoa học, nhưng không có
quyền áp đặt những suy nghĩ của nhân loại thế kỷ 21
lên những suy nghĩ, trí tưởng tượng của người xưa mà
chúng ta phải đặt mình hoàn cảnh lịch sử thời đó để
có thể hiểu được cái gọi là “lịch sử sống động của
dân gian”. Một mặt, phải gạt bỏ những yếu tố thần
thoại, loại ra những chi tiết hư cấu. Mặt khác, đặt
mình vào hoàn cảnh xã hội đời sống tâm linh của
người xưa, mới thấy được cái tinh tuý cốt lõi tiềm
tàng trong truyền thuyết. Sau khi phân tích, đối
chiếu với nguồn sử sách cổ cùng với những chứng cứ
Khảo cổ, Ngôn ngữ, Dân tộc và Chủng tộc học sẽ giúp
chúng ta giải mã bức thông điệp ngàn năm lịch sử
này.
HUYỀN THOẠI RỒNG TIÊN
BỨC THÔNG ĐIỆP NGÀN
NĂM LỊCH SỬ
Cũng như nhiều
học giả ngoại quốc khi nghiên cứu về lịch sử Việt
Nam, nữ sĩ Blaga Dimitrova đã hết sức ngạc nhiên xen
lẫn thán phục dân tộc Việt Nam, một dân tộc mà huyền
thoại và hiện thực đan quyện hoà lẫn với nhau đến
nỗi khó có thể phân biệt đâu là huyền thoại đâu là
hiện thực nữa. Mỗi dân tộc đều có những truyền kỳ
lịch sử được thần thoại hoá thể hiện lòng tự hào dân
tộc mang tính sử thi của mình. Thật vậy, huyền thoại
Rồng Tiên về ngọn nguồn huyết thống Việt tuy đượm vẻ
huyền hoặc nhưng lại tràn đầy tính hiện thực, thấm
đậm nét nhân văn của truyền thống nhân đạo Việt Nam.
Huyền sử “con Rồng cháu Tiên” là niềm tự hào của nòi
giống Việt. Đã là người Việt Nam thì không ai không
một lần nghe truyện cổ tích Họ Hồng Bàng. Thật vậy,
ai trong chúng ta mà không biết về nguồn cội Rồng
Tiên với thiên tình sử của “Bố Lạc Mẹ Âu” mở đầu
thời kỳ mở nước của dòng giống Việt.
Kể từ khi Ngô
Sĩ Liên dẫn truyện họ Hồng Bàng trong “Lĩnh Nam
Trích Quái” để chép kỷ Hồng Bàng trong bộ Đại Việt
sử ký Toàn Thư, thì lần đầu tiên huyền thoại Rồng
Tiên, nguồn gốc của dân tộc Việt được ghi trong
chính sử nước ta. Truyền thuyết Việt Nam không mang
tính huyền thoại hoang đường của chủ nghĩa duy thần
cuồng tín hoặc duy nhân thái quá khiến con người bị
nhấc bổng lên không, để tự mãn cho rằng chỉ có con
người làm nên tất cả, chỉ có cái ta duy lý đó dẫn
tới quan niệm độc tôn, độc đoán, độc tài của phương
Tây. Truyền thuyết Việt Nam không mang tính huyền
thoại ly kỳ như truyền thuyết về tình yêu của những
anh hùng không thực và giai nhân tuyệt sắc của Ấn
Độ. Truyền thuyết Việt Nam cũng không thiên về sức
mạnh của vật chất, của bắp thịt siêu nhiên của một Samson, một siêu nhân
superman. Truyền thuyết Việt Nam cũng không tôn thờ
những thần thánh “thế tục hơn cả thế tục” kiểu thần
Ouranos loạn luân vô đạo, thần tửu sắc Baccus, nữ
thần sắc đẹp Vénus dâm dục, thần quan thầy thương
mại Mercure tay cầm túi tiền, tay cầm dùi đục như
thần thoại La Hy phương Tây và những nước cận Đông
khác.
Truyền
thuyết Việt Nam nói đúng hơn đó là truyền kỳ lịch sử
Việt Nam được hư cấu dưới lớp vỏ huyền thoại nhưng
thực chất lại đề cao con người với ý nghĩa nhân bản
truyền thống. Truyền thuyết Việt Nam biểu trưng một
triết lý văn hoá cao đẹp không những thấm đậm tính
nhân đạo, chan chứa vẻ nhân văn, tràn đầy tình đồng
bào, nghĩa ruột thịt qua hình tượng
“Bọc điều trăm trứng nở trăm con”. Từ ý niệm
đồng bào dẫn đến lòng yêu nước, thương nòi, yêu quê
cha đất tổ, tất cả đã trở thành giá trị đạo lý
truyền thống của nền văn minh đạo đức Việt Nam. Gạt
sang một bên những hư cấu hoang đường quen thuộc của
huyền thoại để cố gắng tìm hiểu những ẩn ý sâu xa
hàm tàng trong truyền thuyết, đã gợi cho chúng ta
chìa khoá để giải mã bức thông điệp Rồng Tiên từ
ngàn xưa gửi cho hậu thế Việt Nam. Tự thân huyền
thoại Rồng Tiên đã chiếu giải trung thực ý nghĩa của
những sự kiện lịch sử sau:
VIỆT TỘC, HẬU DUỆ CỦA
ĐẾ THẦN NÔNG
Truyền
thuyết đã được xác nhận bởi nguồn sách sử cổ là dòng
Thần Nông phương Bắc định cư ở Bắc lưu vực Hoàng Hà,
truyền đến đời Du Võng tràn xuống phương Nam giao
chiến với Xi Vưu (Li Vưu) cuối cùng bị Hoàng Đế đánh
đuổi và chết ở Lạc Ấp. Dòng Thần Nông
phương Nam do Kinh Dương Vương, thủ lĩnh của
liên minh bộ lạc ở Châu Kinh và Châu Dương ở vùng
lưu vực sông Dương Tử hình thành nhà nước Xích Qui
ban sơ của Việt tộc. Truyền thuyết cho ta biết là
các chi tộc Việt vẫn chung sống hài hoà, điều này
được thể hiện qua việc Lạc Long Quân con của Kinh
Dương Vương, dòng Thần Nông phương Nam lấy công chúa
Âu Cơ con của Đế Lai dòng Thần Nông phương Bắc. Lịch
sử lại hợp nhất 2 dòng Thần Nông Bắc và Nam Hoàng Hà
để truyền lưu mãi tới ngày nay. Đây chính là cốt lõi
của vấn đề, ý nghĩa cao cả của việc Lạc Long Quân
lấy Âu Cơ chính là để nói lên sự hợp nhất của 2 dòng
Thần Nông Bắc và Nam mà người xưa muốn nhắn gửi cho
đời sau.
Truyện cổ tích
họ Hồng Bàng kể lại: “Lạc Long Quân thay
cha trị nước, dạy dân cày cấy, ăn mặc. Trong nước
từ đây mới có thứ tự quần thần, tôn ti trật tự, xã
hội mới có luân thường đạo lý giữa cha con, vợ
chồng”. Sách sử cổ ghi rõ là Bố Lạc dạy dân
cách cày cấy ăn mặc, vua tôi vợ chồng có luân thường
đạo lý. Người Việt gọi phụ (cha) là Bố, gọi vương
(vua) là Quân. Truyền thuyết cũng cho biết rằng Việt
tộc là hậu duệ của đế Thần Nông mà hình tượng là
Totem phức thể “Đầu người, thân trâu” là ông Tổ của
nghề nông. Truyền thuyết kể lại rằng Thần Nông uốn
gỗ làm “lỗi” đẽo gỗ làm “trĩ”, những dụng cụ này
dùng sức kéo để vạch thành luống đất, dạy dân cày
cấy. Theo”Bách Việt Ngọc phả Truyền thư” thì chỉ có
nhị hoàng chứ không có tam hoàng như sách sử Trung
Quốc chép từ trước đến giờ. Phục Hy còn gọi là Đế
Thiên (2698-2599 TDL), họ Hiên Viên có tên thụy là
Thái Hạo thờ rồng. Truyền thuyết dân gian kể rằng
chân bà Hoa Lư nhân khi đi qua đầm Lôi Trạch, dẫm
lên vết chân khổng lồ của Lôi Thần, vị thần Rồng cảm
ứng mà sinh ra Phục Hi. Đây chính là thụ thai theo
lối “dã hợp”, bản sắc riêng biệt của người Việt cổ.
Là con của Thần Rồng nên Phục Hi mang hình tượng đầu
và mình là người, phần dưới là thân Rồng. Phục Hi là
Nữ Oa cũng nửa người nửa Rồng trong một bức phù điêu
chạm nổi hình hai người, đuôi quấn lấy nhau, tay
Phục Hi cầm tượng mặt trời, tay Nữ Oa cầm tượng mặt
trăng. Phục Hy truyền ngôi cho con là Thần Nông tức
Đế Thần, họ Khương tên thuỵ là Thiếu Hạo thờ chim.
Truyền
thuyết cho chúng ta biết rằng Việt tộc là hậu duệ
của Đế Viêm Thần Nông mà từ xưa đến nay chúng ta cứ
cho là của Hán tộc. Truyền thuyết cũng nói tới dòng
Thần Nông phương Bắc, dòng Thần Nông phương Nam nên
một số người nghĩ rằng Tàu là dòng Thần Nông phương
Bắc, ta là dòng Thần Nông phương Nam nên cho rằng ta
với Tàu là cùng một gốc. Thế nên việc tìm hiểu về
cội nguồn dân tộc từ truyền thuyết, từ những mảnh
vụn của lịch sử để phục hồi sự thật, tìm về cội
nguồn dân tộc. Chân lý khách quan của lịch sử sẽ
sáng tỏ, trả lại những gì sự thật lịch sử cho lịch
sử chính là ước vọng ngàn đời của những con dân đất
Việt chúng ta.
Tư Mã
Thiên, tác giả bộ Sử ký nổi tiếng được xem là đại
biểu cho sử quan chính thống của Hán tộc đã viết
Hoàng Đế, thủ lĩnh của liên minh bộ lạc trung nguyên
là người mở đầu lịch sử Trung Quốc mà không hề nhắc
gì tới Phục Hy, Thần Nông. Ngày nay, các nhà Trung
Hoa học đều thống nhất quan điểm là trước khi Hán
tộc tràn xuống chiếm lĩnh Trung nguyên thì tộc người
mà cổ sử Trung Quốc gọi là ”Di Việt” đã làm chủ
trung nguyên từ xa xưa. Lịch sử Trung Quốc chỉ thực
sự bắt đầu từ triều Thương, Chu mà thôi. Ngay các
học giả uyên bác của Trung Quốc như V. K.Tinh, Wang
Kwo Vu đều xác định là tất cả huyền thoại về các vị
vua cổ xưa đều không thấy ghi chép gì trong “Giáp
cốt” đời Thương. Nếu Hoàng Đế là người khai mở lịch
sử Trung Quốc thì chắc chắn phải ghi rõ trong giáp
cốt nên không cần phải bàn cãi nhiều về nhân vật
này. Sự tích tên tuổi của các nhân vật huyền sử Phục
Hy, Thần Nông mới được nhắc tới trong sách vở vào
thời Xuân thu Chiến quốc là thời kỳ nở rộ của Bách
Việt. Nhóm Tân học”Nghi cổ phái” do nhà văn Quách
Mạt Nhược chủ xướng đã chính thức bãi bỏ thời Tam
Hoàng, Ngũ Đế là của Trung Quốc. Chính Lương Khải
Siêu, nhà chính trị nổi tiếng một thời của Hán tộc
cũng phải thừa nhận là lịch sử Trung Quốc mới chỉ có
khoảng 4 ngàn năm nay mà thôi.
Thời Xuân Thu
là thời kỳ phục hưng của Việt tộc với sự trổi dậy
của các quốc gia Bách Việt, hết Ngô đến Việt xưng
“Bá” rồi tới Sở lãnh đạo liên minh 6 nước trung
nguyên chống Tần giành quyền thống lĩnh trung
nguyên. Chính v́ vậy, thời kỳ này mới xuất hiện các
nhân vật huyền sử Việt từ Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông,
Đế Hoàng (Hoàng Đế) tới Nghiêu Thuấn, Vũ nhà Hạ của
Việt tộc. Chính Khổng Tử, người được xem là bậc thầy
muôn đời của Trung quốc cũng biết rõ điều này nên
không hề nhắc tới nhân vật Hoàng Đế mặc dù Khổng Tử
đã xác nhận rõ là theo phò triều Chu. Trong các tác
phẩm Cổ sử Khảo, Tam ngũ lịch, Đông Kỷ, Đế vương Thế
kỷ thì tất cả đều khẳng định rằng Thần Nông có liên
quan huyết thống với Việt tộc. Nói cách khác, Việt
tộc chính là hậu duệ của Thần Nông. Cổ thư Trung
quốc chép đời Nghiêu Thuấn đánh dẹp họ Cộng Công của
Hán tộc vì đã tranh ngôi với Chúc Dung là hậu duệ
của Ðế Viêm Thần Nông. Vua các nước Trịnh và hoàng
tộc một số nước ở bán ðảo Sơn Ðông như Tề, Lỗ, Trần
đều nhận họ là con cháu Thần Thái Sơn và lấy họ
Khương của Thần Nông. Gần đây, học giả Eberhard một
nhà Trung Hoa học nổi tiếng đã công bố một sự thật
là vào khoảng năm 450 TDL, một người viết sử đã đưa
Hoàng Đế nguyên là một vị thần nhỏ trong địa phận
Sơn Đông lên làm vị vua đầu tiên của Hán tộc. Sơn
Đông là địa bàn cư trú của Lạc bộ Trĩ của Việt tộc
mà cổ sử Trung Quốc gọi là rợ Đông Di nên vị thần Đế
Hoàng chính là người Việt cổ nhưng Hán tộc nhận là
thuỷ tổ nên viết theo cú pháp Hán tự Hoàng Đế. Nếu
Hoàng Đế là một nhân vật có thật thì Đế Hoàng ở Sơn
Đông phải là người Việt cổ, hậu duệ của Thần Nông
nhưng thuộc dòng Thần Nông phương Bắc. Cổ sử ghi lại
là năm thứ sáu đời Chu Thành Vương 1100 TDL, Việt
Thường cử sứ giả đến triều Chu biếu một con chim
Bạch Trĩ, quan Trủng Tể Chu Công Đán nhớ lời Hoàng
Đế có lời thề rằng: “Giao Chỉ ở ngoài
phương xa, không được xâm phạm ...”. Nguồn sử
liệu trên cũng hé mở cho chúng ta thấy là Hoàng Đế
có liên hệ huyết thống với Việt tộc. Theo Từ Hải thì
Hoàng Đế, Xi Vưu đều là những thị tộc trưởng nên sở
dĩ có chiến tranh là để giành ngôi vị thủ lĩnh mà
thôi. Truyền thuyết xưa cũng kể rằng Thần Nông và
Hoàng Đế có cùng một ông Tổ là Thiếu Điển.
Tất cả các
chứng cứ trên đã góp phần làm sáng tỏ sự thật lịch
sử, phục hồi chân lý khách quan của lịch sử đó là
nhân vật Đế Hoàng là người Việt cổ chứ không phải
thuỷ tổ của Hán tộc như Tư Mã Thiên đã viết. Như
vậy, thời đại “Tam Hoàng, Ngũ Đế” chỉ có Nhị Hoàng gồm Phục Hy họ Thái Hạo
thờ Rồng và Thần Nông họ Thiếu Hạo thờ chim là của
Việt tộc. Một vấn đề khác cũng phải đặt ra là sau
thời đại Tam Hoàng là tới Ngũ Đế gồm Đế Hoàng, Đế
Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn đều là
người Việt cổ. Công trình nghiên cứu của Nguyễn
Nguyên về Hán ngữ và các phương ngữ Bách Việt ở
Trung nguyên đã nhận xét chỉ có người Hakka (Hẹ) là
Lạc bộ Trĩ ở vùng sông Bộc và bán đảo Sơn Đông có
phát âm tương tự với Hán Việt và tiếng nôm của Việt
tộc [Ngieu] còn Quan thoại và các phương ngữ khác
đọc khác. Sự kiện này chứng tỏ thêm rõ là Đế Nghiêu
là người Việt cổ. Cổ sử Trung quốc cũng cho biết họ
Đào Đường tức Đế Nghiêu đóng đô ở Bình Dương thuộc
Sơn Tây. Đế Nghiêu truyền ngôi cho Đế Thuấn đóng đô
ở Bồ Bản cũng thuộc Sơn Tây, Thuấn truyền ngôi cho
Vũ lập ra nhà Hạ. Mạnh Tử xác nhận vua Thuấn là
người Đông Di và từ điển Từ Hải cũng xác định là tổ
tiên và con cháu Thuấn đều được phong ở đất Đông Di.
Thế mà Tư Mã Thiên, sử quan chính thống Đại Hán lại
bao biện cho rằng Thuấn bị xem là người Đông Di vì
thói quen hồi đó gọi là như thế. Luận điệu này không
có tính cách thuyết phục. Tại sao lại có thói quen
gọi một người đồng chủng nhất là một vị vua là rợ
Đông Di? Chính bản thân Tư Mã Thiên chỉ can gián vua
mà đã bị tội phải cắt bỏ bộ phận sinh dục huống chi
gọi vua là man di mọi rợ, chắc chắn phải bị tru di
tam tộc rồi còn đâu mà viết sử nữa! Trong khi chính
cổ thư Trung quốc chép là vua Thuấn lấy vợ Việt và
về ở ở rể tại nhà vợ. Sách Lễ Ký viết:” Đế
Thuấn là một nông dân Việt ở Lôi Trạch đã phát
minh ra đàn huyền 5 dây để ca bài Nam Phong và ông
Qui chế ra nhạc để thưởng chư hầu”.
Theo Mã Đoan
Lâm trong sách “Văn hiến Thông khảo” thì lúc đầu Tam
Miêu không chịu phục nên vua Thuấn đã sai Vũ đi đánh
cũng không được nên Thuấn chế ra đàn huyền 5 dây để
hát bài Nam Phong. Cổ thư chép là cả Vua Thuấn và
ông Vũ đều mặc áo lông chim rồi cầm khiên múa điệu
vũ Li Vưu. Sau 3 năm thì Tam Miêu mới chịu phục vì
nhận ra Thuấn, Vũ có cùng một nền văn hoá, cùng một
chủng tộc. Theo Đổng Trọng Thư thì Li Vưu là cổ
thiên tử, là vua phương Nam trước là viên quan xem
thiên văn có cánh mà không bay được hàm ý chỉ người
thuộc chi Âu Việt thờ chim. Công trình nghiên cứu
của Kim Định cho biết Li Vưu cũng là tên một bài múa
gồm nhiều vũ nhân nhất 9.9 = 81. Tương truyền Li Vưu
là rồng vàng cao cả với 2 phụ tá là thần gió và thần
mưa. Li Vưu cũng chỉ lá cờ hay xuất hiện trên bầu
trời như hình sao chổi đuôi cong, nền cờ đỏ ở giữa
có hình tròn màu vàng mà sau này Hoàng Đế Quang
Trung cũng chọn lá cờ này. Theo nhà nghiên cứu Vũ
Bình người Trung quốc thì khi giải mã chữ “Vũ” cổ đã
cho rằng đó là dáng múa của cư dân nông nghiệp khi
cầu mưa. Vũ nhạc có quan hệ mật thiết với lễ dâng
hương của truyền thống thờ cúng thần mặt trời, thờ
cúng tổ tiên của cư dân nông nghiệp. Vấn đề gốc tích
vua Vũ lại sáng tỏ khi cổ sử Trung quốc còn ghi rõ
là năm Quí Tỵ (2.198 TDL), vua Đại Vũ nhà Hạ hội chư
hầu ở Cối Kê thuộc U Việt. Năm Quí Mão 2.085 TDL,
vua Thiếu Khang nhà Hạ phong cho con thứ là Vô Dư ở
đất Việt.
Cổ thư
chép vua Vũ được ban cho “Cửu Trù” cũng là “Cửu
Đỉnh” nên chia nước ra 9 châu. Kim Định trích dẫn
Danses kể lại truyền thuyết về vua Vũ khi đi trị
thủy, đào sâu xuống lòng sông thì gặp mả của Phục
Hy, khi mở ra thấy Phục Hy đang quấn đuôi Nữ Oa. Vua
Đại Vũ cũng được ban cho sách “Lạc thư” cũng trên
dòng sông Lạc. Miền Trung và Hạ lưu sông Hoàng Hà có
2 con sông cùng có tên là sông Lạc. Một ở ngã ba Tam
Giang Bắc của người Việt cổ chi Lạc bộ Chuy ở vùng
Thiểm Tây, Sơn Tây và một ở Bắc tỉnh Hà Nam viết với
bộ Thủy. Hai thủy danh gắn liền với tộc danh đã
chứng tỏ vua Đại Vũ là người Việt vì chỉ có ông Vũ
mới được thiên duyên là rùa thần nổi lên trên sông
Lạc, đội quyển sách “Lạc thư” có ghi 9 điều khoản để
trị nước. Nói cách khác, huyền sử cho chúng ta thấy
rằng quyển sách đó là tinh hoa Việt bao gồm “Hồng
phạm Cửu trù” với Lạc thư để vua Vũ lập ra nhà Hạ
của Việt tộc. Sử sách còn ghi lại là vua Thuấn tuần
du phương Nam rồi chết ở núi Thương Ngô. Núi Thương
Ngô trước tên là núi Cửu Nghi ở miền Bắc tỉnh Hồ Nam
là địa bàn cư trú của Bách Việt. Hai bà vợ đi theo
buồn đau than khóc rồi chết bên bờ sông Tương nên
dân gian lập đền thờ hai bà gọi là “Tương phi”. Sông
Tương bắt nguồn từ Long Uyên chảy vào hồ Động Đình
và ăn lên tới vùng Ba Thục là đất Bách Việt
(Bai-Yue). Dân gian còn lập đền thờ Sương Quân là
con gái vua Nghiêu ngay bên hồ Động Đình.
Sách cổ Trung Hoa
chép lại rằng vua các nước Ngô Việt đều tự hào là
con cháu Hoàng Đế và vua Đại Vũ nhà Hạ. Chính Tư Mã
Thiên trong “Sử ký” cũng chép rằng tổ tiên của Câu
Tiễn, vua nước Việt thời Xuân Thu là dòng dõi vua Vũ. Hiện ở núi Cối
Kê tỉnh Triết Giang Trung quốc bây giờ vẫn còn đền
thờ vua Vũ, nơi mà ngày xưa vua Vũ đã đến hội chư
hầu tại đây. “Sử Ký” cũng chép rằng vua nước Sở nhận
rằng là hậu duệ của Hoàng đế Hiên Viên. Hùng Dịch
người được triều Chu phong cho ở đất Sở là cháu vua Kinh Man là Chuyên Húc
(còn gọi là Xuyên Húc) ông tổ của nhà Hạ. Cổ thư ghi
rõ Chuyên Húc thuộc dòng họ Cao Tân, Cao Dương của
Việt tộc còn lưu lại trong sự tích trầu cau. Đế Cốc
thay Đế Chuyên Húc lại là cháu của vua Thiếu Hạo,
dòng Thần Nông thờ chim là vật biểu chính là chi Âu
Việt (Bái điểu tộc) của Việt tộc. Đế Nghiêu họ Đào
Đường là con thứ của Đế Cốc, em Đế Chí nhưng vì Đế
Chí nhu nhược nên chư hầu tôn Nghiêu lên làm vua lấy
hiệu là Đường Nghiêu. Sự thật lịch sử này sẽ làm đảo
lộn tất cả những sử sách kinh điển của Hán tộc viết
theo lý của kẻ mạnh để “Lộng giả thành chân” khiến
mọi người tin theo bao đời nay.
VIỆT TỘC KẾ THỪA
TRIẾT LÝ ÂM
DƯƠNG
Tư Mã Thiên đại biểu
cho sử quan chính thống của Hán tộc viết Hoàng Đế là
thủ lĩnh cộng chủ của liên minh các bộ lạc là ông Tổ
của Hán tộc. Tư Mã Thiên đã để Hoàng Đế đứng đầu ngũ
đế gồm Hoàng Đế, Đế Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và
Đế Thuấn. Theo “Sử ký” thì Hoàng Đế (2700-2600 TDL)
là tổ tiên lỗi lạc của Hán tộc ở lưu vực Hoàng Hà.
Sau khi đánh thắng bộ lạc Viêm Đế ở phía Tây và Xi
Vưu ở phía Nam trở thành thủ lĩnh của liên minh bộ
lạc ở Trung Nguyên. Từ đó, các sử gia Hán cho rằng
Hoàng Đế là Hiên Viên Hoàng Đế, để từ cơ sở này mặc
nhiên tự cho là hậu duệ của Viêm Đế Thần Nông và Hán
tộc là người kế thừa triết lý Âm Dương. Thật ra đây
là một sự cố ý mạo nhận theo lý của kẻ mạnh mà thôi.
Sự thật
lịch sử được chứng minh rằng Hoàng Đế không phải là
người khai mở lịch sử Trung quốc và lịch sử Trung
Quốc chỉ mới bắt đầu từ triều Thương Chu mà thôi.
Như vậy, từ lâu Hán tộc vẫn cho rằng họ là chủ nhân
của triết lý âm dương nhưng đó chỉ là sự cố ý mạo
nhận của kẻ mạnh không có tính thuyết phục. Trái lại
tự thân triết thuyết Rồng Tiên qua lời trần tình của
Bố Lạc với Mẹ Âu Cơ, 50 con theo Mẹ (Âm) lên núi, 50
con theo Cha (Dương) xuống miền biển đã thể hiện lý
tương sinh-tương khắc, tinh tuý cốt lõi của triết lý
Đông Phương. Điều này đã minh nhiên khẳng định Việt
tộc là người thừa kế triết thuyết âm dương Dịch biến
luận khởi từ Phục Hy tới Thần Nông. Truyền thuyết kể
lại lời trần tình của bố Lạc với mẹ Âu Cơ như sau:
“Ta là giống Rồng đứng đầu thuỷ phủ, Nàng
là giống Tiên người ở trên đất, vốn không đoàn tụ
lâu dài với nhau được. Tuy khí âm dương hợp lại mà
sinh con nhưng giống dòng tương khắc như nước với
lửa, khó bề ở lâu dài với nhau dài lâu được. Nay
phải chia ly, ta mang 50 con trai về thuỷ phủ chia
trị các nơi, còn 50 con theo nàng về ở trên cao,
có việc cùng gắn bó đừng bỏ rơi nhau ..! Trăm
người con cúi đầu nghe lời bố dặn dò rồi cùng nhau
từ biệt mà đi ..!”.
Như vậy
ngay từ thiên niên kỷ thứ 3 TDL, lời nói của bố Lạc
một lần nữa đã chứng minh Việt tộc là người kế thừa
sở đắc triết lý Âm Dương. Sự kiện bố Lạc phân chia
bọc trăm trứng ra 2 bộ Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, 2 bộ
âm dương vừa tương sinh vừa tương khắc, tuy 2 mà
l&##7841;i là một. Lạc Long Quân (Dương) là Rồng
ở dưới nước nên dẫn 50 con về về miền sông nước (bộ
Thuỷ tinh: âm) còn Âu Cơ là Tiên (âm) lại dẫn 50 con
lên miền cao rừng núi (bộ Sơn Tinh: Dương) theo đúng
nguyên lý Dịch là trong âm có dương, trong dương có
âm, thể hiện “lý tương sinh tương khắc” tinh tuý cốt
lõi của triết lý Đông phương.
Sự thực trên
đã minh nhiên khẳng định Việt tộc là người thừa kế
triết thuyết Âm Dương Dịch biến luận khởi từ Phục Hi
tới Thần Nông tức Đế Thần của Việt tộc. Sự thật lịch
sử này được thừa nhận bởi chính lịch sử Trung Hoa cổ
đại. Sách “Kinh Thư” trong phần mở đầu chỉ đề cập
đến Nhị Hoàng là Phục Hy, Thần Nông và Ngũ Đế là Đế
Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí, Đế Nghiêu, Đế Thuấn.
Việc Kinh Dịch chọn 2 quẻ dành cho 2 con vật Rồng
chim (Tiên) linh thiêng, vật tổ biểu trưng của Việt
tộc đã minh nhiên xác định nguồn gốc xuất xứ của
Kinh Dịch. Đến đời Chu, Chu văn Vương tiếp thu ảnh
hưởng của văn hoá Việt rồi biến cải thành Chu Dịch
thiên về bói toán chứ không phải là tinh hoa triết
lý Âm Dương Dịch biến luận thể hiện nhân sinh vũ trụ
quan của Việt tộc.
Năm mươi
con theo Mẹ lên vùng cao
Năm mươi
con theo Bố xống miền sông nước…
MỘT TRĂM
CHI TỘC VIỆT
Chúng ta đang
sống trước thềm của thiên niên kỷ thứ ba nên mỗi khi
nghĩ về huyền thoại Rồng Tiên thì thoạt đầu, ai
trong chúng ta cũng nghĩ rằng là truyện huyền hoặc,
hoang đường. Dù có tự hào là con Rồng cháu Tiên
nhưng với ý nghĩ đơn giản của đời thường, chúng ta
vẫn hoài nghi vì trên đời làm gì có truyện người đẻ
ra trứng, rồi trứng nở ra người?
Với tất cả
tấm lòng và thái độ trân trọng nghiêm túc và với
phương pháp nghiên cứu huyền thoại, chúng ta tự đặt
mình vào hoàn cảnh lịch sử thời cổ đại thì những ẩn ý
hàm tàng trong huyền thoại sẽ gợi mở sáng tỏ, minh
nhiên lý giải những vấn nan khúc mắc tự ngàn xưa. Có
một
thực
tế mà chúng ta phải hiểu rõ đó là tất cả các dân tộc
thời cổ đại đều tin tưởng thần linh chở che trong
mọi sinh hoạt cuộc sống. Thật vậy, khi con người vừa
bước ra khỏi thời kỳ ăn lông ở lỗ của thuở hồng
hoang để bước vào hình thái xã hội ban sơ, con người
cảm thấy nhỏ nhoi trước sức mạnh kỳ bí của thiên
nhiên nên yếu tố thần linh ngự trị trong mọi sinh
hoạt của họ.
Nhân loại đã
bước vào thiên niên kỷ thứ ba với những dân tộc đã tiến tới một
nền văn minh tương đối cao nhưng vẫn còn tôn thờ
những vật tổ linh thiêng của họ như dân Ấn vẫn còn
thờ bò chúng ta không thể cứ dựa trên những tập tục
cổ của một dân tộc mà đánh giá một cách sai lầm là
xã hội đó kém văn minh, mê tín, hoang đường. Đó là
cách nhìn theo giáo sư viện sĩ Jean Poirier là tiến
hoá luận đơn tuyến hay còn gọi là quan điểm giả tiến
hoá. Trái lại sự hiện hữu tục thờ vật tổ Totem của
một số dân tộc chứng tỏ tính phong phú đa dạng của
nền văn hoá truyền thống của mỗi dân tộc. Thế nên,
việc Mẹ Tiên (Âu Cơ) mà vật tổ biểu trưng là chim
thì việc mẹ Âu sinh ra trăm trứng nở ra trăm người
con trai trên bình diện tâm linh là bình thường
không có gì đáng ngạc nhiên cả. Trên thực tế, người
phụ nữ ai cũng đều có một buồng trứng, khi trứng
rụng kết hợp với tinh trùng sẽ tạo thành bào thai.
Vấn đề là phải tìm hiểu phần tinh tuý, cốt lõi của
nhân vật hình tượng Mẹ Tiên như Jung nói: “sự đúc kết biết bao suy tư của thời đại
tạo dựng độc sáng phải chờ thế hệ sau diễn đạt
bằng ngôn từ minh nhiên lý luận”.
Một khi tiền
nhân thần thọai hóa mẹ Âu là Tiên thì Mẹ Âu Cơ có
thể làm bất cứ điều gì mà người phàm không làm được,
đó là đẻ ra trứng thuộc phạm trù tín ngưỡng nguyên
thủy cũng như phạm trù
tôn giáo đòi hỏi phải có niềm tin một cách mặc khải. Gạt sang một bên vấn đề tự
tình dân tộc để tìm hiểu xem tại sao Mẹ Âu lại đẻ ra
“trứng”, chúng ta thấy rõ hàm ý sâu xa của tổ tiên
ta. Thật vậy, ý niệm trứng trong huyền thoại biểu
trưng Totem vật linh biểu trưng của Việt tộc là tộc
người thờ chim (bái điểu tộc) là một con vật đứng
đầu trong tứ linh: nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ
tượng. Nguồn thư tịch cổ cũng cho ta biết “Lạc bộ
Chuy” là chi tộc Việt đầu tiên từ vùng Cao Nguyên
Côn Sơn Hi Malaya tiến xuống Trung Nguyên qua vùng
núi Dân, Ba Thục. Lạc bộ Chuy là chi Việt cổ của họ
Hồng Bàng có vật biểu là chim (Việt điểu, Lạc điểu),
ông cha ta đã theo dấu chim Hồng, chim Lạc thiên cư
vùng đất miền núi Dân, Ba Thục cũng được gọi là Châu
Phong. Địa danh Phong Châu ở Bắc Việt Nam cũng chỉ
là nhắc lại địa danh cư trú ban đầu của Việt tộc nơi
mà mẹ Âu dẫn 50 con lên núi rồi suy cử người con
trưởng làm vua nước Văn Lang như truyền thuyết kể
lại. Âu Cơ và 50 con lên đất Phong Châu, suy phục
lẫn nhau cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là
Hùng Vương, lấy tên nước là VĂN LANG, Đông giáp Nam
Hải, Tây tới Ba Thục, Bắc tới Động Đình Hồ, Nam tới
Hồ Tôn (Chiêm Thành).
Sách
“Lĩnh Nam Trích Quái” truyện Thánh Tản Viên chép
rằng thời Chu Noãn Vương, vua Hùng thứ 18 đến ở đất
Việt Trì, châu Phong, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Bản
“Hùng triều Ngọc phả” cũng ghi là đời Hùng Vương thứ
16 là Hùng Tạo Vương húy là Đức quân Lang (660-569
TDL) mới dời đô về Việt Trì trong phạm vi lãnh thổ
Việt Nam bây giờ. Sự kiện này phù hợp với cương giới
Văn Lang ở trung nguyên được ghi trong thư tịch cổ.
Những
công trình nghiên cứu địa danh là những từ ngữ của
một tộc người đã ghi tạc vào sông núi nơi địa bàn cư
trú của họ ở một thời điểm nhất định nào đó, cho
phép chúng ta kết luận là sự tương đồng của những
địa danh khẳng định địa bàn cư trú của cùng một tộc
người trên vùng đó. Trong số những địa danh thì thủy
danh là tên sông, nhất là những con sông lớn có tên
sớm nhất trước cả tên đất nữa. Công trình nghiên cứu
cho ta thấy 2 con sông lớn ở Đông Á và Đông Nam Á là
Dương Tử Giang và Cửu Long Giang (Mékong) có tên gọi
giống nhau và cùng bắt nguồn từ một danh từ cổ là
“Kang”. Cách phát âm này hiện được giữ lại trong các
tiếng địa phương Quảng Đông và Thượng Hải. Xét theo
tự dạng thì chữ “Giang” lại dùng chữ “Công” để phiên
âm. Tên sông Mékong được gọi bằng nhiều tên theo
tiếng nói của các dân tộc mà sông này chảy qua.
Trung Quốc gọi là Khung Giang, Lào gọi là Nậm
Khoỏng, Cambodia gọi là Mê Kong và xuống đến lãnh
thổ Việt Nam, con sông này được gọi một cách thân
thương là Cửu Long giang. Bản thân những từ Cửu Long
giang, Nậm Khoỏng, Mékong, Khung Giang, là những
dạng tương tự về mặt ngữ âm từ một tên gốc là Kông
mà ra.
Về địa danh, nếu
chúng ta ngược dòng thời gian đi sâu xuống lớp địa
danh Hán Việt đầy rẫy nơi vùng cư trú của người Việt
thì có thể thấy còn có một lớp địa danh cổ hơn nữa,
đó là lớp tên nôm với yếu tố cấu thành là từ Kẻ.
Những tên nôm với yếu tố Kẻ như thế rất nhiều, có
thể nói rằng hầu hết xã thôn Việt Nam ở vùng đồng
bằng và trung du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ đều có. Tên
nôm hiện nay đang bị quên dần đi và ít được dùng
đến, nhưng nó từng tồn tại rất lâu. Trước đây, trong
một thời gian dài nó tồn tại song song với Hán Việt,
thông thường tên nôm dùng để gọi, còn tên Hán Việt
là “tên chữ”. Như chúng ta biết, tên đặt ra trước
tiên dùng để gọi, đến khi xã hội phát triển ở mức độ
khá cao mới nảy sinh nhu cầu ghi chép. Hơn nữa xét
tương quan ngữ âm giữa các cặp tên nôm và tên chữ
thhì chúng ta thấy rõ là tên chữ được đặt ra bằng
cách phiên âm tên Nôm và trong một số trường hợp
bằng cách dịch nghĩa nữa. Điều này một lần nữa khẳng
định nhu cầu ghi chép là điều kiện xuất hiện tên Hán
Việt.
Đặc biệt
trong nhiều tên làng Việt Nam, chữ Kẻ trong những
tên nôm được phiên âm ra tên Hán Việt bằng từ Cổ
những địa danh có chữ “cổ” đứng đầu rất phổ biến,
rất tập trung. Nhìn rộng ra toàn Trung Quốc thì địa
danh có chữ Cổ còn thấy rải rác ở Cam Túc, Tứ Xuyên,
Quý Châu, Vân Nam, nhưng tập trung nhất vẫn là vùng
Lưỡng Quảng. Như vậy tên nơi cư trú có thành tố “Kẻ”
đứng đầu trong địa danh học cần đặc biệt lưu ý khi
xét vùng đất cổ của cư dân Văn Lang, nó được tìm
thấy ở một mức độ tập trung khá cao tại miền đất bao
gồm miền Bắc Việt Nam và vùng Lưỡng Quảng hiện nay.
Địa bàn phổ biến địa danh có chữ “Kẻ” xưa và “Cổ”
hiện nay có thể trải rộng ra nhiều tỉnh thuộc Hoa
Nam, nhưng chúng ta đều biết địa bàn phân bổ của địa
danh, càng rộng bao nhiêu thì khởi điểm của loại địa
danh đó càng cổ bấy nhiêu. Rất có thể vùng đất tập
trung địa danh thuộc nước Văn Lang như truyền thuyết
cho biết.
Tầm
nguyên ngữ nghĩa của từ LANG cho chúng ta những nhận
định chính xác hơn về địa bàn cư trú của người Việt
cổ cũng như uyên nguyên ngữ nghĩa của tên nước Văn
Lang. Cũng như các dân tộc khác thời cổ đại khi còn
là một tộc người thì lấy chữ “người” để chỉ tên của
dân tộc đó theo ngôn ngữ của họ. Chữ Lang trong
tiếng Hán có nghĩa là đàn ông. Chữ này nguyên gốc
của Việt cổ còn ghi rõ trong truyền thuyết khởi
nguyên dân tộc là con trai vua gọi là Quan Lang và
con gái là Mị nương, hiện từ Lang vẫn còn truyền lưu
trong đồng bào Mường, Quan Lang là người đứng đầu
một “Mường”. Ngôn ngữ phương Nam còn có những từ như
Dranglô của Barnar có nghĩa là đàn ông, Arăng tiếng
Êđê và Urang của Chàm đều có nghĩa là người. Trong
tiếng Indonésia, Mã Lai chữ Orang cũng nghĩa là
người. Phương pháp so sánh của ngôn ngữ lịch sử xem
những danh từ kép Văn Lang, Việt Lang, với Urang,
Ôrang, cũng xem như Dạ Lang với Drang trong chữ
Dranglo là giống nhau trên căn bản. Sự khác biệt là
do biến đổi từ trạng thái nọ sang trạng thái kia
theo điều kiện không gian và thời gian mà thôi.
Căn cứ trên
bản đồ nhân chủng cho thấy tộc danh có thành tố
“Lang” trải rộng khắp Trung Nguyên từ lưu vực sông
Dương Tử xuống tới Bắc Trung Việt (Việt Nam) như Dạ
Lang (Quí Châu) Bạch Lang (Tứ Xuyên), Việt Lang
(Quảng Đông) và Văn Lang (Bắc Việt Nam) và những
danh từ chung chỉ người như Lang, Dranglo, Orang,
trải rộng trên một địa bàn lớn ở vùng đồng bằng ven
biển, các vùng ven biển bao quanh Nam Hải tới
Indonesia, Mã Lai. Khu vực phân bố các dân tộc này
xét về mặt địa lý phù hợp với cương vực của nước Văn
Lang cũ như truyền thuyết kể lại. Điều này được xác
nhận bởi các nguồn sách sử như “Thiên hạ Quận quốc
Lợi bệnh thư” đã bị triều Thanh tịch thu thì ở tỉnh
Quảng Tây có nhiều người Lang (Lang nhân). Do đó
người ta gọi thổ binh ở vùng này là Lang binh và
người Choang cách đây 4,5 thế kỷ vẫn còn được gọi là
Lang và Choang là đọc chữ Lang trại âm mà ra.
Thực tế
lịch sử cho chúng ta thấy tính hiện thực của truyền
thuyết trăm trứng nở trăm con với sự hiện diện của
các nước mà cổ sử Trung Quốc gọi là Bách Việt
(Bai-Yue). Tên Bách Việt theo Đào Duy Anh xuất hiện
lần đầu tiên là trong sách sử là bộ sử ký của Tư Mã
Thiên. Sử Ký chép rằng đời Chu An Vương, Sở Điệu
Vương sai Bạch Khởi đánh dẹp Bách Việt ở miền Nam
bấy giờ là đầu thế kỷ thứ IV TDL. Sách “Lã thị Xuân
Thu”viết rằng:”Phía Nam Dương, Hán (Hán
thuỷ) là Bách Việt”. Cao Dụ giải thích tiếp
như sau: “Bách Việt là nơi tộc Việt có
cả trăm chủng”. Sách Hậu Hán Thư, Địa lý chí
dẫn lời Thần Tán về Bách Việt như sau: “Từ
Giao Chỉ đến Cối Kê trên 7,8 ngàn dặm, người Bách
Việt ở xen kẽ nhau gồm nhiều chủng tính (tên họ)
khác nhau”.
Ngay từ đầu triều
Thương, cổ sử Trung Quốc đã đề cập tới tên một số
chi tộc Việt như Âu Thâm, Việt Âu, Quế Quốc, Quyên
Tử, Sản Ly, Cửu Khuẩn, Đông Việt, Âu Nhân, U Việt,
Cô Muội, Thả Âu và Cung Nhân. Theo “Dật Chu thư” thì
các chi tộc Việt ở Lĩnh Nam như Quế Quốc, Sản Ly,
Quyên Tử, Cửu Khuẩn phải cống nạp đồi mồi, hạt châu,
chim quí, ngà voi, sừng tê, chim Hạc, chó lùn. Lạc
Việt cống tre ngà (đại trúc) măng trúc, Thương Ngô ở
phía Nam Hồ Nam cống chim công. Tuy nhiên, sách
“Trúc thư kỷ niên” chép là mãi đến đời Chu Thành
vương, năm 1040 TDL “Vu Việt lai tân” nghĩa là Việt
đến làm khách thăm xã giao mà thôi. Sách sử cổ của
Trung Quốc cũng ghi là đời Chu, có phái đoàn sứ bộ
Việt Thường sang biếu chim Bạch Trĩ năm 1110 TDL đời
Chu Thành Vương năm thứ 6.
Như vậy chính
cổ sử Trung Quốc đã xác nhận sự hiện hữu của nước
Việt Thường ngay từ thời Đế Nghiêu. Việt Thường thị
có nghĩa là họ của cư dân trồng lúa nước nên đã có
trình độ cao về thiên văn và đã làm ra lịch thời vụ
mùa màng cho nông nghiệp gọi là Nông lịch. Chính vì
cùng một dòng tộc đại chủng Bách Việt nên họ Việt
Thường đã đến biếu vua Nghiêu dòng Thần Nông phương
Bắc một con rùa hàng ngàn năm tuổi. Trên lưng con
rùa này có viết chữ “Khoa đẩu” tức là lối chữ hình
con nòng nọc của dòng Thần Nông phương Nam để chỉ cách làm và ứng dụng
nông lịch. Nông lịch tức là Âm lịch còn dùng mãi đến
tận bây giờ. Sau thời Đế Nghiêu Thuấn đến nhà Hạ,
Nông lịch đã ứng dụng hoàn chỉnh nên sách sử cổ
thường gọi là lịch nhà Hạ. Đó chính là Việt lịch
tính theo chu kỳ của mặt trăng. Nhà bác học Lê Quí
Đôn trong “ Vân Đài Lọai ngữ” đã viết: “ Việt lịch tức Âm lịch tính theo hệ thống
quĩ đạo mặt trăng ứng dụng cho con nước mà bia đá
ở Cối Kê, kinh đô nước Việt thời Câu Tiễn ghi rõ
là nước thủy triều lên xuống đúng chu kỳ mặt
trăng”.
Trong
tác phẩm Sử Ký, sử gia chính thống Đại Hán là Tư Mã
Thiên chép về sự hình thành của quốc gia Việt Thường
như sau: “Đầu đời Tây Chu(1143-770TDL)
người nước Việt Thường đuổi người Tam Miêu, lập
nước ở vùng giữa hồ Động Đình và hồ Phiên Dương
còn gọi là Bà Dương ở phía Nam lưu vực sông Dương
Tử”. Nước Việt Thường còn tồn tại mãi tới đời
vua nước Sở là Hùng Cừ (887-877TDL). Sử nước Sở chép
rằng đời Hùng Cừ (887-877TDL) đã chiếm Việt Thường
bên hồ Phiên Dương mà kinh đô của Việt Thường nằm ở
giữa hồ Phiên Dương và hồ Động Đình.
Đời
Tống, La Tất viết “Lộ sử” tức là sử của Lạc Việt đã
liệt kê một số nhóm trong Bách Việt như sau: “Việt Thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu Khải,
Âu Nhân, Thả Âu, Cung Nhân, Hải Dương, Mục Thâm,
Phù Xác, Cầm Nhân, Thương Ngô, Man Dương, Dương Việt, Quế Quốc,
Tây Âu, Quyên Tử, Sản Ký, Hải Quỳ, Tây Khuẩn, Kê
Từ, Bộc Cần, Bắc Đái, Khu Ngô gọi là Bách Việt”.
Theo Đào Duy Anh thì trong những nhóm Bách Việt ấy
chúng ta thấy có những nhóm như Dương Việt ở hạ lưu
sông Dương Tử, nhóm Thương Ngô ở miền Nam tỉnh Quảng
Tây, nhóm Sản Lý tức Xà Lý ở tận miền Tây Nam tỉnh
Vân Nam, còn Kê Từ, Bắc Đái là những tên huyện thời
Hán thuộc quận Giao Chỉ. Có thể căn cứ vào những địa
điểm ấy mà nói rằng sử sách Trung Quốc xưa gọi là
Bách Việt là những nhóm người Việt ở rải rác trên
khắp miền Hoa Nam, phía Tây gồm cả đất Vân Nam, phía
Nam gồm cả đất miền Bắc Việt Nam ta mà sử gọi chung
là miền Giang Nam (miền Nam sông Dương Tử) và miền
Lĩnh Nam (miền Nam rặng Ngũ Lĩnh).
Theo Đào
Duy Anh thi “Trong những nhóm Bách Việt
được chính sử Trung Quốc như Sử Ký và Tiền Hán Thư
chép tương đối kỹ càng là: Đông Việt, Mân Việt,
Nam Việt, Tây Âu. Theo Sử ký mục “Đông Việt
truyện” thì chúng ta biết rằng Đông Việt hay Đông
Âu trong thời Tần Hán đóng đô ở Vĩnh Ninh tức Vĩnh
Gia là miền Triết Giang. Mân Việt thì ở đất Mân
Trung tức là miền Phúc Kiến. Nam Việt đô ở Quảng
Châu gọi là thành Phiên Ngung thuộc miền Quảng
Đông, Tây Âu ở phía Nam sông Ly miền Quảng Tây.
Còn nhóm Lạc Việt, theo Hậu Hán thư cho chúng ta
biết rằng các quận Giao Chỉ và Cửu Chân là người
Lạc Việt, như thế Lạc Việt là một chi Việt tộc tập
trung nhiều nhất ở miền Bắc Việt Nam. Như vậy,
theo sử sách xưa của chính Hán tộc đã gọi Bách
Việt là những nhóm người sống rải rác khắp miền
Hoa Nam, phía Tây gồm cả đất Vân Nam Tứ Xuyên và
phía Nam gồm cả Bắc và Trung Việt Nam bây giờ mà
sử sách thường gọi chung là miền Giang Nam tức
miền Nam Dương Tử
Giang hoặc miền Lĩnh Nam, phía Nam rặng núi Ngũ
Lĩnh. Tuy nhiên chính sử Trung Quốc chi ghi một
cách sơ xài như Sử ký của Tư Mã Thiên chỉ ghi kỹ
về Đông Việt, Mân Việt, Nam Việt và Lạc Việt mà
thôi”.
Thư tịch cổ
Trung Quốc phải thừa nhận một thực tế lịch sử đó là
sự thành lập của các quốc gia thời Xuân Thu Chiến
quốc mà họ gọi là Bách Việt ở vùng Giang Nam. Sử ký
của Tư Mã Thiên chép tương đối kỹ về Đông Việt tức U
Việt của Việt Vương Câu Tiễn không chỉ ở Triết Giang
mà lên tới miền Giang Tô tức châu Từ, quê hương của
gốm sứ Việt cổ nổi tiếng của chi Dương Việt. Nước
Việt đóng đô ở Cối Kê với những thăng trầm dâu bể
của lịch sử nên Lý Tế Xuyên mới viết “Việt điện U
linh” về nước Việt thuở xa xưa. Mân Việt ở Phúc
Kiến, Dương Việt ở Giang Tây, Liêu Việt ở Quí Châu,
Điền Việt, Kiềm Việt ở Vân Nam, Quì Việt ở Tứ Xuyên,
Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt còn gọi là Tây Âu ở
Quảng Tây và Lạc Việt ở xen kẽ với Âu Việt rải rác
khắp Hoa Nam nhưng tập trung nhiều nhất ở Quảng Tây
và Bắc Việt Nam bây giờ.
Đối
chiếu với cương giới Văn Lang trong truyền thuyết
chúng ta thấy thực tế địa bàn cư trú của cộng đồng
Bách Việt rất phù hợp, trải dài từ Hồ Động Đình
xuống tận phương Nam giáp Chiêm Thành và từ biển
Đông sang tới tận Ba Thục ở phía Tây. Thế nhưng Đại
Việt sử lược bị sử quan triều Thanh là Tiền hi Tộ
sửa đổi nên chép tên các bộ chỉ nằm trong phạm vi
Bắc Việt Nam bây giờ. Theo nhà bác
học Lê Quí Đôn trong Vân Đài loại ngữ thì “Tên 15 bộ do
triều Hán, Ngô mơí đặt ra,
tên
gọi
lẫn
lộn ngờ rằng những tên đó là do bọn hậu Nho góp
nhặt vay mượn chép ra nên khó mà tin được”.
Xét về phận dã thiên văn thì Giao Chỉ thuộc Sao
Tĩnh, Dực Chẩn và Đẩu Ngưu. Như vậy, nhà bác học Lê
Quí Đôn đã xác nhận rõ là cương giới nước ta thời cổ
nằm mãi ở Trung nguyên Trung Quốc bây giờ. Thật vậy,
cương giới Hồng Bàng Văn Lang xưa được ghi trong
“Thiên thư” là Việt Tĩnh Cương lấy chòm sao Tĩnh làm
chuẩn để phân bố các vùng, các bộ trong nước Văn
Lang. Nhìn chung, chòm sao Tĩnh tượng hình bằng 2
đường thẳng và 2 đường ngang cắt nhau tại 4 điểm chỉ
vùng đất từ Tam giang Bắc gồm sông Vị, sông Hoàng và
sông Lạc xuống tới Tam giang Nam gồm sông Nguyên,
sông Tương và sông Dương Tử.
Sự mâu
thuẫn cũng không có gì khó hiểu, vì việc bóp méo,
xuyên tạc và sự kiện lịch sử được hư cấu để vấn đề
gốc tích dân tộc ta trở nên mịt mờ huyền hoặc là bản
chất cố hữu, chủ trương trước sau như một của Hán
tộc xuyên suốt dòng lịch sử. Trong khi đó sách Lĩnh
Nam Trích Quái dựa theo truyền kỳ lịch sử dân gian
Việt cổ lại chép các bộ Chân Định ở Trường Sa Hồ
Nam, bộ Quế Dương, Quế Lâm ở Quảng Tây và Tượng quận
ở Quí Châu, Vân Nam thuộc lãnh thổ Trung Quốc bây giờ mới phù hợp với
thực tế lịch sử. Ngay sử gia Tư Mã Thiên người được
coi là ngay thẳng trung thực nhưng với tư cách là sử
gia đại biểu chính thống cho Hán tộc, Tư Mã Thiên là
người hiểu rõ hơn ai hết Hoàng Đế là người Việt vì
cũng chính ông ta đã viết là những vị vua Đế Chuyên
Húc, Đế Cốc đều là ông tổ của những vị vua Việt sau
này. Tư Mã Thiên cũng hiểu rõ về Lạc bộ Chuy, Lạc bộ
Thủy, Lạc bộ Trĩ nhưng lại viết Lạc bộ Mã vì không
muốn người Việt nhớ đến cội nguồn dân tộc và lãnh
thổ Việt xưa.
Tóm lại,
chính thực tế lịch sử đã minh nhiên lý giải ý nghĩa
của sự việc lạ thường là mẹ Tiên đẻ trăm trứng nở
trăm con, để rồi trở thành trăm chi tộc Việt mà sử
cổ Trung Hoa gọi là Bách Việt. Mỗi chi tộc do một
người con trai đứng đầu nên từ đó mới có ý niệm bách
tính là trăm họ. Đây mới chính là vấn đề mà cốt lõi
của nó là sự gửi gấm của ông cha ta thời dựng nước
cho con cháu ngàn sau, về nguồn gốc giống dòng của
trăm chi tộc Việt máu mủ ruột rà, cùng chung huyết
thống để lúc hoạn nạn nhớ cưu mang giúp đỡ lẫn nhau
như lời Bố Lạc dặn dò trước lúc chia tay. Không
những cưu mang giúp đỡ lẫn nhau
mà còn phải đoàn kết, thống nhất sức mạnh
Việt tộc để phục hưng dân tộc Việt. Truyền thuyết
dân gian Hoa Nam và Đài Loan về chim Phượng Hoàng,
chúa tể loài chim Totem Vật tổ Việt tộc mà dân gian
gọi là “Bái điểu tộc”, chống lại thiên ma tộc “Đại
Hán”. Đó chính là bức “Thông điệp” của tiền nhân từ
huyền thoại xuyên suốt mấy ngàn năm của dòng vận
động Lịch sử Dân tộc Việt.
Thế là Truyền
thuyết huyền thoại từ chỗ u u đã trở nên minh minh,
chứ không còn u u minh minh như trước nữa. Ngày nay
chúng ta không còn ngạc nhiên khi thấy ông cha ta đã
chọn loại Chim là vật biểu, tự thân hai chữ Hồng
Bàng có nghĩa là rộng lớn. Hồng là Ngỗng trời, còn
Hộc là Ngan trời, nên cả hai còn có tên là Thiên Nga
(Swan), hàm ý có chí lớn bay cao tận trời xanh. Hình
ảnh chim được khắc hoạ trên mặt trống đồng với mỏ
dài của loại chim nước. Các nhà nghiên cứu kết luận
chim nước là của Đông Nam Á, nó gắn liền với cư dân
nông nghiệp sống ở vùng sông
lạch, ao hồ. Theo triết gia Kim Định thì Hồng Hộc,
chim nước của Việt tộc thể hiện nguyên lý Âm Dương
Giao Chỉ vì nó vừa bay lên trời vừa xuống dưới nước.
Chi tộc Âu Việt tôn thờ chim Hồng biểu trưng của văn
minh nông nghiệp cùng với chi Lạc thờ Rồng trong
cộng đồng Bách Việt nên chúng ta vẫn tự hào là dòng
giống Lạc Hồng (Lạc Âu). Trên bình diện tâm linh, hư
cấu thêm ý nghĩa thần thoại thì chim bay lên tận
trời xanh thường gắn liền với các vị Tiên nữ trên
trời. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Phượng minh triều
dương”, tức là chim Phượng hót chào mặt trời ban
mai. Sách Quảng Đông Tân ngữ ghi là:”Tùy dương Việt
Trĩ”, Trĩ là con Công của Việt tộc luôn luôn bay
theo hướng mặt trời, mà con Công chính là chim
Phượng Hoàng huyền thoại được coi như tổ các loài
chim.
Ý niệm
Chim-Tiên-Mặt trời gắn liền với tín ngưỡng nguyên
thủy của cư dân nông nghiệp với nền văn minh lúa
nước của Việt tộc. Bên cạnh ý nghĩa tâm linh đó,
chim Hồng biểu tượng một ý chí cao, luôn bay vươn
lên, vượt tới trời xanh, thể hiện ý chí tầm cao của
tộc Việt, một dân tộc có bản lĩnh anh hùng coi cái
chết “nhẹ như lông hồng”. Người Việt sẳn sàng hy
sinh cho dân tộc nên dân gian thuờng nói chim én,
chim sẻ làm sao hiểu được chí lớn của chim Hồng,
chim Hộc.
CỘI NGUỒN TRĂM HỌ CỦA VIỆT TỘC
Thực tế
đã minh nhiên lý giải ý nghĩa của sự việc lạ thường
là mẹ Tiên sinh ra trăm trứng nở trăm con để rồi mỗi
người con đi khắp nơi phát cỏ lập ấp trở thành một
trăm chi tộc Việt mà cổ sử Trung Quốc gọi là Bách
Việt. Mỗi chi tộc do một người con trai đứng đầu
vâng lời bố Lạc đến một vùng đất mới khai phá đất
đai, phát cỏ mở đất lập ấp lập ra một dòng họ. Chính
từ đó mới có ý niệm bách tính nghĩa là trăm họ của
Việt tộc mà trước đây, do ảnh hưởng của văn hoá Hán
chúng ta cứ nghĩ là của Hán tộc. Đây chính là vấn đề
cốt lõi ẩn chứa trong huyền thoại mà tiền nhân đã
gửi gấm cho thế hệ con cháu Việt Nam ngàn sau.
Theo
“Bách Việt Ngọc phả Truyền thư” thì sau chiến thắng
lẫy lừng Đống Đa đánh đuổi đạo quân Thanh xâm lược,
Hoàng Đế Quang Trung cử La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp
làm Quốc Sử quán, khâm mệnh nhà vua về làng Vân Lôi
để nghiên cứu bản “Bách Việt Từ đường Tộc phả”. Sau
đó, vị Hoàng Đế anh minh lỗi lạc của dân tộc đã thân hành đến nói
chuyện thân mật với các vị bô lão, hương chức và dân
làng Vân Lôi. Theo nhà nghiên cứu Bùi văn Nguyên thì
bản “Bách Việt Ngọc phả Truyền thư” do trưởng họ
Nguyễn Đức ghi vào năm thứ tư đời Đinh Tiên Hoàng
tức năm Tân Mùi 971 hiện còn lưu giữ ở làng Vân Lôi
Hà Tây mà xưa kia là làng Vân Nội thuộc phủ Thanh
Oai tỉnh Hà Nội. Bách Việt Ngọc phả Truyền thư viết:
“Nhà thì có gia phả cũng như nước thì có
Quốc sử. Phải ghi lại cho tinh tường để tổ quốc
ghi công. Non sông gấm vóc, đời này qua đời khác
đến. Bên văn thì hiền lương, bên võ thì lăo luyện.
Vị thế nước nhà thật rực rỡ. Đầu đuôi các thế hệ
được ghi chép, biên khảo để truyền về sau. Đầu
tiên chỉ chép vị tổ tối cao. Tổ quốc ta được tính
từ tổ xa xưa đó, vị tổ gốc rễ, vị tổ từ đất mẹ
truyền đến chúng ta đã hàng muôn nghìn đời giống
như Cây thì phải có gốc, nước thì phải có nguồn.
Trước mắt chúng ta hãy tính từ “Ba vua mở nước”.
Vậy từ xa xưa, nước ta đã có các vua Hùng làm chủ
nước non với bản đồ hoa sen nở rộ, tính từ khi
Kinh Dương Vương đứng đầu “ Ba vua mở nước” đã là
2.800 năm có thừa”.
&nbsnbsp;
Sơ khai Nam Việt hữu Kinh Dương,
Nhất
thống sơn hà thập bát vương
Dư
bách
hệ
truyền thiên cổ tại,
Ức niên
hương hoả ức niên phương.
Mở đầu Nam Việt có Kinh Dương
Mười tám ngành vua, mười tám chương
Bách Việt sơn hà muôn thuở đó,
Đời đời đèn nến nức thơm hương
..!
(bản
dịch của Vân Trình)
Từ
đường họ Nguyễn gốc ở làng Vân Nội thờ từ Tổ Phục Hy
gọi là Đế Thiên và Thần Nông gọi là Đế Thần trở
xuống cho đến các vua Hùng. Theo đương kim Tộc
trưởng ông Nguyễn văn Tằng thì đền thờ từ Kinh Dương
Vương xuống tới các vị vua triều Nguyễn. Trong từ
đường có bức hoành phi và đôi câu đối do triều
Nguyễn tặng: “Quốc Ân Gia Khánh” nghĩa là Lộc nước
phúc nhà.
“Muôn thuở phúc nhà lòng kính Tổ,
Chín trùng lộc nước áo vua ban”.
Theo nhà
nghiên cứu Bùi văn Nguyên thì sở dĩ có họ Nguyễn gốc
là vì tổ tiên ta lấy địa danh cái gò núi đất ở Vân
Lôi xưa kia là Phong Châu nơi họ Nguyễn sinh tụ. Chữ
Nguyễn bên trái chữ phụ là cái gò đất, bên phải là
chữ nguyên nghĩa là đầu tiên. Trong khi đó, một
nguồn sách sử khác cho biết là ngay từ thời cổ đại ở
Cam Túc một tỉnh tiếp giáp với vùng Tam Giang Bắc,
trên đường thiên di của Việt tộc đã sinh tụ tại đây
nên cổ thư đã nói tới họ Nguyễn, một nước Nguyễn
(Rhuan). Về sau họ Nguyễn thiên cư dần xuống trung
nguyên rồi Hoa Nam và Việt Nam bây giờ.
Ngày
nay, các nhà nghiên cứu đều ghi nhận rằng Việt Nam
có 3 dòng họ lớn là họ Nguyễn, họ Trần và họ Lê.
Trong 3 họ này, họ Nguyễn là đông nhất vì theo các
nhà nghiên cứu thì họ Nguyễn đã thiên cư dần từ Cam
Túc, Thiểm Tây xuống Hoa Nam rồi Việt Nam. Mặt khác,
đời Trần vào thế kỷ 12 sau khi sắp xếp để Lý Chiêu
Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, Thái sư Trần Thủ Độ
lấy cớ ông tổ họ Trần tên Lý nên bắt tất cả những ai
mang họ Lý phải đổi ra họ Nguyễn. Chính vì vậy họ
Nguyễn ngày càng đông hơn.
NHỮNG DÒNG HỌ DỰNG NÊN
CÁC TRIỀU ĐẠI
TRONG
LỊCH SỬ VIỆT
Theo nhà
nghiên cứu Gia phả Dã Lan Nguyễn Đức Dụ thì Việt Nam
có khoảng 140 dòng họ. Khi nghiên cứu các dòng họ ở
Việt Nam, người ta phải căn cứ vào lịch sử thiên cư
của Việt tộc, bao gồm các quốc gia Bách Việt và các
triều đại trong lịch sử, các chiến công lẫy lừng của
các danh tướng, các anh hùng danh nhân văn hoá. Tựu
chung có thể liệt kê một số dòng họ chính nổi bật
nhất như sau:
.
Họ Hồng: Họ Hồng Bàng.
.
Họ Lạc (Lị, Lộ, Ló ..): Họ của Bố Lạc Long Quân.
.
Họ Âu (Ngu ..): Họ của mẹ Âu (Cơ).
.
Họ Hùng: Hữu Hùng thị, được xem như họ
các vua Hùng. Thời Hai bà Trưng cũng nhận là
kế lại nghiệp Hùng nên lấy tên nước là Hùng Lạc.
.
Họ Triệu:Triệu Đà lên ngôi vua lấy hiệu là Triệu vũ
Vương thành lập quốc gia Nam Việt. Về sau có Triệu
thị Trinh khởi nghĩa năm 248 chống quân Ngô. Triệu
Quang Phục lên ngôi lấy hiệu là Triệu Việt Vương
(549-571).
.
Họ Trưng: Trưng Trắc, Trưng Nhị …
.
Họ Khu: Năm 139, nhân dân Nhật Nam dưới sự lãnh đạo
của Khu Liên đánh chiếm huyện Tượng Lâm thành lập
nước Lâm Ấp. Sử Tàu chép là Lâm Ấp chính thức thành
lập vào niên hiệu Sơ Bình 190-192.
.
Họ Phạm: Phạm Văn, Phạm Phật làm vua nước Lâm Ấp.
.
Họ Lý: Nhà Tiền Lý từ năm 544 đến năm 602, Lý Bí lên
ngôi lấy hiệu là Lý Nam Đế, thành lập quốc gia Vạn
Xuân. Lý Phật Tử (571- 673). Năm 1010, Lý Công Uẩn
lên ngôi lấy hiệu là Lý Thái Tổ mở ra triều đại nhà
Lý dài 215 năm (1010-1215).
.
Họ Mai: Mai Thúc Loan lên ngôi được suy tôn là Mai
Hắc Đế (722-725).
.
Họ Phùng: Phùng Hưng được nhân dân suy tôn là Bố Cái
Đại Vương sau khi khởi nghĩa đánh bại quân Đường
giành quyền tự chủ cho nước nhà (783-791).
.
Họ Khúc: Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ năm 906.
.
Họ Dương: Dương Đình Nghệ chống quân Nam Hán.
.
Họ Ngô: Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán (937-965).
.
Họ Đinh: Đinh Bộ Lĩnh thống nhất nước nhà 967.
.
Họ Lê: Lê Hoàn, Lê Lợi.
.
Họ Trần: Trần Cảnh.
.
Họ Hồ: Hồ Quí Ly, Hồ Thơm Nguyễn Huệ.
.
Họ Mạc: Mạc Đăng Dung.
.
Họ Trịnh: Trịnh Kiểm.
.
Họ Nguyễn: Nguyễn Hoàng.Theo nhà văn Lê văn Siêu
trong tác phẩm Việt Nam Văn minh Sử cương thì khi Mã
Viện thắng Hai Bà Trưng đã tàn sát dân ta, chúng còn
bắt hàng trăm“Cừ Soái”
đem sang Tàu, số những người còn lại mang họ này
phải tìm cách đổi họ thay tên nên dòng họ Trưng, họ
Thi, họ Chử, họ Hùng, họ Thục hầu như không còn nữa.
NHỮNG DÒNG HỌ LẬP CHIẾN CÔNG HIỂN HÁCH
TRONG LỊCH SỬ
.
Họ Chu: Năm 158, Chu Đạt lãnh đạo nhân dân Cửu Chân
nổi lên đánh chiếm Nhật Nam. Năm 163, Chu Cái cùng
với Hồ Lan lãnh đạo nhân dân nổi lên đánh chiếm
huyện Quế Dương, Thương Ngô.
.
Họ Bốc, họ Hồ, họ Phan: Từ 160-180, nhân dân Thương
Ngô dưới sự lãnh đạo của Bốc Dương, Phan Hồng, Lý
Nghiêu, Hồ Lan, Chu Cái nổi lên đánh chiếm Thương
Ngô.
.
Họ Lương: Tháng giêng năm 178, anh hùng dân tộc
Lương Long lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa của nhân
dân các quận Hợp Phố, Giao Chỉ,Cửu Chân, Nhật Nam
nổi lên đánh chiếm quận huyện, làm chủ đất nước được
4 năm.
.
Họ Ninh: Ninh Trường Châu nổi lên chiếm Uất Lâm và
Thuỷ An Quảng Tây bây giờ.
.
Họ Lý: Lý Trường Xuân và Lý Tự Tiên khởi nghĩa chống
giặc Đường.
.
Họ Dương: Năm 806, Dương Thanh nổi dậy giết Lý Tượng
Cổ và hơn 1 ngàn quân Đường và anh hùng Dương Diên
Nghệ.
Ngoài những
dòng họ Việt ở Việt Nam bây giờ, chúng ta còn phải
kể tới những dòng họ Việt cổ ở Hoa Nam mà sử sách
Trung Quốc gọi là Bách Việt. Từ trước đến nay, các
sử gia Việt Nam do quan điểm bị đóng khung nên viết
rằng nước ta chỉ nằm trong phạm vi Bắc và Trung VN
hiện nay. Sử gia Trần Trọng Kim trong tác phẩm “Việt
Nam Sử lược” viết về dòng dõi Lý Nam Đế như sau:“Lý Bôn có người gọi là Lý Bí, vốn dòng
dõi người Tàu, tổ tiên đời Tây Hán phải tránh loạn
chạy sang Giao Châu, đến lúc bấy giờ đã là 7 đời,
thành ra người bản xứ …”. Trần Trọng Kim viết
về thân thế Hồ Quí Ly như sau: “Nguyên
họ Hồ là dòng dòng dõi nhà Ngu bên Tàu nên đặt
quốc hiệu là “Đại Ngu” trong khi Hồ Quí Ly
nhận là dòng dõi vua Thuấn họ Ngu (Âu-Việt) nên lấy
hiệu là Ngu Thuấn. Sách “Đại cương Lịch sử Việt
Nam”, nhà xuất bản giáo dục CHXHCNVN 1999 cũng chép
rập khuôn Lê Quí Ly, cháu 4 đòi của Hồ Liêm, dòng
dõi Hồ Hưng Dật người Triết Giang bên Tàu.
Gần
đây,
nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa trong tác phẩm “Họ và tên người Việt Nam” cũng viết rập
khuôn sách sử xưa như sau:
“ Phần lớn các họ của người Kinh có
nguồn gốc từ Trung Quốc như Trần, Lê, Lý, Đỗ …
Trong hàng nghìn năm Bắc
thuộc và tiếp tục sau đó, nhiều quan lại và thường
dân Trung Quốc đã sang định cư ở nước ta, rồi sinh
con đẻ cháu, dần dần trở thành người Việt. Xin nêu
ra một vài dẫn chứng như Trần Lãm, cha nuôi của
Đinh Bộ Lĩnh, vốn là con ông Trần Công Đức, quán ở
Trấn Quảng Đông, từ Trung Hoa sang hùng cứ ở Bố
Hải Khẩu, nay là xã Kỳ Bố, huyện Vũ Tiên, phũ Kiến
Xương tỉnh Nam Định, tự xưng là Trần Minh Công ”.
Ngay cả họ Nguyễn, một họ lớn nhất của người Việt
chiếm 38% thì Lê Trung Hoa cũng cho có nguồn gốc
Trung Hoa vì: “Đời Tấn, bên Trung Quốc
có Nguyễn Tịch nổi danh với điển tích Mắt xanh.
Đồng thời với Nguyễn Tịch có Nguyễn Hàm, một nhà
thơ nổi tiếng!!!”. Thực ra, tất cả đều là họ
của người Việt cổ ở Hoa Nam bây giờ thuộc lãnh thổ
Trung Quốc nên cho là họ của người Tàu, thực ra họ
chính là người “Tàu gốc Việt cổ”.
NHỮNG DÒNG HỌ VIỆT CỔ
Ở NAM TRUNG
QUỐC
Ngày nay sự
thật lịch sử đã được phục hồi sau mấy ngàn năm bị
che phủ. Thật ra lãnh thổ của nước Xích Qui rồi Văn
Lang của Việt tộc thời xưa còn ở trung nguyên. Suốt
dòng lịch sử Việt, người Việt cổ đã phải thiên cư
rời bỏ địa bàn sinh tụ trước kẻ thù Hán tộc xâm lăng
phương Bắc chạy xuống phương Nam. Số còn lại trải
qua hàng ngàn năm thống trị của Hán tộc với chủ
trương đồng hoá, buộc họ phải theo phong tục tập
quán Hán, phải đồng nghĩa là phải giống như người
Hán nhưng trải qua hàng ngàn năm bị nô dịch nhưng họ
vẫn giữ bản sắc Việt nên không bao giờ hoá thành
người
Hán được. Chính vì vậy, tuy cùng gọi là người Trung
Quốc nhưng người Hoa Nam và người Hoa Bắc khác nhau
hoàn toàn từ con người đến đời sống văn hoá, phong
tục tập quán. Người Hoa Nam vẫn gọi nhau bằng họ như
ông Trần, ông Lý… chứ không gọi bằng tên chính là để
nhận biết cội nguồn Việt cổ của tổ tiên họ. Như vậy,
người dân Trung Quốc ở Hoa Nam hiện nay là người
Trung Quốc gốc Việt cổ nên họ của dân Hoa Nam chính
là họ Việt như họ Lý,
Lưu, Trương, Mai, Lâm, Trịnh ...
Ngay từ thời
Chu khi Hồ Công lấy công chúa Chu, vua Chu cắt đất
Trần phong cho Hồ Công. Hồ Công lấy đất phong lập ra
triều Trần của dòng họ Trần ở lưu vực phía Đông sông
Dương Tử. Sử sách Việt ghi tổ tiên của Lê Quí Ly và
Nguyễn Huệ tên thật là Hồ Thơm vốn họ Hồ ở đất Trần
là người Việt cổ. Hồ Quí Ly đặt tên nước là “Đại
Ngu” hàm nghĩa là dòng dõi vua Thuấn họ Ngu. Đồng
thời họ Hồ nuôi tham vọng mở ra triều đại thanh bình
thịnh trị như thời Đường Ngu tức Nghiêu Thuấn thuở
xưa. Theo các nhà nghiên cứu thì Ngu về sau trại âm
ra là Âu, Ngu Cơ=> (Ou Cơ) =>gt; Âu Cơ. Chữ Cơ
ban đầu chỉ có nghĩa là người con gái xinh đẹp nên
truyền thuyết Rồng Tiên
với mẹ Âu Cơ có nghĩa là mẹ Âu xinh đẹp như tiên.
Trong
suốt trường kỳ lịch sử, Bách Việt ở Hoa Nam luôn
vùng lên giành lại đất tổ Trung nguyên mỗi khi Hán
tộc suy yếu. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, các quốc gia
Bách Việt của con Rồng cháu Tiên như Việt, Ngô rồi
Sở nhiều lần đánh thắng các nước lên ngôi Bá chủ
Trung nguyên nhưng do ở rải rác khắp trung nguyên và
quyền lợi vị kỷ của giới cầm quyền nên thường gây
chiến tiêu diệt lẫn nhau để rồi bị Tần tiêu diệt.
Khi triều Tần xụp đổ, Hạng Võ người Sở Việt cùng Lưu
Bang người Hán quyết chiến một mất một còn giành
quyền làm chủ Trung nguyên. Hạng Võ ỷ tài “Lực bạt
sơn hề khí cái thế” nên kiêu căng không nghe lời của
quân sư Phạm Tăng nên bị Lưu Bang vây khốn phải tự
sát, chấm dứt cục diện “Hán Sở tranh hùng”để rồi
Trung nguyên lại về tay Hán tộc. Hạng Võ, người anh
hùng khí đoản của Sở Việt cũng tự sát với người yêu
là nàng Ngu Cơ cũng để lại bao thương tiếc cho người
dân Sở Việt ở Hoa Nam.
Trước
một kẻ thù Hán tộc phương Bắc vốn là một tộc người
du mục đời sống vật chất, thiên về lý trí nên tình
cảm lạnh lùng đến mức khô cằn. Cuộc sống du mục buộc
phải có tổ chức, đoàn kết, sức mạnh võ biền, rất
thạo việc chiến tranh. Trong khi các nước Bách Việt
ở phương Nam định cư rải rác khắp Trung nguyên là cư
dân nông nghiệp đời sống thiên về tình cảm, thịnh về
văn hoá nhưng kém về võ lực nên Hán tộc thắng một
cách dễ dàng. Mặt khác, theo nhận xét của các nhà
nghiên cứu thì các quốc gia Bách Việt không biết
đoàn kết để thống nhất sức mạnh mà thường đánh lẫn
nhau để giành ngôi vị thủ lĩnh nên chia rẽ, phân hoá
nên chỉ một thời gian ngắn lại bị Hán tộc thống trị
như cũ. Cuối đời Đường, tình hình Trung Quốc tam phân ngũ liệt nên sử
sách gọi thời kỳ này là thời Ngũ đại Thập quốc. Ở
miền Bắc gồm 5 triều đại nối tiếp là: Hậu Lương, Hậu
Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu được xem là chính
thống của Trung Quốc. Trong khi đó ở miền Nam, cư
dân Hoa Nam gốc Việt nổi lên giành độc lập và thành
lập 10 nước Bách Việt gồm:
. Nước Ngô do Dương Hành Mật
lập ra ở An Huy.
.
Tiền Thục do Vương Kiến thành lập ở Tứ Xuyên.
.
Ngô Việt do Tiền Cù thành lập ở Triết Giang.
. Sở do
Mã Ân lập ra ở Hồ Nam.
. Mân do
Vương Thẩm thành lập ở Phúc Kiến của chi Mân Việt.
. Nam Hán
do Lưu Ẩn thành lập ở Quảng Đông. Thực ra tên nước
lúc ban đầu lấy tên rặng núi ở Hoa Nam là Đại Việt
đặt tên nước, rồi về sau đổi là Nam Hán vì ở phía
Nam sông Hán.
. Nam
Bình do Cao Bảo Dung thành lập ở Hồ Bắc.
. Hậu
Thục do Mạnh Trí thành lập ở Tứ Xuyên.
. Nam
Đường do Lý Thắng thành lập ở Giang Tô.
. Bắc Hán
do Lưu Sùng thành lập ở vùng Sơn Tây phía Bắc sông
Hán.
Thực tế
này được nhà Trung Hoa học, học giả H. Wiens nhận
xét một thực trạng đau lòng là “Bao
nhiêu cuộc trổi dậy của Bách Việt đều thất bại vì
người Lĩnh Nam tự phá lẫn nhau…”. Lịch sử đã
chứng minh khi các chi Việt thuộc các nước Ngô,
Việt, Sở bỏ Hoa Nam chạy xuống Bắc và Trung Việt Nam
hợp nhất với Lạc Việt và các chi Việt khác định cư
tại đây từ trước tạo nên một sức mạnh tổng lực nên
đã đánh thắng bao cuộc xâm lược của Hán tộc để tồn
tại mãi tới ngày nay.
Từ huyền thoại
đến hiện thực lịch sử đã minh nhiên xác định Việt
tộc bao gồm cả trăm chi tộc như Lạc Việt, Âu Việt,
Mân Việt, Dương Việt, Đông Việt, Quì Việt, Điền
Việt… Chính sử gia chính thống TQ Tư Mã Thiên trong
bộ Sử Ký đã viết:“Nước Sở, nước Việt đều
là dân Việt. Dân nước Sở họ Mị, dân nước Việt họ
Tự (Từ)”. Nhà nghiên cứu Tscheppe ghi nhận Phù
Sai, Hạp Lư, Câu Tiễn đều là họ Việt. Chính vì vậy,
quan niệm cho rằng dân tộc Việt là một cộng đồng dân
bao gồm 54 dân tộc là một quan niệm sai lầm, phản
dân tộc vì đã phủ nhận cội nguồn gốc tích của Việt
tộc. Không thể có một dân tộc Kinh vì dân tộc Kinh
là dân tộc nào? Thực ra đây chính là chi tộc Việt
sống ở châu Kinh mà thôi. Cũng như không thể có một
dân tộc Tày, dân tộc Mnong, dân tộc Thái, dân tộc
Hmong, dân tộc Mường mà chính là những chi tộc Việt
trong Bách Việt.
Nhà
nghiên cứu Chéon thì cho rằng người Mường là người
Việt cổ sơ còn giữ được một vài họ cổ là họ Ai, họ
Kem, họ Khói, họ Sa, họ Xạ …Hiện nay đồng bào Mường
còn giữ một số họ như Bạch, Bùi, Cao, Đinh, Hà,
Hoàng, Lê, Phạm, Quách, Trịnh, Xa trong đó Đinh,
Quách, Bạch, Hoàng là nhiều nhất. Cổ sử Trung Quốc
cho biết Hoàng Đế Li Vưu, cổ thiên tử là thủ lĩnh
của Tam Miêu bây giờ gọi là đồng bào Hmong Mien gồm
đồng bào Dao và Miêu (Mèo) trước đây một thời làm
chủ Trung nguyên. Nhà nghiên cứu Nguyễn Nguyên dẫn
tác phẩm “Người Hmong” của Chu Thái Sơn cho biết họ
Lý là dòng họ chính của đồng bào Dao nên năm 1060,
vua Lý Anh Tông mới cho dựng đền thờ Xuy Vưu ở
phường Bố Cái. Dòng họ Lý là dòng họ chính ở bán đảo
Triều Tiên nên được xem như hậu duệ của Hmong Dao,
một chi trong Bách Việt.
Thực tế này
được thư tịch cổ TQ xác nhận là khi Lạc bộ Trĩ gồm
Bách Bộc mà cổ sử Trung Quốc gọi là rợ Đông Di bị
đánh bật khỏi lưu vực sông Bộc và bán đảo Sơn Đông
đã thiên cư lên Đông Bắc thành lập nước Cao Câu Ly
mà sử TQ gọi miệt thị là rợ Tam Hàn. Lịch sử Hàn
Quốc cũng ghi nhận có một Tổng Thống họ Lý là Lý
Thừa Vãn và cũng không phải tình cờ mà sau khi nhà
Trần diệt nhà Lý mà Lý Long Tường phải chạy ngược
lên Triều Tiên để tỵ nạn vì đó là nơi đồng chủng
định cư từ lâu đời. Chính vì vậy, chúng ta có quyền
khẳng định tất cả là những chi tộc Việt, là anh em
cùng chung một bào thai của mẹ Âu nên chúng ta vẫn
gọi nhau một cách thân thương là đồng bào máu mủ
ruột rà:
“ Bọc điều
trăm họ thai chung,
Đồng bào
tiếng gọi vô cùng Việt Nam !”
TÌNH ĐỒNG BÀO NGHĨA RUỘT THỊT
Bức thông điệp lịch sử năm ngàn năm văn hiến
còn cho chúng ta một ý nghĩa cao đẹp tràn đầy vẻ
nhân văn của huyền thoại Việt Nam mà không một dân
tộc nào có được. Thật vậy, từ hình tượng Mẹ Tiên đẻ
ra một bọc trăm trứng rồi đem ra để ở ngoài đồng để
mẹ đất ấp ủ, bảy ngày sau trăm trứng nở ra trăm
người con trai, người nào cũng khôi ngô tuấn tú đã
cho chúng ta niềm tự hào con Rồng cháu Tiên. Chúng
ta có huyết thống thiêng liêng, máu mủ ruột rà,
truyền lưu cho chúng ta đều “bình đẳng” như nhau,
chúng ta cùng chung một bào thai của Mẹ Âu Cơ, người
Mẹ Tổ quốc Việt Nam sinh thành dưỡng dục nên chúng
ta có quyền gọi những anh em là đồng bào ruột thịt mà các dân tộc khác
không thể gọi được như thế. Hai chữ đồng bào mà
chúng ta vẫn gọi một cách thân thương trìu mến, phát
ra từ đáy lòng mỗi con dân Việt:
Bọc
điều trăm họ thai chung,
Đồng
bào tiếng gọi vô cùng Việt Nam...
Cũng từ
ý niệm này, văn chương dân gian Việt thường gắn liền
“yêu nước với thương nòi”, “tình đồng bào với nghĩa ruột thịt”
đặc trưng của nòi giống Việt. Chính từ ý nghĩa đồng
bào nên trong cuộc sống thường nhật, việc ứng xử thể
hiện qua cách xưng hô với người không phải trong gia
tộc rất là thân tình chẳng khác gì bà con họ hàng
cả. Đối với tha nhân, người Việt chúng ta cũng gọi
là bà con cô bác, cũng xưng hô là ông bà, cô bác,
chú thím, cậu mợ, anh chị em, là điều mà không thấy
ở bất cứ một dân tộc khác ngoài Việt Nam. Đồng bào
còn biểu trưng một ý niệm bình đẳng như nhau, giữa
những con dân Việt không có gì khác biệt về đẳng
cấp, quyền lợi. Sự khác biệt nếu có là do sự phân
công của xã hội phù hợp với khả năng mỗi người.
Huyền thoại
Rồng Tiên thể hiện một ý chí độc lập tự cường lấy
sức mình là chính, không dựa vào thần linh cũng như
tha nhân. Truyền thuyết Mẹ Âu ðem bỏ cái bọc ra
ngoài ðồng, biểu trưng cho nền vãn hoá nông nghiệp
nên đẻ xong lót lá chuối cho nằm dưới đất hàm nghĩa
trong vòng tay của mẹ đất. Mặt khác nó cũng thể hiện
ý niệm nhân chủ, lấy con người làm chính, dựa trên ý
chí tự chủ, tự lực tự cường. Huyền thoại Rồng Tiên
kể rằng sau 7 ngày trăm trứng nở ra trăm con trai,
không cần bú mớm thể hiện cao độ tâm linh Việt, để
chúng ta phải biết lấy sức mình là chính để đứng
vững trên đôi chân của mình không dựa vào Thần linh,
một sức mạnh bên ngoài như các dân tộc khác.
Từ ý niệm đồng
bào cùng chung một Mẹ, một nguồn cội huyết thống đã
hình thành một ý thức dân tộc cao độ với lòng yêu
nước gắn liền với thương nòi. Hai ý niệm yêu nước
thương nòi hòa quyện làm một, xuất phát từ lòng tự
hào “Con Rồng cháu Tiên” đã tạo nên những kỳ tích
oai hùng, đẹp như áng sử thi của thiên trường ca bất
hủ Việt Nam. Hai chữ “Đồng bào”của Việt tộc còn biểu
trưng một cộng đồng Bách Việt luôn đặt quyền lợi
chung lên trên quyền lợi cá nhân, việc nước trước
việc nhà, danh dự gia đình dòng họ trên lợi ích cá
nhân hẹp hòi vị kỷ. Tuy vậy, truyền thống Việt cổ
vẫn lấy con người làm gốc “Nhân bản”, tôn trọng cá
nhân cũng như sự bình quyền nam nữ, không phân biệt
giàu nghèo sang hèn, khác với Tây phương coi trọng
tự do cá nhân thái quá không đếm xỉa gì tới tha
nhân, tới lợi ích cộng đồng của nhân quần xã hội. Đó
chính là ý nghĩa của đạo đức Việt cổ mà giới học giả
Tây phương đều phải hết lời ca ngợi cái gọi là “Giá
trị Phương Đông”, tinh hoa của nền văn minh đạo đức
Việt Nam.
RỒNG
PHƯỢNG VIỆT NAM
CHIM PHƯỢNG
HOÀNG HUYỀN THOẠI
RỒNG
VIỆT NAM
Hình
tượng Rồng qua các Triều đại
(hình
của Trần Ngọc Thêm)
HUYỀN THOẠI RỒNG TIÊN,
BƯỚC NGOẶT TIẾN HOÁ CỦA NHÂN LOẠI
Truyền thuyết
về họ Hồng Bàng, tự thân chữ họ đã gói ghém tinh
thần gia tộc trong dòng họ của một thị tộc. Nhiều
thị tộc tiến tới một bộ tộc, rồi ý niệm dân tộc hình
thành theo quy luật sinh thành, tiến hoá chung của
nhân loại. Xã hội loài người thuở ban sơ với đời
sống hoang dã, bản tánh hồn nhiên sống theo tục quần
hôn của chế độ mẫu hệ kéo dài hàng ngàn năm. Theo
thời gian với sự tiến hóa của nhân loại, ý niệm độc
hữu đã hình thành gia đình, đáp ứng yêu cầu sinh
hoạt của đời sống xã hội ở một thời điểm nhất định
nào đó. Thế nhưng, khởi nguyên từ hình tượng nguyên
sơ của Mẹ Tiên đẻ trăm trứng nở trăm con, nguyên lý
Mẹ tiềm ẩn trong dòng máu Việt cái Gène “Tiên” ngay
cả khi đã chuyển sang chế độ phụ qưyền.
Nguyên
lý Mẹ thể hiện rõ nét trong sinh hoạt văn hoá, xã
hội mang tính truyền thống của dân tộc từ thuở xa
xưa. Thời đó, trong các cuộc tế lễ hội hè đình đám,
vai trò chủ tế thuộc phụ nữ chứ
không do các thầy tư tế như hầu hết các dân
tộc khác chịu ảnh hưởng của thần quyền. Thời kỳ này
hình thành một nền văn minh “Vu thuật” nên dân gian vẫn thường gọi là bà
Vu Ông Hích. Về sau nam giới mới được tham dự đồng
tế thì ta gọi là ông đồng bà bóng hay bà cốt. Thời
xưa, trống đồng không chỉ là một nhạc cụ mà nó còn
biểu hiện uy lực của một hiệu lệnh mà người đánh
trống bao giờ cũng là nữ giới. Tuỳ thư chép:“Người đánh khai
mạc chiếc trống mới đúc bao giờ cũng là người con
gái”. Ngay tên con sông nơi
mà những chi Việt tộc đã theo triền sông xuôi Nam đã
gọi tên một cách thân thương là dòng sông Mẹ, là
sông cái. Trong đời sống, nguyên lý Mẹ vẫn ngự trị
như một nguồn suối tâm linh làm dịu mát tâm hồn, xoa
dịu những nỗi đau trần thế. Thật vậy, không một dân
tộc nào mà có nhiều Thần nữ tâm linh như Việt tộc từ
hình tượng Mẹ Tiên đến Cửu Thiên Huyền Nữ, Thái
Dương Thần Nữ, Mẫu Thượng ngàn (Mẹ Long Nữ ở trên
miền núi) Bà Chúa Xứ, Mẫu Thoải (mẹ nước). Tại một
số địa phương như Hà Bắc, nhiều làng ghi trong Thần
phả hoặc có truyền thuyết về một Thần nữ là con gái
Mẹ Âu Cơ. Đây là cả một hệ thống Nữ thần như các bà
chúa Dâu dạy dân trồng dâu nuôi tằm, bà Chăm Chỉ của
làng Đại Trạch dạy dân se tơ chỉ, Đền thờ bà chị
ruột của 3 vị thần Bách Noãn ở thôn Đồng Miếu đã hy
sinh cùng ba anh em trong cuộc chiến đấu chống giặc
Tàu. Ở xã Vạn Linh cũng có bà Hồng thị, cùng chị em
với các thần Bách Noãn, bà lại có 2 con gọi Âu Cơ là
bà ngoại, gọi Hùng Vương bằng cậu, cùng với mẹ có
công tát sông. Dân gian vùng này vẫn tổ chức lễ hội
hàng năm trong đó có lễ rước nước, đưa kiệu xuống
thuyền ra giữa dòng quay ba vòng để múc nước vào
choé đem về Đình làng như để nhớ công lao tát sông
của vị thần nữ này. Nền tảng đạo lý gia đình, từ đó
trên bình diện cao hơn là nghĩa đồng bào, bắt nguồn
từ truyền thuyết “trăm trứng” thấm đậm trong tâm
thức người Việt.
Theo
truyền
thuyết thì Mẹ Âu Cơ sinh ra trăm trứng nở ra một trăm
con trai để rồi Bố Lạc dẫn 50 con xuống miền biển, Mẹ
Âu dẫn 50 con lên núi chia nhau mà trị. Một trăm người
con trai mỗi người định cư một nơi, Xâm mình, cắt tóc,
phát cỏ, lập ấp mở mang đất nước phát triển giống nòi
thành những chi tộc Việt như U
Việt, Mân Việt Dương Việt và Lạc Việt
…thành lập các quốc gia Bạch Lang, Dạ Lang,
Việt Lang, Văn Lang. Đây là thời kỳ chuyển tiếp từ chế
độ mẫu hệ sang phụ hệ mà truyền thuyết kể lại là Mẹ Âu
đẻ trăm con trai, kế đến là 50 con lên núi, 50 con
xuống biển chia nhau mà trị. Mỗi người con trai đều
xâm mình, cắt tóc, phát cỏ, lập ấp ở mỗi vùng, thoạt
kỳ thủy là một gia đình rồi tiến lên thị tộc, coi như
một chi tộc Việt trong Bách Việt.
Ý nghĩa của
mẩu truyền thuyết này xem như một mốc tiến hoá quan
trọng trong lịch sử nhân loại ở thời điểm khá sớm.
Trong khi đó ở Trung Quốc thời Thương còn duy trì
mẫu hệ mãi đến thời Tần Thủy Hoàng vẫn còn. Tần Thủy
Hoàng đã áp dụng những luật lệ khắt khe để chấm dứt
chế độ mẫu hệ còn rơi rớt ở Trung Quốc. Việc chuyển
sang chế độ phụ hệ đã chấm dứt tục quần hôn và loạn
luân được coi như bước ngoặt từ bản tính động vật
đến bản tính người. Khi xã hội Việt Nam thời Hùng
Vương chuyển dần sang chế độ phụ hệ, tuy nhiên
truyền thống dân tộc vẫn in đậm hình tượng Mẹ Âu,
người Mẹ Tổ Quốc nên ý nghĩa và vai trò của người Mẹ
vẫn được trân trọng bảo lưu mãi cho tới ngày nay.
Sách Nam Phương thảo mộc trạng của Kế Hàm thời Tấn ở
thế kỷ thứ 3 còn ghi về truyền thống tôn trọng nữ
giới của Việt tộc như sau: “ Người Việt
có tục Nữ tửu tức là Rượu con gái. Đúng vào ngày
sinh con gái người nhà nấu rượu để vào hủ sành gắn
nắp lại rồi đem ra chôn ở bờ ao. Đến khi người con
gái lớn lên, đi lấy chồng thì trong ngày cưới,
người nhà đào rượu ấy lên uống trong tiệc cưới”.
Ngày nay tập tục đó không còn nữa nhưng cha mẹ yêu
quí con gái vẫn thường âu yếm gọi con mình là con
gái “rượu”, chính là phản ánh tập
tục truyền thống xa xưa của dân tộc. Cách đây không
lâu, tuy tập tục ở rể còn rơi rớt ở một vài địa
phương nhưng phần lớn các trường hợp do gia đình bên
nhà trai gặp khó khăn hoặc gia đình bên gái chỉ có
một cô gái rượu nên bắt ở rể được sống gần con gái.
Hình
thái văn hoá mẫu hệ trong việc tôn trọng nữ quyền
của truyền thống Việt Nam khởi đoan từ hình tượng
thuở nguyên sơ của Mẹ Tiên Âu Cơ, người Mẹ sinh
thành của Tổ Quốc Việt Nam thể hiện nguyên lý MẸ đầy
tính nhân văn cao đẹp xuyên suốt dòng vận động của
lịch sử. Sự bình đẳng nam nữ đã thể hiện ngay từ
thời Hùng Vương, khác hẳn với Hán tộc, một tộc người
vẫn tự cho là văn minh, lên mặt giáo hoá dân tộc
khác, nhưng vẫn duy trì hủ tục mang tính quan liêu
gia trưởng trọng nam, khinh nữ. Quan niệm coi thường
giá trị của phụ nữ không được ra khỏi nhà, phục vụ
chồng của Tầu mới du nhập vào nước ta từ thời Hán
thuộc, một thời được các hủ nho rập khuôn nào là “con gái là con người ta” “Một
trai cũng là có, mười gái cũng như không”. Thế
nhưng, dù bị ngàn năm đô hộ của Tàu, văn hoá Việt
với sức sống vô biên của một dân tộc đã đẩy lùi cái
gọi là văn hoá nô dịch kia. Tuy phụ nữ không còn giữ
vai trò quyết định như trong chế độ mẫu hệ nhưng họ
vẫn được tôn trọng, thiên chức làm mẹ, làm vợ, vẫn
được xã hội đề cao. Tuy không còn là gia trưởng
nhưng giới phụ nữ vẫn được coi là nội tướng, người
giữ tiền bạc tài sản của gia đình. Quan hệ vợ chồng
không bất bình đẳng như xã hội Trung Quốc, đồng thời
nó cũng không bình đẳng thái quá kiểu Tây phương để
đi đến chỗ dễ đổ vỡ, ly dị, hậu quả là con cái thiệt
thòi đau khổ, gia đình ly tán.
Gia đình là
nền tảng của xã hội, nên mối tương quan vợ chồng
Việt Nam dựa trên sự đồng thuận của cả vợ lẫn chồng
“Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn”. Đời
sống vợ chồng không chỉ là hạnh phúc lứa đôi mà còn
là tổ ấm nuôi dưỡng giáo dục con cái. Tình nghĩa vợ
chồng Việt Nam đầm ấm thân thương, xem người phối
ngẫu của mình là nơi trú ngụ che chở cho họ nên vợ
hay chồng vẫn dùng chung chữ “nhà tôi” để chỉ chồng
hay vợ. Tình yêu thương chồng vợ còn thể hiện qua
cách xưng hô thân mật, xem người yêu chính bản thân
mình nên thường gọi nhau là “Mình, Mình
ơi!”.
Về sau
vai trò phái nam được coi trọng hơn vì truyền thống
thừa tự, hương hoả để thờ cúng tổ tiên, ông bà cha
mẹ nên chồng nói vợ nghe (phu xướng phụ tùy) nhưng
nếu trong các dịp lễ Tết, Giỗ chạp nếu không có mặt
người vợ thì xem như chưa đủ lễ nghĩa của đạo vợ
chồng. Tương lai của các con mới chính là hạnh phúc
của cha mẹ, nên người phụ nữ Việt Nam sẵn sàng hy
sinh tất cả cho chồng con, nhưng không vì thế mà bị
xem thường. Trái lại hình ảnh người mẹ sống mãi
trong tâm tư của con cái, cho dù đứa con đã lập gia
đình riêng. Do đó con cái phải sớm hôm phụng dưỡng
cha mẹ già từ miếng ăn, giấc ngủ, bát thuốc những
khi đau ốm, chứ không lạnh lùng, không một chút tình
cảm đôi khi có vẻ tàn nhẫn kiểu phương Tây, con cái
lớn lên lập gia đình riêng, cha mẹ già gửi vào viện
dưỡng lão, sống cô đơn trong tuổi già buồn bã. Phụ
nữ Việt thường nhịn nhục chiều chồng chiều con, chịu
thiệt thòi về phần mình để lo cho chồng cho con
nhưng bù lại cho đến cuối đời lúc nào cũng sống
trong hạnh phúc với chồng bên đàn con cháu thương
yêu ruột thịt.
Khởi
nguyên từ hình tượng Mẹ Tiên cao cả đã lập đại thành
“ Nguyên lý Mẹ” trong tâm thức mỗi người Việt, hình
thái văn hoá mẫu hệ, tôn trọng nữ quyền truyền lưu
mãi tới ngày nay. Chính truyền thống cao đẹp này của
dân tộc đã sản sinh ra những bậc nữ lưu vĩ đại như
Hai Bà Trưng, Bà Triệu và bao nhiêu nữ anh hùng nữa, những bậc anh thư của Việt
tộc đã góp phần to lớn trong công cuộc bảo vệ đất
nước mà không một dân tộc nào có được.
SỬ THI BỐ LẠC-MẸ ÂU
Mỗi
dân tộc đều có một vật tổ biểu trưng, trong khi Việt
tộc có hai vật tổ song trùng đó là Tiên Rồng. Ngay
từ thời đá mài Bắc Sơn cách nay khoảng 7000 năm
người ta đã tìm được những hòn sỏi mài nhẵn có gạch
2 vạch song song mà theo sự suy đoán là nét song
trùng, hay là nét lưỡng hợp được biểu hiện đầy rẫy
trong các huyền thoại. Đặc điểm của huyền thoại Việt
Nam là luôn luôn có những hạn từ như sông núi, đất
nước, nóng lạnh, sáng tối, trong ngoài, âm dương,
nước nhà, nhà nước biểu trưng lưỡng thể tính âm
dương đối lập trong sự thống nhất hài hoà bởi nguyên
lý MẸ.
Ngày
nay mọi người đều nhận chân được ý nghĩa và giá trị
của truyền thuyết là những trang chiếu giải trung
thực nhất của người xưa. Vấn đề là chúng ta, thế hệ
con cháu phải tìm về nguồn cội xa xưa để lý giải ngữ
nghĩa hàm ẩn trong chiều sâu ý niệm tâm linh của
dòng sống sinh động Việt cổ thời Hùng Vương. Đó
chính là quan niệm sử theo chiều dọc mà chúng ta gọi
là huyền sử. Truyện xưa kể rằng mối tình Rồng Tiên
của đôi vợ chồng nhân thần để rồi ba sinh hương lửa
mặn nồng đã sinh ra bọc điều trăm trứng nở ra trăm
con trai khôi ngô tuấn tú lạ thường.
Bố
Rồng trở về thủy phủ để Mẹ Tiên ở lại nuôi con. Mẹ
con cùng đường, tính trở về quê ngoại nhưng chiến
tranh loạn lạc nên không về được. Trong cảnh lẻ loi
đơn chiếc, mẹ con ôm nhau khóc lóc: “ Bố
ơi! Bố ở đâu mau về cứu chúng con …”. Rồi một
hôm, Bố Rồng bỗng nhiên về gặp Mẹ Tiên ở đất Tương
để tạ từ ly biệt. Tự thân của mẩu truyền thuyết này
là uyên nguyên triết lý của sự tương sinh tương
khắc, tan hợp hợp tan, quy luật muôn đời thường hằng
bất biến của vạn vật muôn loài. Bến nước sông Tương
ngàn trùng xa cách từ buổi ấy, những giọt nước mắt
chia ly ấy đã là hồn thơ muôn thuở của thi nhân:
Bố về gặp Mẹ bến sông Tương
Giọt lệ sầu đong nghĩa vợ chồng
Ngàn năm tự thuở chia ly ấy.
Huyền sử Rồng Tiên giống Lạc Hồng……
Giọt lệ
sầu đong của Mẹ đã không cầm được lòng tha thiết
ngậm ngùi của bố: “Ta là giống Rồng,
đứng đầu thủy tộc, nàng là giống Tiên sống ở trên
đất, vốn không ở được với nhau lâu. Tuy nhiên âm
dương hợp lại mà sinh con, nhưng dòng giống tương
khắc như nước với lửa khó bề ở lâu với nhau được.
Nay phải chia ly. Ta mang 50 con về thủy phủ chia trị các nơi, còn nàng đem
50 con về ở trên đất chia nước mà trị. Những lúc
lên non xuống biển có việc cùng nhau gắn bó với
nhau đừng bỏ rơi nhau”. Âu Cơ dẫn 50 con lên
núi, suy tôn người con trưởng lên làm vua đặt tên
nước là Văn Lang. Còn mối tình nào trên thế gian này
cao đẹp tuyệt vời như thiên tình sử Tiên Rồng, tuy
huyền nhưng không ảo, tuy mơ nhưng lại thực và sự
hiện hữu của cộng đồng Bách Việt do Việt tộc là một
sự thực lịch sử của huyền sử Tiên Rồng:
Việt
Nam thi sử truyền ghi,
Âu Cơ
Tiên nữ kết nghì Lạc Long,
Công
Chúa Viêm Đế vốn dòng,
Theo cha du ngoạn non bồng Nam phương,
Động Đình kết mối uyên ương,
Thuyền quyên lòng đã mười thương anh
hùng!
Sắt cầm hoà hiệp nguyện chung,
Trăm năm kết nghĩa vô cùng nên thơ,
Ba sinh hương lửa đợi chờ,
Mặn nồng tình nghĩa ngây thơ thẹn thùng,
Bọc điều trăm họ thai chung,
Đồng bào tiếng gọi vô cùng Việt Nam”
Thân thương cao cả vô vàn,
Hồn thiêng sông núi mang mang lòng
người,
Truyền kỳ lịch sử tuyệt vời
Cội nguồn dân tộc đời đời khắc sâu ..!
Truyền thuyết
Rồng Tiên là một triết lý văn hoá tuyệt vời. Hình
tượng Bố Rồng, Mẹ Tiên là hình tượng nguyên sơ, uyên
nguyên nguồn cội của triết lý Âm Dương, biểu tượng
bởi đôi vợ chồng nhân thần Bố Lạc-Mẹ Âu. Bố Rồng-Mẹ
Tiên là những anh hùng khai sáng văn hoá không những
của dân tộc Việt mà còn là của cả nhân loại nói
chung. Mẹ Tiên, người Mẹ Âu Cơ của dân tộc dạy con
cái làm rẫy, trồng khoai, trồng lúa ven núi, trồng
mía ven sông, đào giếng, dệt vải, ép mật, thổi xôi,
làm bánh. Đó là người Mẹ của giống dòng Bách Việt,
người Mẹ của Tổ Quốc Việt Nam hôm nay và mãi mãi về
sau.
Bố Rồng diệt
quái vật, Ngư tinh, mộc tinh, hồ tinh để giúp dân
yên ổn làm ăn sinh sống. Bố Rồng còn dạy con dân
cách thức xâm mình, vẽ mình để khỏi bị thủy quái làm
hại. Bố là hình ảnh tượng trưng cho ý chí sức mạnh
truyền thống của Việt tộc, còn mẹ là hình ảnh biểu
trưng của tình cảm nhân ái hiền hoà của dân tộc như
một biểu tượng nòi giống Rồng Tiên:
Sữa Mẹ Âu tuôn dòng nhân nghĩa,
Máu Bố Lạc hừng chí hùng anh”.
Từ ý niệm Đất
Nước, Núi sông đến Cha Trời, Mẹ Đất thể hiện triết
lý sống trên mặt trống đồng Ngọc Lũ là biểu tượng
của tín ngưỡng tự nhiên nguyên thủy của nền văn minh
nông nghiệp thời cổ đại. Mặt trời, ánh sáng cần
thiết cho sự sống ban ngày. Ngôi sao ban đêm, là
giấc ngủ không thể thiếu được trong đời sống con
người. Đất là Mẹ ấp ủ dưỡng nuôi để hạt giống nảy
mầm khai sinh sự sống. Nước mưa của cha từ trên trời
rơi xuống lòng đất mẹ cùng với ánh nắng mặt trời,
ánh sáng của tình yêu thương, đã tạo ra muôn vật
muôn loài, sinh sôi nẩy nở, đơm bông kết trái.
Khởi đi từ
những ý niệm ban sơ, cùng với sự chiêm nghiệm thực
tế đã hình thành triết lý Âm Dương dịch biến, quy
luật căn cơ muôn đời của vạn vật trong cuộc biến
diễn thường hằng bất biến. Truyền thuyết Việt Nam
biểu trưng giá trị đích thực của con người, với ý
nghĩa nhân chủ trong văn hoá khởi đoan của một nền
triết học do con người dẫn khởi mà vẫn hài hoà với
vũ trụ muôn loài. Đề cao con người, tôn trọng sự
sống của con người và muôn loài, muôn vật trong đó
con người vẫn cao quý thiêng liêng hơn hết (nhân
linh ư vạn vật), con người là mục đích đầu tiên và
cũng là cùng đích để phục vụ. Sự hài hoà giữa tinh
thần và vật chất, giữa tâm linh và thể xác, ý chí và
tình cảm được biểu tượng bởi đôi vợ chồng Nhân Thần:
Bố Rồng (ý chí) + Mẹ Tiên (tình
cảm) = con người
Bố Lạc (sức
mạnh)+Mẹ Âu (tâm linh) = Việt Nam
(Vật chất )
(tinh thần)
toàn diện
Con
người cao quý hơn muôn loài, làm chủ muôn loài muôn
vật, nhưng vẫn hòa tâm cùng không gian, hòa tính
cùng thời gian, hoà thông cùng vũ trụ theo quan niệm
vạn vật đồng nhất thể, nhân thân tiểu thiên địa của
lý nhất trung trong triết lý Đông Phương. Nhân linh
ư vạn vật vì con người có một đời sống tâm linh cao
vời sâu thẳm cùng với ư chí, nội lực tự thân đã
không ngừng sáng tạo trong lao tác chinh phục khống
chế thiên nhiên, để phục vụ cho nhu cầu hạnh phúc an
lạc của cuộc sống con người. Bố Rồng, Mẹ Tiên của
truyền kỳ lịch sử cũng chính là Bố Lạc, Mẹ Âu của
hiện thực lịch sử đã đạt thành
truyền thống Việt Nam với sức sống mãnh liệt
vô biên đã chinh phục thiên nhiên, chiến đấu và
chiến thắng mọi kẻ thù dưới bất kỳ danh nghĩa nào,
để khẳng định trước nhân loại: Một dân tộc anh hùng
đã có gần năm ngàn năm văn hiến. Chính truyền thống
yêu nước thương nòi xuất phát từ lòng tự hào dân tộc
con Rồng cháu Tiên, với ý chí kiên cường bất khuất,
tinh thần hy sinh quả cảm đã đánh bại biết bao kẻ
thù xâm lược bạo tàn, hung hăn, thâm độc, quỉ quyệt
nhất nhằm thống trị đồng hoá, nô dịch dân tộc ta,
trói buộc dân tộc ta bởi sợi dây vô h́nh vô ảnh của
h́nh thức nô dịch văn hoá ý hệ ngoại lai. Điều này
được Hán Hiến Đế, người đứng đầu triều Hán, kẻ thù
truyền kiếp của dân tộc đã phải tuyên dương “tên Man
di chí thiện”, con châu chấu bên cạnh bánh xe Đại
Hán mà dân ta vẫn tự hào ví von “Nực
cười châu chấu đá xe, tưởng rằng chấu ngã ai dè xe
nghiêng!”. Chính Hán Hiến đế đã phải thừa
nhận:
“GIAO CHỈ LÀ ĐẤT VĂN HIẾN,
NÚI SÔNG UN ĐÚC, TRÂN BẢO RẤT NHIỀU, VĂN VẬT KHẢ
QUAN, NHÂN TÀI KIỆT XUẤT”. …”
Nền
minh triết Việt khởi nguyên từ thần tổ kép Tiên
Rồng, uyên nguyên của triết lý Âm Dương Việt cổ, Âm
Dương biểu tượng cho 2 mặt đối lập tương sinh tương
khắc nhưng không dẫn đến triệt tiêu, huỷ diệt lẫn
nhau mà cùng nhau tương hoà theo lý đối lập thống
nhất. Trong vũ trụ vạn vật muôn loài đều có 2 mặt
đối lập với nhau nhưng vẫn cần thiết có nhau, tương
hoà để tồn tại. Nếu những yếu tố cấu tạo thành vật
chất đấu tranh tiêu diệt loại trừ lẫn nhau, nói một
cách khác là nếu thiếu một trong 2 yếu tố căn bản
hoặc âm hoặc dương thì sẽ không có muôn loài muôn
vật. Nếu như chỉ có nam mà không có nữ hoặc ngược
lại thì cũng chẳng có loài người. Trái lại, tuy nam
đối lập với nữ về nhiều mặt từ vóc dáng thể chất đến
tình cảm tâm hồn nhưng cả hai lại có tương sinh nếu
hợp nhất lại: Nữ (Âm) + Nam (Dương), tình cảm + lý
trí, tinh thần + vật chất thì sẽ sinh thành một mầm
sống, một yếu tố thứ ba đó là con cái thì mới truyền
chủng tạo ra nhân quần xã hội loài người.
Thực tế
cuộc sống được chiêm nghiệm suốt chiều dài của lịch
sử loài người, đó là tuy đối lập nhưng vẫn hài hoà,
thống nhất trong đa dạng thì loài người mới tồn tại
mãi tới ngày nay. Nền minh triết Việt chỉ ra rằng
bất cứ muôn loài muôn vật muốn tồn tại phải tương
hoà. Hoà hợp ngay tự bản chất mỗi vật, hoà hợp ngay
chính bản thân mỗi người như thể xác với tâm hồn,
tình cảm với lý trí, tâm với tính, hài hoà với thiên
nhiên, hài hoà trong ứng xử giao tiếp với tha nhân,
duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người,
giữa dân tộc này với dân tộc khác để cùng tồn tại
chứ không mưu đồ tìm cách để tiêu diệt lẫn nhau một
cách cực đoan.
Cuộc
sống đòi hỏi chúng ta phải cùng tôn trọng nhau, chấp
nhận nhau dù có sự khác biệt. Phải chấp nhận thống
nhất trong đa dạng, lấy yếu tố con người làm đích
điểm để cùng chung sống trong hoà bình. Đó chính là
triết thuyết Nhân bản cộng tồn, lấy con người là
chính để cùng chung sống trong hòa bình an lạc của
nền minh triết Việt. Trong khi các quốc gia khác
trên thế giới thường chọn một vật tổ biểu trưng, một
ý thức hệ làm đích điểm nên đắm chìm trong duy lý
cực đoan của nhị nguyên luận, không chấp nhận bất cứ
cái gì khác ngoài họ, A là A chứ không thể vừa A vừa
B được. Chính đầu óc duy lý cực đoan trên đã đưa
nhân loại đến bế tắc, đến ngõ cụt và chỉ có chiến
tranh huỷ diệt, hậu quả của lý đối lập loại trừ.
Trong khi Tổ tiên ta lại chọn Thần tổ kép
“Tiên-Rồng” trên nền tảng minh triết siêu việt và
chỉ có nền minh triết Việt mới giải quyết được vấn
đề nhân sinh trước thềm thiên niên kỷ thứ ba của
nhân loại.
GIỖ TỔ
HÙNG
VƯƠNG
GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG 10-3 Việt
lịch
“Dù ai đi
ngược về
xuôi
Nhớ ngày
giỗ tổ mồng mười tháng ba …”
Hàng năm cứ
vào ngày mồng mười tháng ba Âm lịch, nhân dân cả
nước nô nức kéo về đền Hùng để dự lễ giỗ Tổ Hùng
Vương, người khai mở nước Văn Lang xa xưa của Việt
tộc. Truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ
trồng cây đã đi vào tâm thức Việt như một nguồn suối
tâm linh làm phong phú thêm đời sống tinh thần của
người Việt.
Tự thuở xa
xưa, người Việt cổ đã có một đời sống tâm linh siêu
vượt. Người Việt cổ đã sớm nhận thức được cuộc sống
thường nhật để tìm ra lẽ sống của cả một đời người
nên không chỉ tin vào thần thánh mà còn tin vào
chính con người. Chính vì vậy, từ xa xưa người Việt
ngoài việc thờ cúng thần linh giúp cho cuộc sống còn
thờ cả nhân thần là những người khi còn sống đã giúp
dân giúp nước, giúp ích cho địa phương. Đặc biệt
người Việt có truyền thống thờ cúng Tổ tiên, ông bà
cha mẹ là những người trực tiếp sinh đẻ ra mình,
nuôi dưỡng mình thành người. Ngay cả ông Trời, đối
với người Việt là cư dân sống bằng nghề nông nên tôn
thờ ông trời đã ban cho những giọt nước mưa tưới
xuống đất để hạt giống nảy mầm, cây cối đâm chồi nảy
lộc. Ông trời được dân gian Việt kêu cầu đến “Trời
ơi” mỗi khi gặp sự đau buồn, dân gian còn nhân cách
hoá ông trời thân thương từ chân trời, lưng trời đến
mặt trời và nếu cần thì sẵn sàng bắc thang lên hỏi
ông trời, chứ không thần thánh hoá kiểu Hán tộc là
có một ông Ngọc Hoàng Thượng đế toàn quyền ban phát,
toàn quyền sinh sát trên thượng giới và cả ở dưới
trần gian nữa.
Một nhà
Việt Nam học người Pháp Léopold Cadìere đã nhận định
về tín ngưỡng và thực hành tôn giáo của người Việt
Nam như sau: “Với người Việt, Trời không
phải là một vị thần, ít nhất là trong quan niệm
dân gian. Đó là ông Trời, đấng hình như thuộc về
thế giới siêu việt. Hoàng đế tế trời một cách
trọng thể còn dân gian thì cầu trời, kêu trời hàng
ngày bằng ngôn ngữ thông thường. Ý niệm trời thấm
sâu vào tâm tư người Việt và được biểu lộ thường
xuyên mỗi ngày qua ngôn ngữ một cách minh nhiên
đến nỗi ta không thể thấy rằng ý niệm trời chính
là một nguyên lý cơ bản và cao cả nhất đối với đời
sống tín ngưỡng của người Việt”. Trong khi đó, phương Tây với nền văn
minh hết duy thần, duy linh, duy tâm, duy lý rồi duy
vật thái quá khiến con người cảm thấy bất an nên
thường đặt ra những vấn nạn như chúng ta từ đâu đến
rồi chết sẽ đi về đâu? Chính những câu hỏi xa vời
không bao giờ giải đáp được nên con người trở nên vô
thần hoặc phải tìm đến tôn giáo chấp nhận một cách
vô thường.
Với niềm
tin đơn giản chân chất của người Việt cổ thì Tổ
Tiên, ông bà cha mẹ đã sinh ra mình chứ không phải
do một thần linh nào từ trên trời. Chính vì thế phải
biết ơn cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục mình nên
người. Bổn phận con người là phải hiếu thảo với cha
mẹ, anh chị em thương yêu đùm bọc lẫn nhau vì cùng
một mẹ mà ra. Huyền thoại Rồng Tiên với Bố Lạc mẹ Âu
của Việt tộc, chúng ta cùng một bào thai mẹ Âu, trăm
họ cũng cùng từ một gốc Bố Rồng mẹ Tiên mà ra cả.
Trên thế giới duy nhất chỉ có dân tộc ta mới có hai
chữ “Đồng bào”, chúng ta cùng một bào thai mẹ sinh
ra nên đối với mọi người, chúng ta cũng dùng tình
thân mà đối xử, mới gọi nhau là bà con cô bác như
trong một nhà vậy.
Người Việt có
một đời sống tinh thần tâm linh sâu thẳm, thể hiện
tình cảm thiêng liêng cao cả mà không một dân tộc
nào có được. Đạo lý làm người dạy chúng ta rằng khi
sống là phải biết tri ân thờ cúng ông bà cha mẹ để
mai này khi ta có chết đi thì cũng về với ông bà cha
mẹ mà thôi. Từ việc hiếu thảo thờ cúng cha mẹ, ông
bà tiên tổ đến ý thức tôn thờ ông Tổ của dòng giống:
Quốc tổ Hùng Vương cũng như các anh hùng dân tộc,
danh nhân văn hoá đã hun đúc ý thức cao độ về lòng
yêu nước thương nòi, tạo cho mỗi con dân đất Việt
niềm tự hào về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của Việt
tộc. Hiện nay ở Việt Nam vẫn còn tôn thờ nhân thần
và đạo thờ cúng ông bà vẫn còn trân trọng bảo lưu,
đó chính là bản sắc văn hoá đặc trưng của dân tộc và
cũng là đạo lý làm người của Việt tộc. Truyền thống
cao đẹp này trải qua hơn sáu ngàn năm lịch sử vẫn
thấm đậm trong lòng dân tộc với bao thăng trầm biến
đổi của dòng vận động lịch sử. Cho tới nay và mãi
mãi về sau, hàng hàng lớp lớp thế hệ trẻ Việt Nam
vẫn tưởng nhớ về cội nguồn dân tộc với tất cả lòng
hãnh diện tự hào Việt Nam. Tự xa xưa, tiền nhân ta
đã chọn ngay mồng mười tháng ba là ngày giỗ Tổ Hùng
Vương. Tháng ba là tháng Thìn, tháng của bố Rồng và
ngày mười là ngày của mẹ Tiên nên tiền nhân đã giỗ quốc Tổ vào ngày mồng
10 tháng 3 hàng năm. Đền Hùng nằm trên núi Nghĩa
Lĩnh còn có tên là núi cả, núi cao nhất 175 mét
trong quần thể 100 ngọn núi ở Vĩnh Phú. Theo Hùng
triều Ngọc phả, Thần phả xã Tiên Lát huyện Việt Trì
tỉnh Hà Bắc thì đến đời Hùng Vương thứ 16 là Hùng
Tạo Vương huý Đức Quân Lang mới dời đô xuống Việt
Trì, Phong Châu. Hùng
Tạo Vương trị vì từ năm Tân Dậu 660 TDL đến năm Nhâm
Thìn 569 TDL ngang với thời Chu Linh Vương đời Đông
Chu.
Đền Hùng
gồm Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng với Lăng vua Hùng.
Từ dưới đi lên qua cổng Đền cao 8m1, nóc cổng hình
dáng tám mái, hai bên là phù điêu hình 2 võ sĩ cầm
đao và chùy bảo vệ đền. Khách hành hương chỉ bước
lên 225 bậc đá là lên đến đền Hạ. Tương truyền nơi
đây mẹ Âu đã sinh ra bọc trăm trứng sau nở thành
trăm người con trai. Bước
thêm
168 bậc thang đá là đến Đền Trung toạ lạc ngang sườn
núi Nghĩa Lĩnh, theo tương truyền thì đây là nơi
Lang Liêu đã gói bánh dày bánh chưng dâng vua cha để
cúng tiên tổ nhân ngày Tết. Chính tại nơi đây, vua
Hùng thường hội các Lạc Hầu Lạc Tướng để bàn việc
nước. Đền Trung thờ phượng các vua Hùng và dòng dõi,
có cả bệ thờ công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa. Ngay ở
gian giữa đền Trung treo bức đại tự “Hùng Vương Tổ
miếu” nghĩa là miếu thờ Tổ Hùng Vương, gian bên phải
treo một bức đại tự “Triệu Tổ Nam bang” nghĩa là Tổ
muôn đời của nước Nam, gian bên trái treo bức “Hùng
Vương Linh tích” nghĩa là Huyền tích linh thiêng của
vua Hùng.
Bước thêm 132
bậc thang đá nữa là tới đền Thượng. Đền Thượng có 4
nếp nhà: Nhà chuông trống, nhà Đại Bái, nhà Tiền Tế,
Cung thờ. Trên vòm cung cửa chính ra vào được trang
trí phù điêu hình 2 vệ sĩ phương phi làm nổi bật bức
hoành phi 4 chữ “Nam Việt Triệu Tổ” nghĩa là Tổ
Triệu muôn đời của nước Việt. Trong nhà Đại bái có
câu đối bất hủ:
Mở lối
đắp nền bốn hướng non sông về một mối
Lên cao
nhìn rộng, nghìn trùng đồi núi tựa đàn con
Trong nhà Tiền tế đặt một
Hương án trên để tráp thờ bên trong đặt một triện gỗ
hình vuông có khắc 4 chữ: “Hùng Vương tứ
phúc”. Đặc biệt có treo một bức hoành phi
trong đó có câu “Quyết sơ dân sinh”
nghĩa là cuộc sống của nhân dân là điều quyết định
đầu tiên của người lãnh đạo. Ngay từ thời vua Hùng
đã lấy dân làm gốc, Tất cả của
dân, do dân và vì dân, còn giá trị mãi đến
muôn đời*. Bên phải đền Thượng là cột đá thề của An
Dương Vương, bên trái đền Thượng là Lăng vua Hùng
nhìn về hướng Đông Nam, kiến trúc theo hình khối
vuông, trên có cổ diêm 8 mái, đỉnh chóp đắp hình
rồng uốn lượn nổi lên 3 chữ khắc chìm: “Hùng
Vương Lăng”.
Trên mỗi mặt
tường đều đắp mặt hổ phù, thành bậc đắp kỳ lân, cửa
chính của Lăng nổi lên 2 câu đối tri ân Quốc Tổ Hùng
Vương:
“ Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản sông Đà …
non
nước vẫn quay về đất Tổ …
Văn
minh đương buổi mới, con Hồng cháu Lạc …
Giống
nòi còn biết nhớ mồ ông ..!”
Hàng
năm vào ngày mồng mười tháng ba là ngày lễ hội Hùng
Vương được xem như Quốc lễ của cả một dân tộc. Thời
xưa đích thân nhà vua đứng chủ tế với đủ nghi thức
tế lễ long trọng. Lễ vật gọi là lễ Tam sinh gồm
nguyên một con heo, một con bò và một con dê. Bánh
chưng và bánh dày là lễ vật không thể thiếu được
cũng như khi cử hành tế lễ phải có đầy đủ bộ nhạc cụ
đặc biệt là chiếc trống đồng độc đáo của Việt tộc.
Sau phần tế lễ là phần lễ hội với cuộc rước bánh dày
bánh chưng và rước cỗ chay, rước voi và cuối cùng là
lễ rước kiệu bay truyền thống của dân gian các làng
xung quanh vùng đất Tổ. Mỗi làng đều đem theo kiệu
riêng của làng mình từ các làng do vị bô lão dẫn đầu
rồi đến thanh niên trai trẻ mặc võ phục thuở xưa tay
cầm đủ loại cờ quạt sắc màu rực rỡ. Tất cả tề tựu
dưới chân đền chờ cử hành tế lễ tạo nên một rừng
người, rừng cờ hoa với đủ sắc màu. Mọi người nô nức
dự lễ hội, già trẻ rộn rã tiếng cười nhưng khi tiếng
chiêng tiếng trống khai lễ thì không khí trang
nghiêm u mặc bao trùm cả một vùng đất Tổ. Sau phần
tế lễ rước kiệu là phần hội hè với đủ mọi trò vui
chơi cho nam thanh nữ tú tham dự thưởng ngoạn. Mở
đầu là cuộc thi đua thuyền truyền thống của các đội
thuyền Rồng của các làng trong hồ Đá Vao ngay cạnh
chân núi. Dọc bờ hồ vòng quanh ven chân núi đủ các
trò vui chơi nào là những rạp tuồng chèo, những cây
đu tiên, những trò chơi dân gian như đánh cờ người,
trò tung còn giữa thanh niên thiếu nữ ngày xuân,
những phường hát Xoan của các nơi về tụ hội tổ chức
hát Xoan với những làn điệu dân ca truyền thống mỗi
độ xuân về.
Việt
tộc là cư dân nông nghiệp nên thường tổ chức lễ tết
hội hè quanh năm suốt tháng nhưng lễ hội đền Hùng
mang một ý nghĩa hết sức cao đẹp. Dự lễ hội đền Hùng
chính là cuộc hành hương trở về nguồn cội dân tộc
trong tâm thức mỗi con dân đất Việt. Lễ hội đền Hùng
không đơn thuần là cuộc chơi xuân với những hội hè
đình đám mà để chúng ta hướng vọng về Quốc tổ Hùng
Vương, người truyền thừa sự sống và khai mở đất nước
Văn Lang cho tất cả chúg ta. Trên thế giới ngày nay,
có lẽ chỉ có dân tộc Việt Nam có Quốc tổ để tôn thờ
và có một huyền thoại Rồng Tiên đẹp như áng sử thi
để chúng ta có quyền tự hào gọi nhau là đồng bào, là
anh em ruột thịt cùng một mẹ sinh ra:“ Bọc
điều trăm họ thai chung, Đồng bào
tiếng gọi vô cùng Việt Nam””
ĐỀN
THỜ VUA HÙNG
Theo Ngọc phả Đền Hùng do Hàn lâm viện Đại học sĩ
Nguyễn Cố phung soạn vào năm Hồng Đức nguyên niên
1470, sau được Hàn lâm Thị Độc sao lại năm Hoàng
Đinh Nguyên niên 1600 thì Đền Trung
tức Hùng Vương Tổ miếu được xây vào
thế kỷ XIV, bị quân Minh phá huỷ vào thế kỷ XV.
Đến thời Lê (1427-1573) đền được xây dựng lại theo
bố cục hình chữ nhất cùng với Gác chuông và
Thiền Quang Tự nay chỉ còn 2 phần tiền tế.
Đền Thượng cũng được xây dựng vào thời kỳ này, đến
thế kỷ XVII-XVIII đền Hạ mới được xây dựng.
Năm
1823, vua Minh Mạng cho xây dựng Miễu “Lịch đại Đế
vương” ngay tại kinh thành Huế. Nhà vua đã bàn bạc
kỹ lưỡng với bộ Lễ để đưa các nhân vật lịch sử vào
thờ trong miếu. Bản tâu trình của bộ Lễ lên vua
Minh Mạng như sau: “Kinh Dương Vương, Lạc Long
Quân thực là thuỷ tổ của nước Việt ta. Thế thì từ
ngoại kỷ trở về trước phải lấy các vị sáng thuỷ mà
thờ. Từ nhà Đinh về sau thì giềng mối mới rõ. Đinh
Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ, Trần Thái
Tông Lê Thái Tổ thừa vận lần lượt nổi lên,
đều là vua dựng nghiệp một đời. Trong khoảng ấy,
anh chúa trung hưng như Trần Nhân Tông ba lần đánh
bại quân Nguyên, hai lần khôi phục xã tắc. Lê
Thánh Tông lập ra chế độ, mở rộng bờ cõi, công
nghiệp rạng rỡ vang rền … đều nên liệt vào miếu
thờ”.
Đến năm Tự Đức thứ
27 (1874) ra sắc chỉ sửa chữa lại đền Thượng trên
núi Nghĩa Lĩnh và cho khắc 2 bia đá dựng tại khu
đền thờ. Năm Duy Tân thứ sáu (1912) cho trùng tu
cung trong điên ngoài qui thứ như ngày nay. Năm
Khải Định thứ 7 (1922) lại cho sửa sang thêm Lăng
mộ và trùng tu đền Giếng thờ 2 công chúa Tiên Dung
con vua Hùng thứ 3 lấy Chử Đồng Tử và công chúa
Ngọc Hoa, con vua Hùng thứ 18 lấy Cao Sơn tức Sơn
Tinh (Thánh Tản Viên). Năm 1935, vua Bảo Đại cho
trùng tu và mở rộng thêm diện tích đền và cho dựng
bia đá ngày 10 tháng 3 năm Canh Thìn “Đền vua Hùng
là nơi thờ các vua họ Hồng Bàng trong lịch sử tối
cổ của nước Việt ta”. Thời xưa, hàng năm tổ chức
quốc lễ vào mùa Thu nhưng đền đời vua Khải Định
năm 1917, Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc xin bộ
Lễ lấy ngày mồng 10 tháng 3 Aâm lịch hàng năm làm
Quốc lễ, trước ngày giỗ vua Hùng thứ 18 một ngày.
|