Việt Nam Văn Hiến
Năm
Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
Sách Lược 10 Năm Quang Phục
Quê Hương
Luật sư Nguyễn Hữu Thống
Gửi
Các Bạn Trẻ Trong
Và Ngoài Nước
Ngày nay vấn đề sinh tử
của người Việt chúng ta là làm sao quang phục
quê hương, giải thể chế độ Cộng Sản và xây dựng chế
độ Dân Chủ.
Muốn đưa Cách Mạng
Dân Chủ đến thành công phải có sự đấu tranh
kiên cường của đồng bào trong nước và sự yểm trợ
tích cực của đồng bào hải ngoại.
Trong lịch sử đấu tranh giải
phóng dân tộc chống chuyên chế, chưa thấy một quốc
gia nào lại có cơ may như Việt Nam ngày nay.
Đó là sự hậu thuẫn của khối đông đảo người Việt hải
ngoại, ba triệu người như một, đồng lòng hướng về quê
hương, mong cho dân tộc và đất nước tiến lên.
Chưa nói về sức mạnh
tài chánh, đủ khả năng tiếp viện mỗi năm dăm bẩy tỷ mỹ
kim cho quốc nội khi đất nước có tự do.
Chưa nói về sức mạnh
phát triển, với hàng trăm ngàn chuyên
viên kỹ thuật gia thượng thặng, đủ mọi ngành, mọi nghề,
sẵn sàng trở về tái thiết quốc gia khi đất nước có
dân chủ.
Chỉ nói về mặt nhân
tâm, với hàng triệu tấm lòng, ngày đêm
hướng về quê hương yêu dấu, mong cho đồng bào được
hạnh phúc, cho dân tộc được tự do thì đó
cũng là một sức mạnh tinh thần vô giá.
Một khi được vận dụng, sức mạnh
này sẽ tạo thành động lực để thúc đẩy cuộc vận
động lịch sử của người Việt trong nước đứng lên đòi quyền
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Ngày nay, bằng sự vận
động và tổ chức quần chúng, bằng sức mạnh của ngòi
bút, sức mạnh của lời nói, sức mạnh của tư tưởng,
chúng ta sẽ gây lại Niềm Tin. Vì có Niềm Tin
mới có quyết tâm dấn thân hành động.
Trên bình diện dân tộc Niềm Tin là võ
khí lớn nhất. Nó đem lại những hy vọng mới, những
chân trời mới, hướng dẫn con người đi tới tự do.
Dầu sao giải thể CS là
một cuộc đấu tranh trường kỳ và cam go. Kinh nghiệm cho biết CS
không bị giải thể vì những tấn công từ bên
ngoài. Nó chỉ giải thể khi người dân không
còn tha thiết bảo vệ chế độ nữa. Do đó muốn đưa
Cách Mạng Dân Chủ đến thành công,
chúng ta phải trông vào nội lực của chính
mình.
Mà ngày nay
dân trí bị bưng bít bởi bộ máy tuyên
truyền vĩ đại của Đảng CS. Dân khí suy vi vì người
dân thấy mình bị lường gạt trong 3 cuộc chiến tranh
kéo dài hơn 40 năm. Dân quyền bị chà đạp
trong một chế độ công an trị hà khắc. Dân
tình đói khổ với những bất công và bất
bình đẳng trầm trọng, lợi tức bình quân mỗi đầu
người chỉ được 1 mỹ kim một ngày.
Chính quyền này
coi dân như cỏ rác. Họ đánh giá quá
thấp mạng sống con người. Trong vụ lính tuần duyên Trung
Quốc sát hại 9 ngư dân Thanh Hóa, nhà nước
chỉ bồi thường thiệt hại cho mỗi gia đình nạn nhân từ 30
đến 60 mỹ kim.
Trước tình trạng tủi nhục
này chúng ta phải tự nhủ rằng, chúng ta sẽ
góp phần vào việc giải phóng đồng bào khỏi
sự bất công, khỏi sự nghèo đói, khỏi sự sợ
hãi, khỏi nạn chuyên chế, khỏi nạn CS.
Cách đây hơn 70 năm
Phạm Quỳnh đã cảnh giác chúng ta về nạn "dịch hạch
CS". Ngày nay, với kinh nghiệm bản thân, chúng ta
ý thức rằng CS còn nguy hại hơn dịch hạch. Nó
là bệnh ung thư. Ung thư không thể trị liệu được. Ung thư
phải bị cắt bỏ. CS cũng vậy. CS không thể sửa chữa được. CS phải
bị giải thể!
Tuy nhiên một số người lại
nhận định rằng CS đã giải thể rồi, và đảng CS đã
biến thành một đảng Mafia hay băng đảng. Do đó
chúng ta chỉ cần chống tham nhũng chứ không cần đấu tranh
giải thể CS nữa.
Nhận định như vậy là chủ
quan và không hiểu rõ bản chất CS.
Trên thực tế, bằng dĩ
công vi tư, tham nhũng và lạm quyền, phe lãnh đạo
CS ụ đã sang đoạt các tài sản quốc gia để
làm giàu bất chánh. Hiện nay hàng trăm
cán bộ CS cao cấp đã có những tài sản khổng
lồ hàng chục triệu và hàng trăm triệu mỹ kim. Đồng
bào vô cùng phẫn uất và đã tố
cáo đích danh "con thằng Kiệt, con thằng Khải,
cháu thằng Đỗ Mười" v...v... Mới đây cựu Tổng Bí
Thư Đỗ Mười, với đồng lương chết đói, đã dám tặng
dữ một lần một triệu mỹ kim. Hành vi này cho biết
ông ta đã vơ vét được hàng chục triệu mỹ kim
từ thời cải tạo công thương nghiệp (đánh tư sản).
Điều đáng lưu ý
là trong khi Mafia chỉ là một đảng cướp thường thì
Đảng CS là một đảng cướp đã cướp được chính quyền.
Cũng vì vậy họ có
chính phủ tay sai để thi hành đường lối chính
sách của Đảng, có quốc hội bù nhìn để hợp
thức hóa những nghị quyết của Đảng, và có
tòa án công cụ để bắt giam độc đoán những
công dân lương thiện đã đứng lên tố cáo
bạo quyền đòi tự do, công lý, dân chủ
và nhân quyền.
Hơn nữa, sau khi cướp được
chính quyền, Đảng CS đã thiết lập một chế độ độc
tài toàn trị.
Do đó chúng ta
còn phải đấu tranh giải thể CS ngày nào Đảng CS
còn giữ độc quyền lãnh đạo, độc quyền tư tưởng. độc quyền
thông tin, còn đàn áp tôn giáo
và còn tước đoạt của người dân quyền tự do hội họp,
tự do lập hội, tự do lập đảng v...v...
Ngày nay Đảng CS
là một con rắn hai đầu, đầu kinh tế Mafia và đầu
chính trị độc tài. Muốn cho đất nước và dân
tộc tiến lên, chúng ta phải kết hợp đấu tranh giải thể CS
bằng cách chém đứt 2 đầu con rắn.
Bên cạnh quan niệm cho
rằng CS đã tự giải thể, một số dư luận lại cho rằng CS
không thể nào giải thể được. Đây là một nhận
định bi quan và phản biện chứng.
Vì chỉ trên
bình diện tôn giáo những nguyên lý chủ
thuyết mới có giá trị là những chân
lý tuyệt đối như đức từ bi của Nhà Phật, đức bác
ái của Chúa Kitô, hay đức nhân nghĩa của
Khổng Phu Tử. Trên bình diện dân sinh các
nguyên lý chủ thuyết chỉ có giá trị tương
đối theo thời gian và không gian. Về mặt chính trị
xã hội các chế độ chỉ quy định những tương quan giữa
người dân và quốc gia. Do đó nó phải thay
đổi theo trình độ ý thức của người dân, điều kiện
kinh tế xã hội của quốc gia và trào lưu tiến
hóa của lịch sử.
Cũng vì vậy tại Âu
Châu, chỉ trong vòng hai năm (từ 1989 đến 1991), 22 quốc
gia đã lần lượt giải thể CS: 7 nước thuộc Bức Màn Sắt
Đông Âu là Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc,
Đông Đức, Albanie, Bulgarie, Roumanie, và 15 nước thuộc
Liên Bang Sô Viết.
3 yếu tố giải thể CS là:
1) Sức mạnh của quốc dân biểu dương bằng những cuộc mít
tinh, biểu tình, tuần hành, đình công
v...v...
2) Một tổ chức đối kháng mạnh mẽ như Công Đoàn
Đoàn Kết Ba Lan.
3) Ý thức phản tỉnh và tinh thần thể thao phục thiện của
nhà cầm quyền. Sau những cuộc tổng tuyển cử tự do, khi thấy
người dân không còn ủng hộ chế độ nữa, phe
lãnh đạo CS đã lặng lẽ rút lui.
Trên thực tế không
phải cuộc giải thể CS nào cũng hội đủ 3 yếu tố nói
trên.
Tại Tiệp Khắc tới tháng 10, 1989 không thấy những cuộc
biểu dương lực lượng quy mô của quần chúng. "Hiến Chương
77" chỉ là một tổ chức lỏng lẻo, không có nội qui,
điều lệ, không có ban chấp hành và
không có danh sách hội viên chính
thức. Mục tiêu của Hội là đối thoại với nhà cầm
quyền về những vấn đề nhân quyền và vi phạm nhân
quyền.
Tại Hung Gia Lợi "Diễn
Đàn Dân Chủ" cũng chỉ là một câu lạc bộ để
thảo luận về vấn đề dân chủ. Yếu tố giải thể CS là
ý thức phản tỉnh và tinh thần thể thao phục thiện của
nhà cầm quyền.
Tại Đông Đức tới
tháng 10, 1989, trong ngày kỷ niệm 40 năm lập quốc, Tổng
Bí Thư Honecker còn mạnh bạo khẳng định rằng chế độ CS sẽ
tồn tại 100 năm! Vậy mà chỉ 2 tuần sau, ngày 9-11-1989,
bức tường ô nhục Bá Linh đã bị phá vỡ,
kéo theo sự sụp đổ của chế độ CS.
Sự giải thể CS tại 7 nước
Đông Âu năm 1989 đã đưa đến sự tan rã của
Liên Bang Sô Viết năm 1991, và 15 quốc gia trong
Liên Bang đã lần lượt giải thể CS.
Như vậy yếu tố giải thể CS thay
đổi tùy theo điều kiện đặc thù của từng quốc gia. Dầu sao
chúng ta thấy có 2 yếu tố chung: CHÍNH NGHĨA
Và THỜI CƠ.
Chính Nghĩa ở đây
là Chính Nghĩa Tự Do Dân Chủ. Và Thời Cơ
là sự kiệt quệ của Liên Xô, kiệt quệ về Niềm Tin
và kiệt quệ về kinh tế.
Từ sau cái chết của
Stalin nhân dân Liên Xô đã ý thức
sự sai lầm của chủ thuyết cách mạng vô sản, và muốn
sống chung hòa bình với các nước tư bản Tây
Phương. Hơn nữa từ thập niên 1980, kinh tế Liên Xô
lâm vào tình trạng suy kiệt sau cuộc thi đua
võ trang với Hoa Kỳ trong Chiến Tranh Tinh Cầu (Star Wars).
Để cứu nguy đất nước, năm 1985,
Gorbachev phải thay đổi chính sách bằng tái cấu
trúc về kinh tế và cởi mở về chính trị. Vận dụng
cơ hội lịch sử này, 7 nước Đông Âu đã đứng
lên đấu tranh giải thể CS năm 1989. Và hai năm sau, năm
1991, Liên Bang Sô Viết đã tan rã, và
15 quốc gia trong Liên Bang đã giải thể CS.
Hậu quả dây chuyền của sự
giải thể CS Âu Châu là sự tiêu vong của chế độ
CS Á Phi tại Angola, Mozambique, Ethiopie, A Phú
Hãn, Mông Cổ, Cao Miên v...v...
Dầu sao chúng ta ý
thức rằng con đường quang phục quê hương còn lắm
chông gai và giải thể CS là một việc thiên
nan vạn nan. Hơn nữa chúng ta sẽ gĩặp nhiều trở ngại hơn
các dân tộc Đông Âu.
Vì người dân
Âu Châu thường có tinh thần thể thao phục thiện,
trong khi phe lãnh đạo CS Việt Nam lại bất phục ngoan cố. Người
dân Âu Châu thường ngay thẳng bộc trực, trong khi phe
lãnh đạo CS Việt Nam lại ngụy trang dối trá. Người
dân Âu Châu thường có tinh thần công
bằng trọng pháp, trong khi phe lãnh đạo CS Việt Nam lại
bao che tham nhũng. Đó là chỗ khó khăn của
chúng ta.
Trong cuộc chiến đấu này
chúng ta phải tìm hiểu những nhược điểm của đối phương để
khai thác, và những võ khí của đối phương
để hóa giải.
Những nhược điểm của CS
là: độc tài, tham nhũng, bất công, bất lực, thường
xuyên vi phạm nhân quyền và trắng trợn vi phạm
nhân quyền.
Hai võ khí chiến
lược của CS là: tuyên truyền dối trá và
đàn áp khủng bố.
Tuyên truyền dối trá và đàn áp khủng
bố là hai võ khí chiến lược của Đảng CS để cướp
chính quyền và củng cố chính quyền. Đây
là một cặp song cổ kiếm phải sử dụng đồng thời, mất một
là mất tất cả. Nếu chỉ có tuyên truyền đối
trá, mà không có đàn áp khủng
bố, thì CS sẽ tiêu vong. Trái lại nếu chỉ có
đàn áp khủng bố, mà không thể tuyên
truyền dối trá được nữa, thì CS cũng sẽ bị giải thể.
TUYÊN TRUYỀN DỐI TRÁ
1) Về mục tiêu độc lập thống nhất
Trong cuộc đấu tranh giành độc lập Đảng CS đã lồng
cách mạng CS trong chiêu bài giải phóng
dân tộc Trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản,
Đảng CS phủ nhận chủ nghĩa dân tộc. Họ không quan niệm độc
lập quốc gia là một mục tiêu chiến lược, một cứu
cánh tối hậu phải tranh thủ với bất cứ giá nào,
với bất cứ hy sinh nào, kể cả việc hy sinh những quyền lợi
riêng tư của đảng phái. Đảng CS chỉ quan niệm độc lập quốc
gia như một chiêu bài, một phương tiện, hay một
sách lược để đạt được mục tiêu chiến lược là cướp
chính quyền. Họ phủ nhận bất cứ nền độc lập nào
không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia. Do đó, họ
đã phủ nhận nền độc lập và thống nhất quốc gia do Hiệp
Định Élysée trao trả cho Việt Nam năm 1949. Và họ
tiếp tục phát động chiến tranh võ trang trong 40 năm - từ
1949 đến 1989 - để cướp chính quyền và bành trướng
chủ nghĩa bá quyền.
Từ 1949 Chiến tranh Việt Nam
không còn là chiến tranh giải phóng
dân tộc, mà là chiến tranh ý thức hệ giữa
Quốc Tế CS và Thế Giới Dân Chủ (như Chiến Tranh Triều
Tiên).
Sau khi thôn tính
lục địa Trung Hoa năm 1949, mục tiêu chiến lược của Quốc Tế CS
là nhuộm đỏ 2 bán đảo Đông Dương và Triều
Tiên. Tháng 6, 1950 với sự yểm trợ của Liên Xô
và Trung Quốc, Bắc Hàn đem quân xâm lăng Nam
Hàn. Từ đó chiến tranh ý thức hệ bộc phát
giữa Quốc Tế CS và Thế Giới Dân Chủ.
Kinh nghiệm dân gian cho
biết nơi nào trâu bò húc nhau thì
ruồi muỗi chết: 3 triệu người đã hy sinh thân sống tại
Triều Tiên, 3 triệu thanh niên nam nữ đã hy sinh
thân sống tại Việt Nam, và 2 triệu người Cao Miên
đã bị tàn sát, không phải để giành
độc lập cho quốc gia mà để cho Đảng CS có cơ hội cướp
chính quyền.
Vì Đảng CS Đông
Dương phủ nhận nền độc lập do Pháp trao trả cho 3 quốc gia
Đông Dương năm 1949, nên 3 cuộc chiến tranh Đông
Dương đã xẩy ra, và Đảng CS Đông Dương phải chịu
trách nhiệm về cái chết của 5 triệu người Đông
Dương.
Đảng CS tuyên truyền rằng
Pháp đem quân sang Việt Nam để tái lập chế độ thuộc
địa. Đây chỉ là một luận điệu tuyên truyền
xuyên tạc. Vì từ sau Thế Chiến II, Pháp không
chủ trương tái lập thuộc địa tại Á Châu. Và
năm 1946 Pháp đã ký hiệp ước với Syrie và
Liban để trả độc lập cho 2 quốc gia này.
Tuy nhiên Pháp
và phe Dân Chủ Tây Phương không chịu trao
Đông Dương cho Đảng CS Đông Dương, vì họ không
muốn Stalin mở rộng Bức Màn Sắt từ Đông Âu qua
Đông Á. Do đó từ 1947, Pháp đã thương
nghị với phe Quốc Gia Việt Nam để trả độc lập cho Việt Nam.
Tháng 3, 1949 tại Paris,
Tổng Thống Vincent Auriol ký HIỆP ĐỊNH ÉLYSÉE với
Quốc Trưởng Bảo Đại để trả độc lập cho Việt Nam. Tháng 7, 1949,
Tổng Thống Auriol lại ký Hiệp Ước với Quốc Vương Sisavangvong để
trả độc lập cho Ai Lao. Và tháng 11, 1949 Tổng Thống
Auriol lại ký Hiệp Ước với Quốc Vương Sihanouk để trả độc lập
cho Cao Miên "theo tinh thần Hiệp Định Élysée".
Như vậy, sự thật lịch sử
đã chứng minh rằng, từ sau Thế Chiến II tại Á Châu,
chế độ thuộc địa đã cáo chung để nhường chỗ cho chế độ
liên hiệp.
Từ 1955, trong kế hoạch
thôn tính miền Nam, Đảng CS lại tuyên truyền rằng
Hoa Kỳ đem quân sang để thống trị Miền Nam. Đây cũng
là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. Vì
trong hai thập niên 1950 và 1960, Hoa Kỳ đem quân
tham chiến tại Đại Hàn và Việt Nam, không phải để
thống trị hai nước này, mà để bảo vệ biên
thùy của Thế Giới Dân Chủ.
Nói tóm lại, trong
cuộc đấu tranh giành độc lập Đảng CS đã dùng ngụy
chủ nghĩa dân tộc. Họ đã phủ nhận nền độc lập và
phá hoại nền thống nhất do những người Quốc Gia yêu nước
đã tranh thủ được từ 1949. Và hai cuộc Chiến Tranh Việt
Nam từ 1949 đến 1975 là những cuộc chiến tranh vô
ích, vô lý và vô nghĩa.
Đại hạnh của Ấn Độ là
có một Gandhi theo chủ nghĩa dân tộc. Đại bất hạnh của
Việt Nam là có một Nguyễn Ái Quốc theo chủ nghĩa
quốc tế vô sản.
2. Về mục tiêu tự do dân
chủ.
Đảng CS hứa thiết lập một chế độ dân chủ gấp triệu lần chế dộ
dân chủ Tây Phương. Đây cũng là một luận điệu
tuyên truyền dối trá. Về chủ thuyết Đảng CS không
chủ trương thực thi tự do dân chủ cho người dân. Mục
tiêu chiến lược của họ là thiết lập một chế độ độc
tài vô sản, hay đúng hơn, một chế độ độc tài
của Đảng để thống trị vô sản và nhân dân. Họ
không tôn trọng bất cứ quyền nào trong 26 dân
quyền căn bản dầu rằng những quyền này đã được ghi trong
hiến pháp.
Kết quả là sau 60 năm
cướp chính quyền, Đảng CS đã biến Việt Nam thành
một trong những nước phản dân chủ nhất thế giới, kém cả
Cao Miên. Vì tại quốc gia nầy tương đối có tự do
tôn giáo và có chế độ đa đảng (Đảng
Nhân Dân, Đảng Bảo Hoàng và Đảng Quốc Gia).
Ngày nay Mông Cổ cũng theo chế độ lưỡng đảng trong khi
Việt Nam vẫn giữ chế độ độc đảng và độc quyền lãnh đạo.
3. Về mục tiêu mưu cầu hạnh
phúc.
Đảng CS hứa hẹn sẽ cải cách ruộng đất để chia ruộng cho người
cày, đem lại công bằng xã hội cho người dân.
Thật ra đây chỉ để đấu tranh giai cấp.
Đầu thập niên 1950, trong
5 đợt đấu tố cải cách ruộng đất, Đảng CS đã sát
hại hơn hai trăm ngàn trí thức và nông
dân tiểu tư sản được đôn lên hàng địa chủ. Chỉ
cần có 2 hecta ruộng mà không tự tay canh
tác cũng bị đấu tố, tịch thâu ruộng đất, tài sản
và nhà cửa. Năm 1956 họ chia cho bần cố nông mỗi
người chừng 2 sào ruộng (mỗi sào là 360m2). Để rồi
2 năm sau, năm 1958, họ lại trở mặt thâu hồi lại tất cả ruộng đất
đã phát cho bần cố nông trong chính
sách tập sản hóa ruộng đất hay hợp tác hóa
nông nghiệp. Theo chủ thuyết Đảng CS không công nhận
quyền tư hữu và không chủ trương chia ruộng cho tư
nhân. Do đó "người cày có ruộng" là
một khẩu hiệu tuyên truyền chiến lược dối trá trắng trợn
nhất của Đảng CS. Tới Thế Chiến II Việt Nam là một trong những
quốc gia giàu thịnh nhất Đông Nam Á được mệnh danh
là "bao lơn Thái Bình Dương", Saigon là
"Hòn Ngọc Viễn Đông". Vậy mà ngày nay, sau
60 năm CS cướp chính quyền, Việt Nam trở thành một trong
10 nước nghèo đói nhất thế giới, lợi tức bình
quân mỗi đầu người chỉ được một mỹ kim một ngày. Trong khi
đó tại Phi Luật Tân là 3 mỹ kim, tại Thái
Lan là 6 mỹ kim, tại Mã Lai là 10 mỹ kim, tại Đại
Hàn là 25 mỹ kim, tại Đài Loan là 40 mỹ
kim, và tại Tân Gia Ba là 85 mỹ kim. Đặc biệt tại
Congo, một cựu thuộc địa Pháp tại Phi Châu, lợi tức
bình quân mỗi đầu người cũng gấp đôi Việt Nam.
Trong cuốn Nhật Ký Rồng
Rắn, Trần Độ đã vạch trần chính sách tuyên
truyền dối trá cố hữu của Đảng CS: "Đặc điểm bao trùm của
chế độ chính trị xã hội này là nói
một đàng làm một nẻo. Nói thì dân chủ
vì dân, mà làm thì chuyên
chính phát xít, nghĩa là nói dối,
nói láo, lừa bịp, nói vậy mà không
phải vậy. Đặc điểm này tạo ra một xã hội dối lừa,
lãnh đạo dối lừa, Đảng dối lừa, cán bộ dối lừa,
làm ăn giả dối, bằng cấp giả dối, giáo dục giả dối, đến
gia đình cũng lừa dối... Các vị lãnh đạo
nói nhiều điều tốt đẹp là nói theo dân
mà thôi. Dân căm ghét tham nhũng thì
lãnh đạo hò hét "kiên quyết chống tham
nhũng". Dân yêu cầu dân chủ, [đổi mới] thì
lãnh đạo thêm chữ dân chủ, [đổi mới] vào khẩu
hiệu [tuyên truyền] chiến lược. Nhưng nói thêm chữ
thì chưa có ý nghĩa gì. Vì ta vốn
nói một đàng làm một nẻo. Người trí thức
và người dân chỉ thấy những lời nói tốt đẹp kia
là vô nghĩa..."
Để chống lại sự tuyên
truyền dối trá, chúng ta phát động phong
trào truyền bá sự thật lịch sử và sự thật
xã hội để chứng minh rằng Đảng CS không có
công giành độc lập, không có công thống
nhất đất nước và đã phản bội đồng bào trong
các mục tiêu tự do dân chủ và mưu cầu hạnh
phúc. ĐÀN ÁP KHỦNG BỐ
Võ khí chiến lược
số 2 của CS là đàn áp khủng bố. Đây
là một trong hai song cổ kiếm phải sử dụng đồng thời, mất một
là mất tất cả. Nếu CS không còn có
thểù tuyên truyền dối trá được nữa, nếu người
dân biết rõ mặt thật của CS họ sẽ không tha thiết
bảo vệ chế độ nữa và CS sẽ tiêu vong.
Lịch sử đã chứng minh
điều đó. Tại Đông Đức và Lỗ Ma Ni năm 1989, bộ
máy công an kìm kẹp cũng rất hung dữ. Nó
có sự dã man của mật vụ Gestapo thời Hitler, và sự
tàn ác của mật vụ KGB thời Stalin. Vậy mà khi
người dân đã biết rõ mặt thật của CS và đứng
lên đòi Dân Tộc Tự Quyết thì võ
khí đàn áp không còn hiệu nghiệm nữa.
Tại Liên Xô cũng
vậy. Để chống lại mưu toan đảo chánh ngày 19-8-1991 của
phe CS cực đoan, nhân dân đã đứng lên
đòi giải thể CS. Quân đội xuất phát từ nhân
dân đã đứng về phía dân. Và công
an mật vụ phải bó tay không dám bắn vào
đoàn người biểu tình.
5 bậc thang đàn áp khủng
bố là: thủ tiêu cá nhân, tàn
sát tập thể, lao động cải tạo, tòa án luật
pháp và quản chế hành chánh.
1) Thủ tiêu cá nhân
Mặc dầu không ngừng kêu gọi đoàn kết quốc gia, Đảng
CS đã thủ tiêu những người Quốc Gia yêu nước
là những đối thủ nguy hiểm của CS trên đường cướp
chính quyền. Sau khi cướp được chính quyền năm 1945, họ
đã thủ tiêu Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần
văn Thạch, Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Dương Văn
Giáo, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà, Đức Giáo
Chủ Huỳnh Phú Sổ, Trương Tử Anh, Lý Đông A,
Khái Hưng, Nhượng Tống v...v...
2) Tàn sát tập thể
Đồng thời với thủ tiêu cá nhân, Đảng CS còn
tàn sát tập thể. Tàn sát vì
lý do tôn giáo như sát hại các
tín đồ Cao Đài và Hòa Hảo trong Chiến Tranh
Đông Dương; vì lý do đảng phái như
sát hại các cán bộ đảng viên Quốc Dân
Đảng, Đồng Minh Hội, Đại Việt, Duy Dân v...v...; vì
lý do giai cấp như sát hại 200.000 trí thức
và nông dân tiểu tư sản trong 5 đợt đấu tố cải
cách ruộng đất; vì lý do chính kiến như
sát hại 5 ngàn người Quốc Gia tại Huế trong dịp Tết Mậu
Thân.
3) Lao động cải tạo
Mặc dầu kêu gọi hòa giải hòa hợp dân tộc, từ
1975 Đảng CS đã bắt giam hơn hai trăm ngàn quân
cán chánh và trí thức văn nghệ sĩ Việt Nam
Cộng Hòa tại các "trại cải tạo", người thì 5, 7
năm, người thì 15, 17 năm. Đây là những trại lao
động khổ sai cưỡng bách để đọa đầy thân xác
và hủy diệt ý chí của tù cải tạo.
4) Tòa án luật pháp
Thay vì để ban phát công lý cho người
dân và bảo vệ con người về sinh mạng, tự do, danh dự
và tài sản, tòa án luật pháp CS được
sử dụng làm công cụ đàn áp để bắt giam độc
đoán những người đấu tranh ôn hòa cho tự do,
công lý, dân chủ và nhân quyền.
Từ 1975 họ đã truy tố:
Về tội âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân,
và đã kết án Nguyễn Khắc Chính, Linh Mục
Phạm Ngọc Liên, Thượng Tọa Thích Tuệ Sĩ, Nguyễn Đan Quế,
Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đình Huy v...v...
Về tội tuyên truyền chống
chế độ, và đã kết án Trần Vọng Quốc, Trần Tử
Thanh, Trần Tử Huyền, Đoàn Thanh Liêm. Năm 1996 Lê
Hồng Hà, Hà Sĩ Phu và Nguyễn Kiến Giang đã
bị kết án về tội tiết lộ bí mật nhà nước, thay
vì tội tuyên truyền chống chế độ, dầu rằng họ đã
công khai phủ định chế độ Cộng Sản.
Về tội phá hoại
chính sách đoàn kết quốc gia, và đã
kết án Hòa Thượng Thích Quảng Độ và cụ
Hoàng Minh Chính.
5) Quản chế hành chánh
Từ sau vụ án Lê Hồng Hà (1996), trong 5 năm,
không thấy có vụ án chính trị công
khai nào. Vì từ năm1997 Đảng Cộng Sản đã ban
hành quy chế quản chế hành chánh để quản
thúc tại gia những người đối kháng, cấm không được
hành nghề, không được di chuyển, không được tiếp
xúc với quần chúng, không được trả lời phỏng vấn
và không được tham gia chính quyền.
Sau vụ Đại Khủng Bố ngày
11-9-2001, khi Hoa Kỳ và đồng minh còn đang bối rối, Đảng
Cộng Sản Việt Nam đã lợi dụng thời cơ leo thang khủng bố từ bậc
5 (quản chế hành chánh) lên bậc 4 (tòa
án luật pháp).
Một tháng sau họ kết
án Linh Mục Nguyễn Văn Lý về tội phá hoại
chính sách đoàn kết quốc gia. Sau đó họ kết
án Lê Chí Quang về tội tuyên truyền chống
nhà nước và kết án Nguyễn Khắc Toàn, Phạm
Hồng Sơn và Nguyễn Vũ Bình về tội gián điệp.
Ngoài ra họ còn
truy tố thêm 7 người về tội gián điệp, nhưng sau phải cải
thành tội lợi dụng quyền tự do dân chủ để kết án
Nguyễn Vũ Việt, Nguyễn Trực Cường, Nguyễn Thị Hoa, Trần Dũng Tiến, Phạm
Quế Dương, Trần Khuê và Nguyễn Đan Quế.
Và tháng 11-2004,
muốn tránh tiếng đàn áp tôn giáo, họ
đã truy tố và kết án Mục Sư Nguyễn Hồng Quang
và một số truyền đạo Tin Lành về tội thường phạm chống
người thi hành công vụ.
Tổng kết lại từ sau vụ Đại Khủng
Bố ngày11-9-2001 đến tháng 11-2004, tòa án
đã truy tố và kết án 18ụ tù nhân
tôn giáo và tù nhân chính trị
bằng những tội danh giả tạo bịa đặt, và cưỡng ép lố bịch.
THẬP DIỆN MAI PHỤC
Vì không được quyền
tranh luận trước tòa, trong 14 năm, từ 1991 đến 2004,
chúng tôi đã đệ trình quốc dân những
bản biện minh trạng để bào chữa cho 22 tù nhân
lương tâm. Ngoài ra chúng tôi còn
công bố bản Thất Điều Trần để biện hộ chung cho 10 bị can bị bắt
giữ về tội gián điệp. Trong phần kết luận chúng tôi
nhận định rằng ngày nay Cộng Sản sợ 7 điều (Cộng Sản Hữu Thất
Cụ). 7 điều Cộng Sản sợ chính là 7 mặt trận đấu tranh của
chúng ta để giải thể Cộng Sản và xây dựng Dân
Chủ.
1) Cộng Sản sợ internet, sợ tin tức
ý kiến: Chúng ta phát động mặt trận truyền
thông.
2) Cộng Sản sợ
dư luận quốc tế, sợ mất chính nghĩa, mất viện trợ đầu tư:
Chúng ta phát động mặt trận quốc tế vận.
3) Cộng Sản sợ
đối lập: Chúng ta phát động phong trào tổ
chức, phát triển và kết hợp các lực lượng
dân chủ ở trong nước và hải ngoại.
4) Cộng Sản sợ
sự thật: Chúng ta phát động mặt trận truyền
bá sự thật, phục hồi sự thật lịch sử, để giành lại
chính nghĩa tự do dân chủ, hậu thuẫn quần chúng
và hậu thuẫn quốc tế.
5) Cộng Sản sợ tự do: Chúng
ta
phát
động mặt trận đấu tranh đòi tôn trọng
và thực thi những quyền tự do căn bản ghi trong hiến pháp
và trong Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự
và Chính Trị.
6) Cộng Sản sợ
dân chủ: Chúng ta phát động mặt trận truyền
bá dân chủ, phổ biến ý thức dân chủ và
những kỹ thuật pháp lý tiến tới việc thiết lập chế độ
dân chủ pháp trị, dân chủ đa đảng.
7) Cộng Sản sợ
nhân quyền: Chúng ta phát động mặt trận
truyền bá nhân quyền, đấu tranh đòi thực thi
nhân quyền, phản kháng những vi phạm nhân quyền, đặc
biệt tranh thủ từng tù nhân lương tâm.
Ngoài 7 mặt trận
nói trên, chúng ta còn phát động 3
mặt trận:
8) Mặt trận tự
do tôn giáo: Đấu tranh đòi phóng
thích các tù nhân tôn giáo,
đòi lại quyền sinh hoạt tự trị cho các giáo hội,
và đòi lại các cơ sở tài sản của
giáo hội để hoằng dương đạo pháp.
9) Mặt trận bảo
vệ chủ quyền lãnh thổ: Tố cáo phe lãnh đạo
Cộng Sản phản bội Tổ Quốc bằng cách nhượng đất biên giới
và bán nước Biển Đông cho Trung Quốc, chống chủ
nghĩa bá quyền Trung Quốc, và đấu tranh bảo vệ chủ quyền
lãnh hải của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa.
10) Mặt trận
luật pháp tòa án: Phối hợp các mặt
trận đấu tranh để hóa giải võ khí đàn
áp khủng bố của Cộng Sản. Với sự thiết lập Tòa Án
Hình Sự Quốc Tế, 3 loại đàn áp khủng bố dã
man nhất là thủ tiêu cá nhân, tàn
sát tập thể và lao động cải tạo sẽ cấu thành tội
chống nhân loại thuộc thẩm quyền Tòa Án Hình
Sự Quốc Tế. Do đó ngày nay luật pháp tòa
án là võ khí chiến lược căn bản của Cộng
Sản để đàn áp đối lập và củng cố chính
quyền.
ƯỚC VỌNG DIỄN BIẾN HÒA BÌNH
Ngày nay Hoa Kỳ và
các đồng minh muốn phát triển các tương quan ngoại
giao, kinh tế, văn hóa với Hà Nội để hy vọng thực hiện lộ
trình diễn biến hòa bình, cho Việt Nam hội nhập
vào cộng đồng các quốc gia dân chủ trên thế
giới.
Đó cũng là ước
vọng của chúng ta.
Mọi người kỳ vọng rằng, với sự phát triển kinh tế thị trường,
giao lưu văn hóa và trao đổi tin tức ý kiến, rồi
đây dân trí sẽ mở mang, đời sống kinh tế của người
dân sẽ thoát khỏi sự kiềm tỏa của nhà nước,
và ý thức dân chủ sẽ khai thông kỷ
nguyên nhân quyền và tiến bộ.
Kinh nghiệm Đông Âu
cho biết, nhờ có trao đổi tin tức ý kiến, người dân
lần lần hiểu rõ bản chất của Cộng Sản. Và khi biết
rõ mặt thật Cộng Sản, họ không còn tha thiết bảo vệ
chế độ nữa, và chế độ đã tiêu vong. Tại Hung Gia
Lợi, Tiệp Khắc và Bảo Gia Lợi chế độ Cộng Sản đã bị giải
thể bằng diễn biến hòa bình.
Điều đáng lưu ý
là các nhà lãnh đạo Cộng Sản Âu
Châu thường có ý thức phản tỉnh và tinh thần
phục thiện. Sau những cuộc tổng tuyển cử tự do khi thấy người dân
không còn tín nhiệm chế độ nữa thì họ
đã lặng lẽ rút lui.
Việc này sẽ không
xảy ra tại Việt Nam.
Vì những người lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam không suy
nghĩ và hành động như những người Cộng Sản Âu
Châu. Họ không bao giờ dám tổ chức trưng cầu
dân ý hay tuyển cử tự do để biết rõ nguyện vọng của
người dân. Thay vì có tinh thần thể thao phục
thiện, họ lại bất phục ngoan cố. Họ không phải là những
người yêu nước và không đặt quyền lợi quốc gia
lên trên quyền lợi của đảng phái. Họ chỉ giả
nhân giả nghĩa, sử dụng các tài sản quốc gia
và các ngân khoản viện trợ để trang bị bộ
máy công an nhằm đàn áp đối lập và
củng cố chính quyền.
Hơn nữa họ rất sợ giao lưu văn
hóa và trao đổi tin tức ý kiến với thế giới
dân chủ. Họ chỉ lợi dụng giao lưu văn hóa một chiều để
tuyên truyền cho cái gọi là "sự nghiệp giải
phóng dân tộc" và "sự nghiệp đổi mới" nhằm tạo
huyền thoại cho Hồ Chí Minh, và gây uy tín
cho Đảng Cộng Sản được độc quyền lãnh đạo quốc gia.
Như vậy nếu có đổi mới
thì cũng chỉ là thay đổi về hình thức, chứ
không thay đổi về thực chất.
Trong điều kiện này, nếu chúng ta chỉ chờ đợi bất chiến
tự nhiên thành mà không hy sinh tranh đấu,
thì đến năm 2015 - nghĩa là 70 năm sau khi Cộng Sản cướp
chính quyền - xã hội của chúng ta cũng sẽ
không bằng xã hội Miền Nam đầu thập niên 1970.
Do đó phương châm
hành động của chúng ta vẫn là:
Hãy tự giúp mình rồi Trời sẽ giúp ta.
Hãy hy sinh và chiến đấu rồi đồng minh sẽ giúp ta.
Diễn biến hòa bình chỉ là một ước vọng,
không phải là sách lược.
LUẬT
SƯ NGUYỄN HỮU THỐNG
Nguồn:
http://www.lenduong.net
|