Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com



Tản mạn về từ Hán-Việt

Các từ Hán-Nhật-Hán-Việt so với Hán-Nhật-Nhật-Việt (phần 1)

Nguyễn Cung Thông (Úc/Australia)
nguyencungthong@yahoo.com


Trần Ngọc Giang (Úc/Australia)
tranngocgiang@hotmail.com


    Từ Hán Việt (HV) là kết quả rất tự nhiên sau bao nhiêu thế kỷ bị người Hán đô hộ cũng như
sống bên cạnh nhau: đây là những từ gốc Hán thâm nhập vào và làm vốn từ Việt thêm phong
phú. Tương tự như thế, ta cũng có những từ Hán Nhật, Hán Hàn ... phản ánh quá trình giao
lưu văn hoá theo dòng thời gian giữa các dân tộc sống gần nhau từ lâu. Thường thì khi nói
đến từ HV là ta nghĩ ngay đến các từ gốc Hán nhập thẳng vào tiếng Việt, nhưng thật ra vấn
đề không đơn giản như thế vì các yếu tố thời gian (các lớp từ HV trước và sau thời Đường
Tống, thời hiện đại ...) và không gian (Bắc bộ, Nam bộ), chính trị ...v.v... Có nhiều từ gốc
Hán nhập thẳng vào tiếng Việt, thí dụ như lịch sử HV 歷史, nhập thẳng vào tiếng Nhật thành
rekishi歷史, nhập thẳng vào tiếng Hàn thành yoksa hay yeogsa 역사 (phụ âm đầu l- trở thành
bán nguyên âm y- hay ngạc cứng hoá) ... So với giọng Bắc Kinh/BK bây giờ là lì shǐ (theo
pinyin/bính âm); văn hoá HV 文化 trong tiếng Nhật là bunka (phụ âm đầu v/w trở thành b-,
h- thành k-), tiếng Hàn trở thành munhwa 문화 so với giọng BK bây giờ là wén hùa. Quốc
gia HV 国家 nhập vào tiếng Nhật thành kokka, tiếng Hàn là gugga hay kukga 국가 ; Thủ đô
HV 首都 (phụ âm đầu sh- trở thành th- trong tiếng Việt) là shuto trong tiếng Nhật, sudo 수도
trong tiếng Hàn so với giọng BK bây giờ là shǒu dū ... Ta cũng không ngạc nhiên khi các từ
này nhập thẳng từ tiếng Hán vì các khái niệm lịch sử, văn hoá, quốc gia, thủ đô ... rất phát
triển cùng với quá trình thành lập chữ Hán từ ngàn xưa. Các giao lưu văn hoá ngôn ngữ đặc
biệt nhất và rất lâu đời là Việt Nam/VN và Trung Quốc/TQ. Chẳng hạn như môn Hình học
(Geometry): tiếng Nhật là Kika-gaku (Kỷ Hà học) 幾何学 so với tiếng Hàn là kiha-hak (hay
giha-gag 기하학). Các tài liệu HV từ đầu thập niên 1930 cho đến 1960 cho thấy cách dùng
Kỷ Hà học và Hình học đều hiện diện trong tiếng Việt, nhưng hiện nay thì không ai dùng
danh xưng Kỷ Hà học nữa. Cách gọi Hình học 形学 đã có trước Kỷ Hà học từ lâu; tên Kỷ Hà
học do các học giả đời Minh Từ Quang Khải và Lợi Mã Đậu/Matteo Ricci1 dịch (1607), có

khả năng phiên âm tiền tố geo- (âm thời Minh gi-ho, nghĩa là đất đai) từ chữ geometria (Hình
học, tiếng Hy Lạp là γεωμετρία, -metria là đo đạc) và cũng phù hợp với cách nói kỷ hà (bao
nhiêu) hàm ý đo đạc trong môn học này.

Các từ nhập thẳng từ gốc Hán vào tiếng Việt thời Đường Tống rất phù hợp với các cách đọc
theo phiên thiết (Đường Vận, Quảng Vận, Tập Vận) sẽ được gọi là từ HV trong loạt bài
này; tương phản với các từ HV khác có gốc Việt cổ như đảm 膽 (một dạng cổ phục nguyên
là *tlam?/*klam? cho ra dạng lòng bây giờ), tên gọi 12 con giáp (Tý chút *chuôt chuột, Mão
Mẹo mèo, Hợi Gỏi *kui cúi/heo ...), giang 江 (một dạng cổ phục nguyên là *krong/*krung
cho ra dạng sông bây giờ) ... Các từ HV có gốc Việt cổ như trên sẽ được gọi là từ VHHV
(Việt-Hán-Hán-Việt). Những từ gốc Hán được người Nhật dùng đầu tiên, sau đó nhập ngược
vào tiếng Hán và nhập vào tiếng Việt sẽ được gọi là từ HNHV (Hán-Nhật-Hán-Việt); nếu
các từ Hán được người Nhật dùng nhập thẳng vào tiếng Việt thì là các từ HNNV (Hán-
Nhật- Nhật-Việt). Các từ gốc Hán được người Nhật dùng đầu tiên với ý nghĩa mới và sau đó
nhập ngược vào tiếng Hán sẽ được gọi là từ HNNH (Hán-Nhật-Nhật-Hán). Phần 1 của loạt
bài này chú trọng vào các từ HNHV so với HN
NV.

1. Hiện tượng đồng âm dị nghĩa

Đây là hậu quả tự nhiên của ngôn ngữ con người: khi xã hội phát triển, ngôn ngữ cũng phản
ánh nhiều hoạt động phức tạp hơn do đó một từ có thể mang nhiều nghĩa. Một ngôn ngữ mà
trong đó một từ chỉ có một nghĩa sẽ làm bộ nhớ dễ trở nên lộn xộn và quá tải (overloaded).
Hiện tượng đồng âm dị nghĩa lại càng dễ xảy ra khi hai ngôn ngữ vay mượn lẫn nhau và tạo
ra những trùng hợp về âm thanh (đọc giống nhau). Từ HV cũng có những trường hợp đồng
âm dị nghĩa, thí dụ như phi cơ 飛機 (máy bay, giọng BK bây giờ là fēi jī, tiếng Nhật lại chêm
chữ hành vào giữa nên trở thành phi hành cơ 飛行機 hikōki); phi cơ còn có thể viết là 丕基
nghĩa là cơ nghiệp lớn (phi 丕 là lớn lao, phi thường - không phải là bay). Nghĩa thứ nhì của
phi cơ (cơ nghiệp lớn) rất ít người biết. Đại thử HV có ít nhất bốn nghĩa sau đây tuỳ theo cách
viết chữ Hán (a) 大 暑 nóng gắt (thử là nắng mùa hè) – tiết Đại Thử là những ngày 22, 23
và 24 tháng 7 dương lịch, trời rất nóng nực ở Bắc Bán Cầu (b) 大 鼠 con chuột lớn (c) 袋 鼠
con chuột có bao ở trước bụng (đại là cái bao, cái túi không có nghĩa là lớn như a và b) …
Nghĩa (c) chỉ con kangaroo (hay kanguru) như ở bên Úc, nhưng theo người viết: đại thử 大
鼠 (chuột lớn) cũng có thể chỉ loài động vật đặc biệt này! (d) 黛 鼠 chuột có lông màu xanh
đậm (đại viết bằng bộ hắc là xanh đen). Tiếng Hàn và Nhật thì ghi âm trực tiếp từ tiếng Anh
kangaroo: カンガルー (kangarū, tiếng Nhật) so với 캥거루 (kaeng-geolu, hay kaeng-go-ru-u,
tiếng Hàn). Tân lang thường được hiểu là người mới cưới vợ khi viết là 新郞, nhưng cũng có
thể là trái cau khi viết là tân lang 檳榔 (tiếng Mã Lai, Inđônêsia là pinang).

Do đó nếu không biết chữ (Hán) viết ra sao, các từ HV có thể gây ngộ nhận như trường hợp
tên gọi năm Tân Mão (năm 2011) chẳng hạn. Tân2 trong Tân Mão viết là 辛 có nghĩa là can
thứ 8 trong 10 can (Giáp Ất Bính ... Tân Nhâm Quý), và còn có nghĩa là cay đắng, vất vả, đau
thương như: tân toan (chua chát, ̣chua xót/đắng cay), tân khổ (vất vả, cực nhọc, nhọc nhằn,
chật vật) ... Tân viết bằng bộ kim với chữ Tân 鋅/锌 có nghĩa là kẽm với ký hiệu Zn, nguyên

tố hoá học số 30 , giọng BK xīn đọc gần giống như (ký âm) tiếng Anh zinc. Tân viết bằng bộ
cân 新, nghĩa là mới như: tân binh, tân xuân, tân lang 新郎 (chú rể, chàng rể), tân niên (năm
mới, tết dương lịch), tân học, tân kỳ (mới lạ) v.v… Tân thêm bộ thảo 薪lại có nghĩa là củi,
củi đun, như các thành ngữ: mễ châu tân quế 米珠薪桂 (củi quế gạo châu), ngọa tân thưởng
đảm 臥薪嘗膽 (nằm gai nếm mật); chữ tân này cũng có nghĩa là tiền lương, như: gia tân 加
薪 (tăng lương), phát tân 發薪 (phát lương). Tân 賓có nghĩa là khách như: “tương kính như
tân” 相敬如賓 (trọng nhau như khách – vợ chồng cư xử với nhau như khách). Tân viết bằng
bộ thuỷ 濱 có nghĩa là bờ, như: hồ tân 湖濱, hải tân 海濱 hay gần/giáp/ven như: tân hải
濱海 (giáp biển), tân giang濱江 (gần sông); ngoài ra, thành phố cảng nước Nhật – Hoành
Tân3橫濱 (Yokohama) cũng viết với chữ tân này. Tân viết với bộ mịch ghép với phân cũng
bộ mịch thành từ ghép tân phân 繽紛 (rực rỡ, sặc sỡ; lả tả), như trong thành ngữ: ngũ thái
tân phân五彩繽紛 [wǔ cǎi bīn fēn giọng BK] (màu sắc sặc sỡ, muôn màu rực rỡ). Tân viết
với bộ mộc 檳 ghép với lang cũng bộ mộc榔 thành từ ghép tân lang檳榔 (cây cau, quả cau).
Tân viết với bộ nhân 儐 có nghĩa là người tiếp khách, như: nam tân tướng男儐相 (phù rễ),
nữ tân tướng女儐相 (phù dâu). Tân viết với bộ trùng 蠙 (bīn BK) là một tên riêng của con
trai (bạng 蚌), cũng chỉ ngọc trai, trân châu.Vì chữ tân có nhiều từ đ̀ồng âm dị dạng trong chữ
Hán như vậy, nên người ta hay hiểu lầm nghĩa chữ tân trong thành ngữ “tương kính như tân”;
có lẽ chính vì lầm tưởng như vậy mới có ý kiến cho rằng Tân Mão là năm mới để dẫn đến kết
luận: “... ta nên tống cựu nghênh tân” – xem bài phỏng vấn của đài BBC trang này: http://
www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2011/02/110203_cat_or_rabbit.shtml

Ngôn ngữ Nhật không có nhiều âm vận như tiếng Việt (ngôn ngữ có thanh điệu/tonal
language), cùng với giao lưu văn hoá lâu đời với TQ láng giềng, cho nên trong văn tự của ḥọ
có nhiều Hán tự ̣ (kanji). Trong văn tự Nhật thường dùng có 1,945 chữ Hán gọi là "Thường
dụng Hán tự" (常用漢字, jōyō kanji bắt đầu dùng chính thức vào năm 1981 và vẫn còn được
cập nhật) – để tránh tình trạng lầm lẫn giữa rất nhiều từ đồng âm dị nghĩa có gốc Hán – có thể
nói nhiều gấp nhiều lần so với từ Hán Việt.

2. Hiện tượng nhập ngược hay mượn lại (reborrowing)

Hình trích từ discover-indo.tierranet.com/japanart005a.htm - thế hệ người viết (NCT) rất thích xem loạt phim
Astroboy như hình bên trên, so với thế hệ con cái qua các trò chơi (video games) Nintendo.

Ảnh hưởng qua lại trong ngôn ngữ không những hiện diện ở Á Châu (Hán, Nhật, Việt ...) mà
còn ở Tây phương nữa: với tiến bộ vượt bực của kỹ thuật CNTT của hai nước Mỹ và Nhật
bây giờ ta còn thấy chữ anime4 (phim hoạt hình, hoạt hoạ), gốc từ tiếng Anh animation nhập
vào tiếng Nhật là - アニメーション (Animēshon) và nhập ngược lại tiếng Anh thành anime.

Tiếng Pháp ‘le bifstek’ là mượn trực tiếp (loanword) từ tiếng Anh beefsteak (món thịt bò
chiên), nhưng beef (thịt bò) thật ra là từ tiếng Pháp cổ boef. Tiếng Anh có chữ cinema (điện
ảnh, phim, xinê, xinêma ....), so với tiếng Pháp là cinéma, có gốc Hi Lạp κίνημα (kinema,
chuyển động) lại nhập ngược vào tiếng Hi Lạp hiện đại là σινεμά (xinêma, đọc theo tiếng
Việt hiện đại). Hiện tượng nhập ngược (vào tiếng Việt) giải thích được phần nào các từ HV
như Mão, Hợi ... có liên hệ ngữ âm đến cách gọi tên các loài vật tương ứng là mèo (âm cổ
Việt của Mão), cúi (âm cổ Việt của Hợi) … Nhưng các từ HV này lại không dính líu gì đến
tên 12 con vật trong tiếng Hán từ xưa đến nay.

3. Các từ HNHV (Hán-Nhật-Hán-Việt)

3.1 Ta hãy xem hiện tượng nhập ngược (backloan) hay mượn lại (reborrowing) trong trường
hợp các từ HV sau đây mà đa số tưởng rằng chúng là đặc sản của người Hán. Đa số các từ
HNHV được người Nhật sáng tạo dựa vào chữ Hán khi du nhập văn minh Tây phương - nhất
là vào thời kỳ Minh Trị 明治 (1868-1912) với chính sách đưa các khái niệm khoa học kỹ
thuật vào nhà trường; bảng liệt kê sau dựa vào các ví dụ trong chương 3 "Từ ghép gốc Hán
và cách thức Việt hoá" của GS Lê Đình Khẩn5 và bài viết của học giả Feng Zhiwei6 馮/冯志
伟 (Phùng/Bằng Chí Vĩ). Các từ HNHV còn được tài liệu TQ gọi là Nhật-Chế-Hán-Ngữ 7 日
製漢語hay Ngoại-Lai-Ngữ8 外來語. Có một số từ HNNH (Hán-Nhật-Nhật-Hán) không thấy
hiện diện trong tiếng Việt ngày nay như mẫn cảm 敏感 (nhạy cảm), thừa khách 乘客 (hành
khách), xuất đình 出庭 (ra toà), công báo 公 報/报 (thông cáo), quốc khố國庫/国库 (ngân
quỹ quốc gia), chế ước 制約 (kìm hãm), chế đường 製糖 (HV: thường dùng sản xuất đường)
... không nằm trong phạm vi bài này nhưng cũng đáng nhắc đến ở đây để bạn đọc nào thấy
hứng khởi thì tra cứu thêm.

Bảng liệt kê các từ HNHV

tự nhiên
thành phần
phát minh
hoá học
bối cảnh
sáng tác
điện báo/telegram
động sản/movables
lý tưởng
bản chất
thống trị
giao thông
lao động
thời gian
hiện tượng
vận động
tổ chức
công nghiệp
nội dung
tiêu hoá
cảnh sát
Địa chất học
Triết học
kinh tế*
mục đích
tư tưởng
tuyên truyền nghĩa vụ
chất lượng
điện tử
điện xa (xe điện/tram)
thủ tiêu
tuyển cử
dân chủ
kinh nghiệm
xí nghiệp
vệ sinh
quan hệ
ý nghĩa
mỹ thuật
đại biểu
kỷ lục
tất yếu
Tâm lý học
đơn vị
xã hội
kiên trì
tác phẩm
năng lực
chi bộ
thị trường
hiệp hội
độc tài
trực tiếp
phê bình
thủ tục
mục tiêu
cụ thể
khoa học
văn minh*
ngân hàng
tôn giáo
nguyên tắc
tích cực
nghiệp vụ
không gian
phương thức chính/chánh đảng
động viên
tuyệt đối
Sở hữu quyền/ownership
Hàng không mẫu hạm/Aircraft carrier
phản ứng
bi kịch
phủ nhận
biểu quyết
nhân quyền
chủ động
thể dục
diễn xuất
quốc tế
tư liệu
quy tắc
tân văn
quyền uy
chính/chánh sách
phủ định
tiến hoá/evolution
lãnh/lĩnh thổ lãnh/lĩnh hải
tổng hợp
Tư bản chủ nghĩa/Capitalism lao động*
để kháng (chống)
tuỳ viên
hiến pháp*
hí kịch (hài kịch)
ám thị (bảo ngầm)
giải phóng
công trái
Xã hội chủ nghĩa/Socialism
tự do 自由(freedom, liberty) chế tài
chế ước

Xin lưu ý: bác sĩ 博士 là tiến sĩ (PhD) ở Nhật, TQ. Dân chủ là dịch nghĩa từ tiếng Anh
democracy - một cách dịch âm là ‘đức mô khắc lạp tây’ 德謨剋拉西. Ít người biết rằng 中華
人民共龢/和 國 (Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hoà Quốc) và 中国共産党 (Trung Quốc Cộng
Sản Đảng) là các từ ngoại lai đã nhập vào tiếng Trung Quốc trong thời kỳ Cách Mạng.

3.2 Một số cách dùng có thể đã hiện diện trong thư tịch cổ đại TQ, nhưng phạm trù nghĩa đã

thay đổi phần nào khi người Nhật dùng và duy trì nghĩa này cho đến nay - các từ HNHV có
dấu hoa thị ở sau trong bảng liệt kê - nói cách khác hơn là chính người Nhật, qua những cải
cách tân học (Tây học), đã tạo cơ sở vững chắc và chính xác hơn trong cách dùng các từ này:

Kinh tế 經濟: nghĩa cũ (kinh bang tế thế/sửa nước cứu đời, kinh thế tế dân/trị đời giúp dân ...)
– “kinh quốc tế dân ...” [a] bao gồm chính trị, kinh tế, xã hội khác với nghĩa bây giờ (dịch
tiếng Anh economy)

Cách mạng/mệnh 革命: nghĩa cũ là đổi mệnh vua (vua chịu mệnh trời), đổi triều vua (Đào
Duy Anh) – “thực thi biến cách ứng thiên mệnh. Cổ đại nhận vi (̣nghĩ rằng) đế vương thụ
mệnh ư thiên, nhân xưng triều đại canh thế vi cách mệnh (vì thế gọi thay đổi triều đại là cách
mệnh) [b] ; hiện nay cách mạng/revolution nghĩa là đổi chế độ cũ...

Bác vật 博 物: nghĩa cũ là thông thái, hiểu biết nhiều (bác cổ thông kim, uyên bác) – “bác
thức đa tri...” [c]; Bác vật (học) chỉ khoa học tự nhiên (natural science). Không thấy tiếng Việt
dùng các từ này nữa so với thời các cụ Đào Duy Anh, Gustave Hue ...

Theo học giả Phùng/Bằng Chí Vĩ thì các danh từ sau cũng có quá trình đổi nghĩa và cách
dùng tương tự (xem phụ chú 6): đầu cơ, giai cấp, cơ quan, tinh thần, nội các, phát minh, chủ
nghĩa, đồng tình (thông cảm), văn hoá, văn minh, di truyền, thẩm vấn, sinh sản (sản xuất),
nguyên soái, xâm lược, câu lưu ...

Lao động労働rōdō/勞動/劳动: nghĩa cũ là điều khiển hoạt động/cử động “thao tác hoạt
động...” [d] - để ý lao động viết theo kiểu Nhật 労働 và động (dòng BK) rút gọn9 thành
dō. Lao 労là Nhật Bản Hán Tự 日本漢字 (chữ Nhật gốc Hán) cũng như chữ Nôm truyền
thống ở Việt Nam; chữ lao 労còn hiện diện trong tự điển dị thể tự - xem trang này http://
dict.variants.moe.edu.tw/yitia/fra/fra00396.htm

Phát minh 發明/发明: nghĩa cũ là gợi ý “khải phát, khai khuếch” [e]

3.3 Tiếng Anh thuộc ngữ hệ Ấn Âu hay loại hình ngôn ngữ hoà kết (flexional/flectional) với

khả năng dùng hậu tố/tiếp vĩ ngữ (suffix) và tiền tố/tiếp đầu ngữ (prefix) rất khác với loại
hình ngôn ngữ đơn lập (isolating hay analytic) như tiếng Việt, tiếng Trung (Quốc). Tiếng Anh
boy (bé trai) chỉ có một dạng (hình vị/morpheme) là boy - dạng này có tỷ số hình-vị-và-chữ
(morpheme-word ratio) là 1:1; hay trong trường hợp số nhiều là boys thì tỷ số hình-vị-và-chữ
là 2:1. Trường hợp chữ international (quốc tế) thì tỷ số hình-vị-và-chữ lên đến 3:1. Tiếng
Hán, Việt (ngôn ngữ đơn lập) hầu như không có các trường họp trên và tỷ số hình vị và chữ
thường là 1:1. Hậu tố -ise (hay -ize) dùng để làm động từ rất thông dụng như Americanise
(Mỹ hoá, Mỹ quốc hoá 美國化), Vietnamise (Việt hoá), internationalise (quốc tế hoá 国際化
), normalise (bình thường hoá, TQ dùng chính thường hoá, Nhật dùng chính quy hoá)... và
đương nhiên chữ hoá 化 (tiếng Hàn dùng hwa) được dùng cho hậu tố -ise; người Nhật đã tạo
ra các chữ mới dùng hoá như là một hậu tố trong các ngôn ngữ đơn lập. Hậu tố -ism cũng
được dịch là chủ nghĩa như Communism trong tiếng Nhật là 共産主義 (Kyōsan shugi, tiếng
Nhật rút gọn9 phụ âm sau -ng như Kinh Đô 京都 thành Kyoto, Cộng thành kyo-), nhập vào
TQ và VN là Cộng Sản chủ nghĩa, tiếng Hàn là 공산주의 (gongsanjuui); Capitalism là 資本
主義 Shihon shugi (Nhật) nhập vào tiếng Trung (Quốc) và VN là Tư bản chủ nghĩa so với
tiếng Hàn 자본주의 (jabonjuui). Nationalism thường được dịch là 民族主義 (tiếng Nhật
dùng dạng Kanji/Hán tự) hay ナショナリズム (Nashonarizumu, tiếng Nhật dùng kiểu
Katakana) - nhập vào tiếng Hán và VN thành Dân Tộc chủ nghĩa (hay Quốc gia chủ nghĩa) so
với tiếng Hàn 민족주의 (minjogjuui hay kukgajuui).

4. Các từ HNNV (Hán-Nhật-Nhật-Việt)

Một số từ HV không thấy Trung Quốc dùng mà chỉ ở Nhật và VN, thí dụ như các từ đại tá,
thiếu tá, đại uý ... Tiếng Hán hiện đại gọi đại tá10 (Colonel) là 陸軍上校 Lục Quân thượng
hiệu hay thượng hiệu, 團長đoàn trưởng … chứ không như cách gọi quân hàm của VN và
Nhật. Đại Tá tiếng Nhật là 大佐 taisa. Tự điển ‘Petit Dictionnaire francais-annamite’ của
Trương Vĩnh Ký (1884) định nghĩa colonel là Chánh tổng-binh, quản cơ, quản vệ và Đại
Nam Quốc Âm Tự Vị của Paulus Của (1895) thì không ghi các từ đại tá, thiếu tá ... Cho đến
thập niên 1930 thì Gustave Hue đã ghi chép các từ đại tá, thiếu tá trong cuốn Dictionnaire
vietnamien-chinois-francais (1937). Học giả Đào Duy Anh còn ghi là đại tá 'chức quan võ
trên chức trung tá, cũng gọi là thượng tá' trong cuốn Hán Việt Tự Điển (1931). Thiếu tá tiếng
Nhật là 少佐 shosa so với cách gọi thiếu hiệu少校của TQ. Hiện nay, thượng tá là cấp bậc
trên trung tá nhưng dưới đại tá, phản ánh phần nào ảnh hưởng của Trung Quốc (thượng hiệu)
ở miền Bắc so với thời VNCH vẫn duy trì ảnh hưởng Nhật Bản và không có cấp bậc này. Vào
những năm Pháp bắt đầu xâm lăng VN cũng là thời kỳ quân đội Nhật tổ chức lại hệ thống cấp
bậc (dùng đại tá, thiếu tá ... từ năm 1867); sau đó bốn thập niên phong trào Đông Du cố gắng
giới thiệu các thay đổi và canh tân ở Nhật vào VN và giải thích được sau đó các từ HNNV
lại nhập vào tiếng Việt.

Cách dùng phi trường (sân bay) trong tiếng Việt cũng đáng chú ý: tiếng Nhật là không cảng
空港 kūkō (rút gọn phụ âm cuối9, kōng gǎng BK trở thành kūkō) hay phi hành trường 飛行
場 hikōjō (phụ âm đầu b/p BK trở thành h, phụ âm h BK trở thành k và rút gọn phụ âm cuối9
); tiếng Hàn cũng dùng không cảng 공항 (gonghang, vẫn duy trì phụ âm cuối -ng) khác với
tiếng Hán là cơ trường 機場/机场 hay phi cơ trường 飛機場/飞机场. Kỹ sư 技師 tiếng Nhật11
- tiếng Việt cũng vậy so với tiếng Hán là công trình sư 工程師 - so với kỹ gia 기사 (gisa/kisa
tiếng Hàn). Trương Vĩnh Ký (sđd, 1884) dịch kỹ sư (ingénieur tiếng Pháp) là bác-vật, Đào
Duy Anh (sđd, 1931) ghi nhận kỹ sư như là công trình sư.

5. Ghi chú và phê bình thêm

Để cho đầy đủ hơn, các bạn đọc (nếu thấy thích thú) nên cẩn thận tra cứu thêm nhiều dữ
kiện từ các bài viết có sẵn trên mạng về đề tài (rất lớn rộng) 'du nhập tiếng Anh vào tiếng
Hán, Nhật, Hàn, Việt ... hay từ vay mượn/ngoại lai ngữ/loanwords…' - như những bài viết
của học giả Feng Zhiwei/Phùng (Bằng) Chí Vĩ "The structure of Chinese loanwords" (cấu
trúc của các từ vay mượn trong tiếng Hán) trang http://www.lingviko.net/feng/structure-
zwfeng.pdf hay bài viết của Gao Ruikua (cũng là luận văn Thạc Sĩ, Anhui University, 2005)
"Analysis of Language Borrowing between English, Chinese and Japanese" - xem trang này
http://www.docstoc.com/docs/2390150/Analysis-of-Language-Borrowing-Between-English-
Japanese-and-Chinese và

- các bài viết qua chủ đề "English loanwords in Japanese" có thể tra trên mạng dễ dàng,
như của tác giả Gillian Kay (1995) hay của tác giả Bobby Ruijgrok (2009) trang http://
bobbyruijgrok.com/gulibu/lipapers_files/English%20loanwords%20in%20Japanese.pdf hay
https://www.csun.edu/~bashforth/301_PDF/301_P_P/EnglishLoanWordsJapanese.pdf

1) Lợi Mã Đậu 利瑪竇 (Ricci, vần đầu Ri ~ li hay Lợi 利, Mã Đậu 瑪竇là phiên âm của
Matteo) là tên Hán hoá (đơn âm hoá) của giáo sĩ Ý sang Trung Quốc truyền giáo và chết vì
bịnh ở Bắc Kinh - Matteo Ricci (1552-1610) - rất được giới nho gia TQ đương thời kính trọng
và tôn làm Thái Tây Nho Sĩ 泰西儒士. Lợi Mã Đậu (nhờ vào Từ Quang Khải 徐光啟, 1562-
1633) là người đầu tiên dịch Tứ Thư Ngũ Kinh ra tiếng Âu Châu (La Tinh) cũng như đem
các khái niệm khoa học (Hình học, Số học, Thiên văn học ...) của Tây phương vào TQ - xem
trang này http://zh.wikipedia.org/zh-tw/%E5%88%A9%E7%8E%9B%E7%AA%A6

Hình bìa cuốn "Kỷ Hà nguyên bổn" (Hình học căn bản, dịch từ Elements của Euclid mà Matteo Ricci
học ở La Mã trước khi qua TQ) với hình của Lợi Mã Đậu (trái) và Từ Quang Khải (phải).

Một điểm đáng chú ý là trong cuốn "Danh Từ Khoa Học" của học giả Hoàng Xuân Hãn/
HXH (NXB Khoa Học Tùng Thư, in lần thứ nhất, 1942), ông cũng dịch Géométrie là
Hình học. ‘Hình học’ đã được dùng trong các tự điển HV của Đào Duy Anh/ ĐDA (1931),
Gustave Hue (1937). Tuy nhiên, HXH dùng ‘cấp số nhân’ thay vì ‘kỷ hà cấp số’幾何級數
(progression géométrique, geometric progression/series) như ĐDA; tiếng Hàn cũng dựa vào
tiếng Hán là 기하 급수 (giha geubsu) khác hẳn với tiếng Nhật dịch là đẳng tỷ số liệt 等比数


2) đấy là chưa kể những chữ hiếm đọc là tân như bộ nạch hợp với chữ Tân (hài thanh) có
nghĩa là cảm lạnh/run lên (ague) cũng đọc là tân 㾕 - theo Khang Hy: 【 集韻】 斯人切,
音辛 [Tập Vận] tư nhân thiết, âm Tân ...v.v... Thí dụ như xem một tự điển TQ khá phổ thông
trên mạng, âm tân HV (xīn BK) có tất cả 97 cách viết khác nhau - xem trang này http://
www.chinalanguage.com/dictionaries/

3) năm 1905 các nhà ái quốc Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính, Tăng Bạt Hổ đã đến Hoành Tân
bằng đường thuỷ để xin ngoại viện. Qua các lời khuyên (bút đàm) của Lương Khải Siêu và
một số chính khách ở Nhật, cụ Phan Bội Châu đã chuyển hướng ‘cầu viện’ sang ‘cầu học’.
Đây không phải là liên hệ đầu tiên giữa Việt Nam và Nhật Bản, ít nhất là đầu thế kỷ 15 đã có
người Nhật đến Hội An buôn bán; phố cổ Hội An nay còn để lại nhiều dấu ấn về giao lưu văn
hoá và kinh tế thời đó. Bài này chỉ giới thiệu khung cảnh tổng quát về giao lưu văn hoá qua
ngôn ngữ (từ HNHV, HNNV ...) - đây là một chủ đề đáng được tra cứu thêm như qua những
bài viết của các nhà ái quốc và học trò của phong trào Đông Du nói trên.

4) anime (phim hoạt hình) đã mở rộng thị trường cổ điển của phim hoạt hình dành cho con nít
(cartoon) đến mọi lứa tuổi và đến khắp nơi trên thế giới (và trở thành một loại văn hoá toàn
cầu/global culture) anime xuất hiện sau thời kỳ phổ thông của manga (truyện tranh Nhật Bản)
- xem thêm chi tiết trang http://vi.wikipedia.org/wiki/Anime .

5) "Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt" tác giả GS Lê Đình Khẩn - NXB Đại Học Quốc Gia
Thành Phố HCM (2002)

6) bài viết "The Semantic Loanwords and Phonemic Loanwords in Chinese Language" tác giả
Feng Zhiwei - trình bày trong Hội Thảo quốc tế kỳ 11 tổ chức tại Tokyo (2004) - có thể đọc
toàn bài từ trang này http://ling.cuc.edu.cn/htliu/feng/loanword-zwfeng.pdf

7) xem chi tiết các thảo luận trên các trang mạng bách khoa TQ như http://zh.wikipedia.org/
w/index.php?title=%E5%92%8C%E5%88%B6%E6%B1%89%E8%AF%AD&variant=zh-cn
hay http://baike.baidu.com/view/817962.htm ...

Bạn đọc có thể xem thêm các bài viết liên hệ như 現代漢語中的日語 “ 外來語” 問題 (Hiện
Đại Hán Ngữ trúng đích Nhật Ngữ “ngoại lai ngữ” vấn đề) của tác giả Vương Bân Bân 王
彬彬 trang http://www.zhaojun.com/youci/riyu.htm hay bài viết bằng tiếng Nhật http://
freett.com/nandon/lunwen1.htm …

8) Ngoại Lai Ngữ 外來語 là các từ vay mượn (tiếng ngoại quốc) - giọng BK bây giờ là wài
lái yǔ so với âm HV Ngoại Lai Ngữ, và Nhật là Gailaigo. Theo thống kê của tác giả Monique
Cheung khi tra các tự điển tiếng Nhật thì số lượng Gailaigo càng ngày càng tăng - xem chi tiết
trang http://www.slidefinder.net/j/japanese_loanwords_monique/17176589


Số lượng (phần trăm) Gailaigo trong tự điển tiếng Nhật

Bảng liệt kê các từ vay mượn - xem trang này http://en.wikipedia.org/wiki/
List_of_gairaigo_and_wasei-eigo_terms thí dụ như

aisu kurīmu

avec (từ tiếng Pháp, nghĩa là cặp/đôi tình nhân)

ice cream (từ tiếng Anh, nghĩa là kem/kà lem)

9) tiếng Nhật không có phụ âm sau -ng so với tiếng Trung (Hoa) hay VN. Quá trình rút gọn
phụ âm sau -ng cho ra dạng Tokyo: Đông Kinh 東京, giọng BK bây giờ là dōng jīng, trở
thành To-Kyo. Ngôn ngữ con người luôn luôn thay đổi, theo thời gian để cho các tiếng cổ và
theo không gian để cho các tiếng địa phương (phương ngữ, thổ ngữ…). Sự thay đổi này còn
được ghi trên giấy tờ rõ ràng như tên thành phố Bắc Kinh, Nam Kinh : thế hệ bây giờ thường
đọc là Bây-Ching (theo giọng Phổ Thông BK, bĕijīng 北京 ) hay Nan-Ching (Nánjīng BK 南
京 ), Phu-Chiên (Fújiàn BK 福建 ) … nhưng các báo chí sách vở từ trăm năm qua vẫn thường
ghi là Peking, Nanking … và ta vẫn cứ gọi là Bắc Kinh, Nam Kinh, Phúc Kiến … khi nói
chuyện hàng ngày. Âm bắc HV còn duy trì âm cổ cuối –k (cũng như một số giọng miền Nam
TH như Quảng Đông, Hẹ) và phụ âm cổ đầu k- của Kinh (thay vì ngạc hoá thành một dạng
ch-). Đây là một thí dụ cho thấy các biến âm đã được duy trì qua báo chí và phương ngữ (vẫn
giữ âm cổ hơn) cũng như trong âm Hán Việt, Hán Hàn, Hán Nhật (phản ánh thời kỳ giao lưu).
Đây là một đề tài rất thú vị nhưng không nằm trong phạm vi của phần 1 này.

10) thời Pháp xâm chiếm VN, ta đã có các Đại tá Henri Rivière, Đại uý Francis Garnier ...
trong quân đội viễn chinh Pháp - xem thêm chi tiết trang http://vi.wikipedia.org/wiki/
Francis_Garnier …v.v… "Tự điển Hán Việt" (Đào Duy Anh, 1931): có ghi 'thượng hiệu,
chức quan võ cấp thứ tư trên chức trung hiệu dưới chức thiếu tướng' so với cách định nghĩa
của Hoàng Thúc Trâm trong "Hán Việt Tân Tự Điển" (1950) thì 'thượng hiệu: chức võ quan
hồi Trung Hoa Dân Quốc, ngang với đại tá của Nhật Bản' ... Tuy nhiên vào SàiGòn qua
cuốn "Tự Điển Hán Việt" của Nguyễn Văn Khôn (1960) thì không thấy dùng thượng hiệu
nhưng có ghi đại tá. Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi quân hàm có lúc dùng từ HNHV và có
lúc không dùng nữa (tuỳ theo tình hình chính trị ...): như cấp bậc đại tướng 大將 đã từng hiện
diện trong quân đội TQ từ năm 1955 đến năm 1965, sau cách mạng văn hoá (thời Mao Trạch
Đông) thì hệ thống quân hàm được tái lập từ năm 1988 nhưng từ năm 1994 thì không còn
chức ‘nhất cấp thượng tướng 一級上將’ nữa - xem thêm chi tiết trang http://zh.wikipedia.org/
zh-tw/%E5%A4%A7%E5%B0%86

(a) Quân hàm Đại tướng Lục quân Mỹ (tướng bốn sao - four-star general)

(b) Quân hàm Đại tướng QĐND VN - xem trang này http://vi.wikipedia.org/
wiki/%C4%90%E1%BA%A1i_t%C6%B0%E1%BB%9Bng

Từ Nguyên ((bản cập nhật 1979, Bắc Kinh) trang 2436, cột 3

Từ Nguyên trang 3364, cột 2

Từ Nguyên trang 0428, cột 3

Từ Nguyên trang 0380, cột 2

11) tiếng Nhật còn dùng dạng ký âm エンジニア enjinia của tiếng Anh engineer để chỉ kỹ
sư. Phạm trù nghĩa của chữ engineer thật ra cũng thay đổi theo thời gian (tiếng La Tinh thế kỷ
15 nghĩa là người phát minh) và không gian: tiếng Mỹ (American English) còn dùng engineer
để chỉ tài xế lái đầu máy xe lửa (engine-driver).


Nguyễn Cung Thông và Trần Ngọc Giang


Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang :Tản Mạn Về Từ Hán Việt
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.


Trở lên đầu trang

Trở Lại Trang Mặt