Mỗi năm đến ngày 23 tháng chạp,
người ta làm lễ cúng Táo Quân chầu Trời. Người ta
tin rằng cứ đến 23 tháng chạp th́ Táo Quân lại lên
trời tâu tŕnh mọi việc trần gian mắt thấy tai nghe
trong cả năm để Thượng Đế định liệu thưởng phạt. Táo
Quân theo tiếng dân gian cũng gọi là ông Công ông
Táo.
Lễ vật gồm
có rượu, hoa quả, xôi, gà hoặc gị heo. Người ta hóa
vàng, đồng thời cũng đốt cả cỗ mũ năm trước và thay cỗ
mũ mới. Người ta lại mua tặng Táo Quân một con cá chép
để Táo Quân cưỡi lên chầu Trời. Khi cúng xong, con cá
này sẽ được phóng sinh ra sông hoặc xuống ao. Con cá
sẽ hóa rồng đưa ông Táo chầu Trời.
Lễ vật
trên thường thấy nơi các gia đ́nh miền Bắc. Miền Nam
lễ vật có vẻ giản dị hơn, nhưng phải có đồ ngọt hối lộ
ông Táo để ông ăn cho thơm miệng mà ăn nói ngọt ngào
chống đỡ cho gia chủ nơi Thượng Đế. Lễ vật ngon ngọt
đó là “thài lài cứt chuột” tức là kẹo đậu phọng và kẹo
mè đen hoặc trắng.
Cỗ mũ của
Táo Quân gồm có măo, áo và hia, không có quần. Không
hiểu tại sao. V́ thế, mở một tờ báo xuân nào, người ta
cũng thấy h́nh Táo Quân đội măo, mặc áo đại trào và
mang hia, không có quần nên chân cẳng lông lá mọc lia
chia, cầm tờ sớ dài tḥng đang tâu tŕnh lên Thượng Đế
. Một nhà văn đă có câu thơ trào phúng : “…Đội măo đi
hia chẳng mặc quần !”
Cỗ mũ của
Táo Quân mỗi năm một màu khác nhau hợp với ngũ hành
của năm đó, như năm Quư Măo thuộc hành Kim th́ áo măo
hia màu trắng, năm tới Đinh Hợi thuộc hành Thổ nên áo
măo hia màu vàng.
Táo Quân
là Vua Bếp. Vua Bếp không chỉ có một ông mà tới
hai ông và một bà. Như thế Vua Bếp có ba ngôi, một bà
và hai ông, có nghĩa là một vợ hai chồng. Vua Bếp
tượng trưng là cái kiềng ba chân hay ba ông đầu rau
dùng để bắc nồi nấu cơm. Ca dao nói : “Dù ai nói ngă
nói nghiêng, th́ tôi cũng vững như kiềng ba chân”.
Sự
tích Táo quân có nhiều dị bản, nhưng đại khái được dân
gian kể như sau : Ngày xưa có hai vợ chồng nghèo đến
nỗi phải bỏ nhau. Người vợ về sau lấy được người
chồng khác giàu có. C̣n người chồng trước th́ phải đi
ăn mày. Một hôm người vợ thấy một người vào xin ăn,
nhận ra là người chồng cũ th́ động ḷng cảm thương,
đem cơm gạo tiền bạc cho. Lúc đó người chồng mới đi
về, người vợ sợ chồng mới biết nên đem chồng cũ dấu
vào đống rơm. Người chồng sau về, nhớ là chưa bón phân
cho ruộng lúa, mới đốt rơm để lấy tro bón ruộng. V́
ngủ quên nên người chồng trước bị chết cháy. Vơ cảm
kích cho là v́ ḿnh mà chồng trước bị chết cháy nên
nhảy vào lửa tự thiêu để tỏ ḷng hối hận, người chồng
sau thương vợ cũng nhảy vào cùng chết cháy. Ngọc Hoàng
Thượng Đế thấy ba người cùng có nghĩa phong cho làm
vua Bếp, tức là bộ ba Táo quân hay cũng gọi là ông
Công ông Táo.
Chế
độ Mẫu hệ.
Câu
truyện Vua Bếp, hai ông một bà nhắc ta nhớ tới thời
kỳ loài người sống dưới chế đô mẫu hệ và thời kỳ con
người mới t́m ra lửa.
Loài người
từ khi thành h́nh đă trải qua hàng ngh́n hàng vạn năm
chịu sự thay đổi thời tiết. Trải qua bốn lần băng
tuyết từ Bắc cực đổ xuống bao phủ nửa châu Âu, nửa
châu Á rồi lại lui về Bắc Cực. Khí hậu đương nóng hoá
lạnh, họ phải t́m cách thích ứng với hoàn cảnh thay
đổi, họ lột da thú để che thân, làm cḥi che mưa nắng
và t́m ra lửa để sưởi.
Lửa đă giúp loài
người chống lạnh, nấu chín thưc ăn, làm cho mănh thú
sợ hăi phải tránh xa. Họ dùng lửa đốt rừng để trồng
lúa, bắp, họ dùng lửa làm nứt phiến đá, nấu chảy đồng,
chảy sắt để chế tạo mọi thứ đồ dùng.
V́ vậy tổ
tiên ta sùng bái lửa, tôn người t́m ra lửa vào bậc
thần thánh. Chính v́ vậy mà bộ ba ông Táo được tôn
sùng.
Thời kỳ này, các
người cùng quyền lợi, cùng chung một nghề nghiệp kết
hợp thành thị tộc, như người trồng trọt ở thung lũng
kết thành thị tộc rồi bộ lạc định cư định canh, những
người chăn nuôi gia súc cần có đồng cỏ nuôi súc vật
kết thành bộ lạc du mục phải thay đổi chỗ ở luôn luôn
để kiếm cỏ cho súc vật ăn.
Các thị tộc rồi
bộ lạc lúc đầu do đàn bà nắm quyền kinh tế, chỉ huy.
Con cái chỉ biết có mẹ, không biết cha là ai. Con cái
cùng mẹ nhưng có thể có nhiều cha khác nhau. Bộ ba Táo
quân chắc hẳn phát sinh từ thời kỳ này. Chế độ một vợ
nhiều chồng c̣n sót lại nơi một vài bộ lạc Tây Tạng.
Chế độ mẫu hệ
hiện c̣n thấy nơi người Chàm và các bộ lạc ở vùng Cao
Nguyên Trung Phần (Tây Nguyên). Ở tỉnh Vân Nam nước
Tàu có sắc tộc Mosuo c̣n theo chế độ mẫu hệ nguyên
thủy.
Chế độ mẫu
hệ cũng được nói đến trong Kinh Thánh: “Bởi thế mà đàn
ông bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ ḿnh và chúng sẽ trở
nên một thân xác” (Gen. 2:24)
Chế
độ
Mẫu hệ Chàm.
Hiện nay người Chàm vẫn c̣n theo chế
độ mẫu hệ v́ thế việc cưới hỏi đều do nhà gái chủ
động. Nhà gái có con đến tuổi thành hôn cậy ông mai đi
đánh tiếng với nhà trai, hoặc cũng có khi cô gái thấy
ưng ư cậu trai nào th́ cho người đi ngỏ ư cưới. Khi
hai bên ưng thuận rồi th́ nhà gái đem bánh trái
đi chạm ngỏ nhà trai. Nếu người con trai bằng ḷng th́
nhận bánh, trái lại từ chối th́ nhà gái mang về chờ
ngày khác sẽ đi nói lại.
Nếu hai bên ưng thuận th́
tiến tới lễ hỏi. Tuy nhiên người Chàm có hai tôn giáo
là đạo Bà La Môn và đạo Hồi, nên việc cưới xin cũng có
hai nghi lễ khác nhau.
Đám
cưới theo đạo Hồi.
Người con gái theo đạo
Hồi muốn kết hôn phải qua một lễ gọi là lễ Ka-rớk (lễ
Hăm Ḿnh). Nếu chưa qua lễ này, người con gái bị coi
là gái Ta-bung, gái cấm, không được nghĩ đến hôn nhân.
Lễ Ka-rớk
thường làm tập thể cho các cô gái đến 15 tuổi. Muốn
làm lễ, người ta cất hai cái rạp, cái lớn làm bàn thờ
thánh Âu-lóali (Allah), cái nhỏ cho các người chịu lễ
thay quần áo và ăn ở trong suốt thời kỳ hành lễ. Các
thày hành lễ ít nhất phải có ba vị. Thày chánh gọi là
pô Crù, hai thày phụ là pô I-mum và pô Ca-típ. Các
thày nhận lễ, tiệc của gia chủ và cầu kinh. Kể từ bấy
giờ trở đi, các thiếu nữ chịu lễ phải ở luôn trong
rạp, không được ra ngoài bất cứ lư do nào.
Sau một đêm, các
cô mặc quần áo chỉnh tề, bước ra khỏi rạp, ngồi trước
bàn thờ chờ các thày ban phép. Các thày đọc kinh rồi
từng cô vào quỳ trước mặt, thày pô Crù để vào lưỡi
thiếu nữ vài hạt muối rồi cầm kéo cắt một lọn tóc trên
đĩnh đầu và cho uống ngụm nước phép. Lễ xong, người
nhà và họ hàng mặc toàn đồ trắng đến chào người con
gái, họ ngồi đối diện nhau, hai tay áp vào nhau mấy
lượt rồi trao tặng phẩm cho cô gái dùng làm của riêng
tính việc t́m người chồng. Kể từ đó người con gái mới
có quyền nghĩ đến việc cưới chồng.
Đám cưới của
người theo đạo Hồi rất phiền phức và tốn kém nên chỉ
những nhà khá giả mới có thể cử hành ngay khi chàng rể
về nhà ḿnh c̣n th́ thường thường, người ta để hai
người chung sống với nhau ít lâu cùng đồng lao cộng
tác kiếm tiền rồi mới làm đám cưới. V́ thế, có nhiều
đám cưới người ta thấy có vài ba đứa nhỏ đi dự đám
cưới của cha mẹ chúng.
Đám cưới làm tại
nhà thờ. Lễ cưới có ư dĩễn lại hôn lễ của con gái
thánh Mư-hăm-mách (Mahomet) là Pha-ti-mư (Fatima) với
A-li (Ali). Trong hôn lễ này, thày pô Crù đóng vai
thánh Mư-ha-mách, ông I-mum, ông Ca-tip đóng vai thánh
Ô-bu-ba-ke và thánh Omar (Abou-Bekr,
bố vợ Mahomet, người kế vị sau khi Mahomet
chết. Omar, kế vị Abou-Bekr, người đă
chiếm, Syrie, Ba Tư, Ai Cập, đốt thư viện
Alexandria, thiêu hủy các sách vở trái với giáo lư
đạo Hồi. Tên thánh Omar này làm ta nhớ đến giáo sĩ
Omar, thủ lănh quân Taliban ở A phú Hăn đă phá hủy
các pho tượng Phật và xa hơn trong lịch sử
nước nhà, tướng Omar tức Ô Mă Nhi
bị đức Trần Hưng Đạo giết khi quân
Mông Cổ xâm lăng nước ta), cô dâu đóng vai nàng
Pha-ti-mư, chú rể đóng vai chàng Ali.
Sau khi đă đọc
các kinh bằng tiếng Ả rập, thày I-mum hỏi cô dâu:
- Này Pha-ti-mư, vâng lệnh thánh
Mu-ha-mách, ta hỏi nàng có bằng ḷng lấy A-li không?
- Thưa con bằng ḷng
lắm ạ ! cô dâu trả lời.
- Đây A-li trao cho
con chiếc nhẫn và những tặng vật này ! thày I-mum
tiếp.
- Vâng, thưa con xin
nhận ạ !
Tức th́ hày I-mum
liền nói lớn tiếng cho mọi người nghe :
- Pha-ti-mư đă bằng
ḷng lấy A-li.
Thày cả pô Crù cầm tay chú rể đặt vào tay cô dâu và
đọc kinh rồi truyền cho hai thày phụ dẫn chú rể theo
cô dâu về nhà. Theo tôn giáo hai người đă thành vợ
chồng.
Về nhà người vợ
lại c̣n nhiều thủ tục tôn giáo và tập tục cổ truyền.
Khi trong buồng chỉ c̣n hai vợ chồng, người vợ lấy một
miếng trầu bỏ vào miệng chồng như có ư nói từ nay nàng
sẽ lo liệu đầy đủ sự ăn uống cho chàng và người chồng
lấy vạt áo của ḿnh phủ lên người vợ ngụ ư bảo chàng
sẽ lo bảo vệ nàng cho đến khi đầu bạc răng long.
Một lúc sau, hai
vợ chồng cùng ra ngoài làm lễ tạ thày và người chồng
mới chính thức ra mắt cha mẹ cùng họ hàng nhà vợ. Hai
người nhận được những lời chúc mừng và tặng phẩm của
mọi người. Sau hết mọi người vui vẻ vào tiệc để ăn
mừng mối nhân duyên của hai người.
Đám cưới theo đạo Ba La
Môn.
Tới ngày cưới, nhà trai
làm tiệc lễ cáo tổ tiên, cầu trời chứng giám rồi mời
họ hang ăn uống. Sau đó tất cả đến nhà gái. Đi đầu là
ông mai, tới chàng rể, đàn bà, con gái rồi mới đến đàn
ông, con trai. Đúng giờ mới được vào nhà gái. Mọi
người nhà trai được nhà gái rửa chân rồi mới vào nhà.
Trầu nước xong,
hai ông mai đưa chú rể vào buồng cô dâu. Trong pḥng
kê một cái phản đă ếm bùa chú, cô dâu ngồi sẵn chờ
đợi. Hai ông mai, ông nhà trai đứng phía đông, ông mai
nhà gái đứng phía tây cùng cầm chiếc chiếu đập xuống
phản ba lần rối trải chếc chiếu xuống phản của cặp tân
nhân. Kế đó hai ông mai mỗi ông ôm một chiếc gối ra
hiệu cho cô dâu chú rể ngồi xuống cạnh ông mai của
ḿnh. Lúc đó người nhà đem vào một mâm lễ tơ hồng có
trầu cau, bánh trái, hoa quả và rượu, để vào giữa hai
người rồi mời thày cả vào đốt nến làm đèn bổn mạng,
khấn vái các vị thần thánh cùng ông bà tổ tiên chứng
giám cho hôn lễ này và trịnh trọng lấy một lá trầu xé
làm hai đưa cho mỗi người một nửa. Chàng rể nhận nửa
lá trầu rồi lấy quả cau bửa làm đôi đưa cho cô dâu một
nửa. Kế đó cô dâu lấy một ít vôi bôi vào trầu của chú
rể và của ḿnh rồi cùng ăn.
Thày cả rót rượu
khấn vái, đưa cho cô dâu chú rể cùng uống đoạn lấy
nhẫn để hai người đeo lẫn cho nhau. Lễ xong, chú rể ra
ngoài tiếp khách c̣n cô dâu vẫn ngồi yên trong pḥng.
Sau tiệc, họ
hàng về hết, chú rể mới được vào pḥng cô dâu, mỗi
người nằm một bên phản, mâm lễ tơ hồng với ngọn đèn
sáp để ở giữa không được xê dịch đi. Hai người cứ ở
luôn trong đó ba ngày liền, cùng nằm chung một phản
nhưng chỉ nói chuyện chứ không được làm ǵ khác v́
phản đă có yểm bùa, làm trái đi có tội lớn.
Sau ba ngày, nhà
gái sửa soạn bánh trái hoa quả để vợ chồng về nhà trai
bái biệt cha mẹ cùng biếu quà bánh cho họ hàng. Dịp
này cha mẹ, họ hàng nhà trai cho hai người những tặng
phẩm, tiền bạc, nữ trang, trâu, ngựa mang về nhà vợ
làm của hồi môn. Của hồi môn này rất quan hệ v́ nếu
chàng trai có lười biếng th́ nhà vợ cũng không kêu ca
v́ đă có trâu ngựa làm thay rồi. Nếu không có ǵ mang
về nhà vợ mà lại làm biếng th́ bị bắt lỗi không làm
thịnh vượng cho nhà vợ.
Chế độ Mẫu hệ người
Thượng.
Người
Thượng ở Cao nguyên Trung phần có hai nhóm, một nhóm
theo chế độ mẫu hệ, một nhóm theo chế độ phụ quyền.
Nhóm theo chế độ mẫu hệ gồm các sắc tộc Djarai, Rhadé,
Koho, Maa, Chru, Sré, M’nong… Chế độ mẫu hệ các sắc
dân Cao nguyên cũng giống như người Chàm : con gái đi
cưới con trai, chồng về ở nhà vợ. Đám cưới các sắc dân
theo chế độ mẫu hệ có phần giống nhau.
Đám cưới người Rhadé
(Rađê)
Người con gái lớn lên
lo để ư t́m chồng. Nếu nàng ưng ư cậu trai nào th́ nói
với cha mẹ nhờ mai mối đánh tiếng. Hai bên bằng ḷng
th́ làm lễ hỏi gọi là “trao ṿng”. Nhà gái gởi nhà
trai một chiêc ṿng đồng, nhà trai cũng nhờ bà mối
trao cho nhà gái một chiếc ṿng khác. Sau lễ trao
ṿng, trước đám cưới, người con gái phải đến “làm dâu”
nhà trai năm ba tháng hay một vài năm.
Sau khi “làm
dâu”`xong, người con gái về nhà cha mẹ ḿnh và hôn lễ
bắt đầu. Nhà gái phải nạp đủ đồ sính lễ theo nhà trai
đ̣i như : trâu, ḅ, thanh la, rượu… Lễ cưới tổ chức
trong hai ngày liền. Ngày đầu tại nhà trai khi bên nhà
gái đến rước rể, ngày hôm sau nhà trai kéo sang nhà
gái, mỗi lần như thế nhà trai hay nhà gái đều ngả trâu
ḅ làm tiệc đăi dân làng ăn uống no say.
Sau đám cưới,
đôi vợ chồng không có động pḥng hoa chúc trong nhà mà
đi hưởng tuần trăng mật bên bờ suối. Họ đưa nhau vào
rừng, đến bên bờ suối, t́m một tảng đá lớn bằng phẳng
hay vị trí thuận tiện, lấy lá lót để hợp cẩn gọi là
“bắt cái nước chút chút” rồi xuống suối tắm. Họ ngủ
dưới muôn v́ sao, có mặt trăng soi sáng, đúng với
nghĩa tuần trăng mật. Ban ngày họ về nhà làm công việc
nhà hay nương rẫy, Đêm sau họ lại ra suối hát khúc
t́nh ca : “Suối mơ bên rừng thu vắng, ḍng nước trôi
lững lờ …”.Cứ như thế suốt năm đêm, từ đêm thứ sáu trở
đi họ về ngủ tại nhà nàng.
Trường Ca Đamsan
Trường ca Đamsan của
người Rađê thuộc loại Khan tức là bài hát
thần thoại có bộ điệu. Đây là một bài thơ nói rơ về tổ
chức của xă hội mẫu hệ cùng tục lấy chồng của người
đàn bà Rađê. Tác phẩm vĩ đại này của dân vùng Cao
Nguyên Trung Phần có thể đem so sánh với bất cứ bản
anh hùng ca nào trên thế giới mà không sợ thua kém.
Chúng ta theo
rơi một đoạn của bản trướng ca Đamsan :
Khởi đầu câu
truyện. Nàng H’Ni cất tiếng gọi các anh đang ở ngoài
làng :
- Bớ Y Đinh, Y
Linh, Y Đang, ngoài làng ta hôm nay có cuộc lễ tế sống
một người lạ mặt nào đâu, Các anh Y Su, Y Sa ơi về đây
với em.
Y Đinh
: Có việc ǵ mà em gọi anh về thế ?
H’Ni :
Em gọi các anh về để hỏi các anh một việc không
xa lạ ǵ, em gọi các anh hỏi một chuyện không phải
là đâu đâu, mà là một chuyện rơ ràng ai cũng
biết, sờ sờ như trái núi, một truyện mà nhiều người
đồng ư, đàng đông đàng tây đều nghĩ như vậy. Em nghe
người ta nói gịng họ H’Ni với H’Bi chúng em đông
người lắm, nhiều như lá cây rừng. Nếu đúng thế, tại
sao các em lại phải ở một ḿnh ? Tại sao lại phải sống
cảnh trơ trọi này ? Tại sao chúng em chưa có chồng ?
Y Đinh
: Nếu quả như thế, ḷng em đă rung động v́ ai, ḷng em
đă tơ tưởng tới ai hở H’Ni ?
H’Ni :
Làm sao em biết được hở anh cả của em ? Các anh thương
người nào có lẽ em sẽ yêu người đó, các anh muốn người
nào chắc em cũng muốn lấy người đó, em không muốn căi
lại lời các anh.
Y Đinh
: A, thế th́ hai anh em nhà kia, người anh vẫn mang
giáp sắt, người em hay đeo mộc, Y Quát và Y Muất, xem
ra đường đường là hai tay dũng sĩ, gan dạ, hùng mạnh
hơn người, lại mưu trí đầy đủ, em có yêu hai người đó
chăng ?
H’Ni :
Em ấy à, em không yêu hai người ấy, anh cả à, em không
thích hai người đó, anh cả ạ. Họ là nhà giàu thiếu ǵ
cồng vời chiêng nhưng em nào có ham.
Y Đinh
: Vậy em yêu ai, nếu không bằng ḷng người trai có
giáp sắt, hở em gái của anh ?
H’Ni :
Anh hỏi em yêu ai hở anh cả ? Em yêu người chồng mà bà
nội đă chỉ định, ông nội đă lựa chọn cho em. Từ ngày
bà em, H’Klu mất đi, ông em, tù trưởng Y Kla trông nom
săn sóc em. Em đă thay bà mà lấy ông.
Em làm sao quên
cho được, ông bế em trên đùi, c̣n trên vai th́ cơng
Đamsan. Ông em làm lễ tế trâu đă nguyện rằng : “Ta
không thể ăn đời ở kiếp với cháu ta, ta nào có sống
được măi để chăm nom cháu gái ta. Ta chỉ là một dân
núi rừng già lăo, dốt nát, một viên tù trưởng tới thời
kỳ suy yếu tàn tạ, một cây kèo bị mối ăn gần gẫy”. Ông
em nói với em như thế đấy. “Đến khi hai cháu đây lớn
lên, hai cháu sẽ kết đôi chung sống với nhau, cháu
Đamsan ta đang cơng trên vai đây. Nếu lớn lên Đamsan
đi lấy một người đàn bà khác ở một làng phía tây, một
xóm phía đông nào đó, th́ đời nó chỉ làm một thằng đầy
tớ cho H’Ni, đi quét cứt ngựa, cứt voi cho H’Ni, nếu
nó nhớ lời nguyền này mà cưới H’Ni, cháu ta, nó sẽ trở
nên giàu có, nhà đầy cồng đầy chiêng. C̣n H’Ni, nếu nó
lấy chồng làng đông, xóm tây th́ nó sẽ phải làm con ở
giữ heo, làm kẻ tôi tớ chăn gà cho Đamsan – ông em đă
nói như thế đấy – Nhưng nếu H’Ni lấy Đamsan, nó sẽ trở
nên giàu có, có nhiều cồng, nhiều chiêng”. Đó là những
lời nguyền ước tốt đẹp, ư bà em muốn thế, ông em nhắc
lại, vậy anh cả giúp em đi kiếm Đamsan hỏi xem anh ấy
c̣n nhớ lời ước hẹn thuở nào nữa chăng ? (Trường ca
Đamsan c̣n rất dài, xin xem Việt Nam Văn Học Toàn Thư
của Hoàng Trọng Miên)
Chỉ một đoạn
trên, đă cho biết tục cưới chồng và tục “chuê
nuê” của người Rađê. Tục “chuê nuê” nghĩa là
nối giây. Khi người chồng chết, th́ gia đ́nh người
chết phải chọn người khác thay thế làm chồng hay làm
vợ người c̣n sống, và cứ tiếp tục măi như vậy để cho
gia đ́nh không bị đứt giây, người sống không bị lẻ
đôi. Do đó có khi một đứa bé phải lấy một ông già như
H’Ni trong truyện này, ban đầu lấy cụ Y Kla, rồi sau
lấy Đamsan, đến khi Đamsan chết th́ lấy cháu Đamsan
đang c̣n ngồi trên đùi mẹ. Đây là tục lệ phải
luôn luôn nối tiếp, luôn luôn thay thế người chết để
có con nối dơi, khỏi tuyệt giống.
Trong sử
Tàu người ta đọc thấy ở các dân tộc vùng Trung Á (Tây
Vực) cũng có tục lệ này:
Công chúa nhà Hán
về Hung nô.
Đời Hán Vũ đế Lưu
Triệt (141-87 trCN) đă gả công chúa Tế Quân cho vua
nước Ô Tôn là Côn Mạc, đồ sính lễ là 1000 con ngựa
tốt ( Hán Vũ Đế rất ham giống ngựa Đại uyển của Tây
Vực). Côn Mạc năm đó đă già vào tuổi 70, c̣n Tế Quân
chỉ mới 18, 19 tuổi. Bốn năm sau, Mạc Côn thoái vị
v́ quá già yếu, truyền ngôi cho cháu nội duy nhất là
Sầm Tâu. Theo phong tục người Ô Tôn, Côn Mạc gả hai
bà vợ là Tả phu nhân và Hữu phu nhân lại cho tân
vương. Tế Quân là Hữu Phu nhân, nay trở thành vợ của
người cháu ! Câu truyện chưa hết. Tế Quân chết vào
tuổi 30. Sầm Tâu cho phái đoàn đi báo tang đồng thời
xin Hán Vũ Đế gả cho một công chúa khác, lần này đồ
sính lễ tăng gấp đôi, hai ngàn con ngựa quư và một
vạn dê ḅ. Thế là công chúa Giải Ưu được Hán Vũ Đế
gả cho Sâm Tâu thay thế Tế Quân đă chết !
Giải Ưu lấy Sầm
Tâu được bốn năm th́ Sầm Tâu mất. Trước khi chết, Sầm
Tâu di chúc cho người em con chú tên là Ông Quy Mỵ lên
ngôi. Theo phong tục Ô Tôn th́ các vơ của vua trước
nay thuộc về ông vua đương ngôi. Thế là Giải Ưu công
chúa nhà Hán vợ trước của Sầm Tâu nay trở thành Hữu
Phu Nhân của Ông Quy Mỵ, Giải Ưu có với Ông Quy Mỵ 3
trai 2 gái. Giải Ưu đang mưu tính cho con trai là
Nguyên Quy Mỵ lên kế vị th́ Ông Quy Mỵ lăn đùng ra
chết không kịp di chúc. Triều đ́nh Ô Tôn đưa người con
của Ông Quư Mỵ có với Tả Phu Nhân người Hung Nô là Nê
Mị, khùng khùng điên điên lên làm vua mà người Tàu gọi
là Cuồng vương. Thế là Giải Ưu công chúa đă gần 60
tuổi lại phải lấy cháu, vừa là con ghẻ của ḿnh làm
chồng và bà đă có với Nê My một đứa con trai tên là Xi
Mi. Rồi triều đ́nh Ô Tôn làm đảo chánh đưa Ô Tựu Đồ,
một người con của Ông Quư Mỵ với người vợ Hung Nô lên
làm vua. Theo phong tuc Ô Tôn, Giải Ưu công chúa có
lại phải lấy ông vua con chồng này không? Không thấy
sử viết ǵ về bà công chúa này nữa.
Nhân câu
truyện nhà Hán gả công chúa cho Hung nô cũng cần kể
luôn cả truyện Chiêu Quân cống Hồ nữa cho đủ bộ.
Nàng Chiêu Quân với ông vua Hán Nguyên đế khóc thương
thảm thiêt như thế nào do các văn nhân thi sĩ thêu dệt
không cần bàn tới, chỉ biết rằng Chiêu Quân được gả
cho Thiền vu Hung Nô là Hô Hàn Tà và được phong làm
Hoàng hậu. Chiêu Quân sinh với ông vua này một con
trai nhưng chết non và không may Hô Hàn Tà cũng chết
trong năm đó. Thế là con trai của Hô Hàn Tà là Phúc
Chu Lũy lên ngôi Thiền Vu. Rồi lại cũng theo phong tục
Hung Nô, Chiêu Quân lấy con ghẻ. Chiêu Quân có với
Thiền vu Phúc Chu Lũy hai đứa con gái.
Trong khi các
công chúa Tế Quân, Giải Ưu, Chiêu Quân phải lấy đi lấy
lại nhiều chồng từ cha tới em, tới con, tới cháu, họ
có viết thư cầu vua nhà Hán can thiệp, nhưng chỉ được
trả lời: “Nhập gia tùy tục, xuất giá ṭng phu ”! Cũng
nên biết là không chỉ có 3 công chúa này (đều là công
chúa dởm, phần nhiều là cung phi hay tôn thất được
phong làm công chúa) được gả cho các Thiền vu Hung nô
mà ngay từ thời Hán Cao Tổ Lưu Bang đă gả công chúa
cho vua Hung nô rồi, nhà Hán đă gả tất cả 12 công chúa
cho các Thiền vu, đến nỗi Thiền vu Mao Đốn đ̣i cưới cả
Lữ Hậu vợ Hán Cao Tổ Lưu Bang nữa ! Sau đó nhà Tùy,
nhà Đường đều có gả công chúa cho Hung Nô hay Tây
Tạng. Ở đây chỉ nói đến 3 công chúa v́ họ phải theo
tục Hung nô mà sử Tàu nói đến là lấy cha rồi lấy con,
lấy cháu, giống như tục “chuê nuê” của người Rađê.
Luật Lêvi của
người Do Thái về anh em chồng giống tục “chuê nuê” của
người Rađê: anh em trong nhà đều có vợ có chồng nhưng
chẳng may có một người chết đi mà chưa có con trai nối
dơi tông đường th́ một người anh hay em trai phải lấy
người góa phụ. Đứa con trai đầu tiên sẽ thuộc về người
quá cố và lănh phần gia tài của người quá cố. Luật này
cũng thấy nơi người Assyri và Hittit có mục đích duy
tŕ ṇi giống và của cải của gia đ́nh. (Thánh
Kinh: Gen. 38:1-30. Deu. 25:5-9. Ruth 4:6)
Chế
độ mẫu hệ của bộ tộc Mosuo.
Tại châu Lệ Giang
(Lijian) thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Hoa, có một sắc tộc
tên là Mosuo (Nạp Tây). Tộc này sống ở quanh hồ Lugu,
giáp với Tứ Xuyên và Tây Tạng. Đó là nước của đàn bà,
họ c̣n giữ chế độ mẫu hệ nguyên thủy. Họ không có chế
độ cưới hỏi dù đàn bà cưới đàn ông hay đàn ông cưới
đàn bà. Họ giữ một chế độ gọi là “Du Hôn” (Walking
married), trai gái gặp nhau rồi th́ thôi, coi như
không quan hệ ǵ với nhau cả.
Khi người con
gái đến tuổi 13 hay hơn th́ được có một pḥng riêng
gọi là “pḥng hoa” để tiếp đàn ông. Người mẹ
sẽ dạy cho con gái biết cách thức đối xử với đàn ông,
chiều chuộng, làm t́nh với đàn ông như thế nào. Họ rất
cởi mở không e lệ như người Hán.
Người Mosuo
thích ca hát nhảy múa. Họ có tới gần một trăm vũ điệu
khác nhau. Họ thường tụ tập nhảy múa. Trong những lần
ca hát nhảy múa như thế, trai gái nắm tay nhau cùng
nhảy ṿng ṿng. Cô gái thấy thích chàng trai nào th́
nắm tay nhảy múa và lấy ngón tay bấm vào ḷng bàn tay
chàng trai, có nghiă là pḥng hoa đă mở sẵn mời chàng
vào. Tối hôm đó chàng trai sẽ đến pḥng hoa cô gái. Và
hôm sau chàng sẽ được mời trở lại nếu cô gái thích,
c̣n không, cô gái lại sẽ t́m một anh chàng khác. Đứa
bé sanh ra sẽ không bao giờ biết đích thực cha ḿnh là
ai, nó chỉ biết có mẹ. (Xem phóng sự truyền h́nh
Himalaya của kư gỉa đài BBC Michael Palin)
Bộ
Ba
Ông Táo : Âu Cơ, Lạc Long Quân, Đế Lai.
Truyện
Táo quân có lẽ bắt nguồn từ sự tich bà Âu Cơ lấy Đế
Lai và Lạc Long Quân. Đó là thời kỳ mẫu quyền, đa
phu, một bà hai ông hay hơn. Truyện kể :
Đế Lai là cháu Đế Minh, nhân lúc rănh rỗi, nhớ xưa ông
nội đi xuống phương nam lấy được tiên, nên cũng nổi
máu giang hồ cùng vợ là Âu Cơ “đi tuần thú phương nam”
hay nói theo kiểu bây giờ là “du Giang nam”. Âu Cơ ở
lại cung đ́nh Lạc Long Quân c̣n Đế Lai đi du sơn du
thủy t́m tiên. Lạc Long Quân cũng vừa đi kiếm tiên về
tới. Âu Cơ thấy Lac Long Quân tướng tá bệ vệ uy nghi
đem ḷng hâm mộ nên lấy luôn làm chồng. Thế là bà Âu
Cơ có hai chồng, mà Lạc Long Quân vai vế lại là chú
của Đế Lai. Từ sự tích này, dân gian đă thần thoại hóa
thành bộ ba Táo quân.
Chế độ mẫu hệ thời Hùng Vương được chứng tỏ nơi tích
truyên công chúa Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử, sự tich
Trương chi, Mỵ nương mê tiếng sáo nhưng chê xấu khiến
Trương Chi ôm mối t́nh tuyệt vọng mang xuống tuyền đài
chưa tan. Truyện Sơn Tinh Thủy Tinh, Hùng Vương kén
chồng cho Mỵ Nương…
Chế độ mẫu hệ rất phổ biến ở vùng Dương Tử giang tức
vùng đất Bách Việt như nước Việt, nước Ngô, nước Sở,
Mân Việt, Đông Việt… Tần Thủy Hoàng, theo chế độ phụ
quyền, đánh chiếm Bách Việt, ông này quyết diệt trừ
chế độ mẫu hệ nên ra lệnh bắt tất cả các “rể thừa” tức
các chàng trai ở nhà vợ phải xung vào lính hay đi làm
nô dịch khuân tải quân lương cho 500 ngàn quân đi đánh
Lĩnh Nam.
Trọng Thủy đi ở rể tại Âu Lạc tức Mỵ Châu cưới Trọng
Thủy theo tục mẫu hệ. Khi Hán Vũ đế đánh chiếm nước
Nam Việt th́ dân Lạc Việt cũng bị đô hộ từ đấy. Nhà
Hán cai trị băi bỏ các tập tục cổ truyền của dân Việt
trong đó có cả tập tục mẫu quyền.
Dân Lạc Việt tỏ ra giân dữ phản đối mạnh mẽ bằng việc
khởi nghĩa đánh đuổi quân Tàu dưới sự lănh đạo của Hai
Bà Trưng và sau đó bà Triệu cũng nổi lên chống đối sự
áp đặt chế độ phụ quyền Bắc phương. (Thái tử Lư Hiền
nhà Đường chú thích Hậu Hán Thư của Phạm Việp trong
đoạn viết về Hai Bà Trưng như sau: “Giao Chỉ thái
thú Tô Định dĩ pháp thằng chi, Trắc oán nộ cố phản”.
(Thái thú Giao chỉ là Tô Định dùng luật pháp trói
buộc nên (bà) Trắc tức giận làm phản) chữ pháp dùng ở
đây không nhất định chỉ là “luật lệ” mà có thể hiểu là
về chính trị, luật pháp, kinh tế, văn hóa, phong tục.
Phong tục mẫu quyền của dân Lạc Việt bị Tô Định bắt bỏ
cũng như Tần Thủy Hoàng bắt tù các “rể thừa”, Tô
Định cũng bắt Thi Sách phải bỏ bà Trưng, Thi Sách
chống đối nên Tô Định giết đi. Hai Bà Trưng phẫn nộ
nổi lên đánh đuổi Tô Định được toàn thể dân Lĩnh Nam,
gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Quế Châu và Hải Nam hưởng
ứng, chứng tỏ cả vùng Lĩnh Nam thời đó c̣n chế độ mẫu
quyền).
Nhưng sau đó dân Lạc Việt bị đàn áp dữ dội và bị áp
đặt phải theo chế độ phụ quyền. Sử chép, Thái thú Nhâm
Diên bắt dân ta phải theo giáo hóa Bắc phương, dựng vợ
gả chồng cho dân Việt, có lúc hàng ngàn cặp cùng cưới
tập thể theo nghi thức Tàu. Suốt ngàn năm bị đô hộ,
dân ta đă bỏ chế độ mẫu hệ thay thế bằng chế độ phụ
quyền.
Tuy nhiên, tập tục mẫu hệ vẫn c̣n tiềm ẩn trong dân
gian với tục ở rể. Nhà gái không c̣n bắt rể về ở nhà
vợ như trước th́ bắt chàng trai phải đi ở rể làm công
cho nhà gái hàng năm ba tháng hay hai ba năm trước khi
cho cưới. Tục làm rể đươc miêu tả một cách trào phúng
trong câu ca dao :
Công anh làm rể
chương đài,
Anh
ăn
đă hết mười hai vại cà.
Giếng
đâu
th́ giắt anh ra,
Kẻo
anh
chết khát v́ cà nhà em !
Những tàng tích của chế độ mẫu hệ, của tự do luyến ái
c̣n tiềm ẩn trong dân chúng qua các tục lệ của các đám
Hội ngày Xuân.
Ngày xưa, thuở sơ hoang, mùa đông đă qua, xuân quang
tiếp đến, trai gái nắm tay nhau ra ngoài đồng, băi cỏ,
bờ sông, nơi ngàn hoa đua nở, chim hót líu lo, nắng
xuân rực rỡ, họ ca hát nhảy múa rồi cùng nhau hợp
thân.
Ngày nay, một số sắc tộc như người Mán thường tới
phiên chợ Tết 25 tháng chạp ở xă Tam Lộng, tỉnh Vĩnh
Yên, Bắc Việt để trai gái gặp gỡ nhau, cất tiếng hát
ân t́nh, trao lời hẹn ước. Họ gặp gỡ nhau ở chợ. Họ
đứng túm tụm trên nền chợ, xen lẫn váo các người bán
hàng, họ đứng túm tụm bên bờ ruộng, ven bờ sông, dưới
một vài gốc cây bên chợ : Đây một cặp trai gái đang nỉ
non t́nh tự, kia một chàng trai khẩn khoản biếu một
sơn nữ một món quà kỷ niệm. Mặc cho gió bấc cuối năm
căm căm rét, mặc cho mưa phùn giá lạnh lấm tấm rơi, họ
vẫn đứng ngay giữa trời. Bầu trời đông đối với họ
không ảm đạm, cây cỏ đang đâm chồi nẩy lộc như chào
mừng họ. Đó là phiên chợ cưới nổi tiềng của đồng bào
người Mán.
Tai nhiều làng miền Bắc Việt Nam ngày nay, qua
các lễ Hội Xuân, trai gái ca hát và tự do luyến ái,
vào dịp này, cô gái nào có bầu, cô ấy có quyền bắt anh
chàng nào cô thích phải cưới cô. Nếu chàng nào từ chối
sẽ bị dân làng phạt vạ. Có làng tháo khoán cho trai
gái được tự do luyến ái trong ṿng 3 tháng kể từ mùng
6 tháng 2 tới mùng 6 tháng 5. Cô nào thụ thai trong
thời kỳ này được làng thưởng 3 quan tiền và chàng trai
nào cưới vợ trong dịp này không phải nạp cheo.
Mũ ông Công ông Táo.
Ông Công
là Thổ Công, Ông Táo là Táo Công cũng gọi là Táo Quân.
Lễ vật cúng Táo Quân vào ngày 23 tết bao giờ cũng có
bộ mũ ông Công ông Táo. Người ta đă so sánh mũ ông
Công ông Táo với mũ trên trống đồng th́ thấy rất giống
nhau.
Ở
miền Bắc sau thời kỳ bị cấm, ngày nay người ta lại
phục chế mũ ông Công ống Táo để cúng. So sánh những bộ
phận cơ bản chiếc mũ ông Công ông Táo và phần đầu của
h́nh người trên trống đồng hoàn toàn giống nhau.
Cũng nên biết, h́nh vẽ h́nh người trên trống đồng,
trong ngôn ngữ hội họa gọi là h́nh “cách điệu” và
những h́nh vẽ này cũng như các h́nh trên trống đồng
đều mang tính biểu trưng cao, bởi vậy h́nh đầu rồng và
đầu phượng được vẽ rất lớn và như được mọc trong đầu
h́nh người này. Mũ đầu rồng cho vua đội c̣n mũ đầu
phượng cho các lạc tướng lạc hầu.
So sánh phần đầu của h́nh người trên trống đồng và
chiếc mũ ông Công ông Táo ta thấy rất giống nhau :
- Hai vạch dài ở trên đầu người trên
trống đồng giống hai cánh mũ
- Hai chóp phía sau đầu người trên
trồng đồng giống phần chóp mũ.
- Đặc biệt h́nh đầu rồng là dấu ấn
khẳng định sự liên quan giữa mũ ông Công ông Táo
ngày nay và h́nh trống đồng thời Văn Lang cũng như
Rồng là vật biểu của dân Việt Nam từ xa xưa.
Có thể có khác một vài chi tiết nhưng tất cả những bộ
phận chính trên trống đồng và mũ ông Công ông Táo đều
rất giống nhau. Qua đó chúng ta có thể khẳng định rằng
chiếc mũ ông Công ông Táo c̣n lưu truyền trong dân
gian phản ảnh những nét căn bản chiếc mũ của những nhà
lănh đạo của vương triều Văn Lang.
Kết luận
Ông Công
ông Táo hay Táo Quân tưởng chỉ là một tín ngưỡng có
phần mê tín của dân gian nhưng t́m hiểu kỹ th́ nó hé
lộ ra cả một truyền thống, một khởi nguyên của
dân tộc.
- Gốc tích dân tộc với mẹ Âu Cơ và cha
Lạc Long Quân cùng Đế Lai đă được thần thoại hóa
thành bộ ba ông Công ông Táo.
- Thời sơ khai, dân tộc ta sống dưới
chế độ mẫu quyền. Mẹ Âu Cơ lấy Đế Lai rồi sau đó lấy
Lạc Long Quân. Người đàn bà là chủ gia đ́nh mà đàn
ông chỉ như con bướm qua đường rồi thôi. Bởi vậy mới
thấy Đế Lai ở với Âu Cơ một thời gian rồi “đi t́m
tiên” nơi khác. Lạc Long Quân đến với Âu Cơ có con
cái đùm đề rồi cũng bỏ đi biền biệt. Âu Cơ lo liệu
mọi công việc, nuôi các con và đặt con trưởng làm
vua hiệu Hùng Vuong lập ra nước Văn Lang.
- Vật Tổ Rồng thể hiện rỏ ràng nơi mũ
Táo quân và h́nh trên trống đồng. Trống đồng có từ
thời Hùng Vương. Trống đồng có trước thời Bắc thuộc,
có thể lên đến ngàn năm. Như vậy, chứng tỏ Rồng là
vật linh thiêng của dân Lạc Việt, chẳng phải mượn
của một dân nào khác, mà trái lại chính những dân
tộc ấy mượn cúa dân ta rồi cả vú lấp miệng em tự
nhận là của họ.
- Mũ Táo quân và h́nh trống đồng
cũng chứng tỏ dân ta, các Hùng Vương, các Lạc
tướng Lạc hầu đều có áo măo lễ phục chứ không
đóng khố ở truồng như có dă thuyết nêu ra.
- Bộ ba Âu Cơ, Lạc Long Quân, Đế Lai
được dân chúng thiết lập bàn thờ trong mọi gia đ́nh.
Trong thời kỳ Bắc phương đô hộ bị cấm v́ chính sách
đồng hóa dân tộc ta không muốn dân ta c̣n nhớ nguồn
gốc quốc tổ nên dân chúng đă thần thoại hóa bộ ba
quốc tổ Âu Cơ, Lạc Long Quân, Đế Lai thành bộ ba ông
Công ông Táo để che mắt bọn đô hộ Băc phương.
Chúng ta
tỏ ḷng tôn kính Tổ Tiên qua ông Công ông Táo, đừng
nh́n ông Công ông Táo một cách trào phúng qua h́nh ảnh
Táo quân đội mũ lêch lạc, mặc áo không quần cầm tờ sớ
dài lê thê tấu tŕnh Thượng Đế.
Đông Biên
Nguồn:
http://www.taphopdongtam.org