www.vietnamvanhien.org www.vietnamvanhien.net www.vietnamvanhien.info www.vietnamvanhien.com Truyện Ngắn
thăm mộ ĐIỆP-MỸ-LINH Chuyến xe lửa chạy đến đâu ông
Dư cũng
không biết, vì toa xe bị che
bít bùng và tù
nhân bị nén vào nhau như một
hộp
Sardine....Những người tù trẻ
đứng bên ngoài cố dán
mắt vào những khe hở để phỏng đoán
xem xe đang chạy qua tỉnh nào rồi reo
lên
cho bạn tù trong toa cùng nghe. Ông Dư ngồi trong góc toa xe.
Bất chợt
những người tù đứng vòng
ngoài reo lên: “Nhatrang.
Nhatrang. Mình đang đi ngang Nhatrang.” Ông
Dư vội ghì chặt bao ny-lông
đựng quần áo vào người, lính
quýnh muốn đứng lên để nhìn
lại quê hương; nhưng
sự dồn nén của nhiều người khiến Ông
không đứng lên được. Lòng
Ông quặn đau
theo tiếng bánh sắt nghiến trên đường
rầy. Ông Dư biết thế nào xe cũng sẽ
chạy
ngang nghĩa trang Phật-Giáo. Phần mộ Ba Mẹ
của Ông được chôn tại đó từ bao
đời.
Sau 75, tất cả mộ trong nghĩa trang phải bị
đào lên, dời đi, nếu không, sẽ
bị
san bằng, để “nhà nước” nới rộng quốc lộ.
Bỗng dưng ông Dư nghĩ “cách mạng” kết
tội Ông đúng quá. Quả thật
Ông có tội! Ông Dư có
tội vì không gìn giữ được
quê
Cha và không bảo vệ được vợ con của
Ông! Ý nghĩ mỉa mai cay đắng
này cứ bám
víu, ray rức lòng Ông suốt
mười năm tù ngoài Bắc-Việt. Sau khi ra tù, trên chuyến xe
lửa trở về
Nam, ông Dư được thong dong ngắm nhìn
cảnh vật dọc hai bên đường. Khi xe vừa
qua khỏi hầm Đèo Cả ông Dư cảm thấy
lòng rộn ràng, xao xuyến rất lạ
lùng. Xe qua khỏi đèo Rù-Rì
khi mặt trời vừa ưng
ửng hồng cuối vùng biển xa. Gió
lành lạnh, thơm thơm mùi rong, mằn
mặn mùi
biển. Ông Dư chồm người lên
thành cửa sổ. Trong tầm mắt Ông,
hòn Miếu vẫn im lìm
soi mình trong vùng biển lặng.
Khoảng không gian từ Xóm-Bóng
đến Cầu-Đá trông
êm đềm và tươi thắm biết bao
nhiêu, nhưng sao ông Dư lại cảm thấy
héo hon và tê
tái trong lòng! Vì muốn xua đuổi nỗi buồn, ông
Dư quay
người lại, tính ngồi xuống để khỏi bị ngoại
cảnh chi phối.
Nhưng vừa khi đó ông Dư chợt
nghe văng vẳng
một tổng hợp âm thanh ba bè;
rõ và nổi nhất là giọng nữ
chính: “Ra đi, biết
mặt trùng dương, biết trời mênh
mông, biết đời viễn vong, biết
ta hãi
hùng...” Ông Dư ngạc
nhiên, nhìn quanh toa tàu.
Không ai hát. Không ai
có
radio. Ông Dư lại chồm người lên
thành cửa sổ. Tiếng hát lại
rõ hơn: “Hãy
ghé bến bờ có những xóm
dừa, chiều
nhuộm vàng làn tóc
ngây thơ. Có những núi mờ
đứng mãi ngóng chờ, chờ người về
đầu non trắng xóa. Ánh sáng
chói lòa, hương say kinh kỳ, ai
quay cuồng nhịp đời
dương thế....” Theo tiếng hát,
ông Dư tưởng như Ông thấy được
hình ảnh một
đứa bé gái, tóc kẹp, mặc đồng
phục trắng của trường Võ-Tánh, lung
linh trong
ánh nắng chan hòa trên
vùng quê Mẹ thân yêu. Đứa
bé gái vẫn tiếp tục hát một
trong những bản khó hát nhất của
Phạm-Duy “...Viễn
xứ
ước thề. Phá hết lối về để đẹp
lòng người bước ra đi...” Ông
Dư chợt nhớ
ra, đó là bản Viễn-Du, do Huyền, con
gái lớn của Ông, trình
bày, với vài phân
đoạn có người hát bè phụ, tại
rạp Tân-Tân Nhatrang, vào dịp
Ban Ca Nhạc
Bình-Minh gây quỹ để cứu trợ nạn
nhân bão lụt miền Trung. Và
hình ảnh đứa bé
gái chờn vờn trong nắng trông giống
Huyền quá! Ông Dư chăm chăm nhìn
hình ảnh đứa bé gái,
nhưng trong tâm Ông lại hiện ra quang
cảnh hãi hùng trên bờ biển
Nhatrang vào
những ngày cuối tháng Ba, năm 1975.
Huyền bị thất lạc tại bãi biển Nhatrang khi
gia đình Ông chen chúc, tranh
nhau để lên tàu Hải-Quân, nhưng
bị thiên hạ phía
sau kéo xuống. Sau khi chính quyền Quốc-Gia
rút khỏi
Nhatrang, đích thân ông Dư đi
dọc theo bờ biển Nhatrang, lật xác từng
người để
nhận diện, nhưng cũng vẫn không thấy Huyền.
Không ai biết Huyền thất lạc hay đã
chết. Bao nhiêu năm qua Ông cứ cố nghĩ
rằng Huyền còn sống và đang thất lạc
nơi
phương trời nào đó. Những lúc
mơ thấy con là những lúc vô
tình nghe hoặc nhớ
một đoạn nhạc mà ngày xưa Huyền
thường đàn hoặc hát. Nhưng
hình ảnh hôm nay và
tiếng hát này khiến Ông nghĩ
rằng Huyền không còn nữa! Lòng
buồn quá, ông Dư cố
tập trung tư tưởng để hình ảnh của đứa
bé gái không biến đi và
tiếng hát của nó
cũng sẽ vang mãi trong lòng
Ông. Nghe đứa bé gái cứ hát
tới hát lui đoạn
điệp khúc ông Dư cảm thấy như
có một mãnh lực cực mạnh thôi
thúc khiến Ông muốn
nhảy khỏi xe lửa ngay tức thì để được lăn
tròn trên đất như ngày
nào Ông cùng
các bạn và đám Tây con
tranh nhau trái banh, té lăn
nhào tại sân vận động; để
được bước những bước chân trần, như những
bước chân trần của Mẹ, ngày xưa, nhẹ
nhàng đi quanh khuôn viên
Cấp-Cô-Độc; để được chạy mãi chạy
hoài dọc theo bờ
cát mịn rồi vòng qua Xóm-Mới,
chạy tuốt lên Núi Một, nơi có
di tích cuối cùng
của người Cha; để được đạp xe đạp, vai đeo bao vải
đựng đàn, ghi-đông treo tòn
teng đôi giày đá banh; để
tìm lại Huyền và tiếng hát
xưa... Nếu ở đoạn điệp khúc, tiếng
hát xưa khơi
dậy trong lòng ông Dư những nao nức
bồi hồi, những ước mơ không tưởng thì
ở
phân đoạn cuối, dòng nhạc và
tiếng hát – có bè phụ – trở
nên dịu dàng, thiết tha, khiến
ông Dư
bình tâm trở lại. Và Ông
chua xót nhận thức được rằng trên
vùng đất thân yêu
này Ông không còn ai,
Ông không còn gì!
Có còn chăng là những kỷ niệm
vụn vỡ
nhưng vô cùng sắc bén,
lúc nào chỗi dậy cũng khiến
lòng Ông đau! Suốt khoảng thời gian xe ngừng tại ga
Nhatrang, thấy mấy cô nữ sinh mặc đồng phục
trắng đi xa xa phía ngoài sân
ga,
ông Dư lại nhớ Huyền và những
đêm nàng thức khuya học bài. Ngày xưa đó, mỗi đêm,
sau khi học bài
xong, Huyền thích đàn một bản nhạc
ngắn rồi mới đi ngủ. Để tôn trọng sự
yên
tĩnh của đêm trường, Huyền thường đàn
cao hẳn một bát trình và
không đệm bass,
cho nên tiếng đàn rất dìu dặt,
thánh thót. Huyền thường đàn
những bản rất hợp ý
Ông, nhưng vì ở tù lâu
quá, Ông quên tựa, nay chỉ
còn nhớ bản Emperor. Ông Dư không nhớ trong
họ-hàng-nhà-sư-tổ-âm-nhạc
Strauss ai sáng tác bản Blue Danube
và ai là tác giả
bản Emperor; nhưng ông Dư tự nghĩ, nếu Blue
Danube diễn tả được tất cả sự hùng
vỹ, bao la cùng sự thướt tha, tươi
mát của một dòng sông
thì Emperor dường như
lại gói ghém và chất chứa tất
cả nỗi đớn đau, quằn quại của chính
tác giả. Ông
Dư còn nhớ, ngày đó, sau khi
Huyền tập đàn bản Emperor vài lần,
Huyền cũng có
cùng nhận xét với Ông.
Và Huyền kết luận: “Con
không hiểu tại sao ông Strauss lại
chấm dứt bản nhạc một cách đột ngột như
vậy?
Con nghĩ ông Strauss sáng
tác bản này trong lúc
Ông ấy đau khổ ghê gớm lắm.
Và
note Do cuối cùng là note
Do...tuyệt vọng!” Ông Dư tức cười,
thầm nghĩ, con
nhỏ dùng chữ lạ thiệt, lại còn
nhè nhạc của sư tổ mà đặt là
“note Do tuyệt vọng”.
Thời gian bị tù đày, nửa đêm
thức giấc vì nhớ vợ, thương con, ông
Dư lại nhớ
những đêm khuya nghe Huyền đàn bản
Emperor. Ôi, “note Do tuyệt vọng!”.
Ông Dư
không biết được Strauss tuyệt vọng đến mức
nào khi chấm dứt bản Emperor; nhưng
ông Dư tự hiểu được rằng, thời gian tuyệt
vọng trong chốn lao tù, ông Dư chỉ
muốn được nghe lại Emperor một lần nữa rồi
thôi, rồi...có chết cũng
đành!... Phiêu ngưng kể, rút bao thuốc,
châm một
điếu. Trong khi Phiêu trầm ngâm
nhìn khói thuốc
cuộn tròn, bay cao trong một buổi chiều im
vắng thì Huyền nghĩ ngợi rất nhiều
về hình ảnh đứa bé gái
đã hiện về trong tâm tư ông Dư
lúc xe lửa chạy ngang
Nhatrang. Huyền không ngờ ông Dư cũng
“thấy” được đứa bé gái. Từ mấy mươi
năm
qua Huyền cứ tưởng chỉ một mình nàng
mới “thấy” được nó. Huyền không biết
đứa
bé gái ấy hiện về bao nhiêu
lần trong tâm tưởng của ông Dư; nhưng
Huyền biết
đứa bé gái đó hiện về nhiều
và rất nhiều lần trong tâm thức của
nàng. Khi nào
cũng vậy, mỗi khi “thấy” đứa bé gái
Huyền cũng nghe nó hát những bản xưa
thật
xưa khiến lòng nàng dâng
lên nhiều nỗi luyến thương và tiếc
nhớ. Huyền thương
nó còn hơn thương chính
nàng nữa, chỉ mong nó sẽ ở lại
lâu; nhưng
nó chỉ chờn vờn, khi ẩn khi hiện,
rồi tan
biến! Đôi khi soi gương, Huyền thấy
nó lấp ló phía sau
khuôn mặt của nàng.
Huyền nhìn nó chăm chăm rồi mỉm cười
với nó. Nó hát. Huyền
hát theo. Giọng của
nó trong và cao quá,
“lên” đến “sol” một cách dễ
dàng. Nếu hát theo nó
mà không
phát ra âm thanh thì Huyền vẫn
“lên” được “sol”; nhưng khi hát
thành tiếng thì,
than ôi, chỉ mới đến “mi” là giọng
Huyền khàn lại! Như không muốn thấy
sự thất
vọng trên gương mặt của Huyền, đứa bé
gái biến nhanh, để lại nơi chiếc gương
lớn một khuôn mặt cằn cỗi! Huyền vừa nghĩ đến đây, giọng trầm
trầm
của Phiêu đưa nàng trở về thực tại: - Tội nghiệp Ông Già, em chưa
thấy một
người nào có sức chịu đựng phi
thường như Ông Già. Huyền cảm thấy thật ấm lòng khi nghe
Phiêu
dùng danh từ “Ông Già”.
Ngày xưa chị em nàng thường
dùng danh từ “Ông Già” để
nói về ông Dư những khi không
có sự hiện diện của Ông. - Ba chịu đựng chứ Ba không khuất
phục. - Đúng, Ông Già
không khuất phục. Lúc cùng
ở tù với Ba tại Đồng-Găng, chính mắt
em thấy được điều đó. - Phiêu biết không, chị
còn nhớ, thời tản
cư, chỉ vì sự say mê đối với âm
nhạc và văn chương Pháp, Ông
Già bị kiểm thảo
tư tưởng - Ông Già bảo là
khủng bố tư tưởng và đày đọa tinh
thần - liên miên,
vậy mà Ông Già vẫn không
sợ, cứ sáng tác nhạc và dạy
chị học Pháp-văn. Chỉ tiếc
là Ông Già nghe lời mấy
ông Tàu, bảo “hữu xạ tự nhiên
hương” cho nên không phổ
biến những bản nhạc đó một cách rộng
rãi, quy mô. - Chị quên Má là “con
kỳ đà” của Ba sao! Huyền chợt nghĩ đến “con kỳ đà” của
nàng
rồi cười như mếu. Huyền nhìn ra xa. Những tia nắng
cuối ngày
đã khuất sau những áng mây đậm
màu. Người đốn cây cuối cùng
cũng đã rời xa bìa
rừng, trả lại không gian cô tịch sự
đìu hiu muôn thuở. Quang cảnh này, nếu có
vài vũng nước đọng,
thì sẽ chẳng khác gì buổi
chiều xưa khi ông Dư chợt giật mình
vì tiếng của chú
tài xế xe lam: “ Tới rồi
đó, bác.”
Vừa nói người tài xế xe lam vừa quay
lui nhìn ông Dư, người khách
cuối cùng của
chuyến xe chót. Ông Dư ngập ngừng như
chưa muốn rời xe. Ông Dư đảo mắt nhìn
quanh vùng không gian xa lạ của một
buổi chiều sau cơn mưa. “Tới
là tới đâu vậy, chú em?”
Chú tài
nhăn mặt: “Trời! Bác biểu tui chở
bác về kinh tế Xuân-Hưng thì
đây là Xuân-Hưng
nè.” Chợt nhớ ra người khách
già trông có vẻ như vừa từ
trại cải tạo về,
chú tài xế tiếp: “Chắc
bác đi cải tạo lâu
quá, gia đình bị đuổi đi kinh tế
mới nên bác không biết
nhà, phải không?”
Ông Dư chỉ cười, kẹp cái bao
ny-lông nhỏ vào nách, vừa khom
người rời chỗ vừa
đưa tay sờ túi áo, tính lấy
tiền trả cho chú tài xế. Chú
tài xế bước vội ra
phía sau, đưa tay đỡ ông Dư: “Thôi,
khỏi.
Bác đi cải tạo về, ai nỡ lấy tiền của
bác, tổn thọ chết.” Ông Dư rối
rít
cảm ơn. Chú tài trở về phía
trước, rồ máy xe, “phóng” đi,
không kịp nghĩ rằng
xe chú đang đậu ngay trên vũng
bùn. Ông Dư chậm chạp, tránh
không kịp những vệt
bùn văng tung tóe từ hai bánh
xe sau. Đã quen sống dơ bẩn trong
tù, ông Dư
chẳng cằn nhằn gì cả, chỉ đưa tay phủi
những vết bùn trên mặt. Nhìn những ngọn đèn dầu leo
lét trong mấy
túp lều tranh dọc hai bên đường,
ông Dư do dự, không biết nên
vào nhà nào hỏi
thăm. Vừa khi đó ông Dư nghe tiếng
“bịch, bịch” rồi tiếng xe đạp thắng gấp. Ông
Dư quay nhìn và thấy một đứa
bé trai, trạc tuổi đứa cháu nội của
ông, đang lui
cui lượm mấy khúc củi rồi cột lại sau
yên xe. Ông Dư lên tiếng: “Cháu
ơi! Cháu cho ông hỏi thăm
chút, cháu.”
Cậu bé lễ phép: “Dạ, cụ cần
chi?” Ông
Dư nhìn cậu bé, cười, gây
thiện cảm: “Cháu
biết
gia đình bà Dư từ Nhatrang dời
vào đây sống chỗ nào
không?” Cậu bé dắt
xe đến gần ông Dư hơn: “Có
phải bà Dư có
người con tên Phiêu, vừa cải tạo về
không, cụ?” Từ sau khi bị chuyển ra
Bắc, gia đình ông Dư không đi
thăm nuôi, vì nghèo, ông
Dư không biết được nhiều
tin tức về gia đình. Phiêu được thả
về từ lúc nào ông Dư cũng
chẳng hay, nhưng
nghe nhắc đến Phiêu, ông Dư biết cậu
bé nói đúng nên
đáp: “Ờ, đúng đó, cháu.
Cháu chỉ giùm ông, nhen.”
Đứa bé nhìn ông, ái
ngại: “Từ
đây vô trong ấy xa lắm, ông đi
bộ không nổi đâu. Để cháu chở
ông đi.” Ông Dư vui mừng: “Cháu
giúp giùm ông, làm
phước.” Sau một
thoáng suy nghĩ, cậu bé đáp: “Ý,
mà không
được. Cháu phải chở củi về trước rồi
cháu quay lại đón ông. Nếu
cháu để củi lại
đây, chở ông về nhà ông
thì người ta sẽ lấy củi của cháu;
còn chở cả ông và củi
thì cháu đạp không nổi.”
Ông Dư ngại, nếu vì bất cứ lý
do gì mà cậu bé
không trở lại, làm thế nào
ông có thể tìm ra gia
đình trong đêm tối như thế
này, nên đề nghị: “Để ông
chở, cháu ôm
củi, chịu không?” Cậu bé nhanh
nhẩu: “Dạ,
được.” Ông Dư chợt nhớ lâu
quá không đi xe đạp, nay sức khỏe
yếu, chân đau
vì hậu quả bị cùm lâu
ngày, không biết ông có
thể giữ thăng bằng được hay không
nên đề nghị: “Cháu
để ông đạp thử một
vòng quanh đây xem ông
còn nhớ cách đi xe đạp hay
không, rồi ông chở cháu,
nhen?” Cậu bé vùng vằng, lắc
đầu: “Ý,
không
được đâu. Rủi ông đạp đi luôn
rồi cháu làm sao?” Ông
Dư nhìn cậu bé.
Ông không cảm thấy tự ái bị tổn
thương mà ông chỉ thấy tội nghiệp cho
đứa bé
không có tuổi thơ. Xã hội
đã hun đúc trong lòng đứa
bé những gian manh, dối
trá, quỷ quyệt và nghi ngờ.
Ông thở dài. *
* * Cả nhà đang ngồi trên manh
chiếu, chia
nhau nồi bo bo và củ mì, chợt ngưng
lại vì nghe tiếng nói chuyện rầm
rì ngoài
sân. Phiêu nhíu mày,
không hiểu ai lại vào khu vực
này khi trời tối như thế
này. Phiêu nhìn ra sân,
thấy chú bé đạp xe đi và một
người đàn ông gầy gò tần
ngần trước sân. Trong khi ông Dư còn đang ngỡ
ngàng thì
Phiêu “phóng” nhanh ra sân, reo
lên: “Ba!
Ba!
Trời, Má ơi, Ba về.” Mọi người -
và chú chó Tôtô
mà trước khi đi tù,
ông Dư “lượm” về nuôi từ ngày
chú còn bé tý teo, bị
vất bên đường - vây quanh
ông Dư trong khi bà Dư chậm chạp bước
ra, nheo nheo mắt nhìn, như không tin
người đàn ông này là
ông Dư. Ông Dư bước đến bên
bà: “Sao? Mắt bà cũng còn cận
nặng vậy sao?” Bà Dư không
đáp lời ông.
Bà quay tìm cu Út: “Cu Út
đâu? Sao không
tới mừng Ba?” Cu Út cũng không
nhìn ra ông Dư nên ngại
ngùng núp phía sau
Phiêu. Phiêu đẩy cu Út
và các con của chàng về
phía ông Dư. Ông Dư ôm,
hôn cu
Út và mấy đứa cháu nội trong
khi bà Dư lấy ống tay áo quẹt nước
mắt. Bất chợt ông Dư cảm biết như
thiêu thiếu
một cái gì nên dừng lại, ngẫng
lên, nhìn quanh. Mọi người im lặng.
Giây phút
vui mừng đột ngột dừng lại. Ông Dư
nghiêm giọng: “Trúc-Uyên với
Mai-Trâm đâu?” Không ai
dám trả lời. Ông Dư nhíu
mày, nhìn quanh một vòng nữa
rồi Ông im lặng rẽ đám đông, đi
vào nhà. Mọi người theo Ông, nhưng không
ai dám gây
tiếng động. Ông Dư nhìn quanh
nhà, chỉ thấy vài manh chiếu, mền
và manh chiếu
giữa nhà còn lỡ dỡ bữa ăn chiều. Mắt
ông Dư dừng lại nơi tấm vải dài, che
từ
nóc nhà đến gần mặt đất. Sau một
thoáng do dự, ông Dư đi thẳng đến,
vén tấm màn
lên. Ông Dư nhìn thẳng vào
hai bức ảnh của
Mai-Trâm và Trúc-Uyên
trên bàn thờ một chốc rồi ông
lẵng lặng thắp nhang cắm
vào lon sữa bò đựng cát, thế
cho lư hương. Như không thể chịu đựng thêm
được nữa, bà
Dư quỵ xuống. Phiêu đỡ bà Dư
và ra dấu cho Bà cố nén tiếng
nấc. Không ai biết
ông Dư nghĩ gì. Không ai
có đồng hồ để lượng định được thời gian
ông Dư ngồi
yên lặng trước bàn thờ của hai đứa
con mà khi ông đi tù
thì hai đứa chỉ mới
bước vào tuổi dậy thì! Khi quay lại, thấy mọi người ủ rũ
nhìn
Ông, Ông nhìn bữa ăn chiều vẫn
còn trên manh chiếu, bảo: “Bà với mấy đứa ăn đi rồi tắt
đèn đi ngủ cho đỡ hao dầu.” Bà
Dư
nhìn Ông: “Ông
cũng ăn vài hột dằn bụng
rồi đi nghỉ”. Ông Dư lắc đầu: “Bà ăn
để cho con cháu chúng nó
ăn. Tôi no rồi.” Quay sang
Phiêu, ông hỏi: “Con
có thuốc, cho Ba một điếu.” Nhận điếu thuốc mồi sẵn và mớ thuốc
rê với
vài tờ giấy quyến từ tay Phiêu,
ông Dư bước ra sân. Bà Dư lại
sụt sùi. Phiêu im
lặng, thở dài. Cá tính của
ông Dư vẫn vậy, khi nào có
điều chi đau đớn trong
lòng, ông Dư muốn được lặng lẽ một
mình với điếu thuốc. Thường thường
không ai
dám đến phá rầy Ông, nhưng tối
đó, chú chó Tôtô
lặng lẽ bước theo Ông. Ông Dư ngồi thu hai chân
trên đống củi.
Tôtô cũng leo lên, nằm cạnh,
gác đầu lên chân của Ông.
Ông Dư cứ nhíu mày nhìn
đăm đăm vào bóng đêm nhưng
Ông không tự biết Ông nghĩ
gì, vì khối óc linh hoạt
của Ông gần như tê dại. Khuya lắm, sương xuống nhiều. Ông Dư
ngồi
xếp bằng. Tôtô cảm thấy lạnh nên
cuộn chân sát hơn nữa vào
chân ông Dư. Lúc này
ông Dư mới nhận ra sự có mặt của
Tôtô. Ông vuốt ve sóng
lưng gầy gò của Tôtô.
Bộ lông thưa thớt trên làn da
nham nhám của Tôtô tạo nguồn
hơi ấm nơi lòng bàn
tay ông Dư, đồng thời cũng đem đến cho
ông Dư cảm giác nhờn nhợn, khó
chịu, vì
một sự việc không thể nào Ông
quên được. Sự việc đó xảy ra vào một
đêm khuya tại
phòng biệt giam. Ông Dư không nhớ Ông bị
biệt giam vì tội
gì mà Ông chỉ nhớ sự đau nhức
râm rang của vết thương nơi chân phải,
chỗ bị cọ
xác với còng sắt, và
mùi tanh tanh do máu và mủ
tươm ra. Chính mùi tanh của máu
và mủ đã quyến rũ
mấy chú chuột. Nhiều đêm ông Dư
giật mình thức giấc vì bị chuột khới
nơi vết
thương. Ông chỉ cần lay nhẹ bàn
chân là mấy chú chuột sợ, chạy
mất. Nhưng đôi
khi, gặp chú chuột lớn, chú chỉ
ngưng hành động trong giây
lát, dương mắt nhìn ông
Dư, chứ chú không sợ, ông Dư
phải ngồi dậy, đuổi đi. Đêm đó trăng sáng, rọi
qua ô cửa sổ nhỏ,
tít trên cao. Ông Dư nghi mấy
chú chuột chui vào “phòng”
của Ông bằng lối này,
lối duy nhất để người tù có
chút dưỡng khí, khỏi chết ngộp.
Ông Dư chợt thức giấc
vì bị đau thốn nơi vết thương. Ông
thấy một chú chuột thật lớn đang “say sưa”
khới vết thương của Ông. Trong trí
Ông chợt thoáng lên ý
nghĩ táo bạo. Ông cố
giữ đôi chân thật yên để
chú chuột khỏi đề phòng. Ông
nhẹ nhàng và từ từ ngồi
dậy, đưa hai bàn tay mở rộng rồi đột ngột
chụp xuống ngay chú chuột. Chú chuột
vùng vẫy trong tay Ông. Ông vặn
cổ chú chuột. Bụng Ông cồn cào
như cơn đói vừa
bị đánh thức. Ông loay hoay
tìm cách để ăn thịt chú chuột
nhưng không biết làm
thế nào để lột lớp lông dày
đặc. Sau một lúc suy nghĩ, ông Dư
đành gói chú
chuột vào mớ quần áo của Ông.
Hôm sau, ông Dư dỡ lớp quần
áo ra thăm
chừng xem thân chú chuột sình
lên chưa để Ông nhổ lông hoặc
lột da. Nhưng thân
chú chuột vẫn chưa sình. Hôm sau nữa, Ông Dư vui mừng
khi mũi của
Ông nhận biết được mùi hôi
hôi bốc lên. Ông Dư lấy
xác chú chuột ra, xé lớp da
nơi bụng của chú chuột, gạt đùm ruột
sang một bên, rồi Ông nhanh nhẹn lột
hết
da nơi phần lưng. Ông khới từng tý
từng tý để nước nhờn khỏi nhểu lên
người
Ông. Ông biết, thịt của chú
chuột không những chỉ ươn mà
còn thối nữa, nhưng
Ông vẫn ăn, vì đói. Ông
ăn hết thịt, chừa lại bộ lông, ruột,
cái đầu, xương và
bốn chân. Trong khi Ông Dư chưa biết
phải chôn dấu những vật phế thải này
vào
đâu để khỏi bị ban quản giáo kết tội
thì Ông bị nôn mửa và
đại tiện liên miên
ngay chỗ nằm... ...Phiêu ngưng kể, vất tàn
thuốc xuống đất
rồi dí chiếc dép lên. Huyền thở dài, nhìn
mông ra khu rừng vắng.
Huyền tưởng như nàng có thể thấy
được những sợi tóc bạc lất phất trên
vầng trán
rộng, đầy nếp nhăn, của ông Dư. Hình
ảnh này gợi nơi lòng nàng
khối tình cảm
vừa thiết tha vừa tiếc nhớ mỗi khi nàng
lái xe trên đường Bellaire. Từ trạm xe buýt, trên đường
Bellaire,
không biết bao nhiêu lần ông Dư
đã đón chuyến xe buýt số 2 để
xuống phố. Khi
chiếc buýt ngừng lại trên đường
Fannin, ông Dư thong thả rời xe buýt,
đi vào sở
làm. Dù đã ngoài 70
tuổi, nhưng vì tinh thần tự lập cao,
và cũng vì không muốn
Huyền phải bận tâm, ông Dư vẫn xin
việc làm bán thời gian tại cơ quan
ICC cho
đến khi hội đủ điều kiện được hưởng trợ cấp của
chính phủ. Nhớ đến đây Huyền lại thở dài,
xoay sang
Phiêu: - Cuối cùng Ba có biết
nguyên nhân cái
chết của Trúc-Uyên và
Mai-Trâm không? - Không. Huyền lập lại một cách ngạc
nhiên: “Không?”
Phiêu đáp: - Dạ, vì không bao giờ Ba hỏi
và không ai
trong gia đình muốn nhắc lại chuyện đau
lòng ấy nữa. Huyền im lặng. Nhưng trong tâm
nàng lại
văng vẳng tiếng của ông Dư, rõ
ràng và mạch lạc như ngày
nào Ông và bà Dư
còn
sống trên đường Bellaire, mỗi khi Huyền hỏi
Ông về những chuyện buồn xưa: “Thôi,
con, những chuyện đó đã qua rồi,
con
biết để làm gì. Con đọc kinh
Bác Nhã, con hiểu. Cuộc đời
này đâu có gì
là thật
và cũng không có gì
là vĩnh cữu. Vì vậy, nếu con lỡ biết
được phần nào những thảm cảnh trong gia
đình thì con hãy cố
quên đi để mà sống.”
Nửa đùa nửa thật Huyền hỏi: “Mà Ba
có
quên được không?” Ông Dư
cười: “Quên
chứ.
Ba quên tuốt luốt hết rồi.” Ông Dư nói như vậy để Huyền
yên lòng chứ
làm thế nào Ông có thể
quên được những tháng năm dài
khổ nạn. Trong đoạn đường khổ nạn đó, thỉnh
thoảng
ông Dư cũng tìm được những niềm vui
nho nhỏ. Đó là những lúc mấy
chú cán bộ lén
cấp trên, ra sau nhà tiêu, nơi
ông Dư cùng đội rau cải canh
tác, nhờ Ông dạy
nhạc, vào những hôm mấy chú ấy
được nghỉ. Ông Dư không thể hiểu,
ngày xưa, tại
Weimar, sư-tổ-âm-nhạc-và-piano, Franz
Liszt, cảm thấy như thế nào mỗi khi Liszt
dạy nhạc không nhận học phí; nhưng
ông Dư tự biết rằng Ông rất vui
và cảm thấy
ấm lòng khi truyền lại cho những cán
bộ trẻ thiếu may mắn này chút tinh
hoa mà
Ông hấp thụ được từ xã hội văn minh.
Những lúc Ông Dư dạy nhạc
lén lút như vậy,
có chú cán bộ giấu trong
người khi thì củ khoai, khi trái
bắp, khi thì miếng
cơm cháy, đem biếu để ông Dư “bồi
dưỡng”. Dù đói và rất
thèm ăn, nhưng lúc nào
ông Dư cũng cố nhịn, để dạy cho mấy
chú xong rồi mới ăn. Khi nào ăn được những món
quà của mấy chú
cán bộ ông Dư cũng bùi
ngùi nghĩ đến Phiêu, nghĩ đến thời
gian Ông và Phiêu
cùng bị tù chung, nhưng khác
đội, tại trại tù Đồng-Găng. Thời gian đó Phiêu thường nhịn
bớt phần ăn
của Phiêu để sáng sáng, khi
cùng các bạn tù đi lao động,
ngang đội rau cải,
Phiêu lén cán bộ, gọi khẽ “Ba”.
Ông
Dư ngẫng lên. Phiêu vội vất ngay phần
ăn về phía ông Dư. Mấy lần đầu,
vì mắt
kém, ông Dư không thấy được cho
nên mấy người tù già
cùng đội với Ông tranh
nhau lượm, phủi sạch đất rồi ăn. Sau vài
lần như vậy, ông Dư hiểu, cho nên, gần
đến giờ đoàn tù trẻ sắp đi ngang,
ông Dư thường tìm mọi cách
và mọi lý do để
đến gần hàng rào. Nhờ vậy Ông
nhận quà của Phiêu đều đặn hơn. Trong những món quà của
Phiêu, ông Dư nhớ
mãi vắt cơm cháy khô cứng,
Ông phải ngậm một lúc cho dịch vị
thấm vào cơm, làm
mềm cơm rồi Ông mới khới từ từ, vì
hai hàm răng của Ông đã lung
lay. Khi Ông
khới đến lần thứ ba thì lạ chưa! Ở giữa vắt
cơm có vật gì thơm thơm, beo
béo.
Ông run run bẻ vắt cơm ra và thấy một
phần tư của một khúc lạp xưởng ngắn bằng
lóng tay. Ý nghĩ thoáng qua
rất nhanh, bao nhiêu lạp xưởng mà chỉ
ăn với một
vắt cơm thì uổng quá. Ông cắn
một tý lạp xưởng, nhai với cơm cháy
rồi cẩn thận
đưa lưỡi đẩy miếng lạp xưởng tí tẹo ấy sang
một bên, ngoài hai hàm răng,
để khi
Ông nuốt cơm thì chỉ có cơm
trôi vào dạ dày, còn
rẻo lạp xưởng “ở lại” cho
miếng cơm sau và miếng cơm sau nữa. Ăn hết
phần cơm cháy, ông Dư hái
lá rau
lang, gói phần lạp xưởng còn lại,
cho vào túi, để trưa và chiều
cũng sẽ “áp dụng”
cách ăn “nghiêm túc” như vậy. Trải qua giai đoạn dài đói
khát kinh khủng
như vậy, nhưng khi đến Mỹ theo diện O.D.P.
ông Dư lại không tha thiết mấy với
thức ăn mà Ông lại trân
quý những tờ giấy quảng cáo
dày, láng, in một mặt. Ông
nhặt tất cả những tờ ấy, cất vào một
thùng giấy. Bất ngờ Huyền “khám
phá” ra
thùng giấy quảng cáo, Huyền vừa
thương vừa buồn, khuân thùng giấy bỏ
vào thùng
rác trong chung cư. Ông Dư
nhìn theo, lòng tiếc hùi hụi
nhưng chỉ giám trách
nhẹ: “Giấy
tốt quá, để Ba viết nháp, con
liệng làm chi uổng vậy, con!” Sau khi
Huyền đem đến cho Ông mấy bao giấy
trắng mua từ Office Depot, Ông Dư ve vuốt
những hàng chữ Papier de qualité
supérieure à usages multiples,
lòng cảm thấy vừa
thân thiết vừa gần gủi. Huyền xé bao
giấy, lấy một xấp để lên bàn: “Giấy
đây, Ba tha hồ viết; viết nháp,
viết
thật gì cũng được.” Ông Dư lại
tần ngần, ai nỡ viết nháp trên những
tờ giấy
trắng phau như vậy chứ! Nhìn những tờ giấy trắng, Bà
Dư chíp
miệng: “Xứ
này sao mà giàu sang
quá mứt;
còn xứ mình sao nghèo ‘mạc
rệp’, cơm không có mà ăn!”
Ông Dư nhìn bà Dư: “Trước 75
bên mình đâu có tệ như
vậy, bà.
Bởi vậy, khi đợi máy bay tại
Tân-Sơn-Nhất tôi đã dặn
lòng là sẽ không bao giờ
trở lại nơi đã đày đọa con người
ngang với thú vật.” Giọng bà
Dư buồn buồn:
“Ông
thì vậy, còn tôi, sống
thì không về
chứ chết tôi phải về.” Huyền
không hiểu: “Má nói như vậy nghĩa
là sao?” Bà Dư cười cười: “Nghĩa
là sau khi chết Má muốn được
chôn tại
Việt-Nam chứ Má không muốn
chôn ở đây.” Ông Dư xen
vào: “Bà...
sao! Không dưng lại đem chuyện chết
chóc ra nói, làm con
nó lo. Bà cứ an tâm sống
cái đã, khi nào đến
đó rồi tính.”
Bà Dư nguýt ông Dư: “Ông
nói hay dữ!
Tới đó mình nằm ‘ngay đơ’ rồi,
làm sao mà tính?” Huyền
nhìn bà Dư: “Như vậy
nghĩa là Má không nói
đùa?” Bà
Dư nghiêm giọng: “Đùa
sao được mà đùa,
con. Tiện đây, Má yêu cầu con
như vậy, con nghĩ sao?” Huyền lúng
túng: “Con nghĩ
Má nên nghe lời Ba. Trời cho
ngày
nào, Ba Má cứ an vui ngày
đó. Còn chuyện kia tính
sau.” Bà Dư cương quyết: “Má
muốn tính ngay bây giờ cho
Má yên lòng.”
Ông Dư nhìn Huyền với vẻ lo ngại,
vì Ông hiểu, chuyên chở quan
tài từ Hoa-Kỳ về
Việt-Nam không phải là điều dễ giải
quyết. Huyền cúi xuống, tránh
ánh mắt của
ông Dư. Một lúc sau Huyền hỏi: “Má
xác
định lại cho con một lần nữa là: sau khi
Má mãn phần, Má muốn được
chôn cất tại
Mỹ hay Việt-Nam?” Giọng bà Dư rất
bình thản: “Má muốn được chôn
cất tại Việt-Nam.” Huyền lại hỏi: “Má
muốn như vậy thì con và các
cháu sẽ lo
cho Má.” Bà Dư vui, nắm tay
Huyền lắc mạnh: “Con hứa với Má, nghen, con.” Huyền
gật đầu, đáp, giọng buồn buồn: “Dạ, con
hứa.” Nói
xong tự dưng Huyền cảm thấy buồn quá,
vì
nàng chợt ý thức được rằng ông
bà Dư quả thật không còn trẻ
nữa. Sau khi nén
tiếng thở dài, Huyền tiếp: “Mà
Má muốn
quan tài của Má đưa về tỉnh
nào?” Bà Dư ngạc nhiên:
“Thì về kinh tế mới
Xuân-Hưng chứ về đâu, con?” Huyền
kinh ngạc: “Kinh
tế mới Xuân-Hưng? Tại sao Huế, quê
Ngoại và cũng là nơi Má
được sinh ra, Má không về? Dalat,
nơi Má lớn lên, Má
không về? Nhatrang, quê Nội,
Má không về mà lại
đòi về Xuân-Hưng, nơi nghèo
khổ
cùng cực, nơi Má và
các em phải sống những tháng
ngày khốn khó, nơi chôn dấu
nhiều kỷ niệm buồn thảm nhất của gia đình
mình?” Bà Dư cười xuề
xòa: “Má
biết, xã Xuân-Hưng nghèo,
những ngày cơ
cực và buồn khổ tại Xuân-Hưng
không bao giờ Má quên. Nhưng
người dân ở
Xuân-Hưng có tình lắm, con.
Những người đầu tiên đến Xuân-Hưng là những người
cùng giai tầng xã hội với
mình ngày xưa, rồi
cũng bị đày ải như mình cho
nên họ cảm thương và giúp
đỡ, đùm bọc nhau. Con thử
tưởng tượng, vào một buổi chiều chạng
vạng của năm 1976, Má và mấy em
gái rời
chiếc xe đò cuối cùng, từ Nhatrang
vào, đang
đứng tần ngần trước khung cảnh u tịch, lạ
huơ lạ hoắc, chưa biết phải
ngủ nhờ nơi đâu thì nhiều người
xuất hiện, đon đả ‘Mới hả? Vô đây,
vô đây. Vô
kiếm chút gì ăn tạm rồi tìm
chỗ ngủ, mai tính.’ Sau đó, họ
thấy nhà không có
con trai, không có đàn
ông nên họ phụ nhau giúp
Má che được cái...chòi.
Đó, con
thấy, ở đời, quý nhau là
quý cái tình, quý
tấm lòng. Má chỉ có hai
điều ước
nguyện. Thứ nhất, nếu Má có tiền,
Má sẽ giúp tất cả những người ở
Xuân-Hưng;
thứ hai, khi Má chết, Má được
chôn cạnh những người cùng cảnh
ngộ, cùng có
những tấm lòng mà tiền của mua
không được.” Ước nguyện của bà Dư là như
vậy. Nhưng khi
quan tài của Bà đưa về đến
Xuân-Hưng thì sự việc xảy ra
ngoài dự tưởng của cả
ông Dư và Phiêu. Ngoài những người ngày xưa
quen biết đến
viếng linh cữu của bà Dư, Phiêu
còn thấy vô số người đứng quanh
nhà, hết nhóm
này đến nhóm khác, ai cũng
trầm trồ về chiếc quan tài đẹp đẽ mà
họ chưa bao giờ
thấy. Vài người thân với Phiêu,
đưa Phiêu ra ngoài, khuyên
Phiêu phải cẩn thận
vì rất nhiều đám tang Việt-Kiều, sau
khi chôn, mộ bị đào lên,
xác vất cạnh mộ
còn quan tài và quần
áo tẩm liệm...biến mất. Sau khi hội ý với gia đình,
đến ngày an
táng bà Dư, Phiêu quyết định
thuê người đổ một lớp xi-măng thật
dày ngay trên
nắp và chung quanh quan tài của
bà Dư! Tuy đã đồng ý với giải
pháp này lúc gia
đình bàn tính, nhưng khi thấy
quan tài của bà Dư bị khuất dần dưới
lớp xi-măng,
ông Dư chịu không được, bật
khóc, nói với Phiêu: “Má con là một con
cá Hồi khốn
khổ!” Ngưng một chốc, Ông tiếp: “Con
đừng nên cho chị con biết gì về sự
việc này, chị con buồn, tội nghiệp”. Trong khi ông Dư và
Phiêu còn bị xúc động
mạnh về phần việc an táng cho bà Dư
thì một người đàn ông gầy
gò từ đâu bước
nhanh đến, quỳ ngay trước mặt ông Dư rồi sụp
xuống...lạy! Phiêu giật mình khi
nhận ra người đàn ông đó
là Sơn, một cựu chiến binh của sư
đoàn Sao Vàng. Lúc mới cùng thằng cu Toản từ
Bắc vào
Xuân-Hưng tìm kế sinh nhai, Sơn nhận
ra ngay sự thiếu hiện cảm của mọi người,
nhất là những gia đình có
chồng, cha, hoặc con bị tù đày.
Có thể nói, không ai
muốn kết bạn với Sơn, nhưng những chi tiết về đời
tư của Sơn lại được nhiều
người truyền miệng. Do đó Phiêu biết
Sơn chứ không quen. Phiêu ngăn, không cho Sơn lạy,
rồi nhẹ
nhàng kéo Sơn đi: “Đi ra
đây.”
Sơn không hề kháng cự.
Vừa bước theo
Phiêu Sơn vừa xoay lại phía ông
Dư, lập đi lập lại: “Ông ơi! Xin Ông thứ lỗi cho
con. Xin Ông giúp con...” Phiêu
kéo Sơn ra khỏi những người dự đám
tang
và xa nhóm người tò
mò: “Tại
sao anh làm
như vậy?Anh có biết hôm nay
là ngày trọng đại nhất trong gia
đình tôi hay
không?” Sơn chắp tay như muốn lạy: “Bẩm
quan, con biết. Xin quan tha tội cho con.” Phiêu
đưa tay ngăn Sơn: “Khổ
quá! Giờ này mà quan với
quyền! Thôi,
anh đi về đi.” Sơn lại sụp lạy: “Xin quan
giúp cho thằng con của con, quan ơi!” Phiêu
ngạc nhiên: “Con của anh
cần gì?” Sơn gục xuống đất,
gào lên: “Con của con
nó chết rồi, quan
ơi!” Phiêu giật mình: “Tại sao
vậy?Hồi nào?” Sơn kêu
khóc thảm thiết: “Nó
chết mấy hôm nay rồi, quan ơi! Lúc
nó ốm, con tìm quan để xin thuốc,
vì nhiều
người bảo quan có thân nhân ở
nước ngoài gửi quà về thường
xuyên. Nhưng không
may cho con, mấy hôm đó quan phải
vào Saigon đón quan tài của
cụ Bà. Mấy hôm
nay nhà quan lại có đám
tang nên con không dám đến.
Nhưng hôm nay, con đánh
liều, vì con không có tiền
chôn cất nó mà cũng
không có tiền cho Mẹ và
các em
nó từ Bắc vào nhìn mặt
nó lần cuối...” Phiêu đỡ Sơn
đứng lên: “Anh
bình tĩnh. Mình là
đàn ông. Anh ở đây
chờ tôi. Tôi sẽ trở lại”. Sau khi nghe Phiêu trình
bày ngắn gọn sự
việc, ông Dư
kín đáo trao cho Phiêu
một
số tiền kha khá để biếu Sơn. Phiêu kể đến đây, Huyền lại thở
dài và
thoáng thấy hình dáng gầy
guộc của ông Dư hiện về trên con đường
mòn giữa hai
rẫy bắp: - Ông Già tạo được nghiệp tốt. Phiêu mỉm nụ cười đầy cay đắng: - Ông Già tạo nghiệp tốt
mà Ông Già nhận
được quả ung không hà. - Phiêu nói gì vậy? - Chị nhớ, sau đám tang Má,
sức khỏe của
Ba sa sút, Ba không thể ngồi
lâu trên máy bay nên Ba
không trở qua Mỹ được.
Đúng không? Huyền gật đầu. Phiêu tiếp: - Vậy là Ông Già bị
công an “xúc” về tội
cư trú bất hợp pháp. Ông
Già phải “xì” ra mấy “ông
Jackson” thì mới yên. Huyền tròn mắt nhìn
Phiêu. Phiêu cười
khẩy, tiếp: - Nhưng đến khi Ông Già mất,
cũng chính
bọn công an đó đến thắp nhang, khấn
lạy để được một chầu ăn nhậu. Huyền giật mình: - Tôi đã điện thoại về, dặn
cậu là chỉ
cúng chay thôi mà. Phiêu cười ngất: - Bên ngoài ai biết được điều
đó. Cứ thấy
đám tang Việt-Kiều là nghĩ có
thức ăn sang cho nên “cha con nó” mới
tới. Đến
khi thấy thức ăn chỉ toàn cơm chay
và trái cây thì “cha
con nó” chửi thề, bỏ
đi. Huyền chán nản lắc đầu, tay
vân vê phiến
đá mài trên thành mộ
của ông Dư, mắt nhìn về phía
quê Nội xa xăm. Trong bóng hoàng hôn u
tịch Huyền lại thấy
hình ảnh đứa bé gái chờn vờn.
Cùng lúc ấy, từ tâm thức của
Huyền, tiếng hát xưa
vọng về: ... Chiều
đến
đìu hiu mang cả niềm thương nhớ, Sương
mờ thoáng rơi trên đồi Thu trầm mơ. Ly
hương, kiếp tha phương nhuộm vết tang bồng. Chiều
nay tôi thấy thoáng bóng mờ
mờ trắng, đi
ngoài xa xa, Lòng
bâng khuâng tôi nhớ đến người
Mẹ già miền Nam, ôi xót xa! Tủi
thân người lữ thứ ôm mối sầu ly
hương. Đến
đây một chiều Thu sương Thu buồn ôm
khói trắng. Mòn
mỏi dừng chân sau những ngày mưa
gió. Phong
trần xóa tan chuỗi ngày xanh đời
tôi Nghe
chăng, tiếng thiết tha buồn nhớ quê
nhà!... Một lúc lâu lắm Huyền mới nhận
ra, đó là
bản Bến-Thu mà ông Dư, biệt hiệu
Điệp-Linh, đã sáng tác trong
thời gian tản cư!
Thời đó, Ông Dư bị Việt-Minh
tẩy não từng
đêm vì tinh thần ủy mị và tư
tưởng lãng mạn; vậy mà ông Dư
cũng không sợ, vẫn
gửi về Mẹ và quê hương tất cả
tình thương yêu nồng nàn
và tha thiết nhất của
Ông. Còn Huyền, chỉ vì chút
định kiến nhỏ nhoi
về chính trị mà Huyền đã
đành đoạn không tiễn đưa di
hài của Mẹ về và cũng
không về quê nhìn mặt Cha lần
cuối! Ý nghĩ này khiến Huyền
ân hận ngập lòng,
rồi nước mắt lặng lẽ rơi. Huyền cúi mặt,
từng giọt nước mắt ăn năn thấm xuống
mộ phần người Cha khổ hạnh! ĐIỆP-MỸ-LINH Nhóm mạng Việt
Nam Văn Hiến
Trang: Thăm Mộ www.vietnamvanhien.net www.vietnamvanhien.org www.vietnamvanhien.info www.vietnamvanhien.com Email: thuky@vietnamvanhien.net
Lấy Tâm Lực thay cho vũ lực để giải trừ quốc nạn là phục hoạt nếp sống Văn Hiến và phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc. |