Trang
mạng
Thiền
Quán
www.thienquan.net
Thiền Môn
Như Phong tổng hợp
Đề
Mục
Pháp Môn Quán
Âm
Pháp Lư Vô Vi
Pháp Quán Niệm Hơi Thở
Pháp Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông
|
Pháp
Môn
Quán
Âm
Pháp
môn
Quán Âm là một pháp môn
thiền định về ánh sáng và âm lưu nội tại .
Quán âm theo tiếng Trung Hoa có nghiă
là quán sát chấn động lực cuả âm
thanh bên trong.
Từ thời cổ xưa, những thể nghiệm tâm linh về
âm thanh
và ánh sáng bên
trong đă được nhắc tơí qua kinh điển cuả các
tôn giáo trên thế giới.
Trong kinh Lăng Nghiêm, Văn Thù Sư Lợi bồ tát
có noí rằng pháp môn Quán
Âm là một pháp môn cao nhất trong tất cả
các pháp để đạt được sư khai
ngộ.
Trong thánh kinh đă ghi rằng: " Lúc ban
đầu là
Ngôi lời, Ngôi lời ở cùng thượng đế và
thương
đế chính là ngôi lời." " (Gio-an 1:1).Ngôi
lời,
âm
thanh
vi
diệu
bên trong, c̣n được goị
là Logos, Shabd, Đạo, Nguốn Âm Thanh, Nước
Nguồn Sống hay
Tiếng Nhạc Trời.
Ánh sáng bên trong, ánh sáng cuả
thương đế cũng đề cập trong danh từ
"Khai Ngộ" ( Enlightement). Chính nhờ vào ánh
sáng bên trong và âm
thanh nôị tại mà chúng ta giao tiếp với Thượng
Đế.
Thiền Sư Thanh Hải
Thiền sư Thanh Hải giải thích như sau:
" Sức
chấn động
cuả âm thanh nầy hiện hữu trong mọi sự sống
và trưởng
dưỡng toàn cơi vũ
trụ, âm thanh nội tại có thể chửa lành mọi
vết
thương, đáp ứng được mọi
ước muốn và khát vọng trần gian. Nó là sức
mạnh vạn năng, và là t́nh
thương vô bờ . V́ chúng ta được cấu tạo bởi
âm thanh nầy nên giao tiếp
được với nó, chúng ta sẽ có niềm an b́nh
và măn túc trong tâm thức. Sau
khi nghe được âm thanh nầy toàn thể con
ngướ cuả
chúng ta sẽ biến đổi,
mọi quan niệm về cuộc sống của chúng ta sẽ
cải tiền một
cách sâu đậm để
trở nên tốt đẹp hơn.."
Muốn t́m
hiểu
thêm về pháp môn Quán Ân
xin bấm
vào
dươí đây:
Nguồn:
http://www.tructieocauthongthuongde.org
PHÁP LƯ VÔ VI
Vô Vi
không phải là một tôn giáo. Vô Vi
là một phương pháp giúp cho hành giả muốn
trau dồi tâm linh. Vô Vi thích hợp với mọi người
và mọi tín ngưỡng, trong tự do hoàn toàn,
không một ràng buộc nào. Những người muốn
t́m hiểu Vô Vi, muốn dấn thân tu học pháp
thiền lúc ban đầu, có thể liên lạc với các
trung tâm, các thiền đường Vô Vi
khắp
nơi trên thế giới sẽ được tận t́nh hướng dẫn và
miễn phí.
Vô Vi đă mở rộng tầm ảnh
hưởng
tốt và đă trở thành một cộng đồng không
biên giới. Cộng đồng Vô Vi là một cộng đồng
thân hữu, tương thân tương trợ. Vô Vi c̣n tham
gia các hoạt động từ thiện, giúp đỡ các
trại tị nạn hay những người thiếu thốn, tuy âm
thầm nhưng đều đặn.
Hành giả Vô Vi, có mặt
khắp nơi trên thế giới. Họ gặp nhau trong những
cuộc họp mặt,
trong các kỳ Đại Hội Quốc Tế được tổ chức
mỗi năm một
lần, địa điểm khác nhau do các Hội Ái Hữu Vô
Vi địa phương đảm trách.
Và để siết chặt đạo t́nh
khắp
năm châu, để chia xẻ kinh nghiệm tu học, những bạn
hữu của
Vô Vi, dù có hành Thiền hay không,
cũng được nhiệt t́nh mời gọi tham dự những tổ chức
sinh hoạt văn
hóa và giải trí. Chẳng hạn như "Thiền Ca"
là một chương tŕnh văn nghệ được tổ chức hằng năm
đan
kết giữa nghệ thuật văn học dân tộc với nhạc tâm
linh hướng
thượng.
Những
nhạc sĩ tài danh đă chuyển tác và cảm
tác những áng thơ siêu việt với đạo lư cao
thâm của Thiền Sư Lương Sĩ Hằng thành những
Thiền
Khúc đóng góp cho nền văn học nghệ thuật tâm
linh Việt Nam qua những thể điệu từ cổ nhạc, hồ
quảng, dân ca đến
tân nhạc. Những nghệ sĩ điêu luyện, thượng thặng
góp
mặt trên sân khấu Vô Vi đă đem lại nguồn vui
cho đời, nguồn đạo cho Thiền trong những buổi
Thiền Ca trước đây.
Dĩ nhiên các cuộc gặp gỡ như vậy được diễn ra
trong an
lành, vui tươi, thoải mái và cũng không
tránh khỏi ưu tư của nhạc sĩ, của nghệ sĩ và của
ban tổ
chức làm sao tổ chức một buổi văn nghệ đặc thù
có
đời có đạo được đặc sắc, kiện toàn.
Thiền Sư
Lương Sĩ Hằng
1. Hỏi: Vô Vi nghĩa là sao?
Đáp: Vô
là không, Vi là nhỏ nhất cũng không. Cho
nên chúng ta am hiểu được nguyên lư của
Vô Vi th́ ở đời không có ǵ tranh chấp
mà tạo khổ cho chính ḿnh. Vô Vi là
đi tới chỗ thanh nhẹ. Muốn biết rơ Vô Vi, nh́n mặt
Trời nó "không" mà nó sáng.
Cái "không" từ bi của mọi người c̣n
sáng hơn nữa, xác nhận rơ con người chế
bóng đèn chớ bóng đèn không chế con
người được.
2. Hỏi: Chủ
trương của
Vô Vi là ǵ?
Đáp: Chủ trương
của Vô Vi là tự thức tự khai triển lấy chính
ḿnh, mở thức ḥa đồng ḥa hợp với cả càn
khôn vũ trụ, đi tới vô cùng.
3. Hỏi: Làm sao
chúng ta có thể biết được một pháp môn
là chánh pháp?
Đáp: Pháp
môn nào mà khứ trược lưu thanh là
chánh pháp. Chúng ta mang cái thể
xác trược ô, ăn uống cũng trược, độc tố dẫy đầy,
pháp nào giải ra được th́ cái pháp
đó là chánh. Bất cứ cái pháp
nào mà giải được độc tố trong người, cái đó
là chánh pháp. Những pháp nào
làm gia tăng trược ô, đó là tà
pháp bị điều khiển bởi ngoại cảnh.
Nguồn:
http://www.vovi.org
Pháp Quán Niệm
Hơi Thở
Thiền
Sư
Thích Nhất Hạnh
Kinh
Quán Niệm Hơi Thở
Tôi nghe như sau:
Hồi
đó,
Bụt
c̣n
ở
tại nước Xá Vệ, cư trú trong
vườn Kỳ Thọ với nhiều vị đại đệ tử nổi tiếng như Xá Lợi
Phất,
Mục Kiền Liên, Ca Diếp, Ca Chiên Diên, Câu Thi
La, A Nậu Lâu Đà, Ưu Bà Đa, A Nan Đà, v.v...
Trong cọng đồng các vị khất sĩ, những vị trưởng thượng
lo chăm
sóc dạy dỗ các vị khất sĩ tân học, có vị
chăm dạy mười người, có vị hai mươi người, có vị ba mươi
người, có vị bốn mươi người... Các vị khất sĩ tân
học được chăm sóc và dạy dỗ như thế dần dần thực hiện
được nhiều tiến bộ...
Bây giờ đây, đă đến ngày trăng tṛn
tháng tư và Bụt đang ngồi ngoài trời với
các vị khất sĩ. Người đưa mắt lặng lẽ quán sát đại
chúng một hồi rồi lên tiếng:
"Quư vị khất sĩ!
Tăng đoàn
chúng ta đây quả là thanh tịnh và có
thực chất tu học, không mang tính chất phù phiếm
và ba hoa, xứng đáng được cúng dường, xứng
đáng được gọi là phước điền, xứng đáng được
kính nể.
"Này quư vị, trong
đại
chúng
đây có những vị khất sĩ đă chứng quả La Hán,
đă trừ hết mọi phiền năo, đă trút bỏ được
mọi gánh nặng, đă thành tựu được trí tuệ
và giải thoát. Lại có những vị đă cắt được
năm sợi dây ràng buộc đầu, chứng được quả Bất Hoàn,
sẽ không c̣n trở lại luân hồi; có những vị
đă cắt bỏ được ba sợi dây ràng buộc đầu, chứng quả
Nhất Hoàn, hàng phục được phần thô của các
phiền năo tham, sân và si, và chỉ cần trở
lại một lần; có những vị đă cắt bỏ được ba sợi dây
ràng buộc đầu, chứng quả Dự Lưu, đang vững chăi đi về
quả
vị giác ngộ; có vị đang thực tập tứ niệm xứ, có vị
đang thực tập tứ chánh cần, có vị đang thực tập tứ như
ư túc, có vị đang thực tập ngũ căn, có vị
đang thực tập ngũ lực, có vị đang thực tập thất bồ đề
phần,
có vị đang thực tập bát chánh đạo, có vị
đang thực tập từ, có vị đang thực tập bi, có vị đang
thực
tập hỷ, có vị đang thực tập xả, có vị đang thực tập cửu
tưởng quán, có vị đang thực tập vô thường
quán. Lại có những vị khác đang thực tập
quán niệm hơi thở."
"Quư vị khất sĩ!
Phép quán
niệm
hơi thở, nếu được phát triển và thực tập liên tục,
sẽ đem lại những thành quả và lợi lạc lớn, có thể
làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm; bốn lĩnh vực
quán niệm nếu được phát triển và thực tập
liên tục, sẽ làm thành tựu bảy yếu tố giác
ngộ; bảy yếu tố giác ngộ nếu được phát triển và
thực tập liên tục sẽ đưa tới trí tuệ và giải
thoát.
"Làm thế nào để phát triển và thực tập
liên tục phép quán niệm hơi thở, để phép
này mang lại những thành quả và lợi lạc lớn?
"Này đây, quư vị khất sĩ! Người hành giả đi
vào rừng hoặc tới một gốc cây, nơi vắng vẻ, ngồi xuống
trong tư thế hoa sen, giữ thân cho thẳng và đặt vững
chánh niệm trước mặt ḿnh. Thở vào, người ấy biết
rằng ḿnh thở vào; thở ra, người ấy biết rằng ḿnh
thở ra.
1. Thở vào một hơi
dài, người ấy
biết:
Ta đang thở vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài,
người ấy biết: Ta đang thở ra một hơi dài.
2. Thở vào một hơi
ngắn, người ấy biết:
Ta
đang thở vào một hơi ngắn. Thở ra một hơi ngắn, người ấy
biết:
Ta đang thở ra một hơi ngắn.
3. Ta đang thở vào
và có
ư thức về toàn thân ta. Ta đang thở ra và
có ư thức về toàn thân ta. Người ấy thực tập
như thế.
4. Ta đang thở vào
và làm
cho
toàn thân an tịnh. Ta đang thở ra và làm cho
toàn thân an tịnh. Người ấy thực tập như thế.
5. Ta đang thở vào
và cảm thấy
mừng
vui. Ta đang thở ra và cảm thấy mừng vui. Người ấy thực
tập như
thế.
6. Ta đang thở vào
và cảm thấy an
lạc.
Ta đang thở ra và cảm thấy an lạc. Người ấy thực tập như
thế.
7. Ta đang thở vào
và có
ư thức về những hoạt động tâm ư trong ta. Ta đang
thở ra và có ư thức về những hoạt động tâm
ư trong ta. Người ấy thực tập như thế.
8. Ta đang thở vào
và làm
cho
những hoạt động tâm ư trong ta được an tịnh. Ta đang thở
ra và làm cho những hoạt động tâm ư trong ta
được an tịnh. Người ấy thực tập như thế.
9. Ta đang thở vào
và có
ư thức về tâm ư ta. Ta đang thở ra và
có ư thức về tâm ư ta. Người ấy thực tập như
thế.
10. Ta đang thở
vào và làm
cho
tâm ư ta hoan lạc. Ta đang thở ra và làm cho
tâm ư ta hoan lạc. Người ấy thực tập như thế.
11. Ta đang thở
vào và thu nhiếp
tâm ư ta vào định. Ta đang thở ra và thu
nhiếp tâm ư ta vào định. Người ấy thực tập như thế.
12. Ta đang thở
vào và cởi mở cho
tâm ư ta được giải thoát tự do. Ta đang thở ra
và cởi mở cho tâm ư ta được giải thoát tự
do. Người ấy thực tập như thế.
13. Ta đang thở
vào và
quán
chiếu tính vô thường của vạn pháp. Ta đang thở ra
và quán chiếu tính vô thường của vạn
pháp. Người ấy thực tập như thế.
14. Ta đang thở
vào và
quán
chiếu về tính không đáng tham cầu và vướng
mắc của vạn pháp. Ta đang thở ra và quán chiếu về
tính không đáng tham cầu và vướng mắc của
vạn pháp. Người ấy thực tập như thế.
15. Ta đang thở
vào và
quán
chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp. Ta đang
thở ra và quán chiếu về bản chất không sinh diệt
của vạn pháp. Người ấy thực tập như thế.
16. Ta đang thở
vào và
quán
chiếu về sự buông bỏ. Ta đang thở ra và quán chiếu
về sự buông bỏ. Người ấy thực tập như thế.
Phép quán niệm hơi
thở, theo
những chỉ
dẫn trên, nếu được phát triển và thực tập
liên tục, sẽ đem đến những thành quả và lợi lạc
lớn.Phát triển và thực tập liên tục như thế
nào để phép quán niệm hơi thở có thể
thành tựu được bốn lĩnh vực quán niệm?
Khi hành giả thở
vào hoặc thở ra
một
hơi dài hay một hơi ngắn mà có ư thức về
hơi thở và về toàn thân ḿnh, hoặc có
ư thức là đang làm cho toàn thân
ḿnh an tịnh, th́ khi ấy hành giả đang an
trú trong phép quán thân trong thân,
tinh tiến, tỉnh thức, biết rơ t́nh trạng, vượt khỏi mọi
tham đắm cũng như mọi chán ghét đối với cuộc đời. Hơi
thở
vào và hơi thở ra có ư thức ở đây
thuộc lĩnh vực quán niệm thứ nhất là thân thể.
Khi hành giả thở
vào hoặc thở ra
mà có ư thức về sự vui thích hoặc về sự an
lạc, về những hoạt động của tâm ư, hoặc để làm cho
những hoạt động của tâm ư an tịnh th́ khi ấy
hành giả đang an trú trong phép quán cảm
thọ trong cảm thọ, tinh tiến, tỉnh thức, biết rơ t́nh
trạng, vượt khỏi mọi tham đắm cũng như mọi chán ghét đối
với cuộc đời. Những cảm thọ được chứng nghiệm trong hơi
thở có
ư thức ấy thuộc lĩnh vực quán niệm thứ hai là cảm
thọ.
Khi hành giả thở
vào hoặc thở ra
mà có ư thức về tâm ư, làm cho
tâm ư an tịnh, thu nhiếp tâm ư vào
định hoặc cởi mở cho tâm ư được giải thoát tự do,
th́ khi ấy hành giả đang an trú trong pháp
quán niệm tâm ư trong tâm ư, tinh
tiến, tỉnh thức, biết rơ t́nh trạng, vượt khỏi mọi tham
đắm cũng như mọi chán ghét đối với cuộc đời. Không
quán niệm về hơi thở th́ sẽ không phát triển
được chánh niệm và sự hiểu biết.
Khi hành giả thở
vào hoặc thở ra
mà quán chiếu về tính cách vô thường
hoặc về tính cách không đáng tham cầu
và vướng mắc của vạn pháp, về bản chất không sinh
diệt và về sự buông bỏ, th́ khi ấy hành giả
đang an trú trong pháp quán niệm đối tượng
tâm ư trong đối tượng tâm ư, tinh tiến, tỉnh
thức, biết rơ t́nh trạng, vượt khỏi mọi tham đắm cũng
như
mọi chán ghét đối với cuộc đời.
Phép quán niệm hơi
thở nếu được
phát triển và thực tập liên tục, sẽ đưa bốn lĩnh
vực quán niệm đến chỗ thành tựu viên
măn.Nhưng nếu được phát triển và thực tập
liên tục, bốn lĩnh vực quán niệm sẽ đưa bảy yếu tố
giác ngộ đến chỗ thành tựu viên măn. Bằng
cách nào?
Khi hành giả an
trú trong
phép
quán thân trong thân, quán cảm thọ trong cảm
thọ, quán tâm ư trong tâm ư,
quán đối tượng tâm ư trong đối tượng tâm
ư, tinh tiến, tỉnh thức, biết rơ t́nh trạng, vượt
khỏi mọi tham đắm cũng như mọi chán ghét đối với cuộc
đời, th́ lúc ấy chánh niệm của hành giả
được duy tŕ vững chăi và bền bỉ; và
hành giả đạt được yếu tố giác ngộ thứ nhất là
niệm. Yếu tố này sẽ tiến dần đến sự thành tựu viên
măn.
Khi hành giả an
trú trong
chánh
niệm để quán chiếu và quyết trạch về các
pháp, đối tượng của tâm ư, th́ yếu tố
giác ngộ thứ hai được sinh khởi và phát triển,
đó là yếu tố trạch pháp. Yếu tố này sẽ tiến
dần đến sự thành tựu viên măn.
Khi hành giả an
trú trong
quán
chiếu và quyết trạch về các pháp một cách
bền bỉ, tinh cần, vững chăi th́ yếu tố giác ngộ
thứ ba được sinh khởi và phát triển, đó là
yếu tố tinh tấn. Yếu tố này sẽ tiến dần đến sự thành tựu
viên măn.
Khi hành giả đă an
trú
vững
chăi và bền bỉ trong sự hành tŕ tinh tiến
th́ yếu tố giải thoát thứ tư được sinh khởi và
phát triển, đó là yếu tố hỷ lạc xuất thế. Yếu tố
này sẽ tiến dần đến sự thành tựu viên măn.
Khi được an trú
trong trạng thái
hỷ
lạc rồi, hành giả cảm thấy thân và tâm của
ḿnh nhẹ nhàng và an tịnh, đó là yếu
tố giải thoát thứ năm được sinh khởi và phát
triển, đó là yếu tố khinh an. Yếu tố này sẽ tiến
dần đến sự thành tựu viên măn.
Khi thân và tâm
ḿnh
đă nhẹ nhàng và thanh tịnh, hành giả
có thể đi vào định một cách dễ dàng.
Lúc đó yếu tố giải thoát thứ sáu được sinh
khởi và phát triển. Đó là yếu tố định. Yếu
tố này sẽ tiến dần đến sự thành tựu viên măn.
Khi đă thực sự an
trú trong định,
hành giả không c̣n duy tŕ sự phân
biệt và so đo nữa. Khi đó yếu tố giải thoát thứ
bảy là buông thả được sinh khởi và phát
triển. Đó là yếu tố hành xả. Yếu tố này sẽ tiến dần đến sự
thành tựu viên măn.
Bốn lĩnh vực quán
niệm nếu được
phát
triển và thực tập liên tục sẽ đưa bảy yếu tố giác
ngộ đến chỗ thành tựu viên măn như thế. Nhưng bảy
yếu tố giác ngộ, nếu được phát triển và thực tập
liên tục, làm thế nào để có thể đưa đến sự
thành tựu viên măn của trí tuệ và
giải thoát?
Nếu hành giả tu
tập theo bảy yếu tố
giác ngộ, một ḿnh tĩnh cư, chuyên quán
chiếu về tính cách không sinh diệt của vạn
pháp, quán chiếu về sự tự do, th́ sẽ
đạt tới khả năng buông bỏ. Đó là do tu tập bảy yếu
tố giác ngộ mà thành tựu viên măn
được trí tuệ và giải thoát."
Đó là những điều
đức Thế
Tôn
nói. Đại chúng ai nấy đều tỏ vẻ vui mừng được nghe Người
dạy. (CCC)
Thích
Nhất
Hạnh dịch, (Anapanasati sutta, M.118. Tham khảo
các
kinh 815,803 và 810 của bộ Tạp A Hàm, 99 Tạng Kinh Đại
Chánh)
Muốn t́m hiểu thêm ,
xin bấm
vào dưới đây:
http://langmai.org
Nguồn:
http://www.thuvien-thichnhathanh.org
Tứ Niệm Xứ
và Thiền tông
Như bạn đọc đă xem qua, Tứ Niệm Xứ là một pháp hành
thiền rất quan trọng mà xưa kia tất cả các vị Thánh Tăng
đă hành theo đó mà đắc quả vô sanh (A La Hán). Dù quan
trọng như vậy, nhưng sau khi Đức Phật nhập diệt, Tứ Niệm
Xứ dần dần bị lăng quên. Riêng ở Việt Nam th́ chư Tổ xưa
kia đều là Thiền Sư, và Thiền ở Việt Nam bắt nguồn từ
Thiền tông Trung Hoa.
Ở đây tôi sẽ so sánh pháp Thiền Tứ Niệm
Xứ và Thiền Tông để bạn đọc thấy rằng hai pháp môn này
không khác nhau là mấy.
A.
Thiền Tông
Theo Bắc tông th́ vị Thiền Tổ thứ nhứt là
ngài Ma Ha Ca Diếp (Maha Kayapa). Sau ó gịng Thiền
được truyền đến vị Tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma
(Bodhidharma), đến đây gịng Thiền ở Ấn Độ được truyền
sang Trung Hoa. Ở Trung Hoa Bồ Đề Đạt Ma được xem là
Sơ Tổ, và gịng Thiền tiếp tục truyền đến Lục Tổ Huệ
Năng, sau đó y bát không c̣n được truyền xuống nữa.
Nhưng bắt đầu từ Lục Tổ trở đi th́ Thiền Tông rất hưng
thịnh, và đă truyền sang các nước lân bang như Cao Ly,
Nhật Bản, Việt Nam.
Thiền Tông có cả thảy 33 vị Tổ, nhưng
được đề cao nhất là Tổ Bồ Đề Đạt Ma,
chính vị Tổ này đă tạo cho Thiền Tông một sắc thái đặc
biệt khi sang Trung quốc tuyên bố rằng đây chính là:
Giáo ngoại biệt truyền
Bất lập văn tự
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.
Do từ khẩu hiệu này mà Thiền Tông (ở
Trung Hoa) c̣n được gọi là Tổ Sư Thiền, tức là Thiền
xuất phát từ các Tổ Sư. Đến đời Lục Tổ Huệ Năng th́
Thiền lại chia làm hai phe. Nam đốn, Bắc tiệm (Tổ Huệ
Năng xiển dương đốn ngộ ở phương Nam, Ngài Thần Tú chủ
trương tiệm tu ở phương Bắc). Sau một thời gian th́
chỉ c̣n lại Thiền phương Nam là thịnh hành hơn cả, nên
Thiền Tông lại được gọi với một danh từ khác là Thiền
Đốn Ngộ. Chính phái Thiền này được truyền thừa từ
Trung Hoa sang Việt Nam do Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi, và chư
Tổ sau này đều thuộc gịng Thiền này.
Chủ trương của Thiền Tông là ǵ? Vẫn là
bốn câu kệ của Tổ Đạt Ma: "Chẳng lập văn tự, Truyền
ngoài giáo lư, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành
Phật". Chính bài kệ này đă làm cho Thiền Tông nổi bật
với tánh cách kỳ dị của nó. Người ngoài mới nh́n vào
có thể lầm lẫn, tưởng Thiền là một pháp môn đặc biệt,
tu theo đó mau thành Phật. Nhưng thật ra bài kệ trên
nếu đem áp dụng vào thực tế th́ nó không c̣n đúng hẳn
với ư nghĩa của nó nữa. Xưa kia các Thiền Sư mỗi ngày
đều thượng đường nói pháp, lời lẻ câu văn của các Ngài
có thể thô tục, tầm thường, không văn hoa như nhưng
danh từ dùng trong Kinh điển, nhưng tất cả đều ngụ ư
giảng giải giáo lư của Phật, làm sao có thể nói "chẳng
lập văn tự, truyền ngoài giáo lư" được.
Các Thiền Sư thường đánh đập, la hét,
dùng đủ mọi phương tiện để cho đệ tử nhận ra ông chủ,
hay tánh giác của ḿnh, "chỉ thẳng tâm người" chỉ là
một cách nói mà thôi. Nếu thấy tánh thành Phật liền
th́ 33 vị Tổ Thiền Tông đều đă là Phật cả rồi, nên nói
đúng hơn là thấy tánh thành Tổ.
Tuy vậy nếu so sánh với các Tông phái
khác th́ Thiền Tông vẫn đặc biệt hơn, với tánh cách
phóng khoáng tự tại trong việc dùng phương tiện để chỉ
cho người tu nhận lại tánh giác hay "bản lai diện
mục". Khi nhận được tánh giác rồi, người tu phải tiếp
tục tinh tấn thực hành chánh niệm (Samma-Sati), xả trừ
vọng tưởng đến ngày hoàn toàn sống với tánh giác (hằng
giác) th́ lúc đó gọi là chứng ngộ. Có chứng ngộ mới
thoát khỏi sanh tử luân hồi, c̣n giác ngộ chỉ mới là
chánh kiến (Samma Ditthi), phần đầu trong Bát Chánh
Đạo (Ariya Magga).
Người mà nhân nghe nửa câu hoặc một câu
ngộ đạo, hay bị một đạp, một gậy giác ngộ, th́ được
gọi là "truyền tâm ấn". Những người này thường là
những người lanh trí lẹ mắt, v́ thế nên Thiền Tông
được xem như chỉ dành cho hàng thượng căn. Nhưng hàng
thượng căn th́ bao giờ cũng ít, mà hạ căn th́ bao giờ
cũng nhiều, nên lần lần theo thời gian Tâm ấn bị thất
truyền. Phần khác, sau này Tông Tịnh Độ được xiển
dương rất hưng thịnh, nên những ai muốn tu Thiền không
biết nương vào đâu.
Nếu muống nương vào nhà Sư th́ tâm ấn thất truyền, lấy
ai cho ta thoại đầu, công án hay đánh đập đúng lúc cho
ta giác ngộ. Thật ra các công án, thoại đầu, đánh đập,
la hét chỉ là những phương tiện thiện xảo của các
Thiền Sư tùy bịnh cho thuốc, rút đinh nhổ chốt, quả
dưa chín một phen xúc chạm liền rớt mà thôi. Các Ngài
không để lại phương thức tu tập nào cả, nếu để sẽ trái
với câu "Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền". V́
các Ngài cố ư không theo một thứ lớp tu tập nào cả,
nên có một số người tu theo Tiểu Thừa cho Thiền Tông
là một quái thai của Phật giáo.
Ngày nay gịng Tổ Sư Thiền gần như đă
mất, trừ ra có Hoà thượng Thanh Từ đang cố gắng hoằng
dương lại. Kinh băng và sách của Thầy đă được phổ biến
rộng răi ngoài hải ngoại. Tuy nhiên nếu chỉ nghe Kinh
băng hoặc đọc sách để mong chờ ngày giác ngộ th́ đó là
một ảo tưởng. V́ Thiền là một pháp hành, không phải
pháp học, tự ḿnh phải chiêm nghiệm thấy rơ được sự
lưu chuyển của tâm thức mới mong thấy được tự tánh.
Kinh sách Thiền Tông ít có ghi lại những
phương thức tu tập, đa số chỉ ghi lại những biến cố
giác ngộ của các Thiền Sư, mang nhiều tính cách ly kỳ,
hấp dẫn như các trường hợp giác ngộ khi bị đánh, hét,
hoặc khi thấy hoa nở, nghe tiếng mưa rơi v.v... Khi
đọc những trang sách này, người tu Thiền thường có
khuynh hướng mong cầu được giác ngộ giống như vậy.
Nếu đọc Kinh sách Nguyên Thủy như trong
Trưởng Lăo tăng kệ (Théragatha), ta sẽ thấy trong đó
cũng có ghi lại những trường hợp mà chư Thánh Tăng
trong thời đức Phật đă giác ngộ. Thí dụ trường hợp của
Ngài A Nan chứng quả A la Hán trong khi đang quay ḿnh
đặt lưng xuống nghỉ, Ngài Châu lợi Bàn Đà Già ngộ đạo
trong khi đang quét nhà, v.v... Nhưng sự việc này ít
được nói đến, v́ đó chỉ là kết quả hiển nhiên của một
sự tu tập chánh niệm hoặc Minh Sát Tuệ đến mức thành
tựu.
Chân lư là cái ǵ tuyệt đối, Pháp thân
th́ bất khả thuyết, bất khả tư ngh́, v́ thế Thiền Tông
chủ trương chỉ thẳng (cho người nhận ra) bổn tánh,
không dài gịng văn tự. Càng nói lư bao nhiêu, càng đi
xa Thiền bấy nhiêu. Việc đó chỉ dành cho những học giả
muốn thỏa măn tài phân tách lư giải của ḿnh mà thôi.
Chúng ta thường hay học thuộc ḷng những
câu kệ, chú của các Thiền Sư đắc đạo, rồi mỗi khi nói
đến Thiền th́ đem ra lập lại, giảng nghĩa bàn luận, có
biết đâu là ḿnh đang nhai đi nhai lại cặn bă của kẻ
khác. Người nào tu người đó biết, người nào chứng
người đó hay, những câu thơ câu kệ xưa kia là của
riêng các Thiền Sư, không dính líu ǵ đến ta cả, không
nên si mê dại dột mà nhận của người làm của ḿnh. V́
nhận lầm như thế nên đa số người học Thiền đều tưởng
lầm là ḿnh phá chấp và sắp sửa thành Tổ cả rồi!
Xưa kia Tổ Đạt Ma đem Thiền vào Trung
Quốc với một h́nh thái kỳ dị chỉ nhằm mục đích giải
tỏa sự chấp chặt vào văn tự Kinh điển của một số người
thuở đó ưa học Phật mà không chịu tu Phật. Ngày nay
tŕnh độ học Phật rất kém, nên ta không thể chấp vào
Kinh điển được, nhưng ngược lại chúng ta lại đi chấp
chặt vào những kinh kệ của chư Tổ, nhất là Thiền đốn
ngộ. V́ lư do này, nên tôi nghĩ rằng những ai muốn
truyền bá Thiền, th́ tốt hơn là nên truyền bá Thiền
của Ngài Thần Tú hơn là Thiền của Ngài Huệ Năng. Làm
như vậy có thể có lỗi với Lục Tổ, nhưng chắc không phụ
ơn đức Phật. V́ đức Phật chỉ muốn làm sao cho chúng ta
thoát khỏi sanh tử luân hồi, chứ Ngài đâu có muốn
chúng ta thành Tổ!
Thiền Tông đặt nặng và đề cao sự đốn ngộ
quá, để rồi những người theo Thiền sau này quên đi con
đường dẫn đến giác ngộ, nó chỉ là một trợ duyên cuối
cùng giúp cho hành giả ngộ đạo mà thôi.
Cũng cần nhắc lại là ngộ đạo chưa phải
hoàn toàn giải thoát (sanh tử). Ngộ đạo (satori) chỉ
là bước đầu, đồng nghĩa với kiến tánh, hay giải ngộ.
Trong Kinh Pháp Hoa có nói Khai Thị Ngộ Nhập Tri Kiến
Phật. Ngộ rồi phải tu tiếp đến khi nhập mới thôi, lúc
đó gọi là chứng ngộ, hay hoàn toàn giải thoát. Từ lúc
ngộ đạo cho đến lúc hoàn toàn giải thoát, con đường
c̣n lại vẫn c̣n cam go và khó khăn, hành giả phải khéo
léo, kiên nhẫn đối phó với mọi sự cám dỗ, thu hút của
sắc trần bên ngoài, và sự lừa bịp, lôi kéo của vọng
tưởng bên trong. Không phải một sớm, một chiều mới cất
bước lên đường mà đă tới đích rồi đâu.
Thiết nghĩ, chúng ta không nên dùng chữ
Thiền Đốn Ngộ mà đúng hơn nên dùng chữ Tổ Sư Thiền. V́
chữ Thiền Đốn Ngộ hay làm cho người ta hiểu lầm là nếu
tu theo Thiền này sẽ mau giác ngộ. Nhưng "tu nhất
kiếp, ngộ nhất thời ", hay "tu vạn kiếp ngộ nhất thời"
cũng có. Đạo Phật dạy về nhân quả, có gieo nhân giác
ngộ mới mong gặt được quả giác ngộ. Khi có đầy đủ
"nhân và duyên" th́ quả giác ngộ tự thành. Nếu có
người nào bảo rằng không học mà biết, không tu mà
thành th́ người đó không nói đạo Phật. Thí dụ trường
hợp của Ngài Huyền Giác (tác giả Chứng đạo Ca) đương
thời gọi Ngài là "Nhứt túc giác" (một đêm giác ngộ).
Trước khi đến tham vấn Lục Tổ, Ngài đă tu hành giới
hạnh trang nghiêm, chuyên tu Chỉ-Quán
(Samatha-Vipassanà). Nhân duyên đă đầy đủ, đến khi gặp
Lục Tổ liền được ấn chứng.
B.
So sánh Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông
Thiền Tông được truyền xuống từ Chư Tổ
nên gọi là Tổ Sư Thiền. C̣n Tứ Niệm Xứ được gọi là
Thiền ǵ? Tứ Niệm Xứ là phương pháp hành thiền mà
chính đức Phật đă áp dụng cách đây trên 2531 năm và đă
dạy lại cho các đệ tử, nên được gọi là Như Lai Thiền.
Một Thiền của Tổ Sư, một Thiền của Như Lai, vậy Thiền
nào đúng, Thiền nào sai, Thiền nào cao hơn Thiền nào?
Cả hai đều nhằm mục đích đưa hành giả đến
chỗ giác ngộ giải thoát, nên đều được coi là chánh
pháp cả. C̣n Thiền nào cao hơn Thiền nào? Ai mà đặt ra
câu hỏi này th́ thiệt là... không biết nói sao! V́ vấn
đề không ở cao hay thấp mà ở chỗ người bệnh nào th́
cho thuốc đó mà thôi. Vậy cao hay thấp th́ không,
nhưng khác nhau th́ có. Tuy thấy khác nhưng thật ra
cũng không thể gọi là khác được. V́ một bên đặt nặng
về lư, c̣n một bên chỉ dạy về sự. Về lư th́ Thiền Tông
quả là độc nhất vô nhị, với sự đánh đập, la hét khiến
người cầu đạo ngỡ ngàng, cố gắng t́m những lư thuyết
sâu xa ở đó. Nhưng về sự, tức phần thực hành tu tập
th́ Thiền Tông vẫn nằm gọn trong Tứ Niệm Xứ. Cổ Đức
xưa có câu:
Đốn ngộ tuy đồng Phật
Đa sanh tập khí thâm
Phong đ́nh ba thượng dũng
Lư hiện niệm du xâm.
Dịch nghĩa là:
Đốn ngộ tuy đồng Phật
Nhiều đời tập khí sâu
Gió ngừng sóng vẫn đập
Lư hiện niệm c̣n xâm.
(Trích Yếu chỉ Thiền tông, H.T Thanh Từ)
Khi đốn ngộ th́ chỗ thấy không khác chư
Phật, song tập khí chất chứa từ nhiều đời, nhiều kiếp
không thể một lúc mà sạch hết. Cần phải nổ lực buông
xả vọng tưởng, lâu ngày mới hết, như gió đă dừng mà
sóng chưa lặng, phải đợi thời gian từ từ nó mới yên.
Chân lư đă thấy rơ rồi mà vọng niệm vẫn c̣n xâm lấn
măi. V́ thế sau khi giải ngộ cần phải cố gắng tu hành
mới được chứng ngộ.
Về lư th́ Thiền nói trăng, nói cuội, chỉ
đây nói đó, nhưng về sự th́ không ngoài việc "diệt trừ
vọng tưởng". Muốn diệt trừ vọng tưởng không có pháp
nào khác hơn ngoài Chánh niệm (Samma-Sati) là chi thứ
7 trong Bát Chánh đạo (Ariya-Magga).
Trên phương diện hành Thiền, Chánh niệm
cần được hiểu là quán niệm một cách chân chánh, chân
chánh ở đây c̣n có nghĩa là khách quan. Vậy chánh niệm
là quán niệm, hay rơ hơn là quán sát và ghi nhận một
cách khách quan. Phải quán niệm khi nào, lúc nào? Việc
thực hành quán niệm không thể nằm ngoài bốn lănh vực
(bốn niệm xứ), đó là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm,
niệm pháp.
Trở về Thiền Tông, ta thường nghe nói:
gánh nước, bửa củi là Thiền, lặt rau, hái cỏ cũng là
Thiền. Có người hỏi Thiền Sư Huệ Hải: "Tu Thiền dụng
công thế nào?". Thiền Sư trả lời: "Khi đói th́ ăn, khi
mệt th́ ngủ!". Người kia lại hỏi: "Ai mà chả đói th́
ăn, mệt th́ ngủ. Tất cả mọi người đều như vậy, có ǵ
là khác?". Thiền Sư bảo: "Khi ăn ta biết đang ăn, khi
ngủ ta biết đang ngủ. C̣n người đời th́ khi ăn chẳng
chịu ăn, đ̣i trăm thứ cần dùng; khi ngủ chẳng chịu
ngủ, tính toán ngàn chuyện!". Xem ra ở đây có khác ǵ
Niệm thân của Tứ Niệm Xứ: "Khi thở vào một hơi dài,
hành giả biết ḿnh đang thở vào một hơi dài...". Trong
mỗi cử động của thân thể: đi, đứng, nằm, ngồi Thiền Sư
đều giữ chánh niệm, không cho tâm phóng đi một cách
bừa băi theo vọng tưởng, đó chính là niệm thân vậy.
Các Thiền Sư có lúc đánh đau điếng hoặc
xô đệ tử què chân, đó không phải đánh thức người đệ tử
trở về niệm thọ là ǵ? Thay v́ rong ruổi theo vọng
tưởng.
Nhà Thiền có câu: "Không sợ niệm khởi mà
chỉ sợ giác chậm" có nghĩa là không sợ vọng niệm khởi
lên, mà chỉ sợ không tỉnh thức nhận liền ra nó. Đó có
khác ǵ niệm Tâm của Tứ Niệm Xứ? Xưa kia Tổ Huệ
Khả không chịu niệm Tâm, phải chờ đến lúc gặp Tổ Đạt
Ma bảo: "đem tâm ra ta an cho", mới chịu trở về t́m
tâm.
Nhân nghe tiếng mưa rơi, nh́n thấy hoa
nở.v.v... mà nhận ra bổn tánh, đó phải chăng thuộc về
niệm pháp ?
Tu Thiền cần phải diệt vọng tưởng. Muốn
diệt vọng tưởng phải có chánh niệm, mà chánh niệm
không ngoài Tứ Niệm Xứ. Vậy Tứ Niệm Xứ là phép thực
hành căn bản của Thiền.
Thế c̣n đặc tánh Giác ngộ của Thiền Tông
th́ sao? Đặc tánh giác ngộ của Thiền không phải vô
duyên cớ. Vào khoảng thế kỷ thứ 5, sau khi Kinh điển
vừa được đem từ Ấn độ sang Trung Hoa, các học giả Phật
dồn hết tâm lực vào công cuộc phiên dịch Kinh từ Phạn
ra Hán văn. Sau đó mọi người đều hăng say đi t́m chân
lư nơi văn tự của Kinh điển. Dần dần họ bị như thu hút
vào mê hồn trận của giáo lư cao siêu Đại Thừa, để rồi
quên đi những Kinh điển căn bản nhưng giản dị và thiết
thực của Tiểu Thừa.
Càng đi sâu vào triết lư văn tự của Kinh điển, họ càng
hoang mang không biết đâu là đạo, đâu là chân lư. Đến
lúc cùng đường, bí lối th́ may thay, Bồ đề Đạt Ma đă
xuất hiện như một vị cứu tinh với câu: "Giáo ngoại
biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến
tánh thành Phật". Và từ đó Thiền Tông nổi tiếng là một
pháp môn đốn ngộ. Ai nấy đều đi t́m Thiền Sư chỉ cho
giác ngộ. Giác ngộ cần được thực hiện chứ không phải
để được mong cầu. Chỉ có những người quên và không
biết sống với thực tại, lo đi t́m chân lư ở những ǵ
cao xa mới đi t́m giác ngộ.
Xưa kia Tổ Đức Sơn đi đâu cũng giảng Kim
Cang, ngài Pháp Đạt tụng làu ba ngàn bộ Pháp Hoa, mà
vẫn không ngộ đạo, phải chờ đến khi có người chỉ cho
chỗ tầm thường nhất mới chịu nhận ra.
Người tu theo Đại thừa cũng vậy, chỉ lo
tụng Kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Niết Bàn, Hoa Nghiêm,
v.v.... mà không chịu đọc Kinh Pháp cú, Chuyển pháp
luân, Tứ thập nhị chương, Kinh Niệm Xứ,v.v... Thiền
Tông đă khéo tô điểm "giác ngộ", để người ta tưởng
rằng nó chỉ nằm trong tay của các Thiền Sư, rồi đua
nhau đi t́m Thiền Sư chỉ cho giác ngộ.
Hỡi những người đang đi t́m giác ngộ chân
chánh, hăy dừng chân lại! Tại sao phải đi t́m giác
ngộ? Tại v́ bất giác. Bất giác chánh niệm, hay là thất
niệm: ăn không biết ḿnh đang ăn, mặc không biết ḿnh
đang mặc, thở không biết ḿnh đang thở... Giác ngộ
phải được thực hiện trong mọi giờ phút! Thiền Tông
thường nói giác ngộ là nhận ra ông chủ, hay bản lai
diện mục. Nhưng theo tinh thần Tứ Niệm Xứ th́ giác ngộ
là nhận biết được bản chất của thực tại, vô thường, vô
ngă và muốn vậy thực hành chánh niệm .
Người đời thường ưa chữ giác ngộ hơn chánh niệm, v́ họ
cho rằng giác ngộ là một điều rất khó, c̣n chánh niệm
th́ quá dễ. "Ăn mà biết ḿnh đang ăn" th́ ai chả biết?
Đó là chánh niệm đă bị tầm thường hóa rồi. Chỉ có
những người không biết hoặc chưa thực hành đúng đắn
mới coi thường chánh niệm mà thôi. Chánh niệm không
phải là ư thức suông việc đang ăn của ḿnh đâu, mà
phải thấy rơ, trực nghiệm tất cả tiến tŕnh của sự ăn,
tức là từ lúc bắt đầu ăn, đang ăn, cho đến hết ăn, và
tất cả những ǵ xẩy ra trong lúc ăn, và c̣n nữa, c̣n
nữa... V́ vậy chánh niệm phải được thực hiện trong
từng giây phút, từng sát na, và việc đó không phải dễ
đâu, mà là một việc vô cùng khó khăn, đ̣i hỏi nhiều
thời giờ và kiên nhẫn, nếu không th́ ta đă thành A La
Hán rồi!
Tóm lại Thiền Tông và Tứ Niệm Xứ không
xung khắc nhau mà ngược lại c̣n bổ khuyết cho nhau.
Thiền Tông chuyên về lư (mặc dù nói "bất lập văn tự").
Người tu Thiền t́m phương pháp chắc chắn phải đi qua
con đường Tứ Niệm Xứ. Trong Kinh Tứ Niệm Xứ không nói
lư cao siêu, nhưng xin người tu Thiền đừng xem thường
nó, v́ không phải ai cũng có thể tu theo Tứ Niệm Xứ
đâu, chỉ có nhưng người hiểu được "B́nh thường tâm thị
đạo" mới chịu khó kiên nhẫn hành theo mà thôi.
Nguồn:Thiền Tứ Niệm Xứ --Thích Trí Siêu
|