6- Hàng Không Mẫu
Hạm Đầu Tiên Cuả Đế Quốc Hán Sắp Hoạt Động
5-
"Tháng Sáu" Sẽ Không Là Quá Khứ
4-
Dân
Ai
Cập
Hân
Hoan
Vỉ Mubarak Từ Chức
3- Ngươì
Việt Noí Về Chính Biến Tại Ai Cập
2- Ai Cập
1- Bài Học Tunisia
Hàng
Không Mẫu Hạm Đầu Tiên Cuả Đế Quốc Hán Sẽ Hoạt Động
vào ngày 1/7/2011
Nam Phong tổng hợp
LGT
(11/6/2011). Một lần nửa cho thấy tập đoàn
Hán nô tại Bắc Bộ Phủ quyết tâm thực hiện
chính sách quốc phòng "Ba
Không" là một "tử lệnh" cuả Trung Nam Hải ban
phát. Trước sự bành trướng không ngừng, hung hăng
và ngạo mạn cuà Hán quyền cho thấy rõ hơn
khi chánh thức hạ thủy chiếc hàng không mẫu hạm đầu
tiên vào ngày 1/7/2011 như hình trên.
Việc khống chế biển Đông ngày càng khắc khe
hơn, tàn bạo hơn và coi thường công luận quốc tế
hơn
là chuyện phải xảy ra sau khi chiếc hàng không mẫu
hạm nầy hoạt động ?.
Một chính sách quốc phòng "Tứ
Kết,
Ngựa Sắt và Nỏ Thần" mới có thể cứu nguy
tình thế trước sự bành trướng cuả đế quốc Hán
trên biển Đông ?
Làm thế nào để phá giặc Hán trên biển
Đông ? Không thể tin tưởng được vào
ngươì Mỹ
giữ gìn thế quân bình và an ninh tại
Đông Nam
Á, vì quyền lợi cuả ngươì Mỹ vẫn là
trên hết ?
Trung
Quốc dự kiến đưa Hàng
không mẫu hạm đầu tiên vào hoạt
động nhân lễ kỷ niệm ngày thành
lập Đảng Cộng sản 1/7/2011.
Trung Quốc sắp đưa vào sử dụng
hàng không mẫu hạm đầu tiên
Các nguồn tin chưa được xác nhận bởi chính
quyền Trung Quốc tin rằng chiếc tàu chở
trên 120 hỏa tiễn sẽ đến cảng ở đảo Hải Nam
để phô trương uy lực của hải quân nước họ ra
vùng biển Đông Nam Á.
Thách thức Hoa Kỳ
Hiện chiếc hàng không mẫu hạm
loại Varyag (瓦良格号 - Kuznetsov class) mà Trung Quốc mua của
Ukraina đang được hoàn tất ở cảng Đại Liên,
miền Đông Bắc.
Cho đến ngày 18/4 năm nay, được biết
chiếc tàu đã bắt đầu được sơn màu của Hải
quân Quân Giải phóng, lực lượng mà lãnh tụ Đảng,
ông Hồ Cẩm Đào cho là quan trọng bậc
nhất cho chiến lược quốc phòng của Trung
Quốc.
Cũng có tin chưa được kiểm chứng nói tên
chiếc tàu sẽ được đặt là Thi Lang (1621 - 1696), kỷ
niệm vị Đô đốc chỉ huy hạm đội Phúc
Kiến thời nhà Minh bỏ quân của Trịnh Thành
Công để về với nhà Thanh.
Hoa Kỳ đã cho rằng sự xuất hiện của hàng
không mẫu hạm đầu tiên do Trung Quốc
trang bị và đưa vào sử dụng là một "thách thức" với
thế thượng phong trên Thái Bình Dương của nước Mỹ.
Dù hiện nay Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương
của Hoa Kỳ làm chủ năm tổ hợp tác chiến gồm
các hàng không mẫu hạm, phi cơ và tàu ngầm,
Đô đốc Tư lệnh Robert Willard đã nói Trung
Quốc đang "biến đổi cán cân quyền
lực trong vùng".
Hiện nay, giới quan sát chưa ngã ngũ về sự
thách thức thực sự chiếc tàu này tạo ra với Hoa Kỳ và
các nước Đông Nam Á.
Dù cùng chia sẻ quan tâm là "chủ quyền của
Trung Hoa" tại vùng Biển Đông, báo Đài Loan hôm
12/4 nêu ra lo ngại rằng "hàng không mẫu hạm
của Trung Quốc sắp hoàn tất sẽ làm suy yếu
khả năng phòng thủ của Đài Bắc".
Cho tới nay, Đài Loan dựa vào sức mạnh của hải
quân Hoa Kỳ để phòng ngừa Trung Quốc.
Người Việt Nam đang vừa cân bằng, vừa bám
theo sức mạnh Trung Quốc và chú ý không thách thức
trực diện trong lĩnh vực biển đảo
TS Richard Weitz
Trả lời BBC Tiếng Việt từ London hôm
18/4/2011, Tiến sĩ Richard Weitz, Giám đốc Viện
nghiên cứu Hudson ở Washington DC, Hoa Kỳ, cho rằng
"Một hàng không mẫu hạm thì chưa đủ để
thách thức thế thượng phong của Hoa Kỳ trên Thái
Bình Dương".
Tuy nhiên, ông cho rằng cả một hạm
đội nhiều hàng không mẫu hạm của Trung
Quốc sẽ làm được điều đó.
Hiện chưa rõ Trung Quốc sẽ thiết
kế tiếp các tàu chiến và tàu sân bay ra
sao nhưng có các nguồn tin nói Hải quân Quân
Giải phóng đặt ra tham vọng lập một hạm đội
vào 2016.
Ông Richard Weitz tin rằng "Người Trung Quốc
biết được hạn chế của họ (về số hàng
không mẫu hạm), nên sẽ không dừng lại,
trừ khi họ dùng chiếc tàu mới nhất này chỉ vào
việc huấn luyện và thử nghiệm".
'Cân bằng
hoặc bám theo'
Trước câu hỏi sự xuất hiện của t̀àu
sân bay đầu tiên Trung Quốc đem ra "trình
làng" năm nay, các quốc gia nào khác ngoài Hoa Kỳ có
thể đóng vai trò cân bằng lại thế lực
quân sự của Trung Quốc, tiến sĩ Richard Weitz
trả lời:
Tướng Trung Quốc, ông Quách Bá
Hùng thăm lãnh đạo Việt Nam tại Hà Nội hôm 13/4
"Nga và Ấn Độ tự mình có
thể cân bằng lại sức mạnh quân sự của Trung
Quốc nhưng các nước láng giềng khác của Trung
Quốc thì phải dựa vào thế lực bên ngoài, như
Hoa Kỳ, hoặc chấp nhận làm chư hầu của Trung
Quốc."
Tiến sĩ Weitz giải thích rằng theo cách nói trong
tiếng Anh, các nước khác có sự lựa chọn: "cân bằng
hoặc bám theo" (balance or bandwagon).
Trong các đánh giá của giới chức Hoa Kỳ, một
phần đáng ngại của quá trình xây dựng sức mạnh
quốc phòng Trung Quốc là hỏa tiễn
đạn đạo và các cách tấn công bằng tin tặc và mạng
Internet trong không gian ảo.
Ông Weitz cho rằng "đây là những thứ
rất đáng ngại và đe dọa trực tiếp Hoa Kỳ,
Nḥât Bản cùng một số nước khác".
Nhưng một trong những chủ đề tác động
đến dư luận Việt Nam nhiều nhất
vẫn là cuộc tranh chấp ở Biển Đông.
Trong những tuần qua, Đài Loan và Philippines cũng
vào cuộc, lên tiếng mạnh hơn về chủ
quyền của họ tại vùng quanh quần đảo Trường Sa.
Trong một thư ngoại giao (note verbale) gửi lên
Liên Hiệp Quốc hồi đầu tháng, Manila
viết rằng tuyên bố chủ quyền Biển
Đông của Trung Quốc "không có cơ sở theo
luật quốc tế".
Tiến sĩ Richard Weitz cho rằng
chiến lược của Hà Nội là "khôn ngoan"
Bình luận về các bước đi ngoại giao này,
tiến sĩ Richard Weitz cho rằng điều đáng chú ý là
thực ra, căng thẳng về biển đảo trong vùng Đông
Nam Á "giảm đáng kể những tháng qua và xu hướng này sẽ
tiếp tục".
"Trung Quốc hiểu rằng họ đã sai lầm
khi hành xử quá hung hăng trước đó. Nay họ trở lại dùng
chiến lược câu giờ và đợi có cơ hội thích
hợp để bành trướng ra khu vực."
Tại diễn đàn Bác Ngao trên đảo Hải Nam
gần đây, lãnh đạo Bấm
Hồ Cẩm Đào
lên tiếng kêu gọi hợp tác tốt hơn ở
châu Á để tránh bất đồng đang gia tăng vì tranh
chấp lãnh thổ.
Trong các bước đi quân ṣư - ngoại giao gần
nhất, tướng lĩnh Trung Quốc đã sang thăm Việt
Nam, nói chuyện với các lãnh đạo Đảng Cộng sản và
Quân đội của nước chủ nhà.
Trong chuyến thăm của Ủy viên
Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung
Quốc, Bấm Tướng Quách Bá Hùng
đến Hà Nội, hai bên đã ra thông
cáo cuối tuần trước, khẳng định hợp tác giữa
quân đội hai nước.
Nhưng những năm qua, Việt Nam cũng
tăng cường mua vũ khí và các tàu chiến, phi cơ
chiến đấu trong chiến lược phòng ngừa và bảo
vệ biên giới trên biển.
Ngoài ra, Việt Nam cũng tăng cường
hợp tác với Philippines quanh vấn đề Trường Sa.
Theo tiến sĩ Weitz, đây là cách làm
"khôn ngoan", vừa "cân bằng, vừa bám theo" trước sức
mạnh quân sự đang lên của Trung Quốc và
cố gắng không thách thức trực diện về
biển đảo.
Pictures like the one above created quite a stir when
they first appeared on the Internet, and blogs and forums were soon
filled with stories of China secretly constructing thier first nuclear
powered aircraft carrier. At first glance, this aircraft carrier looks
quite real. The family resemblance to a US Navy Nimitz Class CVN is
undeniable; however, upon examining the photos at the bottom of the
page the viewer soon realizes that this ship, in fact, is landlocked.
So this is obviously not a real carrier. But what could it be? A
non-functional prototype, the first step towards the PLN's first
aircraft carrier? A stationary 'practice' carrier to train pilots? A
life-sized simulation or 'proof of concept' platform?
Nope. Actually, it is just a really, really cool looking building.
Namely, it is the award winning (for creative architecture) "Military
Education Center" at the "Orient Green Boat After-School Camp for
Youngsters."
Located about one hour west of Shanghai, the camp was constructed at
the shores of Dianshan Lake. It covers 360 hectares, and had 8 major
areas: Knowledge Boulevard; Bravery and Wisdom; Education on National
Defense; Challenge to Survival; Scientific Exploration; Water Sports;
Sports Training; and Practice in Living. The adjoining 5000-hectare
campsite and village features a Global Village, with accommodation for
4,000 students in a series of hostels, cabins, and campsites themed to
reflect the experience of being in 36 different countries. Sports
facilities, a golf course, parasailing, windsurfing, a simulated gun
range, rides in amphibious military vehicles, museum displays, video
games, aircraft, replica spacecraft, ICBMs, and a park with statues of
over 160 world-famous people are also included. Think of it as a cross
between summer camp, a school field trip, and a communist EPCOT Center.
The "ship" itself is of traditional steel-frame building construction,
and is a generic aircraft carrier about 7/8 scale to a Nimitz. Inside
are military displays, exhibition halls, meeting rooms, games, and
other attractions, and on the 'flight deck' there are Chinese military
aircraft, such as helicopters, fighters, and attack planes.
If you ever get the chance, pay it a visit. Busses run from Shanghai
and other nearby towns and cities, and admission is only 50 yuan, about
$6 US.
Ngày 4 Tháng 6
là ngày đẫm máu tại Thiên An Môn.
Vào ngày nầy mỗi năm thế giới nhắc nhở đến cái
chết đau đớn của sinh viên học sinh những nhà dân
chủ, những người đã can đảm đứng lên chống tham nhũng,
đòi hỏi người dân Trung Quốc có được cơm ăn
áo mặc và quyền làm người được tôn trọng.
Nhà cầm quyền Trung Quốc hẳn đã quá sợ hãi
trước sự nổi dậy của dân, các lãnh đạo Trung Quốc
đã tàn nhẫn ra lệnh phong tỏa Quảng Trường Thiên An
Môn, chận hết các nẻo đường chung quanh đó,
và chỉ thị cho quân đội bắn xối xả vào đám
đông và xe tăng cày nát lên thân
thể những người dân đang tụ tập tại đó.
Hình
ảnh
Quảng
Trường Thiên An Môn trước khi người
dân bị tàn sát (1989)
Đó là thời gian
Đăng Tiểu Bình và Lý Bằng cầm quyền đã nhẫn
tâm bắn giết đồng bào mình. Với tình trạng
của Trung Quốc bây giờ thì sao, nếu có một cuộc nổi
dậy đòi tự do dân chủ. Trong bài xã luận của
Đại tướng Lưu Quan (Liu Yuan) được đăng tải trên báo
chí tuần vừa qua, cho thấy sự sắt máu trong đường hướng
cai trị mới mà giới lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
đang quyết tâm củng cố. Điều nầy không khỏi đưa đến nhận
xét rằng, nếu có một cuộc nổi dậy tại Trung Quốc
ngày nay, giống như tình hình của Thiên An
Môn năm 1989, máu của dân chúng có thể
sẽ phải đổ nhiều hơn.
Lưu Quan được xem là
một ngôi sao đang lên trong Quân đội Nhân
dân Giải phóng. Tướng Lưu lên tiếng kêu gọi
Trung Quốc hãy tái lập ”truyền thống quân đội”
và khẳng định ”lịch sử được viết bằng máu và sự
tàn sát”. Trong bài xã luận của
mình, Họ Lưu mô tả quốc gia như là ”Một bộ
máy quyền lực được tạo dựng bằng bạo động” và
thách thức các lãnh tụ của Đảng Cộng Sản mang
ý hướng dân chủ là ”những người đang phản bội
truyền thống cách mạng của họ”, và tuyên bố rằng
”chiến tranh là sự nối tiếp tự nhiên của các nền
kinh tế chính trị, và con người không thể tồn tại
nếu không chém giết”. Họ Lưu phát biểu: "
Truyền thống quân đội đã có từ lâu đời
và là sự khôn ngoan quan trọng nhất của con người.
Không có chiến tranh làm sao có đại
đoàn kết. Không có binh lực, làm gì
có sự liên kết Quốc gia, Dòng giống, Văn
hóa, Bắc Nam có thể thành tựu?". Tướng Lưu Quan
đã lớn tiếng kêu gọi các người kế vị của cuộc
cách mạng cộng sản hãy tái khai phá tinh
thần chiến đấu cố hữu của họ và sáng suốt khai
phóng cho sự sống còn của họ: “Hỡi các thanh
niên của Đảng Cộng Sản, đừng đầu hàng! Hãy bắt đầu
trở lại".
Chủ Tịch nhà nước
Hồ Cẩm Đào (Hu Jintao) trong năm nay đã tiến
cử tướng Lưu Quan lên làm Chính Ủy của Tổng
Cục Hậu Cần Quân Đội Nhân Dân Giải Phóng
sau khi thăng cấp Đại Tướng cho Lưu Quan vào năm 2009. Một
số giới chức tin rằng Lưu Quan sẽ nhận sự thăng thưởng trong hai giai
đoạn bằng chiếc ghế trong Hội Đồng Quân Ủy Trung Ương, một bộ
phận lãnh đạo tối cao của Quân Đội.
“JUNE”:
Tháng
Sáu
đẫm
máu tại Thiên An Môn.Nói về Biến cố Thiên An
Môn, nhà văn kiêm nhà báo và
nhà thơ Shi Tao đã viết bài thơ với tựa đề “JUNE”
(THÁNG SÁU) tả về Tháng Sáu đẫm máu
tại Thiên An Môn. Bài thơ đã được dịch ra rất
nhiều thứ tiếng và chuyển đọc tại nhiều quốc gia trên thế
giới. Bài thơ viết rất đơn giản nhưng tác dụng của
nó thực sự mãnh liệt. Đọc thơ Shi Tao về biến cố
Thiên An Môn chúng ta thấy rõ lý tưởng
tranh đấu cho Dân chủ của ông và không lạ
gì về việc Shi Tao đã bị Nhà cầm quyền Trung Quốc
bắt bỏ tù.
Suốt đời
tôi Sẽ không bao giờ
có “Tháng sáu” quá
khứ (My whole life Will never get past “June”)Trong
hai
câu
đầu
ông đã truyền đạt hoàn
toàn khối cảm xúc của ông cho người đọc. Ông
viết rằng, cái Tháng Sáu đẫm máu đó
luôn luôn là một sự kiện rất thực và sống
động. Nó là Hiện Tại bởi vì nó vẫn nằm
trong mắt và trong tư tưởng, rất hiện thực và vì
thế đối với ông không thể nào “ Tháng
Sáu” là một quá khứ.được. Nó là vết
thương đang chảy máu và là vết thương đang đau.
Với hai câu thơ đầu tiên trong bài ông
đã đánh động lòng dân và hô
hào một sự nổi dậy. Khi con người chưa có cơm ăn
áo mặc và quyền làm người, con người phải tranh
đấu.
Tháng
sáu, mặt trời nung vỡ mảnh da trần Phơi bày
rõ nét, mặt thật vết thương tôi (June,
the scorching sun burns open my skin Revealing the true nature of my
wound)Mặt
Trời
với
người
dân Trung Quốc tiêu biểu cho Thiên
Hoàng, người có quyền lực tối cao trong tay, cầm quyền
sinh sát và cai trị đất nước. Khi người dân
có được sự no ấm, người dân yêu mến Hoàng Đế
của mình và gọi vua là Minh Quân. Một đấng
minh quân sẽ đem no ấm cho dân, như sự ấm áp của Mặt
Trời nuôi sống loài người muôn thú và
cây cỏ. Trong bài thơ của mình Shi Tao đã
dùng chữ Mặt Trời rất cô đọng và hàm
súc. Ông cho người đọc thấy rõ rằng, Nhà Cầm
Quyền Trung Quốc thời bấy giờ đã không đem no ấm cho
dân, ngược lại họ dùng quyền sinh sát của
mình làm vỡ da nát thịt người dân. Điểm nầy
cho thấy rõ vết thương “dân chủ” đang chảy máu. Mặt
Trời trong bài thơ nầy của ông không có sự ấm
áp làm căn bản sinh tồn cho con người. Mặt Trời thời điểm
đó đã dùng sức nóng cùng cực đốt
cháy, gây bỏng rát đau đớn cho thân phận
bé bỏng của người dân. Chữ “Tôi” (vết thương
tôi) trong hai câu thơ nầy một lần nữa nhấn mạnh đến
tính chất “hiện thực” trong quan điểm của Shi Tao về cái
nhìn vào Tháng Sáu lịch sử, đưa lịch sử
nhập vào vai trò hiện sử.
Tháng
sáu, con cá bơi vượt đại dương máu đỏ
Hướng về nơi xa ngủ giấc mùa đông (June, the fish swims
out of the blood-red sea Toward another place to hibernate)Với
cách
dùng
chữ,
viết bằng trái tim mình, Shi
Tao vẽ ngay trong mắt chúng ta thân phận của người
dân bất lực và ngộp thở trong quyền lực đỏ. Mỗi chữ trong
bài thơ mang nhiều ý nghĩa, rất hàm súc
vì tiềm tàng hình ảnh. Con cá nói
đến thân phận của người dân. Câu “bơi vượt đại đương
máu đỏ” nói đến sự vượt thoát không tưởng.
Hình ảnh bé nhỏ đáng thương của con cá mang
hy vọng sự sống, trong chủ ý “hướng về nơi xa”, là một
nơi có nước xanh trong, giữa ngút ngàn vô
tận của biển cả đỏ. Phải thoát khỏi đại dương đỏ, mới có
giấc ngủ bình an.
Một thanh niên
can đãm chận đoàn xe tăng tiến vào
quảng trường tàn sát
ngươì dân biểu
tìnhvào ngày 3 -4/6/1989
Shi Tao đưa vào bài
thơ cái thao thức trăn trở trước thời cuộc của ông
và của bao người vẫn đang khát khao một đời sống ở
đó quyền làm người được tôn trọng. Hình ảnh
con cá trong đại dương mênh mông ngoài sự
tranh đấu để vượt thoát còn nhấn mạnh một điểm
khác, ShiTao đã nhắc đến trong hai câu đầu
tiên của bài thơ, đó là điểm luôn thức
tỉnh. Chúng ta biết rằng cặp mắt loài cá
không bao giờ khép lại, ngay cả khi ngủ. Chọn hình
ảnh con cá trong bài thơ mình Shi Tao đưa ra
hình ảnh tiêu biểu cho sự thao thức. Lối dùng chữ
của Shi Tao thật đúng bậc Thầy. Một biển cả trong xanh sẽ dễ
dàng cho cá bơi lội. “Đại dương máu đỏ” trong
bài thơ nhấn mạnh đến thể chế cộng sản tại Trung Quốc, sự mịt mờ
không có lối thoát của người dân, cùng
hình ảnh một Thiên An Môn tắm máu người
vô tội. Biển cả đầy máu đỏ (Nhà cầm quyền Trung
Quốc) sẽ chận đường hướng làm cho con cá (người
dân) bị bưng bít mù lòa tăm tối. Câu
“hướng về nơi xa ngủ giấc mùa đông” đơn giản nói
đến tư tưởng Tự do Dân chủ. “Giấc ngủ mùa đông” cho
thấy thời gian tính của cuộc đấu tranh cho quyền làm
người.
Tháng
sáu, qủa đất vẫn quay, nước những dòng sông
vẫn đổ trong lặng lẽ Chất đống những bức thư chưa giao được cho
người đã lìa đời (June, the earth shifts, the rivers fall
silent Piled up letters unable to be delivered to the dead)Hai câu thơ nầy tạo cho người
đọc một nỗi đau quá lớn: Các hoạt động thường nhật vẫn
tiếp tục, cũng có nghĩa là Nhà cầm quyền vẫn dửng
dưng không rung động trước thảm cảnh thương tâm ngày
4/6. Số lượng sinh viên học sinh bị thảm sát tại
Thiên An Môn nhiều vô số kể. Hình ảnh người
đưa thư phân phát những bức thư gửi về các cư
xá sinh viên học sinh tràn ngập vì
không người nhận. Cho đến nay số người bị thảm sát tại
Thiên An Môn vẫn chưa có một con số nhất định. Con
số của Nhà cầm quyền Trung Quốc đưa ra thì quá
ít so với những con số của báo chí nước
ngoài, của Cơ quan Hồng Thập Tự. Một con số chính
xác nhất có thể thấy được, đó là: “chất đống những bức thư chưa giao được cho
người đã lìa đời”!
THÁNG
SÁU
Suốt đời tôi
Sẽ không bao
giờ có “Tháng sáu”
quá khứ
Tháng sáu, khi tim
tôi ngừng đập
Khi hồn thơ vỡ nát
Khi người yêu tôi
Gục chết trong vũng máu
nguồn tình
Tháng sáu, mặt trời
nung vỡ mảnh da trần
Phơi bày rõ
nét, mặt thật vết thương tôi
Tháng sáu, con
cá bơi vượt đại dương máu đỏ
Hướng về nơi xa ngủ giấc
mùa đông
Tháng sáu, qủa
đất vẫn quay, nước những dòng
sông vẫn đổ trong lặng
lẽ
Chất đống những bức
thư chưa giao được cho người đã lìa đời
JUNE của ShiTao, Uyên Hạnh chuyển dịch
JUNE
By Shi Tao
My
whole life
Will
never get past “June”
June,
when my heart died
When my
poetry died
When my
lover
Died in
romance’s pool of blood
June,
the scorching sun burns open my skin
Revealing
the true nature of my wound
June,
the fish swims out of the blood-red sea
Toward
another place to hibernate
June,
the earth shifts, the rivers fall silent
Piled
up letters unable to be delivered to the
dead
Translated
from Chinese to English by Chip Rolley, Sydney PEN Centre
Kỷ niệm Ngày 4
Tháng 6, xin nguyện cầu cho những người đã hy sinh cho Tự
Do và Dân Chủ. Hình ảnh những người dân
vô tội ngã xuống và gục chết một cách
thê thảm trên vũng máu chỉ vì lý tưởng
hòa bình không bao giờ mất đi trong tư tưởng mọi
người, như lời thơ của Shi Tao: ”Sẽ không là Quá
Khứ”!
Khi
thông báo về việc ông Mubarak từ chức,
Phó Tổng thống Omar Suleiman cho hay ông
tổng thống đã trao quyền điều hành cho
quân đội.
Ông
Suleiman
nói
trên
truyền
hình
nhà
nước
rằng
chỉ huy
quân đội đã lãnh trách nhiệm.
Ông
nói:
"Nhân
danh
Thượng
đế
nhân
từ,
trong
những
hoàn cảnh rất khó khăn mà Ai Cập đang phải gánh
chịu hiện nay, Tổng thống Hosni Mubarak đã
quyết định sẽ từ chức và đã trao cho ủy ban cao
cấp của lực lượng vũ trang quyền lãnh đạo
đất nước".
"Cầu
Thượng
đế
phù
hộ
cho
tất
cả
mọi
người."
Sau
đó, một sỹ quan quân đội đã đọc thông
cáo, ca ngợi ông Mubarak về các cống hiến
của ông nhưng thừa nhận quyền lực của người
dân.
Thông
cáo
nói:
"Không
có
gì
cao
hơn
quyền
lực của
nhân dân".
Ủy
ban cao cấp của quân đội do Bộ trưởng
Quốc phòng Mohamed Hussein Tantawi lãnh đạo.
Đây là cơ hội vô cùng quý
báu để kiến tạo một chính quyền có khả
năng đoàn kết người dân
Thủ tướng Anh David Cameron
Các
điện tín của sứ quán Mỹ tại Ai Cập rò rỉ
trên Wikileaks từng mô tả Tướng Tantawi là "già
nua và bảo thủ", nhưng cam kết không tham chiến
thêm nữa với Israel.
Ông
Mubarak
đã
rời
Cairo
và
hiện
có
mặt
tại khu nghỉ mát
Sharm el-Sheikh trên bờ Hồng Hải, nơi ông có dinh
thự riêng.
Tại
thủ đô, hàng nghìn người tập trung bên ngoài
dinh Tổng thống, tại quảng trường Tahrir và bên
ngoài đài Truyền hình Trung ương.
Họ
hò reo với thông điệp: "Nhân dân đã
lật đổ chính quyền".
Cựu
lãnh đạo phong trào này tại Quốc hội Mohamed
el-Katatni nói: "Tôi hoan nghênh người dân Ai
Cập và tri ân các liệt sỹ. Đây là ngày
chiến thắng của toàn dân Ai Cập. Mục tiêu
cuối cùng của cách mạng đã đạt được".
Ayman
Nour, đối thủ của ông Mubarak trong kỳ chạy đua chức
tổng thống năm 2005, nói đây là ngày vĩ đại
nhất trong lịch sử Ai Cập.
"Dân
tộc
này
vừa
tái
sinh.
Đất
nước
này
vừa tái sinh,
và đây là nước Ai Cập mới."
Amr
Moussa, cựu ngoại trưởng Ai Cập, thì tuyên bố
sẽ rời chức vụ tổng thư ký Liên đoàn Ả rập
"trong vài tuần tới". Hãng thông tấn Mena của
Ai Cập đưa tin ông có thể tranh cử chức
tổng thống.
Phóng
viên
BBC
tại
Cairo
nói
thông
báo
của
phó tổng
thống đã khiến người dân ngỡ ngàng: trong cả
thành phố, các lái xe bóp còi trong khi nhiều người
bắn súng chỉ thiên.
Tuy
nhiên phóng viên của chúng tôi nhận xét
việc quân đội nay nắm quyền điều
hành khiến mọi việc giống như một
cuộc đảo chính quân sự.
Hiến
pháp
đã
bị
vi
phạm
vì
đáng
ra
Chủ tịch Quốc hội
phải nắm quyền lãnh đạo chứ không phải chỉ huy
quân đội.
Thay
đổi lịch sử
Trong
khi đó trên toàn Trung Đông và Bắc Phi, kể cả
Tunisia, người dân ăn mừng cho thay đổi tại Ai
Cập.
Đại
diện cho Liên đoàn Ả rập, ông Moussa nói
các sự kiện tại Ai Cập cho cơ hội xây
dựng đồng thuận trong nước.
Iran
cũng mô tả đây là "chiến thắng vĩ đại".
Một
quan
chức
cao
cấp
của
Israel
bày
tỏ
hy vọng rằng
việc ông Mubarak ra đi sẽ không "thay đổi
quan hệ vốn hòa bình với Cairo".
Tổng
thư
ký
Liên
Hiệp
Quốc
Ban
Ki-moon
thì
nói
ông tôn trọng "quyết định khó khăn" được đưa ra
vì lợi ích của người dân, và kêu gọi một sự
chuyển giao "hòa bình và có trật tự".
Lãnh
đạo châu Âu cũng phản ứng tích cực trước thông
tin ông Mubarak từ chức.
Cho tới trưa thứ Bảy 12/02,
Chính phủ Việt Nam chưa đưa ra tuyên bố chính
thức về việc tổng thống Ai Cập từ
chức, trong khi báo chí đưa tin dè dặt.
Quyết định ra đi của ông Hosni Mubarak
được đưa ra vào gần nửa đêm 11/02, giờ Việt Nam.
Sáng sớm 12/02, hầu hết các báo
điện tử trong nước đều đã chạy tin về sự
kiện này, nhưng để ở bên trong chứ không
nằm lớn trên trang chủ như báo nước ngoài.
Chạy nhiều bài liên quan tới diễn
biến mới tại Ai Cập là tờ VnExpress, nhưng các bài
đều nằm trong chuyên mục tin quốc tế phải
rà chuột xuống cuối trang chính mới thấy.
Dường như các báo đang chờ đợi phát ngôn
chính thức của Chính phủ.
Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa có bình
luận gì về việc ông Hosni Mubarak từ
chức. Website của bộ này chỉ có phát biểu của
Người phát ngôn đưa ra từ bốn hôm trước, rằng
"Việt Nam quan tâm theo dõi những diễn biến gần đây
tại Ai Cập và mong muốn tình hình Ai Cập sớm đi
vào ổn định".
Cũng giống như Trung Quốc, Việt Nam
đặt cao tầm quan trọng của ổn định xã
hội-chính trị.
Dư luận quan tâm
Không như các kênh chính thống, các
diễn đàn tiếng Việt tràn ngập bình
luận của người quan tâm tới thời sự nói về
tình hình Ai Cập.
Một blogger viết: "Bây giờ Ai
Cập, bao giờ đến Việt Nam".
Người khác tỏ ra băn khoăn rằng cuộc chính
biến tại Ai Cập hiện nay chưa có dấu
hiệu của một cuộc "cách mạng dân chủ
thực sự".
Mubarak ra đi, Thụy Sỹ phong tỏa tài sản - khi
nào thì nhân dân lấy lại được những gì
đã bị cướp bởi những kẻ độc tài?
Blogger Osin
Có người quan ngại rằng việc mạng internet
đóng vai trò quan trọng trong điều phối làn sóng
biểu tình ở Ai Cập có thể dẫn tới
hậu quả là trang Facebook sẽ tiếp tục bị chặn ở
Việt Nam.
Nhà báo Huy Đức, hay blogger Osin, viết
trên trang Facebook của mình: "Mubarak ra đi, Thụy Sỹ phong tỏa
tài sản - khi nào thì nhân dân lấy lại
được những gì đã bị cướp bởi những kẻ độc tài?"
Nhà vận động dân chủ tại Mỹ Đoàn
Viết Hoạt, trong bài viết mới gửi cho BBC, thì
khẳng định: "Quần chúng Ai Cập đã thắng, sức mạnh của
nhân dân đã thắng".
"Cuộc biểu tình của mấy trăm ngàn người
kiên trì nhưng ôn hòa bất bạo động, diễn ra
trong trật tự, với sự đồng tình và bảo vệ của quân
đội, đã biến thành những ngày hội dân chủ,
một sự kiện độc đáo chưa từng có, đã làm
nức lòng mọi người yêu dân chủ trên
toàn thế giới, nhất là tại những nước như Việt Nam."
Ông Hoạt viết: "Dù tình
hình Ai cập còn nhiều bấp bênh nhưng sau những
gì đã xẩy ra ngoài đường phố Cairo, chắc chắn
không một thế lực độc tài nào còn có
thể dễ dàng khuynh loát được sinh hoạt chính trị
tại Ai Cập."
Quan điểm của giới bất đồng
chính kiến
Theo ông Đoàn Viết Hoạt, "quần
chúng là động lực, xuất phát điểm và mục
đích cuối cùng của cuộc biểu dương dân chủ".
Chế độ độc tài ở Ai Cập
còn non kém, khác xa với độc tài có khoa học của chủ
nghĩa Lenin
Linh Mục Nguyễn Văn Lý
Ông cũng nhận định rằng biến chuyển
chính trị tại Việt Nam đi theo một lộ trình khác
với Tunisia và Ai Cập, đó là "lộ trình chuyển
hóa dân chủ, vừa từ dưới lên, vừa từ trên
xuống", và nó đang xảy ra.
Còn linh mục bất đồng chính kiến
Nguyễn Văn Lý thì cho rằng liên quan của các
diễn biến tại Bắc Phi như Tunisia và Ai Cập
tới Việt Nam chỉ là "trong nhận thức của một
số người có theo dõi, chứ chưa liên quan tới từng
tế bào gân thịt của người dân".
"Đa số người dân vẫn không
biết những gì đang xảy ra tại Tunisia hay Ai Cập."
Theo linh mục Lý, "chế độ độc tài
ở Ai Cập còn non kém, khác xa với độc tài có khoa
học của chủ nghĩa Lenin".
Linh mục Nguyễn Văn Lý cho rằng muốn có
những thay đổi như ở Bắc Phi, các nhà hoạt động ở
Việt Nam phải phấn đấu nhiều nữa, "làm
sao để người dân Việt Nam thoát khỏi sợ hãi
và dối trá", mà ông cho là hai nền tảng của
chế độ xã hội trong nước hiện nay.
Ai Cập (tiếng Ả Rập:
مصر, Misr), có tên chính thức là Cộng
hòa
Ả
Rập
Ai
Cập (جمهوريّة مصر العربيّة, Gumhūriyyat
Misr al-'Arabiyyah), là một nước cộng hòa nằm ở Bắc Phi, Trung Đông
và Tây Nam Á. Nước
này còn được người Việt trước thế kỷ 20 phiên
âm là Y Diệp như trong sách Tây
hành nhật ký của Phạm
Phú Thứ.
Miṣr là tên chính thức
theo tiếng Ả Rập của Ai Cập hiện đại,
nó có nguồn gốc từ tiếng Semite
cùng gốc trực tiếp với tiếng Hebrew
מִצְרַיִם (Mitzráyim), có nghĩa là "hai
đoạn thẳng" và cũng có thể có nghĩa là "một
đất nước" hay "một quốc gia". Tên cổ của nước này
là kemet, hay "miền đất đen," xuất phát từ lớp
đất phù sa lắng đọng màu mỡ
màu đen do những trận lụt của sông Nil đem đến, khác biệt so với
'miền đất đỏ' (deshret) của sa mạc. Ở giai đoạn sau, cái
tên này trở thành keme trong tiếng Copt. Tên Egypt
theo tiếng Anh bắt nguồn từ từ Aegyptus
trong tiếng Latin
và xuất phát từ Αίγυπτος (Aiguptos) trong tiếng Hy Lạp cổ. Từ này có thể
lại có nguồn gốc từ câu ḥwt-k3-ptḥ ("Hwt ka Ptah")
trong tiếng
Ai
Cập
cổ có nghĩa là "ngôi nhà của Ka
(một phần linh hồn) của Ptah," tên của một ngôi đền
thánh Ptah tại Memphis
(Ai
Cập).
Những trận lụt đều đặn hàng năm mang theo nhiều phù sa của sông Nil, cùng với
tình trạng bán cô lập do sự ngăn cách của sa mạc phía đông
và phía tây, dẫn tới sự phát triển của một
trong những nền văn minh vĩ đại nhất thế giới. Nước Ai Cập được coi
là lập quốc vào khoảng năm 3100 trước Công Nguyên bởi
pharaong huyền thoại Menes, người đã cho
xây thành Memphis
và chọn đây làm kinh đô. Triều đại có
nguồn gốc địa phương cuối cùng, được gọi là Vương
triều thứ 30, đã sụp đổ trước sức tấn công của người Ba Tư năm 343 TCN và vị
pharaong người Ai Cập cuối cùng là Nectanebo II phải thoái vị. Lúc
ấy người Ai Cập đã đào nên nền móng đầu
tiên của kênh Suez
và nối liền Biển Đỏ với Địa Trung Hải. Sau đó, Ai Cập lần
lượt bị cai trị bởi người Hy Lạp, La Mã, Đông La
Mã (Byzantine)
và một lần nữa bởi người Ba Tư.
Chính người Ả Rập Hồi
giáo đã đưa Đạo
Hồi và tiếng Ả Rập tới Ai Cập
trong thế kỷ thứ 7,
và người Ai Cập dần tiếp nhận cả hai ảnh hưởng đó. Những
vị quan cai trị Hồi giáo do khalip chỉ
định ra nắm quyền kiểm soát Ai Cập trong ba thế kỷ tiếp sau.
Những triều đại tự chủ bắt đầu với những tổng đốc cha truyền con nối từ
năm 868. Ai Cập đạt đến tột đỉnh hùng mạnh với ba triều đại Fatimid
(trải từ Ma Rốc đến Xy Ri), Ayyubid (thắng
được liên quân các nước
Tây Âu), và Mamluk (thắng được
Mông Cổ và Tây
Âu). Từ năm 1517 Ai Cập bị lệ thuộc vào đế quốc Ottoman của người Thổ Nhĩ Kỳ, rồi
lại thêm ảnh hưởng của Pháp và
Anh cho đến thế kỷ 20.
Sau khi kênh đào Suez hoàn
thành năm 1869, Ai Cập trở thành một đầu mối vận chuyển
quan trọng của thế giới; tuy nhiên, nước này cũng
có một gánh nặng nợ lần to lớn. Với lý do bảo vệ
các khoản đầu tư của mình, Anh Quốc đã chiếm quyền
kiểm soát chính phủ Ai Cập năm 1882, nhưng trên
danh nghĩa vẫn nó vẫn thuộc Đế chế Ottoman cho đến tận năm 1914.
Sau khi giành lại độc lập hoàn toàn
từ tay Anh Quốc năm 1922, Nghị viện Ai Cập
phác thảo và áp dụng một hiến
pháp năm 1923 dưới sự lãnh đạo
của nhà cách mạng nhân dân Saad Zaghlul. Từ 1924
đến 1936, người Ai Cập đã thành công trong việc lập
ra một chính phủ hành pháp theo kiểu chính
phủ Châu Âu hiện đại; được gọi là Cuộc thử
nghiệm tự do Ai Cập. Tuy nhiên, người Anh, vẫn giữ một số
quyền kiểm soát khiến chính phủ không có độ
ổn định cần thiết. Năm 1952, một cuộc đảo chính quân sự buộc vua Farouk,
của
chính
thể
quân
chủ
lập
hiến,
thoái
vị nhường
ngôi cho con trai là vua Ahmed Fuad II.
Cuối cùng, nước Cộng hòa Ai Cập được
tuyên bố thành lập ngày 18
tháng 6 năm 1953 với Tướng Muhammad
Naguib là Tổng thống của nền cộng hoà. Sau đó
Naguib cũng bị Gamal Abdel Nasser,
kiến trúc sư của phong trào 1952 buộc phải từ chức năm
1954, Nasser lên nắm quyền Tổng thống và quốc hữu
hoá kênh Suez dẫn tới cuộc khủng hoảng Suez năm 1956. Nasser ra khỏi
chiến tranh với tư cách một anh hùng Ả Rập, và chủ nghĩa
Nasser đã lan rộng ảnh hưởng trong vùng dù
có gặp phải sự phản ứng từ phía một số người Ai Cập, đa
số họ trước đó không hề quan tâm tới chủ nghĩa quốc
gia Ả Rập.
Từ 1958 đến 1961, Nasser tiến hành xây dựng
một liên minh giữa Ai Cập và Syria
được gọi là Cộng
hòa Ả Rập Thống nhất. Nỗ lực này cũng gặp phải một số
chống đối, và rõ ràng rằng nhiều người Ai Cập
không bằng lòng khi thấy rằng cái tên của tổ
quốc mình, vốn đã có từ hàng nghìn
năm, bỗng nhiên biến mất. Ba năm sau cuộc Chiến tranh sáu ngày
năm 1967, trong đó Ai Cập mất bán đảo Sinai vào tay Israel, Nasser chết và được Anwar Sadat kế vị.
Sadat bỏ liên minh với Liên Xô
từ thời Chiến tranh Lạnh để quay sang Hoa Kỳ, trục xuất các cố vấn Liên
Xô năm 1972, và tung ra cuộc cải cách kinh tế Infitah, trong
khi tăng cường hành động đàn áp bạo lực đối với
các hành động chống đối tôn giáo. Cái
tên Ai Cập vẫn được giữ lại.
Năm 1973, Ai Cập cùng với Syria tung ra một cuộc
tấn công bất ngờ vào Israel trong cuộc Chiến tranh
tháng 10 (cũng được gọi là Chiến tranh Yom Kippur),
dù nó hoàn toàn là một thắng lợi
quân sự, nhưng về mặt chính trị lại không mang lại
kết quả. Cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều can thiệp
vào, và đạt tới một thỏa thuận ngừng bắn giữa Ai Cập
và Israel. Năm 1979, Sadat ký hiệp ước hòa
bình với Israel để đổi lấy bán đảo Sinai, một
hành động đã làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn
trong thế giới Ả Rập dẫn tới việc Ai Cập bị loại trừ khỏi Liên đoàn Ả Rập (Ai Cập
đã tái gia nhập năm 1989). Sadat bị những kẻ theo
tôn giáo chính thống ám
sát năm 1981, người kế tục ông là Hosni Mubarak.
Chính quyền Ai Cập bị nhiều nước coi là
độc tài quân sự. Dù quyền lực trên danh nghĩa
được tổ chức theo hệ thống
bán tổng thốngđa
đảng, theo đó quyền hành pháp trên
lý thuyết được phân chia giữa Tổng thống và Thủ
tướng, trên thực tế hầu như chỉ một mình Tổng thống được
bầu ra trong những cuộc bầu cử chỉ có một ứng cử viên
trong vòng hơn năm mươi năm qua. Ai Cập cũng có những
cuộc bầu cử nghị viện đa đảng thường xuyên. Cuộc bầu cử tổng
thống gần đây nhất, trong đó Mubarak thắng cử nhiệm kỳ thứ
năm liên tiếp, được tổ chức vào tháng 9 năm 2005
(xem dưới đây).
Cuối tháng 2 năm 2005, Mubarak thông
báo trên một chương trình truyền hình rằng
ông đã ra lệnh cải tổ luật bầu cử tổng thống của đất nước,
dọn đường cho những cuộc bầu cử đa ứng cử viên trong tương lai.
Lần đầu tiên kể từ phong trào năm 1952, dân
chúng Ai Cập có cơ hội thực sự để bầu ra một nhà
lãnh đạo từ một danh sách ứng cử viên. Tổng thống
nói rằng ý định này của ông xuất phát
từ "nhận thức đầy đủ của tôi về sự cần thiết phải củng cố những
nỗ lực để tăng cường hơn nữa tự do và dân chủ." Tuy
nhiên, luật mới đặt ra những hạn chế khắc nghiệt đối với người
muốn ra tranh cử, và đã được toan tính trước nhằm
ngăn chặn các ứng cử viên đã rất nổi tiếng như Ayman Nour
không thể ra tranh cử chống lại Mubarak, và dọn đường để
ông dễ dàng được tái tranh cử.
Những lo ngại một lần nữa lại dấy lên sau cuộc bầu
cử năm 2005 về sự can thiệp của chính phủ vào quá
trình bầu cử thông qua việc gian lận và lừa gạt.
Hơn nữa, bạo lực do những người ủng hộ Mubarak tiến hành chống
lại những người đối lập và sự tàn bạo của cảnh sát
đã xảy ra trong quá trình bầu cử. Điều này
đặt ra nghi vấn về cam kết mà chính phủ đã loan
báo về một quá trình dân chủ.
Vì vậy, đa số người dân Ai Cập vẫn
còn hoài nghi về quá trình dân chủ
hóa và vai trò của các cuộc bầu cử. Một tỷ
lệ rất nhỏ những người đủ tư cách bầu cử trên thực tế
đã bị gạt ra khỏi danh sách cuộc bầu cử năm 2005. Tuy
nhiên, báo chí đã cho thấy họ ngày
càng tự do hơn trong việc chỉ trích tổng thống, và
những kết quả của cuộc bầu cử nghị viện gần đây cho thấy những
đảng Hồi giáo như đảng hiện bị cấm Anh Em Hồi giáo
đã thắng nhiều ghế, việc này chứng tỏ một sự thay đổi
thật sự đang diễn ra.
Quốc tế
Trụ sở thường trực của Liên
đoàn các quốc gia Ả rập (Liên đoàn Ả
rập) đóng tại Cairo. Tổng thư ký Liên đoàn
từ lâu theo truyền thống đều là người Ai Cập. Cựu Bộ
trưởng ngoại giao Ai Cập Amr Moussa hiện
là Tổng thư ký Liên đoàn Ả rập. Liên
đoàn Ả rập đã rời khỏi Ai Cập sang Siry trong một giai
đoạn ngắn năm 1978 để phản đối hiệp ước hòa bình của Ai
Cập với Israel nhưng đã quay trở lại năm 1989.
Ai Cập là nước Ả rập đầu tiên thiết lập
quan hệ ngoại giao với nhà nước Israel, sau khi ký kết Hiệp
ước hòa bình Ai Cập-Israel theo Thỏa thuận
trại David. Ai Cập có ảnh hưởng lớn đối với các quốc
gia Ả rập, và từ lâu đã đóng một vai
trò quan trọng làm người hòa giải các tranh
chấp giữa các nước Ả rập, và tranh chấp Israel-Palestine.
Đa số các quốc gia Ả rập vẫn tin tưởng Ai Cập trong vai
trò này, dù ảnh hưởng của nó thường bị hạn
chế.
Cựu Phó thủ tướng Ai Cập Boutros Boutros-Ghali
đã làm Tổng thư ký Liên hiệp quốc từ 1991
đến 1996.
Một tranh chấp lãnh thổ với Sudan về vùng
được gọi là Tam giác Hala'ib,
khiến
quan
hệ
ngoại
giao
giữa
hai
nước
vẫn còn nhiều trở ngại.
Quân đội Ai Cập có lẽ là lực lượng
quân sự mạnh nhất trên lục địa Châu Phi, và
là một trong những lực lượng lớn nhất vùng Trung
Đông. Các lực lượng quân sự Ai Cập cũng có
nhiều kinh nghiệm chiến trường hơn đa số các quân đội
khác trong vùng. Quân đội Ai Cập có khoảng
450.000 người phục vụ thường xuyên.
Chỉ huy tối cao là Tổng thống, hiện tại Hosni Mubarak, trong thời chiến kiêm
luôn chức Nguyên
soái quân đội, Đô đốc hải
quân, Nguyên soái (Colonel General)
các lực lượng Phòng không và Không
quân. Trong thời bình, tước vị Chỉ huy tối cao chỉ
là danh nghĩa.
Nghĩa vụ quân sự
là bắt buộc đối với đàn ông Ai Cập từ tuổi 19.
Những sinh viên có thể lùi thời hạn nhập ngũ tới
tuổi 28. Thời gian nghĩa vụ phụ thuộc vào mức độ giáo dục
của từng người.
Ai Cập có mối hợp tác quân sự mạnh
với Hoa Kỳ, và trong nhiều lĩnh vực chiến lược, gồm quá
trình hợp tác đang thực hiện nhằm hiện đại hóa
trang bị vũ khí và huấn luyện các lực lượng Ai Cập.
Ai Cập tham gia thường xuyên vào các
cuộc tập trận với Hoa Kỳ và các nước Châu Âu
cũng như các đồng minh Ả rập, gồm những cuộc thao diễn hai năm
một lần diễn ra tại Ai Cập.
Ai Cập liên tục tham gia vào các
chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên hiệp
quốc, gần đây nhất là tại Đông
Timor, Sierra Leone, và Liberia.
Ai Cập được chia thành 26 tỉnh và thành phố Al Uqsur
(Luxor), được xếp hạng là một thành phố chứ không
phải một vùng thủ hiến. Dưới tỉnh là các khu. Dưới
khu là các thành phố và các tổng.
Dưới thành phố là các quận. Dưới tổng là
các xã.
Ai Cập là một thị trường được các
công ty quốc gia xem là trọng điễm trong khu vực Trung Đông và Bắc
Phi. Kinh tế Ai Cập phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp,
môi giới trung gian, xuất khẩu dầu mỏ và du lịch; cũng
có hơn 5 triệu người Ai Cập đang làm việc ở nước
ngoài, đa số tại Ả rập Xê út, vùng Vịnh như UAE, và Châu
Âu. Hoa Kỳ cũng có một lượng
lớn dân nhập cư Ai Cập.Ai Cập có thu nhập GDP đầu người ở mức 5800 USD, đứng thứ 133 trên thế giới.Ngoài ra, hiện tại Ai Cập cung
cấp khoảng 55% sản lượng vải cotton
trên thế giới.
Đập Aswan được hoàn
thành năm 1971 và Hồ Nasser được
hình thành từ đó đã thay đổi vị trí
của dòng sông Nile lâu đời đối với nông nghiệp và sinh thái
Ai Cập. Với một dân số tăng trưởng nhanh chóng (đông
nhất thế giới Ả rập), hạn chế về đất canh tác, và sự phụ
thuộc vào sông Nile khiến các nguồn tài
nguyên và kinh tế nước này phải chịu nhiều sức
ép lớn.
Chính phủ đã gắng sức đẩy mạnh phát
triển kinh tế trong thiên niên kỷ mới thông qua cải
cách kinh tế và đầu tư ồ ạt vào viễn thông
và hạ tầng cơ sở, đa số nguồn tài chính có
được từ viện trợ nước
ngoài của Hoa Kỳ (từ 1979, khoảng $2.2 tỷ mỗi năm). Ai Cập
là nước nhận viện trợ lớn thứ ba của Hoa Kỳ từ sau chiến tranh
Iraq. Các điều kiện kinh tế đang bắt đầu được cải thiện nhiều
sau một giai đoạn trì trệ nhờ việc tự do hóa các
chính sách kinh tế của chính phủ, cũng như tăng
nguồn thu từ du lịch và sự bùng nổ của thị trường chứng
khoán. Trong bản báo cáo hàng năm của
mình, IMF đã xếp
hạng Ai Cập là một trong những nước dẫn đầu thế giới về thực
hiện cải cách kinh tế.
Ai Cập là nước đông dân thứ hai ở
Châu Phi, với khoảng 83 triệu người. Hầu hết dân số tập
trung dọc theo hai bờ sông Nile (nhất là tại Alexandria
và Cairo) và tại Châu thổ và vùng gần
Kênh đào Suez. Gần 90% dân số theo Đạo Hồi và
đa số còn lại theo Thiên chúa giáo (nhiều
nhất là giáo phái Coptic Chính
thống). Ngoài việc phân chia theo tôn
giáo, người Ai Cập có thể được xếp loại theo nhân
khẩu thành những người sống ở vùng thành thị
và nông dân (fellahin) hay các
chủ trại ở các làng nông nghiệp.
Từ thời cổ đại, đặc biệt trước khi Thượng và Hạ
Ai Cập thống nhất, những ảnh hưởng từ Bắc Phi
và Địa Trung Hải đã trở
thành thống trị ở phía bắc, trong khi người Ai Cập ở
phía Nam vẫn giữ quan hệ với người Nubians và Ethiopians.
Dù có những khác biệt đó, người Ai Cập hiện
đại đang ngày càng có quan hệ gần gũi hơn với nhau
và đều là con cháu của xã hội Ai Cập cổ,
luôn gắn với nông nghiệp và đông đúc so
với các vùng xung quanh [1], [2]. Dân Ai Cập đã sử dụng nhiều loại
ngôn ngữ từ hệ ngôn ngữ
Afro-Asiatic trong suốt lịch sử của họ bắt đầu từ Ai Cập Cổ cho tới Ai Cập Ả rập
hiện đại.
Sự Ả Rập hoá Ai Cập
là một quá trình văn hóa đã bắt đầu
với việc du nhập Đạo Hồi
và ngôn
ngữ
Ả
rập sau khi người Ả rập Hồi giáo chinh phục họ
vào thế kỷ thứ 7.
Trong
các
thế
kỷ
tiếp
theo,
một
hệ
thống thứ bậc xã hội
đã được tạo ra theo đó người Ai Cập đã cải đạo Hồi
giáo có được vị trí mawali hay "khách
hàng" đối với tầng lớp Ả rập cai trị, trong khi những người vẫn
theo Thiên chúa giáo, Copts, bị gọi là dhimmis. Sự ưu
tiên của cộng đồng Ả rập thiểu số tiếp tục biến đổi thành
một hình thức mới trong giai đoạn hiện đại ở vùng
nông thôn, nơi những tàn tích của các
bộ lạc Ả rập Bedouin
tồn tại song song với các nông dân Ai Cập. Một
tác giả đã miêu tả nhân khẩu học xã
hội nông thôn vùng Thượng Ai Cập như sau:
Thượng Ai Cập bao gồm tám vùng thủ hiến
xa nhất về phía nam. ... lịch sử vùng này
là một trong những trung tâm cách biệt nhất khỏi
trung tâm đời sống quốc gia. Mối quan hệ địa phương hình
thành từ điều kiện đó trong nhiều thế kỷ đã khiến
Thượng Ai Cập có một nét riêng biệt bên trong
quốc gia Ai Cập hiện đại. Bên cạnh đó, sự hiện diện từ xa
xưa của người Copts, những nhóm bộ tộc từ thời chinh phục của
người Ả rập đã hình thành nên một tôn
ti trật tự đặt hai nhóm [thiểu số], ashraf và Ả rập
lên vị trí thống trị. Trật tự này được các
bộ tộc nhỏ hơn tuân theo, với người nông dân [Ai Cập]
ở vị trí thấp nhất trong xã hội(28) [...] Tôn
giáo là trung tâm của sự phát triển
xã hội Thượng Ai Cập. Ashraf tuyên bố họ là con
cháu trực tiếp của Prophet, trong khi Ả rập cho rằng họ
có nguồn gốc từ một nhóm bộ tộc ở Ả rập. Mặt khác,
người nông dân (fellahin) vẫn bị cho là con
cháu của các cộng đồng tiền Hồi giáo Ai Cập
và đã cải sang Hồi giáo, một lịch sử khiến họ
không thể vượt lên cả ashraf lẫn Ả rập. [...] Trong
các cộng đồng Hồi giáo cũng như Thiên chúa
giáo, và đặc biệt ở mức độ kinh tế xã hội thấp
hơn, việc thực thi tôn giáo rất quan trọng đối với những
yếu tố dân gian không chính thống, một trong những
nguồn gốc từ thời pharaoh. [3]
Fellah có nghĩa là "nông
dân", "tá điền", trong tiếng Ả rập nó chỉ những
người dân vùng nông thôn tại những nơi người Ả
rập đã chinh phục được. 60% dân số Ai Cập [4],
là fellahin (số nhiều của fellah???) có
cuộc sống khổ cực và tiếp tục sống trong những ngôi
nhà làm bằng gạch bùn giống như tổ tiên xưa
kia của họ. Đầu thế kỷ 20, con số này còn cao hơn, trước
khi có làn sóng nhập cư của họ vào
các thành thị và thị trấn. Năm 1927, nhà
nhân loại học Winifred Blackman, tác giả cuốn Người
Fellahin Thượng Ai Cập, đã tiến hành một nghiên
cứu dân tộc học về cuộc sống của
những người nông dân Thượng Ai Cập và kết luận rằng
có một sự tiếp nối giữa các đức tin và sự thi
hành văn hóa và tôn giáo trong những
người fellahin với những thời Ai Cập cổ đại [5].
Các nhóm dân tộc thiểu số ở Ai Cập
gồm một lượng nhỏ bộ tộc Ả rập Bedouin sống ở phía
đông và phía tây sa mạc và Bán đảo Sinai, người Siwis ở Ốc đảo Siwa nói ngôn
ngữ Berber và các cộng đồng Nubian cổ tụ tập dọc theo
sông Nile vùng cực nam Ai Cập. Ai Cập cũng có
khoảng 90.000 người tị nạn, đa số là 70.000 người tị nạn
Palestine và 20.000 người tị nạn Sudan.
Một
cộng
đồng
Do
Thái từng rất mạnh mẽ đã hoàn toàn biến
mất, hiện chỉ còn một số lượng nhỏ ở lại Ai Cập và những
người chỉ tới đó vào các dịp lễ hội tôn
giáo. Nhiều địa điểm khảo cổ học và lịch sử quan trọng
của Do Thái hiện vẫn còn tại đó.
Theo hiến pháp, bất kỳ một thể chế mới nào
đều phải tuân theo luật Hồi giáo (tiếng Ả rập: الإسلام).
Ai Cập là một nước Hồi giáo với gần 90% dân số theo
đạo này, phần lớn thuộc dòng Sunni một nhánh của
Hồi giáo [6]. Người theo Thiên chúa giáo
chiếm khoảng 10% dân số, phần lớn là dòng Coptic
với 9%, 1% còn lại gồm Công
giáo, Hy Lạp Chính thống,
Syri Chính thống,
và
Armenia
Chính Thống, phần lớn sống tại Alexandria
và Cairo.
Hiện vẫn còn một cộng đồng Do Thái nhỏ,
với khoảng 300 người Ai Cập.
Có những người Ai Cập tự coi mình
là vô thần
và theo thuyết bất
khả tri, nhưng không thể biết số lượng của họ vì việc
công khai điều này đồng nghĩa với việc bị trừng phạt. Năm
2000, một nhà văn Ai Cập vô thần công khai,
kêu gọi thành lập một hiệp hội những người vô thần ở
Ai Cập, đã bị kết tội lăng mạ Hồi giáo và những
nhà tiên tri trong bốn cuốn sách của ông [7].
Trường phái Hanafi của Hồi giáo Sunni được
nhà nước tổ chức rộng rãi thông qua Wizaret
Al-Awkaf (Bộ các vấn đề tôn giáo). Al-Awkaf
kiểm soát mọi thánh đường và quản lý mọi tu
sĩ Hồi giáo. Các Imams được đào tạo
trong những trường hướng nghiệp Imam và tại Đại học Al-Azhar.
Ủy ban này ủng hộ Hồi giáo Sunni và có
nhiệm vụ đưa ra những lời phán quyết Fatwa về các vấn
đề.
Ai Cập có hai thể chế tôn giáo
chính. Đại học Al-Azhar
(Arabic: جامعة الأزهر) là thể chế Hồi
giáo cổ nhất và là viện nghiên cứu cấp
cao nhất (đã được thành lập từ khoảng năm 970sau
Công Nguyên). Ai Cập cũng có nhiều di sản
Thiên chúa giáo với sự hiện diện của Nhà thờ
Coptic Chính thống do Giáo
trưởng Alexandria lãnh đạo, với khoảng gần 50 tín đồ
Thiên chúa giáo trên khắp thế giới (Một trong
những Nhà thờ Coptic Chính thống nổi tiếng khác
là Nhà thờ Thánh Takla Haimanot tại Alexandria [8]).
Bahá'ís
ở Ai Cập với số người theo khoảng vài trăm nghìn, nhưng
các thể chế và hoạt động cộng đồng của họ bị cấm ngặt; họ
cũng không được phép có chứng minh thư.
Tháng 4,
2006 một tòa án đã công nhận Đức tin
Bahá'í nhưng chính phủ đã quyết định
tái thẩm lại trường hợp đó. Một thành viên
nghị viện, Gamal Akl của đảng chính trị đối lập Anh Em Hồi
giáo, đã nói Bahá'ís là những
người vô đạo và phải bị giết trên mảnh đất mà
họ đã quyết định thay đổi tôn giáo của mình [9].
Ai Cập có biên giới với Li
bi ở phía tây, Sudan ở
phía nam, với Israel ở đông bắc.
Vai trò địa chính trị quan trọng của Ai Cập xuất
phát từ vị trí chiến lược của nó: là một quốc
gia liên lục địa, họ sở hữu một cầu nối lục địa (Eo đất Suez)
giữa Châu Phi và Châu Á, và một cầu nối đường
thuỷ (Kênh Suez) nối
giữa Biển Địa Trung Hải và Ấn Độ Dương
thông qua Biển Đỏ.
Các sa mạc: Ai Cập chiếm một phần Sa mạc Sahara và Sa mạc Libya.
Các sa mạc này được coi là "vùng đất đỏ"
trong thời Ai Cập cổ đại, và nó bảo vệ Vương quốc của
các Pharaohs tránh khỏi các mối đe dọa từ
phía tây.
Thủ đô Cairo của Ai Cập là thành phố
lớn nhất Châu Phi và từ nhiều thế kỷ đã nổi tiếng
là một trung tâm học thuật, văn hóa và
thương mại. Viện
hàn lâm ngôn ngữ Ả rập của Ai Cập chịu
trách nhiệm chỉnh lý ngôn ngữ Ả rập
(Arabic:اللغة العربية ) trên khắp thế giới.
Ai Cập có một nền công nghiệp truyền
thông và nghệ thuật phát triển từ cuối thế kỷ 19, hiện nay có hơn 30 kênh
truyền hình vệ tinh và 100 phim truyện sản xuất
hàng năm. Trên thực tế Cairo từ lâu đã được
gọi là "Hollywood của phương Đông." Để phát triển
hơn nữa ngành truyền thông của mình, đặc biệt với
sự cạnh tranh mạnh mẽ từ Các
quốc gia Ả rập vùng Vịnh và Li băng, một thành phố điện ảnh lớn
đã được xây dựng. Ai Cập là nước Ả rập duy nhất
có nhà hát opera.
Một số người Ai Cập nổi tiếng:
Saad Zaghlul
(lãnh đạo cuộc cách mạng hiện đại Ai Cập đầu tiên)
Tình trạng bất ổn
thời gian qua tại Tunisia, quốc gia Ả rập châu
Phi, đã thu hút sự chú ý của dư luận trên thế
giới.
Kinh tế gia, nhà nghiên cứu
nổi tiếng của Pháp, Jacques Attali đưa ra cái nhìn
của ông về sự kiện mà ông gọi là
"cuộc cách mạng hoa nhài".
Bài viết tựa đề "Tunisia, rồi sau
đó?" của Attali đăng trên tờ L'Express hôm 19/01, bình
luận rằng những gì xảy ra tại Tunisia không phải là
điều bất ngờ.
"Cả thế giới biết rằng thực tế
trong ít nhất hai mươi năm nay, làn sóng dân chủ đã
tràn qua cả thế giới."
Theo tác giả, lý do không phải bởi các
diễn biến chính trị, mà chính vì nền kinh
tế thị trường.
"Về lý thuyết, theo phân tích của
Karl Marx thì thị trường tạo tiền đề cho dân
chủ xuất hiện."
Muốn có chuyển đổi dân chủ
tại các quốc gia nước ngoài, theo Attali, chính phủ Pháp
cần khuyến khích các thay đổi đó.
"Pháp phải nói rõ rằng dân chủ là hệ
thống xã hội duy nhất có thể chấp
nhận được, rằng một vị lãnh đạo không
thể cầm quyền cả hai mươi năm rồi
chuyển giao cho con cái của mình."
Theo ông, chính phủ Pháp cần cho
thấy họ không phải là bạn bè của nhân
vật lãnh đạo, mà là của người dân các nước, cho
dù việc thay đổi lãnh đạo có thể trước mắt
sẽ ảnh hưởng quyền lợi của các doanh nghiệp Pháp.
"Hy vọng là người ta không quên những
bài học này trước khi một cuộc cách mạng hoa
giấy hay cách mạng cây sậy..."
Jacques Attali (sinh năm 1943 tại Algiers,
Algeria) là kinh tế gia và học giả Pháp. Từ 1981 tới
1991, ông là cố vấn cho Tổng thống
François Mitterrand.
Tunisia
Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia
الجمهورية التونسية Al-Jumhūriyyah at-Tūnisiyyah
Cộng hòa
Tunisia
Khẩu hiệu
حرية، نظام، عدالة (Hurriya, Nidham, 'Adala)
"Tự do, Trật tự, Công bằng"
Tunisia (Ả
Rập: تونس Tūnis),
tên chính thức Cộng hoà Tunisia (الجمهورية التونسية al-Jumhūriyya
at-Tūnisiyya), là một quốc gia ở thượng châu Phi. Bắc Phi. Nước này giáp với Algeria ở phía
tây, Libya ở phía đông nam,
và Biển Địa
Trung Hải ở phía bắc và phía đông.
Tunisia có diện tích 165,000 km² với dân
số ước tính chỉ hơn 10.3 triệu người. Tên nước xuất
phát từ tên thủ đô Tunis nằm ở
phía đông bắc.
Tunisia là nước nằm ở cực bắc lục địa châu
Phi, và là quốc gia nhỏ nhất trong số các quốc gia
nằm dọc theo dãy núi Atlas. Miền
nam nước này gồm một phần của sa mạc
Sahara, và hầu hết phần còn lại gồm đất đai đặc biệt
màu mỡ và 1,300 km bờ biển. Từng hai lần đóng
vai trò đặc biệt quan trọng trong thời cổ đại, đầu tiên
với thành phố Phoenicia nổi tiếng của Carthage, sau đó như Tỉnh
châu Phi được gọi là "giỏ bánh mì" của Đế chế La Mã. Sau
này, Tunisia bị những kẻ cướp bóc xâm chiếm ở thế
kỷ thứ 5, người
Byzantine ở thế kỷ thứ 6 và người Ả
Rập ở thế kỷ thứ 7.
Dưới thời Đế
chế
Ottoman, Tunisia được gọi là "Nhiếp chính Tunis".
Nó được chuyển sang thuộc quyền bảo hộ của Pháp
năm 1881. Sau khi giành được độc lập năm 1956, nước này
lấy tên chính thức là "Vương quốc Tunisia" ở cuối
thời kỳ cầm quyền của Lamine Bey và Triều
đại Husainid. Với tuyên bố đưa nhà nước trở
thành cộng hoà Tunisia ngày 25 tháng 7 năm
1957, nhà lãnh đạo quốc gia Habib
Bourguiba trở thành tổng thống đầu tiên và
lãnh đạo cuộc hiện đại hoá đất nước. Ngày nay
Tunisia là một quốc gia hướng theo xuất hẩu, trong quá
trình tự do hoá nền kinh tế của mình [1].
Từ Tunisia xuất xứ từ Tunis;
một
thành
phố
thủ
đô của Tunisia hiện đại. Hình
thức tên hiện nay, với hậu tố Latinh -ia, xuất phát từ chữ Tunisie
của tiếng Pháp.[2]
Cái tên này đã được các nhà
địa lý, sử học Pháp sử dụng như một phần nỗ lực của họ
nhằm tạo ra những cái tên mới cho những lãnh thổ
và khu vực bảo hộ mà họ mới chiếm được. Từ Pháp Tunisie
đã được chấp nhận trong một số ngôn ngữ châu
Âu với một ít sửa đổi để tạo ra một cái tên
riêng biệt để chỉ nước này. Các ngôn ngữ
khác không liên quan tới việc này như trong tiếng Tây Ban NhaTúnez.
Trong
trường
hợp
này,
cái tên được dùng cho
cả quốc gia và thành phố như trong tiếng
Ả
Rập : تونس và chỉ theo ngữ cảnh, thì mọi người
mới phân biệt được sự khác biệt.[2]
Cái tên Tunis có thể được
gán cho nhiều nguồn gốc khác nhau. Nó có
thể liên quan tới vị nữ thần Phoenician Tanith (aka Tunit),
thành phố cổ Tynes hay với nguồn gốc Berber ens
có nghĩa "nằm xuống".
Vào thời điểm bắt đầu có việc chép
sử, Tunisia là nơi sinh sống của các bộ lạc Berber.
Ven biển đã có người Phoenicia định cư từ thế
kỷ 10 trước Công nguyên. Thành phố Carthage đã được thành lập
vào thế kỷ 9 trước Công nguyên bởi những người định
cư từ Tyre,
ngày
nay
là
Liban. Truyền thuyết
cho rằng Nữ
hoàng Elissa đã thành lập thành phố
vào năm 814 trước Công nguyên và được nhắc
lại bởi nhà văn Hy Lạp Timaeus của Tauromenium. Những người định
cư Carthage mang văn hóa và tôn giáo của họ
từ những người Phoenicia và Canaan.
Sau một loạt các cuộc chiến với các
thành bang Hy Lạp Sicily vào thế kỷ 5 trước Công
nguyên, quyền lực của Carthage đã mạnh lên và
cuối cùng đã trở thành nền văn minh chủ đạo ở
phía tây Địa Trung Hải.
Người Carthage thờ cúng các vị thần Trung Đông, bao
gồm Baal
và Tanit.
Biểu
tượng
của
thần
Tanit, một hình tượng phụ nữ đơn giản với
cánh tay dang ra và mặc váy dài là
một hình tượng phổ biến được tìm thấy ở các địa
điểm cổ. Những người sáng lập của Carthage cũng lập nên
một Tophet
và được thay đổi vào thời kỳ La Mã.
Dù người La Mã đề cập đến đế quốc mới
phát triển ở thành phố Carthage là Punic hay Phoenician, nhưng đế
quốc được xây xung quanh Carthage là một chính thể
độc lập khỏi các khu định cư Phoenicia ở phía tây
Địa Trung Hải.
Một cuộc xâm lược Italia của Carthage do Hannibal chỉ huy trong cuộc chiến tranh
Punic thứ hai, một trong một loạt các cuộc chiến với La
Mã, gần như làm tê liệt Đế chế La Mã . Carthage cuối
cùng đã bị La Mã chinh phục vào thế kỷ 2
trước Công nguyên, một bước ngoặt dẫn đến việc nền văn minh
Địa Trung Hải cổ chủ yếu chịu ảnh hưởng của các nền văn
hóa châu Âu thay vì châu Phi. Sau khi
La Mã chinh phục, khu vực này đã trở thành
một trong những vựa lúa của La Mã và đã bị
Latinh hóa và Thiên Chúa giáo
hóa hoàn toàn. Lãnh thổ này bị Vandals chinh
phục vào thế kỷ 5 sau Công nguyên và lại bị
chinh phục bởi Belisarius
một lần nữa vào thế kỷ 6 trong thời kỳ trị vì của
hoàng đế ByzantineJustinian.
Vào thế kỷ 7, vùng này bị những
người Hồi giáo Ả Rập, những người đã lập thành phố
Kairouan
chinh phục. Các triều đại Hồi đã bị gián đoạn bởi
các cuộc nổi loạn của người Berber. Những thời kỳ cai trị của
người Aghlabid
(thế kỷ thứ 9) và của người Zirid (từ năm 972), những
người Fatimid
theo Berber, đặc biệt thịnh vượng. Khi những người Zirid làm
người Fatimid tức giận ở Cairo (1050), người
Fatimid đã gửi bộ tộc Banu Hilal tới trả
thù Tunisia.
Những vùng ven biển đã có thời gian
ngắn bị người
Norman của Sicily kiểm
soát vào thế kỷ 12 và việc tái chinh phục
của người Ả Rập đã làm cho những tín đồ
Thiên Chúa giáo cuối cùng ở biến mất. Năm
1159, Tunisia bị vua Hồi giáo Almohad chinh phục. Sau
đó là Hafsids (khoảng 1230 –
1574) của Berber, dưới thời này Tunisia đã thịnh vượng.
Cuối thế kỷ 16, vùng ven biển thành một căn cứ địa của cướp biển. Trong những năm cuối cùng của
Hafsids, Tây Ban Nha đã chiếm
đóng nhiều thành phố ven biển nhưng lại bị đế chế Ottoman chiếm
lại. Dưới thời các toàn quyền người Thổ Nhĩ Kỳ, Beys, Tunisia
đã lấy lại độc lập thực sự. Triều đại Hussein của Beys, được
thành lập năm 1705, tồn tại đến năm 1957.
Giữa thập kỷ 1800, chính quyền Tunisia dưới sự
cai trị của Bey đã thỏa hiệp thông qua các quyết
định tài chính gây tranh cãi đã dẫn
tới sự suy thoái của Tunisia. Pháp bắt đầu toan
tính kiểm soát Tunisia khi Bey lần đầu vay mối khoản tiền
lớn để phương Tây hóa đất nước. Những người định cư
châu Âu ở nước này được đặc biệt khuyến
khích; số lượng người Pháp tăng từ
34,000 năm 1906 lên 144,000 năm 1945. Năm 1910 có 105,000
người Italia ở Tunisia.[3]
Năm 1942– 1943, Tunisia là nơi diễn ra những
chiến dịch lớn của các lực lượng Đồng Minh
(Đế chế Anh và Hoa Kỳ) chống lại các cường quốc Phe Trục (Italia và Đức) trong Thế chiến thứ hai.
Lực lượng chính của quân đội Anh, tiến lên sau chiến
thắng của họ trong Trận El Alamein
thứ hai dưới sự chỉ huy của Tướng
Montgomery, tiến vào Tunisia từ hướng nam. Hoa Kỳ và
các đồng minh khác, sau những cuộc xâm lược của họ
ở Algeria và Morocco trong Chiến dịch Ngọn
đuốc, tiến vào từ phía tây.
Tướng Rommel, chỉ huy
các lực lượng Phe Trục ở Bắc Phi,
đã hy vọng giáng cho đồng minh một thất bại ở Tunisia như
các lực lượng Đức từng thực hiện ở Trận nước Pháp năm 1940. Trước trận
El Alamein, các lực lượng đồng minh đã buộc phải
rút về hướng Ai Cập. Vì thế trận Tunisia là thử
thách lớn cho quân đồng minh. Họ biết rằng để đánh
bại các lực lượng phe Trục họ phải phối hợp hành động
và nhanh chóng hồi phục từ những thất bại không thể
tránh được mà các lực lượng Đức-Italia sẽ
gây ra.
Ngày 19 tháng 2 năm 1943, Tướng Rommel
tung ra một cuộc tấn công vào các lực lượng Mỹ ở
vùng Đèo
Kasserine ở phía tây Tunisia, hy vọng giáng cho
một đòn làm mất tinh thần của quân đồng minh như
người Đức từng làm được tại Ba Lan và Pháp. Những
kết quả ban đầu mang tính thảm hoạ cho người Mỹ; vùng
xung quanh Đèo Kasserine là nơi có nhiều nghĩa
trang
chiến
tranh của người Mỹ từ thời điểm đó.
Tuy nhiên, các lực lượng Mỹ cuối
cùng đã có thể đảo ngược tình thế. Biết
được một chiến lược chiến tranh xe tăng
tối quan trọng, quân Đồng minh đột phá qua giới tuyến
Mareth ngày 20 tháng 3 năm 1943. Sau đó quân
đồng minh đã có thể liên kết với nhau vào
ngày 8 tháng 4 và vào ngày 2
tháng 5 quân đội Đức-Italia ở Tunisia đầu hàng. Nhờ
thế, Hoa Kỳ, Anh Quốc, Pháp tự do và Ba Lan (cũng như
các lực lượng khác) đã có thể giành
được thắng lợi trong một trận đánh lớn như một đội quân
đồng minh.
Trận đánh này, dù thường bị Trận Stalingrad làm lu mờ,
là một thắng lợi lớn của đồng minh trong Thế chiến II phần lớn
bởi nó cho phép Đồng Minh trong một ngày sắp tới
sẽ giải phóng Tây Âu.
Bài viết (hoặc đoạn)
này hiện gây tranh
cãi về tính
trung lập.
Đề nghị: Người gắn tiêu bản nêu lý do tại trang
thảo luận. Nếu không có lý do tại trang thảo
luận, tiêu bản có thể bị tháo bỏ.
Xin đừng xóa bảng thông
báo này cho đến khi kết thúc hoặc đạt được đồng
thuận trong vấn đề này.
Tunisia là một nền dân chủ theo thủ tục.
Trên giấy tờ đây là một hệ thống cộng hoà
tổng thống có đặc điểm ở hệ thống nghị viện lưỡng viện, gồm Viện
Đại biểu và Viện Cố vấn. Tổng thống độc tài Zine El Abidine Ben Ali, trước kia
là một nhân vật quân sự, đã nắm quyền từ năm
1987, năm ông lên nhận chức vụ hành pháp của Habib Bourguiba sau khi một đội
chuyên gia y tế cho rằng Bourguiba không thích hợp
để thực hiện các chức năng của chức vụ này. Trước thời
điểm đó Ben Ali là một bộ trưởng của Bourguiba.
Ngày nhậm chức, mùng 7 tháng 11, được chào
mừng như một ngày lễ quốc gia, với nhiều toà nhà
công cộng và thậm chí cả đồng tiền tệ quốc gia
và hãng hàng không tư nhân cùng
đài truyền hình tư nhân duy nhất (cả hai đều thuộc
sở hữu của gia đình đệ nhất phu nhân) đều mang logo '7
tháng 11'.
Tại Tunisia, Tổng thống được bầu lại với đại đa số phiếu
sau mỗi nhiệm kỳ 5 năm. Ông chỉ định một Thủ tướng và nội
các, thủ tướng không đóng vai trò quan trọng
trong việc thiết lập chính sách. Các thống đốc
vùng và các cơ quan hành chính địa
phương cũng do chính phủ trung ương chỉ định. Phần lớn
các thị trưởng và các hội đồng thành phố
được bầu ra với hầu như tất cả các ghế đều thuộc đảng của Tổng
thống. Có một cơ cấu nghị viện lưỡng viện, Viện Đại biểu,
có 182 ghế, 20% trong số đó được dành cho
các đảng đối lập, và Viện Cố vấn gồm
các đại diện của các đảng chính trị, các tổ
chức chuyên nghiệp do Tổng thống kiểm soát và
các cá nhân do Tổng thống của nền Cộng hoà
chỉ định. Cả hai viện đều gồm hơn 20% nữ, khiến đây là
nước hiếm hoi trong thế giới Ả Rập nơi phụ nữ có các
quyền bình đẳng. Khá bất ngờ, đây cũng là
quốc gia duy nhất trong thế giới Ả RẬp nơi chế độ đa thê
bị luật pháp ngăn cấm. Đây là một phần của nội dung
Luật Vị thế Cá nhân của quốc gia được cựu Tổng thống
Bourguiba đưa ra năm 1956.
Tư pháp không độc lập về các vấn đề
hiến pháp và thường tham nhũng trong những vụ án
dân sự. Quân đội không đóng một vai trò
rõ ràng trong chính trị và để vị Tổng thống
cựu quân nhân mặc sức điều hành đất nước.
Hàng trăm hay hàng ngàn thanh niên đã
trốn tránh nghĩa vụ quân sự và sống với mối lo sợ
thường xuyên về việc bị bắt giữ mặc dù bề ngoài
cảnh sát chỉ truy đuổi họ trong một số thời điểm trong năm
và thường để họ đi nếu nhận được một khoản hối lộ.
Chế độ liên tục thông qua các điều
luật khiến họ có vẻ là dân chủ với những nhà
quan sát từ bên ngoài. Từ năm 1987, Tunisia
đã nhiều lần cải cách hệ thống chính trị. Họ
đã chính thức xoá bỏ hệ thống tổng thống trọn đời
và mở cửa nghị viện cho các đảng đối lập. Tuy
nhiên, trên thực tế mọi quyền lực được tập trung
chính thức trong tay tổng thống và đảng của ông -
với văn phòng tổng thống và đảng của tổng thống đang
đóng ở toà nhà cao nhất Tunis - và nằm dưới
sự ảnh hưởng không chính thức của các gia
đình như nhà Trabelsis phía họ
vợ tổng thống, Leila, một người hành nghề cắt tóc trước
kia. Gần đây Tunisia đã từ chối một yêu cầu
cùa Pháp nhằm dẫn độ hai người cháu của Tổng
thống, cháu bên phía Leila, vốn bị các
công tố nhà nước Pháp buộc tội ăn cắp hai du thuyền
lớn từ một bến cảng của Pháp [4]
Đảng của Tổng thống, được gọi là Tập hợp
Dân chủ Hiến pháp (RCD) trong tiếng Pháp, gồm
khoảng 2 triệu thành viên và hơn 6000 văn
phòng đại diện trên khắp nước và chiếm hầu hết
các định chế quan trọng của nhà nước. Dù đảng
đã được đổi tên lại (trong thời Bourguiba nó thường
được gọi là ĐẢng Xã hội Destourian), các
chính sách của nó vẫn bị coi là hầu như thế
tục. Hiện có tám 'đảng chính trị' nhỏ khác
ở Tunisia, sáu trong số đó có đại diện trong nghị
viện với vẻ ngoài mang tính hợp pháp. Từ năm 2007,
toàn bộ các đảng có đại diện trong nghị viện đều
được nhà nước trợ cấp để bù cho các chi phí
đang gia tăng về giấy in và mở rộng sự xuất bản của họ.
Tháng 7 năm 2008, những đề xuất hiến pháp mới đã
được 'nghị viện' quốc gia bỏ phiếu.
Trên thực tế không ai từng công khai
đưa ra lời chỉ trích chế độ và mọi sự phản kháng
đều bị đàn áp mạnh tay và không được truyền
thông đưa tin. Việc tự kiểm duyệt được đa số người dân sợ
hãi lực lượng cảnh sát thực hiện, và cảnh
sát hiện diện ở khắp mọi nơi và thường chặn và lục
soát các cá nhân cũng như phương tiện của họ
- và thường đòi một khoản tiền hối lộ nhỏ để bù
đắp cho khoản lương ít ỏi của họ. Những tờ báo
hàng ngày có đăng những bài viết ca tụng vị
Tổng thống với chân dung thường được đăng trên trang nhất.
Những bức ảnh lớn của tổng thống Ben Ali và những băng rôn
'tự phát' được dựng lên để ca tụng ông xuất hiện tại
mọi công trình công cộng và các phố
lớn.
Internet bị giới hạn chặt chẽ,
gồm cả các site như YouTube. Tuy
nhiên, internet đã có sự phát triển vượt bậc
với hơn 1,1 triệu người sử dụng và hàng trăm quán
cafe internet, được gọi là ‘publinet.’ Điều này phần lớn
liên quan tới nạn thất nghiệp trên diện rộng và
thiếu dân chủ cùng các cơ hội khiến hàng
triệu người bị thất nghiệp.[cần dẫn nguồn]
Các nhóm nhân quyền độc lập, như Ân xá Quốc tế, đã đưa ra
tài liệu rằng các quyền cá nhân không
được tôn trọng.[cần dẫn nguồn]
Ngày 25 tháng 10 năm 2009, cuộc tuyển cử
quốc gia đã được tổ chức tại Tunisia. Cuộc tuyển cử gồm một cuộc
bầu cử tổng thống và một cuộc bầu cử nghị viện. Tổng thống đương
nhiệm Zinedine Ben Ali giành một thắng lợi lớn, với 89.62% số
phiếu. Đối thủ chính của ông, Mohamed Bouchiha, nhận được
5.01% số phiếu. Đảng của Tổng thống, CDR, cũng giành một thắng
lợi lớn với đa số 84.59% trong nghị viện. Phong trào của Đảng
Dân chủ Xã hội giành được 4.63% số phiếu[cần dẫn nguồn].
Cuộc bầu cử bị cả truyền thông trong nước
và quốc tế chỉ trích[cần dẫn nguồn].
Human
Rights
Watch
đã
thông báo rằng các
đảng và các ứng cử viên đã bị cấm xuất hiện
ở mức ngang bằng với tổng thống đương nhiệm, và rằng tờ tuần
báo của đảng Ettajdid,Ettarik
al-Jadid, đã bị chính quyền nắm giữ [5].
Bốn ứng cử viên tổng thống trong cuộc bầu cử năm
2009 gồm:
Ứng cử viên
Phần trăm phiếu bầu (%)
Zine
El
Abidine
Ben
Ali
(RCD)
89.62%
Mohamed
Bouchiha
(PPU)
5.01%
Ahmed
Linoubli
(UDU)
3.80%
Ahmed
Ibrahim
(ME)
1.57%
Những cuộc biểu tình và sự từ chức
của Ben Ali 2010-2011
Để ứng phó với các cuộc biểu tình
dâng cao ở Tunisia vào cuối năm 2010, đầu năm 2011, Ben
Ali tuyên bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước, giải thể
chính phủ vào ngày 14 tháng 1 năm 2011
và hứa tổ chức các cuộc bầu cử lập pháp mới trong
vòng sáu tháng. Sau đó cùng
ngày trong bài phát biểu đọc trên truyền
hình chiều thứ sáu 14 tháng 1 năm 2011, thủ tướng
Tunisia Mohamed Ghannouchi loan
báo ông sẽ nắm quyền thay tổng thống Ben Ali đã rời
đất nước. Tuy nhiên, người đứng đầu Tòa án Hiến
pháp của Tunisia, Fethi Abdennadher,
xác
nhận
rằng
Gannouchi
đã vi phạm Hiến pháp.
Tòa án Hiến pháp Tunisia
ngày 15 tháng 1 năm 2011 đã quyết định bãi
nhiệm Tổng thống Ben Ali, người bị lật đổ vì các cuộc
biểu tình và bạo động chống ông - được giới truyền
thông gọi là cuộc “Cách
mạng
hoa
nhài”. Đây cũng là nhà
lãnh đạo đầu tiên trong thế giới Arab bị lật đổ bởi biểu
tình của nhân dân. [2]
Theo Hiến pháp Tunisia, Chủ tịch Quốc hội Fouad Mebazaa đã đảm trách
quyền điều hành đất nước và tổ chức tổng tuyển cử trong
vòng 60 ngày. Quyền Tổng thống Mebazaa cũng ngay lập tức
yêu cầu Thủ tướng Mohammed Ghannouchi thành lập một
chính phủ liên minh đoàn kết dân tộc để
lãnh đạo đất nước cho tới khi bầu được chính quyền mới.
Tunisia có một nền kinh tế đa dạng, từ nông
nghiệp, khai thác mỏ, chế tạo, các sản phẩm hoá
dầu và du lịch. Năm 2008 nước này có GDP trị
giá $41 tỷ (các tỷ giá trao đổi chính
thức), hay $82 tỷ (sức mua tương đương) [6]. It also has one of Africa and the
Middle East's highest per-capita GDPs (PPP) [7]. Lĩnh vực nông nghiệp chiếm
11,6% GDP, công nghiệp 25,7%, và dịch vụ 62,8%. Lĩnh vực
công nghiệp chủ yếu gồm sản xuất vải vóc và
giày da, sản xuất phụ tùng ô tô và
máy điện. Dù Tunisia có mức tăng trưởng trung
bình 5% trong thập kỷ qua, nước này vẫn tiếp tục gặp
khó khăn với một tỷ lệ thất nghiệp cao đặc biệt trong giới trẻ.
Tunisia được xếp hạng là nền kinh tế có
tính cạnh tranh cao nhất châu Phi và đứng
hàng 40 thế giới theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế
giới[8]. Tunisia
đã tìm cáhc thu hút nhiều công ty
quốc tế như Airbus[9] và Hewlett-Packard[10].
Liên minh châu
Âu vẫn là đối tác thương mại hàng đầu
của Tunisia, hiện tại chiếm 72.5% nhập khẩu của Tunisian và 75%
xuất khẩu của nước này. Tunisia là một trong những đối
tác thương mại lâu đời nhất của Liên minh châu Âu tại vùng
Địa
Trung
Hải và là đối tác thương mại lớn thứ
30 của tổ chức này. Tunisia là quốc gia Địa Trung Hải đầu tiên ký Hiệp
ước Liên kết với Liên minh
châu Âu, tháng 7 năm 1995, dù thậm
chí trước ngày hiệp ước này có hiệu lực,
Tunisia đã bắt đầu bãi bỏ các biểu thuế trên
thương mại song phương với EU. Tunisia đã kết thúc
quá trình bãi bỏ thuế quan cho các sản phẩm
công nghiệp năm 2008 và vì thế là quốc gia
Địa Trung Hải đầu tiên tham gia vào một vùng thương
mại tự do với EU[11].
Cổng Địa Trung Hải:
một
dự
án
trị
giá US$ 25 tỷ, để xây dựng một
thành phố mới ở phía nam Tunis [12].
Thành
phố Thể thao Tunis: một thành phố hoàn toàn
thể thao hiện đang được xây dựng ở phía nam Tunis,
Tunisia. Thành phố này sẽ gồm các toà
nhà cũng như nhiều cơ sở thể thao và sẽ do Bukhatir Group
xây dựng với chi phí 5 tỷ $5[13].
Cảng Tài
chính Tunis: sẽ thực hiện trung tâm tài
chính ngoài khơi đầu tiên của Bắc
Phi tại Vịnh Tunis trong một dự án với giá trị tổng
thể US$ 3 tỷ[14].
Trong những năm gần đây Tunisia đã
phát triển một thị trường mới. Từ đầu những năm 2000, thị trường
bất động sản đã có bước tăng trưởng. Thị trường tập trung
một phần vào nhà ở cho những cá nhân, những
cũng gồm cả các dự án lớn có mục tiêu phục
vụ du lịch và thị trường buôn bán. Những nhà
đầu tư đáng chú ý nằm trong Các
quốc
gia
Ả
Rập
Vịnh Péc xích.
Đa phần lượng điện được sử dụng ở Tunisia đều do nước
này tự sản xuất, bởi công ty thuộc sở hữu nhà nước
STEG (Société Tunisienne de l´Electricité et
du Gaz).Năm 2008 tổng cộng 13,747 GHW điện được sản xuất tại nước
này,[18].
Tunisia đang trong quá trình phát
triển hai nhà máy điện hạt nhân trong một giai đoạn
kéo dài 10 năm. Mỗi nhà máy trong số
đó dự tính có sản lượng 900-1000 MW. Trong nỗ lực
của họ nhằm phát triển năng lượng hạt nhân, Pháp
được coi là một đối tác quan trọng. Tunisia và
Pháp đã ký kết các thoả thuận, theo
đó Pháp sẽ cung cấp huấn luyện, kỹ thuật cũng nhiều hỗ
trợ khác [20][21].
Dự án
Desertec
Dự án Desertec là
một dự án năng lượng trên diện rộng có mục
tiêu lắp đặt các panel năng lượng mặt trời, và một
hệ thống đường dây nối Bắc Phi với châu Âu. Tunisia
sẽ là một bên trong dự án này, nhưng
chính xác những lợi ích họ sẽ được hưởng vẫn chưa
được biết.
Cầu Radés-La Goulette mới đang được xây dựng ở Tunis.
Nước này có 19,232 km đường bộ,[22]
và A1 Tunis-Sfax, P1 Tunis-Libya và P7 Tunis-Algeria
là những đường cao tốc chính.
Có 30 sân bay tại Tunisia, và Sân
bay
Quốc
tế
Tunis
Carthage và Sân bay
Quốc tế Monastir là hai sân bay quan trọng nhất. Một
sân bay mới, Sân bay Quốc tế Zine El Abidine Ben Ali,
đã được hoàn thành vào cuối tháng 10
năm 2009, và dự định mở cửa tháng 12 năm 2009. Tuy
nhiên, có lẽ các chuyến bay sẽ không bắt đầu
trước mùa Lễ Phục sinh năm 2010. Sân bay nằm ở phía
bắc Sousse tại Enfidha, và có lẽ sẽ phục vụ cho
các khu resort Hamammet và Port El Kantoui, cùng
với các thành phố nội địa như Kairouan. Có bốn
hãng hàng không đóng trụ sở tại Tunisia: Tunisair, Karthago
Airlines, Nouvelair và Sevenair.
Mạng lưới đường sắt do SNCFT điều hành,
và tổng chiều dài đường sắt là 2135 km[22].
Vùng
Tunis
có
một
mạng lưới tàu
điện, được gọi là Metro Leger.
Hiến pháp quy định Hồi
giáo là tôn giáo
chính thức của nhà nước và đòi hỏi tổng
thống phải là một tín đồ Hồi
giáo. Tunisia có mức tự do tôn giáo
khá cao, một quyền được quy định và bảo vệ trong hiến
pháp đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của mỗi người.[23] Nước
này có một nền văn hoá khuyến khích chấp
nhận các tôn giáo khác; tự do tôn
giáo được thực hiện rộng rãi. Tuy nhiên,
chính phủ đã bị cáo buộc[cần dẫn nguồn]
hạn chế tự do của các tín đồ Hồi giáo khi cấm
quàng khăn trùm đầu (Hijab). Chính phủ tin rằng
Hijab là một "loại trang phục có nguồn gốc từ bên
ngoài và có một ý nghĩa đảng phái".[24]
Các cá nhân người Tunisian được
khoan dung về tự do tôn giáo và nói chung
không bị yêu cầu về những đức tin cá nhân.[23]
Đa số dân Tunisia (98%) là tín đồ Hồi
giáo, khoảng 1% theo Thiên chúa giáo
và số còn lại (1%) theo Do
Thái giáo hay các tôn giáo
khác.[25]
Tuy nhiên, không có dữ liệu đáng tin cậy về
số người thực hiện các nghi thức Hồi giáo. Một số
báo cáo cho rằng người vô thần là
nhóm lớn thứ hai trong nước (khiến nước này có thể
đứng hạng cao trong số các quốc gia Bắc Phi) về vấn đề này[26].
Tunisia có một cộng đồng Thiên chúa
giáo khá lớn khoảng 25,000 người; chủ yếu là Cơ đốc (20,000) và ở một
mức độ thấp hơn là Tin Lành. Đạo
Do Thái là tôn giáo lớn thứ ba trong nước
với 1,500 tín đồ. Một phần ba dân số Do Thái sống
tại hay xung quanh thủ đô. Số còn lại sống trên
hòn đảo Djerba, nơi cộng đồng Do Thái có mặt từ
khoảng 2,500 năm trước[23].
Các vùng thủ hiến được chia thành
264 "phái
đoàn" hay "các quận" (mutamadiyat),
và
được
chia
nhỏ
tiếp thành các khu vực đô thị (shaykhats)[27] và
các khu vực (imadats).[28]
Chi tiêu quân sự của Tunisia chiếm 1.6% GDP
(2006). Quân đội chịu trách nhiệm bảo vệ quốc gia
và đảm bảo an ninh nội địa. Có vẻ trong những năm gần
đây các lực lượng quốc phòng Tunisia đã tập
trung hơn vào các nhóm Hồi giáo ở Bắc Phi.
Hoa Kỳ đã tiến hành những cuộc tập trận với các
lực lượng vũ trang Tunisia vì mối lo ngại này.[cần dẫn nguồn]
Tunisia là một quốc gia nằm ở bờ biển Địa Trung Hải của Bắc Phi, giữa đường giữa
Đại Tây Dương và Châu thổ sông Nile. Tunisia
giáp biên giới với Algeria
ở phía tây và Libya ở
phía đông nam. Đường bờ biển ngoặt gấp phía nam của
nó khiến Tunisia có hai mặt giáp với Địa Trung Hải.
Dù có kích thước khá nhỏ,
Tunisia có sự đa dạng địa lý và khí hậu
khá lớn. Dorsal, một dải mở rộng của Dãy núi
Atlas, chạy ngang Tunisia theo hướng đông bắc từ biên giới
Algeria ở phía tây tới bán đảo Cape Bon.
Phía bắc Dorsal là Tell, một vùng có đặc
điểm ở những quả đồi và đồng bằng thấp, dù góc
phía tây bắc của Tunisia, nơi đất đai đạt tới độ cao 1,050
mét.
Sahil là một
đồng bằng dọc theo bờ biển Địa Trung Hải phía đông Tunisia
nổi tiếng với sự độc canh cây oliu. Bên trong nội địa từ
Sahil, giữa Dorsal và một rặng đồi phía nam Gafsa,
là các thảo
nguyên. Đa phần vùng phía nam là đất đai
bán
khô
cằn và sa
mạc.
Tunisia có đường bờ biển dài 1,148
kilômét. Theo các thuật ngữ hàng hải, nước
này tuyên bố một vùng tiếp giáp 24 hải
lý, và một hải phận 12 hải lý.
Tunisia có khí hậu ôn hoà ở
phía bắc, với mùa đông dễ chịu và nhiều mưa
và một mùa hè nóng và khô.
Miền nam đất nước là sa mạc. Đất đai phía bắc chủ yếu
là núi non, đi dần về phía nam, tạo ra một đồng bằng trung tâm nóng và
khô. Miền nam là bán khô cằn,
và
nhập
vào
Sahara.
Một loạt các hồ muối, được gọi
là chotts hay shatts, nằm ở đường phía
đông tây ở mũi phía bắc Sahara, trải dài từ Vịnh Gabes
vào trong Algeria.
Điểm thấp nhất là Shatt al Gharsah, ở độ cao -17 m, và
điểm cao nhất là Jebel ech Chambi,
1544 mét.
Vùng
Vùng Tunisia có một số sa mạc, gồm một
phần của Sa mạc Sahara ở phía nam. Ở phía bắc và
trung được bao quanh bởi Biển Địa Trung Hải. Tunisia không
quá lạnh vào mùa đông để có tuyết,
nhưng nhiệt độ vẫn hạ xuống dưới |0 °C. Vào mùa
hè nhiệt độ có thể lên tới 32 °C. Đa phần
lãnh thổ Tunisia có bốn mùa.
Cộng đồng châu Âu nhỏ (1%) gồm chủ yếu người
Pháp và người Italia. Cũng có một cộng đồng Do Thái đã sống từ lâu ở nước
này, lịch
sử người Do Thái tại Tunisia có từ khoảng 2,000 năm
trước. Năm 1948 số người Do Thái ước tính là
105,000, nhưng tới năm 2003 chỉ còn khoảng 1,500 người ở lại.[36]
Người đầu tiên trong lịch sử được biết tới sống ở
Tunisia hiện nay là người Berber. Nhiều
nền văn minh và sắc tộc đã từng xâm lược, di cư
tới, và đã bị đồng hoá trong nhiều thiên
niên kỷ, với nhiều làn sóng dân cư qua chinh
phục và định cư từ người Phoenicia/Carthaginia, La Mã, Vandal, Ả Rập, người
Thổ
Nhĩ
Kỳ
Ottoman, và người
Pháp.
Ngoài ra, sau thời kỳ Reconquista và
sự trục xuất những người phi Thiên chúa và người Morisco khỏi
Tây Ban Nha, nhiều người MoorTây
Ban
Nha và người Do Thái
đã tới đây ở cuối thế kỷ 15. Ngoài ra, từ cuối
những năm 1800 tới sau Thế chiến II, Tunisia là nơi sinh sống
của nhiều người Pháp và người
Italia (255,000 người châu Âu năm 1956[37]), hầu như
toàn bộ trong số họ, cùng với cộng đồng dân cư Do
Thái, đã rời đi sau khi Tunisia độc lập.
Tôn
giáo tại Tunisia chủ yếu là Hồi giáo,
với
đa
số
dân
Tunisia (98%) là tín đồ.[38] Một trong những
cộng đồng Do Thái cổ nhất thế giới sống tại Jerba, nơi sự đa
dạng tôn giáo phát triển. Hòn đảo
phía nam Tunisia là nơi cư trú của 39 cộng đồng
tôn giáo.
Vì từng là thuộc địa của Pháp, tiếng Pháp cũng đóng một vai
trò quan trọng ở nước này, dù không
có vị thế chính thức. Nó được sử dụng rộng
rãi trong giáo dục (ví dụ như ngôn ngữ giảng
dạy khoa học tại các trường cấp hai), báo chí
và trong kinh doanh. Đa phần người Tunisia có thể
nói tiếng Pháp. Nhiều người Tunisia, đặc biệt là
những người sống tại các vùng đô thị, dễ
dàng sử dụng một ngôn ngữ pha trộn giữa tiếng Ả Rập
Tunisia và tiếng Pháp, một loại ngôn ngữ lai thường
được gọi không chính thức là 'Frarabic'.
Giáo dục được ưu tiên lớn và chiếm
6% GNP. Một
nền giáo dục căn bản cho trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 16
đã được quy định bắt buộc từ năm 1991. Tunisia xếp hạng 17 về
"chất lượng hệ thống giáo dục [cao học]" và 21 về "chất
lượng giáo dục tiểu học" trong Báo
cáo Cạnh tranh Toàn cầu 2008-9, do Diễn đàn
Kinh tế Thế giới đưa ra.[41]
Tuy trẻ em nói chung được học tiếng Tunisia Ả Rập
tại gia đình, khi bắt đầu theo học lúc 6 tuổi,
chúng được dạy đọc và viết theo tiếng Ả Rập
tiêu chuẩn. Từ 8 tuổi, trẻ em được dạy tiếng Pháp
trong khi tiếng Anh được dạy khi trẻ lên 12.
Tunisia có một nền văn hoá pha trộn
vì một lịch sử lâu dài với những cuộc chinh phục
như của người Phoenicia, La Mã, Vandal, Byzantine, Ả Rập, Thổ
Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha và người Pháp, tất cả đều để
lại dấu ấn tại quốc gia này.
Môn thể thao phổ biến nhất ở Tunisia là
bóng đá. Đội tuyển bóng đá quốc gia, cũng
được gọi là "Những chú đại bàng Carthage"
đã tham gia vào bốn vòng chung kết World Cup.
Thành tích của đội tuyển được liệt kê dưới
đây:
Đội
tuyển quốc gia đã tham gia nhiều vòng chung kết
bóng ném thế giới. Năm 2005 Tunisia giành hạng 4.
Giải bóng ném quốc gia gồm 12 đội, với ES. Sahel
và Esperance S.Tunis là các đội thống trị.
Vận động viên bóng ném Tunisia nổi
tiếng nhất là Wissem Hmam. Tại giải
vô địch bóng ném thế giới nam năm 2005 ở Tunis,
Wisam Hmam là vận động viên có thành
tích ghi điểm cao nhất giải.
Bơi lội
Tại Olympic năm 2008, vận động viên người Tunisia Oussama
Mellouli đã giành một huy chương vàng nội dung
bơi tự do 1500 mét.
Lễ hội
Lễ Matmata - Matmata (tháng 3)
Lễ Oriljazz (tháng 4)
Lễ "Tozeur, the Oriental, the African" (tháng
4)
Lễ hội Mùa xuân Quốc tế - Sbeitla
(tháng 4)
Lễ hội thi ca Ả Rập - Tozeur - (tháng 4)
Lễ hội Jazz Carthage - Gammarth (tháng 4)
Tozeur’s International Oasis Festival - Tozeur
(tháng 12)
Techno House festival - Gammarth (tháng 12)
Dar Sebastian celebrates opera festival - lyrical
festival -(tháng 12)
^ ab Room,
Adrian
(2006).
Placenames of the World: Origins and Meanings
of the Names for 6,600 Countries, Cities, Territories, Natural
Features, and Historic Sites. McFarland. 385. ISBN 0786422483.
^ Smeaton Munro, Ion. Through
Fascism
to
World
Power:
A History of the Revolution in Italy. pag
221
^ Borg and
Azzopardi-Alexander Maltese (1997:xiii) "The immediate source for the
Arabic vernacular spoken in Malta was Muslim Sicily, but its ultimate
origin appears to have been Tunisia. In fact, Maltese displays some
areal traits typical of Maghrebine Arabic,
although during the past eight hundred years of independent evolution
it has drifted apart from Tunisian Arabic."
^ Gabsi, Zouhir
(2003) 'An outline of the Shilha (Berber) vernacular of Douiret
(Southern Tunisia)' [1]
Trang
mạng
Việt
Nam
Văn
Hiến Trang : www.vietnamvanhien.net www.vietnamvanhien.org www.vietnamvanhien.info www.vietnamvanhien.com Email:
thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống
Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc
& Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.