|
Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ 4888
www.vietnamvanhien.net
Thư viết từ hải ngoại
Kính gời
đồng bào toàn quốc
Nhân kỷ niệm
Thăng Long bước sang thiên niên kỷ thứ 2
Kính thưa đồng
bào,
Bước sang năm mới Canh Dần
- 2010, nhân lúc trong nước đang chuẩn bị kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, cũng
đúng vào lúc nước nhà đang bị đe dọa bởi
một cuộc xâm lăng mới từ phương Bắc, chúng tôi - một
số người Việt sinh sống ở hải ngoại đứng trong hàng ngũ một Tập hợp những người dân
bình thường chống Bạo lực, Dối trá, Chủ nghĩa, Hận
thù để xây dựng một nước Việt văn hiến – trước
hết xin kính gởi tới anh em bà con đồng bào
toàn quốc lời chúc mừng một năm mới Thịnh vượng- An
khang- Hạnh phúc; sau là để đóng góp một
vài ý nghĩ về việc kỷ niệm Thăng Long trong hoàn
cảnh khó khăn của đất nước hiện nay.
Năm 1010 vua Lý
Thái Tổ ban chiếu dời đô ra Thăng Long vì cố
đô Hoa Lư địa thế chật hẹp không thể hội đủ những yếu tố
chiến lược cần thiết để vận động sức mạnh toàn dân chống
xâm lược phương Bắc. Việc dời đô ra Thăng Long là
một quyết định lịch sử, mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước
trên con đường xây đắp nền tự chủ lâu dài.
Người xưa tin rằng
hùng khí của Thăng Long với đồng bằng sông Hồng
và sông Thái Bình trù phú
đã tạo nên hai triều đại Lý Trần hùng mạnh
nhất của VN ta với những thành tích văn trị, võ
công vô cùng hiển hách. Thế nhưng xét
cho cùng, nếu vượng khí của thành Thăng Long
cùng với địa lợi của miền châu thổ sông Hồng
là điều kiện cần thì chính sự xây dựng kinh
đô Thăng Long trên những nền tảng chiến lược bền vững
đã là điều kiện đủ khiến hai triều đại lịch sử ấy chẳng
những đứng vững được qua các trận tấn công xâm lược
cuồng bạo nhất của Tống, Nguyên từ phương bắc vào VN,
mà còn giúp cho các thế hệ kế thừa giữ vững
được nền độc lập tự chủ.
Nay kỷ niệm 1000 năm Thăng
Long, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại đất
ngàn năm văn vật xưa qua những cơn thăng trầm của vận nước.
Trước hết, Thăng Long của
nước Đại Việt ta dưới thời Lý- Trần đã
được
kiến
tạo
như thế nào?
Thăng Long vốn là
thành Đại-La cũ của Giao Châu ta xưa, do Kinh lược sứ
nhà Đường là Trương Bá Nghi cho xây
lên để ngăn giặc biển cướp phá, sau do Tiết độ sứ Cao Biền
nhà Đường đắp lại để bảo vệ Giao Châu chống quân Nam
Chiếu, đồng thời để củng cố nền đô hộ của phương Bắc trên
đất Giao Châu ta.
Triều đình
nhà Hậu Lý không đắp lại Phủ thành Đại La-
một chứng tích lệ thuộc phương Bắc- mà đã
xây dựng kinh thành Thăng Long trên nền tảng
chính trị tự chủ, lấy xã tắc làm nền, lấy
dân làm gốc, lấy việc đào tạo tinh anh khí
phách nơi toàn dân bằng tinh thần “Tam giáo
đồng hành” làm quốc sách, mặc dầu Lý
Công Uẩn vốn xuất thân từ cửa Phật và đạo Phật dưới
thời nhà Lý rất được coi trọng. Trên nền tảng
chính trị văn hiến ấy, triều đình lấy sự gánh
vác trọng trách bảo vệ toàn dân, mở mang
dân tâm, dân trí và giữ gìn từng
tấc đất giang sơn làm nguyên tắc; toàn dân
lấy sự đồng tâm giữ vững nền tự chủ nước nhà làm
bổn phận. Sự hòa hài gắn bó giữa quốc dân
và triều đình thời đó chính là điều
kiện đủ để các vua nhà Lý vận động được sức mạnh
toàn dân trong việc giữ nước chống quân xâm
lăng nhà Tống. Một Thăng Long
nồng ấm - trái tim của Nam quốc
sơn hà - đã được sáng lập.
Tiếp sau triều Lý,
nhà Trần đã bồi đắp Thăng Long trên
chính
sách
thân
dân và trên nền
tảng dân chủ. Thật vậy, vua Trần Thánh Tôn thường
nói đất nước là của chung anh em cả nước, và Hội
nghị Diên Hồng đời vua Nhân Tôn chính
là nền tảng dân chủ rất sớm và rất đáng
hãnh diện của dân tộc VN. Từ căn bản toàn dân
ấy triều đình và toàn dân cùng chia
xẻ trách nhiệm giữ nước. Một Thăng
Long
của
toàn
dân được thành
hình, là nơi hội tụ khối óc và sự đồng
tâm của toàn quốc. Quân dân nhà Trần do
đó đã ba lần đánh đuổi được các đoàn
quân viễn chinh bách chiến của Nguyên Mông
từng dẵm nát hai phần ba thế giới từ Á sang Âu.
Thăng Long oai hùng, sau những thời
oanh liệt ấy, cũng đã phải trải qua biết bao cơn điêu
tàn đổ nát. Cuối đời nhà Trần vua tôi u
mê, chính sự thối nát, kẻ có quyền thế chỉ
lo nhũng lạm, vơ vét, chèn ép dân, cướp đất
dân để xây dinh thự riêng, đã tạo nên bộ
mặt một Thăng Long kiêu sa,
bạc bẽo, cho nên dân hèn nước yếu. Thời
ấy vua Chiêm Chế Bồng Nga đã mấy lần đem quân vượt
đường thuỷ bộ tiến vào đốt phá Thăng Long như vào
chỗ không người. Vua tôi nhà Trần nhiều lần phải bỏ
kinh thành bỏ dân chúng chạy lên mạn ngược để
lánh nạn.
Đến đời nhà Hồ, giặc
Minh lại lấy cớ bênh vực con cháu nhà Trần để đem
quân xâm lăng nước ta. Nhà Hồ dù có
quyết tâm đánh giặc nhưng vì lòng dân
không phục nên vua tôi mất chỗ dựa. Tuyến
phòng thủ Đa Mang vừa xụp đổ, đại quân nhà Hồ tan
vỡ, thì lập tức Thăng Long bị giặc Tầu tràn ngập bức tử.
Trang thảm sử Bắc thuộc lại một lần tái diễn.
Nhưng anh linh Hồn
Thiêng Sông Núi đã không bao giờ bị
giặc Tầu bức tử. Một Thăng Long
kiên cường bất khuất hiển nhiên
đã đứng dậy với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vang vang lời
Bình Ngô Đại Cáo. Một Thăng Long linh hiển với trang diễm sử Hồ Gươm trao kiếm còn sống mãi,
sống hồn nhiên và nhiệm mầu trong lòng người
dân Việt. Vua Thành Tổ nhà Minh, trước đoàn
quân viễn chinh tan tác được Bình-Định-Vương
Lê Lợi tha cho về Tầu, đành phải công nhận nền độc
lập của An Nam và nhìn nhận nước ta là một “văn
hiến chi bang”.
Thăng Long có lẽ từ
những trang hùng sử ấy đã trở thành bất tử trong
lòng dân tộc và trong dòng tranh đấu sử của
nước VN. Nhưng Thăng Long cũng không thoát khỏi nhiều phen
bị vò xé bởi chính những bàn tay mà
nó từng cưu mang. Một Thăng
Long đau sót trong cơn tương
tàn Trịnh-Nguyễn. Một Thăng
Long tức tưởi trong cơn u mê của Lê Chiêu
Thống rước giặc Tầu về cứu giang sơn! Tôn Sĩ Nghị - dưới
chiêu bài cứu Lê - ngang nhiên kéo
quân vào chiếm Thăng Long. Trong lúc mệnh nước như
chỉ mành treo chuông ấy, nếu không có vị đại
anh hùng Quang-Trung Nguyễn Huệ, mùa xuân năm Kỷ
Dậu 1789, một trận oanh liệt quét sạch 20 vạn quân Thanh
thì không biết nước Việt Nam nay có còn
không, hay chỉ còn trong biểu tượng một ngôi sao nhỏ
trên lá cờ lục tinh hằng mơ ước của chế độ Trung Cộng
ngày nay.
Sau khi vua Quang Trung tạ
thế, dưới triều đại nhà Nguyễn và trong những giai đoạn
chiến đấu chống thực dân Pháp thời cận đại, Thăng Long
Hà-nội đã lại chứng kiến biết bao nhiêu cơn quằn
quại của đất nước. Năm 1873 dưới đời vua Tự Đức, quân Pháp
đánh Bắc Hà lần thứ nhất. Thành Thăng-Long bị đại
bác Pháp bắn vào như mưa. Thành vỡ, Tổng
đốc Nguyễn Tri Phương bị thương nặng nhịn đói mà chết.
Năm 1882 quân Pháp đánh Bắc Hà lần thứ hai.
Thăng Long quằn mình chịu đựng sức công phá của đại
pháo và mìn của Thực dân Pháp.
Thành lại vỡ, Tổng đốc Hoàng Diệu thắt cổ tử tiết với
thành…
Thăng Long cho tới nay, một
ngàn năm lịch sử đã trải qua với biết bao nhiêu
vinh nhục. Một thiên niên ấy cũng đã để lại cho
dân tộc biết bao nhiêu bài học vô giá
dựa trên những sự thật không thể phủ nhận:
- Bài học thứ nhất
là bài học tự chủ.
Tự chủ là lẽ sống của toàn dân
và là mục tiêu tranh đấu ngàn đời của
dân tộc. Tự chủ không những là độc lập, mà
là độc lập và đứng vững trên chính đôi
chân của mình. Tiền nhân ta dù luôn
luôn phải khôn khéo để sinh tồn trước kẻ mạnh nhưng
chưa từng nương nhờ vào sức mạnh ngoại bang để giữ nước.
Trái lại những kẻ mượn tay ngoại bang để tranh thủ địa vị cũng
đã chỉ tạo cơ hội cho ngoại cường xâm nhập, thao
túng và cướp nước.
- Bài học thứ hai
là bài học về nhân
tâm. Quân xâm lược phương Bắc dù
chưa bao giờ biết mỏi mệt trong việc rình rập cơ hội để nuốt
sống nước ta, nhưng trước sau chúng chỉ dám mở những cuộc
tấn công xâm lăng vào nước ta khi có được
những bằng chứng đích xác cho thấy tiềm lực dân tộc
ta đang bị suy yếu do tệ nạn chia rẽ, bè phái, dân
chúng bất phục kẻ cầm quyền vì bị áp bức,
hà hiếp, bắt nạt. Trái lại, quân Tầu chưa bao giờ
dám đánh vào nước ta khi trong nước anh em một
lòng, nhân tâm được quy về một mối.
- Bài học thứ ba
là bài học về chính
sách: “Tự
nhất
thời
chi
thất sách, toại vạn cổ chi di ương”
(Từ sự sai lầm chính sách trong chốc lát mà
để vướng tai họa cho đến vạn năm sau). Trên đây xin
trích một câu trong bài phú Danh Sơn Lương
Ngọc của các cụ Phan Chu Trinh và Huỳnh Thúc
Kháng. Đây là một nhận định về văn hóa dưới
thời nhà Nguyễn: Cho dù có “Văn như Siêu,
Quát…, thi đáo Tùng, Tuy…” nền văn hoá của
ta vẫn bị đè nặng dưới cái bóng vĩ đại của văn
hoá Trung Hoa. Qua mấy chục năm sau người ta mới nhận thấy
cái thất sách đó, nhưng rồi lại bị chóa mắt
bởi cái hào nhoáng của văn minh Tây phương.
Cho nên từ thất sách này đi đến thất sách
khác.
Thật vậy, ách
nô lệ tám mươi năm chưa kịp gỡ thì cả dân tộc
vì thất sách, mất định hướng đã lại bị lôi
cổ vào khúc thòng lọng oan nghiệt của các
chủ nghĩa kinh tế phương Tây. Vì thế đất nước bị chia
đôi, dòng Bến Hải thay thế cho dòng sông
Gianh năm xưa ngăn cách tình dân tộc. Và
vì không có tự chủ nên miền Bắc VN bị biến
thành đội ngũ tiền phong của phong trào CS quốc tế.
Vì
không
có
tự chủ nên miền Nam VN bị biến
thành tiền đồn chống Cộng
của Thế giới Tự do. Rồi cũng
vì không có tự chủ cho nên những họng
súng hận thù thay cho gươm dáo già nua của
Thăng Long ngày xưa lại một phen chĩa thẳng vào nhau.
Giữa hai lằn đạn oan khiên ấy, một thi nhân nào
đó (mà rất nhiều người biết) đã thốt lên
tiếng kêu thảng thốt: “Trước
mặt là Tư bản, sau lưng là Cộng sản. Giật mình
nghe tiếng hô…!”. Đằng nào cũng chết, dân
tộc ta gục ngã trong tư thế đó. Trong cơn gục ngã
ấy có những biểu ngữ được treo cao tung hô Chủ nghĩa
Mác- Lênin bách chiến bách thắng, có
những bước chân lưu vong buồn bã trên khắp
các miền đất lạ hoặc ngay trên quê hương thân
yêu của mình. Đau thay! Bao nhiêu xương máu
của toàn dân đổ xuống, rốt cuộc chỉ có chủ nghĩa
là đại thắng. Dân tộc VN chưa bao giờ được hưởng một
phút vinh quang hay chỉ một phút yên vui nhỏ
bé, vì dân tộc VN đã thảm bại. Một trang sử
vừa lật qua, thoáng chốc đã hơn ba chục năm. Thăng Long
Hà-Nội nay còn đó, và nước hồ Gươm vẫn xanh
dòng lưu niệm, nhưng hồn của Thăng Long thân yêu năm
xưa bây giờ ở đâu?
Và nay, trên
bước đường sinh tồn của dân tộc, người VN ở trong nước và
ở khắp bốn phương dường như lại gặp nhau. Gặp nhau trong nguy nan của
vận nước, gặp nhau trong e dè của hoàn cảnh; trước mặt
là kẻ thù thuyền thống, còn sau lưng hoặc
là những dấu vết khó xoá nhoà hẳn của một
cuộc chiến tương tàn, hoặc là những thật giả khó
phân định của một thời đã thuộc về các thế hệ đi
trước. Vì thế, dù thời gian có là một liều
thuốc nhiệm mầu, trong ánh mắt người Việt chúng ta
nhìn nhau – dù chỉ là những người dân
bình thường - đôi khi vẫn có ít nhiều nghi
ngại. Nhưng có một điều không ai còn nghi ngờ: Đất nước lại đang lâm nguy trước
tham vọng bành trướng của phương Bắc, và người
dân bình thường chúng ta thì dường như đang
bị nhốt kín trong chiếc lồng được người ta đan bằng ảo tưởng
và ảo giác. Người dân có mắt mà
không được nhìn vào sự thật, có miệng
mà không được nói lên sự thật.
Hãy nói về
nguy cơ từ phương Bắc. Không cần phải mất nhiều công sức
và thì giờ để suy đoán về chiến lược biển
Đông của Trung Cộng - một sách lược tối ưu có mục
đích hiện đại hóa tài nguyên và hiện
đại hóa biên giới, phát xuất từ nhu cầu sinh tồn
và do tham vọng bành trướng cố hữu của họ- người ta cũng
biết TC khó mà bỏ qua ý muốn chiếm trọn biển
Đông trong lúc thế giới đang gặp nhiều khó khăn
này. Và trên thực tế họ đã tuyên bố
chủ quyền trên biển Đông bất chấp sự phản kháng của
các nước có liên hệ. Chủ trương mở rộng biên
cương của họ, trước kia là cướp đất của lân bang, nay để
phù hợp với thời thế, được chuyển thành cướp biển,
vì khác với chủ quyền trên đất liền, ranh giới chủ
quyền trên biển cả cho đến thế kỷ này vẫn còn
là một ý niệm khá mơ hồ, và vì kho
tài nguyên của biển Đông đã được tiết lộ
là một nguồn cung cấp nhiên liệu hầu như bất tận. Nhưng
một khi biển Đông vẫn còn là buồng phổi, là
hơi thở, là một phần cơ thể vốn đã không thể
tách rời của VN thì chúng ta khó
tránh được một cuộc thử lửa với TC, không phải chỉ
trên mặt biển mà cả trên đất liền. Đó hiển
nhiên cũng nằm trong sự tiên liệu của TC và
là lý do khiến TC phải vừa trấn an VN, vừa ra tay trước
bằng mọi cách: áp lực, đe dọa, xâm nhập, lấn chiếm,
bao vây kinh tế, phá hoại thị trường, hủy hoại môi
sinh, thậm chí khủng bố ngư dân ta, đồng thời kêu
gọi mở các cuộc thương lượng song phương, và chỉ song
phương mà thôi, với chính quyền VN để tách
dân chúng VN ra khỏi chính quyền, và
tách chính quyền VN ra khỏi cộng đồng quốc tế với hy vọng
sẽ đạt được những gì họ muốn một cách dễ dàng hơn
và trọn vẹn hơn. Vấn đề là nếu không đạt được
ý muốn bằng phương thức “hoà bình” trên
thì họ sẽ xử dụng ưu thế quân sự của mình để tấn
công VN sớm hay muộn? Và sẽ đánh lớn, đánh
cực nhanh cực mạnh, trước khi VN kịp tiếp nhận và xử dụng được
những chiến cụ hiện đại, để thanh toán cái gai trong mắt,
cái đinh dưới chỗ ngồi; hay sẽ chỉ phát động những trận
đánh giới hạn gọi là “dậy cho VN một bài học” vừa
đủ để làm thay đổi bộ mặt lãnh đạo, do đó thay đổi
lập trường của VN, và nhất
là không gây nên tình trạng phải trực
tiếp đối đầu với các thế lực quốc tế do Mỹ đứng sau lãnh
đạo.
Điều nên nhận định
rõ, là Trung Cộng mặc dầu là một nước Cộng sản
theo Tư tưởng Mao, nhưng bản chất thật của họ chỉ là một chế độ
phong kiến không có quý tộc, một đế quốc thời đại
với chủ trương bành trướng đế quyền và mở rộng biên
cương ra khắp thế giới. Điều này thì chắc hẳn giới
lãnh đạo CSVN và đồng bào chúng ta đều biết.
Về phía Hoa Kỳ
và các đồng minh kể cả Nga, chúng ta cũng
không cần phải quá nhiều suy nghĩ để biết thật sự những
người bạn phương Tây này muốn gì và
tính gì khi sẵn sàng tiếp trợ những võ
khí hiện đại nhất cho VN và sẵn sàng ký kết
nhanh chóng những hiệp ước gọi là “hợp
tác
toàn
diện”với
VN. Trở về quá khứ, người ta
còn nhớ một trong những quan điểm chiến lược của Đảng Dân
chủ Mỹ vào thập niên 60, khi Mỹ mới can thiệp vào
VN, là “Cứ để cho VN thống
nhất dưới sự lãnh đạo của HCM là một trong những biện
pháp tốt nhất để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Cộng
xuống Đông Nam Á”. Tóm lại, biến VN thành tiền đồn ngăn chặn
Tầu ở Đông Nam
Á châu
vốn từ lâu đã là mục tiêu chiến lược của Mỹ
và có lẽ của cả Nga. Dù sao thì có
sự tiếp trợ từ phía Tây phương cũng là điều cần
thiết trong lúc này.
Tuy nhiên cũng
có điều nên nhận định, là Mỹ tuy hào
phóng và luôn tỏ ra có tinh thần mã
thượng, sẵn sàng bênh vực kẻ yếu thế; nhưng xét cho
kỹ, sách lược của tòa Bạch ốc lắm khi cũng không
hơn, không khác mưu lược cùng thủ đoạn của phường
lái trâu ngày phiên chợ. Nếu cần, tức
là nếu như thời thế biến chuyển khiến họ phải đổi thù
thành bạn, đổi bạn thành thù, và nếu VN nhỏ
yếu không có thế
toàn dân để bảo đảm cho nền độc lập tự chủ mong
manh của mình, thì chỉ cần một cái đập tay song
phương sau khi đã ngã giá, Nam quốc sơn hà
của hậu duệ Lý - Trần kể như cũng đã được định phận, không cần phải tại thiên thư,
mà ở một bàn hội nghị vu vơ nào đó.
Trở lại với Thăng Long,
biểu tượng bất diệt của cuộc chiến đấu toàn dân tộc cho
nền Độc lập Tự chủ nước nhà. Sẽ rất thiếu sót nếu chỉ
nói đến diện mạo của Thăng Long qua những vết thăng trầm lịch
sử. Thăng Long Hà-nội ngày nay, trong vẻ thanh lịch sẵn
có cũng như trong nếp sống xô bồ hàng ngày,
cũng đang ấp ủ biết bao niềm riêng không nói
lên được. Cái “không nói lên được” cũng
là hình ảnh quen thuộc của những hàng bia
đá lặng lẽ trong Văn miếu Hà-nội– biểu tượng trân
quý của kẻ sĩ Việt Nam
. Nhưng Kẻ sĩ VN không phải chỉ
tìm thấy ở trên những tấm bia đá trong Văn miếu
Hà-nội. Tiếng nói của họ đang vang vọng từ khắp nơi trong
nước, những tiếng nói phát xuất từ lẽ phải, từ lương
tâm con người, từ nhiệt tình đối với đất nước, nhất
là khi đất nước bị đe dọa bởi nạn ngoại xâm. Trong tiếng
kêu gào của lớp kẻ sĩ ngày nay người ta nghe như
vang dội tiếng thét quật cường của Nguyễn Thái Học
cùng 13 liệt sĩ Yên Bái trên đoạn đầu
đài, của Hoàng Diệu, của Nguyễn Tri Phương, của bao
nhiêu lớp người từ nhiều thế hệ trước nữa đã hy sinh để
Thăng Long thành bất diệt. Phải chăng hồn Thăng Long đang mượn
tiếng nói của kẻ sĩ để nói lên nguyện vọng
và hoài bão của chính mình.
Tiếc thay, có lẽ
những tiếng nói tự đáy lòng con người ấy, tiếng
nói từ trái tim Thăng Long ấy, lại không phải
là những tiếng nói mà nhà cầm quyền VN mong
đợi. Cho nên kẻ sĩ VN ngày nay - những người đã dám đại diện
cho toàn dân để nói lên những điều
chẳng đặng đừng, những điều “không tiện nói”- đã
và sẽ lần lượt phải ra trước vành móng ngựa để
nghe tuyên án.
Nhân đây
chúng tôi cũng xin phép đồng bào để được gởi
đến quý vị đang nắm cơ chế lãnh đạo đất nước một
vài lời khẩn thiết.
Kính thưa quý
vị đang lãnh đạo các cơ chế lãnh đạo đất nước,
Nay, trước tình
hình ngày một nghiêm trọng, là những người
dân bình thường lại sống xa quê hương đã
lâu, chúng tôi thành thật không biết
thật sự quý vị đang suy tính gì, nên
không có ý lạm bàn về những vấn đề thuộc
sách lược cứu nguy đất nước. Chúng tôi chỉ xin
góp vài lời về sức
mạnh toàn dân trong các cuộc chiến tranh
giữ nước.
Các nhà chiến lược
ngày nay đều biết rõ tầm quan trọng của võ khí trong chiến tranh hiện đại. Nhưng
trong chiến tranh giữ nước, võ khí, nhất là
võ khí được tiếp trợ từ bên ngoài, dù
là nhu cầu tối yếu vẫn chưa phải là yếu tố quyết định.
Sức mạnh của khí giới cần phải được đặt trong sức mạnh của một nền tự chủ, mà sức
mạnh của nền tự chủ sẽ không đứng vững nếu không có thế toàn dân
làm bảo đảm. Như vậy có thể nói sức mạnh toàn dân mới
là sức mạnh chủ yếu và là yếu tố quyết định thắng
bại trong việc giữ nước. Từ thời
giành
được
tự
chủ, sức mạnh
toàn dân ở nước ta
đã được vận dụng và xử dụng một cách hữu hiệu như sức mạnh căn bản, sức mạnh chủ yếu,
và cũng là sức mạnh cuối
cùng trong việc giữ nước chống
xâm lược phương Bắc. Chính vì thế
mà các triều đại Trung quốc xưa dù hùng
mạnh đến thế nào cũng không dám xâm phạm nước
ta một khi họ chưa nắm chắc được những bằng chứng rõ rệt cho
thấy triều đình phương Nam
không
có sức mạnh toàn dân hậu thuẫn.
Thành thật mà
nói, chúng tôi tin rằng hơn ai hết, các vị
lãnh đạo Đảng và Nhà nước biết rõ sự cần
thiết của sức mạnh toàn dân trong việc giữ nước, nhưng e
rằng quý vị sẽ, cũng như đã từng, phạm sai lầm khi vận dụng sức mạnh toàn
dân bằng phương thức bạo lực, vì bạo lực đang
được xử dụng trong việc đàn áp những người yêu
nước. Về việc này, theo thiển ý của chúng
tôi, mặc dầu những người vì nhiệt tình với nước
có thể đã biểu lộ lòng yêu nước của
mình hoặc không đúng lúc, hoặc khác
với chủ trương của nhà nước; khi áp dụng bạo lực người
cầm quyền đã phạm điều sai lầm lớn là làm
tiêu hao dân khí cả nước, đồng thời đã đẩy
những thành phần tích cực về phía tiêu cực,
đẩy toàn dân vào bóng tối lạnh nhạt nghi
ngờ. Về việc này, Đức Trần Hưng Đạo cũng đã có lời
dậy: “Hãy
khoan
sức
dân
để giữ lấy gốc bền sâu rễ”.
Đây là kế sách “khoan dân” trong chiến
pháp giữ nước để gây dựng sức mạnh toàn dân.
Bởi vậy chúng tôi đề nghị, ở tư thế lãnh đạo,
quý vi cần phải có biện pháp tức khắc để cởi trói cho kẻ sĩ và
phục
hồi
danh
dự cho tất cả những ai đã dám thay mặt
toàn dân để nói lên những điều tuy có
tính cách cấm kỵ đối với Đảng và Nhà nước,
nhưng là những điều phát xuất từ lẽ phải, từ lương tri,
từ tâm huyết con người. Bằng biện pháp cởi trói kẻ
sĩ quý vị mới có thể khởi đầu việc vực lại Sức mạnh
toàn dân để xử dụng vào việc giữ nước.
Đồng thời, nhân kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long, đây cũng là cơ hội, sau nhiều cơ hội đã bị bỏ lỡ một cách oan uổng đáng tiếc, để
quý vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước thuận tay cởi trói cho Thăng Long,
dẹp
bỏ
những
vòng dây oan khiên không
còn cần thiết của bạo lực,
của
chủ nghĩa, của
hận thù…
để
phục
hồi
một “Thăng Long nồng ấm –trái tim của Nam quốc sơn hà”
thời đánh Tống, một “Thăng Long của toàn dân” thời
kháng Nguyên, một “Thăng Long kiên cường bất khuất”
thời đuổi Minh, một “Thăng Long mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789”
ngày Quang-Trung Nguyễn Huệ cùng toàn quân
toàn dân một trận oai hùng quét sạch 20 vạn
quân Mãn Thanh ra khỏi bờ cõi. Quý vị cần
phải lập tức cởi trói cho
Thăng Long để tạo hoàn cảnh cho toàn dân
tộc được cùng nhau sát cánh chiến đấu bảo vệ đất
nước trong cơn nguy biến này, và sẽ cùng xum họp
dưới mái ấm đại gia đình trong một mùa xuân
đại thắng đúng nghĩa. Chúng tôi thành thật
nghĩ rằng nếu thực hiện được những điều đại phúc ấy thì
công nghiệp của quý vị trong lịch sử và nhất
là trong lòng người VN sẽ không phải là nhỏ.
Sau hết, chúng
tôi xin thành thật cảm tạ quý đồng bào trong
và ngoài nước đã quan tâm và chia xẻ
với chúng tôi khi đọc lá thư này. Xin hứa sẽ
lắng nghe và chia xẻ các quan điểm của tất cả quý
vị nếu hân hạnh nhận được những góp ý từ bốn phương.
Trân trọng,
TẬP HỢP ĐỒNG
TÂM - ÚC CHÂU
Nguồn:
http//www.taphopdongtam.org
Trở
Lại Trang Mặt
|
|