TRỒNG ĐỒNG VĂN LANG
NHÁNH
LẠC VIỆT, TRỐNG MIẾU
MÔN I.
(phần 1)
Bác
Sỹ Nguyễn Xuân Quang
Trống đồng
nòng nọc, âm dương là bộ sử đồng
của Đại Tộc Việt. Ta đã biết trống đồng
là trống biểu của ngành nọc, trống
(đực) mặt trời ứng với ngành nọc Việt mặt
trời, là trống biểu của Hùng Vương,
vua mặt trời. Trong các bài trước ta
đã biết:
.Trống Quảng Xương là một chương sử
đồng viết về Bách Việt, Người Mặt Trời rạng
ngời, con cháu của Hùng Vương, Vua Mặt
Trời.
Bách
Việt, Người Mặt Trời rạng ngời trên trống
Quảng Xương
Đại Tộc Việt gồm có hai ngành:
ngành lửa, chim Việt mỏ cắt Viêm
Đế (cõi tạo hóa)-Đế Minh (cõi
thái dương hệ)-Kì Dương Vương (thế
gian) theo mẹ lên núi:
Người chim ngành lửa Mẹ
Tổ Âu Cơ dòng chim mỏ cắt, chim Việt
gồm Viêm Đế (cõi tạo hóa )- Đế
Minh (cõi thái dương hệ )- Kì
Dương Vương (thế gian), Âu Cơ núi.
và ngành nước, rắn Việt Thần
Nông (tạo hóa) – Đế Lạc ( cõi
thái dương hệ, tương đương với Đế Minh) – Lạc
Long Quân (thế gian) theo cha xuống biển.
Người rắn ngành nước Lạc
Long Quân dòng rắn, cá sấu
dao, sấu Việt gồm Thần Nông thái
dương (cõi tạo hóa)- Đế Lạc
(cõi thái dương hệ) – Lạc Long
Quân (thế gian), biển.
.Về ngành nước qua nhóm trống
cóc/ếch có mặt trời 12 nọc tia
sáng, ta đã thấy rõ một
khuôn mặt sấm mưa Chấn/Cấn ứng với Lạc Long
Quân có một khuôn mặt thần sấm
có “nhà” ở đầu non Âu Cơ của Đại
Tộc Lạc Việt ở cõi tạo hóa, sinh tạo
và cõi trời thế gian (thái
dương hệ). Ta cũng đã thấy rất rõ một
khuôn mặt tiêu biểu của ngành
nước Thần Nông – Đế Lạc – Lạc-Long Quân
này qua trống Giao Việt Hòa
Bình.
.Trống Kì Việt Phú Xuyên cho
thấy rõ một khuôn mặt thế gian
tiêu biểu của ngành lửa Viêm Đế –
Đế Minh là Kì Dương Vương.
Trống Miếu Môn I này sẽ cho thấy một
khuôn mặt lưỡng hợp thiếu dương và
thiếu âm của hai ngành nọc dương
và nọc âm của ngành nọc mặt trời
thái dương ở cõi thế gian tức tiểu vũ
trụ. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ
sử Việt đây là sự lưỡng hợp của hại
nhánh Lang (nọc dương) Nọc Âu Cơ
và Nòng Lạc Long Quân tức
là một khuôn mặt của liên bang
Văn Lang của Hùng Vương.
Trống
Miếu Môn I (nguồn: Phạm Huy Thông
và các cộng tác viên).
Tổng quát
Trống Trống Miếu Môn I
tìm thấy ở Miếu Môn, xã Đồng
Tâm, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Sơn
Bình năm 1961.
.Các vành ở biên
trống mang tính âm thái
dương.
Sự hiện diện ở biên trống của hai vành
nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng
sói) mang nghĩa thái dương
kẹp giữa một vành hai vòng tròn
đồng tâm có chấm nọc dương có
nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn cho biết
trống thuộc ngành mặt trời Nước, Chấn
thái dương [trong khi ở trống
Phú Xuyên ở biên trống có
hai vành nọc mũi tên (mũi mác,
răng cưa, răng sói) thái dương kẹp
giữa hai vành chấm nọc, lửa, mặt trời
thái dương sinh tạo (có Li đội lốt mặt
trời Càn thế gian thái dương mang
tính chủ)].
Xin nhắc lại
các vành ngoài biên
trống cho biết trống thuộc ngành, đại tộc,
tộc nào.
.Trống có cả hai yếu tố
nòng nọc, âm dương.
Trên mặt trống ngoài các yếu tố
dương như các vành nọc mũi tên
(mũi mác, răng cưa, răng sói),
các vành giới hạn có chấm nọc
còn có các yếu tố âm như
vỏ không gian hay vỏ Trứng Vũ Trụ rất dầy, đậm
nét mang âm tính nghiêng
về phía thái âm nước.
Ở vùng đất thế gian và ngoài
biên trống có sự hiện diện của hai
vành hai vòng tròn đồng
tâm có chấm nọc dương có nghĩa
là nước dương, lửa nước, Chấn.
Như thế trống này là trống biểu của
hai nhánh nòng nọc, âm dương,
có một dạng lưỡng hợp nòng nọc,
âm dương của ngành Mặt Trời Nước, Chấn
thái dương.
.Điểm đặc biệt cần chú ý
NHẤT là trống này có
vành chủ yếu nằm gần sát mặt trời
là vành thú bốn chân
có hai loại thú khác
nhau, trong khi ở trống Hòa
Bình và trống Phú
Xuyên vành chủ yếu chỉ có
một loài thú là Sấu Việt
và Hươu Việt. Sự hiện diện của hai
loài thú bốn chân cho thấy
trống có hai khuôn mặt của hai
ngành, hai đại tộc hay hai tộc
khác nhau. Vì nằm cùng một
vành trên trống đống nòng
nọc, âm dương thì hai loài
thú này phải có một
khuôn mặt lưỡng hợp nòng nọc,
âm dương. Trống này là trống
thế gian (mặt trời có số nọc tia
sáng lơn hơn 7) và hai con
thú có bốn chân sống
trên mặt đất thế gian nên lưỡng hợp
nòng nọc, âm dương của hai
loài thú này là dạng
lưỡng hợp thế gian tức ở cõi tiểu vũ trụ,
nói một cách khác là
dạng
lưỡng hợp thiếu dương Li lửa thế gian với
thiếu âm Đoài bầu trời thế gian (lưỡng
hợp dạng thiếu ở tiểu vũ trụ).
Đối chiếu với truyền thuyết và
cổ sử Việt, đây là dạng lưỡng
hợp thế gian của
lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng của hai
nhánh lửa, núi và nước,
biển của trăm Lang Hùng Vương thế
gian. Như thế ta thấy ngay trống có
một khuôn mặt là trống liên
bang Văn Lang của Hùng Vương.
Xin xem chương Văn Lang trong Khai Quật Kho
Tàng Cổ Sử Hừng Việt. Chỉ xin nhắc
lại Văn Lang cũng như các tên cổ sử
khác như họ Hồng Bàng, Hùng
Vương, Kì Dương Vương, Lạc Long Quân…
đều phải nhìn dưới mọi góc cạnh trọn
vẹn của cốt lõi văn hóa Bách
Việt là Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ
giáo, Việt Dịch nòng nọc dựa
trên lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng.
Dưới lăng kính lưỡng hợp nòng nọc,
âm dương, Văn Lang có một nghĩa
là liên bang của hai nhánh
nòng nọc, âm dương Chim-Rắn,
Tiên Rồng của trăm Lang Hùng, của
Hùng Vương (tức phía con trai, mặt
trời nọc thái dương), nghĩa là lưỡng
hợp thế gian thiếu dương (OI) của phía
dương Lang (I) tức IOI, Li với thiếu
âm (IO) của phía dương Lang (I) tức
IIO, Đoài. Văn Lang là một
liên bang có một khuôn mặt
lưỡng hợp của thiếu dương Văn và thiếu
âm Lang.
.Một trong hai loài thú bốn
chân đã thể điệu hóa,
đã bắt đầu thần thoại hóa
không còn ở dạng thiên
nhiên (naturalistic) nữa, cho thấy trống
đã hơi muộn và ta phải giải đọc
các yếu tố trên trồng theo
tính cách thể điệu hóa nghĩa
là nghiêng nặng về phía
ý nghĩa biểu tượng.
Trống Miếu Môn I có mặt
trời 14 nọc tia sáng thuộc nhóm mặt
trời có số nọc tia sáng là số
Tốn (6, 14, 22…). Như đã nói ở
trên trống này có khuôn
mặt lưỡng hợp nên Tốn hôn phối với hai
khuôn mặt dương của hai ngành
nòng nọc, âm dương. Hai khuôn mặt
này là hai khuôn mặt nào?
Qua ttrống Phú Xuyên có mặt
trời 14 nọc tia sáng ta đã biết Tốn
hôn phối với Càn. Kiểm chứng với Dịch
sách thấy sự hôn phối này trong
Hậu Thiên Bát Quái:
Sự
hôn phối Tốn OII với Càn III là
sự hôn phối tương đồng bản thể Lửa (II)
ngành nọc dương. Tốn OII là
Nàng O Lửa II hôn phối với Càn
là Chàng I Lửa II.
Đối chiếu
với truyền thuyết và cổ sử Ai Cập ta thấy
thần Set có một khuôn mặt Càn
hôn phối với Nephthys có nột
khuôn mặt Tốn (Nephthys là chị em sinh
đôi với Isis. Isis mang hình
bóng của Mẹ Tổ Âu Cơ có một
khuôn mặt Tốn) (Sự Tương Đồng Giữa Cổ
Việt và Ai Cập Cổ) .
Ở trống thế
gian Miếu Môn I này Tốn thế gian 14
hôn phối với Càn thế gian tức là
Li. Sự hôn phối Tốn OII với Li
này cũng thấy rất rõ trong
truyền thuyết Ai Cập cổ là nữ thần bầu trời
Nut (goddess of Sky) có một khuôn mặt
Tốn lấy Thần Đất Keb (God of Earth), Li
phía ngành nọc, dương (Sự Tương Đồng
Giữa Cổ Việt và Ai Cập Cổ).
Và
qua nhóm trống cóc/ếch Chấn/Cấn
có mặt trời 12 nọc tia sáng ta
có Đoài hôn phối với Tốn. Kiểm
chứng với Dịch sách ta cũng thấy Đoài
hôn phối với Tốn ở lá bùa trừ
tà của dân gian Việt Nam (dùng
trừ tà vì Dịch có một
khuôn mặt Chấn Sấm có búa
thiên lôi trừ được ma quỉ).
Sự hôn phối Tốn OII
với Đoài IIO này cũng thấy rất
rõ trong truyền thuyết Ai Cập cổ là nữ
thần lửa Tefnut (goddess of Fire), Tốn lấy Thần
Khí Gió Shu (God of Air), Đoài
phía ngành nòng,
âm (Sự Tương Đồng Giữa Cổ Việt và
Ai Cập Cổ).
Lưu Ý
Xin lưu tâm là Tốn
OII nhìn theo những diện nòng nọc,
âm dương khác nhau của Dịch
có hai khuôn mặt nòng nọc,
âm dương khác nhau. Theo duy dương
phía mặt trời, Tốn OII
là Nàng O Lửa II
hay mặt trời âm, nữ đĩa tròn
không có tia sáng O
thái dương II giống như Âu Cơ
có một khuôn mặt Tốn OII,
Nàng Lửa, Thái Dương Thần Nữ. Theo
duy âm phía nòng không
gian Tốn là không Gian O
Lửa II tức Khôn dương,
khí gió ngành nòng
âm. Với khuôn mặt âm bầu
khí gió này mà Mẹ Tổ
Âu Cơ đội lốt bầu vũ trụ, bọc Trứng Vũ Trụ
mà sinh ra bọc trứng thế gian trăm Lang
Hùng.
Điều này giải thích tại
sao Tốn là lưỡng hợp với Li/ Càn
ngành nọc dương và với
Đoài/Chấn ngành nòng
âm.
Xin hãy dùng Việt Dịch đồng
Đông Sơn giải thích cổ sử Ai Cập cổ.
Như thế trăm
phần, trăm trống Miếu Môn I có mặt
trời 14 nọc tia sáng Tốn có
khuôn mặt lưỡng hợp là Càn
thế gian (tức Li)/Tốn và Đoài/Tốn
tức diễn tả lưỡng hợp thế gian tiểu vũ trụ
thiếu đương Li với thiếu âm Đoài.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt,
Tốn (OII) là khuôn mặt Nàng (O),
Lửa (II), Thái dương thần nữ Âu Cơ
ngành Lửa đất (Núi dương, núi
lửa) Li, Lửa thế gian Kì Dương Vương (cả hai
đều có biểu là con hươu đực và
cái). Do đó khuôn mặt Càn
thế gian/Li/Tốn của trống Miếu Môn I ứng với
phía Núi Âu Cơ tức Đế của
Viêm Đế. Trong khi khuôn mặt
Đoài/Tốn có Đoài (IIO)
là Chàng (I) gió thiếu âm
(IO), là Khôn dương Nông của
phía nòng Khôn Thần Nông
ứng với Lạc Long Quân. Rõ ràng
trống Miếu Môn I mang một ý nghĩa biểu
tượng cho lưỡng hợp hai nhánh Âu Cơ-Lạc
Long Quân của Hùng Vương tức
có một khuôn mặt liên bang Văn
Lang. Trống này có một khuôn mặt
là trống Nông-Đế (Nông viết trước
Đế vì các vành ngoại biên
cho biết phía âm, Nông mang
tính chủ).
.Trống có một nghĩa là đực, là
nọc, là dương nên trống được
dùng làm trống biểu của ngành
mặt trời. Trống đồng hở đáy và
trên mặt trống có hình mặt trời
nằm trong vòn tròn vỏ không gian
của của đại tộc Đông Sơn là trống
nòng nọc, âm dương nên là
trống biểu tượng cho cả hai nhánh âm
dương của ngành mặt trời: dương thái
dương và âm thái dương.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt
trống đồng nòng nọc, âm dương của đại
tộc Đông Sơn là trống biểu của
Hùng Vương (Hùng có một nghĩa
là Trống, nọc, đực, mặt trời) lưỡng hợp Chim
Rắn, Tiên-Rồng. Trống đồng nòng nọc,
âm dương của đại tộc Đông Sơn
là trống biểu của cả hai ngành
Hùng Vương dương thái dương Lửa,
Núi Mẹ Âu Cơ và âm
thái dương Nước, Biển Lạc Long Quân
và của Bách Việt (xem Trống Đồng
Là Trống Biểu Của Hùng Vương trong
bacsinguyenxuanquang.wordpress.com).
.Họ
Trống Miếu Môn I thuộc họ mặt trời hừng
rạng, rạng ngời có tia sáng nọc mũi
mác.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt,
đây là trống biểu của họ Hồng
Bàng có một khuôn mặt là
họ mặt trời thái dương. Theo duy dương, họ
Hồng Bàng có một nghĩa là Họ
Đỏ, Họ Mặt Trời. Họ Hồng Bàng thế
gian kể từ Kì Dương Vương
trở xuống, nhìn theo diện nòng nọc,
âm dương chỉ gồm có Kì Dương
Vương (Kì Việt thuộc ngành mặt trời
Viêm Đế và Lạc Long Quân thuộc
ngành không gian Thần Nông.
Còn Hùng Vương trong họ Hồng
Bàng có thể coi là có
một khuôn mặt lịch sử là chính.
Ở trống này ta thấy rất rõ dạng lưỡng
hợp thiếu dương Li nhánh núi và
thiếu âm nhánh nước là con
cháu của Kì Dương Vương và Lạc
Long Quân. Hùng Vương coi như là
thuộc họ Hồng Bàng lịch sử.
Như thế họ Hồng Bàng cần phải nhìn
dưới ba diện theo lưỡng hợp nòng nọc,
âm dương: ở cõi Tạo Hóa
là họ Hồng Bàng vũ trụ gồm hai
ngành Viêm Đế và Thần
Nông. Ở cõi thế gian: họ Hồng
Bàng chỉ gồm có Kì Dương Vương
và Lạc Long Quân. Ở cõi lịch sử,
họ Hồng Bàng gồm hai nhánh Hùng
Vương Núi và Biển.
Hùng Vương lịch sử đội lốt Tổ Hùng
tạo hóa, sinh tạo ở cõi trên
Thượng Thế.
Đế Minh là cháu ba đời thần mặt trời
Viêm Đế thì Kì Dương Vương, Lạc
Long Quân và Hùng Vương cũng
thuộc dòng mặt trời Viêm Đế. Hiển
nhiên họ Hồng Bàng trăm phần trăm
có một khuôn mặt là Họ Mặt Trời.
.Ngành
Hai vành nọc mũi tên (mũi
mác, răng cưa, răng sói) ở biên
trống cho biết trống thuộc ngành nọc
dương thái dương mặt trời chói
sáng khác với trống đồng
âm thái dương ví dụ như trống Cổ
Loa cũng có mặt trời 14 nọc tia sáng
nhưng có hai vành đường rầy hay
hình các thanh thang đứng (răng lược)
ở biên trống cho biết trống thuộc ngành
nọc âm thái
dương, mặt trời êm dịu.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt,
đây là ngành mặt trời dương
thái dương phía Viêm Đế.
.Nhánh
Mặt trời có tia sáng hình nọc
mũi tên nhọn, sắc ứng với
nhánh nọc, lửa, nọc nhọn, rìu nhọn tức
nhánh rạng ngời khác với các
trống cóc/ếch như trống Hữu Chung có
nọc tia sáng cạnh cong hình búp
măng, cánh hoa sen nhọn đầu mang âm
tính diễn tả ánh sáng nọc
âm êm dịu.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt,
đây là nhánh Việt mặt trời rạng
ngời.
.Đại tộc
Khối lửa mặt trời hình cầu gai chói
lọi không thấy đĩa tròn ứng với đại tộc
thái dương.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt,
đây là đại tộc Việt thái dương
ngành dương.
.Dạng lưỡng hợp nòng nọc, âm
dương
Thấy qua sự kiện là trống hở đáy, mặt
trời-không gian ở tâm trống và
tia sáng số chẵn âm đi với mặt trời
dương.
Đặc biệt ở đây như đã nói ở
trên có dạng lưỡng hợp thiếu dương
thiếu âm ở cõi thế gian tiểu vũ trụ.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt,
dạng lưỡng hợp nòng nọc, âm dương,
lửa-nước ứng với Chim-Rắn, Viêm Đế-Thần
Nông, Đế Minh-Long Vương, Kì Dương
Vương-Thần Long, Lạc Long Quân-Âu Cơ,
Tiên-Rồng, Hùng Lang, Hùng Vương
lưỡng hợp hai ngành núi-biển,
liên bang Văn Lang…
.Trống Nấm Vũ Trụ: trống có
hình Cây Nấm Vũ Trụ Nguyễn Xuân
Quang VI (Heger I).
Trống có hình cây nấm là
trống Cây Nấm Vũ Trụ (Cây Tam Thế,
Cây Đời Sống) gồm đủ cả ba cõi, Tam Thế
mang trọn vẹn ý nghĩa vũ trụ luận.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt,
trống này theo chính thống phải mang
trọn vẹn cốt lõi văn hóa Việt dựa
trên nòng nọc, âm dương nền tảng
của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo.
1. Mặt
trống
Nhìn tổng thể, trống “mát dịu”
vì có nhiều các yếu tố âm
trên mặt trống như đã nói ở
trên là vỏ không gian hay vỏ
Trứng Vũ Trụ rất dầy, đậm nét mang âm
tính nghiêng về phía thái
âm nước. Ở vùng đất thế gian và
ngoài biên trống có sự hiện diện
của hai vành hai vòng tròn đồng
tâm có chấm nọc dương có nghĩa
là nước dương, lửa nước, Chấn.
Tính mát dịu này cho biết
trống thuộc ngành mặt trời thái dương
êm dịu, mặt trời chiều, hoàng
hôn, mặt trời Nước ứng với An Dương Vương (Vua
Mặt Trời Êm Dịu) ngành Lạc Long
Quân mang tính chủ.
Cõi Trên, Thượng Thế
Thượng Thế, theo
nguyên tắc, là phần ở tâm trống
biểu tượng cho cõi trên chiếu xuống
tâm trống hay là phần cõi
trên đập dẹp xuống để làm mặt trống.
Trống này có mặt trời 14 nọc tia
sáng là trống thế gian (xin nhắc lại
trống có mặt trời có số tia
sáng bằng hay nhỏ hơn 7 là trống vũ
trụ) nên tâm trống cũng mang một
khuôn mặt cõi trên tức bầu trời
của thế gian. Như thế phần tâm trống có
thể coi như là mang hai khuôn mặt: một
là cõi trên càn
khôn, vũ trụ (đại vũ trụ, tạo hóa)
chiếu xuống, hai là khuôn mặt
cõi trên bầu trời thế gian (tiểu vũ
trụ, cõi nhân sinh). Tâm trống ở
đây có vỏ hư vô là
vòng tròn bao quanh đầu tia nọc
ánh sáng mặt trời. Vỏ không gian
rất to nét, đậm nét
mang tính thái âm, nước của
ngành nọc âm thái dương, ứng với
Lạc Long Quân thuộc phía nọc lửa
Viêm Đế.
Cõi trên Thượng Thế lại chia ra bốn
tầng: vô cực, thái cực, lưỡng nghi, tứ
tượng/tứ hành.
a. Vô Cực
Như đã nói ở trên vòng
tròn bao quanh đầu tia sáng là
vỏ không gian diễn tả bằng vòng
tròn rất to, đậm nét mang
tính thái âm ngả về
Khôn âm biểu tượng cho hư vô,
vô cực tiến hóa về thái
âm, Biển Vũ Trụ trước.
b. Thái Cực: bọc Trứng Vũ Trụ.
Gồm mặt trời 14 nọc tia sáng và
không gian. Không gian ở đây
được diễn tả bằng các khoảng
không gian giữa các tia sáng mặt
trời có hình thái Tứ
Tượng (hiện nay gọi lầm là ‘họa
tiết lông công’) giống như ở trống đồng
âm dương Ngọc Lũ I. Hình thái tứ
tượng này cho biết trống có một
khuôn mặt sinh tạo tức có khuôn
mặt lưỡng hợp của hai nhánh nòng nọc,
âm dương của ngành mặt trời thái
dương.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt,
bọc trứng thế gian đội lốt bọc Trứng Vũ Trụ
có khuôn mặt sinh tạo mang tính
lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng, Viêm
Đế-Thần Nông ngành mặt trời thái
dương Đại Tộc Việt.
b. Lưỡng nghi:
-Cực dương:
Mặt trời thuộc họ mặt trời rạng ngời, ngành
nọc chói chang, đại tộc thái dương.
Mặt trời có khối lửa cầu gai chói
chang và nọc tia sáng thuộc
nhóm nọc mũi tên (mũi mác, răng
cưa, răng sói) là mặt trời nọc
thái dương. Những nọc tia
sáng mũi tên ở đây
có cạnh thẳng, sắc,
nhọn mang tính nọc dương
thái dương, khác với các nọc
tia sáng thuôn tròn mang
âm tính thái dương âm
trông như cánh hoa sen,
hoa thị nhọn đỉnh (xin nhắc lại mặt trời
hoa thị, hoa cúc có tia sáng
mang âm tính là cánh hoa
tròn đầu là mặt trời nữ thái
dương như hình mặt trời hoa thị thấy
trên trang phục bà Triệu và
hình mặt trời hoa cúc 16 cánh
của thái dươngthần nữ Ameraterasu của Nhật
Bản).
Mặt trời có 14 nọc tia sáng. Số 14
là số Tốn (OII) tầng hai thế gian có
một nghĩa âm (O) thái dương (II)
(14 = 8 + 6, số 6 là số lão
âm, âm thái dương là số
Tốn tầng 1, vũ trụ, trong 8 chuỗi hay 8 tầng
của 64 quẻ của Dịch những số Tốn là 6, 14,
22, 30, 38, 46, 54, 62). Như đã
nói ở trên, trống này có
mặt trời 14 nọc tia sáng Tốn thế gian mang
tính lưỡng hợp vì có
vành hai loại thú bốn chân (xem
dưới) nên có hai khuôn mặt
là Càn thế gian hay Li/Tốn và
Đoài/ Tốn.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt
ứng với nhánh Li/Tốn
(Hùng Vương nhánh Âu
Cơ/Kì Dương Vương) và với nhánh
Đoài/Tốn (Hùng Vương nhánh Lạc
Long Quân). Đây là một dạng lưỡng
hợp của liên bang Văn Lang.
-Cực âm:
.Không
gian
Cực âm là không gian chứa
mặt trời. Như đã nói vỏ không
gian (cùng chung với vỏ Trứng Vũ Trụ) ở
đây là một vòng tròn to,
dầy, đậm nét mang tính thái
âm. Vỏ này cho biết bọc hư không,
không gian, Trứng Vũ Trụ có một
khuôn mặt mang tính thái
âm.
Bản chất không gian thường được diễn tả bởi
các hình thái ở các
khoảng không gian giữa các tia
sáng. Ở đây khoảng không gian
có hình thái tứ tượng giống như
ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I (Giải Đọc
Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương
Đông Nam Á). Ở đây chỉ xin
nói sơ lược, tóm gọn lại.
Khoảng
không gian giữa các tia sáng
có hình thái tứ tượng
Hình thái tứ tượng có 4 chữ
viết nòng nọc vòng tròn-que
là:
-hình hai giọt nước rơi từ không gian
(nên có đuôi) tức hai âm
(OO) và có con mắt dương mang
tính dương (I) gộp lại là IOO,
Chấn.
-chữ nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa,
răng sói) > có một nghĩa
là lửa vũ trụ Càn.
-Bờm gió, tua gió có một nghĩa
là gió dương Đoài.
-hình tháp nhọn mang hình ảnh
núi tháp trong có đánh
dầu chấm nọc có nghĩa là núi
dương, lửa thế gian Li.
Hình thái tứ tượng này cho
biết không gian mặt trời mang tính sinh
tạo lưỡng hợp hai ngành nòng nọc,
âm dương.
Như thế qua hình thái tứ tượng của
khoảng không gian giữa tia sáng ở
dây cho thấy trống này có một
khuôn mặt lưỡng hợp với khuôn mặt chủ
là ngành thái âm mang
tính thái dương Chấn.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt,
khuôn mặt chủ là Lạc Long Quân
nhánh Thần Nông thái dương.
c- Những Vành Sinh Tạo
Trống có những vành sinh tạo ứng với
tứ hành giống hệt như ở trống đồng âm
dương Ngọc Lũ I.
Những
vành sinh động tứ hành trên
trống Trống Miếu Môn I.
Có ba vành vận hành sinh
tạo:
-vành trong cùng sát mặt trời
là vành vòng tròn
có chấm. Vì nằm sát mặt trời
mang dương tính nên thuộc phía
nọc lửa. Vòng tròn (O) có chấm
(.) tức (.O) =
(OI), thiếu dương (khuôn mặt âm O của
ngành nọc I). Tóm lại vành
vòng tròn có chấm trong
cùng là vành thiếu dương, lửa
thế gian Li.
-Vành phía ngoài cùng
cũng giống như vành vừa nói nhưng
vì nằm ngoài xa mặt trời nên
mang âm tính, phải đọc là
vành chấm vòng tròn
tức IO, thiếu âm (khuôn mặt
đương I của ngành nòng O). Tóm
lại vành chấm vòng tròn ở
ngoài cùng là vành thiếu
âm, gió thế gian Đoài.
-Hai vành này kẹp ở giữa vành
hai chữ S gẫy khúc ôm nhau. Chữ S gẫy
nhỏ nét mang dương tính diễn tả lửa vũ
trụ. Chữ S gẫy này có ba khúc
tức ba hào dương ghép lại, tức III,
Càn Lửa vũ trụ. Chữ S mập phần giữa to
nét mang âm tính thái
âm diễn tả nước chuyển động mang dương
tính, lửa. Phần mập ở giữa là giọt
nước chuyển động và hai nọc nhọn ở hai đầu
giọt nước mang nghĩa, lửa thái dương.
Như thế chữ S mập diễn tả nước OO dương I tức IOO,
Chấn.
Vậy vành này diễn tả Càn-Chấn
ôm nhau dưới dạng sinh động, sinh tạo năng
động. Đây là dạng lưỡng hợp thái
dương thái âm ở cõi đại vũ trụ,
tạo hóa. Trong khi hai vành
vòng tròn có chầm Li
và chấm vòng tròn
Đoài là dạng lưỡng hợp thiếu dương,
thiếu âm ở cõi tiểu vũ trụ, thế gian.
Hình thái tứ tượng ở các
khoảng không gian giữa tia sáng ở dạng
tĩnh mang nghĩa biểu tượng trong khi tứ tượng
ở các vành này diễn tả tứ tượng
ở dạng chuyển động, vận hành nên
là tứ hành
diễn tả lưỡng hợp nòng nọc, âm dương
sinh động, năng động.
Xin nhắc lại Việt Dịch nòng nọc
Đông Sơn cho thấy trong văn hóa
Bách Việt chỉ có tứ hành
khác với Trung Hoa có ngũ
hành. Tứ hành liên tác
sinh ra vũ trụ muôn sinh, được chia ra Tam
Thế biểu tượng bằng Cây Tam Thế (Cây
Vũ Trụ, Cây Đời Sống). Người Trung Hoa lấy
cây này làm thành
hành Mộc nên mới có ngũ
hành. Ngày nay khoa di truyền học
cho thấy tứ hành của Bách Việt
đúng hơn ngũ hành của Trung Hoa. Đơn
vị di truyền căn bản DNA chỉ có 4
chất CAGT được cho là Bốn Chữ của Sự Sống
(Four Letters of Life), của Tạo Hóa (Four
Letters of Creator), của Thượng Đế (Four Letters
of God).
Xin đừng dùng ngũ hành giải
thích văn hóa Việt.
Tổng quát ở cõi trên, trống
Miếu Môn I có mặt trời 14 nọc tia
sáng có hai khuôn mặt
(Càn-) Li/Tốn thế gian và
Đoài/Tốn. Mặt trời thế gian có khoảng
không gian giữa tia sáng lcó
hình thái tứ tượng cho thấy trống
này có một khuôn mặt lưỡng hợp
thiếu dương Li và thiếu âm Đoài
với khuôn mặt chủ là nghánh nọc
nước, mặt trời Nước, Chấn thế gian.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt
đây là trống có một khuôn
mặt lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng của
liên bang Văn Lang Hùng Vương với
nhánh Lạc Long Quân mang tính
chủ.
B. Cõi Giữa, Trung Thế.
Trung Thế là cõi giữa nhân thế
gồm có vùng đất và vùng
nước. Vùng đất là phần mặt trống
còn lại và vùng nước là
tang trống.
-Vùng Đất.
a. Đất dương
.Vành thú bốn chân
Trống này có mặt trời 14 nọc tia
sáng là trống thế gian nên
có vành chủ chốt nằm gần phía
mặt trời là vành diễn tả hai
loài thú bốn chân sống được
trên mặt đất.
Như đã nói ở trên, vành
này là một đặc điểm của trống
vì gồm có hai loài thú
bốn chân khác nhau. Với hai loài
thú bốn chân ở cùng một
vành cho biết là trống có một
khuôn mặt lưỡng hợp ở cõi thế gian,
tiểu vũ trụ là lưỡng hợp thiếu âm,
thiếu dương. Một loài thấy rất rõ
là mang gạc hươu sừng và một
loài “thú lạ”.
Hai loài thú bốn
chân trên Trống Miếu Môn I (nguồn:
Nguyễn Văn Huyên).
Mang Gạc.
Trống Miếu Môn I có những con hươu
giống những con hươu trên rống Ngọc Lũ I
(trống đồng âm dương Ngọc Lũ I cũng có
mặt trời 14 nọc tia sáng).
Trống này có 8 con chia ra mỗi
bán viên có 4 con. Số 4
là số Cấn. Số 4 Cấn âm có
khuôn mặt dương là Li 5 làm đại
diện và hôn phối với Chấn. Như thế theo
duy dương những con hươu này mang khuôn
mặt là hươu Li dòng nước Chấn. Cả hai
nhóm đều có 4 con cho thấy khuôn
mặt Li mang tính chủ so với khuôn mặt
Càn. Điểm này cũng giống như ở trống
Ngọc Lũ I hai nhóm đều có 10 con, số
10 là số Khảm hôn phối với Li.
Nhóm hươu có cả hươu đực và
cái cho thấy có sự hiện diện của lưỡng
hợp nòng nọc, âm dương ngay cả trong
một đại tộc. Bán viên dương là
nhóm có con đực đi với 4 con hươu
Càn thế gian/Li. Và bán
viên âm có 4 con cái đi
với 4 con hươu phía Đoài.
Trong 8 con thì 7 con là cái
và chỉ có 1 con đực. Điểm này
cho thấy khuôn mặt âm mang tính
chủ.
Ở đây cũng như ở trống đồng âm dương
Ngọc Lũ I những con hươu cái
có sừng. Trong thiên
nhiên hươu cái (nai) không
có sừng ngoại trừ loài tuần lộc
(reindeer), con cái có sừng. Những con
hươu ở đây không phải là
loài tuần lộc vì sừng chỉ có ba
mấu nhọn (trong khi tuần lộc sừng có nhiều
mấu nhọn).
Hươu cái có sừng cho thấy những con
hươu này diễn đạt theo ý nghĩa biểu
tượng. Điều này dễ hiểu vì loài
thú đi cùng vành được thể điệu
hóa rất nhiều trông rất “lạ”,
hoàn toàn mang ý nghĩa biểu
tượng. Trống này đã hơi muộn.
Con hươu cái có sừng mang
ý nghĩa biểu tượng là nai lửa,
thái dương ngành âm, cái,
nữ (hai sừng nhọn là hai nọc, hai dương, lửa,
thái dương). Điều này thấy rõ
qua lá cờ hình hươu sao cái
biểu tượng cho bà Ngu Cơ (Âu Cơ) của
người Mường dùng trong tế lễ:
Hươu Sao
cái có sừng biểu tượng cho Ngu Cơ
của người Mường (nguồn, J. Cuisinier, Les
Mường).
Lưu ý hươu sao Ngu Cơ Mường sừng
có 4 mấu nhọn. Số 4 là số chẵn, số
âm và cũng là số Cấn,
Núi, bản thể thế gian của Ngu Cơ, Âu Cơ
dẫn năm mươi con lên núi.
Âu Cơ, Ngu Cơ là Nàng Lửa,
Thái dương thần nữ của Việt Mường nên
có biểu tượng là con nai sao có
sừng lửa, thái dương.
Ta cũng thấy rất rõ trong 8 con hươu
thì có 7 con là hươu
cái? Tại sao lại 7? Số 7 là số
Càn, lửa thái dương. 7 con hươu
cái mang nghĩa biểu tượng là mặt
trời Mặt Trời Nàng Thái dương,
Thái dương thần nữ. Khuôn mặt
này mang tính chủ yếu.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt,
ta thấy hươu ở đây ứng với hươu Li/Càn
ngành Nọc Lửa thái dương Viêm
Đế, Kì Dương Vương với tộc hươu Li
thuộc ngành Mẹ Tổ Âu Cơ thái
dương thần nữ tức nhánh Hùng Vương Lửa
Núi mang tính chủ. Điều này ăn
khớp trăm phần trăm với Mẹ Tổ Âu Cơ ở
cõi trời sinh tạo có một khuôn
mặt là Nàng Lửa, Nữ Thần thái
dương OII, Tốn và ở cõi đất thế gian
có một khuôn mặt là lửa
đát thế gian tức núi Cấn, có
thú biểu là con hươu sao cái
còn thấy trong truyền thuyết Mường.
Cũng xin nhắc lại tiếng cổ Việt gọi hươu là
con mang. Từ mang với biến
âm muông có gốc nghĩa
chỉ chung các loài thú bốn
chân (muông thú) ruột thịt với
Mường ngữ moong chỉ loài
thú. Tại sao mang lại dùng chỉ chung
các loài thú? Xin thưa, như
đã biết, hươu là con thú
và cũng là con người đầu tiên
của nhân loại qua hình ảnh con hươu Keh
của Đông Á cổ (James Churchward)
và Hươu Đực Lộc Tục Kì Dương Vương,
vua đầu tiên của nước Xích Quỉ, Người
Mặt Trời. Mang coi như thủy tổ các
loài thú trong khi cây Si với Si
biến âm với Kì có nghĩa
là Cây là thủy tổ của
loài thực vật. Mang hươu là thủy tổ
loài thú cũng đúng trăm phần
trăm với từ Anh ngữ deer (mang, hươu).
Cho mãi tới thế kỷ 13, tất cả loài
thú bốn chân đều gọi là deer,
ruột thịt với Hy Lạp ngữ ther,
có nghĩa là thú (vật).
Ta thấy rất rõ ther = thú. Theo định
luật Grimn th = d = z , ta có ther =
thú = zoo (sở thú). Deer nguyên
thủy hiểu theo gốc Hy Lạp ther, thú theo duy
dương với nghĩa con hươu ngày là tổ
tiên của các thú vật kể cả
loài người của ngành nọc dương. Trong
khi đó từ panther chỉ con báo
là vật tổ của các tộc thuộc
ngành nòng âm như Maya là
tổ tiên của các thú vật kể cả
loài người của nòng âm. Panther
có pan- là tất cả và ther
là thú. Panther là (tổ) của tất
cả loài thú kể cả con người của
ngành nòng âm vì con
báo không có sừng. Cũng
nên biết từ báo biến âm với bao,
bầu, bì có một nghĩa là mang
(bầu).
Như thế từ mang chỉ chung hươu nai (đực và
cái) đúng hơn từ hươu chỉ riêng
con đực (hươu là hèo là
kèo là cọc, là c…c). Theo duy
dương mang có nghĩa là cây gai
nhọn (thảo mang). Mầm tre mới mọc trông như
cái gai nhọn gọi là măng. Măng
là biến âm của mang (gai nhọn).
Vì thế theo duy dương mang có một
nghĩa chỉ con cọc (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc),
hươu cọc, hươu sừng. Rõ hơn gọi chung
là mang gạc. Theo duy âm, mang
có nghĩa là bao, bầu (có mang
là có bầu) chỉ con nai cái.
Trong Việt ngữ mang, mễn ngày nay chỉ
loài hươu nai nhỏ con không có
sừng mang âm tính. Như thế theo duy
âm mang chỉ loài hươu mang âm
tính, nai cái.
Vì thế, từ đây về sau tôi
dùng từ MANG gọi các con hươu nai
trên trống này vì ở đây
vừa có con đực và con cái (gọi
hươu chỉ con đực thôi không chỉnh, trong
khi đó từ mang hàm nghĩa chỉ chung cả
con đực và con cái).
Bây giờ ta hãy nhận diện các
con mang này.
Như đã biết qua trống Phú
Xuyên, tổng quát mang gạc hươu sừng
biểu tượng cho ngành dương lửa Càn/Li
thái dương với khuôn mặt Li lửa thế
gian biểu tượng cho cõi giữa Trung Thế mang
tính chủ ứng với Kì Dương Vương. Những
con mang ở trống Miếu Môn I này được
diễn tả khác với mang gạc hươu sủa ở trống
Phú Xuyên như sừng có 3 mấu nhọn
(ở trống Phú Xuyên sừng không
có mấu nhọn), ở đây có
thêm những con cái… như thế mang ở
trống này còn có những ý
nghĩa biểu tượng khác với hươu sủa ở trống
Phú Xuyên.
Ta thấy rất rõ ở các con mang ở
đây:
Những con mang trên Trống Miếu Môn I
(nguồn: Nguyễn Văn Huyên).
-ở mõm có chữ nọc mũi
tên (mũi mác, răng cưa, răng
sói) > mang nghĩa lửa, thái dương.
-Trên mình mang có chữ viết
nòng nọc vòng tròn-que
hình nọc dài uốn cong theo thân
người con vật có nghĩa là nọc, dương.
Hai bên có hai hàng chấm nọc
dương, lửa, thái dương. Gộp lại cho biết mang
thuộc ngành nọc, lửa, mặt trời
thái dương.
-mang đi theo chiều dương tức theo chiều ngược với
kim đồng hồ, theo chiều mặt trời.
-sừng mang có 3 mấu nhọn là ba
hào dương III, Càn.
- 8 con mang với số 8 là số Khôn
hôn phối với Càn. Rõ ràng
mang có một khuôn mặt Càn.
Như thế tóm lại 8 con mang trên trống
Trống Miếu Môn I này thuộc ngành
nọc lửa, mặt trời thái dương với khuôn
mặt lửa thế gian thiếu dương Li mang
tính chủ. Với 7 con cái cho
biết khuôn mặt thuộc dòng lửa thế gian
nữ thái dương là chính yếu.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, 8
con mang biểu tượng cho cho ngành nọc lửa mặt
trời Viêm Đế thái dương, với
khuôn mặt Kì Dương Vương lửa thế gian
Li mang tính chủ và nhánh
Hùng Vương theo Âu Cơ thái
dương thần nữ lên núi là
khuôn mặt chính yếu.
Đây chính là khuôn mặt
thiếu dương Li lửa đất thế gian (Càn thế
gian) tức Đế của Viêm Đế tương hợp với
khuôn mặt Tốn 14 nọc tia sáng của trống
Miếu Môn I ứng với phía Lửa, Núi
Âu Cơ.
‘Thú Lạ‘ Sói Lang.
Tổng quát.
Cùng vành này là
nhóm thú lạ chia làm hai
nhóm bốn con đi xen kẽ với hai nhóm
bốn con mang gạc.
Vành này là vành số 6
tức số Tốn. Cũng nên biết từ trong ra
ngoài, mặt trống có 14 vành
và trống này có mặt trời 14 nọc
tia sáng với số 14 là số Tốn tầng 2,
thế gian (14 = 6 +
ăn khớp với nhau trăm phần trăm. Điểm này
cũng xác thực thêm cho thấy vành
số 6 Tốn có hai loài thú
là vành chủ yếu của trống này.
Như thế hai loài thú cùng ở
trên vành chủ yếu 6 Tốn đều có
một khuôn mặt âm Tốn. Ta đã
biết Tốn của trống này có hai
khuôn mặt lưỡng hợp với Tốn là Li/Tốn
và Đoài/Tốn và có một
khuôn mặt lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu dương Li
với thiếu âm Đoài và ở
trên ta cũng đã biết
các con mang sừng có khuôn mặt
là Li/Tốn rồi như thế tổng quát ta
suy ra ngay những con thú lạ này
phải có mạng Đoài/Tốn.
Những
cón thú lạ trên Trống Miếu
Môn I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).
Các nhà khảo cổ học Việt Namcho
rằng đây là lloài “thú
bốn chân dị kỳ có mỏ như chim ngậm
mối” (Nguyễn Văn Huyên).
Bây giờ chúng ta hãy làm
thám tử nhận diện con thú lạ dị kỳ
này bằng chữ viết nòng nọc vòng
tròn-que.
Trước hết nhìn tổng quát những con
thú trên trống Miếu Môn I
này có vóc dáng của
loài chó sói, chồn. Con
thú nhỏ con chỉ to bằng con chó
sói. Những con thú này đứng ở
tư thế ngửa cổ nhìn lên trời đang tru
hú.
Tư thế con thú lạ đang ngửa cổ
lên trời giống hệt con sói đứng ở tư
thế đang tru hú.
Con sói được coi là biểu tượng cho
gió một phần là do tiếng hú của
nó vì gió hú.
Thật vậy thú vật được dùng làm
biểu tượng cho gió là loài
thú vật có tên có nghĩa
là bọc, túi, khí gió
(vì hư không, không gian
nguyên thủy là cái bọc, bao,
túi khí gió). Ông thần
gió thường khoác trên vai
cái bao, túi gió. Ví dụ
chim tu hú biểu tượng cho gió (Ca Dao
Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt). Những con
thú bốn chân có đặc tính
biểu tượng cho gió, hư không, bầu trời
phải biết tru, biết hú, đó là
con sói, con lang, con chó… Con
chó là con chu, con tru, con hú
ví dụ từ hound như “grey hound”,
một loài chó, cũng như Đức ngữ “hound”,
chó, biến âm với “howl”,
hú. Ngoài ra những con thú
có các phần cơ thể biểu tượng cho
gió như có bờm, có đuôi
như cờ bông lau, tai như quạt gió
(vì thế voi cũng có một khuôn
mặt biểu tượng cho gió), màu trắng hay
khoang, đốm trắng (lang)… cũng dùng
làm biểu tượng cho gió, hư không
bầu trời. Họ nhà lang, sói, chó
là thú biểu chính của hư
không, bầu trời, khí gió. Theo
biến âm gi=ch như giăng = chăng (… dây)
ta có gió = chó. Từ gió
và chó biến âm với nhau cũng
thấy trong Mã ngữ: angin (wind)
biến âm với anjing (dog).
Hình ảnh đặc thù và linh
thiêng của sói lang bao giờ cũng được
khắc ghi bằng hình ảnh con sói lang
ngửa mặt nhìn lên trời trong tư thế
đang hú.
Như vậy chỉ nhìn qua tư thế con thú
kỳ dị này giống hệt con sói đang đứng
hú ta đã có ngay một ý
niệm theo trực giác chúng là
loài sói lang, con thú tru
hú.
-Đuôi
Điểm nhấn mạnh nhất và nổi bật nhất của con
thú kỳ dị này là có
cái đuôi rất ‘kỳ dị’. Đuôi rất
dài, dài chấm đất. Đây là
đuôi ‘bông lau’, ‘cờ lau’. Đuôi
bông lau, cờ lau là một thứ phướn
gió biểu tượng cho gió. Vậy đây
là con thú biểu tượng cho gió.
Ta đã biết sói lang là
thú biểu của gió, là bổn mạng
của Hùng Lang Mặt trời-gió (Khai Quật
Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Trong thực tế,
điều này cũng đúng, đuôi
dài và rậm là nét đặc
thù của loài sói, chồn.
Loài sói có đuôi
dài vì đuôi dùng để che
phủ và đắp ấp cho mũi, các ngón
chân về ban đêm lạnh khi nằm cuộn khoanh
lại.
Con thú này có đuôi
buông thõng xuống chấm đất giống như
đuôi con chó sói đang ở tư thế
đứng ngửa cổ lên trời tru (xem hình ở
trên).
Đuôi buông thõng xuống cũng thấy
ở tư thế đứng chỉ huy, oai nghiêm, dõng
dạc đang cảnh giác, nghe ngóng, canh
chừng, đương đầu với hiểm nguy.
Đuôi
buông thõng xuống thấy ở thế con
sói đứng chỉ huy đang nghe ngóng,
canh chừng, đương đầu với hiểm nguy (nguồn
soazwildlifecallers.org).
Đuôi bông lau
chấm đất hiển nhiên là đuôi của
con thú mang hình ảnh biểu tượng cho
gió là sói lang.
Rõ hơn nữa đuôi bông lau
có những sọc song song trông giống
hình lông chim giống đuôi con
chim bổ nông biểu tượng cho con nông
gió ở thân trống Hòa Bình
nên chiếc đuôi này cũng biểu
tượng cho gió.
Mặt khác các sọc này cũng
có thể diễn tả ánh sáng tỏa ra
rạng ngời, ánh sáng mặt trời mọc,
ánh sáng rạng đông. Cái
đuôi sáng rạng ngời này cũng cho
ta biết đây là loài thú
gì. Thật vậy con lang con sói
còn có nghĩa là con
“sáng”, con “rạng”, con “chói”. Lang
là láng, là lạng (sáng
lạng), là lạn (sáng lạn, sán
lạn) là rạng. Theo s=ch (sửa = chữa)
sói = chói. Chói là
sáng (sáng chói). Chói
đi đôi với chang (chói chang). Theo ch
=l, chang = lang. Ta cũng thấy Latin con sói
là lupus, Pháp ngữ là
loup ruột thịt với Latin lux,
ánh sáng. Vậy con thú ‘kỳ dị’
có đuôi ‘dị kỳ sáng chói’
là con sói, con sáng, con rạng,
con lang.
Ta cũng thấy phía đầu của thuyền hay chim,
thú là phía dương vì
trên trống chuyển động theo chiều dương tức
theo chiều ngược với kim đồng hồ, theo chiều mặt
trời và phía đuôi là
phía âm. Những con thú
này có đuôi lửa, thái
dương sáng rạng ngời là lửa,
thái dương II của phía âm O
đuôi tức IIO, quẻ Đoài. Rõ như
dưới ánh sáng mặt trời con thú
này biểu tượng cho Đoài và ở
trên trống có mặt trời 14 nọc tia
sáng Tốn thế gian nên là
Đoài/Tốn thế gian.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt
là nhánh Hùng Vương
Đoài/Tốn Lạc Long Quân (ăn khớp trăm
phần trăm với các vành nước, lửa, Chấn
Lạc Long Quân mang tính chủ ở
biên trống).
-Tai
Tai dài và to, đây là
đặc tính của một vài loài
sói chồn. Các con lân của
ViệtNamcó tai rất to và dài
mang dấu tích, hình ảnh sói
lang (xem dưới).
Tai ở đây không dựng đứng mà ngả
về sau là hình ảnh của con sói
lúc ngửa mặt lên trời tru hú
(xem hình ở trên).
-Thân người.
Trên người những con thú này
có những chữ viết nòng nọc vòng
tròn-que giống như trên người
các con mang. Đây là những con
thú thuộc ngành nọc, lửa, mặt trời
thái dương như những con mang. Điểm
này củng cố thêm cho thấy đuôi
có những sọc là những tia sáng
rạng ngời. Đây là con lang, con
sói rạng ngời thái dương.
-Bộ giống.
Hình bộ giống đực khắc rất rõ, rất
đậm, rất cường điệu, có ý nhấn mạnh
đây là con đục, con chàng, con
lang, con đực, con Hùng, con Việt.
-Mõm
Mõm rất dài và nhọn là
nét đặc thù của sói nhất
là loài sói coyote. Mõm
dài và nhọn cũng là biểu tượng
của nọc, đực, đục, thú biểu của ngành
nọc Việt mặt trời thái dương. Bằng chứng
là trong mõm có đánh dấu
hay chữ viết nòng nọc vòng
tròn-que hình nọc mũi tên (mũi
mác, răng cưa, răng sói) > mang
nghĩa nọc, lửa, thái dương.
Đăc biệt nhất là dưới mõm có
hình chữ V hay hình tam giác
ngược mà các học giả hiện nay
gọi là cái ‘mồi’.
Các hình này cũng thấy ở
các con cò trên vành số 9
trống Miếu Môn I này và ở một
hai con chim đứng ở vành ngoài
cùng trên trống Ngọc Lũ I. Các
học giả hiện nay cho đây là những con
chim ‘ngậm mồi’ và
‘con thú kỳ dị’ này cũng ‘ngậm
mồi’. Bernet Kempers, trong The
Kettledrums of SouthEast Asia gọi là
thú, cò tha mồi hay “chim
đói” (“insatiable birds”,
p.175).
Theo tôi thật sự có thể không
phải là ‘mồi’ mà đây là chữ
viết con nòng nọc vì
những lý do sau đây:
./Mồi theo duy tục không thích hợp ở
đây. Những con thú trên trống
này đã ở dạng thể điệu hóa
liên hệ với vũ trụ quan của liên bang
hai đại tộc này không phải là
những con thú nuôi con, không thể
là những con thú đói.
./Chúng là thú bốn chân
không thể tha cái mồi giống như mồi
chim ở vành cò bay phía
ngoài. Cò ăn mồi tôm cá
không thể giống mồi của loài thú
bốn chân giống sói lang ăn thịt
thú vật này vậy mà ‘mồi’ con
thú này ở đây giống ‘mồi’ của
cò. Không hợp lý.
./Trong một vài cái ‘mồi’ lại
có chữ viết vòng tròn
có chấm có ý nghĩa theo
chữ viết nòng nọc vòng
tròn-que…. Chữ chấm vòng tròn
là thiếu âm, nguyên thễ của
khí gió. Mồi thì
làm sao có chữ viết mang biểu tượng.
Như vậy đây thật sự không phải
là “mồi”. Do đó ta phải nhìn
thêm theo diện chữ viết nòng nọc
vòng tròn-que.
Trước hết cứ giả dụ dù cho đây
là mồi đi nữa thì mồi ở đây cũng
đã dùng làm một biểu tượng,
vì trong mồi có chữ viết nòng
nọc vòng tròn-que hình
vòng tròn có chầm. Như thế
dù là mồi thì cũng đã
được dùng để diễn tả như một hình, một
dấu, một chữ viết nòng nọc vòng
tròn-que, không thể hiểu mồi theo nghĩa
duy tục được. .Như thế ở đây nghiêng
nhiều về phía chữ viết nòng nọc
vòng tròn-que.
Vậy bây giờ ta nhìn dưới lăng
kính của chữ viết nòng nọc vòng
tròn-que.
./ Nhìn theo chữ V.
Nếu chỉ nhìn theo phần dưới mỏ là chữ
viết nòng nọc vòng tròn-que
hình chữ V thì chữ V này
có nghĩa ngược lại với chữ viết nòng
nọc vòng tròn-que nọc mũi tên
(mũi mác, răng cưa, răng sói) đứng /\.
Chữ V do hai nọc II ghép lại mang tính
lửa, thái dương. Chữ V có mũi nhọn
mang dương tính sinh động, năng động. Nhưng
chữ V có đỉnh chỉ địa nên mang âm
tính, của ngành âm. Gộp lại chữ
V có nghĩa là nòng, âm
lửa thái dương, nước-lửa, Chấn ngành
âm thái dương.
Xin vắt tắt đưa ra một hai bằng chứng để kiểm
chứng: trong The Da Vinci Code, Dan Brown cho rằng
trong bức tranh The Last Supper, hình
Chúa và John nối dính liền với
nhau ở chỗ hông (hip) và ngả ra hai
phía tạo thành một khoảng hở ở giữa
hai người. Khoảng hở này hình V
(chữ V) mà Dan Brown cho đây
là biểu tượng cho phái nữ, đàn
bà gọi là chalice.
Chalice hay calice, calyx có
nghĩa là cốc, chén. Dan Brown cho
chalice còn có thêm nghĩa nữa
là tử cung phụ nữ. Biểu tượng này
liên hệ với phái nữ và sự mắn
sinh (The Da Vinci Code và Chữ Nòng
Nọc, bacsinguyenxuanquang.wordpress.com).
Nhìn theo diện bên ngoài
thì hình chữ V giống âm hộ,
còn hiểu theo nghĩa chalice là
chén là vật đựng thì có
nghĩa là bộ phận sinh dục bên trong.
Vật đựng như chén, nồi, bình, ve biểu
tượng cho âm, nữ, dòng nước. Dan
Brown cũng cho rắng hình chữ \/ chalice
này biểu tượng cho nữ, phái nữ ngược
với hình tượng nguyên thủy /\
biểu tượng cho đực, nam, phái nam, đàn
ông mang hình bóng của một dương
vật sơ khai (“a rudimentary phallus”) và được
gọi là lưỡi sắc (blade). Chữ /\ chính
là chữ viết nòng nọc vòng
tròn-que hình nọc mũi tên (mũi
mác, răng cưa, răng sói) đứng đỉnh chỉ
thiên.
Tôi khám phá ra những mật
mã của Dan Brown này chính
là những chữ nòng nọc V và
/\. Chẳng cần nói đâu xa, chữ nọc
mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng
sói) > này ta thấy ngay trước mắt ở
đây là ở ngay mõm con thú
lạ này.
Về ngôn ngữ học, như đã biết
nòng O theo duy âm nữ có một
khuôn mặt biểu tượng cho âm, nữ, bộ phận
sinh dục nữ, không gian. O khi dương
hóa mở ra thành chữ U và V. Ta
thấy rõ O = U = V qua từ O (phương ngữ Huế O
là mụ, cô, mệ; mụ có một nghĩa
là mẹ như Thiên Mụ = Mẹ Trời) = U
(người Bắc gọi mẹ là U) = V= Vê =
Vú (Trung Namgọi mẹ là Vú).
Trong chữ nòng nọc U, V là dạng dương
hóa của O. Chữ U còn một
vòng cung tròn ở đáy nên
còn mang âm tính nhiều hơn chữ V
nhọn đầu. U là thái dương
vì có hai cạnh đứng là hai nọc,
lửa thái dương. U còn phần cong ở dưới
như một vật đựng biểu tượng cho âm. Vậy U
là âm thái dương của
ngành nòng thái
dương. Việt ngữ U là mẹ gọi theo Mẹ Tổ U Cơ,
Âu Cơ có một khuôn mặt là
thái dương thần nữ. Còn V có
đỉnh nhọn không còn phần cong âm
nào nên là âm thái
dương của ngành nọc thái
dương ứng với Chấn, Lạc Long Quân.
Như thế nếu nhìn cái “mồi” theo diện
đơn giả là chữ V thì những con
thú dạng sói lang này thuộc
ngành nọc thái dương ứng với Chấn, Lạc
Long Quân. Điểm này ăn khớp trăm
phần trăm với ba vành ở biên trống
là hai vành nọc mũi tên (mũi
mác, răng cưa, răng sói) mang nghĩa
lửa, thái dương và vành ở giữa
có hai vòng tròn đồng tâm
có chấm nọc dương có nghĩa là
nước dương, lửa nước, mặt trời Nước, Chấn ứng với
Lạc Long Quân. Ba vành này mang
nghĩa thuộc nọc âm thái dương ứng
với Chấn, Lạc Long Quân.
Nếu nhìn theo chữ V là âm, nước
thái dương Chấn ứng với khuôn mặt Lạc
Long Quân của trống.
Tóm lại nhìn theo chữ V, những con
thú dạng sói lang này thuộc
ngành nọc âm thái dương ứng với
Chấn, Lạc Long Quân.
./ Nhìn dưới hình tam giác
ngược.
Chữ V hợp với phần dưới mõm tạo thành
hình tam giác ngược có đỉnh chỉ
địa. Nếu nhìn dưới dạng hình tam
giác thì đây là nọc mũi
tên (mũi mác, răng cưa, răng
sói) hình tam giác ngược
có nghĩa là nước lửa thái dương
Chấn.
Như thế nếu nhìn dưới diện tam giác
ngược thì cũng có một nghĩa
là nước dương Chấn. Hình tam
giác ngược chỉ địa có nghĩa đối nghịch
với hình tam giác thuận mũi tên
có đỉnh chỉ thiên (tam giác cũng
là dạng biến đổi của nọc mũi tên, mũi
mác, răng cưa, răng sói). Vậy tam
giác dưới mỏ con thú dị kỳ và
dưới mỏ cò ở đây cũng có
cùng nghĩa với chữ V. Thật vậy hãy lấy
một hai ví dụ, ta thấy tam giác chỉ
địa là hình bên ngoài của
bộ phận sinh dục nữ cùng nghĩa với chữ V như
đã nói ở trên. Hình tam
giác ngược chỉ địa cũng có nghĩa
là nước thái dương (Chữ Nòng
Nọc trong Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc,
Âm Dương Đông Nam Á):
Hình
tam giác ngược có nghĩa là
nước.
Vân
vân…
Bây giờ coi tam giác là dạng
dương hóa của nòng O, như đã
nói ở trên. Tam giác có
ba cạnh do ba nọc que tức Càn III là
dạng dương (I) thái dương (II) của O (O
có một khuôn mặt là bọc hư
vô,không gian), nghĩa là một
cái bọc mang siêu dương tính
hình tam giác. Bọc tam giác
có góc cạnh mang dương tính
thái dương. Cái bọc dưới mỏ thú
và cò là cái bọc dương,
Khôn dương, thái dương II của
nòng hư vô, không gian O tức IIO,
quẻ Đoài, khí gió. Như
thế thú và chim ở đây có
cái túi khí gió ở dưới
cổ nghĩa là những thú, con chim thuộc
đại tộc gió Đoài. Những con thú
con chim có bọc khí gió dưới cổ
có nghĩa là chúng có thể
hú, huýt sáo được. Những
túi dương khí gió này
mang dương tính tức khi chuyển động
phát ra âm thanh, là những
cái bọc âm thanh, là một chữ
viết nòng nọc vòng tròn-que
diễn tả túi âm thanh. Đây
chính là hình ngữ
túi âm thanh (xem chương
Ý Nghĩa Dấu, Hình, Biểu Tượng
Trên Trống Đồng).
Con thú lạ có túi âm
thanh dưới cổ là con thú có đặc
tính có thể hú hay tru tức
thuộc về loài sói, lang, chó.
Với tất cả những khám phá trên,
rõ như dưới ánh sáng mặt trời
con ‘thú kỳ dị ngậm mồi’ chính
là con sói mặt trời rạng ngời,
sói LANG, sói CHÀNG, sói
Đoài thuộc nhánh nọc âm
thái dương nước lửa Chấn thái dương.
Tôi gọi con thú có bọc âm
thanh này là linh thú lang
sói, lang trời vì đã bắt đầu
thần thoại hóa không còn ở dạng
thiên nhiên nữa. Nó có cốt
là con chó sói, con lang, tương
đương với từ thiên cẩu ngày
nay dùng ở nhiều vùng quê ở Việt
Nam. Tại đây còn có tục
múa thiên cẩu.
Lang sói mang ý nghĩa biểu
tượng gì?
Lang sói, chó cũng mang ý
nghĩa biểu tượng trọn vẹn của Vũ Trụ giáo.
. Hư Không, Vô Cực.
Sói lang biểu tượng cho hư không.
Tên lang là dạng nam hóa của
nang, bọc túi. L là dạng nam
hóa của N (Tiếng Việt Huyền Diệu).
Lang, nang dương có nghĩa là bọc,
túi biểu tượng cho hư vô, bầu vũ trụ,
bầu trời mang dương tính, nghĩa
là hư không chuyển qua khí
gió trước. Theo truyền thuyết xưa thì
Lang có một loài mà trước cổ
có cái túi như ghi lại trong
Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh
đã ghi: “Lang bạt kỳ hồ: con lang đạp
cái bọc da ở trước cổ nó,
lúng túng không đi được –
Người mình lại thường dùng mấy chữ
ấy theo nghĩa trái hẳn là: đi nơi
này nơi khác, không định chỗ
nào”. Chúng ta dùng lang
bạt kỳ hồ với ý nghĩa là đi đây
đó phiêu bạt như gió.
Con lang có cái túi dưới cổ
này đích thị là những con lang
ở trên Trống Miếu Môn I nầy có
cái túi (gió), túi
âm thanh ở cổ mà được cho là
cái mồi. Mặt khác qua từ lang bạt kỳ
hồ ta cũng thấy con lang đi với bạt là
gió. Ta có từ đôi bạt
gió (như cánh chim bạt
gió). Theo qui luật từ đôi của Nguyễn
Xuân Quang ta có bạt = gió
(Tiếng Việt Huyền Diệu). Ta có thể kiểm chứng
lại, theo b=v, bạt = Phạn ngữ vâta
là gió.
Ở Miền Bắc ViệtNamcó làng Vát
chuyên làm quạt. Vát ruột thịt
với Phạn ngữ vâta, gió vì quạt
làm ra mát (quạt mát)
liên hệ với gió (gió
mát). Theo v=m, vát = mát. Theo
v = qu như vấn = quấn, ta có Vát =
quạt. Như thế làng Vát là
làng Gió, làng Mát
làng Quạt.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt,
con Lang biểu tượng cho gió, bầu vũ trụ, bầu
trời, một khuôn mặt của Hùng Vương
Đoài sinh ra từ bọc trứng sinh tạo thế gian
tức bầu trời đội lốt bọc Trứng Vũ Trụ.
Lưỡng cực:
-Cực dương:
Lang có nghĩa là chàng (con
trai) và cũng có nghĩa là đục
(chisel) biểu tượng cho cực dương. Việt ngữ
sói biến âm với chói (s=ch)
là sáng hàm nghĩa mặt trời,
lửa.
-Cực âm:
Họ nhà chó, cáo chồn cũng
có khuôn mặt biểu tượng cho âm,
cõi âm. Lang có khuôn mặt
âm là nang biểu tượng cho âm, nữ,
cõi âm. Lang là dạng dương
hóa của nàng, nường, nòng.
Chó cõi âm (funerary dog)
liên hệ với hồn người chết như chó
gác cổng trời thấy trong truyền thuyết
Đông Nam Á còn thấy trên
những con thuyền trên trống đồng âm
dương Ngọc Lũ I, chó Anubis của Ai cập cổ,
chó ngao ở địa ngục của Phật giáo.
Tứ Tượng:
-Tượng gió lửa trời:
Sói lang mặt trời rạng ngời. Như trên
đã thấy sói = chói, chói
sáng. Sói là con chó
chói sáng, chó rạng ngời
càn thái dương, chó lang
có nghĩa là lạn, láng là
sáng ngời. Sói là con
chó mặt trời rạng ngời, lửa càn
thái dương. Điểm này ta cũng thấy
Latin chó sói là lupus
ruột thịt với lux (ánh
sáng, sáng).
-Tượng gió lửa đất thế gian:
Chó núi, con cầy họ nhà
chó. Cầy biến âm với cây, ki,
kì, kẻ biểu tượng cho đất núi.
Con chó gọi là con ki.
-Tượng gió lửa nước:
Chó mang khuôn mặt biểu tượng
cõi âm nước, như đã nói ở
trên, thấy qua hình ảnh chó ngao
của Phật giáo, chó hoang anubis của Ai
Cập cổ. Anubis là thần chết, thần tẩm liệm
người chết…
Cáo thuộc họ nhà chó có
loài mõm nhọn gọi là lạc,
biểu tượng lửa nước (Khai Quật Kho Tàng
Cổ Sử Hừng Việt). Cáo biến âm với
sáo (c=s) có một nghĩa liên hệ
với nước (sáo là súp:
sáo vịt, sáo măng; sáo
là dụng cụ đánh cá: “Chẻ tre
bện sáo cho dầy…”).
-Tượng gió lửa gió:
Con chó là con tru, con hú,
biểu tượng cho gió. Lang là dạng nam
hóa của nang có một nghĩa là
túi mang tính dương, là
nông là không (không gian
dương) là gió. Lang là
“túi đực”, “túi gió đực”,
là gió lửa, là dông. Lang
có một nghĩa là gió. Như
đã nói ở trên, qua từ
ghép lang bạt ta có lang = bạt. Theo
b=v, bạt liên hệ với Phạn ngữ vâta
là gió. Các shaman thường
hóa thành chó sói bay về
trời (M. Eliade, Shaman, p.478).
-Sự Sống, Cây Đời, Tam Thế
Chó còn có tên là
con mang có một nghĩa là
bọc, túi, có bầu, sinh đẻ (có
mang).
Chó tham dự vào việc phán
xét linh hồn để cho linh hồn về miền hằng
cửu, tái sinh như chó gác cổng
trời trên thuyền ở trống Ngọc Lũ I, chó
ngao của Phật giáo, chó Anubis của Ai
Cập hiển nhiên mang nghĩa sinh tạo, tái
sinh…
Bây giờ ta thử xem Lang Sói
có phải là con thú Việt bốn
chân tức con Lang Việt sống trên mặt
đất ở cõi Trung Thế hay không?
Nó có phải là vật tổ
của Đại Tộc Việt không?
Bây giờ ta thử xem Lang Sói có
phải là con thú Việt bốn chân
tức con Lang Việt sống trên mặt đất ở
cõi Trung Thế hay không? Nó
có phải là vật tổ của Đại Tộc Việt
không?
-Người cổ Việt có vật tổ là
loài chó, con thú được thuần
hóa từ loài sói lang:
“Người Việt xưa không những có
‘tô-tem’ chim ‘lạc’, tô-tem rồng
mà còn có nhiều tô-tem
khác như trâu, chó…”
(Trịnh Minh Hiền, Trần Mạnh Phúc, Tìm
Hiểu Nghệ Thuật… HVDN, NXB KHXH, HN, 1972 t.I, tr.
230).
Trong Hùng Vương sự tích ngọc phả cổ
truyện có ghi: “Hùng Quốc Vương
tức Hùng Vương thứ nhất – húy
Lân Lang – lên ngôi năm
Nhâm Dần, năm 2359 trước Công
nguyên” (theo Trần Huy Bá khảo ở
ngọc phả ký hiệu A227, chữ Hán, tư
liệu lưu tại Thư viện Khoa-học Xã-hội,
Hà Nội). Hùng vương thứ nhất
húy LÂN LANG có một nghĩa
là Lang Sáng, Lang mặt trời (Khai Quật
Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).
Ta thấy rõ sói lang là
hình bóng thú biểu thế gian của
Hùng Vương có mạng khí
gió vũ trụ (Đoài vũ trụ) vì một
trăm Lang Hùng sinh ra từ một cái BỌC,
cái NANG (trứng). Lang là dạng dương
hóa của Nang (L là dạng dương
hóa của N, xem Tiếng Việt Huyền Diệu). Lang
có một nghĩa là túi, bọc dương,
bầu dương, Khôn dương tức khí
gió vũ trụ. Tổ Hùng Vương có
cốt là Bọc, Bầu Trứng Vũ Trụ, có mạng
Khôn dương (khí gió), là
Mặt Trời-Không Gian vũ trụ (Việt Dịch Bầu Cua
Cá Cọc). Như thế Hùng Vương thứ nhất
có hiệu là Lân Lang có
một nghĩa là Con Sói Rạng Ngời (Khai
Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Sói
Mặt Trời thái dương rạng ngời Lân Lang
là Sói Trời, Thiên Cẩu. Gần
đây ở hồ Trúc Bạch vừa tìm thấy
một miếu thờ Chó. Ngày nay ở
vùng quê Việt Nam nhiều nơi
(vùng Huế) còn múa thiên
cẩu trong ngày lễ tết.
Trong Thủy Kinh Chú, sách này
ghi Văn Lang là nước Sài Lang.
Thủy Kinh Chú do Lịch Đạo Nguyên đời
Bắc Ngụy chú giải bộ Thủy Kinh cổ là
quyển sách về sử có giá trị
khảo cứu. Sách ghi chép về các
con sông ở Trung Quốc và các
sông ngòi lân cận chảy ra biển,
trong đó có các con sông
ở phía nam Trung Quốc chẩy qua vùng
“man di”. Theo Hoàng Hưng “đối với sử cổ
đại Việt Nam, tài liệu giá trị nhất
là phần chú giải của Lịch Đạo
Nguyên, ông đã tham khảo
các sách xưa và những
sách có giá trị đương thời
như dẫn sách Thượng thư đại truyện của Phục
Thắng đời Hán và Lâm Ấp
ký, Giao châu ngoại vực ký
(thê kỷ thứ 4) là những sách
ghi chép về miền đất nước ta thời
Hùng vương hiện đã mất” (Thời
đại Hùng vương trong thư tịch xưa,
Hùng Vương Dựng Nước, T.I, tr.83). Như thế
Thủy Kinh Chú cho rằng nước Văn lang
là nước Sài Lang
là chuyện đáng tin được. Dĩ
nhiên đối với những kẻ thù địch
thì họ bóp méo nghĩa chữ
Sài Lang đi hiểu theo nghĩa xấu xa nhưng đối
với con dân nước Văn Lang hiển nhiên
Sài Lang hiểu là con Lang Rạng, con
Sói Ngời, con Sói Rạng đông với
ý nghĩa cao đẹp.
Từ Sài Lang chỉ chung sói lang ăn
khớp với cốt lõi văn hóa Đại Tộc Việt
dựa trên lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng.
Sài là một loài sói
nhưng sài cũng có nghĩa là
“củi”, tức cây, nọc. Sài Lang gốc
có thể hiểu là con Sói Nọc,
Sói Lang ngành nọc dương, trong khi
đó Lang là con sói ngành
nọc âm. Nếu nhìn Sài là
một tính từ (adjective)
thì Sài Lang là con
sói “củi”, sói nọc, sói Việt,
Lang Việt thú biểu của Hùng
Lang, Hùng Vương.
Ngày nay chúng ta còn thấy
rõ sự thờ phượng chó qua việc quấn
khăn hình tai chó, thờ tượng đá
chó đại bản, chó đá. Sói
Lang mặt trời rạng ngời thần thoại hóa
thành linh vật thiên cẩu. như đã
nói ở trên, người Huế có tục
múa thiên cẩu. Gần đây vừa
khám phá ra một miếu thờ Chó ở
Trúc Bạch.
-Người Lạc Việt Tráng (Choang), Zhuang (xem
Đạo Mặt Trời Của Bách Việt) có tục
múa chó lúc trẻ em vừa lọt
lòng.
Hình
con chó dùng trong tục Múa
Chó lúc trẻ sơ sinh mới ra đời của
người Lạc Việt Tráng, chụp tại Bảo
Tàng Viện Sắc Tộc ở Côn Minh,
Vân Nam (ảnh của tác giả).
Dĩ nhiên ngày
nay người Lạc Việt Tráng giải thích
tục này theo nghĩa duy tục là mục
đích của tục múa này là
để bảo vệ, che chở cho trẻ sơ sinh đươc an
lành, sống khỏe mạnh, tránh các
ma lực, điều xấu làm hại đứa trẻ. Tục
múa rối này ruột thịt với tục
Múa Thiên Cẫu vào dịp tết của
người Việt còn thấy ở Huế cũng cho là
để cầu an, cầu hạnh phúc, cầu may mắn… Thật
ra phải hiểu theo nghĩa đến tận cuội nguồn, theo vật
tổ là con chó, thiên cẩu
là vật tổ thiêng liêng của
Hùng Vương Đại Tộc Việt. Hiển nhiên vật
tổ chó, thiên cẩu, Lang trời có
tất cả các nghĩa trong Vũ Trụ giáo kể
cả sinh sản, sinh tạo, tái sinh, phồn thực,
may mắn… trong đó bao gồm cả các nghĩa
duy tục ngày nay đang hiểu.
-người Mán, một tộc của Bách Việt
có vật tổ là chó Bàn Hồ.
-người Chăm liên hệ với Bách Việt
có tên cổ là nước Hồ
Tôn có nghĩa theo vật tổ là
Cáo-Vượn cũng thờ vật tổ chó…
-Borneo, Đa Đảo: nhiều tộc ở miền trung Borneo, Đa
Đảo có liên hệ mật thiết với người cổ
Việt (có tác giả cho là Bộc
Việt) còn giữ lại được nhiều dấu tích
thờ chó cho tới ngày nay: “the
ornamental art of central Borneo is to a
considerable extent dominated by a motif called
aso ‘dog’. Aso figures are placed on roofs of
houses and of sepulchral buildings. The aso is
found in the decoration of house walls, in
paintings on shields, in the designs on bamboo
receptacles, in embroideries and appliqué
work on textiles and in tattooings. The animal is
always extremely stylized” (Nghệ
thuật trang trí ở miền trung Borneo tới một
mức độ đáng kể ngự trị bởi một
mô-típ gọi là “chó”
Aso. Hình chó Aso để trên
mái nhà và trên
các kiến trúc lăng mộ. Chó
Aso thấy trang hoàng trên tường
nhà, trên các khiên mộc,
trong các hình họa kiểu trên
ống đựng tre, trong thêu thùa
và các hình ghép đặt
lên vải vóc và trong xâm
chổ. Những con vật luôn luôn rất
là thể điệu hóa…).
Hình
khắc một con chó “aso” trên tường
nhà… (Figure 35, Robert Heine Geldern,
Some tribal Art Styles of South East Asia. p.196,
hình này trích dẫn lại của
Nieuwenhuis, 1904-07).
Hình thú há mồm như đang sủa,
đang tru hú cho biết đây là con
chó. Hình chó thể điệu
hóa hay thần thoại hóa có
đuôi hình xoắn xoáy. Lưu
ý khí gió dương, chuyển động
như bão tố, bão lốc cũng chuyển động
theo hình xoáy, hình
sóng cuộn. Trong chữ viết nòng nọc
vòng tròn-que xoáy,
sóng nước và xoáy, sóng
khí gió cuộn được diễn tả theo hai
chiều nòng nọc, âm dương khác
nhau. Đuôi con chó này có
hình xoắn vòng xuống là
vòng xoáy gió lốc, gió
dương sinh tạo khác với vòng xoắn nước
vòng cong lên phía trên
lưng như thấy ở con cá sấu dao ở trống
Hòa Bình. Tai to cũng vòng cong
xuống biểu tượng cho gió. Bờm cong gió
Đoài. Trên người có đốm, một
dạng biến thể của những chấm nọc lửa, thái
dương. Đây là hình bóng
thiên cẩu, Lân Lang (Sói
sáng) của chúng ta.
Một con chó thần kỳ Aso ở
đầu hồi mái nhà của người Dayak.
(http://www.zkta.com/indonesian-tribal-art/indonesian_tribal_art-aso_finial_dayak-2917details.htm).
Một con chó thần kỳ Aso ở
đầu hồi mái nhà của người Ngaju, Nam
Dương (cs.nga.gov.au).
VẬT TỔ HỌ NHÀ CHÓ CỦA CÁC TỘC
KHÁC LIÊN HỆ VỚI TỘC VIỆT.
-Các tộc thổ dân Mỹ châu
có gốc phát xuất từ Á
châu có vật tổ chó
sói coyote. Xin nhắc lại tại Mỹ
châu có các tộc có DNA
giống hệt người Đông Nam Á tức Cổ Việt
như người Pima ở Bắc Mỹ Châu, người Maya ở
Trung Mỹ Châu và người Ticuna, Nam Mỹ
Châu.
Người thổ dân Mỹ châu có truyện
thần thoại Why The Coyote Looks Up When He Howls
giải thích con chó sói suốt
đêm đi lục tìm trong các bụi bờ,
gần sáng cảm thấy cô đơn. Những người
thân của nó đã biến thành
những vì sao nhỏ trên trời, nên
buồn bã, ngửa mặt nhìn lên trời
gào hú thương tiếc. Đó
là lý do tại sao tiếng chó
sói tru nghe điếng hồn và chó
sói mỗi lần tru đều ngửa mặt nhìn
lên trời (William R. Palmer, Why The North
Star Stands Still,tr.11). Qua truyền thuyết
này cho thấy người thổ dân Mỹ
châu cũng quan niệm y hệt chúng ta
là chó liên hệ với gió
với sao, “những người thân của nó
đã biến thành những vì sao nhỏ
trên trời”. Sao có một biểu tượng cho
gió (Hán Việt sao có một nghĩa
là túi, nang). Lửa liên hệ với
mặt trời, nước liên hệ với mặt trăng,
đá liên hệ với quả đất và
gió hiển nhiên liên hệ với sao.
Những người thổ dân Mỹ châu tin
là chó sói chết biến
thành những vì sao cho thấy họ
có cùng quan điểm với chúng ta.
-Chó âm thế
Đông Nam Á có con chó
cõi âm thường gác cổng trời
và cắn đuổi những hồn ác xuống
cõi âm. Phật giáo có con
chó ngao sống ở âm phủ xé
xác những người độc ác. Ai Cập
có con chó Inpu, phiên âm
thành Anubis, vị thần chuyên lo việc
tẩm liệm mai táng, tên Anh ngữ con
chó này gọi là jackal,
Pháp là chacal, loài chó
hoang giống chó sói nhưng chuyên
môn ăn các xác thú vật
đã chết (đây là một hình
thức ‘tẩm liệm’, hóa kiếp!).
THÚ BIỂU CHÓ TRÊN TRỐNG
ĐỒNG
Rìu thờ Đông Sơn.
Như đã nói, trên một cái
rìu Đông Sơn mà tôi gọi
là rìu Hồng Bàng cũng có
khắc hình con chó sói đứng ở
đầu mũi rìu.
Chú ý con chó có
tai như chiếc sừng, cây nọc nhọn nói
cho biết đây là con lang (chàng,
đực, nọc), con sài lang, lang Việt.
Trên người cũng có phụ đề thêm
các chữ nọc chấm nọc có nghĩa
là lửa, mặt trời, đực, thái dương. Đặc
biệt nhất là đuôi chó cuộn
tròn xuống mang nghĩa khí gió.
Đuôi thõng xuống cũng diễn tả con
sói đứng ở thế tru hú, chỉ huy…
Đây rõ ràng là con
chó, con sói, sài lang, con
Lang Việt, Lang sáng, Lân Lang.
Chiếc rìu này nếu nhìn tổng
quát thì ba con thú biểu
này biểu tượng cho Tam Thế: Giao Việt biểu
tượng cho cõi nước thái dương, mặt
trời Nước Chấn Lạc Long Quân, con mang gạc
sừng hai mấu nhọn Kì Việt biểu tượng cho mặt
trời Đất Li Kì Dương Vương và con Lang
Việt biểu tượng cho mặt trời Gió Hùng
Vương.
Nếu nhìn theo một ngành Giao Việt
thôi vì hai con Giao Việt nằm ở
cán rìu mang tính chủ.
Đây coi như là rìu biểu giao
long của đại tộc nước Lạc Long Quân gồn
có hai nhánh, hai tộc của Hùng
Vương là Lửa thế gian, Đất Li mang gạc
Kì Việt Âu Cơ-Kì Dương Vương
và Gió thế gian, tộc Đoài
lang Việt Hùng Vương, khuôn mặt dương
của nhánh Lạc Long Quân.
Nếu nhìn theo diện thế gian, lịch sử
thì rìu là biểu tượng cho
liên bang Văn Lang gồm hai nhánh
Hùng Vương lửa đất Âu Cơ-Kì
Dương Vương và nhánh Hùng Vương
lửa gió (khuôn mặt Khôn dương)
Lạc Long Quân.
Như thế rìu này ăn khớp với Trống
Miếu Môn I này trăm phần trăm.
Trên một trống minh khí cũng
có hình chó.
Chiếc trống minh khí mang ký
hiệu LS b 1257 (ký hiệu cũ là I
19.564) hiện lưu trữ tại Bảo Tàng Viện Lịch
Sử Việt, cao 5,5 cm, mặt trống hơi vồng lên,
chính giữa có tượng một con chó
há mõm (Nguyễn Văn Huyên). Con
chó há mõm là diễn tả
con chó đang sủa hay đang tru, đang
hú, mang một ý nghĩa biểu tượng cho
gió, bầu trời, bầu không gian, bầu vũ
trụ. Trống minh khí là trống
chôn theo người chết, là vật tùy
táng dùng làm bùa ‘hộ
mệnh’ cho người chết, dẫn đường chỉ lối cho người
chết về Thượng Thế, là thông
hành (passport) của người chết như thế con
chó ở đây phải mang nghĩa biểu tượng
cho sinh tạo, tái sinh tức là một vật
tổ, một con thú tổ mang trọn ý nghĩa
của Vũ Trụ giáo.
Chó cõi âm trên
thuyền phán xét linh hồn.
Trên hai con thuyền ở trống Ngọc Lũ I (số 1
và 5) có hình một con
thú đứng sau đài Tam Thế (xem chương
Hình Thuyền Trên Trống Đồng). Phần lớn
các tác giả cho đây là
con chó.
Hình
chó trên một chiếc thuyền ở trống
đồng âm dương Ngọc Lũ I (nguồn: Nguyễn
Văn Huyên).
Như đã nói ở trên, chó
có một khuôn mặt cõi âm
gác cổng trời không cho hồn ác
lên trời và thuyền này là
thuyền phán xét linh hồn (xem chương
Hình Thuyền Trên Trống Đồng) nên
đây phải là con chó liên
hệ đến việc phán xét linh hồn. Điều
này cũng thấy rõ hơn khi so
sánh với truyền thuyết của tộc Niassan, Đa
Đảo. Họ có con mèo gác cổng
trời. Người Niassan cũng tin là Cây Vũ
Trụ sinh ra mọi vật. Để đi lên trời, người
chết phải đi qua một cây cầu, dưới cầu
là vực thẳm cõi âm (abyss of the
underworld). Một người gác cổng trời tay cầm
giáo và mộc. Một con mèo
giúp người này ném các
hồn tội lỗi xuống cõi nước âm ty
(infernal waters). (M. Eliade, Shaman). Người
Đông Sơn có con chó gác
cổng trời đi đôi với người Niassan có
con mèo. Con vật đứng cạnh cầu
đài ngã ba tam thế có cổng về
trời, cõi trên và ngõ về
cõi dưới, cõi âm, người
trên đài có nhiệm vụ canh chừng
các linh hồn sau khi đã được
phán xét cho về cõi trời hay
bắt phải về cõi âm vì thế con
chó giữ nhiệm vụ canh chừng giúp người
gác cổng trời người trên đài cắn
đuổi các linh hồn ác xuống cõi
âm.
Trên người con chó này
có chữ nọc que dài đậm, hai bên
phụ đề các chấm nọc nhỏ giống như trên
người con mang hươu trời thế gian ở vành chim
thú trên mặt trống, cho biết con
chó mang dương tính nghĩa là
con chó nhà trời thuộc họ nhà
sói, lang. Trên mõm cũng
có phụ đề chữ nọc nhọn (^) giống như ở mỏ
chim nông, mang, cò có nghĩa
nọc, thái dương. Con chó đứng sau cầu
đài ngã ba Tam Thế có cổng
trời, người trên đài có nhiệm vụ
canh gác cổng trời, nó giúp
người này cắn đuổi những hồn ác xuống
cõi âm, ngăn chặn không cho
vào cõi trời. Điểm này
còn thấy bằng chứng là con chó
Ngao ở địa ngục của Phật giáo, truyền thuyết
Trung Hoa cũng có chó, sói lang
gác cổng trời, thiên đình
và các loài chó “ foo
dog” gác các nơi linh thiêng
và con chó anubis của Ai Cập cổ
là thần tẩm liện xác chết và
mai táng…
Đây là con chó cõi
âm (funerary dog) gác cổng trời
vì nó có mặt trên thuyền
phán xét linh hồn.
Chó thông thường:
Trống Vân Namcó những hình
chó nhà thông thường.
Chó thường trên một
trống Vân Nam Yunnan
Chó mang hình bóng
chó sói, to lớn. Hai con đều
là chó đực. Trên người
chó có những đốm hình chấm nọc
dương đi đôi với vành nọc mũi tên
(mũi mác, răng cưa, răng sói) trong
có ba chấm nọc. Ở đây chó cũng ở
trên trống có vành hai
vòng tròn đồng tâm có
chấm nọc dương có nghĩa là nước dương,
lửa nước giống như ở trên trống Trống
Miếu Môn I này. Vành hai
vòng tròn đồng tâm có
chấm nọc dương có nghĩa là nước dương,
lửa nước đi với vành nọc mũi tên
(mũi mác, răng cưa, răng sói)
có ba chấm nọc lửa Li, Càn mang một
nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn
thái dương giống như trống Trống Miếu
Môn I. Ở đây con chó nhà
còn thấy mang hình bóng vật tổ
sói Lang biểu tượng cho khuôn mặt dương
Đoài Khí Gió ở trên hai
trống cùng ngành nước dương, lửa nước,
Chấn thái dương (nên nhớ các tộc
Nam Trung Hoa đa số thuộc ngành nòng
nước ứng với Lạc Long Quân Chấn thái
dương).
Chồn cáo
Trên một trống Lào có
hình thú mà nhiều tác
giả cho là loài chồn (weasel).
(A.B. Kempers, The
Kettledrums of Southeast Asia).
Lưu ý con thú có đuôi
bông lau rất dái, nét đặc
thù của loài chồn sói.
Đuôi cũng có các sọc như
đuôi con Lang trời trên Trống Miếu
Môn I. Trống này có mặt trời 12
nọc tia sáng Chấn/Cấn ứng với Lạc Long
Quân/ ÂuCơ.Các con thú
này ở dưới thuyền cho thấy chúng mang
một khuôn mặt âm, chúng là
lo ài cáo chồn, khuơn mặt âm của
chó. Chúng thuộc ngành
nòng âm.
Cũng có thể trống này đã mất
chính thống của một tộc đã mất gia phả
hoặc bị ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn
hay là trống bắt chước bởi vì theo
chính thống con thú bốn chân
phải ở trên mặt đất, trong khi đó, ở
đây chúng ở dưới vành thuyền.
Tuy nhiên với cách diễn tả không
qui ước này có một điểm lợi là
nó giúp cho ta biết rõ
những con thú này có một
khuôn mặt âm của đại tộc nước,
chúng là loài chó
âm tức chồn cáo.
Trên mặt trống cũng có vành chủ
yếu là vành sóng cuộn có
hai hình móc nước dương nhỏ là
nước dương, lửa, vận hành. Trống
có khuôn mặt lửa, dương của
ngành âm Chấn.
Rõ ràng con chồn cáo ở
đây có một khuôn mặt dương
khí gió Đoài của ngành
nòng Khôn âm giống như con Lang
trời trên Trống Miếu Môn I. Khuôn
mặt cáo chốn thuộc họ nhà chó ở
đây củng cố, xác thực thêm cho
khuôn mặt sói Lang trên Trống
Miếu Môn I.
Lang nghĩa là gì?
Từ Lang cũng như các tên cổ sử Việt
khác phải nhìn dưới lăng kính
trọn vẹn của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo,
Tam Thế, Việt Dịch.
Xin thật tóm tắt ở đây (xem chi tiết
trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).
1. Lang Chàng, là Đục,
là Đực là con trai, là mặt
trời.
2. Lang là
Chàng, Người Trai Trẻ, Người Nam, Người Mặt
Trời, người Đại Tộc Việt Mặt Trời.
3. Lang là Nang mang
dương tính, là Nòng dương,
là Nông, Khôn dương khí
gió, Đoài là Bầu Trời Thế
Gian, bọc trứng thế gian ngành nọc đương.
4. Lang là Chàng là đực, la
Hùng là Mặt Trời hừng rạng, là
tổ của các Hùng Vương thế gian, lịch
sử Việt.
5. Lang là con sói, sài lang,
Sói Việt, Lang Việt.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt
Hùng Lang có một nghĩa là
con Lang Đực (Hùng là đực) hay Lang
Mặt Trời tức là Lân Lang vua tổ của
các Hùng Vương Mặt Trời ở cõi
thế gian.
Khuôn mặt đích thực của những
con thú dị kỳ.
Tóm lại những con thú kỳ dị
trên Trống Miếu Môn I là những
con sói lang thể điệu hóa, bắt đầu
thần thoại hóa là con lang trời một
thứ thiên cẩu như dân gian Việt Nam gọi
ngày nay.
Kiểm chứng lại ta thấy rất rõ trống Miếu
Môn I qua khuôn mặt thiên cẩu lang
trời có một khuôn mặt là trống
Đoài/Tốn có mặt trời 14 nọc tia
sáng (Đoài ở cõi vũ trụ
là khí gió dương, Tốn là
gió âm) có một khuôn mặt
biểu tượng cho ngành Hùng Vương
có mạng Đoài khí gió vũ
trụ mang dòng máu Tốn gió
âm của Mẹ Âu-Cơ, sinh ra từ bọc, bầu
không gian, nang Trứng Vũ Trụ.
Kiểm chứng lại, trong lưỡng hợp thế gian tiểu
vũ trụ giữa thiếu dương và thiếu âm
mà Văn là Mang sừng đã
là thiếu dương Li đất lửa rồi
thì thiên cẩu Lang trời bắt buộc phải
là thiếu âm khí gió
Đoài.
Một điểm cần lưu ý là những con hươu
ở đây nhỏ con hơn những con sói lang
cho biết con lang mang tính chủ. Điểm
này dễ hiểu vì trống thuộc
ngành nọc thái âm, mặt trời
Nước, Chấn Lạc Long Quân.
Con thú trên Trống Miếu Môn I
là con lang trời, thú biểu của lang
Hùng nhánh dương thái dương
Đoài của ngành nọc âm
thái dương Lạc Long Quân Chấn.
Linh Thú Lang Trời, Thiên Cẩu.
Lang thần thoại hóa thành con Lang
Trời, Thiên Cẫu (Giải Đọc Trống Đồng
Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam
Á).
như đã nói ở trên, ở một
vài vùng quê Việt Nam
ngày nay vẫn còn có tục
múa thiên cẩu. Một vài
vùng ở Đông Nam Á
và Đa Đảo múa các linh
thú giống thiên cẩu mà có
nhiều tác giả gọi là múa
lân.
Ở đây cũng cần phải nói thêm về
con Lân này. Theo cổ thư Trung Hoa cặp
kì lân chỉ nói một cách
tổng quát là con kì là
con đực và con Lân là con
cái, không nói rõ một
loài thú nào. Vậy ta phải
nhìn kì lân dưới nhiều loại
thú khác nhau.
Nếu hiểu theo cùng một loài
thú thì Kì có cốt
là con hươu đực có sừng và
Lân là con nai (con Cái, nai
biến âm với nái). Trong các lễ
lạc có múa lân, đôi khi ta
thấy có cặp kì lân, con
kì có sừng và con lân
không có sừng. Nhiều khì con
kì chỉ có một sừng (unicorn), như
đã biết, con kì có cốt
là con mang gạc thật sự phải có hai
sừng. Con kì có một sừng là con
lân mang khuôn mặt dương của phía
nòng âm, đại diện cho con Lân
cái không có sừng.
Người Việt Nam nhất là miền Trung, Nam
thường gọi là múa Lân chứ
không nói là múa
Kì. Gọi như thế là đứng về phía
ngành nòng âm Lạc Long
Quân. Điều này dễ hiểu vì đa số
dân miền Trung Nam là con cháu
của những người Việt di cư từ các vùng
phía bắc miền Trung nằm trong địa bàn
của An Dương Vương Lạc Long Quân.
Nếu hiểu kì lân là hai con vật
thuộc hai loại thú khác nhau
thì Kì là con thú đực,
con nọc, con cọc, con hươu sừng và Lân
là con Lang đại diện cho con thú
cái Nang (nàng, nường).
Vì thế gọi múa Lân thì
có thể con Lân là một con
thú khác thuộc ngành
nòng âm không phải là con
Lân Nai cái mà là con
Lân-Lang Thiên Cẩu (như đã
nói vùng quê ở Huế ngày
nay còn múa Thiên Cẩu chứ
không múa Lân).
Thật vậy, nếu ta nhìn cặp kì
lân theo diện lưỡng hợp tiểu vũ trụ thế gian
tức lưỡng hợp thiếu dương Li và thiếu
âm Đoài thì theo vật tổ
là lưỡng hợp Kì Li và Lân
Đoài, lưỡng hợp mang sừng và
Sài Lang.
Con Lân ở đây có con thú
chủ là con Sài Lang, Sói Lang,
Thiên Cẩu. Chứng tích còn thấy
rõ là con Lân của Việt Nam
còn mang nhiều dấu tích của con
sói Lang.
Tác giả chụp với hai con
Lân-Lang Thiên Cẩu Việt Nam tại gian
hàng trưng bầy của Việt Nam ở Triển
Lãm Thượng Hải Shanghai Expo, tháng
10, 2010 (ảnh Michelle Mai Nguyễn).
Hai con gọi là lân này mang
vóc dáng sói lang, chó,
đặc biệt nổi bật nhất là có hai tai
rất to và dài rất cường điệu như hai
cái quạt gió, nét đặc
thù của loài lang, chó giống
như hai tai linh thú Lang trời trên
Trống Miếu Môn I như đã thấy.
Trên đầu có cục u nhỏ mang hình
ảnh chiếc sừng nhỏ mang âm tính. Một
cục u hay sừng âm cho biết đây là
con Sài Lang, thú biểu mang dương
tính của ngành nòng âm
tức thiếu âm khí gió
Đoài, trong khi con Lân Nai Cái
đi với con Kì hươu đực không
có sừng.
Nhìn con vật gọi là lân trong
bức tranh cổ dân gian ta cũng thấy con
Lân Việt mang vóc dáng
thiên cẩu Lang trời có hai tai như hai
cái quạt gió.
Đây
có thể là múa thiên cẩu
mà ngày nay gọi nhầm là
múa lân.
Như thế con linh thú của Việt Nam mà
ta gọi thường gọi là con Lân có
thể ta đã gọi sai. Ta phải gọi đây
là con Lang Trời, Thiên Cẩu hay nếu
muốn dùng từ Lân thì gọi
là Lân-Lang Trời và phải hiểu
theo nghĩa kì lân là cặp
lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu dương Kì mang gạc
và thiếu âm Đoài Lân-Lang
Trời.
Vành thú chủ yếu của Trống Miếu
Môn I gồm có mang sừng và Lang
trời. Đây là vành Mang Lang.
Trống có một khuôn mặt chủ Mang Lang
nghĩa là dưới dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ
thiếu dương Li Mang với thiếu âm Đoài
Lang, mang một khuôn mặt của kì Mang
sừng và lân Lang trời.
Những con hươu trên Trống Miếu Môn I
là Mang sừng thú biểu của
âm O của ngành Lửa I tức
OI, thiếu dương (hào âm trên
hào dương là thiếu dương). Thiếu dương
OI của ngành dương I là IOI, quẻ Li.
Những con lang trời là thú biểu của
dương I phía âm O tức IO, thiếu
âm. Thiếu âm của ngành dương I
là IIO, Đoài. Đây
chính là hai khuôn mặt Li/Tốn
và Đoài/Tốn của Trống Miếu Môn I
có mặt trời 14 nọc tia sáng Tốn thế
gian. Hai loài thú cùng nằm
trên cùng một vành nên
là lưỡng hợp thiếu dương Li với thiếu
âm Đoài dưới dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ
ở cõi thế gian (vì thế mới dùng
loài thú bốn chân sống
trên mặt đất).
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt
thì đây là dạng lưỡng hợp của
nhánh Hùng Vương Lửa thế gian đất
dương (núi), thiếu dương Li, khuôn mặt
âm của phía nọc lửa Âu Cơ, theo
mẹ lên núi với nhánh Hùng
Vương Gió dương thế gian thiếu âm
Đoài, khuôn mặt dương của phía
nòng nước Lạc Long Quân theo cha xuống
biển.
Sự lưỡng hợp ở tiểu vũ trụ thế gian này
chính là một khuôn mặt của
liên bang Văn Lang Hùng Vương thế gian.
Nhìn dưới diện thú biểu này ta
thấy từ Văn trong liên bang Văn Lang có
nghĩa là con mang sừng. Thật vậy, trong Việt
ngữ Văn có nghĩa là phái nam,
đực thường dùng làm chữ đệm trong
tên của người Việt Nam để chỉ phái nam
như Nguyễn Văn Mỗ (trong khi phái nữ
dùng chữ Thị). Theo biến âm v = m như
váng = màng, Văn = Măng, mầm tre
trông như cái gai lớn nhọn mọc ra khỏi
mặt đất.
Như đã nói ở trên măng biến
âm với mang có nghĩa là chiếc
gai nhọn (thảo mang là cỏ gai) và cũng
có nhĩa theo duy dương là con
thú có nọc nhọn, sừng nhọn là
con mang (sừng).
Vậy Văn có một nghĩa là con Mang.
Tuy nhiên Văn là dương, nam của
phía lửa âm như ta thấy qua từ
đôi đối nghĩa Văn Võ (văn là
dương, nam của phía nòng âm
còn Võ là dương, nam của
phía nọc dương) và Văn cũng có
nghĩa là Vẻ Đẹp, Vẻ Sáng như thấy qua
từ đôi Văn Chương. Mang-Văn ở đây
nghiêng về con mang thái dương lửa
thế gian phía âm.
Điều này thấy rõ qua sự kiện
là trong 8 con mang thì 7 con
là con cái.
Rõ như ban ngày vành chủ yếu
trên trống Miếu Môn I có hai
loài thú Mang Lang là con Văn
và con Lang là hai khuôn mặt
thú biểu của hai ngành nọc
âm thái dương. Đối chiếu với truyền
thuyết và cổ sử Việt là hai
khuôn mặt thú biểu thế gian Mang sừng
nhánh Âu Cơ và Lang trời
nhánh lửa dương của Lạc
Long Quân của liên bang Văn
Lang Hùng Vương.
Tên nước của Hùng Vương là Văn
Lang nhìn dưới diện thú biểu bốn
chân của đại tộc nọc âm thái
dương, thì Văn là con Mang sừng của
phía Âu Cơ và Lang là con
Lang rạng ngời, con Lang đực, Lang nọc, Lang Việt
phía Lạc Long Quân.
Cũng qua trống này ta thấy nghĩa đích
thực của tên Văn Lang phải hiểu theo lăng
kính trọn vẹn của Vũ Trụ giáo, của
Việt Dịch nòng nọc, theo lưỡng hợp Chim-Rắn,
Tiên Rồng. Vì thế mà từ Văn Lang
tức liên bang Văn Lang có nhiều
khuôn mặt tùy thuộc vào
nhìn theo góc độ nào của Vũ Trụ
giáo hay theo góc độ nào của
các tộc khác nhau trong liên
bang Văn Lang. Ở trống Miếu Môn I
này, nhìn dưới diện thú
biểu ở cõi thế gian của Hùng Vương
lịch sử là lưỡng hợp cõi tiểu vũ trụ
thiếu dương Li Mang với thiếu âm
Đoài Lang. Trong khi ở trống Quảng Xương cũng
có một khuôn mặt liên bang Văn
Lang qua sự lưỡng hợp ở đại vũ trụ giữa thái
dương người Tiên Chim Rìu mỏ cắt
và thái âm người Rồng Rắn nước.
Trống Trống
Miếu Môn I (nguồn: Phạm Huy Thông
và các cộng tác viên).
b.
Đất âm
.Vành cò bay
Kế đến là vành có 16
hình cò bay.
Ta đã biết cò có mỏ dài
mang dương tính và sống ở bờ nước mang
âm tính, tức dương của âm, tức
thiếu âm nguyên thể của khí,
gió. Vì thế cò là chim
biểu tượng cho khí gió (Giải Đọc Trống
Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam
Á). Đối chiếu với truyền thuyết và cổ
sử Việt cò bay là chim biểu
Cò Lang của Hùng Vương có một
khuôn mặt sinh tạo là bầu trời,
gió thế gian sinh ra từ bọc trứng thế gian.
Cò Lang Gió thuộc đại tộc Cò
Gió Bạch Hạc, Phong Châu, Hùng
Vương (Chim Lạc Hay Cò Lang?).
Cò bay theo chiều ngược với kim đồng hồ,
theo chiều mặt trời liên hệ với mặt trời, vua
mặt trời (Hùng Vương). Đây là
trống mặt trời thái dương thế gian có
14 nọc tia sáng nên cò bay
có một khuôn mặt thái dương.
Mười sáu con cò bay với số 16
là số Khôn nước thế gian tầng 3 (0,8,
16).
Mười sáu con cò bay với số 16
là số Khôn thế gian tầng 3 (0, 8, 16).
Như thế nhìn tổng quát 16 con
cò gió Lang này có một
khuôn mặt Khôn thái dương
. Nếu nhìn theo ở cùng một
ngành nòng âm, ta thấy
Khôn dương là khí gió
Đoài. Vậy những con cò này
có một khôn mặt Đoài. Ở trống
này là Đoài/Tốn. Nhìn
dưới dạng lưỡng hợp nòng nọc, âm dương
ta có Khôn hôn phối với
Càn. Như thế những con cò này
có thêm một khuôn mặt nữa
là Càn và ở trống thế gian
này ta có Càn thế gian tức
có Li/Tốn.
Như thế 16 con cò bay có cả hai
khuôn mặt lưỡng hợp thế gian thiếu dương Li
và thiếu âm Đoài của trống mặt
trời có 14 nọc tia sáng Tốn tầng 2 thế
gian.
Bây giờ ta hãy mổ xẻ, giải đọc bằng
chữ viết nòng nọc vòng tròn-que
những con cò trên trống này.
Trước hết những con cò bay này
có nhiều điểm giống hình cò
trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.
Hình
cò bay trên trống Miếu
Môn I ở cổ và phần trên
có tên viết bằng
chữ viết nòng nọc vòng
tròn-que hình nọc giải gió,
tua gió, đuôi diều và
có bờm phướn gió (nguồn:
Nguyễn Văn Huyên).
Cò có mỏ dài rất thẳng, thanh
tao mang dương tính của ngành âm
tức thiếu âm gió Đoài.
Trong mỏ có đánh dấu hay viết chữ nọc
mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng
sói) (>) cho biết
cò có một khuôn mặt nọc, dương,
lửa, thái dương, Việt.
Bờm hình cờ, phướn gió giống như
hình cò trên trống đồng âm
dương Ngọc Lũ I cho biết những con còn
này là cò gió
Đoài (xem trống đồng âm dương Ngọc Lũ
I).
Trong bờm có những chữ viết nòng nọc
vòng tròn-que cho biết mỗi con
cò diễn tả một khuôn mặt của Vũ Trụ Tạo
Sinh, của mỗi một tộc.
Rất tiếc không có đủ hình vẽ
chi tiết của tất cả 16 con cò nên
tôi không muốn nhận diện chúng
một cách suy diễn.
Cánh cò mang hình ảnh
cánh diều gió.
Mấu chốt chính là tên con
cò này viết bằng chữ viết
nòng nọc vòng tròn-que
hình nọc que hình giải gió,
tua gió bay như đuôi
diều diễn tả gió bay cho biết
cò là Cò Gió
thái dương Đoài.
Nhưng đặc điểm nhất là những con cò
này dưới mỏ có cái mà
các nhà khảo cổ học hiện nay gọi
là “cái mồi”
giống như các con Lang trời ở trên.
Ta đã biết “cái mồi” này
là một chữ, một dấu hình trong chữ
viết nòng nọc vòng tròn-que.
Nếu nhìn theo chữ V thì có
nghĩa là âm, nước thái dương
Chấn ứng với khuôn mặt Lạc Long Quân của
trống.
Nếu nhìn dưới dạng hình tam
giác thì đây là nọc mũi
tên (mũi mác, răng cưa, răng
sói) hình tam giác ngược
có cũng nghĩa là nước lửa thái
dương Chấn hay nhìn theo diện thiếu
âm gió thì đây là
cái túi dương khí gió
tức túi âm thanh cho biết những con
có này là những con cò
“húyt sáo” được tức những con
cò gió Đoài.
Có nhiều yếu tố khiến ta nghiêng
về phía đọc theo chữ V hay tam
giác ngược có nghĩa là nước lửa
thái dương Chấn như sau:
-Trống này là trống nọc âm
thái dương với ba vành biên
trống diễn tả lửa nước, Chấn thái dương.
-So sánh với trống Phú Xuyên
nọc dương thái dương với ba vành
biên trống diễn tả lửa Càn thái
dương có vành cò lửa Càn
giữa cánh có tên viết bằng chữ
nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng
sói) hình tam giác có
nghĩa là lửa vũ trụ, Càn thì
những con cò ở đây là những con
cò gió thuộc đại tộc nước dương vũ trụ
Chấn viết bằng chữ V hay tam giác ngược
có nghĩa là nước dương Chấn.
Gộp lại đây là những con
cò gió Đoài của đại tộc nọc
âm Khôn thái dương
Chấn-Đoài.
Đối chiếu với truyền thuyết
và cổ sử Việt, cò gió
Đoài vũ trụ là chim biểu của đại tộc
Gió thái dương dòng nọc
âm thái dương mặt trời Thần
Nông-Lạc Long Quân thái dương. Ở
đây có khuôn mặt chủ là
Khôn dương Lang Việt ngành nước
âm Khôn Lạc Long Quân Thần
Nông thái dương.
Lưu Ý
Cò
Gió Lang ở đây mang hình ảnh
cò Lang ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ
I nhưng khác là có
hình chữ V hay túi âm thanh ở
dưới mỏ cho biết cò Gió này
thuộc nhánh nước thái dương,
ngành mặt trời Nước, Chấn Lạc Long
Quân-Thần Nông trong khi
cò Gió Lang ở trống đồng âm
dương Ngọc Lũ I không có chữ V hay
tam giác ngược thuộc về cả hai ngành
nòng nọc, âm dương, Lửa Nước của họ
Viêm Đế-Thần Nông.
Như thế vành chủ yếu (vì nằm
sát mặt trời) thú bốn chân,
thú biểu của cõi đất dương, trần gian,
Trung Thế là mang sừng và lang trời
và vành cò bay thuộc
ngành nọc âm thái dương
Chấn-Đoài cho thấy trống này là
trống Mang Lang của ngành nọc âm
thái dương Lạc Việt.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt
là vành thú biểu MANG VĂN của
nhánh lửa 50 con theo mẹ Âu Cơ
lên núi và thú biểu LANG
trời thiên cẩu, khuôn mặt dương của
nhánh nước 50 con theo cha Lạc Long
Quân xuống biển. Vành chủ yếu
này là vành VĂN LANG.
Vành cò bay diễn tả cò
Gió Đoài cho biết hai chi tộc, hai
nhánh mang lang Văn Lang thuộc đại tộc
Gió Đoài Lang Việt ngành nọc
âm thái dương Thần Nông, Lạc Long
Quân.
.Các vành chữ viết nòng
nọc vòng tròn-que ở biên
trống.
Ngoài biên trống có ba
vành chữ viết nòng nọc vòng
tròn-que (‘hoa văn’) gồm hai vành ở
ngoài hình nọc mũi tên (mũi
mác, răng cưa, răng sói) có một
nghĩa là nọc lửa, thái dương.
Đặc biệt ở trống này trong nọc mũi tên
(mũi mác, răng cưa, răng sói)
còn có đánh dấu hai chấm nọc
có mục đích nhấn mạnh đây mang
nghĩa hai nọc, lửa, thái dương sinh tạo.
Hai vành này kẹp ở giữa vành
hai vòng tròn đồng tâm có
chấm nọc dương có nghĩa là nước dương,
lửa nước, Chấn.
Như thế ba vành này cho biết trống
này thuộc nhánh nọc âm, nước lửa
thái dương, Chấn thái dương
ngành Khôn thái dương.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt
là trống ngành nọc âm
thái dương Thần Nông-Lạc Long
Quân thái dương.
Những vành giới hạn nọc chấm cho biết trống
có khuôn mặt lửa, thái dương
mang tính chủ.
Tóm tắt lại mặt trống từ tâm trống ra
ngoài biên ta có: Thượng Thế
là mặt trời 14 nọc tia sáng
Tốn-không gian tứ tượng và các
vành tứ hành sinh động. Vùng
đất dương có vành chủ yếu gồm hai
loài thú bốn chân Mang Văn
và Lang Trời diễn tả một khuôn mặt
liên bang Văn Lang qua thú biểu thế
gian.
Vành 16 cò bay Gió Đoài
cho biết thuộc tộc Hùng Vương bầu trời thế
gian Gió Đoài vũ trụ thuộc
ngành Khôn nước thái dương.
Ba vành ngoại biên cho biết thuộc
nhành nọc âm thái dương, nước
lửa, Chấn thái dương.
-Vùng nước
Vùng nước là phần phình tang
trống (trông như một vật đựng nước).
Tang trống có những ‘hoa văn’ chữ viết
nòng nọc vòng tròn-que giống ở
biên trống gồm hai vành giới hạn
nọc chấm và ba vành với hai
vành nọc mũi mác mang nghĩa lửa,
thái dương kẹp ở giữa vành hai
vòng tròn đồng tâm có
chấm nọc dương có nghĩa là nước dương,
lửa nước, Chấn.
.Thuyền
Chủ điểm của tang trống là 6
hình thuyền, trên mỗi thuyền có
4 người ngồi khom lưng.
Trống Miếu Môn I là trống thuộc
nhóm Đoài/Tốn thế gian có mặt
trời 14 nọc tia sáng nằm cùng trong
một nhóm với trống Ngọc Lũ I nhưng là
trống muộn. Trên vai trống Miếu Môn I
cũng có 6 chiếc thuyền. Nhìn tổng
quát, sự trình bày của thuyền
ít tinh vi và ít phức tạp hơn.
Thuyền không còn là thuyền
phán xét linh hồn như trên trống
đồng âm dương Ngọc Lũ I nữa nhưng vẫn diễn tả
Vũ Trụ Tạo Sinh mang ý nghĩa Vũ Trụ
giáo bằng một cách đơn giản hóa
và nghiêng theo duy dương.
Số 6 là số Tốn vũ trụ. Những con thuyền
này mang khuôn mặt Tốn. Ta đã
biết trống này có hai khuôn mặt
lưỡng hợp với Tốn là Đoài/Tốn
và Li/Tốn. Vậy 6 con thuyền này thuộc
hai nhánh Đoài/Tốn và Li/Tốn
của hai ngành nòng nọc, âm
dương. Suy ra giống như ở trống đồng âm dương
Ngọc Lũ I trong 6 thuyền có hai thuyền đại
diện cho hai ngành nọc dương thái
dương ứng với Viêm Đế-Kì Dương Vương
thái dương và ngành nọc
âm thái dương ứng với Thần
Nông-Lạc Long Quân thái dương.
Còn lại bốn con thuyền biểu tượng cho bốn đại
tộc ứng với tứ tượng (Giải Đọc Trống Đồng
Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam
Á).
Rất tiếc ở đây chỉ có hình vẽ
chi tiết hình hai con thuyền nên bốn
thuyền còn lại không biết như thế
nào.
Hai chiếc thuyền ở đây, một thuyền ở đầu mũi
có con chim đứng nhìn theo hướng dương
tức theo chiều ngược với kim đồng hồ, theo chiều mặt
trời và có một con chim mổ cá ở
đuôi thuyền và còn lại chiếc
thuyền kia chỉ có một con chim nhìn
theo hướng âm tức theo chiều kim đồng hồ.
-Chiếc thuyền thứ nhất ở đầu mũi có con chim
đứng quay về chiều dương tay phải.
Hình thuyền trên
Trống Miếu Môn I (nguồn: Nguyễn Văn
Huyên).
.Thuyền
Mũi thuyền hình đầu Rắn Nước Chấn
thái dương đang há miệng tương tự như
ở mũi thuyền trên trống đồng âm dương
Ngọc Lũ I (xem trống này). Hàm
trên của linh vật Rắn Nước biến thành
con chim dương có mỏ rất lớn.
Mũi thuyền lưỡng hợp đại vũ trụ
thái dương, thái âm Chim-Rắn,
Tiên Rồng.
Trong hai phần mỏ chim có
đánh dấu các chấm nọc có nghĩa
là nọc, dương, lửa. Đầu có mũ sừng
có chấm nọc, dương, lửa và có
con mắt dương vòng tròn có
chấm. Chim mang hình ảnh chim mỏ cắt lửa lớn
(Great Hornbill Buceros bicornis) mang tính
siêu dương lửa thái dương Càn vũ
trụ. Mũi thuyền diễn tả sự lưỡng hợp ở cõi
đại vũ trụ tức thái âm nước Rắn Chấn
với thái dương lửa Chim mỏ cắt lớn
Càn.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt
là dạng lưỡng hợp Tiên-Rồng ở
cõi đại vũ trụ ngành mặt trời
thái dương Thần Nông-Viêm Đế. Ở
đây khác với ở trống đồng âm
dương Ngọc Lũ I. Chim và Rắn còn
là hai thực thể riêng rẽ ở trên
trống đồng âm dương Ngọc Lũ I. Chim rìu
mỏ cắt lao vào miệng Rắn nước ở đầu thuyền
diễn tả lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng theo
dạng hai cá thể riêng rẽ. Ở trống Trống
Miếu Môn I này chim và rắn ở
dạng nhất thể cùng ở trên một cá
thể là đầu thuyền rắn-chim nhưng vẫn
còn giữ nguyên dạng thiên
nhiên. Trường hợp nhất thể này
là dạng tiền thân của dạng đầu thuyền
nhất thể tiến xa hơn nữa ở dạng rắn có bờm
chim như thấy ở trống Hữu Chung. Dạng Chim-Rắn,
Tiên Rồng nhất thể rắn bờm chim này
chính là dạng Rắn Lông Chim
Quetzal-Coatl của Mễ và Kukulcan của Maya
(nên biết là Mễ và Maya
có gốc từ ven biển Đông Nam Á
qua Trung Mỹ và Maya có DNA giống cổ
Việt ở Đông Nam Á).
Đuôi thuyền có hình chim
có bờm gió, có túi nang
thể điệu hóa có mũi nhọn mang dương
tính trong có các sọc song song
nghiêng diễn tả khí gió
và có con mắt dương. Ngoài ra
còn phụ đề bắng chữ viết nòng nọc
vòng tròn-que hình chấm
vòng tròn (.O), ở đây mang
âm tính vì ở đuôi thuyền
nên có nghĩa là thiếu âm
gió. Đây là đầu chim bổ
nông (IO) thiếu âm gió dương
Đoài vũ trụ giống như ở đuôi thuyền
trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I,
nhưng ở đây đã thể điệu hóa
khó nhận diện hơn, vì trống đã
hơi muộn.
Sau đuôi thuyền hình đầu chim bổ
nông có cây cọc hình chim
mỏ lớn, có mũ sừng và con mắt dương.
Đây là chim bồ cắt (OI) thiếu dương lửa
Li giống như ở trên trống đồng âm dương
Ngọc Lũ I.
Lưu
ý
Đầu chim cắt thiếu dương ở đuôi
thuyền này có mỏ nhỏ trong không
có đánh dấu các chấm nọc dương
so với đầu chim mỏ cắt lớn thái dương
có mỏ rìu rất cường điệu và
bên trong có đánh dấu các
chấm nọc, nên mang ít dương tính
hơn đầu chim ở mũi thuyền nghĩa là mang
tính thiếu dương (trong khi ở đầu thuyền chim
mỏ cắt lớn mang tính thái dương).
Một điểm nữa mũi thuyền mang dương tính
còn đuôi thuyền mang âm
tính vì thế con chim cắt lửa, dương
(I) ở đuôi thuyền có mang âm
tính (O) tức âm của dương tức thiếu
dương IO.
Đuôi thuyền có dạng lưỡng hợp tiểu vũ
trụ thiếu âm bổ nông Đoài với
thiếu dương bồ cắt Li.
Như thế đầu và đuôi thuyền diễn tả
dạng lưỡng hợp đại vũ trụ thái dương lửa vũ
trụ Càn với thái âm nước Chấn
và tiểu vũ trụ thiếu dương lửa đất Li với
thiếu âm gió Đoài.
Thân thuyền có các sọc đứng
răng lược biểu tượng cho nọc âm thái
dương có đánh dấu các chấm nọc
lửa, thái dương. Ở thân và cổ
thuyền có những hình trông giống
như chiếc “nơ”. Thuyền này có 7
hình. Số 7 là số Càn hôn
phối với Chấn cho biết thuyền này có
một khuôn mặt nòng Chấn với khuôn
mặt Khôn dương là Đoài.
Ở cổ đầu thuyền rắn có ba chữ vòng
tròn có chấm là ba dương ở dạng
sinh tạo (ba mặt trời) tức Càn. Càn
hôn phối với Chấn cũng cho thấy thuyền
có một khuôn mặt Chấn/Đoài.
.Người
Mỗi thuyền có 4 người. Số 4 Cấn theo duy
âm hôn phối với Chấn (Âu Cơ Cấn
núi hôn phối với Lạc Long Quân
Nước dương, biển).
Một người ngồi trong miệng rắn-chim là người
thuyền trưởng và ba người chèo thuyền.
Tất cả 4 người trông như không mặc quần
áo. Những người thuộc tộc nước thường được
diễn tả ở trần truồng.
./Người thuyền trưởng
Taycầm rìu Việt trong có dấu chấm
nọc, dương, lửa biểu tượng của Đại Tộc Việt Người
Mặt Trời.
Xin nhắc lại Rìu Việt mang trọn vẹn ý
nghĩa Vũ Trụ Tạo Sinh và ý nghĩa biểu
tượng cho ngành, đại tộc, tộc, chi tộc
của ngành mặt trời thái dương ứng với
Viêm Việt Viêm Đế. Vì thế
Rìu Việt có những chi tiết khác
nhau ứng với tứ tượng, Tam Thế. Ở cõi
trên mặt trời tạo hóa, Rìu Việt
mang hình bóng đầu chim Việt mỏ cắt
lớn có sừng, ở cõi đất thế gian mang
hình bóng chiếc sừng hai mấu nhọn mang
gạc và ở cõi nước mang hình ảnh
đầu rắn có sừng hay biểu tượng
búa thiên lôi hình chữ Y
(Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương
Đông Nam Á).
Cây rìu Việt ở đây có mấu
rìu hình túi nhọn với đường
nét cong mang âm tính biểu tượng
cho nhánh nòng Chấn-Đoài.
Trang phục đầu có hai phần chính,
phần phía trên hình cong mang
nghĩa nọc âm thái dương
Đoài-Chấn. Ở đây trông
nghiêng nhiều về hình chiếc bờm
gió tạt Đoài vũ trụ, phần sau
gáy hình sọc nước Chấn. Người thuyền
trưởng biểu tượng cho ngành nòng
thái dương Chấn-Đoài. Phần bờm cao, to
hơn phần sau gáy cho thấy khuôn mặt
Đoài mang tính chủ.
Ba người chèo thuyền có trang phục
đầu có thêm phần thứ ba ở giữa cho biết
thuộc tộc nào (rất tiếc vì không
có đủ hình cả 6 con thuyền nên
không dám suy diễn).
Số 4 là Cấn, theo Dịch âm dương
hôn phối đề huề, Cấn hôn phối với Chấn
và theo âm Dịch, Cấn hôn phối với
Đoài. Vậy chiếc thuyền này là
thuyền Đoài Chấn. Trống này là
trống Đoài/Tốn, Đoài nước ngành
Chấn có thể mang tính chủ.
.Chim
Thuyền này có hai con chim đứng ở
phía mũi và đuôi thuyền. Số 2
là số chẵn, âm cho biết thuyền
này ở nhánh nòng âm
Chấn-Đoài. Cả hai con chim đều quay về
phía tay phải dương như thế khuôn mặt
dương mang tính chủ nghĩa là
khuôn mặt Đoài mang tính chủ.
Con thuyền có khuôn mặt Đoài
mang tính chủ.
Con chim đứng dưới nước ở mũi thuyền theo
chính thống phải là một loài
chim nước. Điểm này thấy rõ trên
người có hình sóng nước dương
Chấn. Người chim thon gọn có đuôi
dài mang vóc dáng của một con
đực. Mỏ hình rìu mang dương
tính trong có đánh dấu nọc mũi
tên (mũi mác, răng cưa, răng
sói) có nghĩa là nọc dương,
lửa, thái dương. Mào ba múi
hình ba nọc que lửa vũ trụ Càn.
Bìu hay mồng thịt nhỏ dưới cổ trong có
chữ vòng tròn có chấm cũng cho
biết mang tính dương. Chân cao đứng
trên lá hay bờ đất nhưng có cổ
ngắn nên không phải là
loài sếu cò. Tóm lại đây
là một con chim nước đực mang hình
bóng loài gà nước, chim cuốc
mang tính lửa mặt trời nước thái dương
là chim biểu của Chấn thái dương.
Ở cuối đuôi thuyền trên nước, có
hình con chim đuôi ngắn, có mỏ
dài hình túi đang mổ con
cá để nhấn mạnh cho biết đây là
loài chim nước. Con cá cũng mang
ý nghĩa biểu tượng có con mắt dương
vòng tròn có chấm và
mõm nhọn nọc mũi tên (mũi mác,
răng cưa, răng sói) trong có dấu hay
chữ nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa,
răng sói) cho biết đây là
loài cá nọc Việt. Trên người
cá viết chữ nọc que hai bên có
hai hàng chấm nọc lửa, thái dương. Con
cá thuộc ngành nọc mặt trời
thái dương.
Trong mỏ chim có chữ nọc que nhọn
mang nghĩa nọc dương ngành âm
khác với chữ nọc mũi tên (mũi
mác, răng cưa, răng sói) ngành
dương. Bờm gió, trên người có
phụ đề 3 hình chấm-vòng tròn,
số 3 là số Đoài. Chim đứng trên
một cái “bè” có 11 chữ
vòng tròn có chầm nòng
nọc, âm dương sinh tạo. Số 11 là số
Đoài tầng 2. Đây là con chim bổ
nông Đoài.
Tóm lại thuyền này của nhánh
nòng âm thái dương
Chấn-Đoài với khuôn mặt Đoài
mang tính chủ.
-Chiếc thuyền thứ hai ở đuôi thuyền có
một con chim đứng quay về chiều âm tay
trái.
Hình thuyền trên
Trống Miếu Môn I (nguồn: Nguyễn Văn
Huyên).
.Thuyền.
Nhìn tổng quát giống thuyền
trên, chỉ khác các chi tiết sau
đây:
.Đầu chim cắt ở hàm trên đầu thuyền
rắn không có mũ sừng
nên ít có dương tímh tức
thiếu dương Li cho biết thuyền có khuôn
mặt Li mang tính chủ của nhánh lửa
Càn-Li.
.Ở thân và cổ thuyền có những
hình trông giống như chiếc “nơ”. Thuyền
này có 4 hình. Số 4 là
số Cấn có số 5 Li đại diện cho biết thuyền
này có một khuôn mặt nọc
Càn thế gian-Li với khuôn mặt
Càn âm tức Li mang tính chủ.
./ Người
Thuyền cũng có 4 người, ở đây theo duy
dương cùng ngành lửa số 4 Cấn đi với
khuôn mặt dương đại diện là Li 5
và cùng ngành Càn (Mẹ Tổ
Âu Cơ Cấn núi âm số 4
có Kì Dương Vương núi dương Li
5 đại diện và cùng ngành
Càn Viêm Đế).
Lưu Ý
Kiểm chứng lại bằng số học ta cũng thấy số 4
(người trên thuyền) nằm giữa số 3
Đoài và số 5 Li. Theo duy dương tức
theo chiều về tay phải thì số 4 đi với số 5
ở bên phải, phía trên (số 5 lớn
hơn 4 ở bên trên 4) và theo duy
âm tức theo chiều về tay trái
thì số 4 đi với số 3 ở bên
trái, phía dưới (số 3 nhỏ hơn 4 ở
bên dưới 4). Rõ như ban
ngày thuyền có 4 người nhìn
theo âm dương có hai khuôn mặt
Đoài Li.
Thuyền trưởng có trang phục đầu hình
rìu trong có hai chấm nọc lửa
là người đại diện của nhánh Lửa
Càn-Li. Cây rìu Việt cầm trong
tay có mấu nhọn có góc cạnh
dương tính lửa mang hình ảnh
rìu Việt sừng mang gạc Li của nhánh
Càn-Li trong khi người thuyền trưởng ở thuyền
trên cầm rìu có rìu
hình túi nhọn với đường nét
cong biểu tượng cho nhánh nòng
Chấn-Đoài.
Vậy thuyền này là thuyền biểu tượng
cho nhánh Càn Li với khuôn mặt
Li mang tính chủ.
Hai con thuyền có một khuôn mặt ở dạng
lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu âm Đoài
và thiếu dương Li.
./Chim
Chim trông cùng loài với con
chim đứng ở mũi thuyền số 1 ở trên nghĩa
là mang vóc dáng chim cuốc. Một
con chim với số 1 là số lẻ số dương. Chim
đứng ở đuôi thuyền và quay về
bên trái, chiều âm. Gộp lại tức
là âm của dương là thiếu dương
Li. Thuyền này có một khuôn mặt
Li mang tính chủ.
Rất tiếc bốn chiếc thuyền còn lại
không có hình vẽ chi tiết.
Tóm lại hai chiếc thuyền này biểu
tượng cho hai ngành: ngành nọc dương
thái dương Càn Li với khuôn mặt
Li mang tính chủ và cho ngành
nọc âm thái dương Chấn Đoài với
khuôn mặt Đoài mang tính chủ.
Suy ra bốn con thuyền còn lại biểu tượng cho
bốn đại tộc ứng với tứ tượng (xem thêm
chương Ý Nghĩa Hình Thuyền trong Giải
Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương
Đông Nam Á).
C. HẠ THẾ
Chân trống còn giữ được chính
thống vì không có trang
trí,
(phần 5 và hết)
Nguyễn
Xuân Quang
Trống Trống Miếu Môn I
(nguồn: Phạm Huy Thông và các
cộng tác viên).
D.
THÂN TRỐNG
Thân trống
hay eo trống là Trục Thế Giới nối liền ba
cõi.
Thân trống
có những vành ‘hoa văn’ thẳng đứng
và nằm ngang giống như ở tang trống.
Ngoài ra
còn có thêm sự hiện diện của
vành sóng uốn khúc xoắn ốc
hình chữ S kép với vòng
tròn đồng tâm và có hai
mầm nhánh trong có chữ vòng
tròn có chấm.
Vành uốn
khúc hình xoắn ốc chữ S kép
với vòng tròn đồng tâm
và có hai mầm nhánh trong
có chữ vòng tròn có
chấm ở thân trống Trống Miếu Môn I
và trên trống Lào.
Những vành này chia trụ
trống ra 8 ô chữ nhật chính trong
ô có từ một đến hai hình người
mà các nhà khảo cổ học Việt Nam
hiện nay gọi là “dũng sĩ” và hai
ô nằm giữa hai đường khuôn đúc bỏ
trống.
Hình
thái sóng uốn khúc xoắn
hình chữ S kép (double S-shaped
spirals) là một thể dạng biến thể của
hình thái uốn khúc xoắn gợn
sóng thường gọi là “hình xoắn
hai chữ S” thấy trên một vài trống như
trống Hoàng Hạ, Vienna, Lào và
Salaya (Nam Dương), và những trống muộn
khác…
Hình
sóng uốn khúc xoắn hình chữ S
kép gồm hình sóng do hai chữ S
thường (hình A, B, F) hay có phụ đề
thêm chữ nòng nọc “vòng
tròn có chấm” (hình C, D) với
nghĩa mặt trời-vũ trụ hay mặt trời âm hay vũ
trụ dương… và hai nhánh nọc nẩy ra từ
đầu của hình xoắn (hình A, B, D, F)
hay từ thân của hình xoắn (hình
C ). Những nhánh nọc nhọn (hình D)
diễn tả hai dương, thái dương. Những
nhánh tròn đầu là dạng biến thể
của dấu móc câu, nếu không
có gì cả diễn tả hai nước, hai
âm, thái âm (hình A) nếu
có phụ đề thêm chữ “vòng
tròn có chấm” thì có thể
có nghĩa là nước-lửa, nước dương hay
nước vũ trụ âm dương (hình B, C). Ở
trống này hai nhánh là
hình đầu chim có con mắt dương diễn tả
trống này liên hệ với một tộc dương,
thái dương của ngành nước dương
Khôn Chấn-Đoài ứng với Thần Nông
Lạc Long Quân thái dương.
Như thế
nhìn tổng quát những người nằm trong
ô có hình sóng uốn
khúc xoắn chữ S kép lửa nước
thái dương cho biết những người này
có khuôn mặt chủ thuộc ngành nọc
âm thái dương.
Nếu ta chỉ chọn 8
ô có người để nhận diện tổng
quát về người trong các ô
thì ta chỉ lấy 8 ô có người
thôi. Số 8 là số Khôn tầng 2 dưới
dạng lưỡng hợp hai ngành nòng nọc,
âm dương là Khôn-Càn
và dạng đại diện cùng ngành
nòng âm thì có Chấn
thái dương đại diện tức Khôn-Chấn. Như
thế các người này có hai
khuôn mặt Càn-Li và
Chấn-Đoài. Trống này là trống
thế gian thì hai khuôn mặt
Li-Đoài mang tính chủ.
a. Ô
có một người.
Những ô
nhỏ có một người nhẩy múa
(nguồn: Nguyễn Văn Huyên).
Đây
là những ô nhỏ, từng đôi một đối
xứng với nhau: 1 và 2 đối xứng với 5
và 6. Trong mỗi ô nhỏ chỉ có một
người (Nguyễn Văn Huyên).
Các
tác giả Việt Nam hiện nay gọi là ‘dũng
sĩ” (danh từ nhuốm mầu võ biền, khát
máu).
Tôi
không nghĩ là như vậy. Xin nhắc lại
thân trống là Trục Thế Giới, Trục Vũ
Trụ thông thương ba cõi. Do đó
theo chính thống trên thân trống
chỉ khắc những người hay vật có thể đi lại ba
cõi. Ví dụ về người, thì
đó là các đấng siêu
phàm, thần tổ (Supreme Beings), người đại
diện của ngành, đại tộc, tộc, các thầy
tế, phù thủy, thầy thuốc shaman, bà
đồng, ông mo, các linh hồn người chết…
Những người này có thể lên trời
hay đi xuống âm thế. Trục Thế Giới lưng trống
là siêu xa lộ xuyên ba cõi
của họ. Họ là những kẻ có thể
lên cõi trời liên lạc với
các thần linh cõi trên và
đi xuống cõi âm, liên lạc được
với âm thần, với các âm hồn
và linh hồn người chết có thể
lên cõi trên hay bị đẩy xuống
cõi dưới, địa ngục theo trục lộ này.
Chỉ có giới này và linh hồn mới
có thể đi lại lên xuống giữa ba tầng
trời theo trụ trời, Trục Vũ Trụ. Còn ở những
trống có thân trống coi như là
núi Trụ Thế Gian, thì người và
thú trên thân các trống
này mang nghĩa biểu tượng cho người và
thú thế gian của tộc ứng với trống.
Do đó những
người ở trên thân trống không phải
là những “dũng sĩ” nhìn theo duy tục.
Các người ở
đây mang vóc dáng đang nhẩy
múa chân trước chân sau.
Người số 1
Người
số 1 Đoài: phần
giữa trang phục đầu có hình
cánh chim nọc mũi tên (mũi
mác, răng cưa, răng sói) gió
dương Đoài, tay phải cầm rìu bổ
nông có bờm gió.
-Trang phục đầu
Trang phục đầu
hình chim gồm ba phần:
.Phần cao diễn tả
ngành.
Ở đây
có hình nọc cong diễn tả nọc
thái dương âm. Nếu nhìn theo
chiều dương tức chim quay đầu về phía trước
mặt tay phải (chiều ngược kim đồng hồ) thì
nọc cong này là sừng cong nọc âm
Càn Li ngành nòng âm
thái dương. Nếu nhìn theo chiều
âm (chiều kim đồng hồ) tức chim quay đầy về
phía sau lưng, phía tay trái
thì phần nọc cong này là
cái đuôi dài diễn tả
Đoài-Chấn ngành nòng âm
thái dương.
Ở đây
trên trống Trống Miếu Môn I thuộc
ngành nọc âm thái dương diễn tả
bằng ba vành ở biên trông
và có sự hiện diện của những
vành sóng uốn khúc hình
chữ S kép ta chọn cách nhìn về
phía âm tức phần cao là
đuôi chim diễn tả Đoài-Chấn. Ở
đây là trống thế gian nên
Đoài mang tính chủ.
.Phần cánh
cho biết thuộc đại tộc nào ứng với tứ tượng.
Ở đây
hình cánh chim có hai nọc que
II, lửa hai bên có hai hàng chấm
nọc, lửa, thái dương diễn tả cánh
gió thái dương Đoài .
.Phần sau
gáy cho biết thuộc tộc nào.
Ở đây
hình đuôi chim xòe ra có
sọc gió Đoài.
Trang phục đầu
hình chim biểu tượng cho người mặt trời
nhánh nọc âm thái dương
có khuôn mặt chủ là tộc thiếu
âm gió Đoài.
-Khí giới
hay tế biểu
Người này
tay phải tức tay dương cầm rìu Việt đầu chim
có mấu nhọn ở bên hình mỏ
rìu và có bờm gió cao.
Rìu Việt nghiêng về Rìu bổ
nông Gió Đoài.
-Mộc phướn
Taytrái tức
tay âm cầm phướn mà các học giả
hiện nay cho là chiếc mộc. Tôi gọi
là mộc hình phướn hay mộc phướn.
Chiếc mộc phướn
có hình đầu chim có mỏ lớn
và có bờm cách điệu có
con mắt dương vòng tròn có chấm
biểu tượng cho gió thái dương
Đoài.
Chân phướn
có hình cuộn sóng cuộn
có phụ đề thêm chữ vòng
tròn có chấm nọc dương cho biết
là hình sóng cuộc dương tức
gió cuộn Đoài.
Thân phướn
có những tua ngang diễn tả gió bay
Đoài.
Trên chỗ tay
cầm có hai vòng tròn đồng
tâm có chấm nọc dương có nghĩa
là nước dương, lửa nước, Chấn trên
có vòng tròn có chấm
và các chấm nọc cho biết thuộc về
ngành nọc âm thái dương Chấn
thái dương.
Như thế mộc phướn
diễn tả ngành nọc âm thái dương
Đoài-Chấn và có khuôn mặt
chủ là gió Đoài.
Tóm lại
người này thuộc về tộc Đoài.
Người số 2
Người số 2 Li:
phần giữa trang phục đầu có
hình cánh chim hình
rìu ngnag chữ nhật lửa đất âm,
tay phải cầm rìu bồ cắt.
-Trang phục đầu
Chỉ khác
người thứ nhất là phần cánh chim
hình rìu chữ nhật nằm ngang trong
có hình hai vòng tròn
có chấm nối bằng tiếp tuyến theo chiều dương.
Vòng tròn có chấm có phụ
đề nọc que và các cha71m nôc
lửa, dương cho biết mang nghĩa theo duy dương
là thiếu dương (OI). Rìu này
diễn tả thiếu dương Li sinh động Li ngànhh
âm.
Trang phục đầu
hình chim biểu tượng cho người mặt trời
nhánh nọc âm thái dương
có khuôn mặt chủ là tộc Li
ngành nọc âm nước Chấn.
-Khí giới
hay tế biểu
Người này
tay phải tức tay dương cầm rìu Việt đầu chim
có bờm cường điệu có sọc nước mang
âm tính (bồ) có mỏ rìu
lớn trong đánh các dấu chấm nọc dương,
lửa (cắt). Rìu Việt nghiêng về
rìu bồ cắt Li.
-Mộc phướn
Taytrái tức
tay âm cầm phướn có hình đầu
chim có mỏ lớn trong có chấm nọc dương
có con mắt dương vòng tròn
có chấm mang hình bóng chim bổ
cắt biểu tượng cho Li.
Chân phướn
có hình cuộn sóng nước cuộn
theo chiều âm chiều kim đồng hồ, trên
có chữ hai vòng tròn đồng
tâm có chấm nọc dương có nghĩa
là nước dương, lửa nước, Chấn cho biết thuộc
về ngành nọc âm thái dương Chấn.
Như thế phướn diễn
tả tộc Li ngành nọc âm thái
dương Chấn với khuôn mặt Li mang tính
chủ.
Hai người 1
và 2 này là thiếu âm
Đoài và thiếu dương Li ở dạng lưỡng
hợp tiểu vũ trụ.
Người
số 1 và số 2 đối xứng qua vành
sóng uốn khúc chữ S kép đứng.
Hai
người Người số 1 và số 2 đối xứng qua
vành sóng uốn khúc chữ S
kép đứng cho thấy rõ họ thuộc đại tộc
Đoài-Li ngành nọc âm thái
dương.
Người
số 3
Người
số 3: Càn
trang
phục đầu có thêm hình
mã tấu là nọc thái dương
ngành âm. Phần giữa trang phục đầu
hình
cánh chim Càn, tay phải cầm
rìu mỏ cắt mũ sừng Càn.
-Trang phục đầu
Chỉ
khác hai người thứ nhất và thứ
nhì là có thêm một phần
thứ tư hình lưỡi mã tấu cong mang
tính dương, lửa của ngành nòng
âm ở ngay sau phần cao cong vút.
Hình mã tấu cho biết người này
thuộc nhánh nọc dương thái dương
Càn-Li ngành nòng âm.
Phần cánh
chim rất rõ trong có chữ vòng
tròn có chấm ở đây lấy nghĩa
là lửa sinh tạo vũ trụ Càn.
Trang phục đầu
hình chim biểu tượng cho người mặt trời
nhánh nọc dương thái dương có
khuôn mặt chủ là tộc thái dương
Càn lửa vũ trụ.
-Khí giới
hay tế biểu
Người này
tay phải tức tay dương cầm rìu Việt đầu chim
mỏ cắt lớn có sừng (Great Hornbill Buceros
bicornis). Rìu Việt nghiêng về
Rìu chim bổ cắt lớn có mũ sứng biểu
tượng cho lửa vũ trụ Càn.
-Mộc phướn
Taytrái tức
tay âm cầm phướn có hình đầu
chim không có bờm chỉ có mỏ lớn
trong có chấm nọc dương mang hình
bóng chim bổ cắt biểu tượng cho gió
lửa vũ trụ Càn.
Ở đây
có một điểm không ăn khớp là con
mắt là con mắt âm có hai
vòng tròn đồng tâm có
chấm nọc dương có nghĩa là nước dương,
lửa nước đáng lẽ phải là con mắt dương
tức chữ hình vòng tròn
có chấm mang dương tính. Phải chăng
có ẩn ý cho biết Càn ở
đây thuộc ngành nọc âm
thái dương?
Ở dưới phần
trên tay cầm có hình vòng
tròn có chấm mang dương tính
lửa vũ trụ Càn.
Chân phướn
không có hình cuộn sóng
mà chỉ hai hình nọc que lửa và
bên cạnh có hàng chấm nọc dương
nghĩa là siêu dương Càn.
Như thế người
này nghiêng về tộc Càn của
ngành nọc âm thái dương.
Người số 4.
Người số 4:Chấn
trang
phục đầu có thêm hình mã
tấu là nọc thái dương ngành
âm. Phần giữa trang phục đầu
hình
cánh chim nước, tay phải cầm
rìu mõm cá sấu Lạc Việt
há miệng.
-Trang phục đầu
Giống người thứ 3
là có thêm một phần thứ tư
hình lưỡi mã tấu cong mang tính
dương, lửa của ngành nòng âm ở
ngay sau phần cao cong vút. Hình
mã tấu cho biết người này thuộc
nhánh nọc dương thái dương
ngành nòng âm thái dương.
Phần cánh
chim rất to trong có sọc nghiêng
không gian và trong có
hình hai vòng tròn có
chấm nối với nhau bằng một hình tiếp tuyến
nên ở dạng nước âm sinh động.
Cánh có mang âm tính nước
biểu tượng cho tộc Chấn ngành nòng
âm thái dương.
Trang phục đầu
hình chim biểu tượng cho người mặt trời
nhánh nọc âm thái dương
có khuôn mặt chủ là tộc Chấn.
-Khí giới
hay tế biểu.
Người này
tay phải tức tay dương cầm rìu Việt
hình mõm cá sấu (không
có bờm, mắt) trong có chấm nọc dương,
thái dương, lửa. Rìu Việt biểu tượng
cho Chấn thái dương.
-Mộc phướn.
Tay trái
tức tay âm cầm phướn có hình đầu
chim có mỏ lớn có con mắt âm
có hai vòng tròn đồng tâm
có chấm nọc dương có nghĩa là
nước dương, lửa nước, Chấn. Đây là con
chim bồ nông nhánh nước thái
dương.
Chân phướn
có hình cuộn sóng nước Chấn. Ở
chỗ tay cầm cũng có chữ viết nòng nọc
vòng tròn-que hai vòng
tròn đồng tâm có chấm nọc dương
có nghĩa là nước dương, lửa nước,
Chấn. Đây là cái phướn duy nhất
có hai chữ lửa nước Chấn này.
Phướn này
diễn tả Chấn.
Như thế người
này nghiêng về tộc Chấn ngành
nọc âm thái dương.
Hai người 3
và 4 này là thái dương
Càn và thái âm Chấn ở
dạng lưỡng hợp đại vũ trụ.
Người
số 3 và số 4 đối xứng qua vành
sóng uốn khúc chữ S kép đứng.
Hai
người Người số 3 và số 4 đối xứng qua
vành sóng uốn khúc chữ S
kép đứng cho thấy rõ họ thuộc đại tộc
Chấn-Càn ngành nọc âm
thái dương.
Tóm lại bốn
người này là người đại biểu của bốn
tộc ứng với tứ tượng của ngành nọc âm
thái dương.
b. Ô
có hai người.
Đây
là những ô lớn, cũng từng đôi một
đối xứng với nhau: 3 và 4 đối xứng với 7
và 8. Trong mỗi ô có hai người
“dũng sĩ” trên đầu có hai con chim bay
(Nguyễn Văn Huyên).
Bốn ô
lớn có hai người ở thân Trống Miếu
Môn I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).
Các viền
khung của ô gồm ba vành như ở
biên trống gồm hai vành nọc mũi
tên (mũi mác, răng cưa, răng
sói) thái dương kẹp giữa
vành hai vòng tròn đồng
tâm có chấm nọc dương có
nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn. Viền
khung của ô cho biết những người
này có một khuôn mặt chủ
là ngành nọc âm thái
dương tức là những người đại diện của
trống.
Ta thấy ngay mỗi
ô có hai người diễn tả lưỡng hợp tiểu
vũ trụ và hai cò bay diễn tả lưỡng hợp
cõi trời của hai nhánh người mặt trời
thái dương tức liên bang Văn Lang
ngành nọc âm Chấn thái dương.
Trên mặt
trống diễn tả những khuôn mặt dương còn
tang trống diễn tả các khuôn mặt nước
âm và thân trống là Trục
Thế Giới thông thương ba cõi diễn tả
hai khuôn mặt nòng nọc, âm dương,
hai nhánh lửa nước của liên bang Văn
Lang là điều dễ hiểu.
Bốn người cầm
phách hay khí biểu hình
tháp nhọn /\. Li. Bốn người cầm rìu
Việt có hình dạng thay đổi ứng với tứ
tượng. Vì là trống Mang Lang (Văn
Lang) có dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu
dương thiếu âm, ta suy ra rìu Việt biểu
tượng cho thiếu âm Đoài có bốn
khuôn mặt hay bốn chi ứng với tứ tượng của tộc
gió Đoài.
Lưu
ý
.Ba cặp người
cầm khí giới hay phách hình
núi tháp Li nọc mũi tên (mũi
mác, răng cưa, răng sói) đứng /\ đi
trước người cầm vìu Việt, chỉ có một
cặp người này đi sau cho biết khuôn
mặt Li mang tính chủ. Điểm này thấy
rô qua hình 5 chiếc mộc phướn
có ở đầu trên và dưới hai chữ
vòng tròn có chấm mang dương
tính chỉ có một chiếc mộc phướn ở
trên đầu có chữ hai vòng
tròn đồng tâm có chấm nọc
dương có nghĩa là nước dương, lửa
nước, Chấn.
Trên
đầu mỗi cặp người này có các
cặp cò gió bay có bờm có
hình dạng và các hình,
dấu, chữ viết nòng nọc vòng
tròn-que khác nhau cho biết
chúng thuộc tộc nào, tượng nào.
Những con cò này cũng là một
hình thức “phụ đề” giúp để nhận diện
các người này. Ví dụ có
một cặp cò không có chữ V,
hình tam giác hay túi âm
thanh (thường gọi là “cái mồi”), con
bay trước không có bờm hình
phướn gió mà bờm nằm sát cổ
trong có chấm nọc lửa. Con này bay
hướng lên cao (hướng về phía mặt trời).
Đây là con cò tộc Gió
Lửa.
Hai con cò
không có “mồi” đi “cọc cạch”
cùng đàn với sáu
con cò “tha mồi” xác quyết cho thấy
đây không phải là mồi mà
là một dấu, chữ viết nòng nọc
vòng tròn-que hoặc là chữ V hay
tam giác hoặc túi âm thanh.
Nhìn tổng
quát thì những người này
là những người nhẩy múa đại diện của
các tộc, chi tộc hoặc các vị
lãnh đạo tín ngưỡng, tinh thần của hai
nhánh nòng nọc, âm dương của
ngành Người Mặt Trời thái dương. Đối
chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt
là người Đại Tộc Việt (Bách Việt),
Người Mặt Trời Thái dương ngành mặt
trời thái dương tức liên bang Văn Lang.
Trên mặt
trống nhánh Lang trời thiên cẩu
gió trời Đoài vũ trụ mang tính
chủ vì con Lang to lớn hơn con mang sừng
trong khi ở thân trống tộc Văn Mang mang
tính chủ vì bốn người cầm khí
biểu hay phách hình núi
tháp lửa thế gian Li ở vị trí
không thay đổi và như đã
nói ở trên ba cặp người cầm khí
giới hay phách hình núi
tháp Li nọc mũi tên (mũi mác,
răng cưa, răng sói) đứng /\ đi trước người
cầm vìu Việt, chỉ có một cặp người
này đi sau cho biết khuôn mặt Li mang
tính chủ.
Kết
Luận
Đây
là trống mặt trời thái dương 14 nọc
tia sáng Càn thế gian/Tốn
hay Li/Tốn và Đoài/Tốn. Đối chiếu với
Dịch sách, Càn hôn
phối với Tốn thấy trong Dịch Hậu Thiên
Bát Quái và Đoài với Tốn
trong Dịch Chấn/Cấn có một khuôn mặt
sấm ở đầu non (Lạc Long Quân sấm ở nhà
đầu non Âu Cơ) thấy ở là
bùa trừ tà của dân gian Việt
Nam.
Điểm
này cho thấy rõ trống đồng nòng
nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn
là một Dịch đồng bằng hình diễn tả
bằng chữ viết và hình dấu nòng
nọc vòng tròn-que. Bộ sử
đồng này có thể diễn tả hai thứ
Dịch trên cùng một trống trong
khi Dịch sách chỉ diễn tả được một
khuôn mặt.
.Mặt trống mang
tính dương vì các vành
giới hạn là những chấm nọc. Từ trong
tâm trống ra ngoài: mặt trời
thái dương có 14 nọc tia
sáng với không gian có vỏ dầy,
to nét, mang âm tính
thái âm với khoảng không
gian giữa các tia sáng có
hình thái tứ tượng của cả hai
ngành nòng nọc, âm dương
Chim-Rắn, Tiên Rồng.
Các
vành giới hạn nọc chấm diễn tả ngành
mặt trời thái dương rạng ngời.
Các
vành sinh tạo mang trọn vẹn ý nghĩa tứ
hành.
Vành
chủ yếu Mang-Lang trời diễn tả hai thú biểu
Mang sừng thiếu dương Li và Lang
trời thiếu âm Đoài vũ trụ tức ở
dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ thế
nhân. Đối chiếu với truyền thuyết
và cổ sử Việt là
liên bang Văn Lang nhìn dưới lăng
kính thú biểu, vật tổ bốn
chân thế gian.
Vành
cò bay diễn tả đại tộc cò gió
ngành nọc âm nước Chấn.
Ba vành
ngoài biên cho biết trống thuộc
ngành nọc âm nước Chấn thái
dương. Các vành nọc mũi tên (mũi
mác, răng cưa, răng sói)
ngoài biên trống được nhấn mạnh bằng
các nọc chấm diễn tả nhánh nọc
lửa dương, mặt trời thái dương
rực sáng.
Ở vùng nước
tang trống có 6 con thuyền mang nghĩa Vũ
Trụ giáo, mũi thuyền ở dạng lưỡng hợp
đại vũ trụ Thái dương thái
âm chim rắn ở dạng nhất thể nhưng chim
và rắn còn là hai cá thể
riêng biệt. Đây là dạng tiền
thân của dạng nhất thể thần thoại hóa
hoàn toàn trở thành hình
rắn-bờm chim như thấy ở trống Hữu Chung và
dạng rắn-lông chim Quetzal Coatl của Aztec va
Kukulcan của Maya.
Đuôi thuyền
ở dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu âm
chim bổ nông với thiếu dương chim bồ cắt.
Hai con thuyền
biểu tượng cho ngành nọc dương thái
dương Càn Li với khuôn mặt Li mang
tính chủ và cho ngành nọc
âm thái dương Chấn Đoài với
khuôn mặt Đoài mang tính chủ.
Suy ra bốn con thuyền còn lại biểu tượng cho
bốn đại tộc ứng với tứ tượng.
Ở
thân trống bốn ô nhỏ có bốn
người nhẩy múa là những người đại
biểu của bốn tộc ứng với tứ tượng của ngành
nọc âm thái dương và từng cặp
người trong bốn ô lớn diễn tả lưỡng hợp tiểu
vũ trụ với khuôn mặt Li mang tính chủ
và hai con cò bay trên đầu mỗi
cặp người diễn tả lưỡng hợp cõi trời của
hai nhánh người mặt trời thái dương
tức liên bang Văn Lang ngành nọc
âm Chấn thái dương.
Tất cả
đều diễn đạt tuyệt vời với chủ đề của trống.
Tuy
nhiên điểm quan yếu nhất là
vành thú chủ yếu của Trống Miếu
Môn I gồm có mang sừng và Lang
trời.
Đây
là vành Mang Lang. Trống có một
khuôn mặt chủ Mang Lang nghĩa là dưới
dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu dương Li với thiếu
âm Lang, mang một khuôn mặt của
kì Mang sừng và lân Lang trời.
Những con hươu
trên Trống Miếu Môn I là Mang
sừng thú biểu của âm O của
ngành Lửa I tức OI, thiếu dương
(hào âm trên hào dương
là thiếu dương). Thiếu dương OI của
ngành dương I là IOI, quẻ Li.
Những con lang
trời là thú biểu của dương I
phía âm O tức IO, thiếu âm. Thiếu
âm của ngành dương I là IIO,
Đoài. Đây chính là
hai khuôn mặt Li/Tốn và Đoài/Tốn
của Trống Miếu Môn I có mặt trời 14 nọc
tia sáng Tốn thế gian. Hai loài
thú cùng nằm trên cùng
một vành nên là lưỡng hợp thiếu
dương Li với thiếu âm Đoài dưới dạng
lưỡng hợp tiểu vũ trụ ở cõi thế gian
(vì thế mới dùng loài
thú bốn chân sống trên mặt đất).
Đối chiếu với
truyền thuyết và cổ sử Việt thì
đây là dạng lưỡng hợp của nhánh
Hùng Vương Lửa thế gian đất dương
(núi), thiếu dương Li, khuôn mặt
âm của phía nọc lửa Âu Cơ, theo
mẹ lên núi với nhánh Hùng
Vương Gió dương thế gian thiếu âm
Đoài, khuôn mặt dương của phía
nòng nước Lạc Long Quân theo cha xuống
biển.
Sự lưỡng hợp ở
tiểu vũ trụ thế gian này chính
là một khuôn mặt của liên bang
Văn Lang Hùng Vương.
Rõ như ban
ngày vành chủ yếu trên trống
Miếu Môn I có hai loài
thú Văn và Lang là hai
khuôn mặt của hai ngành của
liên bang Văn Lang Hùng Vương
nhìn theo diện thú biểu Mang sừng
và Lang trời.
Tên nước của
Hùng Vương là Văn Lang nhìn
dưới diện thú biểu bốn chân, thì
Văn là con Mang sừng và Lang là
con Lang rạng ngời, con Lang đực, Lang nọc, Lang
Việt (KQKTCSHV).
Cũng qua trống
này ta thấy nghĩa đúng thực sự của
tên Văn Lang như đã nói ở
trên, phải hiểu theo lăng kính trọn vẹn
của Vũ Trụ giáo, của Việt Dịch nòng
nọc, theo lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng.
Vì thế mà từ Văn Lang tức liên
bang Văn Lang có nhiều khuôn mặt
tùy thuộc vào nhìn theo
góc độ nào của Vũ Trụ giáo hay
theo góc độ nào của các tộc
khác nhau trong liên bang Văn Lang. Ở
cõi thế gian của Hùng Vương lịch sử
là lưỡng hợp cõi tiểu vũ trụ thiếu
dương Li với thiếu âm Đoài.
Cũng xin nhắc lại
là ở trống Quảng Xương cũng diễn tả sự lưỡng
hợp hai nhánh Hùng Vương là
người chim mỏ Cắt ứng Mẹ Âu Cơ với và
người rắn Nước ứng với Lạc Long Quân, tức cũng
có một khuôn mặt của liên bang
Văn Lang nhưng khác ở đây. Trống Quảng
Xương là trống mặt trời Càn Khôn
có 8 nọc tia sáng mang hình ảnh
bọc trứng trăm Lang Hùng, các
ngôi nhà thờ phượng chỉ có
nhà mặt trời (tiền thân của nhà
Lang, nhà đình) tức nhà thờ
Lang Hùng toàn con trai (không
có nhà nòng không gian
mái vòm) và ba vành
ngoại biên mang ý nghĩa lưỡng hợp tiểu
vũ trụ Đoài vũ trụ-Li thế gian vòng
tròn có chấm có tiếp tuyến của
ngành nọc âm thái dương diễn tả
bằng hai vành đường rầy hay hình
các thanh thang đứng (răng lược). Như
thế khuôn mặt lưỡng hợp ở trống Quảng
Xương là khuôn mặt lưỡng hợp đại vũ trụ
Chim-Tiên và Rắn-Rồng của hai
nhánh tộc người Lửa Núi Âu Cơ
và Nước Biển Lạc Long Quân của đại tộc
Hùng Vương Lang Việt. Trong khi ở trống Miếu
Môn I này diễn tả liên bang Văn
Lang của các vua Hùng thế gian lịch sử
có dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ qua hai
thú biểu bốn chân thiếu dương Mang-Văn
và thiếu âm Lang trời ở cõi giữa
thế gian của ngành nọc Nước Lửa thái
dương Lạc Long Quân tức Lạc Việt.
Dĩ nhên
liên bang Văn Lang còn có nhiều
khuôn mặt khác ở các trống
khác như trống Sông Đà, Ngọc Lũ
I…
Các
nhà làm văn hóa Việt nhất
là các nhà viết sử Việt từ
trước đến nay chỉ giải nghĩa từ Văn Lang theo một
diện nên không bao quát, trọn vẹn
được hết và hoàn toàn thiếu
sót.
Trống Miếu
Môn I là trống liên bang Văn
Lang Lạc Việt nhìn dưới lăng kính
vật tổ.
Tổng
tóm lược.
Trống Miếu
Môn I là trống biểu của nhánh
nọc âm Khôn thái dương
Chấn-Đoài [diễn tả bằng ba vành
biên trống gồm hai vành nọc mũi
tên (mũi mác, răng cưa, răng
sói) thái dương kẹp giữa vành
hai vòng tròn đồng tâm có
chấm nọc dương có nghĩa là nước dương,
lửa nước, Chấn] và vành cò
gió nhánh Chấn có tên
là cái “mồi” chữ V hay tam giác
ngược có một nghĩa là lửa-nước
thái dương Chấn.
Trống có
vành chủ yếu là thú bốn
chân Mang Lang. Mang là thú biểu
của nhánh nọc dương phía âm
thiếu dương Li và con Lang trời là của
nhánh nọc âm phía thiếu âm
Đoài. Đây là một khuôn mặt
lưỡng hợp thiếu dương và thiếu âm của
hai ngành nọc dương và nọc âm ở
cõi thế gian tức tiểu vũ trụ. Lang có
khuôn mặt mang tính chủ vì khắc
to hơn con mang.
Đối chiếu với
truyền thuyết và cổ sử Việt đây
là trống lưỡng hợp thú biểu Mang Lang
của liên bang Văn Lang Hùng Vương với
khuôn mặt Lang Việt mang tính chủ của
ngành nọc âm thái dương Thần
Nông thái dương có một
khuôn mặt Lạc Long Quân Lạc Việt.
Lưu
Ý
.Xin lưu
ý ba trống Kì Việt Kì Dương
Vương Phú Xuyên ngành nọc lửa
thái dương, trống Giao Việt Lạc Long
Quân Hòa Bình ngành nọc
nước thái dương và trống liên
bang Văn Lang Miếu Môn I lưỡng hợp
nòng nọc, âm dương này đều
tìm thấy ở một địa danh là tỉnh
Hà Sơn Bình. Điểm này cho
thấy ba trống này liên hệ mật thiết
với nhau và là những chương sử đồng
ở kế tiếp nhau của cùng một bộ cổ sử đồng
của Việt Nam. Điểm này cũng cho thấy nơi
làm ra hay tìm ra trống có
thể liên hệ với lịch sử địa phương của Đại
Tộc Việt. Ba trống ở Hà Sơn Bình
này cho thấy vùng này
là vùng đất tổ Việt. Ta cũng thấy
các trống tìm thấy ở vùng Cổ
Loa, kinh đô của An Dương Vương là
trống Cổ Loa I và Cổ Loa II (xem những
trống này) là những trống liên
hệ với lịch sử vùng Cổ Loa tức là
những trống ngành nọc âm thái
dương dòng An Dương Vương, Lạc Long
Quân. Bằng chứng thấy rõ nữa
là trên một trống Lào
có hình vật tổ chồn cáo
(weasel) của người Tráng Zhuang với tiếng
cổ Choang có nghĩa là chó
hoang dã. Trống này cho biết
đây là trống biểu của những người
Tráng Zhuang di cư từ Nam Trung Hoa xuống
phần đất Lào ngày nay.
Trống đồng
nòng nọc, âm dương của đại tộc
Đông Sơn là của Việt Nam nói
riêng, của Bách Việt nói chung
không thể nào là của Trung
Hoa. Chỗ nào có trống
đồng nòng nọc, âm dương là nơi
đó có tộc Lạc Việt nói
riêng và Bách Việt nói
chung hay nơi đó bị ảnh hưởng của văn
hóa Bách Việt.
Nguồn:
http://bacsinguyenxuanquang.wordpress.com/2011/07/29/tr%e1%bb%91ng-van-lang-mi%e1%ba%bfu-mon-i-ph%e1%ba%a7n-5-va-h%e1%ba%bft/