Việt
Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
Trống Đồng Việt Nam
Trống đồng Việt
Nam phân bố ở nhiều nơi trên đất nước ta, từ Sơn La, Lai
Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn... đến Thanh Hóa, Nghệ An, Đồng
Nai, Sông Bé, Khánh Hòa, Vũng Tàu...
vào tận vùng hải đảo xa xôi Phú Quốc.
Ngoài ra, bằng con đường giao lưu văn hóa hoặc trao đổi,
trống đồng Việt Nam vượt biên giới đến những nước lân cận
trong khu vực Đông Nam Á như Indonesia, Thailand,
Malaysia...
|
Trống đồng Việt
Nam có nhiều loại hình, nhưng tất cả khởi nguồn từ trống
Đông Sơn mà đỉnh cao là sự hoàn thiện kỹ thuật
chế tạo là trống đồng Ngọc Lũ. Trống đồng Việt Nam có
niên đại khởi đầu khoảng thiên niên kỷ I trước
Công nguyên cho đến một vài thế kỷ sau công
nguyên. Nó là sản phẩm đầy trí tuệ của người
Việt cổ, cộng đồng cư dân đã chinh phục vùng đồng
bằng sông Hồng, sông Mã, một vùng đất chứa
nhiều sản vật thiên nhiên nhưng cũng đầy thử thách.
Tổ tiên ta đã vượt lên những khắc nghiệt của
thiên nhiên bằng sự dũng cảm, thông minh và
sáng tạo hiếm có đã tạo nên kỹ thuật luyện
kim đồng thau bản địa, nền văn hóa đồng thau vào loại bậc
nhất Đông Nam Á.
|
Trống đồng
là biểu hiện tập trung nhất những thành tựu trong sinh
hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền uy của một
nhà nước được xác lập đầu tiên trên đất nước
ta - Nhà Nước Hùng Vương. Trống đồng và những
hình khắc họa trên trống đã giúp
chúng ta ngày nay hình dung được đôi
nét về cuộc sống của người Việt cổ ở thời xa xưa ấy. Hoa văn
trên trống đồng có nhiều loại, kiểu bố trí hợp
lý trên các phần mặt, tang và thân
trống. Nó được các nhà nghiên cứu tìm
hiểu, phân tích để làm một trong những cơ sở khoa
học trong phân loại trống và khắc họa những nét
sinh hoạt kinh tế, xã hội, văn hóa Đông Sơn thời
bấy giờ.
|
Trống Đồng
Đông Sơn: là một loại nhạc cụ dùng trong các
buổi lễ hay khi đi đánh nhau. Trống đồng được tìm thấy ở
nhiều nơi trên đất Việt Nam, như Thanh Hóa (Đông
Sơn, 24 trống), Hà Đông (9 trống), Bắc Ninh, Cao Bằng (mỗi
tỉnh 3 trống), Hà Nam, Hà Nội, Hoà Bình,
Kiến An (mỗi nơi 2 trống), Nam Định, Lào Cai, Sơn Tây,
Yên Bái, Hải Dương, Nghệ An, Thủ Dầu Một, Kontum (mỗi nơi
một trống). Ở Hoa Nam thì tìm thấy nhiều nhất, ở
Vân Nam (5 trống). Các tỉnh khác thì Quế
Châu, Quảng Tây, Tứ Xuyên (mỗi tỉnh tìm thấy 3
trống), Quảng Đông (2 trống). Tại Cam Bốt, Lào,
Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai, Nam Dương cũng thấy nhiều
trống đồng cổ. Riêng Thái Lan và Lào cũng
như ở xứ Mường (thượng du Việt Nam) ngày nay người ta vẫn
còn dùng trống đồng. Trống đồng đẹp nhất phải kể đến
các trống Ngọc Lũ, Hoà Bình, và
Hoàng Hạ.
|
Trống Đồng Ngọc
Lũ: tìm thấy ở chùa Ngọc Lũ (Hà Nam) vào
năm 1901. Trống này cao 0,63 mét (1.8 ft), đường
kính mặt trống 0,86 mét (2.5 ft), được trang trí
bằng các hình chạm sâu xuống cả trên mặt
trống
lẫn tang trống. Chính
giữa mặt trống là một hình ngôi sao (hay mặt trời)
14 cánh. Chung quanh ngôi sao này là 16
vòng tròn đồng tâm có trang trí bằng
nhiều hình kỷ hà hay hình vẽ khác nhau.
Giữa vòng thứ 5 và thứ 6 có khắc hình 2 căn
nhà mái cong, có sàn, trong có người
tóc dài ngồi. Trước nhà là 4 dàn
trống và đoàn vũ nhạc nhảy múa, thổi khèn. Sau
nhà có 2 người đang giã gạo. Xen kẽ với 2
nhà sàn trên là 2 nhà sàn
mái tròn trong có người cầm kiếm. Trước nhà
này có một người tay phải cầm kiếm, tay trái cầm
một con chim. Sau nhà là một đoàn võ sĩ cầm
lao, cầm kiếm đang múa. Giữa vòng thứ 7 và thứ 8
có chạm hình 2 đàn hươu (10 con mỗi đàn)
và xen kẽ với 2 đàn chim đang bay (mỗi đàn 8
con). Giữa vòng thứ 8 và thứ 9 có khắc 18 con chim
mỏ dài đang bay, xen kẽ với 18 con chim đang đậu dưới đất.
Trên tang trống, phần phình ra có khắc hình
thuyền trên có những người cầm lao, kiếm, cung, đang chuẩn
bị chiến đấu, hoặc đang nhảy múa hoặc chèo thuyền.
Trên phần thẳng đứng có những đường trang trí kỷ
hà thẳng đứng hay nằm ngang đóng khung lấy những
hình người cầm rìu và lá chắn.
|
Trống Đồng Hòa Bình: tìm
thấy ở Mường Dâu, Hòa Bình. Trống này được
gọi là trống Moulié (tên người mua được và
tặng lại cho Viện Bảo Tàng). Trống này được tàng
trữ trong Bảo Tàng Quân Đội Pháp, rồi được chuyển
cho Bảo Tàng Viện Guimet (Paris).
|
Trống Đồng
Hoàng Hạ: tìm thấy ở làng Hoàng Hạ
(Hà Đông), cao 0,615 mét (1.84 ft) và đường kính
mặt trống là 0,78
mét (2.3 ft). Mặt trống đồng Hoàng Hạ cũng trang
trí bằng các vòng tròn đồng tâm trong
đó có khắc hình nhà sàn, người, chim
bay. Tang trống chỗ phình ra cũng khắc hình thuyền.
Các nhân vật trên thuyền tương tự như ở trống Ngọc
Lũ, nhưng thứ tự bố trí hơi thay đổi một chút. Các
trống đồng tìm thấy ở Hoa Nam, Lào, Cam bốt, Mã
Lai tuy về hình thức (hình dáng và trang
trí) có giống trống đồng Lạc Việt, nhưng những nét
chạm trổ còn thô sơ vô cùng. Có thể
đấy chỉ là những trống bắt chước trống Lạc Việt một cách
vụng về mà thôi. Trống đồng Hoàng Hạ là một
di vật rất quý.
|
Trống là
một cổ vật của chung miền Nam Á, gồm cả Tầu, Việt, Miên,
Thái, Phi, Miến, Mã Lai, Nam Dương... mà trung
tâm phát xuất lớn nhất là Việt Nam. Trống đã
xuất hiện lu bù ngay từ thời khuyết sử, dưới rất nhiều
hình thức như trống đất, trống gỗ, trống đồng, trống cầu mưa,
trống sấm, trống vu hích, trống cầm canh... kể ra không
hết. Huyền thoại có nói đến trống da quì (giao
long) của Hoàng Đế, trống một chân của nhà Hạ
(túc cổ), trống có lỗ thông giữa của nhà
Thương (doanh cổ)... lịch sử Tư Mã Thiên có nhắc
tới vụ vua nhà Chu cho Tần Mục Công một chiếc trống đồng
vào năm 623 trước công nguyên. Riêng với Việt
Nam, năm 43, lúc Mã Viện sang đánh Trưng Nữ Vương
đã thu hết trống đồng đưa về tặng bạn bè, hoặc phá
ra đúc ngựa mẫu. Từ đấy, trống bị quên lãng dần
dưới ách ngoại bang... Trong Lĩnh Nam Trích Quái,
có truyện "Minh chủ Đồng cổ sơn thần truyện" nhắc tới trống theo
khía cạnh này. Đến thời Pháp thuộc, vào lối
1885-1895, thực dân mới nhận ra trống đồng là một di vật
rất quý, nên tìm mua khắp nơi. Xin ghi lại
đây mấy chiếc nổi tiếng. Trước hết là 2 chiếc loại thời
danh nhất: Một do Moulié lấy được của bà góa quan
lang người Mường ở miền Sông Đài tỉnh Hoà
Bình. Chiếc này được đem trưng bày ở Hội Chợ Quốc
Tế Paris 1889 rồi mất tích. Đến năm 1936 thấy xuất hiện ở bảo
tàng viện Guimet. Hai, là chiếc trống Khai Hóa, do
Gillet lấy được ở một tù trưởng Miêu tộc trên
Vân Nam, cũng đưa đi đấu xảo ở Paris, rồi mất tích. Sau
thấy xuất hiện ở bên Đức, tại bảo tàng viện dân tộc
học thành Vienne. Chiếc trống đồng thứ ba là trống Ngọc
Lũ của chùa Long Đại Sơn, làng Ngọc Lũ, tỉnh Hà
Nam. Năm 1901, trường Viễn Đông Pháp đã nhờ trung
gian chánh sứ Phủ Lý lấy trống ấy về Viễn Đông
Bác Cổ, nay ở Hà Nội. Chiếc trống thứ tư là trống
Hoàng Hạ, tìm được vào năm 1932, nhân
lúc khai sông gần làng Hoàng Hạ, tỉnh
Hà Đông. Trống được trao cho trường Viễn Đông
Pháp, để ở bảo tàng viện Finot, nay cũng ở Hà Nội.
Đó là cặp trống đẹp nhất, cổ nhất, hơn cả 2 trống
Sông Đà và Khai Hóa... Có thể kể ở
đây chiếc trống thứ năm, gọi là Trống Hà Nội, được
Anderson mua, đưa về Stockhom. Và chiếc thứ sáu là
trống Lào, tìm được bên đường cái Oubon
bên Lào vào năm 1924. Theo Goloubew, chiếc trống
này rất đẹp, cũng vào hạng cổ nhất, vì ít
bị kiểu thức hóa. Mặt trống rộng 86 cm, cao 54 cm. Vòng 1
có 5 cặp vật giống giao long châu đầu vào nhau.
Có nai và cả cá nữa. Về loại to nhất có
trống Đông Hiếu (Nghệ An) rộng 89 cm, hiện ở Hà Nội. Theo
Goloubew, còn một chiếc trống rộng tới 1 mét (3 ft) của
một tay chơi người Pháp tên là Nelson trước ở Bắc
Xế, Lào. Nghe nói ở bên Mỹ có một trống to
cả thước mặt, hay là chiếc trống nói ở đây chăng?
(Chúng tôi thấy có một trống rất lớn ở bảo
tàng Chicago. Hay là chính nó?). Phân
Loại Trống Đồng Bên Tây Âu có dấu vết
đã biết về trống đồng từ năm 1682 (xem Asie du Sud Asiatique,
Tome II Le Vietnam, L. Bezacier, Paris, Picard 1972). Nhưng mãi
tới cuối thế kỷ 19 mới có học giả bàn về trống đồng như
Hirth (1890) mà ông cho là bởi Tầu. Rồi De Grooth
(1901) cho là của Việt Tộc. Ông Franz Heger, một học giả
người Đức làm cố vấn trong hội nghị nghiên cứu về Viễn
Đông ở Hà Nội năm 1902 đã cho xuất bản tại Leipzig
2 quyển về trống đồng cổ ở Đông Nam Á. Sách in khổ
lớn, có 45 hình và một bản mục lục về tất cả
các diễn đề. Ông Heger chống lại ý kiến của Hirth
cho trống đồng là sản phẩm của Tầu, ủng hộ ý kiến của
Grooth cho là của Việt Tộc, quả quyết trung tâm các
cuộc tìm kiếm sau này về trống đồng phải là ở Bắc
Việt, và xin người Pháp chú ý đến di vật
đầy tính chất văn hóa này. Ông Heger
phân chia 165 chiếc trống được biết đến lúc ấy
thành 4 loại. Vì sự phân chia này được
các học giả công nhận, nên chúng ta cần duyệt
qua để có một ý niệm khái quát: Loại I
thường lớn, thân trống hình trụ thẳng đứng. Mặt dưới để
trống, mặt trên có hình sao đúc nổi với 12
cánh. Trên một số trống, chỉ có 8 cánh sao,
như trống Quảng Xương. Hoặc 14 cánh như trống Ngọc Lũ,
Sông Đà, Thượng Lâm. Hoặc 16 cánh như trống
Hoàng Hạ, Salayar. Loại I này tìm được nhiều nhất
ở Việt Nam, tiêu biểu nhất là trống đồng Ngọc Lũ,
Hoàng Hạ, và Sông Đà. Loại II thân
trống chỉ có 2 phần, không có hình người hay
vật nữa, thay vào đó toàn là hoa văn
hình học. Trên mặt trống thường có hình khối
4 con cóc, đôi khi 6 con. Mặt trời có 8 tia. Loại
này tìm thấy nhiều ở Việt Nam cũng như mạn Nam Trung Hoa.
Loại III quai nhỏ đẹp. Mặt trời có 12 cánh. 4 góc
mặt có cóc, thường là 3 con chồng lên nhau
thành 12. Trang trí toàn bằng đồ án
hình học và hoa văn. Dưới chân có
đoàn voi đúc nổi đi chung quanh cây "đời sống".
Đôi khi ốc thay voi. Người ta tìm thấy loại này ở
Miên. Loại IV riêng của Tầu như được chứng tỏ bằng hồi văn
gẫy khúc. Kích thước thường nhỏ, không có
cóc. Ngôi sao bao giờ cũng 12 tia, nhiều khi nói
rõtên 12 con vật địa chi. Loại này cũng như loại
III, đều xuất hiện muộn, nhưng chưa xác định được niên
đại. Ngoài 4 loại trên có thể kể thêm loại
trống Trấn Ninh (Vân Nam) mới tìm được hồi năm 1955,
trên mặt có những khối hình người và
thú (bò, ngựa, chó) diễn lại những cảnh sống: săn,
chiến, lễ... Loại này khác hẳn ở chỗ thân trống
cao, trên mặt thêm nhà cùng hình khối,
quai là 2 con hổ.
|
Nguồn: http://www.vietshare.com
Trống đồng
Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia
Trống đồng là một loại nhạc cụ gõ
bằng đồng rất độc đáo của vùng Đông Nam Á,
xuất hiện từ thời
đại
Đồ
Đồng.
Trống đồng không chỉ có chức năng nhạc
khí mà còn có những chức năng khác
như làm biểu tượng cho quyền lực, tôn giáo... Trống
được dùng trong các nghi lễ tôn giáo, trong
lễ hội, và trong chiến tranh khi người thủ lĩnh bộ lạc kêu
gọi mọi người từ khắp nơi tụ về để cùng chiến đấu. Trống thường
thuộc về những người thủ lĩnh và là biểu tượng của quyền
lực. Người thủ lĩnh có quyền lực càng lớn thì
trống càng to và đẹp. Trống đồng cũng được coi là
một tài sản quí, và được chôn theo khi người
chủ qua đời.
Ngày nay, ngoài hàng trăm chiếc
trống đồng được lưu giữ và trưng bày trang trọng ở
các bảo tàng quốc gia và các địa phương,
thì dường như trống đồng đã vắng mặt trong cuộc sống đời
thường kể cả những dịp hội hè, lễ tết, người ta chỉ còn
gặp trống đồng ở các viện bảo tàng và các
truyện cổ tích. Tuy nhiên, vùng đất Thanh Sơn miền
tây của tỉnh Phú
Thọ là nơi duy nhất tại Việt Nam vẫn còn ngày
hội Trống đồng của dân tộc Mường với "Đâm Đuống" và
"Chàm thau"[1]. Đây cũng là một trong
số những vùng địa linh của Việt Nam phát hiện được nhiều
trống đồng trong lòng đất nhất. Chính vì lý
do đó mà gần đây Việt Nam đã khôi phục
một tập tục đánh trống đồng ngày giỗ Tổ các vua
Hùng 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm.
Trống đồng cũng là nhạc cụ gõ phổ biến
trong các dân tộc Khơ Mú, Lôlô
và Mường ở Việt Nam hiện nay. Trong những cộng đồng này
người ta sử dụng nó với mục đích tang lễ, ngoài ra
không dùng cho bất kỳ trường hợp nào khác.
Mục lục
Sử
liệu
Ghi chép cổ nhất có liên quan đến
trống đồng xuất hiện trong Sử Bản (chữ Hán: 史本), một cuốn
sách Trung Quốc từ trước thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Cuốn
sách này nay không còn, nhưng được dẫn lại
một phần tại một cuốn sách cổ khác: cuốn Thông
điển (通典) của Đỗ Hữu (杜佑)[2].
Hậu Hán thư
(後漢書), quyển 14 ghi: "Dân Giao Chỉ có linh vật
là trống đồng, nghe đánh lên họ rất hăng lúc
lâm trận...."[3]. Sách này còn
chép rằng Mã
Viện, tướng nhà
Hán, sau khi dập tắt cuộc nổi dậy của Hai Bà
Trưng vào khoảng 40-43, đã tận thu trống đồng của
các thủ lĩnh địa phương, một phần đem tặng, phần nấu chảy để
đúc ngựa và cột
đồng Mã Viện.
Ở Việt Nam, các cuốn Việt
Điện U Linh Tập và Lĩnh Nam Chích
Quái thế kỷ 14 ghi lại nhiều truyền thuyết về trống
đồng. Các cuốn sử như Đại
Việt
Sử
ký
Toàn
thư cũng nói đến trống
đồng.
Khảo cổ
Trống đồng là một trong những loại di chỉ khảo cổ
học quan trọng nhất tìm được tại Đông Nam Á
và phía Nam Trung Quốc. Trong
các vùng này, các nhóm dân tộc
đã sử dụng trống đồng từ thời tiền sử cho đến ngày nay.
Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy trống đồng
ở nhiều vùng khác nhau ở Đông Nam Á, nơi
tìm thấy trống thường là khu mộ táng quan trọng,
mộ của những người đứng đầu trong làng. Nhiều trống được
tìm thấy dọc theo các con sông và đường thủy
ở Đông Nam Á, do đây là hình thức giao
thông chính của dân cư bản địa thời đó.
Bắc Việt Nam và
Tây Bắc Trung Quốc (đặc biệt là tỉnh Vân Nam và khu
tự
trị
người
Tráng
ở
Quảng
Tây là hai
vùng nơi đại đa số các trống đồng cổ đã được
tìm thấy. Theo một báo cáo năm 1988, Trung Quốc
đã tìm được 1460 trống đồng (??)[4]. Tổng số trống
đồng tìm được ở Việt Nam cho đến năm 1980 là 960 chiếc,
trong đó có 540 chiếc thuộc loại trống
đồng
Đông
Sơn[5].
Ngoài ra, trống đồng còn được tìm
thấy ở nhiều nước khác như: Indonesia, Thái Lan, Myanma, Lào,
Campuchia, Malaysia, Philippines và
Nhật
Bản.
Trống đồng đã có vai trò quan trọng
bậc nhất trong văn hóa
Đông Sơn - nền văn hóa được biết đến với những trống
đồng trang trí cầu kỳ được tìm thấy ở nhiều nơi ở
Đông Nam Á và Bắc Việt Nam. Số lượng lớn trống
Đông Sơn đã được tìm thấy tại Mê Linh - trung tâm của văn
hóa Đông Sơn. Nhiều trống Đông Sơn cũng được
tìm thấy ở đồng
bằng
sông
Hồng - vùng dân cư đông
đúc thời cổ và là hành lang giao
thông nối giữa cao nguyên
Tây Tạng và biển. Đây đã
là con đường di cư của người xưa từ Đông Á xuống
Đông Nam Á.
[Cấu tạo và cách sử dụng
Trống đồng thường có đường kính mặt khoảng
50 cm, cao từ 45 đến 50 cm, mặt trống phủ vừa sát đến tang
trống. Điều này cho thấy chúng có kích cỡ
trung bình so với các loại trống đồng Đông Sơn
đã phát hiện ở Việt Nam. Giữa mặt trống có
ngôi sao 12 cánh, không có tượng cóc
trên rìa mặt trống. Phần trên thân trống
phình ra, đỡ lấy mặt trống, phần dưới hình viên trụ
tròn.
Loại trống đồng này đúc bằng hợp kim đồng,
âm thanh không vang, không trong như loại Hê gơ
I của trống đồng đông Sơn.
Người ta đặt úp trống trên sàn
nhà hay trên mặt đất, dùng cái dùi
có mỏ khoắm bọc vải gõ vào. Trong nghi thức tang
lễ người ta dùng trống đồng với kèn đám ma, sao
ngang, đàn nhị, cồng chiêng, thanh la và trống bịt
da dê. Riêng người Khơ Mú họ dùng dùi
thẳng có phần đầu bọc vải để gõ vào trống
úp xuống, còn người Lôlô đặt 2 cái
trống đồng nằm nghiêng hoặc treo nghiêng, mặt trống đối
diện nhau và dùng dùi thẳng như người Khơ
Mú.
Tiếng trống đồng đối với những dân tộc kể
trên là âm thanh của trời (tiếng sét),
còn mặt trống tượng trưng cho mặt trời. Tiếng trống sẽ dẫn đường
cho linh hồn người chết về với tổ tiên họ.
Trống đồng của Việt Nam rất đa dạng. Ngoài những
loại trống kể trên còn nhiều loại khác như
Đông Sơn, Hoàng Hạ và Ngọc Lũ.
Phân
loại
Theo phân loại của Heger:
- Trống Heger I, còn được nhiều người gọi
là trống Đông Sơn. Trống loại này thường lớn,
thân trống hình trụ thẳng đứng. Mặt dưới để trống, mặt
trên có hình sao đúc nổi với 12 cánh.
Trên một số trống, chỉ có 8 cánh sao, như trống
đồng
Quảng
Xương, hoặc 14 cánh như trống
đồng
Ngọc
Lũ, Sông
Đà, Thượng
Lâm. Hoặc 16 cánh như Hoàng
Hạ, Salayar. Trống loại này được tìm ở khắp
vùng Đông Nam Á, nhưng tập trung nhiều nhất ở Việt
Nam. Tiêu biểu nhất là các trống đồng Ngọc Lũ,
Hoàng Hạ, và Sông Đà.
- Trống Heger II: thân trống chỉ có
2 phần, không có hình người hay vật nữa, thay
vào đó toàn là hoa văn hình học.
Trên mặt trống thường có hình khối 4 con
cóc, đôi khi 6 con. Mặt trời có 8 tia. Loại
này phân bố ở vùng Quảng Đông và Quảng
Tây, Trung Quốc; ở Việt Nam cũng có nhiều loại trống
này và còn được người Mường sử dụng, nên
có người gọi là trống Mường.
- Trống Heger III có quai nhỏ đẹp. Mặt
trời có 12 cánh. 4 góc mặt có cóc,
thường là 3 con chồng lên nhau thành 12. Trang
trí toàn bằng họa tiết hình học và hoa văn.
Dưới chân có đoàn voi đúc nổi đi chung quanh
cây "đời sống". Đôi khi ốc thay voi. Được phát hiện
ở Việt Nam, Lào, Thái Lan, Myanma và Vân Nam
(Trung Quốc).
- Trống Heger IV có kích thước
thường nhỏ, không có cóc. Ngôi sao bao giờ
cũng 12 tia, nhiều khi rõ tên 12 con vật địa chi.
Tìm thấy ở Trung Quốc và Việt Nam.
Trong cách phân loại này, trống loại
I được cho là cổ nhất.
Ở Indonesia,
có
loại
trống
đồng
đặc
biệt,
thân dài, gọi
là trống
Moko và không xếp vào các loại trống
Heger. Tuy nhiên, cũng có người cho rằng thiết kế
và kiểu trang trí của loại trống này rất có
thể có nguồn gốc từ văn hóa Đông Sơn [1].
Nổi
tiếng
nhất
trong
các
trống
Moko là chiếc "Trăng
Pejeng" (Moon of Pejeng) có đường kính 160 cm
và chiều cao 180 cm [2],
được
cho
là
có
tuổi
khoảng
từ 1000 đến 2000 năm, hiện
được dùng trong điện thờ tại Pejeng, Bali. Người dân trên
đảo Alor,
Indonesia, vẫn dùng trống Moko làm đồ dẫn cưới và
là biểu tượng cho địa vị xã hội.
Năm 1976, người ta phát hiện loại trống nhỏ ở Vạn
Gia
Bá (万家坝), Trung Quốc, được đặt tên là trống
Vạn Gia Bá. Theo cách phân loại của Trung Quốc,
loại trống này là trống Tiền Heger và là
nguồn gốc của mọi loại trống Heger. Ở Việt Nam, cũng đã
tìm thấy loại trống này, nhưng nhiều nhà khảo cổ
học Việt Nam lại coi loại trống này thuộc giai đoạn cuối của
loại Heger I.
Nghiên cứu về nguồn gốc trống đồng
Tại phương Tây, đã có dấu vết rằng
người ta đã biết về trống đồng từ năm 1682[6]. Nhưng
mãi tới cuối thế kỷ 19 mới có học giả bàn về trống
đồng như Hirth (1890), tác giả này cho rằng trống đồng
là của Trung Quốc. Rồi De Grooth (1901) cho là của Việt
Nam. Trong cuốn Alte Metalltrommeln aus Südost Asien
(Trống kim loại cổ Đông Nam Á) năm 1902, Franz Heger,
nhà
khảo
cổ
học
người
Áo khẳng định rằng trống đồng xuất phát từ miền Bắc
Việt Nam và trung tâm các cuộc tìm kiếm sau
này về trống đồng phải là ở vùng này.
Ông Heger phân chia 165 chiếc trống được biết đến
lúc ấy thành 4 loại - phân loại Heger. Trước thập
niên 1950, một số phân loại khác đã được
đề xuất, nhưng không có cách nào được chấp
nhận rộng rãi như phân loại của Heger
Các nghiên cứu về trống đồng mãi đến
cuối thế kỷ 19 mới được bắt đầu và được bắt đầu bởi người phương
Tây. Trước thập niên 1950, hầu hết các nghiên
cứu quan trọng đều được viết bởi các học giả phương Tây,
đặc biệt nhất là Heger. Sau khi Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập
vào năm 1949 và Việt Nam bị chia cắt vào năm 1954,
các học giả Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu chiếm lĩnh
lĩnh vực nghiên cứu về trống đồng. Đến cuối thập
niên 1970 và đầu thập niên 1980,
đã có những cuộc tranh luận xung quanh việc phân
loại trống, ý nghĩa các họa tiết trang trí,
niên đại trống..., nhưng chủ đề tranh luận chính yếu
là trống đồng xuất phát từ đâu: miền Bắc Việt
Nam hay miền Nam Trung Quốc[8]. Các học giả Việt Nam ủng hộ
phân loại của Heger và cho rằng trống
đồng
Đông
Sơn (Heger loại I) là loại cổ nhất.
Còn các học giả Trung Quốc ban đầu đa số phủ nhận
phân loại của Heger, cho rằng kiểu trống tương ứng với Heger loại
II mới là cổ nhất. Từ khi trống loại Vạn Gia Bá, loại
trống gần giống loại Đông Sơn nhưng hoa văn đơn giản hơn, được
tìm thấy ở Vân Nam, các học giả Trung Quốc lại quay
về thống nhất với một cách phân loại theo thứ tự
phân loại của Hegel nhưng bổ sung một loại xếp thứ tự cổ hơn
Heger loại I, đó là loại trống
Vạn
Gia
Bá. Theo cách phân loại của Việt Nam,
trống Vạn Gia Bá (trống Thuong Nong tìm thấy ở Việt Nam
thập niên 1980 thuộc loại này) được xếp vào loại
con của thời kỳ cuối của loại trống Đông Sơn.
Các nhà nghiên cứu Việt Nam
và Trung Quốc vẫn chưa đi được đến một kết thống nhất về một
xuất xứ Việt Nam hay Trung Quốc của trống đồng - một truyền thống
mà có thể đã được chia sẻ giữa tổ tiên của
cả hai. Thực tế là tại thời điểm trống đồng được phát
minh, không có một đường biên giới giữa Bắc Việt Nam
và Nam Trung Quốc. Nhiều nhóm người sống trong
vùng đất rộng lớn đó đã có quan hệ với nhau
về sinh học hoặc văn hóa hoặc cả hai. Học giả phương Tây
Charles Higham, người đứng ngoài cuộc tranh cãi, cho rằng
các xu thế dân tộc chủ nghĩa của các nhà
khảo cổ học Việt Nam và Trung Quốc đã che lấp tình
huống mà khảo cổ học đã khai lộ. Ông đưa ra giả
thuyết rằng trống đồng đã được tạo bởi các nghệ sĩ
tài hoa của một nhóm các xã hội có
tổ chức ngày càng phức tạp với địa bàn trải rộng
qua biên giới Việt-Trung hiện đại, để trang bị cho các
chiến binh và làm biểu tượng cho vị thế cao của những
người lãnh đạo. Ông viết: "Việc tìm kiếm nguồn gốc
tại một vùng này hay vùng khác đã bỏ
qua điểm quan trọng. Các thay đổi đã được thực hiện suốt
từ vùng mà ngày nay là miền Nam Trung Hoa
tới đồng bằng sông Hồng bởi các nhóm người
mà thời đó đã trao đổi hàng hóa, tư
tưởng, và cùng chống lại sự bành trướng từ
phía Bắc của một quốc gia hùng mạnh và hiếu chiến"[9].
Quan
điểm
này
tương
đồng
với
sự thống nhất giữa các
nhà nghiên cứu Việt Nam, Trung Quốc, hay phương Tây
rằng trống đồng là sản phẩm của người Lạc Việt - tộc người Việt cổ được
cho là có địa bàn sinh sống trải từ miền Nam Trung
Quốc tới miền Bắc Việt Nam.
Tham
khảo
[sửa]
Chú
thích
- ^
TS. Nguyễn Anh Tuấn, Trống đồng vùng đất tổ, Sở văn
hóa thông tin và thể thao Phú Thọ, 2001,
trang 16
- ^
Xu Songshi, Baiyue xiongfeng lingnan tonggu (Nam thần của
Bách Việt và trống đồng của Lĩnh Nam), Asian Folklore
& Social Life Monographs 95 (Taipei: The Orient Cultural Service,
1977), 7-8
- ^
Dẫn tại: Nguyễn Thị Thanh, Việt
Nam,
trung
tâm
nông
nghiệp
lúa
nước và
công nghiệp đá xưa nhất thế giới
- ^
Trung Quốc Cổ đại Đồng cổ Nghiên cứu hội, Trung Quốc Cổ đại
Đồng Cổ (Trống đồng cổ đại của Trung Quốc), Bắc Kinh, Wenwu Press,
1988. Theo tài liệu này, số trống đồng lưu trữ tại nhiều
tỉnh và thành phố như sau: Quảng Tây: 560, Quảng
Đông: 230; Thượng Hải: 230; Vân Nam: 160; Quý Châu:
88;
Bắc
Kinh:
84; Tứ
Xuyên: 51; Hồ
Nam: 27; Sơn
Đông: 8; Hồ Bắc: 6; Chiết Giang:
6; Liêu Ninh:
4.
Tổng
số
trống
đồng
lưu
giữ tại Trung Quốc năm 1995 vẫn không
thay đổi. Dẫn tại Han Xiaorong, The present Echoes of the Ancient
Bronze Drum: Nationalism and Archeology in Modern Vietnam and China,
Explorations
in
Southeast
Asian
Studies,
Vol.
2, No. 2, Fall 1998,
Hawaii University
- ^
Nguyễn Duy Hinh, "Bronze Drums in Vietnam", The Vietnam Forum 9
(1987):4-5; Phạm Huy Thông, Dong Son Drums in Vietnam,
Hà Nội: NXB Khoa học Xã Hội (1990), 265. Từ đó,
người ta vẫn tiếp tục tìm thấy trống đồng loại Đông Sơn.
Ví dụ: năm 1994, một trống đồng Đông Sơn mà sau
được đặt tên là Ban Khooc đã được tìm thấy ở
Sơn La.
Phạm Quốc Quân và Nguyễn Văn Đoàn, "Trống đồng Sơn
La", Khảo cổ học 1 (1996):10.
- ^
L. Bezacier, Asie du Sud Asiatique, Tome II Le Vietnam, Paris, Picard
1972
- ^
Han Xiaorong, The present Echoes of the Ancient Bronze Drum:
Nationalism and Archeology in Modern Vietnam and China,
Explorations in Southeast Asian Studies, Vol. 2, No. 2, Fall 1998,
Hawaii University
- ^
Han Xiaorong
- ^ "Seeking
the
origins
of
this
trend
and
the associated changes in material
culture in one or other particular region misses the point. Changes
were taking place across much of what is now southern China and the
lower Red River Valley by groups which were exchanging goods and ideas,
and responding to the expansion from the north of an aggressive,
powerful state".
Higham, Charles, The Bronze Age of Southeast Asia, Cambridge
University Press, 1996.
[sửa]
Liên kết ngoài
Nguồn: http://vi.wikipedia.org
Hình
Trống
Đồng
Trống Đồng Sông
Đà
Trống
Đồng Cổ Loa
Mặt Trống Đồng Ngọc
Lũ
Mặt
Trống
Đồng
Đông Sơn
Mặt
Trống
Đồng
Đông
Sơn
Chim
Lạc
trên
mặt trống
Hình
Muá Hát trên mặt trống
Nguồn: www.flickr.com
|