Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4890

www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com



TRỐNG NGƯỜI MẶT TRỜI THÁI

DƯƠNG BÁCH VIỆT NGỌC LŨ I.

(TRỐNG NHÓM MẶT TRỜI NỌC THÁI DƯƠNG LƯỠNG HỢP TIỂU VÀ ĐẠI VŨ TRỤ).

Bác Sỹ Nguyễn Xuân Quang
http://bacsinguyenxuanquang.wordpress.com

 (phần 1)

 Trống đồng nòng nọc, âm dương là bộ Dịch đồng bằng hình ảnh và là bộ sử đồng của Đại Tộc Việt. Ta đã biết trống đồng là trống biểu của ngành nọc, trống (đực) mặt trời ứng với ngành nọc Việt mặt trời, là trống biểu của Hùng Vương, vua mặt trời.

 Trong các bài trước trong nhóm trống nọc thái dương có mặt trời 14 nọc tia sáng Tốn thế gian ta đã biết:

-Trống Phú Xuyên là trống biểu của ngành nọc dương (Lửa đất thế gian Li-Lửa vũ trụ Càn) có Mang Sủa thú biểu của Li và cò Càn tên viết bằng chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói), diễn tả bằng ba vành biên trống gồm hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) thái dương (đặc biệt ở trống này trong nọc mũi tên còn có dấu chấm nọc có mục đích nhấn mạnh tính siêu dương, có  nghĩa lửa, thái dương mang tính nọc sinh tạo cực dương tức liên hệ với Lửa vũ trụ Càn).

 Trống Phú Xuyên Kì Việt Kì Dương Vương ngành nọc dương Viêm Đế.

Hai vành này kẹp giữa hai vành chấm nọc có nghĩa là hai nọc chấm dương, lửa dương, lửa thái dương sinh tạo liên hệ với Càn. Bốn vành này mang nghĩa nọc lửa thái dương cho biết trống này là trống ngành nọc lửa thái dương Càn Li. Ngoài ra Càn còn được diễn tả bằng vành cò Càn tên viết bằng hình tam giác và Li diễn tả bằng con mang sủa mang gạc (Cervilus muntjac). Li mang tính chủ vì vành mang sủa nằm gần sát mặt trời.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là trống Kì Việt Kì Dương Vương của ngành nọc dương mặt trời thái dương Viêm Đế.

-Trống trống Sông Đà là trống biểu của ngành nọc âm Đoài Chấn  với Đoài diễn tả bằng bán viên 6 người chia ra làm hai nhóm Đoài 3 người và những đoạn sóng hình thoi thái dương ở biên trống và Chấn diễn tả bằng bán viên 8 người chia ra làm hai nhóm Cấn 4 người, hôn phối với Chấn và những đoạn sóng nước vuông góc  Chấn thái dương ở biên trống. Khuôn mặt Đoài mang tính chủ.

 

 Trống Âu-Lạc Sông Đà.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là trống Âu Lạc của nhánh nọc âm của ngành Thần Nông thái dương họ mặt trời thái dương Thần Nông-Viêm Đế.

-Trống Miếu Môn I là trống biểu của đại tộc nọc âm Chấn thái dương diễn tả bằng ba vành biên trống gồm hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) thái dương kẹp giữa vành hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn và vành cò gió Chấn có tên là cái “mồi” chữ V hay tam giác ngược có một nghĩa là lửa-nước thái dương Chấn.

 

 Trống Mang Lang Văn Lang Miếu Môn I.

Trống có dạng lưỡng hợp thíếu dương Li- thiếu âm Đoài, có vành chủ yếu là thú bốn chân Mang Lang. Mang là thú biểu của nhánh nọc dương phía thiếu dương Li và con Lang trời là của nhánh phía thiếu âm Đoài nọc dương. Đây là một khuôn mặt lưỡng hợp thiếu dương Li và thiếu âm Đoài của đại tộc Chấn. Đoài Lang có khuôn mặt mang tính chủ vì chó sói Lang khắc to hơn con mang.

 Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt đây là trống lưỡng hợp thú biểu Mang Lang của liên bang Văn Lang Hùng Vương với khuôn mặt Lang Việt mang tính chủ của đại tộc nọc âm thái dương Chấn Lạc Long Quân Lạc Việt ngành Thần Nông thái dương.

Trống âm dương Ngọc Lũ I này cũng thuộc nhóm trống có mặt trời 14 nọc tia sáng nọc thái dương nhưng diễn tả một khuôn mặt khác vi ba vành ngoài biên khác các trống trên.

 Tổng quát

 

 

Trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

Trống âm dương Ngọc Lũ I vốn để ở đình làng Ngọc Lũ, tìm thấy ở xã Như Trác, huyện Lý Nhân, Hà Nam Ninh. Hiện nay trống được trưng bầy tại viện bảo tàng Lịch Sử Việt Nam, Hà Nội .

Nhìn thoáng qua ta thấy trống đồng âm dương Ngọc Lũ I tinh xảo nhất, tinh tế nhất, mỹ thuật nhất, hàm súc nhất trong các trống đồng hiện có trên khắp thế giới.

Nhìn ba vành ngoài biên, ta đã thấy ngay trống đồng âm dương Ngọc Lũ I khác các trống vừa nói.

Xin nhắc lại, các vành ngoài biên trống cho biết trống thuộc loại nào, diễn tả trọn vẹn giáo thuyết hay một giai đoạn nào của thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh trong Vũ Trụ giáo và thuộc họ, ngành, đại tộc, tộc nào trong truyền thuyết và cổ sử Việt.

Như đã viết trống Kì Việt Phú Xuyên thuộc ngành nọc dương Viêm Đế thái dương tạo hóa nên ba vành ở biên trống được diễn tả gồm hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) có nghĩa là lửa, thái dương kẹp ở giữa hai vành chấm nọc lửa sinh tạo.

Trống Âu Lạc Sông Đà thuộc ngành nọc âm Thần Nông thái dương có ba vành ngoài biên gồm hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) có nghĩa là lửa, thái dương kẹp ở giữa vành có hai hình thái sóng hình thoi Gió chuyển động Đoài và sóng cuộn vuông góc nước lửa Chấn ở biên trống (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á, sẽ tóm lược ở dưới).

 Trống Miếu Môn I là trống biểu của đại tộc nọc âm Chấn thái dương có thú biểu Mang Lang ngành Thần Nông được diễn tả bằng ba vành ở biên trống gồm hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) có nghĩa là lửa, thái dương kẹp ở giữa một vành hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn.

 Trống Ngọc Lũ I có ba vành ngoài biên trống gồm:

 

Ba vành ngoài biên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I (ảnh của tác giả chụp tại Viện Bảo Tàng Lịch Sử Hà Nội).

Hình vẽ lại ba vành ngoài biên ở mặt trống nòng nọc, âm dương Ngọc Lũ I  (nguồn: Phạm Huy Thông và các cộng tác viên).

-hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) có nghĩa là lửa, thái dương. Trong nọc mũi tên cũng đánh dấu hai chấm nọc có ý nhấn mạnh thêm là hai dương, lửa, thái dương.

Lưu Ý

Trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là trống lưỡng hợp nòng nọc, âm dương trọn vẹn của ngành mặt trời thái dương (xem dưới) nên phải nhìn theo cả hai diện nòng nọc, âm dương. Theo duy dương, hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) nổi mang dương tính có nghĩa là thái dương của phía nọc dương thái dương. Theo duy âm, hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) chìm mang âm tính có nghĩa là thái dương của phía nọc âm thái dương.

Nếu chỉ nhìn theo một diện nọc thái dương thôi thì có thể chỉ dựa vào vành nổi thôi. Lúc này sẽ căn cứ vào chiều của nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói). Vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) chỉ từ trên (tức mặt trời) xuống có thể coi là biểu tượng cho ánh sáng Càn  còn vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) chỉ thiên hướng (về phía mặt trời) có thể coi như là núi tháp đất dương Li.

-Hai vành nọc mũi tên thái dương này kẹp ở giữa một vành gồm hai hình sóng ở đây mang nghĩa sinh động, liên tác: một là sóng hình chầm và vòng tròn (.) và O, với tiếp tuyến có tiếp điểm ở trên (tiếp tuyến đi từ trên xuống) mang dương tính nên có nghĩa là (.)O = IO, thiếu âm nguyên thể của Đoài IIO (lửa, thái dương II của nòng O) và sóng hình vòng tròn chấm O và  (.) với tiếp tuyến có tiếp điểm ở dưới (tiếp tuyến đi từ dưới lên trên) mang âm tính nên có nghĩa là O (.) = OI thiếu dương nguyên thể của Li IOI.

 Ba vành này cho biết trống thuộc hai đại tộc thiếu dương Li đất dương lưỡng hợp với thiếu âm Đoài Gió dương của hai ngành nọc dương và âm thuộc họ mặt trời thái dương.

Đối chiếu với truyền thuyết Việt là đại tộc thiếu dương Li Kì Việt Kì Dương Vương, khuôn mặt lửa âm đất thế gian Đế của ngành Viêm Đế thái dương lưỡng hợp đại tộc thiếu âm Đoài Lang Việt, khuôn mặt gió dương thế gian Nông của ngành Thần Nông thái dương.

 Đối chiếu cổ sử Việt là nhánh Hùng Vương núi đất dương phía Mẹ Tổ Âu Cơ lưỡng hợp nhánh Hùng Vương gió thái dương phía Lạc Long Quân.

 Lưu Ý

 Xin nhắc lại, trống đồng nòng nọc, âm dương là trống biểu của ngành trống (nọc) mặt trời thái dương nên Thần Nông ở đây có khuôn mặt là mặt trời nọc âm thái dương chứ không phải mang khuôn mặt không gian thái âm. Điểm này giải thích tại sao trong truyền thuyền khi thì viết là Viêm Đế-Thần Nông khi thì viết là Thần Nông-Viêm Đế. Các tộc thuộc ngành nọc lửa thái dương gọi theo Viêm Đế-Thần Nông (vì lửa nên để Viêm Đế viết trước Thần Nông) còn các tộc thuộc ngành nọc nước thái dương gọi theo Thần Nông-Viêm Đế)]. Dưới dạng nhất thể, Viêm Đế-Thần Nông hay Thần Nông-Viêm Đế là một cá thể duy nhất (một nhân vật nên truyền thuyết khi thì viết Viêm Đế có hiệu là Thần Nông hay khi thì viết Thần Nông có hiệu là Viêm Đế. Hiệu là “tên gọi“ của cùng một nhân vật). Dạng nhất thể mang tính lưỡng hợp ứng với Thái Cực hay Trứng Vũ Trụ. Ở dạng lưỡng cực, Viêm Đế-Thần Nông tách ra hai khuôn mặt riêng biệt: Viêm Đế và Thần Nông. Ở đây trên trống và là trống biểu của ngành mặt trời thái dương nên khuôn mặt Thần Nông là khuôn mặt mặt trời nọc âm thái đương.   

Thần Nông của Bách Việt tuyệt nhiên không phải là ông thần làm ruộng Shen Nung (Thần Nông) của Trung Hoa. Thần làm ruộng đầu bò Shen Nung của Trung Hoa ở cõi đất thế gian xuất hiện rất muộn vào thời con người đã bước vào xã hội nông nghiệp là lấy từ Thần Nông ở cõi tạo hóa, vũ trụ của Bách Việt (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

Ở tầng tứ tượng, Viêm Đế tách ra thành Viêm (dưới dạng vật thể là Lửa), Đế (Đá, Đất) và Thần Nông tách ra thành Thần (Nước) và Nông (Gió) (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc).

 Trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có mặt trời 14 nọc tia sáng là trống thế gian nên có dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu dương Li với thiếu âm Đoài tức Đế với Nông mang tính chủ.

Hai hình thái sóng cuộn vòng tròn có chầm có tiếp tuyến lửa đất  thiếu dương Li và gió dương thiếu âm Đoài chuyển hành mang tính sinh động, sinh tạo ở trên cùng một vành cho thấy rõ đây là dạng lưỡng hợp của hai nhánh nọc nòng, dương âm của ngành thái dương Viêm Đế-Thần Nông.

Tóm lại

Trống đồng âm dương Ngọc Lũ I mới nhìn qua ba vành ngoài biên trống đã thấy trống mang khuôn mặt lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu dương Li với thiếu âm Đoài của hai nhánh nọc nòng ngành mặt trời thái dương.

Đối chiếu với truyền thuyết Việt là dạng lưỡng hợp thiếu dương Li Đất dương Đế của nhánh Viêm Đế thái dương với thiếu âm Đoài Gió dương Nông của nhánh Thần Nông thái dương của ngành Viêm Đế-Thần Nông thái dương.

Đối chiếu cổ sử Việt, đại tộc Kì Dương Vương, khuôn mặt lửa âm đất thế gian Đế của ngành Viêm Đế thái dương lưỡng hợp với đại tộc thiếu âm Đoài Lang Việt, khuôn mặt gió dương thế gian Nông của ngành Thần Nông thái dương.

Đối chiếu với lịch sử Việt  là nhánh Hùng Vương núi đất dương phía Mẹ Tổ Âu Cơ lưỡng hợp nhánh Hùng Vương gió, bầu trời sinh tạo thái dương phía Lạc Long Quân.

.Trống có cả hai yếu tố nòng nọc, âm dương lưỡng hợp.

Trên mặt trống có những yếu tố dương như các vành giới hạn là vành có chấm nọc, hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) ở biên trống, hươu đực, dàn trống… Yếu tố âm như có sự hiện diện của các chữ viết nòng vòng tròn, có hình nai cái, hình cối, nhóm 6 người với số 6 là số chẵn số âm đối ứng với nhóm 7 người với số 7 là số dương tức một nhóm thuộc nọc âm một nhóm thuộc nọc dương (x. dưới)…

Như thế trống này là trống biểu của hai khuôn mặt nòng nọc, âm dương, có một dạng lưỡng hợp nòng nọc, âm dương của ngành mặt trời thái dương.

Trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có mặt trời 14 nọc tia sáng thuộc nhóm mặt trời nọc thái dương có số nọc tia sáng là số Tốn (6, 14, 22…). Qua ba vành ngoài biên, ta đã thấy trống này có những khuôn mặt lưỡng hợp nòng nọc, âm dương như sau:

-Tốn với Càn

Trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là trống lưỡng hợp nòng nọc, âm dương trọn vẹn của ngành mặt trời thái dương nên theo duy dương hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) nổi mang dương tính có nghĩa là thái dương Càn của phía nọc dương thái dương.

Như thế trống có một khuôn mặt lưỡng hợp Tốn với Càn.

Kiểm chứng với Dịch sách ta thấy Tốn hôn phối với Càn trong Hậu Thiên Bát Quái:

 

 -Tốn với Chấn

 Theo duy âm, hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) chìm mang âm tính có nghĩa là thái dương Chấn của phía nọc âm thái dương. Như thế trống có một khuôn mặt lưỡng hợp Tốn với Chấn.

 Kiểm chứng với Dịch sách ta thấy Tốn hôn phối với Chấn trong Tiên Thiên Bát Quái:

 

Hai dạng Tốn lưỡng hợp Càn và Chấn này mang khuôn mặt dạng  lưỡng hợp đại vũ trụ thái dương Càn với thái âm Chấn ngành nọc thái dương qua khuôn mặt Tốn. 

 -Tốn với Li

Số Tốn 6 nằm giữa  số Li 5 và số Càn 7 (5, 6, 7). Như thế về phía âm (số 5 nằm bên tay trái, phía dưới số 6 nên là phía âm), Tốn 6 đi với Li 5 phía âm. Vậy Tốn có một khuôn mặt lưỡng hợp với Li. Ở đây ta cũng thấy rõ Tốn lưỡng hợp với Càn vì về phía dương, Tốn 6 đi Càn 7.

Kiểm chứng với truyền thuyết và cổ sử Ai Cập cổ ta thấy rõ hơn. Nữ thần bầu trời Nut ứng với Tốn hôn phối với thần đất Keb ứng với Li.

Nữ Thần Bầu Trời Nut có một khuôn mặt Tốn hôn phối với Thần Đầt Keb (Geb) có một khuôn mặt Li. Keb chính là Việt ngữ Kẻ, Kè, Kì. Keb ruột thịt với Kì Dương Vương.

Vậy có sự lưỡng hợp giữa Tốn với khuôn mặt Li (xem Sự Tương Đồng Giữa Cổ Việt Với Ai Cập Cổ).

-Tốn với Đoài

Còn khuôn mặt Đoài/Tốn, như đã biết qua nhóm trống cóc/ếch Chấn/Cấn có mặt trời 12 nọc tia sáng ta có Đoài hôn phối với Tốn. Kiểm chứng với Dịch sách ta cũng thấy Đoài hôn phối với Tốn ở lá bùa trừ tà của dân gian Việt Nam (dùng trừ tà vì Dịch có một khuôn mặt Chấn Sấm có búa thiên lôi trừ được ma quỉ).

 

 Sự hôn phối Tốn OII với Đoài IIO này cũng thấy rất rõ trong truyền thuyết Ai Cập cổ là nữ thần lửa Tefnut (goddess of Fire), Tốn OII lấy Thần Khí Gió Shu (God of Air), Đoài phía ngành nòng, âm.

Như thế trống Ngọc Lũ I  có mặt trời 14 nọc tia sáng Tốn thế gian có khuôn mặt lưỡng hợp trọn vẹn lưỡng hợp đại vũ trụ Tốn/Càn- Tốn/Chấn và lưỡng hợp tiểu vũ trụ Tốn/Li và Tốn/ Đoài.

Trống này là trống thế gian có mặt trời 14 nọc tia sáng (lớn hơn 7) nên khuôn mặt chính là dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ do đó mà hai vòng sóng Li-Tốn cùng nằm trong một vành ở  ngoài biên trống.

Để vững chắc thêm nữa ta có thể kiểm chứng với ma phương có số trục 14 (14 là số nọc tia sáng) có tổng số các chi là 42.

 Ta thấy rõ theo một đường chéo Tốn 14 (tầng hai) đi với Li 13 (tầng 2) và Càn 15 (tầng 2). Và theo đường chéo thứ hai Tốn 14 đi với 11 Đoài (tầng 2) và 17 Chấn (tầng 2).

Lưu Ý

Ta thấy rõ một trống đồng có thể diễn tả nhiều loại Dịch sách.

Trống có một nghĩa là đực, là nọc, là dương nên trống được dùng làm trống biểu của ngành mặt trời. Trống đồng hở đáy và trên mặt trống có hình mặt trời nằm trong vòn tròn vỏ không gian của đại tộc Đông Sơn là trống nòng nọc, âm dương nên là trống biểu tượng cho cả hai nhánh âm dương của ngành mặt trời: dương thái dương và âm thái dương.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn là trống biểu của Hùng Vương (Hùng có một nghĩa là Trống, nọc, đực, mặt trời) lưỡng hợp Chim Rắn, Tiên-Rồng. Trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn   là trống biểu của cả hai ngành Hùng Vương dương thái dương Lửa, Núi Âu Cơ và âm thái dương Nước, Biển Lạc Long Quân và của Bách Việt (xem Trống Đồng Là Trống Biểu Của Hùng Vương trong bacsinguyenxuanquang.wordpress.com).

.Họ

Trống đồng âm dương Ngọc Lũ I thuộc họ mặt trời hừng rạng, rạng ngời có tia sáng nọc mũi mác.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, đây là trống biểu của họ Hồng Bàng có một khuôn mặt là họ mặt trời thái dương. Theo duy dương, họ Hồng Bàng có một nghĩa là Họ Đỏ, Họ Mặt Trời. Họ Hồng Bàng thế gian kể từ Kì Dương Vương trở xuống, nhìn theo diện nòng nọc, âm dương, theo duy dương ngành mặt trời chỉ gồm có Kì Dương Vương (Kì Việt thuộc ngành mặt trời Viêm Đế và Lạc Long Quân có khuôn mặt thái dương II của ngành nòng O tức IIO, Đoài đại diện thuộc ngành mặt trời Thần Nông.

Còn Hùng Vương trong họ Hồng Bàng thế gian có một khuôn mặt lịch sử là chính. Hùng Vương lịch sử thế gian coi như là thuộc họ Hồng Bàng lịch sử.

Như thế họ Hồng Bàng cần phải nhìn dưới ba diện theo lưỡng hợp nòng nọc, âm dương: ở cõi Tạo Hóa là họ Hồng Bàng vũ trụ gồm hai ngành Viêm Đế và Thần Nông. Ở cõi thế gian: họ Hồng Bàng chỉ gồm có Kì Dương Vương, khuôn mặt thái dương thế gian của Viêm Đế và Lạc Lang Hùng Đoài thái dương ngành Long Quân, khuôn mặt thái dương thế gian của Thần Nông. Ở cõi lịch sử, họ Hồng Bàng gồm hai nhánh Hùng Vương lịch sử Núi và Biển.

Hùng Vương lịch sử đội lốt Tổ Hùng tạo hóa, sinh tạo ở cõi trên Thượng Thế (cần phần biệt từ Tổ Hùng với từ Hùng Vương. Tổ Hùng kể từ cõi tạo hóa, vũ trụ trở xuống gồm từ Viêm Đế trở xuống và Hùng Vương mang nghĩa chính là các vua thế gian lịch sử con cháu Tổ Hùng truyền thuyết).

Đế Minh là cháu ba đời thần mặt trời Viêm Đế thì Kì Dương Vương, Lạc Long Quân và Hùng Vương cũng thuộc dòng mặt trời Viêm Đế. Hiển nhiên họ Hồng Bàng trăm phần trăm có một khuôn mặt là Họ Mặt Trời.

.Ngành

Hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) ở biên trống cho biết trống thuộc ngành nọc dương thái dương mặt trời chói sáng khác với trống đồng âm thái dương ví dụ như trống Cổ Loa cũng có mặt trời 14 nọc tia sáng nhưng có hai vành đường rầy hay hình các thanh thang đứng (răng lược) ở biên trống cho biết trống thuộc ngành nọc âm thái dương, mặt trời êm dịu.

 Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, đây là ngành mặt trời dương thái dương.

.Nhánh

Mặt trời có tia sáng hình nọc mũi tên nhọn, sắc, dài ứng với nhánh nọc, lửa, nọc nhọn, rìu nhọn tức nhánh rạng ngời khác với các trống cóc/ếch như trống Hữu Chung có nọc tia sáng cạnh cong hình búp măng, cánh hoa sen nhọn đầu mang âm tính diễn tả ánh sáng nọc âm êm dịu.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, đây là nhánh Việt mặt trời rạng ngời.

.Đại tộc

Khối lửa mặt trời hình cầu gai chói lọi không thấy đĩa tròn ứng với đại tộc thái dương.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, đây là đại tộc Việt thái dương ngành dương.

.Dạng lưỡng hợp nòng nọc, âm dương

Thấy qua sự kiện là trống hở đáy, mặt trời-không gian ở tâm trống, tia sáng số chẵn âm đi với mặt trời dương.

Đặc biệt ở đây như đã nói ở trên có dạng lưỡng hợp đại và tiểu vũ trụ của ngành nọc thái dương. Trống đồng âm dương Ngọc Lũ I mang trọn vẹn ý nghĩa thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, dạng lưỡng hợp nòng nọc, âm dương, lửa-nước ứng với Chim-Rắn, Viêm Đế-Thần Nông, Đế Minh-Vụ Tiên, Kì Dương Vương-Thần Long, Lạc Long Quân-Âu Cơ, Tiên-Rồng, Hùng Lang, Hùng Vương lưỡng hợp hai ngành núi-biển, liên bang Văn Lang…

.Trống Nấm Vũ Trụ: trống có hình Cây Nấm Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang VI (Heger I).

Trống có hình cây nấm là trống Cây Nấm Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) gồm đủ cả ba cõi, Tam Thế mang trọn vẹn ý nghĩa vũ trụ luận.

 Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, trống này theo chính thống phải mang trọn vẹn cốt lõi văn hóa Việt dựa trên nòng nọc, âm dương Chim-Rắn, Tiên Rồng nền tảng của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo.

1.  Mặt trống

Nhìn tổng thể, mặt trống Ngọc Lũ I trông “phức tạp” hơn các trống khác. Mặt trống ngoài vành người nhẩy múa, vành cò bay thường thấy trên các trống thế gian khác còn có thêm vành hươu-chim (khác cò), có vòng chim đứng đi chung với vòng cò bay. Như thế trống đồng âm dương Ngọc Lũ I diễn tả Vũ Trụ Tạo Sinh đầy đủ hơn, trọn vẹn hơn.

Nhìn thoáng qua mặt trống, có cảm giác vừa vừa không nóng không lạnh lắm. như đã nói ở trên, mặt trống có đủ các yếu tố vừa âm vừa dương.

Ở đây khuôn mặt âm còn hiện hữu, khuôn mặt nòng âm còn được coi trọng, nên lưỡng hợp ở đây là dạng lưỡng hợp âm dương đề huề của hai nhánh nọc dương và nọc âm mặc dù thuộc ngành mặt trời nọc thái dương. Tính nòng nọc, âm dương đề huề này thất rõ ở đây qua vòng tròn vỏ trứng vũ trụ hay vỏ không gian bao quanh đầu tia sáng mặt trời có độ dầy vừa phải không mỏng quá vì mang dương tính nhiều như ở trống Phú Xuyên và không dầy quá vì mang âm tính nhiều như ở trống Hữu Chung.

Cõi Trên, Thượng Thế

 Thượng Thế, theo nguyên tắc, là phần ở tâm trống biểu tượng cho cõi trên chiếu xuống tâm trống hay là phần cõi trên đập dẹp xuống để làm mặt trống.

 Tâm trống thượng thế gồm đĩa tròn hư không, vô cực, sau biến thành không gian, cực âm có vỏ là vòng tròn bao quanh mặt trời, cực dương. Nhìn dưới dạng nhất thế, mặt trời trong đĩa không gian là trứng vũ trụ, thái cực. Diễn tả theo chữ viết nòng nọc vòng tròn-que là chữ vòng tròn có chầm, có một khuôn mặt là linh tự Ra, Re của Ai Cập cổ.

Chữ viết nòng nọc vòng tròn-que vòng tròn có chấm. Đây là linh tự Ra, Re của Ai Cập cổ và là hình ảnh của Bọc Trứng 100 Hùng Lang.

Đây cũng là hình ảnh 100 Lang mặt trời trong bọc trứng không gian. Đây là bọc trứng trăm Lang Hùng mặt trời sinh ra từ bọc không gian.

Trống này có mặt trời 14 nọc tia sáng là trống thế gian (xin nhắc lại trống có mặt trời có số tia sáng bằng hay nhỏ hơn 7 là trống vũ trụ) nên tâm trống cũng mang một khuôn mặt cõi trên tức bầu trời của thế gian. Như thế phần tâm trống có thể coi như là mang hai khuôn mặt: một là cõi trên càn khôn, vũ trụ (đại vũ trụ, tạo hóa) chiếu xuống, hai là khuôn mặt cõi trên bầu trời thế gian (tiểu vũ trụ, cõi nhân sinh). Tâm trống ở đây có vỏ hư vô là vòng tròn bao quanh đầu tia nọc ánh sáng mặt trời. Vỏ không gian rất vừa nét mang tính nòng nọc, âm dương còn đề huề.

 

Cõi trên Thượng Thế ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

Cõi trên Thượng Thế lại chia ra bốn tầng: vô cực, thái cực, lưỡng nghi, tứ tượng/tứ hành.

a. Vô Cực

Như đã nói ở trên vòng tròn bao quanh đầu tia sáng là vỏ không gian diễn tả bằng vòng tròn vừa nét không mỏng quá, không dầy quá manh tính nòng nọc, âm dương đề huề.

Vòng này cho biết bọc hư không chuyển qua trứng vũ trụ, thái cực dưới dạng lưỡng hợp âm dương đồng đẳng.

b. Thái Cực: bọc Trứng Vũ Trụ.

Gồm mặt trời 14 nọc tia sáng và không gian. Không gian ở đây được  diễn tả bằng các khoảng không gian giữa các tia sáng mặt trời có hình thái Tứ Tượng (hiện nay gọi lầm là ‘họa tiết lông công’). Hình thái tứ tượng này cho biết trống có một khuôn mặt sinh tạo tức có khuôn mặt lưỡng hợp của hai nhánh nòng nọc, âm dương của ngành mặt trời thái dương.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt,  bọc Trứng Vũ Trụ, thái cực của ngành mặt trời thái dương sinh tạo của trống này sinh bọc trứng thế gian sinh ra trăm Lang Hùng có khuôn mặt sinh tạo mang tính lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng, Viêm Đế-Thần Nông ngành mặt trời thái dương Đại Tộc Việt.

Lưu Ý

Tổ Hùng ở cõi tạo hóa có một khuôn mặt sinh tạo, tạo hóa tương đương với thần mặt trời tạo hóa Ra hay Re của Ai Cập cổ (Sun as Creator). Hùng Vương thế gian, lịch sử là con cháu của Tổ Hùng Tạo Hóa. Cần phải phân biệt từ Tổ Hùng với Hùng Vương.

b. Lưỡng nghi:

 

-Cực dương:

Mặt trời có khối lửa sáng cầu gai, có nọc tia sáng mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) rất nhọn, sắc, dài, có số âm thái dương (số 14 là số Tốn OII tầng hai thế gian có một nghĩa âm O thái dương II). Khối sáng là một nọc dương, tia sáng nọc mũi tên là hai nọc dương và số tia sáng lửa thái dương, tổng cộng là 3 nọc dương tức Càn. Vậy mặt trời có khối sáng cầu gai không thấy đĩa tròn, có nọc tia sáng hình mũi tên và có 14 nọc tia sáng thái dương là mặt trời nọc thái dương thế gian. Trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có mặt trời 14 nọc tia sáng thuộc nhóm mặt trời nọc thái dương thế gian.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là trống thuộc họ mặt trời nọc thái dương Hồng Bàng (hiểu theo nghĩa tổng quát gồm cả họ Hồng Bàng vũ trụ, họ Hồng Bàng thế gian và họ Hồng Bàng lịch sử). Về phía nọc dương thái dương Viêm Đế có khuôn mặt thế gian Đế đại diện.  Vế phía nọc âm thái dương Thần Nông, vi là trống nọc thái dương nên phải có khuôn mặt thái dương II về phía nòng âm O tức IIO, Đoài ứng với Nông của phía Thần Nông là đại diện.

-Cực âm:

.Không gian

Cực âm là không gian chứa mặt trời. Như đã nói vỏ không gian (cùng chung với vỏ Trứng Vũ Trụ) ở đây là một vòng tròn có độ dầy vừa phải diễn tả tính nòng nọc, âm dương đề huề của ngành nọc thái dương.

Bản chất không gian thường được diễn tả bởi các hình thái ở các khoảng không gian giữa các tia sáng. Ở đây khoảng không gian có hình thái tứ tượng (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á).

Khoảng không gian giữa các tia sáng có hình thái tứ tượng.

 Hình thái tứ tượng có 4 chữ viết nòng nọc vòng tròn-que là:

1. Hình hai giọt nước đặc biểu tượng cho nòng âm. Hai giọt nước này thuôn nhọn có đuôi mang hình ảnh hai giọt nước vũ trụ rơi từ trời tức hai âm (OO), hai đuôi hình nọc (I), mang dương tính tức theo duy dương đọc gộp lại là IOO, lửa nước Chấn. Đây là tượng Nước dương Chấn.

Điều này thấy rất rõ là ở những trống muộn sau này hai giọt nước viết dưới dạng hai vòng tròn đồng tâm tức OO = nước hay đúng ngữ pháp hơn là viết dưới dạng hai vòng tròn có chấm ở giữa mang ý nghĩa Chấn thái dương ví dụ như trên trống Miếu Môn II, Cửu Cao. Ở các trống muộn thời phụ quyền cực đoan hai giọt nước dương thể điệu hóa (stylized) thành hai hình tam giác, hình sò hến trông giống âm hộ (nên có tác giả gọi như vậy), hình hạt hạnh nhân… có góc cạnh. Trường hợp ở trống Ngọc Lũ I hai giọt nước này được phụ đề bằng hai chấm bao quanh bởi đĩa tròn sáng trông như hai “con mắt” mang ý nghĩa dương, mặt trời. Hai chấm nọc dương bao quanh bởi vòng tròn cũng có thể đọc theo nghĩa thái dương. Đây là hai giọt nước thái dương, nòng thái dương, theo duy dương là Chấn thái dương.

Ta có thể đọc theo chữ nòng nọc là hai giọt nước = OO, nòng nước với phụ đề “hai con mắt” là nòng nước thái dương, Chấn thái dương.

Tóm lại đây là nòng Khôn âm nước thái dương Chấn thái dương.

2. Hình vành cung hơi cong có các sọc ngắn, nhỏ, song song trông giống hình bờm, mào lông, hình nửa lông chim, rèm tua, bức sáo gió, mành mành gió. Hình này biểu tượng cho nòng Khôn khí gió. Rèm có một gạch ngang (bẻ cong vì hiệp theo âm tính) là nọc | và tua là nòng O. Cả rèm tua là |O, thiếu âm, theo duy dương trên trống là Gió dương Đoài.

Đây là tượng Gió Đoài.

3. Hình nọc nhọn đầu mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) mang ý nghĩa nọc, dương, thái dương Càn. Ta có thể phân tích nọc nhọn đầu mũi tên ( ^ ) = ||, và tính nhọn là yếu tố dương thứ 3  tức ba dương Càn. Hình nọc mũi tên Càn này giống đầu cây đòn càn của Việt Nam. Chữ nọc mũi tên Càn này là tên những con cò Càn thấy trên trống Phú Xuyên ở trên.

Đây là tượng Lửa vũ trụ Càn.

4. Hình tháp nhọn hình delta kép giới hạn bởi hai nọc nhọn (^) lồng vào nhau, ở giữa phụ đề các chấm nọc lửa, bụi đất là biểu tượng cho núi nhọn đỉnh, núi tháp, núi đá, núi lửa, núi dương Li.

Đây là tượng lửa thế gian Đất dương Li. Anh ngữ pyramid, kim tự tháp có gốc pyro-, lửa có một khuôn mặt lửa thế gian Li.

Tóm lại hình thái này diễn tả Tứ Tượng. Đây là hình thái Tứ Tượng chứ không phải họa tiết “lông công”.

Hình thái tứ tượng này cho biết không gian mặt trời mang tính sinh tạo lưỡng hợp hai ngành nòng nọc, âm dương.

Lưu Ý

Cần phải ghi tâm điểm mấu chốt quan trọng này: các chữ viết nòng nọc vòng tròn-que, hình ngữ nòng nọc ở khoảng không gian giữa các nọc tia sáng cho biết trống là trống mang ý nghĩa Vũ Trụ luận gồm lưỡng nghi âm dương tứ tượng trọn vẹn hay không, dưới dạng lưỡng hợp nào, liên bang nào, ngành, nhánh nào, có mặt bao nhiêu tượng, bao nhiêu tộc và tượng hay tộc nào mang tính chủ, mang tính trội. Ở trống Ngọc Lũ I này như đã thấy những chữ nòng nọc ở khoảng không gian có hình thái  tứ tượng mang trọn ý nghĩa vũ trụ tạo sinh của cả họ, ngành mặt trời thái dương.

c- Những Vành Sinh Tạo

Trống có những vành sinh tạo ứng với tứ hành bao quanh mặt trời-không gian, có ba vành vận hành sinh tạo:

 

                   Vành tứ hành trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I

-vành trong cùng sát mặt trời là vành vòng tròn và chấm. Vì nằm sát mặt trời mang dương tính nên phải đọc nọc dương (.)  trước vòng nòng (O) tức nọc chấm-vòng tròn (. O). Nọc chấm là dạng nọc nguyên thể của nọc que nên ta có: nọc chấm-vòng tròn (. O)  = IO, tức thiếu âm (khuôn mặt dương I của ngành nòng O). Tóm lại vành chấm  vòng tròn ở trong cùng sát mặt trời là vành thiếu âm, nguyên thể của gió dương thế gian Đoài.

-Vành phía ngoài cùng cũng giống như vành vừa nói nhưng vì nằm ngoài xa mặt trời nên mang âm tính, phải đọc vòng nòng O trước tức vòng tròn-chấm tức OI, thiếu dương (khuôn mặt âm O của ngành nọc I) nguyên thể của lửa thế gian tức đất dương Li.

Tóm lại vành chấm vòng tròn ở ngoài cùng là vành thiếu dương, Lửa thế gian Đất dương Li.

-Hai vành này kẹp ở giữa vành hai chữ S gẫy ba khúc ôm nhau. Chữ S gẫy nhỏ nét mang dương tính diễn tả lửa vũ trụ. Chữ S gẫy này có ba khúc tức ba hào dương ghép lại, tức III, quẻ Càn Lửa vũ trụ. Ta cũng thấy chữ S gẫy ba khúc là một dạng của tia chớp, lửa vũ trụ. Ngày nay chữ S gẫy ba khúc dùng làm biểu tượng cho điện cao thế.

Chữ S gẫy ba khúc tức ba nọc III, ba hào dương biểu tượng cho lửa vũ trụ Càn, tia chớp, điện cao thế.

Chữ S mập phần giữa to nét mang âm tính thái âm diễn tả nước chuyển động mang dương tính, lửa. Phần mập ở giữa là giọt nước chuyển động thể điệu hóa và hai nọc nhọn ở hai đầu giọt nước mang nghĩa, lửa thái dương.

Như thế chữ S mập diễn tả nước OO dương I tức IOO, Chấn.

Vậy vành này diễn tả Càn-Chấn ôm nhau dưới dạng hôn phối sinh động, sinh tạo năng động. Đây là dạng lưỡng hợp thái dương thái âm ở cõi đại vũ trụ, tạo hóa. Trong khi hai vành vòng tròn có chấm Li và chấm vòng tròn Đoài là dạng lưỡng hợp thiếu dương, thiếu âm ở cõi tiểu vũ trụ, thế gian.

Các vành sinh tạo này cũng diễn tả tứ tượng. Hình thái tứ tượng ở  các vành này diễn tả tứ tượng ở dạng chuyển động, vận hành, sinh động, năng động nên là tứ hành, trong khi đó hình thái  tứ tượng ở các khoảng không gian giữa tia sáng ở dạng tĩnh chỉ mang nghĩa biểu tượng.

Tổng quát

Ở cõi trên, trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có 14 nọc tia sáng có bốn khuôn mặt Càn/Tốn, Chấn/Tốn dưới dạng lưỡng hợp thái dương thái âm đại vũ trụ và Li/Tốn với Đoài/Tốn ở dạng lưỡng hợp  thiếu dương thiếu âm tiểu vũ trụ.

Mặt trời không gian có vỏ không gian vừa nét mang tính nòng nọc, âm dương đề huề, có khoảng không gian giữa tia sáng có hình thái tứ tượngcác vành tứ hành cho thấy trống này có một khuôn mặt sinh tạo, tạo hóa.

Trống mang trọn vẹn ý nghĩa của Vũ Trụ Tạo Sinh trong Vũ Trụ giáo.

Đối chiếu với truyền thuyết Việt là dạng lưỡng hợp của hai ngành nọc dương và âm thái dương Viêm Đế-Thần Nông thái dương, có khuôn mặt chính là lưỡng hợp tiểu vũ trụ Đế-Nông (vì là trống có mặt trời thế gian và có hai vành sóng Li-Đoài ở biên trống).

Đối chiếu với cổ sử Việt là dạng lưỡng hợp của ngành nọc dương và nọc âm thái dương của chủng người Việt mặt trời thái dương rạng ngời Bách Việt.


(phần 2)


 B. Cõi Giữa, Trung Thế.

Xin nhắc lại trống Cây Nấm Vũ Trụ (Nấm Tam Thế, Đời Sống) như trống đồng âm dương Ngọc Lũ I về cơ thể học gồm có tam thế Thượng Thế (tâm trống), Trung Thế (phần còn lại của mặt trống và tang trống), Hạ Thế (chân hay đế trống) nối với nhau bằng Trục Thế Giới (thân hay eo trống). 

Trung Thế là cõi giữa nhân thế gồm có vùng đất và vùng nước. Vùng đất là phần mặt trống còn lại và vùng nước là tang trống.

Nhìn thoáng qua ta thấy cõi giữa trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I phức tạp hơn các trống khác. Ngoài một vành người hay thú, vành cò bay thường ở vùng đất và vành thuyền ở vùng nước tang trống như thấy trên các trống thế gian khác còn có thêm vành chim thú (chim khác cò ) và vòng chim đứng. Điểm này cho thấy trống Ngọc Lũ I diễn tả đầy đủ thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh hơn các trống khác. Trống Ngọc Lũ I có thể là trống biểu của cả một họ, một ngành người mặt trời.

1. Vùng Đất.

 

 Vùng đất là phần còn lại của mặt trống sau khi trừ bỏ đi vùng tâm trống cõi trên thượng thế/bầu trời thế gian.

Vùng đất chia ra là hai miền đầt dương nằm sát mặt trời và miền đất âm nằm ngoài biên trống sát vùng nước tang trống.

 a. Đất dương

Miền đầt dương nằm sát mặt trời gồm có vành người và vành hươu chim (khác cò).

 

Miền đất dương.

 .Vành người

Xin nhắc lại, trên những trống đồng âm dương biểu tượng Tam Thế trọn vẹn gồm cả Ba Cõi như trống Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ, Sông Đà v.v… phần Cõi Giữa nhân gian trên mặt đất và trên mặt nước có cảnh sinh hoạt nhân sinh. Trên những trống chính thống, cõi nhân gian bắt buộc phải là một phần của giáo thuyết Vũ Trụ giáo, Đạo Mặt Trời, nói một cách khác cảnh sinh hoạt nhân sinh phải mang một ý nghĩa phù hợp với Vũ Trụ thuyết. Những trống muộn như trống VânNamthường có cảnh nhân sinh thế tục diễn tả sinh hoạt của đời sống hàng ngày không mang triết thuyết Vũ Trụ giáo. Đây là những trống muộn hay trống thương mại đã mất gốc. Như thế theo nguyên tắc tổng quát ở những trống chính thống, con người và cảnh sinh hoạt nhân sinh phải mang một ý nghĩa, biểu tượng tín ngưỡng Vũ Trụ giáo, Mặt Trời giáo: người do vũ trụ sinh ra, con người là tiểu vũ trụ, là con trời, về thời phụ quyền là người mặt trời, người ánh sáng (xin nhắc lại Việt ngữ Người là Ngời là Sáng); cảnh sinh hoạt của con người dù ở trên mặt đất hay trên mặt nước phải là cảnh giáo vụ (religious services) như lễ lạc, lễ tế… liên hệ tới Vũ Trụ giáo, Đạo Mặt Trời.

Hiển nhiên cũng giống như các biểu tượng khác của trống đồng âm dương, người trên trống đồng âm dương mang trọn ý nghĩa của Vũ Trụ giáo, người trên trống đồng âm dương là người Tạo Hóa, Người Vũ Trụ, Người Mặt Trời.

Bởi vì trống có một khuôn mặt trội là trống (male) biểu tượng nghiêng nhiều về dương, mặt trời, nên người thấy trên trống thường thuộc về dòng dương, dòng Mặt Trời mang tính chủ.

Cần lưu tâm:

Con người là khuôn mặt chính ở Cõi Giữa nhân gian, vì thế ta có một định luật là: khi liếc mắt nhìn qua, nếu thấy có hình người trên mặt một trống nào đó, thì theo chính thống, trăm phần trăm trống đó phải là trống thế gian, nghĩa là trống có mặt trời có từ 8 nọc ánh sáng trở lên.

Trống này có mặt trời 14 nọc tia sáng là trống thế gian nên có vành chủ chốt nằm gần phía mặt trời là vành diễn tả cảnh sinh hoạt nhân sinh của người mặt trời.

Nhìn Tổng Quát: Những Điểm Mấu Chốt.

 

 Hai nhóm người nhẩy múa trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

 Xin nhắc lại một vài mấu chốt chính để nhận diện người trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn (xem chương Ý Nghĩa Hình Người, Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á, tập II).

1. Trống đồng mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ thuyết. Do đó ta phải giải đọc người trên trống đồng theo Vũ Trụ thuyết, theo Dịch, theo chữ nòng nọc.

2. Dựa vào trang phục đầu, trang phục trên người, gậy thờ, khí giới thờ và các chữ nòng nọc, chúng ta có thể nhận diện ra những người trên trống đồng âm dương.

Ví dụ về trang phục đầu.

Trên trống Ngọc Lũ I có mặt trời 14 nọc tia sáng dương thái dương (có sự hiện diện của hai vành nọc mũi tên, mũi mác, răng cưa, răng sói), những người dương thái dương này có trang phục đầu có đường nét thẳng, có góc cạnh sắc nhọn mang nhiều dương tính (có khuôn mặt chủ là Li thái dương, xem dưới). Xem hình trên.

Trên trống Hoàng Hạ có mặt trời 16 nọc tia sáng và cũng có sự hiện diện của hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) thái dương, những người nhẩy múa có trang phục đầu có đường nét cong tròn mang âm tính tròn (có khuôn mặt chủ là Đoài thái dương) (xem trống này).

Trang phục đầu thái dương mang âm tính tròn trên trống Hoàng Hạ.

Trên trống Khai Hóa có mặt trời 12 tia sáng và cũng có sự hiện diện của hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) thái dương, những người nhẩy múa có trang phục đầu có đường nét cong mang nhiều âm tính cong thẳng (có khuôn mặt chủ là Chấn thái dương) (xem trống này).

Trang phục đầu mang âm tính cong thẳng trên trống Khai Hóa.

3. Số người trong mỗi bán viên và trong các tiểu nhóm ở mỗi trống đồng âm dương khác nhau, ví dụ ở trống trống Ngọc Lũ I có hai nhóm 6 và 7 người nhẩy múa. Với số người khác nhau cho biết hai nhóm người thuộc hai ngành, hai đại tộc khác nhau hay hai phía nội ngoại khác nhau của một tộc. So sánh với trống Ngọc Lũ I, trống Sông Đà cũng cùng nhóm mặt trời với trống Ngọc Lũ I nhưng một bán viên có 6 người nhẩy múa phân chia ra làm hai tiểu nhóm 3 người và  một nhóm 8 người chia ra hai tiểu nhóm 4 người. Tiểu nhóm 3 người là Đoài thái dương và tiểu nhóm 4 là Chấn/Cấn thái dương. Điều này thấy rất rõ là ở ngoài biên trống có vành hai gồm hai đoạn sóng hình thoi gió dương Đoài vận hành, ở đầu mỗi hình thoi có phụ đề thêm hai chữ “vòng tròn có chấm” có một nghĩa là hai dương, thái dương. Xen kẽ với hai đoạn sóng hình thoi này là hai đoạn uốn khúc sóng hình vuông có một nghĩa là lửa nước, sấm gầm Chấn. Hai bên vành uốn khúc này là hai vành nọc mũi tên thái dương. Rõ ràng trống có hai tộc Đoài ứng với tiểu nhóm 3 người và Chấn thái dương ứng với tiểu nhóm 4 người nhẩy múa.

Ở trên trống Hoàng Hạ có hai nhóm 6 người nhẩy múa, ở trên trống Khai Hóa có hai nhóm 8 người nhẩy múa. Trống Cổ Loa I cũng thuộc nhóm trống nọc lửa có mặt trời 14 nọc tia sáng như trống Ngọc Lũ I nhưng ở trống Cổ Loa I hai nhóm người nhẩy múa mỗi nhóm cùng có 6 người (6 là âm thái dương) vì thế trống này có thể chỉ là trống biểu của một ngành, một đại tộc gồm có hai phía nội ngoại, dương âm của ngành hay đại tộc thái dương mang âm tính đó. Điều này thấy rất rõ là ở ngoài biên trống Cổ Loa I có hai vành đường rầy hay hình các thanh thang đứng (răng lược) thái dương của ngành âm.

Những con số người khác biệt này giúp ta nhận diện được những người trên một trống.

4. Mỗi người trong mỗi nhóm hay tiểu nhóm mang một ý nghĩa biểu tượng khác nhau theo Vũ Trụ thuyết.

Thường người đi sau cùng biểu tượng cho họ, nhánh, ngành hay đại tộc. Những người này có trang phục đầu và cầm các nhạc cụ hay khí giới khác với những người còn lại trong nhóm. Ví dụ ở trống Ngọc Lũ I người cuối cùng ở nhóm 7 người nhẩy múa có trang phục đầu hình nòng nọc âm dương, hình bầu nậm

khác với 12 người còn lại.

Ở trống Hoàng Hạ hai người cuối cùng của hai nhóm 6 người nhẩy múa có trang phục đầu hình nang túi Khôn (gió-nước, Đoài-Chấn), phần sau gáy hình cánh chim hay đuôi chim có đường nét cong tròn mang âm tính, khác trang phục đầu của 10 người còn lại.

Hai người cuối cùng của hai nhóm 6 người nhẩy múa trên trống Ngọc Lũ I (nhóm 7 người nhẩy múa  trừ người cuối cùng còn lại 6) có trang phục đầu khác với 10 người còn lại.

Ở trống Khai Hóa, hai người cuối cùng của hai tiểu nhóm 4 người nhẩy múa trên trống Khai Hóa có trang phục đầu khác với 14 người còn lại.

5. Những người có trang phục đầu tổng quát giống nhau là những người cùng một tộc hay một đại tộc. Trống nào có tất cả những người nhẩy múa có trang phục đầu tổng quát giống nhau thì trống đó chỉ biểu tượng cho một ngành, tộc mà thôi.

6. Số những người có trang phục đầu tổng quát giống nhau giúp ta nhận diện ra tộc đó. Ví dụ ở trên trống Hoàng Hạ mỗi nhóm có 5 người nhẩy múa có trang phục đầu tổng quát giống nhau; ở trên trống Ngọc Lũ I có hai nhóm 6 và 7 người nhẩy múa nhưng chỉ có 6 người trong mỗi nhóm có trang phục đầu tổng quát giống nhau; ở trên trống Khai Hóa mỗi nhóm có 7 người nhẩy múa có trang phục đầu tổng quát giống nhau. Ba trống này đều là trống thái dương, mặt trời thái dương vì cả ba đều có sự hiện diện của hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói).

Như thế dựa vào tính nòng nọc, âm dương, trang phục đầu, số người, trang phục trên người, gậy thờ, khí giới thờ và các chữ nòng nọc, chúng ta có thể nhận diện ra những người trên trống đồng âm dương trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

Người trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có: 

-Trang phục đầu hình chim. Người hóa trang chim, người chim có một khuôn mặt là người mặt trời ví dụ như người chim của Người Mặt Trời, People of the Sun aztec; thần mặt trời Horus của Ai Cập cổ có một khuôn mặt tương đương với Hùng Vương  có đầu hay trang phục đầu  chim ưng (falcon).

Thần Mặt Trời  Horus.

Những người trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là Người Mặt Trời.

-Trang phục đầu hình chim gồm toàn những nét nọc que thẳng hay có góc cạnh mang dương tính khác với trang phục đầu có các nét cong mang âm tính như ở người trên thuyền, trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ, trên trống Sông Đà, Cổ Loa I…. cho thấy rõ những người này thuộc ngành chim thái dương, Người Mặt Trời Thái Dương. 

-Hai nhóm 6 và 7 người nhẩy múa trên hai bán viên của trống đồng âm dương Ngọc Lũ I hầu hết có trang phục đầu giống nhau (trừ người cuối cùng ở nhóm 7 người nhẩy múa) cho biết những người này cùng một họ, một ngành hay cùng một đại tộc  mặt trời thái dương.

-Trống đồng là trống nòng nọc, âm dương như thế những người trên những trống biểu tượng trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ giáo như trống Ngọc Lũ I phải có hai ngành âm dương, ngoại nội. Ở mỗi trống, số người khác biệt trong mỗi nhóm hay tiểu nhóm mang một ý nghĩa biểu tượng khác nhau theo Vũ Trụ thuyết cũng giúp ta nhận diện tính nòng nọc, âm dương của những người trên trống đó.

 Ở trống này hai bán viên khác nhau có hai nhóm người nhẩy múa có số người khác nhau. Một nhóm 6 và một nhóm 7 người. Số 6 là số âm và là số lớn nhất, già nhất gọi là lão âm tức âm thái dương trong bốn số âm (0, 2, 4, 6) trong 8 quẻ (ứng với bát quái) tức tầng 1 trong 8 tầng 64 quẻ. Vậy nhóm 6 người nhẩy múa là nhóm thuộc nhánh nọc âm thái dương. Tương tự nhóm 7 người nhẩy múa với số 7 là số lão dương thuộc nhánh nọc dương thái dương.

Như thế hai nhóm người nhẩy múa ở hai bán viên thuộc hai nhánh nòng nọc, âm dương của Người Mặt Trời Thái Dương. Cả hai nhóm người đều nhẩy múa theo chiều dương từ trái qua phải tức chiều ngược kim đồng hồ nên đều thuộc dòng nọc, mặt trời thái dương. Nhóm 7 người nhẩy múa thuộc dòng nọc dương mặt trời thái dương và nhóm của nhóm 6 người nhẩy múa thuộc dòng nọc âm mặt trời thái dương.

Ta cũng suy ra bán viên có 6 người nhẩy múa là bán viên âm và bán viên có nhóm 7 người nhẩy múa là viên dương.

Đối chiếu với truyền thuyết Việt, người trên trống Ngọc Lũ I là Người Đỏ, Người Mặt Trời rạng ngời Xích Qủi (xin nhắc lại Kì Dương Vương có một khuôn mặt Trục Thế Giới nên Kì Dương có một nghĩa là Mặt Trời trện đỉnh Trục Thế Giới tại thiên đỉnh zenith, là mặt trời chính ngọ tức là mặt trời rạng ngời, chói chang nhất trong ngày).

Đối chiếu với cổ sử Việt là chủng Người Mặt Trời Rạng Ngời Bách Việt (Việt có một nghĩa là mặt trời, xem Việt Là Gì? bacsinguyenxuanquang.wordpress.com).

-Vị trí của người trong mỗi nhóm cũng giúp ta nhận diện.

như đã nói ở trên, thường người đi sau cùng biểu tượng cho họ, nhánh, ngành hay đại tộc. Những người này có trang phục đầu và cầm các nhạc cụ hay khí giới khác với những người còn lại trong nhóm. Ví dụ ở trống Ngọc Lũ I này người cuối cùng ở nhóm 7 người nhẩy múa có trang phục đầu hình nòng nọc âm dương, hình bầu nậm khác hẳn với những người còn lại có trang phục đầu hình chim.

Người cuối cùng trong nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương có trang phục đầu hình bầu nậm.

Trang phục đầu hình bầu nậm mang nghĩa nòng nọc, âm dương (cổ bầu hình nọc, thân bầu hình nòng) nền tảng của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo. Nhìn dưới dạng nhất thể là thái cực, vũ trụ, không gian-mặt trời . Những người này là con của vũ trụ, là tiểu vũ trụ. Đối chiếu với truyền thuyết Việt những người của hai nhóm này là người mặt trời rạng ngời Bách Việt, con cháu dòng mặt trời Viêm Đế-không gian Thần Nông, dòng Chim-Rắn, Tiên Rồng.

Hai người cuối cùng của hai nhóm 6 người nhẩy múa (trừ người cuối cùng có trang phục đầu hình bầu nậm trong nhóm nhóm 7 người nhẩy múa ra nhóm 7 người còn lại 6 người) có trang phục đầu hình chim cũng có đặc điểm khác biệt với 10 người còn lại (xem dưới).

-Kiểm chứng với ma phương.

Ta có thể dùng hệ thống ma phương làm kim chỉ nam (hầu tránh tranh cãi) để suy ra các tộc mang tính chủ của hai phía âm dương, nội ngoại của các đại tộc trên những trống này.

Trống Ngọc Lũ I mỗi nhóm có 6 người có trang phục đầu hình chim tổng quát giống nhau nên ta dùng ma phương 6/18.

Ma phương 6/18

Theo duy dương tức nhìn theo đường chéo 7,6,5 ta có hai khuôn mặt dương phía dương là Càn 7 và Li 5 và theo duy âm tức nhìn theo đường chéo 9,6,3 ta có hai khuôn mặt dương phía âm là Chấn 9 và Đoài 3.

Ta thấy rõ như đã nói ở trên trống này có nọc tia sáng Tốn thế gian 14 và hai nhóm trong mỗi nhóm có 6 người (6 là số Tốn vũ trụ) có trang phục đầu hình chim, theo ma phương 6/18 có đủ cả lưỡng hợp đại vũ trụ Càn-Chấn và tiểu vũ trụ Li-Đoài. Vì là trống thế gian nên khuôn mặt lưỡng hợp tiểu vũ trụ Li-Đoài mang tính chủ.

Suy ra hai nhóm 6 người có trang phục đầu hình chim diễn tả hai đại tộc người mặt trời dưới dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ Li-Đoài của họ người tiểu vũ trụ diễn tả bằng người cuối cùng nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương có trang phục đầu hình bầu nậm.

Dựa vào những yếu tố sau đây ta thấy đại tộc Li mang tính trội:

-Người vũ trụ có trang phục đầu hình bầu nậm đứng ở nhóm dương 7 người cho thấy ngành dương Càn-Li ngự trị, mang tính chủ.

-Vòng giới hạn có chấm nên lửa Càn-Li mang tính chủ.

-Có hươu thú bốn chân là thú biểu của Lửa Đất Li mà không có chim cắt, chim biểu của Lửa vũ trụ Càn nên khuôn mặt thế gian Li mang tính chủ.

-Có 2 nhóm hươu, thú bốn chân sống trên mặt đất nên Lửa đất Li mang tính chủ.

 -Người cầm gậy nùi tháp Li ở tay phải, tay dương nên Li mang tính chủ.

-Có sự hiện diện của vòng chim đứng trên đất nên Li mang tính chủ.

……

Nhìn tổng thể

Trống Ngọc Lũ I là trống thuộc nhóm nọc thái dương thế gian 14 nọc tia sáng mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ thuyết nên người trên trống này, nhìn chung dưới diện âm dương đề huề cõi tạo hóa là Họ Người Vũ Trụ, Người Không Gian-Mặt Trời thế gian và nhìn theo duy dương là ngành Người Mặt Trời thái dương thế gian. Nhìn theo nòng nọc, âm dương đề huề tức nhìn theo trang phục đầu hình bầu nậm của người cuối cùng nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương thì theo duy dương là nhánh dương người mặt trời thái dương thế gian Li mang tính chủ và theo duy âm thì nhánh âm thái dương người mặt trời thái dương Đoài mang tính chủ.

Nhưng ở đây trên trống có một nghĩa là trống (male) và như đã nói ở trên mặt Li mang tính chủ.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt đây là chủng Người Mặt Trời thái dương rạng ngời Bách Việt. Theo nòng nọc, âm dương đề huề là Người mặt Mặt Trời vũ trụ Viêm Đế-Thần Nông, Chim-Rắn, Tiên Rồng. Theo duy dương là người Xích Quỉ mang tính chủ  của đại tộc Hùng Kì (ứng với Đế của Viêm Đế) và theo âm thái dương là Người Văn Lang (với Lang mang tính chủ ứng với Nông của Thần Nông). Nếu nhìn theo duy dương ngự trị thì đại tộc Xích Quỉ của Kì Dương Vương mang tính chủ.

Như thế trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là trống mang trọn thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh và biểu tượng cho toàn chủng người mặt trời, thờ phượng mặt trời của chủng người tiểu vũ trụ. Mỗi đại tộc đều có thể dùng làm trống biểu cho mình vì nhìn theo đại tộc mình trống đều có biểu tượng mang tính chủ cho đại tộc mình.

ĐI VÀO CHI TIẾT TỪNG NGƯỜI TRÊN TRỐNG ĐỒNG NGỌC LŨ I

A. Người Đại biểu của Họ Người Tiểu Vũ trụ, Người Vũ trụ, Người Không Gian-Mặt trời.

Đây chính là người cuối cùng của nhóm 7 người nhẩy múa (xem hinh ở trên). Người Vũ Trụ nhìn tổng quát dưới con mắt nhất thể là Thái Cực âm dương nhất thể biểu tượng chung cho cả hai ngành. Như đã nói ở trên, người này đứng ở nhóm dương 7 người cho thấy ngành dương ngự trị, mang tính chủ.

Trang phục đầu.

Trang phục đầu của người này hình quả bầu nậm. Xin lưu ý người này có trang phục đầu khác hẳn trang phục đầu của mười hai người còn lại cho thấy người này mang một ý nghĩa biểu tượng riêng biệt không nằm trong hai đại tộc của 12 người còn lại. Nói một cách khác người này là đại biểu chung cho cả hai ngành, hai đại tộc tức là đại biểu cho cả họ.

Người cuối cùng của nhóm 7 người nhẩy múa, theo cái nhìn toàn diện là biểu tượng cho Họ Người Nòng-Nọc, Vũ Trụ, Người Không Gian-Mặt Trời, Tạo-Hóa.

-Diện Hư Không, Vô Cực.

Quả bầu tổng quát là bầu Hư Không, Vũ Trụ, bầu Tạo Hóa sinh tạo, mang trọn vẹn ý nghĩa của Vũ Trụ giáo. Quả bầu mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ luận vì thế ở những kiến trúc tín ngưỡng thờ phượng theo Vũ Trụ giáo như đình chùa đền miếu ta thường thấy có quả bầu ở trên nóc và cũng thấy trên cây đèn đá Cây Vũ Trụ (xem chương Khái Lược Về Vũ Trụ Giáo).

Quả bầu mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ luận, nên người này mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ luận. Người này là người Vũ Trụ, Tiểu Vũ Trụ. Hiển nhiên người trên trống đồng âm dương chính thống là Người Vũ Trụ hay Tiểu Vũ Trụ, con của đại vũ trụ Tạo Hóa.

-Diện Thái Cực.

Nhìn dưới diện âm dương đề huề vì trống đồng hở đáy và tâm trống có hình mặt trời-không gian (càn khôn) là trống âm dương thì quả bầu nậm có phần nọc phía trên biểu tượng dương và phần bầu nòng phía dưới biểu tượng cho âm. Quả bầu nậm là bầu mang nghĩa bầu nòng nọc, âm dương, càn khôn, không gian-mặt trời, vũ trụ (vũ trụ ở đây hiểu theo hai nghĩa âm dương là vũ là vỏ, là bao, bọc, bầu tức phần nòng O ở dưới quả bầu và trụ là nọc phía cổ quả bầu). Như thế người có trang phục đầu bầu nậm này, theo duy dương là biểu tượng cho dương và âm, càn và khôn, vũ và trụ, tức mang trọn ý nghĩa nền tảng của Vũ Trụ thuyết của Dịch. Dưới dạng nhất thể là Thái Cực. Như thế ở diện này người có trang phục đầu bầu nậm này là biểu tượng cho bầu Thái Cực, bầu Trứng Vũ Trụ, bầu dương-âm, càn-khôn, vũ-trụ, là con người Vũ-Trụ, Không gian-Mặt Trời.

-Diện Lưỡng Nghi, Lưỡng Thể.

Họ người Nòng-Nọc,Thái Cực, Vũ Trụ tách ra làm hai ngành. Người này biểu tượng cho hai ngành Nòng (khôn), Vũ và Nọc (càn), Trụ của họ Nòng-Nọc, khôn-càn, Vũ-Trụ. Thật vậy nhạc cụ và trang phục trên người cho thấy rõ diện này.

.Trang phục trên người.

Người này mặc váy xẻ có hai vạt. Có hai cách nhìn hai vạt váy này. Cách thứ nhất nhìn theo trước và sau. Vạt phía trước ngắn là vạt dương, vạt sau dài, là vạt âm. Theo chiều dương ngược chiều kim đồng hồ, vạt trước là đầu là dương còn vạt sau là đuôi là âm. Cách thứ hai, nếu nhìn hai vạt váy là hai vạt nằm hai bên thì vạt “trước” trở thành vạt bên trái tức vạt âm và vạt sau là vạt dương bên phải. Tổng quát váy mang tính âm dương. Như thế váy của những người trên trống đồng âm dương tổng quát cũng mang nghĩa Vũ Trụ luận. Những chi tiết bằng ký tự nòng nọc sẽ cho biết váy mang tính chủ của ngành, đại tộc, tộc nào. Ở người này vạt phía trước hay trái tròn đầu mang âm tính, vạt bên phải bằng đầu mang dương tính. Váy mang tính nòng nọc, âm dương, càn và khôn.

.Nhạc Cụ

Phía trước người cuối cùng của nhóm 7 người nhẩy múa này là người thổi khèn, nên những vật người cuối cùng này cầm trong tay hiển nhiên cũng phải là một thứ nhạc cụ. Đây là cây dùi và cái mõ hay chuông bát hình chữ U (như cái chuông tụng kinh của Phật giáo) hay cái cồng nồi hình cái u, cái âu.

Cũng như các biểu tượng khác trên trống đồng âm dương nhạc cụ này cũng phải nhìn theo Vũ Trụ thuyết.

 ./Dùi mõ hay dùi chuông

Chiếc dùi mõ hay chuông cầm ở tay phải chỉ lên trời hàm ý là Nọc dương Cõi Trên, Cõi Trời mang tính lửa, thái dương (tay phải là dương, nội và dùi là nọc, nội). Dùi mõ hay chuông hình chạng (cháng, chạc cây hình chữ Y), theo thái dương (phía nội của ngành nọc dương) ở Cõi Trời là gậy lửa không gian, tia chớp lửa vũ trụ, phân tích ra gồm ba nọc ||| ghép lại tức Càn. Việt ngữ chạng biến âm với chang liên hệ với lửa, nắng (nắng chang chang), chàng (đực , đục chisel) tức dương có một nghĩa mặt trời.

Ngoài ra hình chạc này, theo siêu dương, cũng mang hình bóng của mỏ và đầu chim cắt có sừng (hornbill), chiếc búa chim, rìu mỏ chim biểu tượng cho Càn. Theo ch= c =h, chạc = cạc, cắt = hache (rìu). Theo thiếu dương cõi thế gian thì gậy này có mấu sừng là sừng hươu hai mấu nhọn, ở Trung Thế, cõi thế gian là rìu gạc sừng hươu Li. Theo biến âm ch= c=g, chạc = gạc (xem chương Ý Nghĩa Dấu, Hình, Biểu Tượng Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á).

Chiếc dùi mõ hay chuông ở tay phải và chỉ lên trời hàm ý khuôn mặt Càn mang tính chủ.

Tóm lại dùi mõ hay chuông hình chạc cây mang hình ảnh đầu chim cắt sừng và sừng hươu biểu tượng cho dương, ngành dương (nội), ngành Trụ, ngành chim Cắt- Hươu, Càn- Li của họ Vũ Trụ, ngành mặt trời của họ Không gian- Mặt trời với Càn mang tính chủ.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là ngành Cắt-Hươu, Viêm Đế thái dương (Viêm biến âm với Diêm, cây que bật ra lửa, theo d= ch, diêm = chim; Viêm biến âm với tiêm, Khả Lá Vàng tiêm là chim và Đế có một nghĩa là chiếc đế chống đỡ, cây nọc chống, trụ chống, cây chạc hay gạc chống biểu tượng cho núi dương, đất dương và Đế cũng biến âm với đá tức đất dương Li, với Anh ngữ deer là hươu).

./Chuông bát hay Cồng nồi

Chuông bát úp hay mõ bát úp biểu tượng cho vòm trời, bầu trời âm mang tính lửa thái dương như thấy qua hình nữ thần bầu trời Nut của Ai Cập cổ uốn cong người hình vòm chuông bát úp diễn tả bầu trời, vòm trời. Mõ, chuông bát úp âm thái dương đi đôi với trống dương thái dương, vì thế trong các nghi thức tôn giáo đều có chuông và trống. Các đình chùa có lầu chuông và gác trống là vậy. Ở đây mõ hay chuông bát ngửa hình chữ U, dạng thái dương của O, mang hình ảnh vật đựng như cái u, cái âu mang ý nghĩa ngược lại.

Mõ hay chuông bát ngửa, cồng nồi, chuông âu mang hình ảnh vật đựng, biểu tượng cho nước. Như thế mõ, chuông bát ngửa cồng nồi có khuôn mặt nước thái dương Chấn mang tính chủ (xem dưới). Ở đây cái mõ, chuông bát này cầm ngả về phía tay phải chiều dương một chút nghĩa là có mang thêm dương tính có hàm ý mõ,chuông này là biểu tượng cho ngành âm nước gió Chấn Đoài và Chấn là khuôn mặt chủ.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là ngành Rắn Nước-Chim Nông, ngành Thần Nông [Thần biến âm với Mường ngữ thắn là rắn, với Hán Việt thận là con rắn nước lớn, con trăn nước (anaconda), con sò lớn, là nước như cơ quan lọc máu làm nước tiểu gọi quả thận, (theo th=tr, thần biến âm với trăn; thần, thận Hoa ngữ phát âm là shen, với h câm shen= sen, có một nghĩa là nước). Nông là chim nông. (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

Như thế dùi là Càn- Li giao hòa với mõ chuông bát Chấn-Đoài. Dùi biểu tượng cho ngành dương, chim Cắt-Hươu, Càn-Li, Viêm-Đế và mõ, chuông bát biểu tượng cho ngành âm, Rắn nước-chim nông, Chấn- Đoài, Thần-Nông.

Dùi và mõ chuông nồi mang trọn vẹn ý nghĩa lưỡng hợp nòng nọc, âm dương đại và tiểu vũ trụ cho thấy rõ người này là người tiểu vũ trụ con của đại vũ trụ.

-Tứ Tượng

Ở trên ta đã thấy dùi là Càn-Li giao hòa với chuông Chấn-Đoài. Dùi biểu tượng cho ngành dương, chim Cắt-Hươu, Càn- Li, Viêm-Đế và chuông biểu tượng cho ngành âm, Rắn nước- chim nông, Chấn Đoài, Thần-Nông. Mỗi ngành hai chia ra hai đại tộc Càn và Li, Chấn và Đoài ứng với Tứ Tượng. Viêm Đế gồm hai đại tộc Viêm tức Lửa vũ trụ Càn và Đế là Đá, đất dương Li. Thần Nông gồm Thần tức Nước Chấn và Nông tức Khi gió Đoài (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc).

Như thế ngành nọc Càn Li, chim Cắt-Hươu sừng, Viêm Đế thái dương phân ra làm hai phía hay hai đại tộc nói nôm na là nội và ngoại, nói theo Dịch là nọc dương hay thái dương Càn (chim Cắt Viêm) và nọc âm hay thiếu dương Li [Hươu sừng Đế, (Deer) đất dương núi Kì, núi Hươu Cọc]. Ngành nòng Chấn-Đoài, Rắn nước-Chim Nông, Thần Nông phân ra làm hai phía hay hai đại tộc là nòng âm hay thái âm (Thần, Trăn Nước) và nòng dương hay thiếu âm (Nông, chim Nông gió).

Tóm lại người cuối cùng của nhóm 7 người nhẩy múa là người Tiểu Vũ Trụ con của Đại Vũ Trụ mang trọn vẹn Vũ Trụ thuyết, là biểu tượng của Họ Người Nọc Nòng, càn-khôn, Mặt Trời-Không Gian, Người Vũ Trụ thái dương (nhìn chung cả quả bầu) gồm hai ngành Mặt Trời Càn Li thái dương (biểu thị bằng dùi chuông chỉ thiên ứng với Trụ tức Nọc của Vũ Trụ, phần cổ của quả bầu) và ngành Mặt Trời Chấn Đoài thái dương (biểu thị bằng chuông hình U, ứng với Vũ, ứng với phần bầu của quả bầu Vũ Trụ). Hai ngành này lại chia ra làm bốn đại tộc ứng với Tứ Tượng Càn Li Chấn Đoài.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, thì người có trang phục đầu hình bầu nậm này chính là người cổ Việt sinh ra từ một quả bầu âm dương, khôn càn, Vũ Trụ. Người Vũ Trụ này đẻ ra từ bọc Trứng Vũ Trụ chính là hình ảnh Trăm Lang nở ra từ Bọc Trứng thế gian do Mẹ Tổ Âu Cơ đẻ ra. Trăm Lang Hùng Vương sinh ra từ cái nang mang dương tính nên có mạng Đoài vũ trụ gió dương thế gian. Hùng Vương có hai ngành. Ngành Hùng Vương Lửa theo mẹ Thái dương thần nữ Âu-Cơ có mạng Tốn, âm thái dương, U Cò tức thuộc ngành lửa Càn Li Viêm Đế, Đế Minh và ở Cõi Thế Gian thuộc hệ Li Kì Dương Vương. Hùng Vương dòng Nước theo Cha Chấn xuống biển thuộc ngành âm Chấn Đoài Thần Nông, ở cõi thế gian thuộc hệ An Dương Vương. Hai ngành này chia ra làm bốn đại tộc ứng với Tứ Tượng đội lốt hay mang dòng máu thuộc hệ Càn Đế Minh, Li Kì Dương Vương, Chấn Lạc Long Quân và Đoài Hùng Lang.

B. Những người Đại biểu của Hai ngành của Họ Người Không Gian-Mặt Trời, Người Vũ Trụ Thái dương.

Người trên mặt trống đồng âm dương thuộc hai ngành: ngành nọc dương là nhóm 7 người nhẩy múa và nọc âm là nhóm 6 người nhẩy múa. Đây là người

mặt trời thái dương thuộc họ người Không Gian-Mặt Trời, Người Vũ Trụ có biểu tượng là người có trang phục đầu bầu nậm nói trên.

Những điểm giống nhau chỉ khác tính âm dương của hai nhánh.

1. Trang phục đầu.

Những người của cả hai ngành dương âm 12 người còn lại, sau khi bỏ người biểu tượng người Tiểu Vũ Trụ ra, đều có trang phục đầu giống nhau và khác với người bầu nậm. Trang phục đầu diễn tả chung cho cả hai ngành nên có hai khuôn mặt dương âm. Nói một cách khác phải đọc theo hai chiều âm dương.

Trang phục của 12 người này tất cả các nhà khảo cứu trống đồng âm dương đều công nhận là có hình chim.

 

Trang phục đầu hình chim.

 Nhưng đa số nhìn theo duy dương, chiều dương đều cho là con chim quay đầu ra phía sau vì cho chữ  vòng tròn có chấm là con mắt chim.

Nhìn dưới diện nòng nọc, âm dương còn đề huề của hai ngành nòng nọc, âm dương nội ngoại tức nhìn theo trang phục đầu quả bầu của người cuối cùng của nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương thì trang phục đầu hình chim này phải đọc theo hai chiều âm dương tùy theo hai ngành âm dương.

Nếu đọc theo chiều dương từ trái qua phải tức chiều ngược kim đồng hồ thì con chim phải quay đầu về phía dương tức phần thứ nhất bên phải hình trụ cao là sừng chim tức phía đầu (đầu quay về bên phải), phần nhỏ sau gáy là đuôi, ta có con chim cắt sừng biểu tượng cho nhóm dương 7 người. Vòng tròn có chấm không phải là con mắt chim mà là chữ vòng tròn (O) và chấm nọc (.), đọc theo duy dương là OI, thiếu dương nguyên thể của Li.

Tóm lại ở nhóm dương 7 người nhẩy múa này, trang phục đầu là con chim cắt sừng: phần trụ cao là sừng chim biểu tượng tộc Càn và phần cánh hình tháp biểu tượng tộc Li và đuôi là phần sau gáy biểu tượng nhánh, ngành, tộc hay chi tộc.  Với chữ vòng tròn có chấm Li cho biết khuôn mặt lửa thế gian Li mang tính chủ.

Ngược lại ở ngành âm nòng, nhóm âm 6 người nhẩy múa, ta phải đọc theo chiều âm tức từ phải qua trái hay theo chiều kim đông hồ, thì con chim phải quay đầu về phía âm tức phần thứ nhất sau gáy bây giờ là đầu, phần cánh biểu tượng tộc Đoài ở giữa và hình trụ cao là đuôi dài biểu tượng cho tộc Chấn, ta có con chim bổ nông dòng lửa biểu tượng cho nhóm âm 6 người. Chữ vòng tròn và chấm bây giờ đọc theo duy âm ta có  chấm (.)-vòng tròn (O) tức thiếu âm IO (dương, lửa của phía O), nguyên thể của gió dương Đoài cho biết khuôn mặt gió dương Đoài mang tính chủ.

Tóm lại ở nhóm âm 6 người nhẩy múa, trang phục đầu hình chim quay đầu về phía sau là con chim bổ nông: có đầu là phần nhỏ sau gáy sau gáy biểu tượng nhánh, ngành, tộc hay chi tộc, cánh biểu tượng đại tộc Đoài, hình trụ cao là đuôi dài biểu tượng cho đại tộc Chấn. Ở đây ta có khuôn mặt Đoài mang tính chủ.

Trên đây là cách đọc theo nòng nọc, âm dương đề huề của ngành nọc thái dương.

Nếu đọc theo duy dương ngự trị (dominant) thì con chim đầu quay về phía sau vẫn là con chim cắt nhưng mang âm tính. Như thế ở nhóm 7 người có trang phục đầu hình chim quay về phía trước, tay phải là con chim bổ cắt diễn tả theo chữ viết nòng nọc vòng tròn-que là II, thái dương biểu tượng cho Càn và ở nhóm 6 người nhẩy múa có trang phục đầu hình chim quay về phía sau, tay phải là con chim bồ cắt diễn tả theo chữ viết nòng nọc vòng tròn-que là OI, thiếu dương biểu tượng cho Li. Đọc theo cách duy dương ngự trị này thì trang phục đầu vẫn là con chim cắt, chim biểu tượng của mặt trời. Cả hai nhóm Càn Li này đều là Người Mặt Trời.  Từ đây suy ra nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương là Càn/Chấn và nhóm nhóm 6 người nhẩy múa ở bán viên âm là Li/Đoài.

Như thế ta thấy rõ hiện nay các tác giả nhìn trang phục đầu là con chim quay đầu về phía sau lưng là nhìn theo  duy dương ngự trị tức theo khuôn mặt Li mang tính chủ của ngành người mặt trời  thái dương trong họ người tiểu vũ trụ trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

Trang phục đầu dĩ nhiên cũng mang trọn ý nghĩa của Vũ Trụ thuyết. Hai chiều quay của chim biểu tượng âm dương, phần trụ cao biểu tượng Càn/ Chấn, phần Cánh biểu tượng Li/ Đoài. Hai phần này biểu tượng Tứ Tượng. Phần nhỏ sau gáy Biểu tượng tộc, chi ứng với bát quái.

Nhìn theo một góc cạnh khác, ba phần của trang phục đầu chim cũng có thể biểu tượng Tam thế.

Tóm lại trang phục đầu hình chim chung cho cả hai ngành nên con chim có hai khuôn mặt dương. Theo nòng nọc, âm dương đề huề là chim nọc, chim bổ (chim búa, chim rìu) chim cắt sừng hình trụ cao quay đầu về phía tay phải và khuôn mặt âm là chim nòng, chim nông (ở đây mang dương tính có mỏ mũi mác như búa chim và con mắt dương là con bổ nông hay nông đực) có đuôi dài hình trụ cao quay đầu về phía âm tay trái. Theo duy dương ngự trị thì là chim cắt Càn-Li lưỡng hợp với Chấn-Đoài có  khuôn mặt Li mang tính chủ, chim quay đầu về phía sau lưng.

Trang phục đầu mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ luận. Trang phục đầu giúp ta nhận diện ra chân tướng của những người này.

2. Trang phục trên người.

Như đã nói ở trên, những người này mặc váy xẻ có hai vạt mang ý nhĩa Vũ Trụ luận. Trên vạt có những sọc, chấm biểu tượng tính thái âm dương thay đổi chi tiết và có phụ đề thêm các dấu như chấm nọc, hai gạch ngang… trên mỗi người vì hiệp (accord) với tính âm dương của mỗi đại tộc, tộc, chi.

3. Nhạc cụ.

Nhạc cụ thấy rõ nhất là cái khèn làm bằng quả bầu và ở trên ta đã biết người cuối cùng của nhóm 7 người nhẩy múa là người Tiểu Vũ Trụ với tay phải cầm dùi mõ hay chuông và tay trái cầm mõ hay chuông chữ U, do đó ta suy ra một cách chắc chắn là những vật khác cầm trong tay của  những người còn lại đều là những nhạc cụ. Bắt buộc là như vậy. Tôi sẽ đi thêm vào chi tiết khi nói đến từng người. Ở đây chỉ xin nói tới những nhạc cụ giống nhau ở hai nhóm người:

-Khèn bầu

Hai người đi trước người cuối cùng của nhóm 6 người nhẩy múa và của nhóm 7 người nhẩy múa đều thổi khèn.

 

 Hai người thổi khèn.

 Khèn là một nhạc cụ bộ gió phát ra tiếng. Khèn ở đây là khèn bầu có hình hai giọt nước nằm ngang trông như người này đang thổi hai cái bong bóng lồng vào nhau. Bầu này mang biểu tượng cho bầu hư không, bầu vũ trụ, bầu trời nòng âm, nói chung là Khôn. Khèn làm bằng bà que sậy. Ba que là quẻ Càn.

Khôn thái âm Chấn hôn phối với thái đương Càn. Khôn thiếu âm là gió dương Đoài. Vậy ở ngành dương của nhóm 7 người nhẩy múa Càn Li, khèn là khèn Khôn thái âm đi với Càn, tức khèn Càn/Chấn (Khôn âm) và ở ngành âm của nhóm 6 người nhẩy múa Đoài, khèn là khèn Li/Đoài (Khôn dương). Trong cả hai chiếc khèn đều có chữ “chấm vòng tròn” có nghĩa là càn khôn (nhất thể) hay thiếu âm (dương của âm) hoặc thiếu dương (âm của dương). Ở khèn Đoài “chấm vòng tròn” có nghĩa là Đoài/Li và ở khèn Càn/Chấn, “chấm vòng tròn” có nghĩa là âm dương, càn khôn. Ta thấy rất rõ khèn ở nhóm dương 7 người nhẩy múa chiếc khèn có bầu to và ba que sậy ngắn cường điệu hơn mang nhiều dương tính, trong có phụ đề chữ “chấm vòng tròn” càn khôn hay thái dương Càn. Nhưng điểm mấu chốt nhất là trên người thổi kèn này có phụ đề chữ “chấm vòng tròn” thái dương Càn, trong khi người kia không có. Ở nhóm âm của nhóm 6 người nhẩy múa chiếc khèn Đoài đi với nước trời Khảm và hôn phối với gió âm Tốn, có ba que sậy dài, yếu ớt, mảnh dẻ hơn, trong có phụ đề “chấm vòng tròn” Đoài.

Ở trống Khai Hóa ở hai nhóm người nhẩy múa chỉ có một người thổi khèn. Chiếc khèn có hình “vòng tròn có chấm” (xem trống này).

Khèn trên trống Khai Hóa (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Ta thấy rất rõ hình dạng khèn diễn tả ý nghĩa khác nhau theo thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh.

-Phách hay lệnh

 

Hai nhóm người nhẩy múa ở trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

 Tay phải của 4 người đầu tiên ở nhóm 6 người nhẩy múa và của 5 người đầu tiên ở  nhóm 7 người nhẩy múa cầm một vật hình tháp có vách kép để theo vị trí đỉnh chỉ thiên. Vì tất cả những người khác đều cầm nhạc cụ như khèn, chuông vì thế vật này cũng phải là một thứ nhạc cụ. Bắt buộc. Đây chính chiếc phách làm bằng tre, hay hai miếng kim khí như đồng cột vào hai ngón tay để gõ vào nhau tạo ra âm thanh. Đây cũng có thể là cái lệnh hình chữ A viết theo dạng chữ nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói)  ^ nếu nhìn cây gậy cầm ở tay trái là dùi gõ. Tuy nhiên có một điểm không đúng là tay trái người dẫn đầu nhóm 6 người nhẩy múa cầm đòng không thể dùng để gõ lệnh được. Vì thế tôi nghiêng về phía phách  hơn.

Dĩ nhiên phách hay lệnh cũng mang ý nghĩa biểu tượng theo tính  âm dương. Ta thấy rõ điểm này khi so sánh hình dạng và vị thế của phách trên trống Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ và Khai Hóa.

Đọc theo nòng nọc, âm dương đề huề tức theo trang phục đầu hình quả bầu của nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương thì phách ở nhóm 7 người nhẩy múa là phách dương biểu tượng núi tháp hai vách nhọn đỉnh thế gian Li. Phách ở nhóm 6 người nhẩy múa là phách âm ngành dương biểu tượng vòm trời thái dương có hình mái nhọn như mái nhà tức Đoài. Đây là lý do tại sao tháp hình vách đôi không có những chấm dương ở trong như thấy ở các hình thái Tứ Tượng (“hoa văn lông công”) ở khoảng không gian giữa các tia sáng mặt trời.

Nếu đọc theo duy dương ngự trị thì cả hai nhóm người đều cầm phách Li.

Tôi đọc nghiêng về phía Li vì những lý do sau đây:

1. Trống Ngọc Lũ I là trống nọc dương thế gian có mặt trời 14 nọc tia sáng nên Li là cõi đất thế gian mang tính chủ vì vậy vật ở tay phải tức dương, chủ tôi nghiêng về Li hơn Càn hay thái dương.

2. Trống Ngọc Lũ I là trống thái dương thế gian vì thế những người trên trống này phải là Những Con Người Thế Gian tức ở cõi nhân gian, tức ở Cõi Giữa Li chứ không phải là con người Càn ở cõi vũ trụ.

3. Mỗi tay của những người này cầm một phần nhạc cụ biểu tượng cho mỗi ngành, đại tộc, tộc như người bầu nậm tay phải cầm dùi mõ hay chuông diễn tả ngành dương Càn Li và tay trái cầm mõ hay chuông bát hình chữ U biểu tượng cho ngành âm thái dương. Để ý ta thấy dùi mõ hay chuông có mấu hình sừng hươu sủa hai mấu nhọn cho thấy gậy sừng mang tính chủ tức Li mang tính chủ và cầm ở tay phải. Những người này tay trái cầm gậy thẳng Càn tương ứng với cái đòng có một khuôn mặt Chấn cầm ở tay trái của người dẫn đầu của nhóm 6 người nhẩy múa như thế phách cầm ở tay phải có khuôn mặt Li mang tính chủ.

4. Phách này có vách kép diễn tả núi tháp Li trong khi Càn chỉ được diễn tả bằng đầu mũi mác (>) đơn mà thôi giống như thấy ở khoảng không gian Tứ Tượng (gọi lầm là “hoa văn lông công”). Phách hình tháp vách đôi này là Li chứ không phải là Càn.

5. Thêm vào đó, phách để ở vị trí có đỉnh chỉ thiên có hình cái hình tháp nhọn biểu tượng núi đá nhọn đỉnh Li.

6. Về mặt ngôn ngữ học: theo biến âm ph =v, phách = vách, vách làm bằng đất. Như thế phách biểu tượng cõi đất thế gian Li. Anh ngữ pyramid, tháp có gốc pyro-, lửa có một khuôn mặt lửa thế gian Li.

7. như đã nói ở trên, những dữ kiện khác cho thấy khuôn mặt Li trên trống Ngọc Lũ I mang tính chủ và khuôn mặt Càn mang tính liệt.

8. Người dẫn đầu của nhóm 6 người nhẩy múa là Đoài như thế người dẫn đầu của nhóm 7 người nhẩy múa phải là Li để có sự giao hòa dạng “thiếu” (tiểu vũ trụ) ở cõi nhân gian, cõi giữa thiếu âm và thiếu dương. Do đó phách ở tay phải bắt buộc phải mang tính chủ Li.

9. Cả hai nhóm đều cầm phách ở tay phải cho biết những người ngày cùng một ngành Li, người mặt trời thái dương thế gian.  Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, đây chính là người Xích Quỉ của Kì Dương Vương Li. Người ở đây là người thuộc Họ Hồng Bàng mặt trời thế gian của Kì Dương Vương.

Phách hình tháp vách đôi này nghiêng nhiều về Li hơn Càn. Vì thế tôi đọc theo phách Li.

Tóm lại  theo duy dương ngự trị, khuôn mặt chính của trống, thì những phách cầm ở tay phải phía dương, để ở vị trí có hình núi tháp mang nghĩa biểu tượng là Li thái dương thế gian, thấy ở cả hai nhóm người nhẩy múa cho thấy những người trên trống Ngọc Lũ  là những người thuộc hệ tộc Li thế gian mang tính chủ.

-Gậy cầm ở tay trái.

Những người cầm phách của hai nhóm ngọai trừ người dẫn đầu nhóm 6 người nhẩy múa đều cầm gậy, que ở tay trái. Đây là những gậy, que thiêng liêng, thờ phượng cũng mang nghĩa biểu tượng ứng với tính thái âm dương vì thế có hình dạng và để ở vị thế khác nhau.

Đọc theo nòng nọc, âm dương đề huề tức theo trang phục đầu hình quả bầu của nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương thì ở nhóm 7 người nhẩy múa, gậy này mang tính Càn đối ứng với phách Li. Ở nhóm 6 người nhẩy múa, gậy này mang tính Chấn đối ứng với phách Đoài tương đương với cái dòng cầm ở tay trai người dẫn đầu. Ta thấy rất rõ cây gậy này có mang âm tính (Chấn) nên cong nhiều ở nhóm âm 6 người nhẩy múa và có mang dương tính nhiều (Càn) nên rất thẳng ở nhóm dương 7 người nhẩy múa, hiển nhiên gậy này hiệp với tính thái âm dương. Vì cầm ở tay trái nên đại tộc Càn và Chấn mang tính liệt, phụ.

.Cần lưu tâm:

Cây gậy của những người này thẳng và cong khác nhau, dài ngắn khác nhau và chỗ tay cầm khác nhau mang ý nghĩa âm dương khác nhau ứng với Dịch lý.

Như vậy, gậy cầm ở tay trái mang biểu tượng Càn ở nhóm 7 người nhẩy múa và mang biểu tượng Chấn ở nhóm âm 6 người nhẩy múa. Vì cầm ở tay trái hai đại tộc này đều mang tính liệt, phụ.

Đọc theo duy dương ngự trị thì gậy ở tay trái hai nhóm đều là gậy Càn cả nhưng mang tính nòng nọc, âm dương khác nhau. Gậy cầm ở tay trái mang biểu tượng Càn ở nhóm 7 người nhẩy múa và mang biểu tượng Càn âm hôn phối với Chấn thái dương ở nhóm âm 6 người nhẩy múa. Vì cầm ở tay trái hai đại tộc này đều mang tính liệt, phụ.

Tóm lại nhìn tổng quát người trên mặt trống Ngọc Lũ I là người Tiểu Vũ Trụ thuộc nhánh nọc thái dương gồm có hai nhánh nọc dương Mặt Trời Lửa dương thái dương là nhóm 7 người nhẩy múa chia ra làm hai đại tộc Càn Li, với Li mang tính trội và ngành nọc âm Mặt Trời Lửa âm thái dương nhóm 6 người nhẩy múa chia ra làm hai đại tộc Chấn Đoài, với Đoài mang tính trội. Vì là trống thế gian nên hai khuôn mặt chính là Li-Đoài và Li mang tính chủ.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt người trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là chủng người  (Bách) Việt mặt trời thái dương ngành Viêm Đế-Thần Nông thái dương có khuôn mặt Xích Quỉ (đúng như theo Kim Định, Xích Quỉ ứng với quẻ Li) mang tính chủ sinh ra từ quả bầu vũ trụ (theo truyền thuyết người Việt cổ sinh ra từ qua bầu và vì chui ra trước nên da trắng hơn các tộc khác chui ra sau có da ngăm đen hơn).


(phần 3)


  C. Những Người Đại Biểu Của Nhánh Nọc Dương Mặt trời Thái dương: Nhóm nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương.

Bây giờ ta giải đọc  nhóm 7 người nhẩy múa, trên bán viên dương của mặt trống ứng với cây dùi chuông ở tay phải của họ người Tiểu Vũ Trụ. Số 7 là số lẻ, số dương, số lão dương, số Càn, lửa vũ trụ, thái dương. Nhóm 7 người nhẩy múa là nhóm nọc dương, nhánh dương, ngành thái dương.

Trừ người cuối cùng biểu tượng cho người Tiểu Vũ Trụ như đã nói ở trên, còn lại có 6 người (có cùng một con số với nhóm 6 người nhẩy múa của nhánh nọc âm ở bán viên bên kia) mang biểu tượng cho nhánh dương này. Như thế hai nhóm 6 và 7 người nhẩy múa trên mặt trống là hai nhánh nọc  âm, dương ngành dương thái dương của họ Người Tiểu Vũ Trụ sống trên mặt đất.

Những Điểm mấu chốt

Ở nhóm dương, lửa 7 người chỉ có 6 người có trang phục đầu giống nhóm 6 người nhẩy múa, vì ở nhóm dương nên ta lấy hai số dương nằm ở hai bên số 6 trong thứ tự 5-6-7. Như thế 6 người trong nhóm 7 người có hai đại tộc là Li 5 và Càn 7 thế gian. Vì là trống thế gian, ta suy ra Li là khuôn mặt chủ của nhóm nọc dương này.

Vậy, nhóm dương 7 người nhẩy múa gồm hai đại tộc Càn Li với Li mang tính chủ.

Sáu người của nhóm dương này đều có trang phục đầu nhìn theo duy dương là con chim nọc thái dương vũ trụ hay con chim cắt lửa, chim biểu của mặt trời thái dương, Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là con chim Việt. Các người này thuộc đại tộc người mặt trời Bách Việt.

Nhóm 7 người nhẩy múa trên trống Ngọc Lũ I.

Nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Ta thấy ngay tức khắc số 6 = 2+4 như thế 6 người đội trang phục đầu giống nhau này gồm có hai người là đại biểu của nhánh nọc dương là hai đại tộc ứng với âm dương, lưỡng nghi  và bốn người còn lại đại diện cho bốn tộc ứng với Tứ Tượng.

Có thể có nhiều cách đọc theo các loại Dịch khác nhau, ít nhất là 2 cách theo hai chiều âm dương theo hai khuôn mặt nòng nọc, âm dương của trống, của trang phục bầu nậm của họ người Tiểu Vũ Trụ. Nhưng ở đây trên trống và là ngành người mặt trời thái dương ta nghiêng về cách đọc theo duy dương.

-Cách thứ nhất: hai người dẫn đầu của nhóm 7 người nhẩy múa là hai người đại biểu của hai đại tộc. Đây là đọc theo duy dương vì hai người dẫn đầu ở phía bên phải, phía dương và vì họ chuyển động theo duy dương tức theo chiều ngược với kim đồng hồ, theo chiều mặt trời.

-Cách thứ hai: hai người cuối cùng của nhóm 7 người nhẩy múa là hai người đại biểu của hai đại tộc. Đây là đọc theo duy âm vì hai người địa diện này ở phía bên trái, phía âm và ở cuối nhóm 6 người có trang phục đầu hình chim.

1. Cách thứ nhất đọc theo phía dương: hai người dẫn đầu của nhóm 7 người nhẩy múa là hai người đại biểu của hai đại tộc.

Vì là ngành nọc dương, nhóm dương 7 người nhẩy múa trên mặt trống, một biểu tượng của dương, những người này nhẩy múa theo theo chiều dương từ trái qua phải tức chiều ngược kim đồng hồ nên ta phải nghiêng nhiều về dương, về cách đọc theo chiều dương, nên tôi đọc theo dương trước. Ngoài ra, vì trống đồng là trống âm dương, ở đây ngành nọc dương nên ta phải đọc theo sự hôn phối âm dương tức theo Dịch hôn phối âm dương, nghĩa là  đọc theo các con số âm rối lấy hôn phối với những con số dương. Đọc theo chiều dương, ta có từ trái qua phải, những người nhẩy múa theo thứ tự số học theo âm là: 0, 2, 4, 6, 8, 10. Theo âm dương hôn phối ta có Khôn 0 hôn phối với Càn 7  (Khôn/Càn), tương tự ta có 2 Khảm  hôn phối với Li 5 (Khảm/Li), 4  Cấn hôn phối với Chấn 9 (Cấn/Chấn), 6 Tốn hôn phối với Đoài 3 (Tốn/Đoài), Khôn 8 hôn phối với Càn thế gian 15 (Khôn thế gian/ Càn thế gian) và Khảm thế gian 10 hôn phối với Li thế gian 13 (Khảm thế gian/ Li thế gian). Như thế ta có hai người dẫn đầu ứng với số 10/13 (Khảm thế gian/Li thế gian), 8/15 (Khôn thế gian/ Càn thế gian) là hai người đại biểu cho hai đại tộc và bốn người còn lại 0/7 Khôn/Càn, 2/5 Khảm/Li, 4/9 Cấn/Chấn và 6/3 Tốn/Đoài là đại diện cho bốn tộc ứng với tứ tượng. Ta có sự hôn phối âm dương của 4 tộc ứng với tứ tượng tức bát tượng ứng với bát quái, nghĩa là mỗi người đại diện cho tộc có hai khuôn mặt dương âm là: Càn Khôn, Li Khảm, Cấn Chấn, Tốn Đoài. Còn hai người dẫn đầu là hai người biểu tượng cho hai đại tộc ứng với Lưỡng Nghi.

Tóm lại nhóm 7 người nhẩy múa có:

.Người sau cùng có trang phục đầu bầu nậm biểu tượng Bấu Hư Không, Bầu Thái Cực, người Vũ Trụ, đại biểu cho toàn họ Người Tiểu Vũ Trụ , .Hai người dẫn đầu nhóm biểu tượng  cho hai đại tộc ứng với Lưỡng Nghi .Và bốn người đi sau hai người dẫn đầu biểu tượng  cho bốn chi tộc ứng với tứ tượng. Bốn người này nhìn theo nòng nọc, âm dương  có hai khuôn mặt âm dương nên ứng với Bát Quái.

Nhóm người này diễn tả Dịch ở phía dương, một thứ dương Dịch. Dịch còn viết dưới dạng chữ nòng nọc nên tôi gọi là dương Dịch nòng nọc Đông Sơn.

Bây giờ ta đi vào chi tiết:

-Hai người đại biểu dẫn đầu của nhóm 7 người nhẩy múa.

+ Người thứ nhất dẫn đầu

như đã nói ở trên người này là Li/Khảm thế gian (13/10)

 

Người đại biểu đại tộc Li, mang tính chủ của ngành Càn Li

dẫn đầu nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương.

 Người này là đại biểu của nhánh Càn Li nói chung và là người đại biểu của đại tộc Li có khuôn mặt mang tính chủ nói riêng như đã biết. Ta thấy tính chủ này rất rõ vì người này là người dẫn đầu của nhóm người thái dương sống trên cõi đất thế gian (Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là nuớc Xích Quỉ của Kì Dương Vương).

Đọc theo duy dương ngự trị thì trang phục đầu như vừa nói, theo chiều dương của nọc dương  tức Càn thì con chim quay đầu về phía trước. Phần mũ sừng hình trụ chữ nhật cao là Càn, phần cánh ở giữa hình tháp nhọn là Li. Đọc theo chiều âm của dương tức thiếu dương Li thì con chim quay đầu về phía sau (đa số các nhà khảo cổ học hiện nay nhìn dưới diện này). Như thế đọc theo âm thì bây giờ phần trụ cao nhất là đuôi Càn âm và phần cánh mang dương tính có hình núi tháp Li.

Phần sau gáy của trang phục đầu cho ta biết thuộc đại tộc, tộc nào. Ở đây có hình nọc mũi mác trong có phụ đề các chấm nọc dương, thái dương và có hình “chấm-vòng tròn”. Đọc theo thái dương Càn là đuôi của con chim bổ cắt quay đầu về tay phải. Chữ chấm vòng tròn lúc này có một nghĩa là lửa sinh tạo (chấm) không gian (vòng tròn), thái dương, Càn, mặt trời sinh tạo, tạo hóa, chính là linh tự Ra hay Re (sun as Creator) của Ai Cập cổ. Đọc theo âm tức theo thiếu dương Li mang tính chủ thì phần này là mỏ chim. Lúc này chữ viết vòng tròn-chấm là âm nòng (O) của dương (chấm nọc) là thiếu dương Li. Lúc này vòng tròn-chấm có thể là con mắt của chim bồ cắt quay đầu về phía sau.

Như thế nhìn theo duy dương với khuôn mặt Li mang tính chủ thì phần trang phục đầu cho biết người này là Li thái dương nhánh Càn Li. Tay phải cầm phách hay chiếc lệnh hình nọc mũi mác hình núi tháp nhọn Li thái dương thế gian. Tay trái cầm gậy biểu hay dùi lệnh thẳng nhất trong 6 người mang hình ảnh nọc siêu dương Càn, phần trên của Trục Thế Giới Li.

Người này tay phải cầm phách hay lệnh Li (vì tay phải, dương nên Li mang tính chủ), tay trái cầm gậy biểu hay dùi lệnh Càn (ở tay trái, âm nên là Càn âm, mang tính liệt) nên người này thuộc nhánh dương thái dương Càn Li với Li mang tính chủ.

Như đã biết váy mang đủ nghĩa Vũ Trụ luận. Váy có vạt trước hình tháp trong có sọc nước Khảm mang tính Li/Khảm và vạt sau có hai nọc ngang thái dương Càn. Vậy váy người dẫn đầu này mang đủ nghĩa Vũ Trụ luận là đại biểu cho nhánh nọc dương Càn Li thái dương thế gian và đại tộc Li mang tính chủ vì Li ở vạt trước.

Tóm lại người thứ nhất dẫn đầu nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương có khuôn mặt Li mang tính chủ, là đại diện đại tộc Li của nhánh Càn Li.

+ Người thứ 2 sau người dẫn đầu

như đã nói ở trên là người Càn Khôn thế gian (15/8).

 

Người thứ 2 sau người dẫn đầu của nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương là

đại biểu đại tộc Càn của nhánh Càn Li.

Người này là đại biểu của nhánh Càn Li nói chung và là đại diện phía đại tộc Càn/Khôn thế gian nói riêng.

Trang phục đầu như đã biết có đường nét thẳng có góc cạnh mang tính thái dương. Ở nhóm dương 7 người nhẩy múa ở bán viên dương này  có khuôn mặt chính là Càn-Li.

Phần sau gáy nói cho biết thuộc đại tộc, tộc nào. Ở đây có hình tam giác Càn trong có sọc gió không gian Khôn biểu tượng Càn/Khôn. Như thế phần trang phục đầu cho biết người này là Càn thái dương nhánh Càn Li. Thật vậy, tay phải cầm phách hay lệnh nọc  hình tháp Li nhưng ở đây  cường điệu rộng và choãi ra mang nhiều dương tính nên đây là Li mang tính Càn thế gian. Tay trái cầm gậy  dài nhất, dài hơn cả cây gậy của người dẫn đầu Li nhưng hơi cong  mang âm tính tức Khôn, diễn tả gậy Càn âm tức  gậy Gàn Khôn.

Váy có vạt trước có dạng hình nọc chữ nhật thẳng Càn có sọc Khôn diễn tả tính Càn Khôn và vạt sau cường điệu như dòng thác chẩy mạnh về bên trái trong có ba nọc ngang cương điệu diễn tả Càn âm nhánh Càn-Li.

Tóm lại người thứ hai sau người dẫn đầu nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương là đại diện đại tộc Càn của nhánh Càn Li.

Vì người này đi sau người dẫn đầu nên Càn này mang tính thứ, liệt.

-Bốn người đi sau hai người đại biểu

 

  Bốn người đi sau hai người dẫn đầu của nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương biểu tượng cho bốn tộc ứng với  tứ tượng.

 Đây là bốn người đại diện của bốn tộc ứng với Tứ Tượng đây là Tứ Dân.

Đọc theo chiều dương từ trái qua phải, ta có theo thứ tự như trên đã thấy là Càn/Khôn, Li/Khảm, Cấn/Chấn và Tốn/Đoài.

+ Người thổi khèn (người thứ 6 sau người dẫn đầu) là người đại diện tộc Càn/Khôn vũ trụ (7/0).

 

Người thứ 6 thổi kèn sau người dẫn đầu của nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương biểu tượng cho tộc Càn/Khôn thái dương của nhánh nọc dương Càn Li.

 Trang phục đầu như đã biết có đường nét thẳng có góc cạnh mang tính thái dương.

Phần sau gáy nói cjo biết thuộc đại tộc, tộc nào. Ở đây có hình bờm gió cường điệu (so với người thổi khèn của nhóm 6 người nhẩy múa) diễn tả bằng hình túi, nang Khôn có sọc tạo ra ba nọc Càn. Như thế phần trang phục đầu này cho biết người này là tộc Càn dương thái dương/ Khôn thái âm. Hai tay cầm khèn. Như trên đã nói đây là khèn bầu nước Khôn/ Càn tức khèn bầu thái âm mang nghĩa Càn Khôn, sinh tạo, tạo hóa. Bầu khèn hình bong bóng có viền kép tức OO, Khôn còn ba cây sậy ở đây ngắn, cường điệu là ba nọc Càn. Chữ “chấm vòng tròn” trong khèn mang nghĩa nọc nòng, Càn Khôn, sinh tạo. Khèn này là khèn Càn Khôn Cõi Trên Đại Vũ Trụ phía dương, trong khi khèn của nhóm 6 người nhẩy múa là khèn Trời Đất cõi Tiểu Vũ Trụ phía âm (xem dưới).

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, ta thấy Càn/Khôn ứng với Đế Ánh Sáng Càn Đế Minh/ Khôn Vụ Tiên.

Tóm lại khèn bầu này có bầu là bầu thái âm Khôn/Càn thái dương, là khèn Càn Khôn Cõi Trên Đại Vũ Trụ phía dương.

Đối chiếu với Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc, khèn bầu này là quả Bầu Nước-Lửa vũ trụ mầu đỏ lửa có hình mây nước trên quả bầu ở trên bàn Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc do tôi vẽ kiểu (xem hình Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc ở dưới).

Váy người này có hai vạt bằng nhau diễn tả Càn thái dương. Thật vậy trên váy có “chấm vòng tròn” dương, thái dương, Càn và có sọc không gian mang tính Khôn. Váy mang tính Càn/Khôn.

Vậy người này mang đủ nghĩa Vũ Trụ luận là đại diện cho tộc Càn/Khôn thái dương của nhánh nọc dương Càn Li.

+ Người thứ 5 sau người dẫn đầu là đại diện tộc Li/Khảm.

 

 Người thứ 5 sau người dẫn đầu của nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương biểu tượng cho tộc Li/Khảm thái dương của nhánh nọc dương Càn Li.

 Trang phục đầu như đã biết có đường nét thẳng có góc cạnh mang tính thái dương.

Phần sau gáy nói cho biết thuộc đại tộc, tộc nào. Ở đây có hình lưỡi rìu ngang chữ nhật. Búa rìu lưỡi ngang giống sừng hươu biểu tượng cho Li lửa thế gian, đất núi dương. Rìu búa, bổ là dương, ở đây lưỡi có hình chữ nhật không nhọn là rìu mang tính âm tức âm của dương tức thiếu dương Li nhưng không sắc nhọn hiệp với tính Khảm (Li Kì Dương Vương với Khảm Thần Long).

Lưu Ý:

Xin nhắc lại hình chữ nhật do vòng tròn chuyển động tức dương hóa sinh ra có một cạnh nọc que dài và một cạnh nọc que ngắn có một khuôn mặt là thiếu dương trong khi hình vuông có hai cạnh bằng nhau có một khuôn mặt thái dương.

Rõ và chắc chắn nhất là trong lưỡi rìu ngang chữ nhật này có phụ đề “vòng tròn có chấm” có một nghĩa ở đây là thiếu dương Li. Như thế phần trang phục đầu này cho biết người này là tộc Li hôn phối với Khảm. Tay phải cầm phách hay lệnh hình tháp nhọn Li thái dương thế gian, nhưng hình tháp ở đây nhỏ so với hình tháp cầm ở tay người Li/Khảm dẫn đầu nhóm bởi vì Li/Khảm ở  đây là đại diện cho tộc, còn Li/Khảm của người dẫn đầu là đại biểu cho đại tộc. Tay trái cầm gậy thẳng Càn nhưng dài nhất, thẳng như hình núi trụ diễn tả gậy Trụ Chống Trời, Núi Trụ Thế Gian. Cần lưu tâm vì Li thuộc đại tộc Li thế gian mang tính chủ nên gậy ở đây dài nhất.

Vạt sau váy có hai sọc ngắn diễn tả thiếu dương Li (hai nọc làm ra lửa) diễn tả vạt dòng Li/Khảm. Váy mang tính Li/Khảm.

Vậy người này mang đủ nghĩa Vũ Trụ luận là đại diện cho tộc Li/Khảm thái dương của nhánh nọc dương Càn Li.

Lưu ý

Hai người thứ 6 và thứ 5 này là biểu tượng cho Càn và Li nhưng ở đây là tộc, cần phân biệt với người số 1 dẫn đầu và người số 2 theo sau cũng là biểu tượng cho Li và Càn nhưng là đại tộc.

+  Người thứ 4  sau người dẫn đầu là đại diện tộc Chấn/Cấn.

Người thứ 4 sau người dẫn đầu của nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương biểu tượng cho tộc Chấn/Cấn thái dương nhánh nọc dương Càn Li.

Trang phục đầu như đã biết có đường nét thẳng có góc cạnh mang tính thái dương.

Phần sau gáy nói cho biết thuộc đại tộc, tộc nào. Ở đây  có hình đầu chim hình chữ V có một nghĩa là nước dương, vực thẳm Chấn, trong có phụ đề chữ “chấm vòng tròn” ở đây có một nghĩa là thái dương.

Như thế phần trang phục đầu này cho biết người này là Chấn/Cấn. Tay phải cầm phách hay lệnh hình núi tháp Li thái dương thế gian có hai nhánh bằng nhau nhưng hẹp mang tính Cấn (núi, đất âm). Tay trái cầm gậy khá thẳng, dài vừa phải mang tính Càn của tộc Cấn (Núi âm). Gậy này là gậy Càn mang tính Cấn. Vạt váy sau hình tháp có các sọc âm mang tính Cấn, trong khi vạt trước hình răng lược ngang nước Chấn. Váy mang tính Chấn/Cấn.

Vậy người này mang đủ nghĩa Vũ Trụ luận là đại diện cho đại tộc Chấn/Cấn thái dương của nhánh nọc âm Chấn/Đoài.

+  Người thứ 3 sau hai người dẫn đầu: đại diện tộc Đoài/Tốn.

 

 Người thứ 3 sau người dẫn đầu của nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương biểu tượng cho tộc Đoài/Tốn thái dương nhánh nọc dương Càn Li.

Trang phục đầu như đã biết có đường nét thẳng có góc cạnh mang tính thái dương.

Phần sau gáy nói cho biết thuộc đại tộc, tộc nào. Ở đây có hình cánh chim Đoài. Tay phải cầm phách hay lệnh có phần bên trái dài hơn mang dương tính là nọc (|), phần bên trái ngắn là âm nòng, gộp lại là | O, thiếu âm, bản thể của gió Đoài.

Tay trái cầm gậy Càn hơi cong mang âm tính, tay cầm ở chính giữa gậy chia gậy ra làm hai phần bằng nhau tức hai nọc thái dương mang tính thái dương của âm tức Đoài.  Đây là gậy Càn mang tính Đoài. Vạt váy sau có rất nhiều sọc nước ngang diễn tả Chấn. Vạt trước có hình cánh chim có sọc âm mang tính Đoài. Váy mang tính Đoài.

Vậy người này mang đủ nghĩa Vũ Trụ luận là đại diện cho tộc Đoài/Tốn thái dương thế gian của nhánh nọc âm Chấn Đoài.

Tóm tắt lại:

Nhóm 7 người nhẩy múa ở trên bán viên dương là những người  ngành nọc mặt trời thái dương,  nhánh  dương,  thuộc họ người Tiểu Vũ Trụ.

Họ này gồm hai ngành: ngành Nọc dương thái dương trên mặt trống ứng với phần cổ quả bầu nậm hình nọc que và ngành Nòng thái dương ở trên thuyền trên mặt nước ứng với phần bầu của quả bầu nậm hình nòng O. Ngành Nọc  dương thái dương trên mặt đất ở đây gồm có hai nhánh dương âm. Ở đây là nhánh dương Càn Li tức là nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương.

Nhóm 7 người nhẩy múa này là nhánh nọc dương gồm 6 người còn lại sau khi trừ người Vũ Trụ cuối cùng ra. Sáu người này gồm:

Hai người đại biểu cho hai đại tộc:

+ Người thứ nhất dẫn đầu Li/Khảm thế gian là đại biểu của nhánh Càn Li nói chung và có khuôn mặt mang tính chủ là đại tộc Li.

+ Người thứ 2 sau người dẫn đầu là đại biểu của nhánh Càn Li nói chung và là đại diện của đại tộc Càn/Khôn thế gian nói riêng.

Bốn người đi sau hai người đại biểu của ngành này là bốn người đại diện của bốn tộc ứng với Tứ Tượng. Đây là Tứ Dân.

+ Người thứ 3 sau hai người dẫn đầu: đại diện tộc Đoài/Tốn.

+ Người thứ 4 sau người dẫn đầu: đại diện tộc Chấn/Cấn.

+ Người thứ 5 sau người dẫn đầu: đại diện tộc Li/Khảm.

+ Người thổi khèn thứ 6 sau người dẫn đầu: đại diện tộc Càn/Khôn.

Như thế ta thấy người cuối cùng mang hình bóng Bầu Hư Vô (Vô Cực), Bầu Thái Cực, hai người dẫn dầu mang hình bóng Lưỡng Nghi và bốn người sau hai người dẫn đầu mang hình bóng Tứ tượng âm dương ứng với Bát Quái. Ta có dương Dịch nòng nọc Đông Sơn.

Xin lưu tâm, đọc theo chiều dương và theo Dịch dương, người dẫn đầu mang khuôn mặt Li thế gian cho thấy Li thế gian mang tính chủ. (Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, ta thấy đây là khuôn mặt Li Kì Dương Vương của nước Xích Quỉ thuộc họ Hồng Bàng mặt trời thế gian mang tính chủ hơn Càn Đế Minh).

Để kiểm chứng cho vững chắc thêm nữa và để dễ nhớ ta đối chiếu với Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc do tôi thiết kế (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc):

 

 Lưu Ý

 Hiện nay thường gọi sai trò chơi này là Bầu Cua Cá Cọp. Trò chơi này không có con Cọp mà có con hươu nọc, hươu cọc, hươu sừng. Hươu là hiêu, là hươu, là hưu là hèo là nọc, cọc. Hán Việt Lộc, hươu sừng biến âm với Việt ngữ nọc. Con Lộc là con nọc, con cọc (L là dạng dương hóa của N)… Con hươu sừng tiếng cổ Việt là con Cọc, con Nọc tức con hươu Việt. Vì thế phải gọi là Bầu Cua Cá Cọc mới đúng (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc).

 -Người dẫn đầu là Li/Khảm thế gian (13/10) ứng với khuôn mặt Đất dương thiếu dương của Con Gà đứng dưới đất và quay mặt về bên trái. Gà sống là con qué (gà qué), con que, con cọc, con cock, con coq, là kẻ, kì. Gà sống nhiều trên mặt đất là biểu tượng cho dương, lửa, mặt trời cõi đất thế gian, đội lốt chim cắt lửa vũ trụ Càn Viêm Đế ở cõi thượng thế, tạo hóa vì thế mới đứng dưới đất. Gà quay mặt về bên trái mang tính âm tức âm của dương là thiếu dương, bản thể của Li. Khuôn mặt này ứng với khuôn mặt Đế (Li) của Viêm Đế. Đế có nghĩa là vật chống đỡ liên hệ với Núi Trụ Chống Trời, Núi Thế Gian, biến âm với Đá, đất dương Li. Theo truyền thuyết dòng Viêm Đế là con chim Nọc dương Cắt. Đế, Li là khuôn mặt thiếu dương OI, tức Bồ Cắt (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Khuôn mặt Li đứng dưới đất quay mặt về phía trái âm của con gà tương đương với chim bồ cắt hay chim cắt đất (loài ground hornbill).

– Người đi sau người dẫn đầu là Càn/Khôn ứng với khuôn mặt Lửa thái dương của Con Gà ở trên đang bay và quay mặt về phía tay phải dương trong bàn Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc của tôi.  Gà sống là qué, que, cọc, cock, coq. Gà cũng là một loài chim mang dương tính nên gà bay biểu tượng cho lửa trời Càn vì cùng loài với chim trĩ, chim phượng. Con gà này có mào ba mấu nhọn hình đinh ba hay ba nọc tia sáng mũi mác mang tính Càn. Khuôn mặt này ứng với khuôn mặt Viêm (Càn) của Viêm Đế. Viêm  biến âm với Diêm là que quẹt lửa. Que lửa là Càn (Càn là cần, cành, là Pháp ngữ canne, Anh ngữ cane). Theo truyền thuyết dòng Viêm Đế là con chim Nọc dương Cắt. Viêm Càn là khuôn mặt thái dương II, tức Bổ Cắt  (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Khuôn mặt gà Càn có mào ba mấu nhọn tương đương với chim bổ cắt hay chim cắt lửa vũ trụ.

Dân dã Việt Nam chọn con Gà biểu tượng cho ngành mặt trời nọc thái dương thế gian tức Đế Minh cháu ba đời Viêm Đế, đội lốt thần mặt trời Viêm Đế rất chí lý vì con gà là con qué, con que, con ke, con nọc, là con chim Việt thế gian  mang dương tính sống trên mặt đất rất gần gũi với con người.

 

 Bốn người còn lại, đọc theo chiều dương từ trái qua phải ứng với Bầu Cọc Cá Cua:

+ Bầu: Người thổi khèn thứ 6 sau người dẫn đầu (trước người có trang phục đầu bầu nậm): đại diện tộc Càn/Khôn. Khèn bầu nước thái âm Khôn ứng với hình chiếc bầu trên bàn Bầu Cua. Bầu ở đây có mầu đỏ Càn. Bầu nước đỏ là Bầu Càn/Khôn mang khuôn mặt đội lốt vũ trụ, sinh tạo. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt ứng với Đế Minh/Vụ Tiên đội lốt Viêm Đế/ Thần Nông.

+ Cọc: Người thứ 5 sau người dẫn đầu là đại diện tộc Li/Khảm ứng với con Hươu trên bàn Bầu Cua. Hươu Nọc Lửa  Kì Dương Vương mang dòng máu hay đội lốt mang (mễn) tạo hóa có di thể Sừng của họ Khương của Viêm Đế (xem chương Thú Vật Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á).

+ Cá: Người thứ 4 sau người dẫn đầu là đại diện tộc Chấn/ Cấn ứng với con Cá Chép trên bàn Bầu Cua. Đây là con cá Chép Lạc Long Quân mang tính nước dương Chấn có thể hóa thành rồng Long và hôn phối với Cấn (Biển Chấn Lạc Long Quân lấy Núi Âu Cơ Cấn).

+ Cua: Người thứ 3 sau người dẫn đầu là đại diện tộc Đoài/Tốn ứng với con Cua trên bàn Bầu Cua. Con Cua này là con cua gió tức con còng gió. Đây là khuôn mặt bầu trời sinh tạo của Hùng Vương đội lốt Tổ Hùng sinh tạo tạo hóa, bầu vũ trụ, bầu trời khí gió, không gian. Con cua tương đương với con rùa vì đều có mai tròn biểu tượng cho bầu trời, vòm vũ trụ dương thiếu âm khí gió (xem Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc). Tôi đã chứng minh Hùng Vương có khuôn mặt Đoài vũ trụ khí gió (ở đây có khuôn mặt còng gió) tương đương với Phục Hy có một khuôn mặt là con rùa qui cũng có một khuôn mặt Đoài vũ trụ khí gió đi với Dịch (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

Lưu Ý

Xin nhắc lại Dịch Trung Hoa là Dịch muộn, duy tục, thế gian nên chỉ hiểu Đoài theo nghĩa thế gian là ao đầm. Dịch nòng nọc trên trống đồng nòng nọc, âm dương thiên về Vũ Trụ Tạo Sinh là Dịch cõi tạo hóa nên Đoài phải hiểu theo diện Đoài vũ trụ sinh tạo là bầu khí vũ trụ, bầu gió không gian. Đoài có nghĩa là cái túi, Anh ngữ là Tui biến âm mẹ con với Việt ngữ Túi (xem Ý Nghĩa Nôm Na của Các Từ Dịch trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Ở cõi tạo hóa cái túi biểu tượng cho bầu không gian Khôn. Túi dương tức Khôn dương là Túi khí gió Đoài vũ trụ. Ở cõi đất thế gian cái túi dương là bọc nước ấm ao đầm. Cần phải phân biệt Đoài vũ trụ với Đoài thế gian chỉ hiểu theo Dịch muộn Trung Hoa.

Ở đây ta cũng thấy rất rõ nhóm 7 người nhẩy múa ứng với Kì Dương Vương.

* Cần lưu tâm, ta thấy 4  tộc ứng với Bầu Cọc Cá Cua, tức đọc theo chiều dương trên bàn Bầu Cua ứng với dòng dương, lửa Kì Dương Vương phía mẹ Thái Dương thần nữ Âu Cơ mặt trời bình minh. Đọc theo chiều âm, chúng ta có Bầu Cua Cá Cọc ứng với Lạc Long Quân (xem dưới).

2. Cách thứ nhì đọc theo phía âm:

Hai người cuối cùng của nhóm 7 người nhẩy múa là hai người đại biểu của hai đại tộc.

Những người trong cách đọc này có thứ tự ngược với thứ tự của cách đọc trước nghĩa là ta có từ trái qua phải 10, 8, 6, 4, 2, 0. Theo âm dương hôn phối (vì trống đồng là trống âm dương) ta có:

– Hai người đại diện của hai đại tộc:

./Người thổi kèn (không kể người có trang phục đầu hình bầu nậm) là Li/Khảm thế gian 13/10. Vắn tắt cái khèn ở đây mang khuôn mặt bầu nước trời Khảm và chữ “chấm vòng tròn” trên người ở đây mang nghĩa Li. Người này là đại biểu của nhánh nọc âm Càn Li nói chung và đại tộc Li nói riêng và Li là khuôn mặt mang tính chủ.

./Người trước người thổi kèn (thứ 5) là Càn/Khôn thế gian 15/8 có phần trang phục sau đầu ở đây mang khuôn mặt âm có hình chữ nhật dạng nam hóa của O. Trong có “vòng tròn có chấm” là dương Càn. Người này là đại diện của nhánh nọc âm Càn Li nói chung và đại tộc Càn/Khôn thế gian nói riêng, có khuôn mặt Càn mang tính phụ.

– Bốn người đại diện của bốn tộc của nhánh nọc âm:

Bốn người đi sau hai người đại biểu của ngành này là bốn người đại diện của bốn tộc nhánh nọc âm ứng với Tứ Tượng.

+ Người thứ 4 là Đoài/Tốn có phần sau gáy của trang phục đầu ở đây có hình cánh tam giác, trong có hình ngữ “chấm vòng tròn” có một nghĩa là Đoài vũ trụ .

+ Người thứ 3 là Chấn thế gian/Cấn có phần sau gáy của trang phục đầu ở đây có túi có ba sọc nước có một khuôn mặt là nước Chấn.

+ Người thứ 2 sau người dẫn đầu là Li/Khảm có phần sau gáy của trang phục đầu ở đây có hình tháp Li trong có ba sọc nước Khảm.

+ Người dẫn đầu là Càn/Khôn vũ trụ có phần sau gáy của trang phục đầu ở đây có hình mỏ chim trong có phụ đề các nọc chấm lửa nguyên tạo Càn có một khuôn mặt là Càn/Khôn nhánh nọc âm.

Như thế đọc theo chiều âm ta có người dẫn đầu mang khuôn mặt Càn trong khi đọc theo chiều dương người này mang khuôn mặt Li. Nói một cách khác người dẫn đầu này có hai khuôn mặt âm dương Càn Li tùy theo cách đọc theo nòng nọc, âm dương biểu tượng cho hai đại tộc Càn Li thế gian và khuôn mặt Li mang tính chủ.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việ nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương này là nhánh Càn Li Viêm Đế thái dương, có khuôn mặt Đế Li mang tính chủ, ở họ Hồng Bàng thế gian là Li Kì Dương Vương, vua nước Xích Quỉ Người Mặt Trời, tức Bách Việt  mang tính chủ.

Cần lưu tâm

Tôi so sánh các người ở đây với Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc chỉ có chủ đích giúp người đọc dễ hiểu và dễ nhớ mà thôi, còn cách diễn tả bằng các biểu tượng của người và trên bàn bầu cua có thể có những dị biệt.


(phần 4)


 D. Những Người Đại biểu Của Nhánh Nọc Âm Mặt Trời Thái Dương: Nhóm 6 Người Nhẩy Múa ở Bán Viên Âm.

Bây giờ ta giải đọc ngành nọc âm thái dương tức nhóm 6 người nhẩy múa, trên bán viên âm của mặt trống. Số 6 là số âm, số Tốn, âm thái dương, số lão âm, lửa âm, mặt trời âm thái dương.

 Nhóm 6 người nhẩy múa ở bán viên âm.

  Những Điểm mấu chốt chính.

Ở nhóm nọc âm 6 người có trang phục đầu giống nhóm 6 người ở nhóm 7 người nhẩy múa, vì ở nhóm âm nên ta có thể suy ra ngay nhóm 6 người nhẩy múa có hai đại tộc ứng với hai số âm nằm hai bên số 6 là số 4 và số 8 theo thứ tự 4-6-8. Số 4 là Cấn theo âm Dịch hôn phối với Đoài. Đoài lưỡng hợp với khuôn mặt Li theo lưỡng hợp Tiểu Vũ Trụ và số 8 là Khôn theo duy âm có khuôn mặt dương đại diện là Chấn (Chấn chỉ là khuôn mặt đại diện). Chấn lưỡng hợp với khuôn mặt Càn theo lưỡng hợp Đại Vũ Trụ của nhóm nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương.

Như thế ở nhóm 6 người nhẩy múa ở bán viên âm này có hai đại tộc đại diện là Đoài và Chấn lưỡng hợp hai đại tộc Li và Càn của nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương.

Vì Li là khuôn mặt chủ, ta suy ra ngay Đoài/Cấn thế gian là khuôn mặt chủ của nhóm này.

1. Cách thứ nhất đọc theo phía dương: hai người dẫn đầu của nhóm 6 người nhẩy múa là hai người đại biểu của hai đại tộc.

Như đã nói nhóm 6 người nhẩy múa gồm hai đại tộc Đoài/Chấn với Đoài mang tính chủ.

Sáu người này đều có trang phục đầu giống trang phục đầu của 6 người ở nhóm 7 người nhẩy múa nhưng ở đây phía nọc âm nên các trang phục đầu này mang nghĩa nọc âm (âm nam). Theo duy âm, đây là con chim nọc âm thái dương vũ trụ. Con chim này theo phía dương quay đầu về phía phải có phần cao nhất là mũ sừng mang âm tính ứng với Chấn /Càn (lưỡng hợp) và theo phía âm đầu quay về phía trái có đuôi là hình nọc chữ nhật đứng cao nhất ở mé tận cùng bên phải của trang phục đầu.

Cũng như nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương, ta thấy ngay tức khắc 6 người này gồm có hai người là đại biểu của hai đại tộc Đoài/Chấn của nhánh nọc âm ứng với lưỡng nghi và bốn người còn lại là đại diện cho bốn tộc ứng với Tứ Tượng của phía nọc âm thái dương.

Đây là nhánh nọc âm thái dương ta suy ra ngay là đọc ngược lại với nhóm dương của nhóm 7 người nhẩy múa, tức theo chiều âm, tức từ phải qua trái hay theo chiều kim đông hồ, ta có các người theo thứ tự là 10, 8, 6, 4, 2, 0. Hai người dẫn đầu mang tính cách đại biểu nên khuôn mặt dương Đoài 11 đại diện cho Khảm 10 ta có 11/10 (Đoài/Khảm thế gian) và Chấn 9 đại diện cho Khôn 8, ta có 9/8 (Chấn/Khôn). Ở bốn tộc ứng với Tứ Tượng ta có sự hôn phối âm dương để tạo thành bát quái. Theo hôn phối âm dương theo dòng âm tức âm Dịch ta có: người thứ 6 gõ mõ là Chấn/Tốn vũ trụ 1/6,  người thứ 5 thổi khèn là Đoài/Cấn 3/4 vũ trụ, người thứ 4 là Li/Khảm 5/2 vũ trụ, người thứ 3 là Càn/Khôn 7/0 vũ trụ.

Như thế ta có:

Hai người đại biểu của hai đại tộc của nhóm là hai người dẫn đầu của nhóm:

+ Người thứ nhất  dẫn đầu Đoài/Khảm là đại biểu của nhánh nọc âm thái dương  Đoài Chấn thế gian nói chung và là đại diện đại tộc Đoài/Khảm thế gian nói riêng.

Người số 1dẫn đầu  Đoài/Khảm đại biểu của nhóm Đoài Chấn của 6 người nhẩy múa ở bán viên âm.

Trang phục có nét nọc que và có góc cạnh mang dương tính diễn tả tính thái dương.

Phần sau gáy của trang phục đầu cho biết thuộc đại tộc, tộc nào.

Ở đây phần trang phục đầu sau gáy có hình hộp vuông có nóc bằng nghiêng như mái nhà tức Đoài trong có phụ đề “chấm vòng tròn” có một nghĩa là Đoài và các sọc nằm nghiêng nước Khảm tức Đoài/Khảm. Như thế phần trang phục đầu này cho biết người này là Đoài/Khảm.

Tay phải cầm phách hay lệnh, ở đây có hình mái nhà tức vòm trời nòng mang tính thái dương  tức Khôn thái dương Đoài nghĩa là phách mang hình ảnh vòm trời thái dương hình nóc nhà chữ V úp ngược hay /\ (trong khi ở nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương phách hay lệnh có khuôn mặt Li thì có hình  núi tháp nhọn đỉnh biểu tượng núi đất thế gian).

Tay trái cầm đòng. Tổng quát đòng là khí biểu của dòng Khôn (Chấn Đoài). Ta thấy đòng ở đây có mang khuôn mặt là đòng Chấn/Đoài. Tuy nhiên, ở đây đọc theo duy dương, đòng này có khung chữ nhật có những tua hay lông chim hình gió tạt ngang Đoài và nhất là có phụ đề chữ “chấm vòng tròn” có một nghĩa là Đoài cho biết Đoài mang tính chủ. Đây là đòng Đoài/Chấn.

Vạt váy trước có những chấm dương mang tính Đoài và vạt váy sau có sọc ngang nước mang tính Chấn. Váy mang tính Đoài Chấn.

Vậy người này mang đủ nghĩa Vũ Trụ luận là đại diện cho ngành Đoài Chấn phía nọc âm thái dương và khuôn mặt Đoài mang tính chủ.

Ta thấy rất rõ người dẫn đầu của nhóm 7 người nhẩy múa là Li/Cấn thế gian thì bắt buộc người dẫn đầu của nhóm 6 người nhẩy múa này phải là Đoài/Khảm thế gian để có sự lưỡng hợp Tiểu Vũ Trụ tức ở Cõi Nhân Gian giữa thiếu dương Li với thiếu âm Đoài.

Người thứ 2  sau người dẫn đầu 9/8 Chấn/Khôn là là đại diện đại tộc Chấn/Khôn thế gian nhánh nọc âm thái dương.

Người số 2 sau người dẫn đầu là đại tộc Chấn /Khôn nhóm 6 người nhẩy múa ở bán viên âm.

Trang phục có nét nọc que và có góc cạnh mang dương tính diễn tả tính thái dương.

Phần sau gáy của trang phục đầu cho biết thuộc đại tộc, tộc nào.

Ở đây phần trang phục đầu sau gáy có hình túi xẹp lép có sọc nước mang nhiều âm tính Chấn.

Chấn ở đây theo duy âm là Chấn đại diện cho Khôn. Như thế phần trang phục đầu này cho biết người này là Chấn/Khôn.

Tay phải cầm phách hay lệnh Đoài vũ trụ hình nóc nhà. Phách hay lệnh này có hai nhánh bằng nhau là dạng thái dương hóa của hai nòng OO nước mang tính Chấn thái dương Khôn.

Tay trái cầm gậy âm khá cong mang nhiều âm tính Khôn Chấn.

Vạt váy trươc có những sọc nước ngang Chấn và vạt sau có những sọc không gian Khôn. Váy mang tính Chấn/Khôn.

Vậy người này mang đủ nghĩa Vũ Trụ luận là đại diện đại tộc Chấn/Khôn của nhánh nọc âm thái dương.

Bốn người còn lại là bốn người đại diện của bốn tộc ứng với Tứ Tượng. Đây là Tứ Dân của nhánh nọc âm.

+ Người sau cùng đánh mõ là đại diện cho tộc Chấn/Tốn vũ trụ.

Người số 6 sau cùng đại diện tộc Chấn /Tốn

.Trang phục có nét nọc que và có góc cạnh mang dương tính diễn tả tính thái dương.

Phần sau gáy của trang phục đầu cho biết thuộc đại tộc, tộc nào.

Ở đây trang phục đầu sau gáy có hình chữ V mang nghĩa nước thái dương Chấn, trong có phụ đề chữ “chấm vòng tròn” có một nghĩa là mặt trời, thái dương. Như thế phần trang phục đầu cho biết người này là Chấn thái dương. Chấn này hôn phối với Tốn theo âm Dịch (Tiên Thiên bát quái). Vậy người cuối cùng thuộc tộc Chấn/Tốn.

Tay phải cầm mõ. Đây phải là cái mõ, một thứ nhạc cụ vì tất cả những người nhẩy múa khác đều cầm trong tay các nhạc cụ như chuông ngửa chữ U, khèn, phách, lệnh thì bắt buộc người này cũng phải cầm một nhạc cụ. Chiếc mõ này có vách kép là hình hai chữ OO lồng vào nhau tức nước thái âm. Mõ âm có mái có chóp nhọn mũi mác ^ mang tính thái dương một bên nóc chóp kéo dài ra thành một ngạnh nhọn nhấn mạnh thêm ý nghĩa của dương. Như thế mõ mang nghĩa nước dương thái dương tức Chấn thái dương. Mõ có đế có chân đứng trông như cái bầu nước có hình hai giọt nước thái dương Chấn có góc cạnh (vì hiệp với tính thái dương). Mõ lửa nước là một thứ trống âm hư không vũ trụ cũng biểu tượng cho sấm mưa ăn khớp với khuôn mặt sấm mưa của Chấn vũ trụ. Tay trái cầm vật tròn (có thể là hòn đá) để gõ vào mõ. Vật gõ tròn này diễn tả chữ “nọc chấm-vòng tròn” có thể hiểu theo nhiều nghĩa. Nghĩa thứ nhất là nọc chấm sinh tạo thái dương nhấn mạnh đây là mõ Chấn thái âm mang tính thái dương giao hòa với vật gõ Càn thái dương tức càn khôn giao hòa ở cõi đại vũ trụ.

Nghĩa thứ hai nếu hiểu hòn đá “chấm vòng tròn” có nghĩa là Đoài gió dương cầm ở tay trái âm tức là Đoài âm, gió âm Tốn. Nhạc cụ này nhìn chung biểu tượng Chấn/Tốn.

Vạt váy trước hình cánh có những sọc nghiêng gió, theo duy âm, mang tính Tốn gió âm và vạt sau có những sọc nước Chấn. Váy mang tính Chấn/Tốn.

Vậy người cuối cùng này mang đủ nghĩa Vũ Trụ luận là đại diện cho đại tộc Chấn dương thái âm /Tốn âm thái dương của ngành nọc âm Đoài Chấn thế gian.

Người Chấn/Tốn này giao hòa, lưỡng hợp với người Càn/Khôn thứ 6 ở nhóm 7 người nhẩy múa ở cõi Đại Vũ Trụ thái âm với thái dương.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, ta thấy  Chấn Lạc Long Quân hôn phối với Âu Cơ Tốn O | |, tức thái dương (| |) thần nữ (O) vì thế tay phải cầm mõ bầu nước dương Chấn Lạc Long Quân và tay trái cầm vật gõ Tốn Âu Cơ.

Đối chiếu với Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc thì mõ hình bầu gió Chấn/Tốn này ứng với khuôn mặt bầu gió tức ứng bầu gió Chấn/Tốn có dải gió bay của quả Bầu Nước-Gió (khuôn mặt sinh tạo tạo hóa của Lạc Long Quân-Âu Cơ) có hình móc nước lửa, sấm trên vỏ bầu ở trên bàn Bầu Cua của tôi (xem dưới). Chấn Lạc Long Quân và Âu-Cơ có khuôn mặt bầu-nước gió này nên đẻ ra bầu trứng thế gian mang hình bóng bọc Trứng Vũ Trụ của Tổ Hùng Vương tức 100 Hùng Lang là vậy.

+ Người thứ  5 thổi khèn đại diện cho tộc Đoài/Cấn.

 

 Người số 5 sau người dẫn đầu của nhóm 6 người nhẩy múa ở bán viên âm là đại diện tộc Càn /Khôn.

 Người thổi kèn này tổng quát giống người thổi khèn Càn/khôn ở nhóm 7 người nhẩy múa, chỉ khác nhau về tính âm dương mà thôi. Ở đây nhóm âm nhóm 6 người nhẩy múa, người thổi khèn này là Đoài/Cấn. Khèn ở đây là khèn Đoài non, gió hú đầu non, tiếng khèn đầu non. Ta đã biết Đoài vũ trụ, khí gió có biểu tượng là một loài chim biết hú biết hót như gió hú. Qua bài đồng dao Bổ Nông là Ông Bồ Cắt, ta đã biết chim tu hú là chim biểu của Đoài vũ trụ (Ca Dao Tục Ngữ, Tinh Hoa Dân Việt). Vậy khèn bầu thuộc bộ gió mang tính Đoài gió dương rất chí lý.

Đoài là thái dương của âm so với khèn Càn/Khôn ở nhóm 7 người nhẩy múa là Càn thái dương của dương, ta thấy ngay khèn Đoài/Cấn mang âm tính hơn, trông giống hình con chim đang xoải cánh lướt gió.

Bầu ở đây có thể coi mang nghĩa bầu gió, bầu trời, ba cây sậy ở đây dài mang âm tính hơn là ba nọc Càn. Ở đây ba cây sậy với 3 có thể hiểu là số 3 Đoài . Rõ và tin tưởng nhất là chữ “chấm vòng tròn” trong khèn mang nghĩa Đoài. Khèn này là khèn Đoài. Đoài/Cấn là khèn Đoài Trời Cấn Đất, cõi Tiểu Vũ Trụ phía âm của phía nọc âm, trong khi khèn Càn/Khôn  ở Cõi Trên Đại Vũ Trụ phía nọc dương của nhóm 7 người nhẩy múa.

Trang phục có nét nọc que và có góc cạnh mang dương tính diễn tả tính thái dương.

Phần sau gáy của trang phục đầu cho biết thuộc đại tộc, tộc nào.

Ở đây phần trang phục đầu sau gáy có hình tua đuôi chim biểu tượng cho Đoài vũ trụ khí gió.

Vạt váy trước hình cánh chim mang tính Đoài và vạt sau có những chấm nọc dương biểu tương cho Cấn đất âm. Váy mang tính Đoài/Cấn.

Vậy người này mang đủ nghĩa Vũ Trụ luận là đại biểu cho tộc Đoài/Cấn thái dương của nhánh nọc âm thái dương Đoài Chấn thế gian.

+ Người thứ 4 sau người dẫn đầu: đại diện tộc Li/ Khảm.

Người số 4 sau người dẫn đầu của nhóm 6 người nhẩy múa ở bán viên âm là đại diện tộc Li /Khảm.

Trang phục có nét nọc que và có góc cạnh mang dương tính diễn tả tính thái dương.

Phần sau gáy của trang phục đầu cho biết thuộc đại tộc, tộc nào.

Ở đây phần trang phục đầu sau gáy có hình lưỡi rìu ngang bọc chữ nhật có “vòng tròn-chấm” có một nghĩa là Li. Như thế phần trang phục đầu cho biết người này là Li hôn phối với Khảm.

Tay phải cầm phách hay lệnh nọc mũi mác Đoài thái dương thế gian có hình núi tháp nhọn. Tay trái cầm gậy cong Chấn rất cong mang nhiều âm tính nhất vì hiệp với tính âm của nước Khảm.

Vạt váy trước hình tháp thon tròn mang tính Li dòng âm và vạt sau có những soc không gian biểu tương cho nước mưa từ trời tức Khảm. Váy mang tính Li/Khảm.

Vậy người này mang đủ nghĩa Vũ Trụ luận là đại diện cho tộc Li/Khảm thái dương của nhánh nọc âm thái dương Đoài Chấn.

+ Người thứ 3 sau người dẫn đầu: đại diện tộc Càn/Khôn.

Người số 3 sau người dẫn đầu của nhóm 6 người nhẩy múa ở bán viên âm là đại diện tộc Càn /Khôn.

Trang phục có nét nọc que và có góc cạnh mang dương tính diễn tả tính thái dương.

Phần sau gáy của trang phục đầu cho biết thuộc đại tộc, tộc nào.

Ở đây phần trang phục đầu sau gáy có hình đầu chim hay tam giác Càn trong có chấm nọc Càn, có phụ đề chữ “chấm-vòng tròn chấm” có một nghĩa là thái dương, Càn. Như thế phần trang phục đầu cho biết người này là Càn hôn phối với Khôn.

Tay phải cầm phách hay lệnh Đoài thái dương thế gian hình mái nhà to rộng nhất mang nhiều dương tính nhất tức Càn.

Tay trái cầm gậy cong Chấn dài nhất mang nhiều âm tính Khôn.

Vạt váy trước hình cánh chim có hai nọc thái dương mang tính Càn dòng âm  và vạt sau có những sọc không gian Khôn. Váy mang tính Càn/Khôn.

Vậy người này mang đủ nghĩa Vũ Trụ luận là đại diện cho tộc Càn/Khôn của nhánh nọc âm thái dương Đoài Chấn thế gian.

Tóm tắt lại:

+ Người thứ nhất dẫn đầu: đại biểu của nhánh nọc âm Đoài Chấn thế gian nói chung và là đại diện của đại tộc  Đoài/Khảm thế gian nói riêng.

+ Người thứ 2: đại diện của  đại tộc Chấn/Khôn của nhánh nọc âm thái dương Đoài Chấn thế gian.

Bốn người còn lại biểu tượng cho bốn tộc ứng với Tứ Tượng, đọc theo chiều dương thì:

+ người thứ 6 gõ mõ là  tộc Chấn/Tốn.

+ người thứ 5 thổi khèn là tộc Đoài/Cấn.

+ người thứ 4 là tộc Li/Khảm.

+ người thứ 3 là tộc Càn/Khôn.

Để kiểm chứng cho chắc trăm phần trăm và để dễ nhớ ta lại đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt. Ngành nọc âm này ứng với ngành nọc âm Lạc Long Quân dòng nước của chúng ta. Người cuối cùng cầm mõ ứng với Chấn Lạc Long Quân sấm mưa và Âu Cơ Tốn, U Cò gió “phất phơ hai giải yếm đào gió bay”. Hai người này đẻ ra người thổi khèn Đoài vũ trụ Hùng Vương. Theo diện thế gian hay lịch sử (Hùng Vương thế gian hay lịch sử) thì Tổ Hùng Vương Đoài vũ trụ sinh ra hai dòng: dòng lửa phía Mẹ Lửa Âu Cơ tức dòng Viêm Đế và dòng nước phía Cha Lạc Long Quân tức dòng Thần Nông.

Ở Cõi Tạo Hóa, theo vòng sinh tạo quay tròn, Hùng Vương thế gian là đầu cuối của vòng sinh tạo lại trở thành đầu vòng sinh tạo đội lốt Tổ Hùng tạo hóa Viêm Đế nên đẻ ra Đế Minh cõi sinh tạo thế gian rồi Đế Minh lại đẻ ra Kì Dương Vương. Kì Dương Vương đẻ ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lại đẻ ra Hùng Vương thế gian. Vòng sinh tạo xoay vần, nối tiếp mãi vì thế mà ca dao Việt Nam mới có câu:

Sinh con rồi mới sinh cha, 

Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông.

Giống như trên ở nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương ta có thể so sánh với Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc do tôi thiết kế:

Ở nhóm âm 6 người nhẩy múa ở bán viên âm này thuộc phía âm Thần Nông thái dương tức ngành con Tôm trên bàn Bầu Cua (xin lưu ý ở trên trống là Thần Nông mặt trời thái dương chứ không phải là Thần Nông không gian thái âm). Theo một truyền thuyết thì dòng Thần Nông thị là Người Có Đầu Tôm.

Vì nhóm âm, ngành âm ta phải đọc theo duy âm tức theo cùng chiều với kim đồng hồ. Ở cõi thế gian, theo chiều âm ta có Bầu Cua Cá Cọc.

So sánh nhóm 6 người nhẩy múa  này với bàn Bầu Cua. Đọc theo âm ta có:

-Người dẫn đầu đại biểu của nhánh Đoài/Chấn ứng với nòng Khôn Thần Nông tức con Tôm.

Xin giải thích một chút về con Tôm (xem chi tiết trong Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc, bacsinguyenxuanquang.wordpress.com).

Tôi vẽ con Tôm có thân  hình cong âm như vòm vũ trụ, vòm bầu trời nòng Khôn, hai càng to mầu đỏ thái dương và quay mặt về phía tay phải, phía dương nên con tôm càng này mang dương tính, thái dương biểu tượng cho âm thái dương, theo ngành lửa, dương là mặt trời âm thái dương của dòng âm, nước ứng với mặt trời thái dương Thần Nông, có một khuôn mặt đại diện là nước dương Chấn ứng với mặt trời Nước Lạc Long Quân.

Con tôm sống dưới nước ao hồ sông biển ở cõi thế gian có một khuôn mặt biểu tượng cho nước cõi thế gian nhân sinh, cho nòng, âm thế gian (xin lưu ý Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc là Dịch dân gian diễn tả các thú, vật thế gian).  Con Tôm thế gian đội lốt con Rắn, con Rồng Nước tạo hóa vì thế mà Tôm và Rồng cùng một loài có cốt nước, nhưng Tôm sống dưới cõi thế gian thấp hèn hơn rồng bay lên cõi trời. Điều này thấy rõ qua câu tục ngữ «Rồng đến nhà Tôm», hôm nay trời mưa (có nước) nên Rồng cao sang ở trên trời mới xuống đến nhà Tôm thấp hèn cõi đất thế gian.

Tôm biểu tượng cho Nòng, âm, thái âm, cho cực âm, dòng âm, Khôn, nước, phái nữ nên cũng biểu tượng cho bộ phận sinh dục nữ. Do đó dân gian Việt Nam mới ví con tôm he (tôm đỏ) với bộ phận sinh dục nữ (he là đỏ. He biến âm với hoe là đỏ như tóc hoe, mắt đ hoe, he biến âm với  là mùa đỏ lửa). Con Tôm trên bàn Bầu Cua thuộc dòng mặt trời Khôn nước thái dương.


Con tôm trên bàn Bầu Cua của tôi có ba khuôn mặt. 

Con Tôm trên bàn Bầu Cua của tôi có ba khuôn mặt. Con ở giữa biểu tượng cho cực âm thế gian ngược với con Gà biểu tượng cho cực dương thế gian trong lưỡng nghi. Cực âm là nòng (Khôn, âm) ứng với Thần Nông  có Khôn dương là thiếu âm khí gió, ứng với Đoài vũ trụ và Khôn âm là thái âm nước ứng với Chấn. Con Tôm Thần Nông cực âm nòng Khôn Đoài/Chấn này có phần đầu mầu xanh da trời, đầu có râu ria tua tủa trông như đầu tóc bờm xơm, trông như cái bờm gió biểu tượng cho Đoài vũ trụ khí gió. Như thế phần đầu con tôm biểu tượng cho Đoài/Khảm ứng với Nông. Phần đuôi mầu xanh dương nước biển có hình xoắn móc nước biểu tượng cho Chấn ứng với Thần. Con Tôm Thần Nông ở giữa này tách ra làm hai tượng Đoài và Chấn được diễn tả bằng con Tôm thiếu âm Đoài vũ trụ ở trên có mầu xanh da trời và con Tôm thái âm Chấn có mầu xanh nước biển ở dưới.

Ta thấy rất rõ người dẫn đầu đại biểu nhóm 6 người nhẩy múa nhánh Đoài/Chấn ứng với nòng Khôn Thần Nông tức con Tôm (trong khi ở nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương, người dẫn đầu nhánh Li/Càn ứng với con Gà) .

Người dẫn đầu có khuôn mặt mang tính chủ Đoài biểu tượng cho đại tộc Đoài như thế ứng với phần đầu  của Tôm Thần Nông ở giữa và dưới diện  tứ tượng ứng với con tôm khí gió Đoài vũ trụ ở trên.

-Người Chấn/Khôn số 2 đi sau người dẫn đầu ứng với khuôn mặt Chấn/Khôn của phần nửa phía dưới Thần của con Tôm Thần Nông ở giữa trên bàn Bầu Cua tức ứng với con Tôm Thần mầu xanh nước biển ở dưới.

Bốn người còn lại, đọc theo chiều âm cùng chiều kim đồng hồ ta có Bầu Cua Cá Cọc:

+ Người thứ 6 đi sau cùng đánh mõ bầu nước-gió Chấn/Tốn ứng với khuôn mặt nước-gió của cái bầu trên bàn Bầu Cua tức là cái bầu có dải gió Tốn. Ở đây bầu là Bầu Chấn/Tốn.

+ Người thứ 5 thổi khèn là đại diện tộc Đoài/Cấn ứng với con Cua trên bàn Bầu Cua. Đây là con cua đất âm ruộng đồng.

+  Người thứ 4  trước người thổi khèn là đại diện tộc Li/Khảm ứng với con cá Chép trên bàn Bầu Cua. Con cá Chép ở đây theo duy âm dòng nước là con cá Chép Nước-Lửa (Li âm). Vậy con cá ở đây theo Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc là con cá Chép Lửa nước.

+  Người thứ 3  sau người dẫn đầu là đại diện tộc Càn/Khôn ứng với con Hươu trên bàn bầu Cua. Con Hươu ở đây theo dòng âm Nước là con Mang Nước càn khôn sinh tạo vũ trụ có lông đỏ có đốm trăng trời âm dương.

Xin lưu ý Mang có một nghĩa là bầu, túi, thai (có mang là có bầu có thai) nên có nghĩa sinh tạo, tạo hóa nghiêng về phía nòng âm trong khi hươu là hèo, cọc nọc nghiêng về phía nọc dương).

Tóm tắt lại ta có:

 * Cần Lưu Tâm

 Ta thấy 4 tộc ở đây ứng với Bầu Cua Cá Cọc, tức đọc theo chiều âm trên bàn Bầu Cua vì ở đây là ngành nọc âm, phía Nước Lạc Long Quân, dòng nước lửa Biển. Và cách gọi này khởi đầu từ người gõ mõ bầu nước Chấn/Tốn cho biết nhánh này là nhánh Chấn Lạc Long Quân đối ứng với người Càn/Khôn ở nhóm 7 người nhẩy múa, nhánh Càn Li với Li mang tính chủ tức nhánh Kì Dương Vương. Như thế hai nhóm người này diễn tả người của họ Hồng Bàng thế gian gồm có hai nhánh Kì Dương Vương và Lạc Long Quân thế gian (trong đó có An Dương Vương, xem An Dương Vương trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt) là hai nhánh Lửa Nước. Vì thế Tổ Hùng 100 Hùng Lang chia ra làm hai nhánh: 50 người theo Cha xuống biển thuộc nhóm của nhóm 6 người nhẩy múa An Dương Vương Lạc Long Quân, đây là Hùng Lạc, Hùng An và 50 người theo Mẹ lên non Cấn và lên núi Kì thuộc nhóm 7 người nhẩy múa Kì Dương Vương, đây là Hùng Kì. Hùng Vương có hai nhánh Hùng Lạc và Hùng Kì.

Cần lưu tâm

.Cần phân biệt Lạc Long Quân có hai khuôn mặt: 1. khuôn mặt vũ trụ, tạo hóa, sinh tạo đội lốt Thần Nông tức Chấn Vũ Trụ (có một khuôn mặt là sấm) tương đương với Đế Minh (cả hai đều được diễn tả bằng hai quả bầu trên bàn Bầu Cua và 2. khuôn mặt Lạc Long Quân thế gian tức Chấn thế gian (Biển) tương đương với Kì Dương Vương. An Dương Vương thuộc dòng Lạc Long Quân là vậy.

.Chúng ta thường gọi trò chơi này là Bầu Cua Cá Cọc chứ không gọi theo chiều dương Bầu Cọc Cá Cua cho thấy gọi như thế là nghiêng theo dòng cha Lạc Long Quân phía An Dương Vương. Yếu tố Lạc Việt mang tính trội.

.Cách thứ nhì đọc theo phía dương: hai người cuối cùng của nhóm 6 người nhẩy múa là hai người đại biểu của hai đại tộc. Vì đọc theo dương, trên trống đồng biểu tượng nghiêng về dương (trống là đực), ở đây ta phải lấy các khuôn mặt dương đại diện cho âm thay vì những khuôn mặt hôn phối như cách đọc thứ nhất. Ta có những khuôn mặt dương đại diện của 10, 8, 6, 4, 2, 0 là 11 (Đoài thế gian) đại diện cho 10 Khảm thế gian, 9 (Chấn thế gian) đại diện cho 8 Khôn thế gian. Đầy là hai người cuối cùng đại diện cho nhánh nọc âm Đoài Chấn thế gian. Còn lại là bốn khuôn mặt dương đại diện cho bốn tộc 6, 4, 2, 0 là 7 (Càn) đại diên cho 6 Tốn, 5 (Li) đại diện cho 4 Cấn, 3 (Đoài) đại diện cho 2 Khảm và 1 (Chấn vũ trụ) đại diện cho 0 Khôn .

Xin thật vắn tắt ở đây.

-Người cuối cùng đánh mõ Đoài/Khảm thế gian 11/10. Cái mõ ở đây có một khuôn mặt túi không gian Đoài thế gian. Phần sau gáy trang phục đầu ở đây có hình mỏ chim trong có “chấm vòng tròn” có một nghĩa là  Đoài.

-Người thổi khèn Chấn thế gian 9/8. Khèn hình hai giọt nước ở đây có nghĩa là nước và “chấm vòng tròn” có nghĩa dương, thái dương. Khèn trái bầu có một khuôn mặt nước dương Chấn (tương đương với Bầu nước trên bàn Bầu Cua Cá Cọc). Phần sau gáy của trang phục đầu có một khuôn mặt là hình túi ba sọc nước Chấn.

-Người thứ 4 Càn/Tốn 7/6 có phần trang phục sau đầu, ở đây nhìn theo hình chữ nhật dạng nam hóa của O, có que nọc dương, lửa. Trong có “vòng tròn có chấm” có một nghĩa là Càn.

-Người thứ 3 là Li/Cấn 5/4 có phần sau gáy của trang phục đầu ở đây nhìn theo hình tam giác có một khuôn mặt là hình tháp đứng Li, trong có hình ngữ “chấm vòng tròn” có một nghĩa là Li.

-Người thứ 2 là Đoài/Khảm Vũ Trụ 3/2 có phần sau gáy của trang phục đầu ở đây nhìn theo hình túi có ba sọc ép sát vào gáy có một khuôn mặt là gió Đoài.

-Người thứ 1 dẫn đầu là Chấn vũ trụ 1/0 tay trái cầm đòng có các sọc trong khung chữ nhật, ở đây đọc theo chiều âm, các sọc ngang nghiêng này có một khuôn mặt nước, là đòng nước Chấn.

Cần Lưu Tâm

 Dù đọc theo cách nào thì tổng quát trong hai nhóm 7 và 6 người nhẩy múa này ngoài người cuối cùng biểu tượng hư vô Vô Cực, Thái Cực, vũ trụ, thì trong hai nhóm 6 người còn lại cũng có hai người đại biểu của hai nhánh âm dương, nội ngoại của ngành nọc thái dương ứng với Lưỡng Nghi và bốn người còn lại ứng với Tứ Tượng, nói chung là ứng với Dịch.

Vì trống biểu tượng cho dương và trống Ngọc Lũ I là trống nhóm lửa, thái dương có mặt trời thế gian 14 nọc tia sáng ứng  Đoài/Tốn thái dương nên ta ngả về cách đọc theo dương, ta có hai khuôn mặt thế gian chính là Li Đoài của hai nhánh dương âm và khuôn mặt Li mang tính chủ.

Kết Luận

Qua những người nhẩy múa trên mặt trống Ngọc Lũ I, với người cuối cùng ở nhóm 7 người có trang phục đầu hình trái bầu, ta thấy người trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I theo nghĩa tổng quát là Người Vũ Trụ, càn khôn, Người Mặt Trời-Không Gian, Người Tiểu Vũ Trụ con của Đại Vũ Trụ.

Người Tiểu Vũ Trụ ở đây mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ thuyết.

Đối chiếu với truyền thuyết Việt Người Vũ Trụ này thuộc họ Viêm Đế-Thần Nông nhất thể (một nhân vật, vì thế mới nói là Viêm Đế có hiệu là Thần Nông hay ngược lại). Viêm Đế-Thần Nông nhất thể ứng với đại vũ trụ.

Người vũ trụ có trang phục đầu hình quả bầu nậm là con cháu của Viêm Đế-Thần Nông đại vũ trụ.

Họ người Vũ Trụ chia ra làm hai hệ hay ngành nòng, âm là Vũ (Khôn, Không Gian) và hệ hay ngành nọc, dương là Trụ (Càn, Mặt Trời). Ngành nòng ứng với Thần Nông thái âm và ngành nọc ứng với Viêm Đế thái dương.

Những người trên mặt trống (12 người còn lại sau khi trừ ra người vũ trụ ở cuối nhóm 7 người nhẩy múa) đều có trang phục đầu hình chim có nét nọc que, có góc cạnh thái dương cho thấy họ là những Nguời Mặt Trời thuộc về ngành nọc thái dương.

Ngành người Nọc mặt trời trên mặt trống này ứng với phần nọc cổ quả bầu nậm nòng nọc, âm dương. Người trên thuyền ở vùng nước có trang phục đầu hình chim có nét cong thuộc về ngành nọc âm ứng với phần bầu của quả bầu. Những người trên trống trống đồng âm dương Hoàng Hạ cũng vậy (xem trống này).

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt những người này là Người Việt (Bách Việt) Mặt Trời Rạng Ngời ngành thần mặt trời Viêm Đế.

Ngành nọc dương thái dương trên mặt trống này gồm hai nhánh: nhánh nọc dương và nhánh nọc âm. Như đã thấy nhánh nọc dương gồm  hai đại tộc  Càn Li biểu thị bằng nhóm 7 người nhẩy múa và nhánh nọc âm gồm hai đại tộc Đoài Chấn thái dương biểu thị bằng nhóm 6 người nhẩy múa. Còn lại, trong mỗi nhánh có 4 người biểu tượng cho bốn tộc Càn, Li, Chấn, Đoài ứng với Tứ Tượng phía dương và phía âm nghĩa là ứng với 8 tượng, bát quái của Dịch dương.

Nhìn theo tổng thể người trang phục đầu quả bầu vũ trụ biểu tượng cho bầu Hư Vô, Vô Cực, ở tầng sinh tạo là bầu Thái Cực. Hai người dẫn đầu nhóm dương nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương ứng với cực dương, Nọc gồm lửa thái dương Càn và lửa thiếu dương Li. Hai người dẫn đầu nhón nhóm 6 người nhẩy múa ở bán viên âm ứng với cực âm, Nòng (ngành thái dương) gồm nước thái âm Chấn và khí gió thiếu âm Đoài. Đây là lưỡng nghi.

Bốn người còn lại ứng với  tứ tượng dương và âm tức bát tượng, bát quái.

Tất cả diễn tả theo Vũ Trụ thuyết và Dịch Nòng Nọc âm dương của ngành nọc thái dương.

Đối chiếu với cổ sử Việt

-Người có trang phục đầu  hình bầu nậm này chính là người cổ Việt  sinh ra từ một quả bầu âm dương, khôn càn, Vũ Trụ. Người Việt chui ra trước nên có mầu da sáng còn người Mường và các tộc khác chui ra sau có mầu da xậm.

Người Vũ Trụ đẻ ra từ quả bầu này mang hình ảnh của Trăm Lang Hùng sinh ra từ bọc trứng thế gian đội lốt bọc Trứng Vũ Trụ do bà Âu-Cơ đẻ ra. Bọc trứng tuơng đương với quả bầu, có hai khuôn mặt âm dương ứng với hai hệ nòng nọc.

Trăm Lang Hùng toàn là con trai sinh ra từ bọc trứng chim mang dương tính nên thuộc hệ nọc dương. Các Lang Hùng thuộc nhánh Người Mặt Trời của họ Người Vũ Trụ sinh ra từ bọc Trứng Vũ Trụ. Những Người Mặt Trời thái dương trên mặt trống đồng âm dương Ngọc Lũ I này chính là con cháu của Trăm Lang Hùng Mặt Trời, là Người Việt Mặt Trời thái dương.

Nhóm dương 7 người nhẩy múa ở bán viên dương ứng với nhánh nọc dương, lửa tức 50 Lang theo mẹ lên núi. Nhóm âm nhóm 6 người nhẩy múa ở bán viên âm  ứng với nhánh nọc âm, nước tức 50 Lang theo cha xuống biển.

Ta biết Li và  Đoài là hai khuôn mặt chính của hai nhóm nên những người này nhìn theo diện liên bang Văn Lang của Hùng Vương  thì Li có thú biểu là con Mang, con Hươu ứng với Văn và  Đoài có thú biểu là con Lang thiên cẩu. Hai nhóm người này là con dân của Hùng Lang nên có một khuôn mặt là con dân của liên bang Văn Lang.

Bốn người còn lại trong mỗi nhóm là bốn tộc người, là Tứ Dân ứng với tứ tượng. Tứ Dân này nằm trong Bách Việt (ngườin Trung Hoa cổ gọi những người xung quanh họ là Tứ Di: Nam Man, Đông Di…). Tứ Dân này còn thấy qua ngôn ngữ Việt:

1. Man, Mán, Mường, Mol, Mông con dân của Đế Minh, có chỗ ở gọi là Mường (bản) ứng với châu Dương, châu Mặt Trời (châu Ánh Sáng Mặt Trời, châu Minh). Man là Người-Ánh Sáng, Người-Mặt Trời, Người-Chim Lửa, Chim Cắt (mang dương tính mặt trời), người tộc Lửa trời.

2. Kẻ, con dân của Kì Dương Vương, có chỗ ở gọi là Kẻ (Quê) ở vùng núi, đất cao ứng với châu Kì. Kẻ (Kì) là Người Núi,  Người-Hươu, người tộc Đất dương.

3. Lạc, Lạc dân, con dân của Lạc Long Quân. Lạc là dạng nam hóa của Nác (nước) (L là dạng nam hóa của N, Tiếng Việt Huyền Diệu).  Lạc là người tộc Nước, ở trên mặt nước hay bên bờ nước ứng với châu Hoan (với h câm ta có Hoan = Oan có nghĩa là nước như oan ương là chim le le, một loài vịt nước). Có hai tộc Lạc và Long. Người Lạc làm ruộng nước, ruộng Lạc, có chỗ ở gọi là Nà. Người Long (long nhân, long hộ) sống trên mặt nước có chỗ ở gọi là vạn chài (thay v=o, ta có vạn = oan đọc thêm hơi vào thành  hoan, như thế vạn có nghĩa là oan, hoan là nước). Người Long sống trên sông nước là người Giao, Dao có vật tổ là Giao Long có cốt là con cá Sấu mõm dao.

4. Lang con dân của Hùng Vương thế gian. Lang là dạng dương của nang, nông có một nghĩa là là gió. Người Lang là người tộc Gió có chỗ ở gọi là làng ứng với châu Phong.


(phần 5)


 Xin nhắc lại là tôi đã chứng minh qua nhiều lãnh vực như sử sách (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt) sử miệng (Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt), sử đá (Đạo Thờ Mặt Trời của Bách Việt…),  Người Việt là Người Mặt Trời Rạng Ngời con dân của Hùng Vương, Vua Mặt Trời, di duệ của Kì Dương Vương, vua của Người Mặt Trời Xích Quỉ, Đế Minh cháu ba đời thần mặt trời Viêm Đế, ở đây chỉ xin nhắc lại bằng những hình ảnh cụ thể còn khắc ghi trên đá (petroglyph) từ hằng ngàn năm trước:

Người mặt trời khắc trên  đá cổ Sapa, Bắc Việt Nam.

Người mặt trời Lạc Việt Tráng Zhuang trên vách đá Hoa Sơn, Quảng Tây Trung Quốc (ảnh của tác giả.)

 

  Một tộc Bách Việt người mặt trời ở Quảng Tây (ảnh của tác giả)

 Và trong sử đồng Đông Sơn như thấy rất rõ trên trống Quảng Xương, Người Mặt Trời Bách Việt có hai nhánh Người Chim Cắt ứng với Tiên Âu Cơ và người Rắn Nước thái dương ứng với Rồng Lạc Long Quân:

 

Người Mặt Trời trên trống Quảng Xương.

 Người mặt trời thái dương Bách Việt trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I ăn khớp trăm phần trăm với sử sách, sử miệng (gồm cả truyền thuyết Việt), với sử đá Việt và sử đồng Đông Sơn.

Ta cũng thấy người trên mặt trống đồng âm dương Ngọc Lũ I thuộc nhánh chim cắt thái dương, chim Việt tức nhánh Tiên thần mặt trời Viêm Đế, ứng với phần nọc cổ quả bầu nậm trên trang phục đầu quả bầu nậm của người tiểu vũ trụ cuối cùng của nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương.

Nhóm phía nọc dương 7 người nhẩy múa ở bán viên dương có hai đại diện của hai đại tộc Càn Li mang khuôn mặt Viêm Đế thái dương, bốn người còn lại là đại diện 4 tộc ứng với tứ tượng Càn, Li, Chấn và Đoài của nhánh nọc dương mang khuôn mặt của Đế Minh, Kì Dương Vương, Lạc Long Quân và vị thái tổ Hùng Vương. Đây là tứ tượng dương của nhánh nọc thái dương tức Việt thái dương.

Nhóm phía nọc âm 6 người nhẩy múa ở bán viên âm có hai đại diện của hai đại tộc Chấn Đoài mang khuôn mặt Thần Nông thái dương, bốn người còn lại đại diện 4 tộc ứng với tứ tượng Càn, Li, Chấn và Đoài của nhánh nọc âm mang khuôn mặt của bốn khuôn mặt dương (nam) đại diện cho Vụ Tiên, Thần Long, Âu Cơ và vợ thái tổ Hùng Vương. Đây là tứ tượng âm của nhánh nọc thái dương tức Việt thái dương.

Tất cả ăn khớp với Vũ Trụ giáo, với Dịch.

 

B. Nhà Trên Trống Ngọc Lũ I.

 

Vành số 6 ngoài hai nhóm người nhẩy múa còn có nhà, dàn trống và cảnh giã chầy cối sát cạnh bên nhà. Nhà ở các trống cổ mang ý nghĩa biểu tượng trong khi nhà ở những trống muộn chỉ là những căn nhà ở thông thường không mang ý nghĩa biểu tượng thấy trên các trống muộn như trên các trống Vân Nam chẳng hạn hay trên các trống không chính thống.

Qua những bài trước ta cũng đã biết trống đồng âm dương chuyên chở giáo thuyết Vũ Trụ giáo, là giáo biểu của Vũ Trụ giáo, Mặt Trời giáo, như thế nhà mang nghĩa biểu tượng trên trống đồng âm dương bắt buộc phải mang ý nghĩa Vũ Trụ giáo. Do đó ta phải giải đọc các ngôi nhà trên trống đồng theo Vũ Trụ thuyết, theo Dịch, theo chữ viết nòng nọc vòng tròn-que.

Xin nhắc lại một chút về nhà biểu tượng trong Vũ Trụ giáo (xem chi tiết ở chương Ý Nghĩa Hình Nhà trong Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á).

Nhà Hư Không Vô Cực:

Theo nguyên khởi, nhà hư không biểu tượng hư không trung tính Vô Cực. Nhà hư không nhìn chung có hình một cái bọc, cái túi, cái nang, có nét cong, hình tròn. Tôi gọi chung là nhà nòng hư không.

Vì thế nhà biểu tượng cho hư không có thể là một cái hang, động, hốc núi hình tròn, hình vòm, hình túi dạ con, về sau là những kiến trúc có hình cầu tròn, hình mõ, hình vòm, có những đường nét cong vòng mang âm tính.

Hãy lấy một hai ví dụ loại nhà này.

.Cái lều tròn của các đồng bóng Mã Lai trước đây: “buổi lên đồng đích thực xẩy ra trong một cái lều tròn hay trong vòng tròn thần kỳ” (“the séance proper takes place inside a round hut or magic circle” (Mircea Eliade, tr.345) và “chúng ta tìm thấy lại cái lều tròn làm bằng lá, trong đó đồng bóng “hala” (người Sakai) hay đồng bóng “poyang” (người Jakun: một biến dạng của từ Mã Lai Á “pawing”) đi vào cùng với người phụ đồng, chúng tôi thấy họ hát cầu nguyện, triệu thỉnh các thần hồn hỗ trợ … Trong lều có hai cái tháp nhỏ có bậc cấp, dấu hiệu biểu tượng leo lên trời” (Mircea Eliade, tr.341).

.Vũ Trụ luận của người Zulu, NamPhi thấm nhuần bởi quan niệm hình tròn (Zulu cosmology is permeated by the notion of the circle) (Duly Colin, 1989) nên họ có ngôi nhà kraal hình vòm có một khuôn mặt là nhà hư vô.

Nhà vòm kraal của người Zulu, Nam Phi ( chụp tại DumaZulu, 4-2007).

.Thánh đường của Ấn giáo Hindu và Phật giáo có một tên gọi là Mandala có một nghĩa là vòng tròn (Leidy Denise Patry and Thurman A.F. Robert, 1998: 130). Vòng tròn theo nghĩa tối cao là bọc hư vô, hư không, Vô Cực.

.Chúng ta cũng như những dân tộc khác có ngôi mả đắp cao lên thành một cái mô tròn như quả cầu mang hình ảnh Hư Vô như thấy qua các ngôi mả của người Đại Hàn hay mô hình vòm, hình trứng của Việt Nam. Những sắc tộc khác ở Việt Namcũng có những nhà mồ mái vòm.

Những ngôi mả gạch của giới quyền quí, giầu sang, vương giả tìm thấy ở vùng Đông Sơn, mái cũng xây hình vòm.

Ngôi nhà mồ ở Lạc Ý (khu khai quật của M. J. W Claerys, 1934, cliché E.F.E.O).

Nhà Thái Cực, Vũ Trụ.

 Những ngôi nhà này có hình trứng hay có các yếu tố nòng nọc, âm dương còn quyện vào nhau.

Đây là dạng nhà kết hợp cái đực, nòng nọc, âm dương. Theo chính thống âm dương đề huề hai phần nòng và nọc ngang nhau. Bọc tròn nang hư không phân cực trở thành bọc âm trước rồi sinh ra thêm yếu tố dương nên phình nhọn ra hai đầu, trở thành hình trứng. Lúc này “nang” hư không biến thành  trứng vũ trụ.

Trong cổ sử Việt có nói tới Kiển Thành ở Châu Hoan (Thanh Hóa ngày nay) có hình cái kén (cocoon) tức hình bọc, hình nang, hình trứng. Từ Kiển là do Kén mà ra. Theo Đào Duy Anh, Kiển Thành, Kén Thành là tiền thân của thành Cổ Loa, tức thành của ngành nòng Nòng Việt An Dương Vương mang biểu tượng nòng hư vô, trứng vũ trụ.

Trong nhiều trường hợp khác, sự dàn trải của cả một ngôi làng diễn tả theo hình Trứng Vũ Trụ. Ví dụ: ngôi làng Dogon, Ma Li, Châu Phi có hình Trứng Vũ Trụ trong có hình người.


Làng Dogong, MaLi, châu Phi
(Duly, Colin, h.3, trang phục đầu.40).

Ở phía dương bên phải có ngôi Nhà Hội Phái Nam(tương đương với nhà Lang, nhà đình của chúng ta) ở vị trí đầu người. Điểm này cho thấy đây là xã hội nam quyền cực đoan. Cũng ở phía dương này, ngôi đền thờ hình dương vật (phallic altar) của làng trông giống linga của Ấn giáo, biểu tượng cho bộ giống phái nam. Ở phía bên trái, âm, có những ngôi nhà phái nữ khi có kinh nguyệt phải ở riêng (menstrual house) ở vị trí bàn tay của hình người. Cũng phía trái âm này có tảng đá dùng “ép dầu” biểu tượng bộ phận sinh dục nữ có hình hai vòng tròn đồng tâm (xin nhắc lại hai vòng tròn đồng tâm là chữ nòng nọc có nghĩa là âm, cái, mẹ, bộ phận sinh dục nữ……). Người Dogon có rất nhiều ký hiệu liên hệ mật thiết với chữ nòng nọc (xem chương Chữ Nòng Nọc). Tảng đá “ép dầu” thật ra là một cái cối. Cái cối bộ phận sinh dục nữ này đi đôi với cái bàn thờ dương vật có thể coi như hình chiếc chầy biểu tượng bộ phận sinh dục nam.

Hiển nhiên ngôi làng chuyên chở Vũ Trụ luận.

.Hình ảnh nòng nọc, âm dương kết hợp trong kiến trúc thờ tự của vũ trụ giáo đã ảnh hưởng đến các tôn giáo lớn sau này, ví dụ điển hình là các tháp chedi (stupa) của Phật giáo. Tháp hình chuông có cán úp là dạng biến thể của hình bầu nậm. Phần đáy hình chuông úp là nòng và trụ cột nhọn phía trên là nọc, kiến trúc bên trong diễn tả Tam Thế (xem dưới).


 
Hình tác giả chụp trước những tháp chedi, ở Burrabodur, Nam Dương.

 Tượng Phật ngồi bên trong các tháp này cho thấy Phật sinh ra từ Bầu Vũ Trụ, Đấng Vũ Trụ.

Các nấm mồ cũng coi như là một ngôi nhà của người chết cũng mang ý nghĩa biểu tượng âm dương, Vũ Trụ thuyết. Các nấm mồ của dân dã ViệtNam hình trứng, dưới diện nòng nọc, âm dương nhất thể cũng có một khuôn mặt là Trứng Vũ Trụ, thái cực.

Nhà Lưỡng Nghi:

Bọc trứng nang thái cực phân cực thành cực cái, cực nòng và cực đực, cực nọc. Nhà thái cực phân cực ra nhà cái, nhà nòng và nhà đực, nhà nọc.

-Cực âm: Nhà Nòng, cái (Female house), âm, không gian.

Nhà nòng cái là nhà nương, nhà nường, nhà nàng, nhà cõi âm, có thể có những biểu tượng như dòng nước, rắn, trăn nước, cái vò, cái bình, cối,  vải… mang tính thuần âm.

Một vài ví dụ về nhà nòng cái:

-Người Thái đen có ngôi nhà cái, nhà mẹ gọi là “hươn me” (Tạ Đức tr. 115).

-Nhà nữ của một tộc Papua, ở New Guinea hình tròn có mái hình vòm.

Một ngôi nhà nữ ở làng Chimbu, Dirima, cao nguyên miền đông ở Papua-New Guinea (hình 70, Duly, Colin tr.74).

Nhà nòng cái có thể là nhà mái vòm.

Nhà cái của người Navajo làm bằng cách chồng các thân cây lên nhau nhỏ dần thành hình vòm, sườn thường có sáu vách hay hơn. Nhà cái hình vòm dùng làm nơi tế lễ và cho tất cả các hoạt động khác (Arlene Hirschfelder, Paulette Molin, The Encyclo- pedia of Native American Religions, tr. 121).

Nhà cái Hogan của người Navajo có hình vòm (Arlene Hirsch- felder, p.121).

Nhà nòng cái có hình rắn:

Ngôi nhà dài hình con rắn như ngôi nhà rông của người Giẻ ở Tây nguyên (Maurice Albert- Marie, 221).

-Cực dương Nhà Nọc, đực (Male house), dương, mặt trời.

Nhà đực, nhà nọc, đực nói tổng quát hình trụ nọc, tháp nhọn hay  có mang những biểu tượng của đực, cha, nam, lửa, dương, cực dương… cần phải dựa vào các chi tiết thuần dương lửa, chim dương, hươu, dao, mác, giáo, trống…

Nhà nọc, đực là nhà cọc, là nhà nạng, nhà lang, nhà chàng, nhà đinh, nhà đình…

Một vài ví dụ về nhà nọc, nhà đực, nhà lang, nhà đình:

.Nhà lang của người Mường là một ví dụ điển hình.

.Người Thái đen cũng có nhà đực, nhà cha đối ứng với nhà mẹ “hươn me”.

.Người Navajo cũng có nhà đực đối ứng với nhà cái.

Nhà đực được dựng bằng ba cây cọc có chạc cột vào nhau ở phần trên nóc, nhà đực có nóc nhọn.

.Nhà đình của Việt Nam cũng thuộc là loại nhà nọc, nhà đực, nhà cha. Đình biến âm với đinh có nghĩa là vật nhọn (nail) và cũng có nghĩa là con trai (bachelor). Đình là nhà nọc nhọn, nhà đực, nhà lang, nhà con trai, nhà tráng đinh, nhà Việt. Nhà lang, nhà đinh, nhà đình là nhà tổ của Người Việt Mặt Trời thái dương mang trọn vẹn ý nghĩa của Vũ Trụ giáo, Mặt Trời giáo (xem Qua Đình Ngả Nón Trông Đình, trong Ca Dao Tục Ngữ, Tinh Hoa Dân Việt).

.Tháp bút như các tháp ở Nam Dương, tháp Champa ở miền Trung Việt Nam.

.Ngôi nhà Đực của người Dayak có hình trụ nọc hình tháp bút.

.Những ngôi nhà lang ở New Guinea thường được biết dưới tên gọi theo tiếng “bồi” Đức là “haus tambaran” (nhà trống). Những ngôi nhà này không nhất thiết là có hình trống mà chỉ có để trống, các vật hình trống hay trang trí hình trống. Chẳng hạn như haus tambaran của New Guineaở khu Sepik River được dùng làm hình bìa của quyển sách The Houses of Mankind của Colin Duly.

Haus tambaran của New Guinea ở khu Sepik River.

Những cột nhà bên trái trang trí bằng những hình trống. Mái nóc nhọn hiển nhiên đây là nhà đực nhà lang, nhà “trống”.

Nhà tráng  niên (bachelor’s house), nhà phái nam (men’s gouse) của Nam Dương cũng trang hoàng trống:


Nhà phái nam ở Nam Dương có trang hoàng 5 cái trống (
Colin Duly).

Lưu ý mặt trống có hình mặt trời cho thấy nhà trống này là nhà trống, nhà mặt trời, nhà nọc, nhà đực, nhà dương, nhà phái nam, nhà lang, nhà đình,

Đền Hùng Vương  cũng có để trống đồng cho thấy đền Hùng Vương là nhà thờ Vua mặt trời, đền mặt trời, đền trống, đền đực, đền Hùng (Hùng có một nghĩa là Đực, Mặt Trời) (xem dưới).

Qui luật về nhà trống

Ta rút ra một qui luật rất quan trọng là tất cả các nhà, ngay cả ở trên trống đồng âm dương, nếu có để trống, vật hình trống hay trang trí hình trống đều là những nhà có dương tính tức là nhà nọc dương: nhà trống, nhà lang, nhà phái nam, nhà mặt trời hay là nhà nòng dương: nhà nòng vũ trụ dương, nhà cái ngành dương tức nhà dương, nhà nội của dòng âm, ngoại, nhà mặt trời nòng dương hay mặt trời nọc âm đại diện cho phía nòng nữ.

.Như đã biết chim mang dương tính có một khuôn mặt là biểu tượng cho nọc, lửa thái dương, mặt trời. Nhà chim ở một khía cạnh nào đó cũng mang biểu tượng cho dương, cực dương

Người Katu có căn nhà thiêng liêng trên nóc có hình con chim mang dương tính, chim mỏ cắt.

Căn nhà thiêng liêng của Người Katu trên nóc có hình con chim đực, chim sừng, mỏ cắt.

Chú ý hình chim này đầu có mào hay mũ sừng hình nọc nhọn biểu tượng cho dương, lửa, mặt trời. Con chim cho ấn tượng nhiều về con chim cắt. Đầu chim quay về phía tay phải tức quay về phía chiều dương. Đây là con chim dương, biểu tượng dương. Đuôi chim cũng vểnh lên thành hình nọc. Đầu nọc (|), chim, đuôi nọc (|) nghĩa là chim thái dương (||). Lưng chim là đường sống nóc nhà có hình nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) biểu tượng lửa, thái dương… Như thế ngôi nhà này tổng quát là ngôi nhà biểu tượng nọc dương, ngành dương, với đường nóc  lửa thái dương. Ở một diện, đây là nhà cực dương.

( Phần 6 )

Nhà Tứ Tượng

Nhà có thể mang tất cả ý nghĩa của Tứ Tượng hay của từng Tượng riêng rẽ.

.Biểu tượng chung cả Tứ Tượng

Phần lớn các kiến trúc tôn giáo mang ý nghĩa biểu tượng chung cho Tứ Tượng và ngay cả các kiến trúc biểu tượng riêng cho các Tượng riêng rẽ cũng bao gồm ý nghĩa Tứ Tượng riêng của Tượng đó.

-Nhà nọc tượng lửa trời, lửa dương:

Những kiến trúc trụ nhọn, nọc nhọn, hình tháp bút như tháp Champa, hình chim mang dương tính nhiều cũng có thể mang hình ảnh nhà nọc lửa. Người Katu có ngôi nhà có đường nóc hình chim nói trên, ở một diện nào đó cũng có thể là nhà biểu tượng của tượng lửa.

Nhà tượng lửa có hình dáng tổng quát giống nhà vũ trụ dương, nhà đực và nhà đất dương cần phải dựa vào các chi tiết khác để nhận diện.

-Nhà Nọc tượng Nước dương.

Nhà nọc tượng Nước dương mang khuôn mặt nam là nhà mang biểu tượng nội, cha của dòng nước. Nước dương có nhiều khuôn mặt như cá sấu, thuồng luồng, giao long, ngày nay là rồng nước, naga, thuyền, trâu nước, trăng lưỡi liềm… vì thế nhà nọc biểu tượng của Nước dương có thể là nhà mái lõm trăng lưỡi liềm, hình thuyền, hình sừng trâu…, hay có đường mái hình rắn dương, thuồng luồng, rồng nước, naga…

.Nhà cá sấu, thuồng luồng, rồng nước, naga:

Rắn nam hóa, dương hóa thành thuồng luồng, rồng. Nhà nước thuần âm rắn nước nam hóa thành nhà thuồng luồng, nhà rồng nước. Nhiều khi nhà kiến trúc theo dạng nhà thường nhưng mái hay đầu mái mang biểu tượng rắn, rồng nước ví dụ các nhà cổ truyền Thái Lan nhất là các nhà thờ phượng, đền thờ các đầu hồi, bờ nóc có hình rắn naga. Naga được coi như một loại rồng nước (cũng xin nhắc lại là người Thái Tày Âu thuộc họ nòng Lạc Long Quân Âu Cơ, liên hệ với An Dương vương Âu Lạc).

 

Cung Điện Mùa Hẻ  (Summer Palace) của vua Thái Lan đầu mái có hình naga (ảnh của tác giả) .

Đền Thần Đạo Nhật Bản có viền nóc cửa hình vòm cong dòng nòng âm, nước, con cháu của thái dương thần nữ Amareterasu.

                       

                                                              Đền thờ Nhật Bản có mái cửa hình vòm. Lưu ý bên trên có hình mặt trời nữ hình hoa cúc 16 cánh biểu tượng của thái dương thần nữ Ameraterasu (số 16 là số Khôn tầng 3 mang âm tính thái âm dòng nòng, nước).

Các đình chùa Việt Nam ngày nay mái thường thấy trang trí hình rồng. Cần phân biệt là rồng gì, nếu là rồng nước thì là di duệ của linh thú nước nguyên thủy là rắn nước, cá sấu, thuồng luồng, thuộc tộc Lạc Long Quân Giao Việt (còn nếu là rồng gió thì thuộc tộc Hùng Vương Đoài vũ trụ).

.Nhà mái hình trăng lưỡi liềm:

Trăng cũng có hai khuôn mặt âm dương: chị Hằng với khuôn trăng đầy đặn, mặt tròn vành vạnh hình chữ nòng O tức nường, nàng và ông trăng với khuôn mặt lưỡi liềm hai đầu nhọn lửa, thái dương. Nhà biểu tượng cho Nước dương có mái lõm cong như trăng lưỡi liềm. Đây là ngôi nhà thiêng liêng của tộc trăng Nước dương. Ngôi đình của chúng ta có mái hai đầu đao nhọn cũng giống hình trăng lưỡi liềm. Ta có truyền thuyết Lạc Long Quân có một khuôn mặt là ông trăng mà lấy bà giời Âu Cơ (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Tuy nhiên trên mái phải có kiến trúc hình trăng thì mới khẳng định được là nhà thiêng liêng của tộc Nước dương.

.Nhà mái hình sừng:

Nhà mái hình võng hai đầu cong vểnh lên cũng có thể là biểu tượng của sừng trâu, sừng bò. Nhiều khi phải dựa vào các trang trí sừng trâu ở đầu hồi hay trong nhà để xác quyết. Các tộc ở Nam Dương như Menangkerbau (kerbau: trâu), Batak… cũng có những nhà rông mái hình sừng trâu, ví dụ: ngôi nhà làng Batak.

Chi tiết mái hình võng của một ngôi nhà lớn tiêu biểu của người Batak, Nam Dương, dưới đầu hồi có để các trống thờ có mặt trống hình mặt trời  và chạm trổ trang trí ở cột chính có biểu tượng sừng trâu (Colin Duly, p.93).

Lưu ý là sự hiện diện của các trống cho biết đây là nhà trống, nhà đực. Các trống ở đây hình trụ nọc biểu tượng lửa trời, thái dương, có hình mặt trời ở mặt trống cho biết tộc này thuộc chủng mặt trời thái dương. Sừng trâu cho biết thuộc tộc Mặt trời nước, chi đất nước, làm ruộng nước.

Nhà mái võng trên trống đồng Đông Nam Á cũng cần phải nghĩ đến ý nghĩa sừng trâu này. Đây là ngôi nhà thiêng liêng của tộc trâu dòng Mặt trời nước, đất âm ruộng nước. Loại nhà này mang hình bóng ngôi đình của Lạc Việt ruộng nước Lạc điền. Dĩ nhiên cần phải dựa vào những chi tiết khác nhất là những chi tiết về trâu.

.Nhà mái võng hình thuyền

Thuyền chuyên chở một ý nghĩa biểu tượng cho nước. Thuyền biểu tượng cho nước thuần âm có hình tròn tức thuyền thúng, hình rắn, hình cá. Thuyền biểu tượng cho Nước dương có hai đầu nhọn, nhiều khi cong vòng lên hình võng nghĩa là cũng giống hình trăng lưỡi liềm, hình sừng. Các tộc duyên hải đông nam Trung Hoa, tức thuộc địa bàn cũ của Bách Việt, các ngôi nhà biểu tượng cũng có mái lõm hình thuyền.

Nhà cách mạng  Xu Xiling (Zhejiang), Dongpu Zhen, Shaoxing xian (Knapp, Ronald G. tr.100).

Dĩ nhiên ngày nay người Trung Hoa có thể có những diễn giải khác nhưng với gốc ở bờ nước và thuộc địa bàn Bách Việt sông nước thì mái võng hình thuyền phải liên hệ với tộc mặt trời nước. Lưu ý sự hiện diện của hai chiếc thuyền ở trước nhà cho thấy rõ họ thuộc tộc thuyền nước.

Đôi khi giản dị hơn trên nóc nhà chỉ có kiến trúc  hình thuyền như:

.

Nhà cộng đồng của người Lạc Việt Tráng Zhuang ở Quảng Tây, Trung Quốc có kiến trúc hình thuyền trên mái (ảnh của tác giả chụp tại Làng Văn Hóa Sắc Tộc Nam Ninh) .

Tháp Chăm loại dương thường hình tháp bút nhưng loại âm mái cũng có hình thuyền.

Tháp Chăm ở Mỹ Sơn Hội An có mái hình thuyền. 

Lưu ý người Chăm theo mẫu hệ thuộc dòng nòng, mẹ, Khôn  có hai nhánh chính phía Khôn dương thiếu âm (khí gió) là nhánh Cau và phía Khôn âm thái âm (nước) là nhánh Dừa.

Nhiều khi trang trí những vật biểu của Nước dương như thuồng luồng, cá sấu, rắn nước có sừng như thấy trên các thuyền Đông Sơn. Ngày nay thường phụ đề thêm thành thuyền rồng… Đây là ngôi nhà thiêng liêng của tộc sống bồng bềnh trên sông nước, sát bờ nước thuộc tộc “người ở nước”, ”long nhân”, “long hộ”… Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt ứng với khuôn mặt Giao Việt.

* Cần lưu tâm

 Nhà Tượng-nước có hình dáng tổng quát giống nhà Vũ trụ âm và nhà Nòng, Cái phía dương, cần phải dựa vào các chi tiết đặc thù để xác định.

Phải hiểu một cách tổng quát là nhà có mái hình võng (hình cung, hình thuyền, hình trăng lưỡi liềm, hình sừng trâu) chỉ có nghĩa là nhà thuộc ngành âm. Phải dựa vào các chi tiết khác mới biết rõ đó là nhà thái âm nước hay thiếu âm gió.

-Nhà tượng Đất dương hay đá-núi.

Nhà biểu tượng cho tượng Đất dương (núi) có hình:

.Hình núi nhọn đỉnh ví dụ như đền thần mặt trời ở Khajuraho, Ấn Độ làm theo hình núi thiêng liêng Kailasha ở Himalaya.

Đền mặt trời ở Khajuraho, Ấn Độ làm theo hình núi thiêng liêng Kailasha, nơi sinh ra thần Shiva có biểu tượng chính là linga ở Himalaya .

Machu Picchu, “the Lost City of Incas’, ở trên đỉnh cao rặng núi Andes, nơi có đền thờ Mặt Trời của người Incas hình trụ tròn:

Đền thờ  Mặt Trời của Incas ở Machu Picchu trên rặng núi Andes (ảnh Michelle Mai Nguyễn).

Andes gốc từ Incas ngữ Inti có nghĩa là phía mặt trời mọc, phương đông nơi mặt trời mọc, được nhận diện với mặt trời. Tại Machu Picchu, nơi có đền thới Mặt Trời nằm dưới ngọn núi hình trụ nọc nhọn đầu trong rặng Andes:

Machu Picchu (ảnh của tác giả)

.Những kim tự tháp Ai Cập là một thứ nhà mồ của vua chúa cũng là loại nhà biểu tượng núi tháp, đất dương mang biểu tượng đường lên trời. Một vài tháp Aztec mang biểu tượng mặt trời núi.

-Nhà tượng Khí, Gió dương:

Như đã biết khí gió là phần nhẹ, phần mang dương tính của nòng hư không, tròng trong của Trứng Vũ Trụ vì thế nhà biểu tượng của Khí gió dương là nhà nòng thiếu âm nghĩa là nhà hình tròn hay có mái hình vòm trời, hình tán lọng, nóc dù. Nhà nòng gió thiếu dương cần phải phân biệt với các loại nhà nòng khác, phải dựa vào những yếu tố thiếu âm khí gió. Như đã biết chim mang nhiều dương tính biểu tượng cho dương, lửa nhưng chim mang ít âm tính, nhất là cánh chim cũng có thể biểu tượng cho gió. Một ngôi nhà nòng có chim đậu trên vòm nóc có thể là ngôi nhà biểu tượng cho gió. Ví dụ nhà vòm trên nóc có hình chim của người Katu.

Nhà vòm trên nóc có hình chim của người Katu, theo Maurice.

 So sánh với nhà Katu nóc có hình chim ở trên ta thấy căn nhà này có mái hình vòm. Vậy căn nhà này là nhà nòng, có thể biểu tượng nòng Khôn, nhà nòng cái, nhà nòng tượng nước hay khí gió. Căn nhà nòng này hình trụ trông như cái nấm hay cái dù nghiêng về khí gió. Con chim quay về bên trái nên là chim mang tính âm. Rõ ràng con chim này là chim thiếu âm vì không có mào, đuôi hình nọc vểnh nghiêng xéo lên trời mang âm tính tức dương của âm hay thiếu âm khí gió nhưng không cường điệu đâm thẳng đứng lên trời như con chim ở nhà nọc đã nói ở trên. Như thế nhà này là nhà nòng hư không dương hay nhà biểu tượng khí gió.

Tóm lại nhà biểu tượng cho tượng khí gió có hình dáng tổng quát giống nhà nòng vũ trụ âm, nhà nòng cái và nhà nòng nước dương cần phải dựa vào các chi tiết khác để nhận diện.

Hình bóng bốn loại nhà biểu tượng cho Tứ Tượng còn thấy rõ trong phong thủy của người Trung Hoa ngày nay.

Bốn loại nhà trong phong thủy của người Trung Hoa.

Trước hết bốn loại nhà này đều có hình trụ đứng tức hình nọc cho biết đây là tộc dương. Nên biết người Trung Hoa gốc võ biền, theo chế độ phụ hệ cực đoan và Chu Dịch là Dịch dương. Vì thế phong thủy Trung Hoa cũng theo dương, nên chọn nhà dương. Mái nhà khác nhau cho biết ứng với các tượng khác nhau. Từ trái qua phải, căn nhà ở đầu tận cùng bên trái có mái hình nóc dù, hình nón tròn trên cùng có hình quả bầu ứng với bầu trời là căn nhà biểu tượng cho tượng gió, Đoài. Căn nhà mũi đao có ba mấu nhọn biểu tượng nọc nhọn tức tượng lửa. Ba mũi nhọn là ba nọc, ba hào dương (| | |), tức Càn. Căn nhà mái bằng, thấp hơn ba căn nhà kia có âm tính nhất tức tượng nước dương, Chấn. Nhà lại có hình chữ nhật biểu tượng nước dương. Đây là căn nhà ứng với tượng nước dương. Thật vậy, trên mái có vẽ hình đầu “lưỡi tầm sét” nước lửa, trên cánh cửa có hình sóng nước hay vẩy cá biểu tượng nước dương. Căn nhà thứ tư có hình trụ cao nhất, mái bằng hình trụ chống biểu tượng cho Núi Trụ Chống Trời, Núi Trụ Thế Gian tức tượng đất dương.

Nhà Vũ Trụ Giáo, Tam Thế

Nhà loại này mang đủ âm dương tứ tượng, mang ý nghĩa tạo hóa, sinh tạo trọn vẹn.

Những ngôi nhà “trulli” ở Alberobello, Bari, Italia, có nguồn gốc từ thủa xa xưa, trên nóc nhà có các chỏm nóc khác nhau và có các hình biểu tượng mang ý nghĩa Vũ Trụ luận.

Nhà trulli ở Alberobello, Bari, Italia (Post Card, Alberobello, La Città del Trulli, 1997).

Nhà có thể có hình dạng của:

.Con rùa (nhà nòng rùa).

Nhà rùa của Mường Việt cổ là một ví dụ điển hình. Theo thần thoại Mường thần rùa đã dậy con người làm nhà. Thần bảo nhìn người rùa mà bắt chước làm nhà. Mái nhà là mu rùa, bốn chân là cột cái, sườn dài sườn cụt xếp làm rui…

Mu rùa là âm, đầu rùa là dương, bốn chân là tứ trụ, tứ tượng, tứ hành, bốn Nguyên Sinh Động Lực chính tạo sinh ra vũ trụ muôn loài. Nhà rùa hiểu theo nghĩa tổng quát biểu tượng cho âm dương tứ tượng nhà tạo hóa, vũ trụ. Vì thế rùa liên hệ với Dịch, với Âm Dương, tứ hành, rùa đi với “Lịch Rùa” của Việt Thường (thật ra là nguyên thể của Việt Dịch Nòng Nọc), với Dịch Phục Hy. Con rùa hộp khi thu chân và đầu vào hộp có hình nòng hư không, Vô Cực, hình Trứng Vũ Trụ, Thái Cực. Khi thò đầu dương (qui đầu) ra, mang hình ảnh nòng nọc âm dương, Lưỡng Nghi. Khi thò bốn chân ra mang hình ảnh tứ trụ, Tứ Tượng. Nhà rùa có mái là mai hình vòm biểu tượng hư không tức cõi trên, phần mai dưới bụng bằng phẳng là cõi bắng, cõi giữa thế gian, phần dưới mai là cõi dưới. Con rùa mang đủ tất cả giáo thuyết Vũ Trụ tạo sinh. Điều này thấy rõ theo Vũ Trụ tạo sinh của Ấn Độ, vũ trụ được khai sinh ra trên lưng rùa.

Đó là nhà rùa hiểu theo nghĩa tổng quát, nhưng cũng cần lưu ý là rùa cũng là biểu tượng cho từng ngành, từng tượng dòng nòng.

Cần phải phân biệt từng loại rùa như rùa bọc, Hán Việt qui có nghĩa là tròn, bọc biểu tượng cho khí gió, hư không thấy qua các truyền thuyết như trong tứ linh của Trung Hoa là Long Lân Qui Phượng (Long ứng với nọc nước, Phượng ứng với nọc lửa, Li ứng với nọc đá, đất dương, Qui ứng với nọc gió)….

Trên trống đồng âm dương các nhà nòng có mái hình vòm mang hình dáng của nhà nòng rùa này.

Nhà vòm Hogan như đã nói ở trên liên hệ mật thiết với triết lý tạo sinh vũ trụ. Các phần của nhà Hogan tương ứng với các cấu thể của vũ trụ. Ví dụ nền đất tiêu biểu cho Mẹ Đất, mái vòm tròn biểu tượng cho Cha Trời. Nhà vòm hogan có bốn cột tượng trưng cho bốn núi thiêng liêng ứng với Tứ Tượng. Cửa hướng về hướng đông nơi mặt trời mọc, các lời cầu nguyện và câu hát cầu xin khởi xướng từ hướng này. Khi nhà cất xong, một bếp lửa được đốt lên ở giữa nhà. Bếp lửa là trái tim hồng của nhà (giống người Ainu). Bếp lửa này chính là lò lửa ta thấy dưới sàn những căn nhà trên trống đồng âm dương như trống Ngọc Lũ I và các trống họ hàng. Sau khi làm nhà xong nhà được khánh thành theo nghi thức cổ truyền…

.Nhà Cây Vũ Trụ.

Ngoài ra âm dương tứ hành tạo ra vũ trụ, Tam Thế thường biểu tượng bằng Cây, Nấm Vũ Trụ. Do đó về hình dạng nhà Tam Thế nhiều khi có hình Cây Vũ Trụ, ví dụ như:

.Chùa một cột của Việt Nam có một khuôn mặt là nhà Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống).

.Nhà mồ một cột của người Kayan:

Nhà mồ một cột của người Kayan (theo Waterson).

.Nhà kiến trúc ba tầng:

Ngày nay các ngôi nhà thiêng liêng như nhà đình của chúng ta cũng còn mang hình bóng nhà Tam Thế. Thật vắn tắt ta thấy các đình cổ thường xây cất theo kiểu nhà sàn ví dụ như đình Đình Bảng, đình Tràng Kênh ở Hải Phòng. Nhà sàn ở một khía cạnh nào đó mang biểu tượng tam thế. Những đình xây sớm như Tây Đằng, Chu Quyến, Mông Phụ… thường có một gác lửng thờ thần thánh, tổ tiên ứng với Cõi Trên, Cõi Trời. Gian đình là Cõi Giữa thế gian nơi thờ phượng các thánh tổ, thánh nhân cõi thế gian và là nơi hội họp. Sàn đình của các chùa này gồm một phần giữa lõm xuống hai bên cao lên như hình lòng thuyền là cõi nước dương. Dưới gầm sàn là Cõi Dưới, Cõi Âm. Những đình này mang biểu tượng Tam Thế. Bên ngoài đình thường có cái ao mang biểu tượng âm đi với đình mang biểu tượng dương. Trước cổng đình có bốn trụ cột mang biểu tượng Tứ Tượng. Âm dương tứ hành chuyển hành sinh ra Cây Đời, Cây Tam Thế. Cây Vũ Trụ, Tam Thế, Cây Đời được biểu tượng bằng một cây đa hay một cây cổ thụ trồng bên đình. Tóm lại nhà đình của chúng ta có nguồn gốc từ thời thái cổ. Đình là nhà đinh, nhà lang, là Nọc, nhà Việt, nhà mặt trời, là ngôi nhà thiêng liêng của họ Nọc Việt mặt trời thái dương mang ý nghĩa của Vũ Trụ giáo, Mặt Trời giáo. Đình là hậu thân của nhà Lang thời Hùng vương. Nguyên thủy đình là một thứ nhà thờ mặt trời. Phải dựa vào hình dạng của đình, của mái và các trang trí khác để biết đình của chi nào… Những đình của Việt Nam ngày nay có mái lõm hình thuyền, hình sừng trâu, hình trăng lưỡi liềm là những ngôi đình của dòng Việt Mặt trời nước Lạc Long Quân (xin đọc thêm bài “Qua Đình Ngả Nón trông Đình”, Ca Dao Tục Ngữ, Tinh Hoa Dân Việt).

./Nhà tổ Toraja, Nam Dương mang ý nghĩa vũ trụ ba tầng:

Cấu trúc một ngôi nhà tổ vũ trụ ba tầng Toraja, Nam Dương.

./ Tháp Chedi của Phật giáo

Như đã nói tháp Chedi có hình chuông có cán để úp có hình dạng biên thể của quả bầu nậm nòng nọc, âm dương mang trọn vẹn Vũ Trụ giáo. Bên trong tháp có kiến trúc cây Tam Thế.

Tóm lại nhà biểu tượng, những kiến trúc tín ngưỡng, dưới một diện tôn giáo, mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ Giáo, Dịch lý.


(Phần 7)



Ý NGHĨA NHỮNG HÌNH NHÀ TRÊN TRỐNG ĐỒNG ÂM DƯƠNG NGỌC LŨ I.

Nhà trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là nhà mang ý nghĩa biểu tượng. Ta cũng đã biết trống đồng âm dương chuyên chở giáo thuyết Vũ Trụ giáo, là giáo biểu của Vũ Trụ giáo, Mặt Trời giáo, như thế nhà mang nghĩa biểu tượng trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I bắt buộc phải mang ý nghĩa Vũ Trụ giáo.

 

Một căn nhà nòng và một nhà nọc trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

Đây là những nhà thiêng liêng, nhà tổ, nhà thờ mang ý nghĩa tín ngưỡng, nòng nọc, âm dương, Vũ Trụ giáo, Đạo Mặt Trời, bang biểu, ngành, đại tộc, tộc, chi biểu. Do đó ta phải giải đọc các ngôi nhà trên trống đồng âm dương  Ngọc Lũ I theo Vũ Trụ thuyết, theo Dịch, theo chữ nòng nọc. Dựa theo những điều đã thấy ở các ngôi nhà nói một cách tổng quát trong Vũ Trụ giáo đã nói ở trên, ta thấy ngay nhà trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có hai loại: nhà âm hay nhà nòng có mái hình vòm và nhà dương hay nhà nọc mái có những phần hình nọc dương.

Cần lưu tâm:

Nhà và các kiến trúc thờ phượng là biểu tượng của con người, nói một cách khác các trống có nhà là các trống thế gian, Cõi Giữa, Cõi Nhân Sinh. Nhìn thấy một trống đồng âm dương có nhà trên mặt trống, ta biết ngay trống đó có một khuôn mặt chính là trống Thế Gian, Cõi Giữa, Nhân Gian nghĩa là trống có mặt trời có số nọc tia sáng bằng hay hơn 8.

NHÌN TỔNG QUÁT VỀ NHÀ TRÊN TRỐNG NGỌC LŨ I.

Trước hết ta hãy nhìn tổng quát về nhà nọc và nhà nòng.

-Nhà Nọc

Như đã nói ở trên, nhà nọc, dương biểu tượng cho nọc, dương, ngành dương, đại tộc, tộc, chi tộc dương, nội.

Một căn nhà nọc trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Có nhiều biểu tượng cho biết đây là nhà nọc. Ví dụ như các kiến trúc nhọn như mũi đao, mũi mác, mũi giáo ở hai đầu mái nhà và các vật trang trí mang biểu tượng nọc, đực như trống. Trong các ngôi nhà mái nhọn nếu có để trống hay các vật hình trống thì những ngôi nhà này là những ngôi nhà trống (haus tambaran), trong Việt ngữ trống có một nghĩa là đực, nọc. Nhà trống là nhà nọc, nhà đực. Hình dáng và tư thế của trống cho biết nhà nọc mang ý nghĩa biểu tượng nào hay tộc nào. Ngay cả các kiến trúc ở bên cạnh nhà cũng cho biết nhà là nhà nọc. Ví dụ bên hông mỗi nhà mái hai đầu cong nhọn trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có dàn trống cho biết căn nhà kế bên là nhà trống, nhà nọc.

Dạng nhà nọc thường thấy trên trống đồng là căn nhà sàn có mái cong nhọn hai đầu trên trống Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ, Cổ Loa I, Sông Đà, Khai Hóa…

Quan Niệm Của Các Học Giả Từ Trước Tới Nay Về Nhà Sàn Mái Cong Lên:

1. V. Goloubew cho rằng ‘nhà sàn mái hình “thuyền vàng” dùng để chở linh hồn người chết về vương quốc của họ’ (dẫn lại trong Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Vinh, tr.120).

2. Văn Hựu dựa vào sách Địa Lý chí chép về vùng Kinh châu đời Tùy, Đường mà xem cảnh này là một nghi thức lễ mai táng. “Khi có người chết, đặt tử thi ở nhà, bọn thiếu niên lân cận đến, mỗi người đều cầm cung tên vây quanh tử thi mà ca hát, dùng tên bật dây cung làm nhịp”. Văn Hựu cho rằng hình nhà trên mặt trống là tượng trưng cho nhà đặt tử thi, còn những người hóa trang hình chim chính là những thiếu niên cầm cung tên vây quanh tử thi ca hát (Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Vinh dẫn lại, tr.121).

3. Tác giả Nguyễn văn Huyên, Hoàng Vinh đả phá hai tác giả trên nhưng tán thành ý kiến ông Nguyễn Ngọc Chương cho nhà sàn với các người bên trong, ‘một bộ phận “trong bức tranh sinh hoạt” là buổi “lễ cầu mùa” một nghi thức của tín ngưỡng nông nghiệp’ (NVH, HV tr.121). Hai tác giả này không nói riêng rẽ nhà sàn nóc thuyền là nhà gì.

4. A. J. Bernett Kempers, trong The Kettledrums of South East Asia gọi nhà nọc này là “H type houses” và nhà mái vòm là “O type houses”.

Theo tôi, đây là ngôi nhà Nọc đối ứng với ngôi nhà Nòng mái hình vòm. Đây chính là một thứ nhà ‘Đực’, nhà thờ mặt trời của dòng Nọc, ngành dương. Ngôi nhà nọc, nhà thờ mặt trời này hiện rõ “mặt thật” thấy rõ 100%  ở trống Quảng Xương, một trống rất thể điệu hóa (highly stylized) nghĩa là một trống đã rất muộn, mọi chin tiết được diễn tả một cách bình dân hơn (trong khi các trống cổ như trống đồng âm dương Ngọc Lũ I các chi tiết diễn tả theo bác học khó hiểu hơn). Hai bên mặt nhà nọc trên trống Quảng Xương Có hình mặt trời rạng ngời.

 

Hai bên mặt nhà nọc trên trống Quảng Xương

Có hình mặt trời rạng ngời cho thấy rõ 100% nhà này là nhà mặt trời.

 Lội ngược dòng thời gian, qua nhà mặt trời, thờ phượng mặt trời ở trống Quảng Xương này cho thấy tất cả các nhà nọc trên trống đồng nòng nọc, âm dương có một khuôn mặt là nhà thờ mặt trời, nhà mặt trời.

Nhà nọc, nhà mặt trời, thờ phượng mặt trời trên trống đồng nòng nọc, âm dương là tiền thân của nhà Lang Mường Việt, tiền thân của nhà Đinh (có nghĩa là ‘vật nhọn’ và cũng có nghĩa là con trai). Đây chính là nhà tráng niên (Bachelor’s house), nhà phái nam (man’s house) của các tộcNam Đảo, nhà Đình hiện nay ở Việt Nam.

Nhà nọc làm theo kiểu nhà sàn, nhà Tam Thế mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ luận. Phần lớn nhà nọc trên trống đồng có mái lõm hình võng hai đầu cong nhọn mang hình ảnh của vật đựng, hình trăng lưỡi liềm, hình thuyền, hình sừng trâu nhưng hai đầu cong nhọn thường có hình chim không có hình rắn, thuồng luồng, cá sấu cho biết đây là những căn nhà nọc thuộc dòng nòng khôn thái dương. Như thế trống đồng âm dương phần lớn thuộc dòng nòng khôn thái dương. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, theo duy dương đây là dòng Khôn dương Hùng Vương Lang Việt và theo duy âm Khôn âm Chấn Lạc Long Quân Lạc Việt.

-Nhà Nòng

Nhà nòng ngược với nhà nọc. Nhà nòng âm biểu tượng cho nòng, không gian, bầu trời, vũ trụ âm, nòng âm, ngành, đại tộc, tộc, chi tộc âm, ngoại.

 

 Một căn nhà nòng trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

 Tuy nhiên, trống biểu tượng cho dương, nên phải lưu ý trên trống đồng âm dương có những dạng nhà nòng mang nọc tính đại diện hay thay thế cho nhà nòng thuần âm nữ. Đây là những nhà nòng nam. Cần phải dựa vào các chi tiết khác để phân định ví dụ ở một nhà nòng trên trống Ngọc Lũ I có một người cầm trống cho biết đây là nhà trống, nhà nòng nam của ngành nòng.

Trên trống Ngọc Lũ I và Hoàng Hạ nhà vòm mang hình dạng đúng nghĩa của nhà vòm, nhà rùa còn trên trống sông Đà và Khai Hóa nhà vòm đã biến thể, không có cửa mở ra và không có hình người đứng giữa cửa. Trên các trống rất muộn hay biểu tượng duy nhất cho một ngành dương, cho một tộc dương thôi, nhà nòng bị loại đi như trong trường hợp trống Quảng Xương chỉ có hai ngôi nhà nọc đực, nhà mặt trời, thờ phượng mặt trời (xem các trống này).

Quan Niệm Của Các Học Giả Từ Trước Tới Nay Về Ngôi Nhà Nòng Mái Vòm:

Đã có nhiều tác giả giải thích về hình các nhà nòng này. Sau đây là ý kiến của vài tác giả đã dẫn lại trong Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Vinh (tr.25):

.H. Parmentier trong Anciens tambours de bronze (Op. cit. p.8) gọi đây là những vật hình cung (arche).

.Đào Duy Anh trong “Văn Hóa Đồ Đồng và Trống Đồng Lạc Việt” (Hà Nội, 1957) đồng ý với Gouloubev cho đây là cảnh đánh chiêng (tr.34).

.Văn Hựu trong Cổ đồng cổ đồ lục (Bắc Kinh, 1957) cho đây là “tấm phên” (xem phần thuyết minh trống số 8).

.Nguyễn Văn Huyền, Hoàng Vinh tán thành ý kiến với ông Nguyễn Ngọc Chương cho đây là ngôi nhà để tiến hành nghi lễ có liên quan đến việc cầu mùa (Nguyễn Ngọc Chương, Tìm hiểu một số hoa văn trên trống đồng Ngọc Lũ, Nghiên Cứu Lịch Sử N0 141, Hà Nội 1971). Các ông gọi nhà nầy là “nhà cầu mùa”.

.Có tác giả cho đây là nhà mai táng, nhà mồ chỗ quàn xác chết.

Theo tôi, đây là nhà là nòng, nhà cái, nhà không gian, vũ trụ âm. Hình thể nhà biến đổi theo thời gian, theo độ chính thống. Những ngôi nhà nòng mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ luận làm theo kiểu nhà rùa, nhà sàn Tam Thế: cõi trên là phần nóc nhà thường có phụ đề bằng những hình đầu chim ở hai đầu mái hay hình chim đứng trên nóc. Cõi giữa nhân gian là phần trong nhà và cõi âm là gầm sàn nhà. Nhà có mái vòm trông như cái nang, cái dạ con, hang động, nhà mồ, như nhà rùa, nóc dù, nóc tán lọng… Nhà rùa là loại nhà cổ nhất của Việt Mường mang ý nghĩa vũ trụ quan do thần Rùa dậy cho Việt Mường làm nhà. Nhà nòng có mái vòm biểu tượng cho vòm vũ trụ, vòm trời, hư không, không gian. Nhà thường có bốn cột tiêu biểu cho bốn cột trụ, bốn phương chính của trời đất, cho Tứ Tượng. Đôi khi nhà có sáu cột như trên trống Sông Đà tiêu biểu thêm cho hai hướng nữa là thiên đỉnh (zenith) và rốn đất (nadir). Nhà Nòng là nhà vòm vũ trụ là nơi tế lễ, thờ bái và thi hành các tục lệ, taboo liên hệ tới tín ngưỡng vũ trụ giáo của dòng Nòng.

Có nhiều biểu tượng âm cho biết đây là nhà nòng. Tiêu biểu nhất là bên cạnh hai căn nhà nòng có cảnh hai người đang giã chầy vào cối. Đứng bên cạnh một người lãnh đạo tinh thần, ở bên ngôi nhà nòng thiêng liêng và trên trống biểu Vũ Trụ giáo thì cảnh giã chầy cối này phải mang một ý nghĩa tín ngưỡng. Giã chầy vào cối mang biểu tượng âm dương giao hòa, mắn sinh, phồn thực. Cối biểu tượng cho nòng, cái đi đôi với nhà nòng còn trống biểu tượng cho đực (trống có một nghĩa là trống, đực) đi đôi với nhà nọc, nhà đực. Cảnh giã chầy vào cối bên cạnh nhà nòng mái vòm này đối ứng với cảnh đánh trống ở khu nhà nọc, nhà đực, nhà lang. Vì sao? Vì cối là khuôn mặt âm của trống đồng âm dương khi lật ngửa lên. Cối coi như là một thứ trống âm biểu tượng cho dòng nòng, cái. Ngày nay còn có nhiều tục giã chầy vào cối khi cô dâu bước qua ngưỡng cửa vào nhà chồng, khi có người chết (mang ý nghĩa âm dương tái sinh)… Ngoài ra còn có nhiều chi tiết khác giúp cho biết nhà Nòng thuộc họ, ngành, đại tộc, tộc, chi tộc nào.

 Nhà Biểu Tượng Trên Trống Đồng Âm Dương Ngọc Lũ I.

Như đã biết, mặt trống trống đồng âm dương Ngọc Lũ I chia ra làm hai bán viên đối xứng nhau. Một bán viên âm có đám rước 6 người, một bán viên dương có đám rước 7 người. Mỗi bán viên có một căn nhà nọc và một căn nhà nòng.

Nhà nọc và nhà nòng ở bán viên âm nhóm 6 người nhẩy múa.

a. Nhà nọc ở bán viên âm có đám rước 6 người nhẩy múa .

Căn nhà nọc này cũng chuyên chở trọn vẹn giáo thuyết Vũ Trụ giáo.

Nhìn tổng quát, mái lõm biểu tượng âm, đầu hồi hình mũi đao, dương, tức âm dương, Lưỡng nghi. Bốn cột biểu tượng Tứ Tượng. Nhà có đủ âm dương, Lưỡng nghi, Tứ Tượng. Tứ Tượng sinh ra vũ trụ Tam Thế.

Ngôi nhà này làm theo kiểu nhà sàn biểu tượng Tam Thế.

.Thượng Thế.

Mái nhà biểu tượng cho Thượng Thế. Ở đây nhà có mái lõm cong hình vòng cung, hình sừng, hình thuyền hay hình trăng lưỡi liềm nhìn tổng quát  mang âm tính nòng, Khôn. Hai ngôi nhà nọc này là hai ngôi nhà thiêng liêng của ngành Khôn nói chung. Cần phải dựa vào những yếu tố khác để nhận diện. Thường thường các kiến trúc và trang trí trên nóc nhà là những yếu tố quyết định để nhận dạng. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt thuộc ngành Thần Nông. Tùy theo chi tiết nhà mang tính âm thái dương tức khí gió thiếu âm là nhà Nông và dương thái âm tức thái âm ngành nọc dương là nhà Thần.

Mái ở đây có hai đầu hồi đầu đao biểu tượng thái dương. Mái võng biểu tượng thái dương cho thấy khuôn mặt thiếu âm mang tính chủ, Đối chiếu với truyền thuyết Việt là khuôn mặt Nông mang tính chủ và đối chiếu với cổ sử Việt thì khuôn mặt Hùng Vương mang tính chủ. Nhà nọc cho biết đây là nhà thờ của Người Mặt Trời Bách Việt của Hùng Vương.

Cõi Trên thường biểu tượng bằng hình chim vì thế thường có hình chim đậu trên nóc nhà.

.Trung Thế.

Nhà biểu tượng Cõi Giữa nhân gian. Trong nhà có cảnh sinh hoạt của con người thường liên hệ tới tín ngưỡng. Nhà có để trống cho biết nhà là nhà trống nhà nọc và cũng cho biết nhà thuộc tộc, chi nào của ngành trống, nọc, dương.

.Hạ Thế.

Gầm nhà dưới sàn  là Cõi Dưới, Hạ Thế.

.Trục Thế Giới

Giữa nhà có kiến trúc hình trụ ống, biểu tượng Trục Thế Giới.

Trang trí nhà cũng chuyên chở ý nghĩa Vũ Trụ luận: những chấm nhỏ biểu tượng cho tượng Lửa; những tua treo ở bên chái nhà biểu tượng cho tượng Khí, gió; hình tam giác biểu tượng cho núi, tượng đất dương và hình uốn khúc biểu tượng cho tượng Nước dương.

 Bây giờ xin đi vào chi tiết.

Số 6 là số chẵn, số âm, bán viên này mang âm tính là bán viên âm. Vậy căn nhà nọc ở bán viên có đám rước 6 người là ngôi nhà nọc ngành âm. Số 6 cũng là số Tốn (O| |), hôn phối với Đoài. Căn nhà nọc này là căn nhà của ngành âm Đoài/ Chấn.

Hình ngôi nhà nọc ở bán viên âm có đám rước 6 người.

Đầu hồi nóc nhà trang trí với hai hình đầu chim. Mắt chim là mắt âm  (hai vòng tròn đồng tâm có chấm). Hiển nhiên căn nhà này là căn nhà nọc âm của ngành âm Đoài Chấn. Mào chim gồm có ba cái lông dính liền với nhau tạo thành hình cái bờm, cái mũ dương tức Khôn dương Đoài vũ trụ. Nhà này có khuôn mặt Đoài mang tính chủ. Đầu chim có mào hình bao, bọc, nang này có thể là con chim nông biểu tượng cho ngành nòng Đoài Chấn. Trên nóc ngôi nhà này có hai con chim đậu. Chim tổng quát biểu tượng cho Cõi Trên, theo duy âm là vòm trời, không gian âm, Khôn và theo duy dương là mặt trời dương, Càn. Số 2 là số chẵn, âm. Hai con chim cũng xác định ngôi nhà này là ngôi nhà nọc âm.

Đa số các tác giả cho hình chim trên nóc nhà mái võng như ở trống Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ… là chim trĩ hay công.

Bây giờ ta đi tìm xem hình chim trên nóc nhà mái võng là trĩ hay công? Làm sao phân biệt được trĩ và công qua hình vẽ? Để phân định ta dựa vào:

1. Đầu

Trên thế giới có ba loại trĩ có tai (eared pheasant); phân biệt bởi chùm lông trắng mọc dài thẳng lên tạo thành cái tai lông sau tai thật. Ba loại đó là blue-eared pheasant (Crossoptilon auritum), loại tai trắng (C. crossoptilon) và loại Mãn châu C. manchuricum. Ngoài cái mào (crest) trên đầu, hai bên cổ có chùm lông dài khi dựng lên tạo thành cái vòng cổ. Loại công thường thấy cũng thuộc dòng họ trĩ, trên đầu có “vương miện lông”, nhưng không thấy bờm trước cổ, lông đuôi dài có mắt.

Hình chim trên trống đồng có “hai tai” thuộc họ “eared pheasant” và có mào lông hai bên cổ là con trĩ vì loài công không có tai chỉ có vương miện và cũng không có mào lông trước cổ như trĩ.

2. Thân

Cánh chim trĩ loài great Argus có những hình con mắt trong khi công lông đuôi có hình con mắt chứ lông cánh không có mắt. Hình chim trên nóc nhà trống Hoàng Hạ cánh có hình con mắt.

Chim trên nóc nhà trống Hoàng Hạ cánh có hình con mắt(nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Ở đây trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I, con mắt diễn tả bằng những ‘nọc’ ngắn. Chim trên nóc nhà Nọc mặt trời đuôi không có hình con mắt. Vậy chim trên nóc nhà trên trống trống đồng âm dương Ngọc Lũ I và Hoàng Hạ là loài chim trĩ.

3. Đuôi

Đuôi trĩ và công đều dài nhưng đuôi trĩ thon dài, to ngang, ĐẦU BẰNG trong khi đuôi công ĐẦU KHUM TRÒN khi xòe lên đuôi công thành hình rẽ quạt tròn trong khi đuôi trĩ xòe lên thành hình giải (vì thế có tên là chim giải cùi, chim đuôi dài như cái giải). Đuôi chim trên nóc nhà giống đuôi chim trĩ hơn là đuôi công vì không có mắt, dài to ngang và đầu bằng. Hình chim trên nóc nhà ở trống Hoàng Hạ vẽ rõ thành 4, 5 giải. Như đã biết theo Dịch trĩ là biểu tượng của Li thường vẽ đuôi có 5 giải lông vì số 5 là Li. Do đó con chim trên nóc nhà mái võng có 5 giải đuôi là con chim trĩ. Chim trĩ là chim biểu tượng cho lửa thần thoại hóa thành chim phượng có nghĩa là chim lửa nhưng chim trĩ thuộc loài gà sống nhiều trên mặt đất nên biểu tượng cho lửa đất thế gian Li (trong khi chim cắt sống trên ngọn cây là chim lửa Việt biểu tượng cho Càn lửa vũ trụ.

Hình chim trĩ trên nóc nhà có khắc mẫu tự ‘mũi nhọn’ có nghĩa là lửa, đực cho biết đây là con chim trĩ đỏ Li và Li đội lốt Càn.  Một điểm thấy rõ nữa là trên mái đình chùa, nơi thờ phượng, ngày nay ta chỉ thấy trang trí bằng chim phượng, con chim thần thoại hóa từ chim trĩ lửa chứ không bao giờ thấy chim công.

Vậy tóm lại hình chim trên nóc mái nhà Nọc mặt trời là chim trĩ, rẻ cùi, giải cùi chim biểu của ngành mặt trời nọc Lửa trời, thần thoại hóa thành chim phượng. Chim cắt là chim lửa vũ trụ, còn chim trĩ là chim lửa bầu trời thế gian.

Chim trĩ ở đây cho thấy khuôn mặt thế gian mang tính chủ ăn khớp trăm phần trăm với trống thế gian này.

Ở bên phải tức phía dương, con chim có bờm cao gió, đuôi dài, quay mặt về phía tay phải chiều dương là con chim đực (giống như hình chim trên nóc nhà của người Katu, nói ở trên). Chữ nòng nọc “đầu mũi lao” (>) có nghĩa là dương, đực viết ở dưới cổ con chim xác nhận con chim này là con chim đực biểu tượng cho Khôn dương là Đoài vũ trụ. Ở bên trái, con chim có đuôi ngắn, quay về phía bên trái là con chim mái biểu tượng cho Khôn âm, nuớc, đầu có có đánh dấu chấm nọc dương,  là nương dương Chấn (xem chương Thế Giới Thú Vật Trên Trống Đồng). Hai con chim đậu trên nóc nhà nói cho biết ngôi nhà là nhà nọc thiêng liêng ngành âm Đoài Chấn.

Như thế mái nhà cong lõm có hai đầu chim và hai con chim biểu tượng cho Cõi Trời mang tính nòng Đoài Chấn.

Dưới chái nhà bên phải có chiếc trống có phụ đề các chấm nọc dương cho biết căn nhà này là căn nhà trống (haus tambaran), nhà nọc. Chiếc trống hình nấm lọng, ô (đáy và thân trống không phân chia) tức loại trống NXQ III hay trống khí gió Đoài vũ trụ  (xem chương Cơ Thể Học Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Ta cũng thấy mặt trống quay về bên trái (chiều âm) nên có âm tính tức (trống) dương của nòng âm tức thiếu âm, nguyên thể của khí gió Đoài vũ trụ. Trống để nằm ngang biểu tượng đất bằng thế gian nhưng trống không để sát mặt đất mà để trên cao, “trên không khí” mang khuôn mặt khí gió Đoài vũ trụ. Trống này ở phía bên phải, dương nên khuôn mặt Đoài vũ trụ mang tính chủ của ngành âm Đoài Chấn.

Ở dưới chái nhà bên trái có một vật hình chữ U vuông góc mang tính dương, trong có bỏ dấu chấm nhấn mạnh thêm ý nghĩa dương. U dương là dạng thái dương của O thái âm (hai nhánh đứng là hai nọc tức thái dương; Việt ngữ O là nàng (phương ngữ Huế O chỉ nàng, cô), mẹ dòng nòng thái âm, U là mẹ dòng nọc thái dương như Âu Cơ là U cơ, thái dương thần nữ của chúng ta). Có thể vật này làm bằng gỗ khoét rỗng. Đây có thể là thiết diện của một cái cối vuông hay cái trống mõ (một thứ trống âm) làm bằng thân cây khoét rỗng (slit drum). Ở đây trên trống mang dương tính, và đối ứng với chiếc trống ở phía bên kia, vật này nghiêng về trống mõ âm thái dương. Trống mõ này biểu tượng cho dương thái âm Chấn.  Vậy trống mõ chữ U dương này là trống Chấn.

Hình hai thứ trống này rõ ràng cho biết căn nhà nọc này là nhà trống, nhà nọc ngành âm Đoài Chấn.

Ở giữa nhà, trên sàn nhà có hai người, ngồi giơ hai tay cao lên trước mặt. Giơ hai tay lên trước mặt hay lên khỏi đầu là biểu tượng sùng bái mặt trời.

 Hai người đưa hai tay ra trước mặt tôn vinh mặt trời trong một giáo vụ tế lễ mặt trời trong một ngôi nhà mặt trời trên trống trống đồng âm dươn Ngọc Lũ I.

Hai người này thấy rõ hơn ở trống Hoàng Hạ:

Hai người đưa hai tay ra trước mặt tôn vinh mặt trời trong một giáo vụ tế lễ mặt trời trong một ngôi nhà mặt trời trên trống trống đồng âm dương Hoàng Hạ.

Rõ hơn là ở thạp đồng Hợp Minh chỉ có một người ngồi đưa hai tay ra phía trước tôn vinh, cầu nguyện mặt trời, vũ trụ (nên không thể nói như một số tác giả cho rằng hai người trong ngôi nhà ở trên đang chơi trò “trồng hoa trồng nụ”).

Một người búi tóc có dáng dấp phụ nữ (bà đồng, nữ pháp sư) đưa hai tay ra phía trước mặt dâng lễ vật cung nghinh, tôn vinh hay cầu xin mặt trời, vũ trụ trên thạp đồng Hợp Minh (Khảo Cổ Học).

Hình thức sùng bái tôn vinh mặt trời này còn thấy nhiều trong các nên văn hóa thờ mặt trời như Lạc Việt Tráng Zhuang, Ai Cập cổ, Ấn-Độ… xin nhắc lại qua vài ví dụ bằng hình ảnh:

.Lạc Việt Tráng Zhuang:

Hình người đang cung nhinh, tôn vinh mặt trời đưa tay ra phía trước mặt trên vách đá Hoa Sơn, Quảng Tây của Lạc Việt cổ.

.Ai Cập cổ

Kệ tang Khonsu cho thấy sự thờ phượng Thần Mặt Trời Bò cái Mehet-Weret, Egyptian Museum, Cairo (Madanjeet Singh fig. 461).

.Thiên Chúa giáo Ái Nhĩ Lan.

Người Ái Nhĩ Lan cổ thờ mặt trời, khi du nhập Thiên Chúa giáo vào, họ lồng đạo mặt trời vào Thiên Chúa giáo. Vì thế cây thánh giá của họ có vòng tròn mặt trời và các tu sĩ vẫn cung nghinh mặt trời theo đạo gốc.

Tranh dát mảnh (mosaic) của Achilli cho thấy các tu sĩ Ái Nhĩ Lan giơ tay theo kiểu người Ai Cập cổ tôn thờ mặt trời  (hang thờ St Columbanus, nhà thờ St Peter, Vatican) (Madanjeet Singh).

(xem thêm Đạo Mặt Trời Của Bách Việt)

…..

Như thế những người này ngồi trong căn nhà nọc, trống, đực, mặt trời (thấy rõ ở trống Quảng Xương, trước nhà có hình mặt trời) bắt buộc phải là đang cử hành một nghi thức về Vũ Trụ giáo, Đạo Mặt Trời (xem chương Ý Nghĩa Dấu, Hình, Biểu Tượng Trên Trống Đồng).

Ở bên phải có một người thứ ba đang đánh trống hình lục giác để trên một cái cọc mang ý nghĩa trống sinh tạo tạo hóa, cõi trên cho biết khuôn mặt của tộc Đoài vũ trụ mang tính chủ.

Dưới sàn có một lò lửa. Ở trống Hoàng Hạ lò lửa này thấy rất rõ. Lò lửa có ống ăn thông lên nhà.

Nhà nọc trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ có lò lửa dưới gầm nhà thấy rất rõ (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Người thổ dân Ainu ở Nhật thờ Mẹ Mặt Trời Buchi có hình bóng là ngọn núi lửa Buchi mà người Nhật chuyển âm thành Fuji (Phú Sĩ) cũng để lò lửa hồng giữa nhà gọi là Trái Tim Hồng. Người Navajo cũng có lò lửa trái tim hồng ở giữa nhà giống như người Ainu. Thổ dân Mỹ châu Lakota có hố lửa trong lều tắm mồ hôi gọi là “lửa thiêng vĩnh cửu” (“sacred fire without end”). Nhìn chung dù họ làm gì đi nữa thì lò lửa, hố lửa cũng phải là một nghi thức tế lễ tôn giáo của ngành dương có liên hệ tới mặt trời. Hơi nóng, lửa dùng để tẩy uế, làm tinh khiết tâm hồn và thể xác con người, dùng trong việc phán xét linh hồn, chữa trị bệnh tật (xem chương Ý Nghĩa Dấu, Hình, Biểu Tượng Trên Trống Đồng).

Dàn trống

Dàn trống ở bên nhà nọc của nhóm 6 người nhẩy múa.

(nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Trống là dương nên đi đôi với nhà nọc vì thế nhà nọc thường có trống hay trang trí các vật hình trống gọi là “nhà trống” “haus tambaran”. Dàn trống này mang biểu tượng tín ngưỡng, một thứ tín ngưỡng trống tức Vũ Trụ giáo. Dàn trống có 4 người biểu tượng Tứ Tượng, Bốn Phương Trời, Người Bốn Phương. Loài người là con của Vũ Trũ càn khôn gồm có bốn giống người ở Bốn Phương. Những người ở đây trần truồng thuộc tộc âm gió-nước hay là người cõi trời, biểu tượng cho cõi trên vũ trụ. Bốn người với dáng dấp và đầu tóc khác nhau là Bốn Người (Four People) ứng với Tứ Tượng. Ở đây người ngồi đầu ở bên phải tóc dài xõa lưng cong vòng biểu tượng Đoài vũ trụ , kế tiếp là người to khỏe nhất trong bốn người, trông như nửa ngồi nửa đứng. Đứng là dương, ngồi là âm. Nửa đứng nửa ngồi là âm của dương tức thiếu dương Li, tóc có hình hai nọc, lửa Li, người thứ ba nhỏ nhất tóc có sọc nước Chấn và người thứ tư đứng, là nọc Càn. Người này đứng quay mặt về phía trái, âm là Càn âm, Càn của ngành âm. Vậy bốn người này diễn tả bốn tộc ứng với Tứ Tượng.

Điểm đáng chú ý là cái phướn phía trước có hình vuông đất trong có “vòng tròn có chấm” Li, phía dưới có các sọc tia sáng Càn. Dàn trống này của dòng nội Li Càn hôn phối với căn nhà nọc Đoài Chấn ở nhóm 6 người nhẩy múa này.

Tóm lại, nhìn tổng quát, ở bán viên có đám rước 6 người, ngôi nhà nọc có mang âm tính tức nhà nọc thái dương của ngành âm mang tính thái dương Đoài Chấn và Đoài mang tính chủ.

Những người đánh trống theo cách đánh nòng nọc, âm dương giao hòa với nhau để khơi động dậy quá trình Vũ Trụ Tạo Sinh.

Trống đồng là trống nòng nọc, âm dương , mặt trống đặc có mặt trời là dương. Dùi trống là một khúc cây cũng là dùi nòng nọc, âm dương có đầu đặc dương (đặc là đực, tre đặc là tre đực) và đầu hở là đầu âm. Đầu âm ở này thấy rõ trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ.

Dùi trống nòng nọc, âm dương có đầu âm hở đánh xuống mặt trời dương thấy rõ trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ.

Đánh theo cách âm dương là đánh theo chiều thẳng đứng từ trên đâm đầu âm hở của dùi trống xuống mặt trời dương của mặt trống (xem thêm chương Ý Nghĩa Các Biểu Tượng).

b. Nhà nòng ở bán viên âm có đám rước 6 người nhẩy múa .

 

Hình nhà nòng ở bán viên âm có đám rước sáu người (Nguyễn Văn Huyên).

Ngôi nhà nòng này có mái vòm, dáng nhà trông như nhà rùa mang trọn vẹn Vũ Trụ thuyết.

Ta thấy ngay những mấu chốt chính là:

.Ở hai bên nóc vòm có hình ngữ hai vòng tròn đồng tâm cho biết căn nhà này là căn nhà nòng âm.

.Ở ô giữa, có một người, đứng ngẩng mặt nhìn lên trời, tay cầm gậy giơ lên cao khỏi đầu. Gậy nọc biểu tượng cho lửa Càn Li.

.Tấm phên bên phải tức phía dương phía trước ngôi nhà có 7 hình ngữ “vòng tròn có chấm ở giữa” trông như những chiếc gồng. Phần lớn các tác giả đều cho đây là những chiếc gồng. Gồng biểu tượng cho ngành nòng. Gồng là cồng là còng là vòng là nòng, “lệnh ông không bằng cồng bà”, “Muốn coi lên núi mà coi, Coi bà Triệu Ẩu cỡi voi, đánh cồng”. Trong khi trống biểu tượng cho ngành nọc.

Số 7 là số Càn, thái dương. Phía bên trái có 8 cái gồng. Số 8 là số Khôn. Khôn ở tay trái phía âm là Khôn âm tức thái âm nước. Đọc theo chiều âm ta có Càn khôn nước, Càn thái âm. Ở đây cho thấy lưỡng hợp đại vũ trụ Càn Chấn và Càn mang tính chủ trong khi phía nhà nọc dương có dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ Li Đoài vũ trụ và Li mang tính chủ.

Dưới gầm sàn nhà, có một hố hay lò lửa Li dùng trong các nghi lễ tôn giáo như đã nói ở trên… Lò lửa có hình cái nọc ( | ) mang hình ảnh Núi Trụ Thế Gian Li nằm trong  Trục Thế Giới nối vào nhà cắm trên vòng cong lòng chảo, tức nòng O mở ra mang dương tính thúc thiếu âm  khí gió Đoài vũ trụ. Ở đây có dạng lưỡng hợp tiển vũ trụ Li-Đoài vũ trụ.

Ta cũng thấy hình lò lửa này mang hình ảnh thạch trụ cắm trên mặt đất biểu tượng cho Núi Trụ là dạng chữ Thổ hay chữ Hán sơn viết theo chữ khoa đẩu nòng nọc cổ là núi tức Li (Xem Kẻ Sĩ).

Ta thấy rất rõ ở nhóm âm 6 người nhẩy múa Đoài Chấn này, phía nòng âm có căn nhà nòng Càn Li giao hòa với căn nhà nọc Chấn Đoài ở cùng bán viên âm này.

Tóm lại, theo duy dương hay trên trống, căn nhà nòng này có hai khuôn mặt dương là Càn Li. Càn mang tính chủ vì 7 cái gồng ở phía bên phải. Do đó, theo duy dương trên bán viên âm của nhóm 6 người nhẩy múa có hai căn nhà nọc Đoài Chấn và hai nhà nòng Li Càn giao hòa theo lưỡng hợp đại vũ trụ Càn Chấn và tiểu vũ trụ Li-Đoài vũ trụ.

Cảnh giã chầy cối.

Cảnh giã chầy cối ở cạnh nhà nòng ở bán viên của nhóm 6 người nhẩy múa.

Bên phải của căn nhà nòng này có một cảnh giã chầy cối đối ứng với dàn trống ở bên nhà nọc. Ở đây lòng cối có hình chữ V mang nghĩa âm thái dương, những nọc chấm cũng cho biết trống thuộc phiá âm thái  dưuơng. Chầy có hình hai cái phướn cho thấy rõ ràng cảnh giã chầy cối mang tính cách tín ngưỡng không phải là cảnh giã chầy cối soạn thực phẩm. Cảnh giã chầy cối là cảnh đánh «trống âm» của dòng âm mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ giáo (xem chương Ý Nghĩa Dấu, Hình, Biểu Tượng Trên Trống Đồng).

Hai phướn trống không mang ý nghĩa Khôn và trong hai phướn  có các nọc chấm dương nguyên tạo. Vậy cảnh giã chấy cối này thuộc về phía nòng dương sinh tạo Chấn Đoài vũ trụ thái dương sinh tạo.

Người đứng giã bên phải tóc búi ngắn phía sau hình nọc que mang dương tính, ở trần, mặt quay về phía âm tức dương của âm là thiếu âm khí gió Đoài vũ trụ. Ngược lại người bên trái phía âm tóc dài có sọc  ngang  nước Khôn, trang phục dài mang âm tính, người này là Chấn. Trên người có “chấm vòng tròn” thái dương. Người này là Chấn thái dương. Vậy cảnh giã chầy cối này là Chấn Đoài vũ trụ  hôn phối với nhà nòng Càn Li.

Một người đứng ngửa mặt lên trời, tay đang dâng lễ vật cầu trời. Đây có thể là một ông mo, bà đồng. Người này cho thấy cảnh giã chầy cối mang nghĩa tín ngưỡng nòng nọc, âm dương hòa hợp của phía nòng âm, không phải chỉ mang ý nghĩa thuần túy nông nghiệp giã gạo, hiểu theo duy tục, hiểu theo cái dạ dầy đói ăn. Trống đồng nòng nọc, âm dương không phải là biểu tượng cho nền văn minh lúa nước thuần túy.

Người này có tóc ngắn giống người giã Đoài vũ trụ trên người có hình vòng tròn chấm có một nghĩa là Đoài vũ trụ, quay mặt về phía trái âm. Đây là vị lãnh đạo tinh thần của phía nòng âm, có khuôn mặt Đoài vũ trụ mang tính chủ.

Vậy tóm lại cảnh giã chầy cối Đoài Chấn hôn phối với nhà nòng Càn Li.

c. Nhà nọc ở bán viên dương có đám rước 7 người nhẩy múa.

Nhìn tổng quát, số 7 là số dương, Càn. Vậy suy ra ngay căn nhà nọc ở bán viên dương có đám rước 7 người nhẩy múa là ngôi nhà nọc ngành dương Càn Li.

Ngôi nhà nọc ở bán viên có đám rước 7 người.

Hai đầu nóc căn nhà này trang trí bằng hai đầu chim dương có con mắt dương “vòng tròn có chấm giữa” Li, mào hình những nọc que như nọc tia sáng mặt trời mang dương tính nọc (trong khi chim ở nhà bên bán viên âm mào hình bao, túi nang mang âm tính nòng). Mào gồm có 5 (số Li) chiếc lông tỏa ra như tia sáng (Càn). Chiếc mào trông giống như chiếc mũ tia sáng hiển nhiên cho biết đây là nhà nọc dương hay nhà nọc Càn Li đối ứng với nhà nọc Đoài Chấn ở bán viên âm của nhóm 6 người nhẩy múa. Đầu chim này có thể coi là đầu chim cắt biểu tượng cho ngành nọc Càn Li. Đầu chim này giống như đầu chim cắt ở phía sau đuôi thuyền có hình đầu chim nông (xem chương Hình Thuyền Trên Trống Đồng).  Trên mái nhà chỉ có một con chim trĩ. Số 1 là số lẻ, dương cho biết nhà nọc này biểu tượng cho ngành nọc Càn Li. Con chim này có đuôi dài quay nhìn về phía tay phải,dương cho biết đây là con chim trĩ, lửa biểu tượng cho lửa đất thế gian Li. Ngôi nhà này là ngôi nhà đực thái dương Càn Li.

Chim trĩ đậu tức biểu tượng cho cho lửa đất thế gian nên Li mang tính chủ. Đối chiếu với căn nhà ở phía âm bên kia có khuôn mặt Đoài vũ trụ mang tính chủ thì ở phía dương bên này bắt buộc Li phải mang tính chủ cho có sự lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu âm Đoài vũ trụ với thiếu dương Li.

Trên sàn cũng có hai người tế lễ giơ hai tay cao liên hệ tới sự sùng bái mặt trời.

Ở dưới chái nhà bên phải, có một người đánh trống hình lục giác để trên một cái cột trụ cố ý cho biết trống này ở “trên cao” Khôn hôn phối với Càn. Trống này là trống Càn vũ trụ nên mới có hình lục giác 6 cạnh (số 6 là số thành, sinh tạo). Trống này biểu tượng cho đại tộc Càn. Trống ở góc phải dương ứng với số 6 (âm thái dương) trong ma phượng trục 5/15 cũng cho biết trống mang khuôn mặt thái dương Càn (số 6 có số 7 Càn ngay bên phải).

Ở chái nhà bên trái có một chiếc trống để nằm ngang, mặt trống quay về tay phải. Trống này để nằm sát đất. Đất bằng là Li, lửa đất  thế gian, nhà có một khuôn mặt Li. Góc trái là phía âm của căn nhà nọc dương, tức âm của dương, tức thiếu dương, bản thể của Li. Trống ở phía âm quay mặt về tay phải dương cũng mang tính âm của phía dương là thiếu dương Li. Trống cò hình trụ chống có đáy rộng, hình tháp tức trống Li, loại NXQ V (xem chương Cơ Thể Học Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á).  Vậy trống này là trống Li.

Như thế, nhà nọc ở bán viên có đám rước 7 người là nhà nọc thái dương Càn Li.

Nhà nọc Li Càn Dương phía nọc này đối ứng với nhà nọc Đoài vũ trụ Chấn thái dương phía nòng ở bên bán viên âm 6 người. Đại tộc Li thế gian mang tính chủ.

Dàn trống

 Dàn trống ở bên nhà nọc của nhóm 7 người nhẩy múa (nguồn : Phạm Huy Thông và các cộng tác viên, Dong Son Drums in Viet Nam). Những trống trong hình này vẽ khác những hình vẽ trong quyển Những Trống Đồng Đông Sơn Đã Phát Hện ở Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên.

Ở đây người ngồi đầu ở bên phải tóc ngắn nhất, lưng cong vòng biểu tượng Đoài vũ trụ, kế tiếp là người có tóc sau gáy thẳng đứng Li (như Núi Trụ Chống Trời), người thứ ba tóc có tia sáng Càn và người thứ tư tóc chẩy xuôi như nước, Chấn.

Điểm đáng chú ý là cái phướn phía trước có hình vòng tròn đồng tâm và có lẽ dấu chấm bị soi mòn mất, biểu tượng Chấn và phướn gió biểu tượng Đoài. Dàn trống này của dòng nòng Đoài Chấn hôn phối với căn nhà nọc Li Càn ở nhóm 7 người nhẩy múa này.

d. Nhà nòng ở bán viên dương có đám rước 7 người.

Số 7 là số  dương. Nhóm 7 người nhẩy múa đi hướng tới là căn nhà nòng dương.

Ta thấy ngay mấu chốt chính là người đứng ở cửa, cầm một vật gì hình tròn, đa số tác giả đều cho đây là một cái trống cầm tay hình tròn. Đây chính là căn nhà trống “haus tambaran” nòng, âm.

Hình nhà nòng ở bán viên dương có nhóm 7 người nhẩy múai (Nguyễn Văn Huyên tr.168).

Lưu ý trống hình tròn nòng âm Khôn trong có các nọc chấm dương cho biết đây Khôn thái dương và đây là trống chứ không phải là cồng. Như thế căn nhà nòng ở bán viên của nhóm 7 người nhẩy múa có khuôn mặt  theo duy âm là Khôn thái dương.  Chiếc trống tròn nòng Khôn thái dương cho thấy ngôi nhà nòng này là ngôi nhà nòng Đoài vũ trụ  Chấn, hôn phối với khuôn mặt Càn Li của nhà nọc.

Tấm phên bên trái phía trước nhà, có bẩy hình ngữ giống gồng. Số 7 là số Càn, thái dương. Bên phải trong khung có 7 hình ngữ và ở phía ngoài có thêm một cái nữa, tổng cộng là 8 (đây có thể là lỗi lầm kỹ thuật của người làm trống. Thiếu một, vì không còn chỗ trong khung nữa nên phải khắc thêm ở phía ngoài cho đủ 8 hay tác giả làm trống cố ý cho biết là nghĩa khuôn mặt Khôn 8 mang tính chủ, nghĩa là Càn/khôn mang tính chủ cho hôn phối với khuôn mặt Li/Khảm của căn nhà nọc ở cùng bán viên này). Dưới gầm có hình lò lửa hình như cái siêu nước có hai cái “sừng” dương biểu nước dương dưới dạng nước Chấn/ hơi nước Đoài vũ trụ.

Tóm lại, ngôi nhà nòng ở bán viên dương có đám rước 7 người là ngôi nhà nòng Chấn Đoài vũ trụ. Theo duy dương là nhà Chấn Đoài vũ trụ có khuôn mặt Chấn mang tính chủ vì 8 cái cồng ở phía tay phải (Chấn đại diện cho Khôn).

Cảnh giã chầy cối.

Cảnh giã chầy cối ở cạnh nhà nòng ở bán viên của nhóm 7 người nhẩy múa.

Bên phải của căn nhà nòng này có một cảnh giã chầy cối đối ứng với dàn trống ở bên nhà nọc.

Phướn của chầy của người bên phải trong có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc que chỉ dương. lửa đất núi trụ Li. Những nọc chấm dương mang nghĩa  thái dương sinh tạo. Phướn của chầy của người bên trái trống không Khôn, chỉ có các chấm nọc dương sinh tạo cho biết là Càn sinh tạo.  Người đứng giã bên phải tóc búi ngắn, có phần sau thẳng hình trụ nọc Li, trang phục ngắn mang dương tính nghiêng về thiếu dương Li thái dương. Ngược lại người bên trái phía âm tóc dài, trang phục dài mang nhiều âm tính, quay mặt về phía dương bên phải là dương, trên người có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que chấm vòng tròng có một nghĩa là mặt trời Càn sinh tạo. Người này là Càn phía nòng âm thái dương.

Vậy cảnh giã chầy cối Càn Li hôn phối với nhà nòng Chấn Đoài vũ trụ.

Một người đứng ngửa mặt lên trời, tay đang dâng lễ vật cầu trời, đây có thể là một ông mo, bà đồng giống như bên bán viên âm.

Người này khác với người ở bán viên âm là có tóc rất dài mang nhiều âm tính. Đây là vị lãnh đạo tinh thần của phía nòng âm, có khuôn mặt Chấn mang tính chủ.

Tóm tắt

Nhà trên trống Ngọc Lũ I là nhà biểu tượng, là nhà thiêng liêng, thờ phượng mang trọn vẹn ý nghĩa của Vũ Trụ giáo, Đạo Mặt Trời. Có hai loại nhà nòng, nòng không gian và nhà nọc, nọc mặt trời. Nhà nọc có mái võng hai mang âm tính thuộc phía nòng. Hai đầu nhọn mang tính thái dương. Vì ở trên trống mặt trời thái dương có 14 nọc tia sáng nên khuôn mặt thái dương mang tính chủ nghĩa là khuôn mặt thiếu dương Đoài vũ trụ mang tính chủ. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là khuôn mặt Đoài vũ trụ tạo hóa sinh tạo của Hùng Vương.

Hai căn nhà nọc biểu tượng hai phía nội ngoại của ngành dương ứng với Tứ Tượng, Tứ ĐạiTộc nọc dương và hai ngôi nhà nòng biểu tượng hai phía nội ngoại, theo duy âm là của ngành âm, và theo duy dương là của ngành dương thay thế hay đại diện ngành âm cũng ứng với Tứ Tượng, Tứ Đại Tộc nòng âm. Tất cả những căn nhà này là nhà của đại tộc Người Mặt Trời Thái Dương thuộc họ Người Vũ Trụ.  Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là nhà của Đại Tộc Bách Việt Người Mặt Trời Thái Dương ngành thần mặt trời Viêm Đế , con cháu của Tổ Hùng Tạo Hóa.

Tóm Lược Vành Sinh Hoạt Nhân Sinh

Vậy tóm lại vành sinh hoạt nhân sinh chủ chốt nằm sát phía tâm trống trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I gồm:

-Người: có hai đại tộc Người Mặt Trời Thái Dương Bách Việt thuộc hai nhánh nọc  dương thái dương và nọc âm thái dương của chủng Người Vũ Trụ  có khuôn mặt chủ là Li. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là Người Mặt Trời Thái Dương Bách Việt thuộc nhánh nọc dương thái dương Viêm Đế và nọc âm thái dương Thần Nông  có khuôn mặt chủ là người Xích Quì Kì Dương Vương.

-Nhà:  có hai lọai nhà nọc mặt trời thái dương và nhà nòng mặt trời nòng thái dương hay không gian thái dương (hay nhà nòng mặt trời  nòng thái dương đại diện cho nòng không gian). Các ngôi nhà ăn khớp hoàn toàn với các nhánh, đại tộc, tộc người.

Tất cả mang trọn vẹn triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh trong Vũ Trụ giáo.

(phần 8)

 Ý NGHĨA VÀNH CHIM THÚ TRÊN TRỐNG ĐỒNG ÂM DƯƠNG NGỌC LŨ I.

   

 Vành chim thú trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

Như ở trên ta đã thấy vành chủ yếu thứ 6 trên mặt trống đồng âm dương Ngọc Lũ I diễn tả cảnh sinh hoạt nhân sinh của ngành Người Mặt Trời nọc thái đương thuộc chủng Người Tiểu Vũ Trụ, sinh ra từ quả bầu vũ trụ.

Vành số 6 là số lão âm, âm thái dương cũng cho biết những người này mang tính mặt trời nọc, lửa thái dương mang tính chủ. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt thuộc họ Bách Việt nhánh Viêm Việt, đại tộc Kì Việt mang tính chủ ngành mặt trời Viêm Đế.

Vành giới hạn số 7

Vành này là vành sóng chuyển động vòng tròn có chấm (đọc theo chiều dương tức thiếu dương) hay chấm vòng tròn (đọc theo chiều âm tức thiếu âm) có tiếp tuyến. Tiếp tuyến ở đây mang nghĩa chuyển động, vận hành, sinh tạo, không có nghĩa là nước. Tiếp tuyến có tiếp điểm ở phía trên vòng tròn đi xuống nối với tiếp điểm ở dưới của vòng tròn kế tiếp nghĩa là tiếp tuyến dương. Ta đã biết chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình vòng tròn có chấm có nhiều nghĩa, ở cõi tiểu vũ trụ có thể có nghĩa là thiếu dương hay thiếu âm. Với tiếp tuyến dương ở đây mang nghĩa thiếu dương Li. Kiểm chứng lại ta cũng thấy vành này giống vành thiếu dương Li nằm trong cùng sát mặt trời ở vùng các vành sinh tạo tứ hành. Thêm nữa, vành này là vành số 7 tức số Càn mang dương tính nhiều hơn là vành giới hạn cũng có sóng chuyển động chấm vòng tròn có tiếp tuyến ở vành thứ 9. Số chín là số Chấn mang âm tính. Do đó vòng tròn có chấm ở vành này mang nghĩa là thiếu dương Li.

Lưu ý

Ở đây vành giới hạn là vành sóng chuyển động vòng tròn có chấm hay chấm vòng tròn có tiếp tuyến trong khi ở các trống khác vành giới hạn là vành có chấm nọc cho biết thuộc phía nọc thái dương hay là vành trống không cho biết thuộc phía nòng thái âm. Vành giới hạn ở đây cho biết thuộc phía thiếu dương hay thiếu âm.

Vành giới hạn số 7 này mang nghĩa thiếu dương cho biết vành chim thú số 8 mang tính thiếu dương Li mang tính chủ nghĩa là những con hươu mang tính chủ.

Điểm này cũng cho thấy khuôn mặt thế gian hươu Li tức Xích Quỉ Kì Dương Vương mang tính chủ.

 Vành số 8 chim thú

Kế tới là vành chim và thú số 8. Chim thú trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I mang khuôn mặt biểu tượng tức chim thú biểu, vật tổ nghĩa là ta phải hiểu theo ý nghĩa biểu tượng trong Vũ Trụ giáo.

Loài vật, chim thú trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn cũng như các yếu tố khác như người, nhà, trống… đều mang trọn vẹn ý nghĩa triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh của Vũ Trụ giáo.

Những loài vật dùng làm biểu tượng hay mang ý nghĩa biểu tượng không nhất thiết phải giống y chang những loài tương ứng có trong thiên nhiên, ví dụ con quạ vàng kim ô, biểu tượng cho mặt trời, con rùa vàng kim qui biểu tượng cho nước dương, biển (Lạc Long Quân có một khuôn mặt Thần Biển Kim Qui giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa), trong thực tế không có quạ vàng hay rùa mầu vàng kim loại. Con quạ ba chân biểu tượng cho mặt trời lửa thái dương (Càn), trong thực tế không có con quạ nào có ba chân.

Số 8 là số Khôn tầng 2 thế gian như thế chim thú ở vành này có khuôn mặt Khôn hôn phối với Càn tức khuôn mặt sinh tạo tạo hóa. Do đó ta thấy ngay chim ở vành 8 này mang tính Khôn dương thế gian tức thiếu âm mang tính chủ và thú mang tính Càn thế gian tức thiếu dương mang tính chủ.

Lưu ý

Số vành và tính chất của vành trên các trống đồng nòng nọc, âm dương chính thống đều mang ý nghĩa ăn khớp với ý nghĩa nòng nọc, âm dương của trống, của trang trí các vành. Ví dụ trống Ngọc Lũ I này, mặt trống có 16 vành. Số 16 là số Khôn tầng 3 (0, 8, 16) mang tính thái âm thế gian, cho biết trống có khuôn mặt càn khôn sinh tạo, tạo hóa phía nòng âm. Người trên trống này thuộc chủng người tiểu vũ trụ con của tạo hóa đại vũ trụ  ngành mặt trời thái dương có khuôn mặt chủ là người đất dương thế gian. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là người Xích Quỉ Kì Dương Vương ngành Viêm Việt Viêm Đế họ Hồng Bàng Viêm Đế-Thần Nông thái dương.

Ở vành số 8 này, mỗi bán viên dương và âm đều có một nhóm chim và một nhóm hươu.

Bán viên dương của nhóm 7 người nhẩy múa có nhóm chim 6 con và nhóm hươu 10 con trong khi bán viên âm  nhóm 6 người nhẩy múa có nhóm chim 8 con và nhóm hươu cũng 10 con.

1. Nhóm chim ở bán viên dương 7 người nhẩy múa.

Nhìn tổng quát, chim, nhất là chim bay, biểu tượng cho Cõi Trên, Cõi Trời, Bầu Trời. Trong Vũ Trụ giáo, chim mang trọn ý vẹn nghĩa của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo, của dịch ở Thượng Thế, Cõi Trên, Cõi Trời.

Ở thượng thế, cõi trời, tạo hóa, Đại tộc Việt sống ở vùng sông biển có chim nông và chim cắt là hai vật tổ tối cao biểu tượng cho Tạo Hóa, Sinh tạo ở Cõi Trên, Vũ Trụ, Bầu Trời Thế Gian. Chim cắt là chim Việt phía nọc, lửa, mặt trời và chim nông là chim Bộc (hiểu theo nghĩa Bộc là Bọc, túi, nang) phía nòng, nước, không gian (Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt, sẽ nhắc lại sơ qua ở dưới).

Như đã nói ở trên ở vành số 8 những con chim bay này chia ra làm hai nhóm: một nhóm 6 con và một nhóm 8 con cho thấy hai nhóm mang tính âm dương khác nhau.

a. Nhóm 6 con trên bán viên dương nhóm 7 người nhẩy múa.

Kiểm chứng lại ta cũng thấy rất rõ nhóm 6 con này ở vị trí ngay dưới nhóm 7 người nhẩy múa trên bán viên dương của mặt trống.

 

Nhóm 6 con chim ở ngay dưới nhóm 7 người nhẩy múa trên bán viên dương (nguồn: Phạm Huy Thông và các cộng tác viên).

Vậy nhóm 6 con chim là những con chim mang tính âm thái dương (số 6 là số lão âm, âm thái dương). Chim âm thái dương đi với nhóm 7 người dương thái dương thuộc đại tộc lửa vũ trụ Càn thái dương (7 là số Càn).

Những con chim bay này có mỏ to, đầu to, đuôi ngắn. Chim có cái túi, cái nang dưới mỏ.

Chin nông trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

Con đầu tiên cái túi che hết chiều dài cái mỏ. Cái túi là nang, nông. Chim này là chim nang, chim nông. Trong thiên nhiên, chim nông cũng mỏ to, đầu to, đuôi ngắn. Trên hình khắc cũng giống như trong thực tế mỏ dài hơn nửa chiều dài cổ. Hình chim có túi dưới cổ Trên trống Ngọc Lũ I cũng bay ở thế liệng chứ không vỗ cánh, đầu rụt về phía sau, mỏ hạ xuống phía cổ. Đây chính là những nét đặt thù của chim nông: “the birds fly with the head drawn back and bill resting on the front of the neck” [Chim nông khi bay đầu rút về phía sau, mỏ tựa xuống phía trước cổ (Jan Hanzák and Jiri Formánek, The Illustrated Encyclopedia of Birds, tr.47)]. Chim nông chân ngắn nên khi bay không thấy chân, giống như hình chim ở đây.

Một mấu chốt chính nữa là những con chim này có con mắt âm diễn tả bằng chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình vòng tròn kép đồng tâm có chấm. Hai vòng tròn là hai nòng âm, thái âm có một nghĩa là nước. Con chim này phải là loài chim nước giống như chim nông là loài chim nước chân có màng như chân vịt.

Có tác giả như Goloubev cho rằng các con chim bay trên trống Ngọc Lũ I này là chim cắt hornbill [Goloubev, 1929:1932a; and 1940 dẫn lại (Kempers, p.172)]. Điều này không đúng, chim cắt là chim dương con mắt phải là con mắt dương tức “vòng tròn có chấm” và thường có mũ sửng trên đầu như thấy ở trống đồng nòng nọc, âm dương Duy Tiên (xem trống này). Điểm thứ hai là những con chim này ở vành số 8 Khôn tầng hai thế gian có một khuôn mặt thái âm nước nên có khuôn mặt chính là âm, nước tức chim nông.

Con chim ở đây phải thuộc về loài chim ngành Khôn, theo duy âm là con chim biểu tượng cho Khôn âm, tức chim nước, chim nông. 

Lưu ý ở mỏ chim có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) >, mang nghĩa, lửa thái dương. Những con chim nông ở đây thuộc ngành thái dương. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là ngành Thần Nông thái dương.

Ở cổ chim có viết chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc que cong như đuôi diều bay trong gió (nọc que cong mang âm tính) nên chim có thể có một khuôn mặt Khôn dương thiếu âm gió mang tính chủ.

Như đã nói ở trên, chim nông ở trên trống đồng nòng nọc, âm dương phải mang trọn vẹn ý nghĩa của Vũ Trụ Tạo Sinh của Vũ Trụ giáo về phía nòng âm.

.Chim nông biểu tượng hư vô, vô cực.

Ở tầng Vô Cực chim nông biểu tượng cho cõi hư vô. Theo biến âm n=kh (nỏ = khỏ, Pháp ngữ non = Việt ngữ không), ta có nông = không. Chim nông có một khuôn mặt biểu tượng cho hư không, vô cực. Vì vậy mà trên các thạp đồng dùng trong mai táng như thạp đồng Hợp Minh (xem dưới) có khắc hình chim nông với một nghĩa là giúp cho hồn người chết trở về hư vô, hằng cửu.

.Chim nông biểu tượng cho nhất thể thái cực, Trứng Vũ Trụ.

Ở tầng Tạo Hóa, sinh tạo chim nông mang nghĩa sinh tạo tạo hóa thấy rõ qua tên chim nông là chim nang với nang có một nghĩa là trứng. Trứng có nòng nọc, âm dương mang nghĩa sinh tạo.

Chim nông có hai khuôn mặt nòng nọc, âm dương. Nhìn theo duy âm tức nhìn theo cái túi, cái nang dưới mỏ là chim nông mang âm tính nòng. Nhìn theo duy dương tức nhìn theo cái mỏ to, lớn mang dương tính nọc. Vì thế ở những đồ đồng Đông Sơn muộn ta thấy chim nông được diễn tả có mỏ hình nọc tam giác,  mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) ví dụ như là ở giữa hai hình thuyền  trên thạp đồng Hợp Minh cũng có hai con chim bay từ dưới nước lên trời có mỏ loại này. Hai con chim ở đây mặc dù có mỏ rìu nhưng bay từ mặt nước giữa hai chiếc thuyền lên trời phải là hai con chim nông, không thể là chim cắt được (xem dưới).

Cũng chính vì chiếc mỏ nhìn theo duy dương được dùng làm biểu tượng cho bổ, búa, rìu này mà triết gia Hy Lạp Aristotle đã đặt tên chim là pelican dựa vào gốc Hy Lạp pelekusax, cây rìu, cây búa, cây bổ (cùng gốc nghĩa với pelekos, chim gõ kiến).

Người Tây phương theo duy dương đặt tên pelican theo mỏ ax. Chúng ta theo duy âm nghiêng nhiều về mẫu hệ, sống ở vùng sông nước gọi theo cái nang là chim nông. Vì thế nhìn dưới diện nhất thể, tức nhìn theo cả túi và mỏ là một, chim nông mang lưỡng tính bổ-nông. Chim nông nhất thể mang tính sinh tạo, tạo hóa, đẻ ra Trứng Vũ Trụ (như đã nói ở trên nông biến âm với nang có một nghĩa là trứng). Mẹ Tổ Âu Cơ có di thể (gene) trứng này hay nói một cách khác đội lốt Mẹ chim Nông Vũ Trụ, Trứng Vũ Trụ nên mới sinh ra bọc Trứng Thế Gian Trăm Lang Hùng.

Chim nông tên Hán Việt là đường nga là loài chim chân có màng cùng loài ngỗng có tên Hán Việt là nga. Đối chiếu với truyền thuyết Ai Cập cổ, con Ngỗng Great Crackle sinh ra Trứng Thế Gian như thế con Nông đường nga sinh ra Trứng Vũ Trụ là điều đáng tin cậy vì truyền thuyết và cổ sử Việt tương đồng với Ai Cập cổ (xem Sự Tương Đồng Giữa Ai Cập Cổ và Cổ Việt).

Chim nông biểu tượng cho sinh tạo, tạo hóa cũng thấy trong các huyền thoại Tây phương. Chim nông là biểu tượng cho đấng sinh tạo, theo duy âm là mẹ hiền cao cả thiêng liêng đã xả thân mình để nuôi con. Gặp hoàn cảnh khó khăn chim nông mẹ đã mổ rách ngực mình để lấy máu nuôi con.

Chim nông mổ rách ngực lấy máu nuôi con trở thành biểu tượng cho Chúa Jesus (nguồn: Uliss Androvandi trong Ornithologae, Bologna, 1600).

Vì thế mà chim nông đã trở thành biểu tượng của đấng Christ trong Thiên Chúa (Jake Page and Eugene S. Morton, Lords of the Air, The Smithsonian Book of Birds tr. 36).

.Chim nông biểu tượng cho lưỡng nghi.

Nhìn dưới diện lưỡng nghi tức nòng nọc, âm dương đã tách ra thành hai cực nòng nọc, âm dương riêng rẽ, tức nhìn túi nang và mỏ riêng biệt thì chim nông có hai khuôn mặt biểu tượng cho cực âm nông (theo túi dưới mỏ) và cực dương bổ (theo mỏ lớn).

Ở tầng Lưỡng Nghi chim nông, chim nang Trứng Vũ Trụ tách ra hai cực: cực dương Nọc, lửa, mặt trời ngành nòng thái dương ứng với tròng đỏ của Trứng Vũ Trụ  và cực âm Nòng, nước, không gian.

Ở tầng lưỡng nghi này có thể dùng chim nông đực và cái hay với các chi tiết diễn tả theo nòng nọc, âm dương để diễn tả hai cực.

 

Hình chim nông đực bên phải được diễn tả có có bờm lớn, đỏ rất cường điệu mang dương tính, mỏ túi xịên thẳng nét hợp với mỏ tạo thành hình rìu, cổ đỏ, thẳng đứng hình nọc mang dương tính, thân bầu tròn. Trong khi con cái bên trái có bờm nhỏ, túi nang cong hợp với mỏ thành hình túi, cổ trắng, cong chỉ có vệt hồng, người thuôn dài mang âm tính. Trong túi mỏ hai con chim có con cá xác thực đây là chim nông.  Chim nông ở đây người tròn, đuôi ngắn giống như hình chim nông trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I (kỷ vật tác giả mua trong chuyến thám du Nam Cực).

 Lưu ý

Chim nông là chim nước nên nòng nọc, âm dương là của phía nòng âm Khôn. Ở cõi tiểu vũ trụ, phía cực dương nọc là dương của âm tức thiếu âm có một khuôn mặt là bổ nông và phía cực âm là âm của âm là thái âm có một khuôn mặt bồ nông.

.Chim nông biểu tượng cho tứ tượng.

Nhìn dưới diện  tứ tượng, chim nông cũng có bốn loại ứng với tứ tượng, Bốn Nguyên Sinh Động Lực Nguyên Khởi Chính, về vật thể là Nước, Khí, Lửa, Đất. Đó là tượng Lửa thái dương (có thể là loài hay được diễn tả bằng cổ hoặc mỏ đỏ), tượng Đất thiếu dương (có thể là loài hay được diễn tả bằng cổ hoặc mỏ vàng hay nâu), tượng Gió thiếu âm (có thể là loài hay được diễn tả bằng cổ hoặc mỏ trắng) và tượng Nước (có thể là loài hay được diễn tả bằng cổ hoặc mỏ đen). Trong chữ viết nòng nọc vòng tròn-que, cái nang dưới cổ chim được diễn tả theo những hình đa giác mang tính nòng nọc, âm dương khác nhau ứng với  tứ tượng ví dụ như thấy rõ ở đuôi thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I  (xem dưới).

Đi vào chi tiết, giống như ở nhóm 6 người, ta suy ra trong 6 con chim này có hai con là đại biểu cho hai phía âm dương, ngoại nội và còn bốn con còn lại ứng với Tứ Tượng của dòng nòng Khôn thái dương (xem phần Người ở trên và chương Ý Nghĩa Hình Người Trên Trống Đồng).

b. Nhóm 8 con trên bán viên dương nhóm 6 người nhẩy múa.

Ta suy ra ngay nhóm 8 chim nông ở vị trí dưới nhóm 6 người nhẩy múa trên bán viên âm của mặt trống là những con chim nông nước thái âm (số 8 là số  Khôn, âm thái âm).

Ta cũng thấy hai khuôn mặt âm dương khác nhau của hai nhóm chim này ăn khớp hai khuôn mặt cái đực của những con hươu ở cùng vành số 8 này (xem dưới).

Điểm đáng tiếc là chỉ có hình vẽ chi tiết nhóm 6 con chim nông như thấy ở trên nhưng không có hình vẽ chi tiết nhóm 8 con nên không biết có gì khác nhau chuyên biệt giữa hai nhóm chim này không.

Theo suy luận thì vì có hai nhóm 6 mang tính thiếu âm gió và 8 mang tính thái âm nước thì các con chim này phải có hai loại chim nông gió bổ nông và chim nông nước bồ nông.

Tôi hy vọng một ngày nào được nhìn tận mắt cả hai nhóm chim này ngay trên hiện vật là trống trống Ngọc Lũ I hay có thêm được hình vẽ chi tiết của 8 con còn lại để giải đọc chi tiết từng con chim một.

Tóm tắt lại, những con chim bay ở vành số 8 trên trống Ngọc Lũ I là những con chim nông Khôn cõi trên thế gian ngành thái dương (có thêm khuôn mặt đội lốt Tạo Hóa cõi thượng thế). Những chim Khôn này chia ra làm hai nhóm: nhóm 6 con là nông thiếu âm Khôn dương và nhóm 8 con là nông thái âm Khôn âm.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt những con nông này là chim nông Khôn Nước-Gió của ngành âm ứng với Thần Nông thái dương đất dương thế gian. Nhóm 8 con biểu tượng cho Thần Nước dương Chấn và nhóm 6 con biểu tượng cho Nông khí gió Đoài.

Nhóm chim nông Thần Nông này đi với hai nhóm hươu Càn Li ứng với Viêm Đế đất dương thế gian (xem dưới).

.Chim nông ở đuôi thuyền:

Đuôi thuyền trên trống Ngọc Lũ I và các trống họ hàng như trống Hoàng Hạ có hình đầu chim. Đầu chim này có con mắt âm “hai vòng tròn đồng tâm có chấm” và cái túi dưới mỏ đã thể điệu hóa thành hình đa giác cho thấy đây là đầu chim nông.

Ví dụ ở đuôi thuyền số 6 trên trống Ngọc Lũ I dưới đây có đầu chim nông.

Đuôi thuyền đầu chim nông của thuyền số 6 này có con mắt âm hai vòng tròn đồng tâm có chấm và túi nang hình tháp có phụ đề với nhiều đường sọc song song nghiêng âm là chim nông nước dòng Li dòng nòng âm. Bờm chim có những sợi lông dài như tia sáng mang dương tính Càn dòng âm nước. Đầu chim nông này diễn tả nhánh Li-Càn của dòng nòng, nước.

Túi nang dưới cổ hiệp (accord) với tính âm dương của con thuyền có hình dạng khác nhau ở mỗi đuôi thuyền ví dụ ở đuôi thuyền số 1 có hình mũi mác, hình búa mỏ chim, mỏ rìu mang dương tính tối đa. Đây là con chim bổ nông dòng nước.

 

Đầu chim bổ nông hình búa rìu ở đuôi thuyền số 1 trên trống Ngọc Lũ I.      

Lưu ý là sau đuôi những con thuyền hình chim nông có cây cọc khắc những hình đầu chim cắt có con mắt dương “vòng tròn có chấm”. Chim nông đi cặp với chim cắt ở dạng lưỡng hợp thiếu âm-thiếu dương ở cõi tiểu vũ trụ (vì ở đuôi thuyền nên là tiểu) (xem chương Hình Thuyền Trên Trống Đồng).

Như thế con chim ở đuôi thuyền chắc chắn trăm phần trăm là chim nông vì hôn phối với chim cắt ở cây trụ ngay sau đuôi thuyền theo dạng hôn phối tiểu vũ trụ thiếu âm bổ nông với thiếu dương bồ cắt. Trong khi ở mũi thuyền có dạng lưỡng hợp đại vũ trụ thái âm đầu rắn nước há miệng với chim rìu, chim cắt thái dương lao vào miệng rắn (xem chương Hình Thuyền Trên Trống Đồng).

Chim nông thấy trên trống đồng âm dương và đồ đồng Đông Sơn khác.

Không phải chỉ trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có chim nông mà chim tổ nông còn thấy trên nhiều trống và các đồ đồng Đông Sơn khác.

a. Trống đồng Hoàng Hạ.

.Ở tang trống, bên thuyền có hình hai con chim mỏ phình to như cái túi, cái nang đứng trên một vật nổi.

Có tác giả cho đây là hai con chim tha mồi nên mỏ phình to như cái nang, cái túi. Quan sát kỹ ta thấy rõ một điểm không còn tranh luận, không còn chối cãi nữa là hai con chim này đang ở thế đạp mái. Con sau đứng trên lưng con trước ở vị thế đạp mái.

Đây chắc chắn không phải là hai con chim đang tha mồi. Theo sự hiểu biết của chúng tôi, không có loài chim nào vừa tha mồi vừa đạp mái! Đang tha mồi nuôi con thì đâu đã “nghĩ” đến chuyện đẻ thêm lứa con nữa. Còn nói tha mồi để ăn thì vừa đạp mái vừa ăn chỉ có nước chết vì sặc thức ăn. Đây là hai con chim đang đạp mái, chim mỏ có túi, chỉ có thể là hai con chim mỏ nông không thể nào là loài chim gì khác. Người nghệ sĩ tuyệt vời nào đó đã cho ta một cái “chìa khóa vàng” để nhận diện ra loài chim này là động tác đạp mái (xem giải đọc trống đồng Hoàng Hạ).

Hai con chim này có mắt âm là vòng tròn kép có chấm giữa và trên người có phụ đề hai vòng tròn kép. Vòng tròn kép đồng tâm có một nghĩa là thái âm nước. Đây là loài chim nước. Con chim nước mỏ có túi nang là con chim nông. Những chấm nọc dương có nghĩa lửa, thái dương cho biết những con chim nông này thuộc ngành nọc mặt trời thái dương. Tóm lại tổng quát chim có con mắt âm hai vòng tròn đồng tâm có chấm là chim nông Khôn nước ngành dương.

Ta cũng thấy rõ chim này đứng bên thuyền ở tang trống là chim nước. Vật nổi mà chim nông đứng ở trên có “phụ đề” hình sóng chuyển động cho biết vật nổi này nằm trên sóng nước và hai con chim là loài chim nước, ăn khớp với chim nông trăm phầm trăm.

Lưu ý con đực đang đạp mái có mỏ túi hình rìu mũi nhọn nọc trong khi con mái mỏ nang hình túi nòng, trong có các chấm nọc mang nghĩa thái dương.

.Ở phía đuôi thuyền có hình hai đầu chim. Đuôi thuyền hình đầu chim có con mắt âm hai vòng tròn có chấm cho biết con chim này là chim nước, dưới mỏ có túi nang hình thể điệu hóa thành hình thang có mũi nhọn mang dương tính trong có hai nọc que lửa, thái dương. Vậy đây là đầu con chim có nang O mang dương tính thái dương II tức thái dương của nòng âm O, Khôn thái dương hay quẻ Đoài vũ trụ khí gió IIO. Ta cũng thấy IIO = dương I và thiếu âm khí gió IO tức khí gió dương (Đoài vũ trụ).

Mỏ lớn trong có đánh dấu các chấm nọc dương cho biết mỏ mang tính nọc dương. Như thế đây là đầu con chim bổ nông.

Sau đuôi thuyền hình đầu chim bổ nông này có hình một đầu chim khác. Đầu chim thứ hai này có con mắt dương chỉ có một vòng tròn có chấm cho biết đây là con chim dương lửa. Mỏ lớn trên có bờm như sừng.  Đây là đầu chim cắt.

Như thế ở đuôi thuyền có dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ  thiếu âm bổ nông với thiếu dương bồ cắt. Trong khi đầu thuyền có hình chim rìu thái dương lao vào mũi thuyền hình đầu rằn thái âm há miệng ở dưới dạng lưỡng hợp đại vũ trụ thái dương với thái âm (xem trống đồng âm dương Hoàng Hạ).

b. Chim nông trên trống Hòa Bình

Ở vùng nước tại phần phình tang trống Hòa Bình có những con chim nông đứng.

Trng Hòa Bình nhìn ngang (Nguyễn Văn Huyên).

 Chủ điểm của tang trống là những con chim đậu trên mặt đất. Những con chim đứng ở vùng nước này bắt buộc trăm phần trăm phải là loài chim nước. Chim đứng cho thấy chim biểu tượng cho cõi trời của đất thế gian chứ chim không bay nên không biểu tượng cho cõi trên, vũ trụ. Vậy đây là loài chim nước đất thế gian. Mắt chim chỉ có một vòng tròn là mắt dương. Chim có mỏ rất lớn mang dương tính nhưng đầu mỏ tròn không nhọn mang âm tính tức dương của ngành nòng âm, nước.

Chân chim thấp lè tè như vịt, chim đứng bụng thấy sát mặt đất, hai cánh xoải rộng ăn khớp với chim nông.

Những con chim này là con chim nông.

Trên cổ và người chim có các hình nọc chấm mang ý nghĩa nọc, lửa, mặt trời nguyên tạo cho biết chim thuộc ngành nọc thái dương.

Những con chim nông này mang tính dương tức nông khí gió hay là chim bổ nông.

c. Chim trên trống Phú Xuyên.

-Chim ở tang trống.

.Chim và thuyền trên thân trống Phú Xuyên (Nguyễn Văn Huyên).

Chủ điểm của tang trống là hai hình thuyền và hình chim.

Sau con thuyền có 3 người có một hình chim đứng. Chim đứng sau thuyền phải là loài chim nước. Chim nước có mỏ dài nhọn mang dương tính nọc (có một nghĩa là vật nhọn như bổ, búa). Đuôi ngắn, thân to, chân thấp. Chim mang vóc dáng của chim bổ nông.

Chim ở đây không thấy cái túi dưới mỏ chỉ có mỏ mang dương tính cường điệu là con bổ nông bởi vì trống này là trống nọc, lửa Kì Việt mang dương tính cực đại.

Chim đứng sau đuôi thuyền cũng mang âm tính (đuôi thuyền là âm, đầu thuyền là dương, thuyền trên trống đồng thường chuyển động theo chiều dương, chiều mặt trời) cũng cho biết chim thuộc đại tộc nọc thiếu âm (thái dương của nòng âm).

Một hai yếu tố nữa hỗ trợ cho thấy chim này là chim bổ nông thiếu âm là thuyền này có 3 người là thuyền của tộc thiếu âm gió Đoài (số 3 là số Đoài). Số 1 con chim là số lẻ số dương cũng cho biết chim mang khuôn mặt dương của ngành nòng tức thiếu âm.

Ở thuyền 4 người có hai hình chim đứng.

Hình thuyền có 4 người.

 Lưu ý 4 người với số 4 là số chẵn, số âm và 2 chim với số 2 cũng là số chẵn, số âm ta thấy ngay thuyền mang âm tính tức thuộc về nòng Khôn. Như thế một con Khôn dương tức thiếu âm gió và một con Khôn âm tức thái âm nước.

Chim đứng ở đầu mũi thuyền là loài chim nước có mỏ dài nhọn mang dương tính cường điệu, cổ ngắn, chân ngắn, đuôi ngắn có các sọc nước. Đây là con bồ nông thái âm (đứng phía dương đầu mũi thuyền và thuyền mang tính thái âm).

Trên người có những chấm nọc cho biết chim là con đực, ngành lửa, thái dương.

Chim đứng ở đuôi thuyền chỉ khác chim đứng ở mũi thuyền là có đuôi dài hình lông chim biểu tượng cho khí gió. Đây là dạng thể điệu hóa để diễn tả tính chất gió thiếu âm.

Hai con chim này diễn tả hai khuôn mặt nòng nọc, âm dương của ngành nòng Khôn.

Nhìn tổng ta thấy chim mang biểu tượng cho khuôn mặt nọc, lửa thiếu âm Đoài và nọc, lửa thái âm Chấn của ngành nọc âm. Trong khi trên mặt trống hươu sủa mang gạc biểu tượng cho nọc, lửa thiếu dương Li và cò bay biểu tượng cho nọc, lửa thái dương Càn.

Ta thấy rất rõ ở vùng đất, trống này biểu tượng cho nọc thái dương Càn, nọc thiếu dương Li ngành nọc dương ứng với nọc mặt trời Viêm Đế và vùng nước biểu tượng nọc thái âm Chấn, nọc thiếu âm Đoài ngành nọc âm ứng với nọc mặt trời Thần Nông (xem trống Kì Việt Phú Xuyên).

Lưu ý

Ở đây là trống thuần dương Kì Việt nên chim nông có một khuôn mặt dương nhìn theo cái mỏ lớn dài nhọn mang dương tính nên chim không có túi nang dưới mỏ.

-Chim trên thân trống.

.Chim trên thân trống Phú Xuyên.

Thân trống có 8 ô, trong 6 ô có hình chim đứng, còn hai ô bỏ trống.

Ở đây hình vẽ hai con chim cũng mang dáng dấp hình chim đứng trước và sau thuyền. Một con xòe cánh, xòe đuôi như muốn bay diễn tả tính động mang dương tính và bay liên hệ với khí gió có thể là con bổ nông thiếu âm còn con kia đứng yên tĩnh mang âm tính là con bồ nông thái âm. Hai con chim này cũng diễn tả hai khuôn mặt nòng nọc, âm dương của Khôn.

d. Chim nông trên các đồ đồng Đông Sơn khác.

Hình bóng con nông cũng thấy rất nhiều trên các đồ đồng đông sơn khác.

Xin kể ra đây một ví dụ điển hình nhất là thạp đồng Hợp Minh (Yên Bái), trên nắp có bốn tượng chim nông và  ở thân thạp, vành số 8 có hàng chim nông mỏ hình rìu, hình búa, hình bổ tức chim bổ nông.

 

 Chim bổ nông trên thạp đồng Hợp Minh  (Yên Bái), hình vẽ của Hà Nguyên Điềm (Hà Văn Phùng,  Di tích Hợp Minh Yên Bái, một sưu tập sáng giá thuộc văn hóa Đông Sơn, Khảo Cổ Học, 4- 1995,  tr.26).

Vành chim nông ở thạp này mang vóc dáng y hệt các con nông trên trống Hòa Bình chỉ khác có chiếc mỏ tận cùng bằng hình nọc tam giác, mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói), hình mỏ rìu.  Ở phần giáp ranh giữa hai mối khuôn đúc có khắc hai chim nhỏ đang bay chúc xuống phía dưới trong tư thế phóng người xuống nước, đặc biệt nhất là cái mỏ hình mũi tên, tam giác, vật nhọn như chiếc bổ, chiếc búa chim. Nhưng rõ nhất là ở giữa hai hình thuyền cũng có hai con chim loại này bay từ dưới nước lên trời.

 

Hai con chim bổ nông bay từ mặt nước lên giữa hai thuyền trên thạp đồng Hợp Minh.

Hiển nhiên ta thấy đây là chim bổ nông nước. Hai con chim ở đây mặc dù có mỏ rìu nhưng bay từ mặt nước giữa hai chiếc thuyền lên trời phải là hai con chim nông, không thể là chim cắt được. Như đã nói ở trên, vì nhìn theo duy dương được dùng làm biểu tượng cho bổ, búa, rìu này mà triết gia Hy Lạp Aristotle đã đặt tên chim là pelican dựa vào gốc Hy Lạp pelekus là ax, chiếc rìu.

Những con chim bổ nông ở thạp này mang biểu tượng Cõi Trời âm của Cõi Âm Nước mang nghĩa sinh tạo, tái sinh, hằng cửu đối với những hồn người chết chôn trong thạp hay giúp đưa những linh hồn họ về Cõi Trời. Chim nông đẻ ra trứng hư không, vũ trụ. Thạp là vật dùng làm quan tài chôn những phần hay tro than người chết (dĩ nhiên là của giới vương quyền), cũng có hình trứng sinh tạo, một hình thức trống cõi âm. Đây là bọc, trứng hư không, vũ trụ. Con người được chôn trong trứng hư không vũ trụ để trở về với hư không vũ trụ, để được sống hằng cửu hay tái sinh.

Lưu ý

.Con chim bổ nông ở đây có mỏ bổ, búa rìu mang dương tính nên tác giả làm thạp khắc con mắt dương “vòng tròn có chấm” thay vì con mắt âm vòng tròn kép có chấm.

.Chim nông được nhìn dưới hại diện nòng nọc, âm dương theo cái túi nang và cái mỏ rìu là một ví dụ điển hình cho thấy tất cả những yếu tố của văn hóa Bách Việt lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng như vật tổ, nhân vật truyền thuyết và cổ sử Việt, vân vân… phải được nhìn dưới lăng kính trọn vẹn của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo, Việt Dịch nòng nọc, âm dương hay ít nhất cũng phải được nhìn ở dưới diện lưỡng hợp nòng nọc, âm dương, Chim-Rắn, Tiên Rồng.   

e. Tượng đồng chim nông.

Ngoài ra còn có nhiều tượng đồng Đông Sơn hình chim nông.

Chim Nông Là Vật Tổ Của Bách Việt

Qua tác phầm Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt và nhiều bài viết khác, chúng ta đã viết rõ chim nông là vật tổ cõi thượng thế của Bách Việt phía nòng âm Thần Nông đối ứng với chim cắt phía Viêm Đế.

Ở đây chỉ xin nhắc qua vài chứng tích chính yếu.

.Chim nông đẻ ra Trứng Vũ Trụ, tiền thân của chim Âu Cơ sinh ra bọc trứng thế gian trăm lang Hùng. Như đã nói ở trên Nông biến âm với Nang có một nghĩa là Trứng. Chim nông có một khuôn mặt là chim đẻ ra Trứng Vũ Trụ.

Mã Lai ngữ chim nông gọi là undan. Ta thấy undan gần cận với Phạn ngữ anda, trứng. Mã Lai ruột thịt với Bách Việt.

Chim nông ngày nay thuộc họ dạng con nông đã xuất hiện cách đây từ hàng 100 triệu năm lên tới tận thời khủng long. Chim nông là loài chim ngày nay còn mang hình thù cổ quái của các loài khủng điểu ngày xưa.

Về chim học (ornithology) con nông là loài chim sống ở vùng sông hồ nước ngọt và bờ biển. Vì thế chim nông đích thực là chim tổ của Bách Việt sống ở vùng sông biển. Trung Hoa sống ở vùng khô, không có chim nông, họ lấy vật tổ là con chim lửa, chim phượng.  Trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn có vật tổ chim nông là trống của Bách Việt.

Vật tổ chim nông còn thấy chứng tích qua:

1. Sử Miệng Ca dao “Ngàn Năm Bia Miệng”

.Chim nông là vật tổ đứng hàng đầu như thấy qua bài đồng dao nói về vật tổ chim của chúng ta:

Bổ nông là ông bồ cắt,

Bồ cắt là bác chim di,

Chim di là dì sáo sậu

Sáo sậu là cậu sáo đen

Sáo đen là em tu hú

Tu hú là chú bồ nông.

Bài hát có thể có nhiều dị bản nhưng dù là bản nào đi nữa thì bao giờ con nông cũng được xếp lên trên hết. Câu hát mở đầu này là câu mở đầu cổ sử Việt Nam về phương diện vật tổ chim. Điểm này cho thấy vật tổ chim nông đã được ghi vào ngàn năm bia miệng ca dao và là vật tổ chim tối cao của chúng ta (Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt).

.Con nông là vật tổ không được ăn thịt.

Con nông được tôn thờ như một vật tổ, được coi như một thứ hèm (theo qui luật biến âm h=k như hơi = khói, ta có hèm = khem có nghĩa là kiêng khem, kiêng kÿ tức taboo) không được ăn thịt còn thấy qua câu ca dao:

 Con cò con vạc, con nông,

Ba con cùng béo, vặt lông con nào?

Vặt lông con cốc cho tao,

Hành răm mắm muối cho vào mà thuôn.

Con nông vật tổ đẻ ra Trứng Vũ Trụ Tạo Hóa Thần Nông cho dù có ‘béo’cũng không được ăn thịt, vật tổ là một taboo, một thứ cấm kỵ. Ở đây ta cũng thấy con cò con vạc cũng không được ăn thịt như thế cò vạc cũng là những vật tổ (xem phần nói về cò). Con cốc không phải là vật tổ của chúng ta nên ăn thịt được cho dù không thấy nói đến nó có béo hay không.

.Vật tổ chim Trứng của người Mường.

Trong bài hát tế “Đẻ Đất Đẻ Nước” của người Mường, có đoạn nói đến:

 Trời với đất còn dính làm một

……

Chưa có chim tráng, chim trủng.

Trương Sỹ Hùng Bùi Thiện cắt nghĩa chim tráng là loại diều hâu, không hiểu loài diều hâu gì vì nhiều loại. Chim trủng là loại chim hay kêu về tháng 2,3, kêu hai tiếng một não nuột (tập I tr. 732). Đây là giải thích theo ngày nay. Theo câu Trời với đất còn dính làm một, có nghĩa là khi trời đất còn trong trứng nước, còn là quả trứng vũ trụ thì chim ‘tráng’là chim ‘chàng’, chim đục, chim rìu, chim cắt và chim ‘trủng’là chim ‘trứng’, chim nang, chim nông. Chim trủng là chim trứng tức là con Nông đẻ ra Trứng Vũ Trụ (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

 2. Sử Đồng Đông Sơn

Như đã nói ở trên.

Chắc chắn còn nhiều di tích về con nông nữa trong văn hóa ViệtNamvà Bách Việt…

Như thế vật tổ chim tối cao tối thượng của chúng ta là con NÔNG. Con Nông là chim Trứng. Con Nông đẻ ra Trứng Vũ trụ. Vật tổ con Nông còn ghi lại trong sử miệng ca dao và trong sử đồng Đông Sơn như thấy ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I này. Đây là vật tổ chuyên biệt và đặc thù của chúng ta.

Kết Luận

.Những con chim bay ở vành số 8 trên mặt trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là những con chim nông.

Ở nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương có nhóm 6 con nông. Sáu con này là những con nông âm thái dương (số 6 là số âm thái dương) tức dương của âm, thiếu âm ứng với gió dương Đoài vũ trụ.  Nhóm 6 con nông bay mang dương tính khí gió bổ nông này đi với nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương ăn khớp trăm phần trăm. Trong khi ở nhóm 6 người nhẩy múa ở bán viên âm có nhóm 8 con chim nông bổ mang âm tính (số 8 là số Khôn tầng 2) nước bồ nông cũng ăn khớp theo tính nòng nọc, âm dương trăm phần trăm.

.Các con chim nông này đang bay biểu tượng cho cõi thượng thế, cõi trời thế gian mang tính sinh tạo, tạo hóa ăn khớp với truyền thuyết chim nông, chim nang, chim Trứng Vũ Trụ.

.Vì là loài chim nước, các con chim nông bay này là chim biểu của phía nòng âm Khôn. Như đã nói ở trên chim cũng ở vành số Khôn 8 ăn khớp trăm phần trăm.

.Chim chia ra làm hai nhóm. Nhóm 6 con ứng với Khôn dương thiếu âm và nhóm 8 con ứng với Khôn âm thái âm.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, chim nông là chim biểu của ngành nòng Khôn Thần Nông và chia ra hai nhóm Khôn dương Nông và Khôn âm Thần.

.Trên mỏ chim có chữ nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) > cho thấy chim mang tính thái dương.

.Nhóm nông 6 con thiếu âm mang tính chủ vì ở bán viên dương, trên trống nọc mặt trời thái dương thế gian có 14 nọc tia sáng, ở cổ có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc que cong như đuôi diều gió và ở mỏ có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình mũi tên thái dương.

.Những con chim nông trên mặt trống đồng âm dương Ngọc Lũ I còn theo chính thống hay còn tôn trọng nòng, âm hãy còn có cái nang ở dưới mỏ trong khi ở các trống muộn hơn cái nang đã thể điệu hóa hay đã hoàn toàn theo duy dương diễn tả theo cái mỏ lớn, mỏ rìu.

.Chim nông là loài chim nước là chim tổ tối cao về ngành nòng âm của Bách Việt sống ở vùng sông biển, tuyệt nhiên Trung Hoa không có. Trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có hình chim tổ nông nước là trống biểu của Bách Việt nói chung và của Việ tNam nói riêng.

(phần 9)

 Ý NGHĨA VÀNH CHIM THÚ TRÊN TRỐNG ĐỒNG ÂM DƯƠNG NGỌC LŨ I.

 

 

Vành chim thú trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

 HƯƠU NAI Ở VÀNH SỐ 8.

Như đã biết, vành số 8 là chim thú. Chim là chim nông còn thú hiển nhiên thấy rõ là hươu nai.

 Lưu Ý

Xin nhắc lại một chút về từ vựng. Cần phân biệt ba từ hươu, nai, mang (mễn).

.Con đực gọi là hươu, hưu, hiêu, biến âm với hèo, kèo có nghĩa là cọc tức con có hai vật nhọn, hai cọc nhọn là hai từsừng vì thế Việt ngữ cổ gọi là hươu đực là hươu nọc, con cọc, hươu sửng (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc).

. Con cái gọi là nai: con nai cái là con nái, con cái (Tiếng Việt Huyền Diệu).

.Mang cũng chỉ hươu nai như mang gạc (cervulus munjac), kì mang. Mang biến âm với muông có một nghĩa là con thú, con vật, Mường ngữ là moong. Con hươu được coi là vật tổ của thú bốn chân và người sống trên mặt đất như cổ ngữ Đông Á keh là con hươu Kẻ, Kì (Cọc) và cũng là con người đầu tiên trêm mặt đất giống như vua tổ thế gian của chúng ta là Kì Dương Vương có nhũ danh là Lộc Tục (Hươu Đục, Hươc Đọc, Hươu Nọc). Anh ngữ deer vốn gốc chỉ chung tất cả loài thú bốn chân ngành nọc dương trong khi panther, báo chỉ chung lo ài thú bốn chần ngành nòng dương (pan- là tất cả,  Hy Lạp ngữ -ther là thú). Vì thế mang có mang nghĩa sinh tạo. Điểm này thấy rõ mang cũng có một nghĩa là có bầu (có mang, mang thai, cưu mang, bụng mang dạ chửa). Tôi dùng từ mang chỉ loài hươu nai mang nghĩa sinh tạo, tạo hóa thú biểu ở cõi trời thế gian.

Vì thế xin lưu ý trong những bài viết về Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo nhất là về trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn, tôi dùng từ hươu chỉ con hươu đực có sừng, mang gạc. Từ nai chỉ con cái. Từ mang hàm nghĩa sinh tạo, tạo hóa chỉ loài biểu tượng cho khuôn mặt sinh tạo tạo hóa cõi trên, cõ trời thế gian. 

 Hươu là loài thú bốn chân sống trên cạn, trên đất khô có sừng nhọn biểu tượng chính choo họ nọc, lửa, thái dương Đất Li ngành nọc thái dương Càn Li. Vì là thú bốn chân sống trên mặt đất nên khuôn mặt lửa đất Li mang tính chủ yếu, tính trội, còn khuôn mặt lửa trời Càn là Càn thế gian, Cõi Trời dương thái dương thế gian. Thú hươu biểu tượng cho lửa vũ trụ Càn mang nhiều tính cách tượng trưng và mang tính sinh tạo, tạo hóa, nghĩa là một loài mang (mễn).

Hươu biểu tượng chính cho Cõi Giữa đất thế gian thấy rõ qua hình ảnh hươu ở Cõi Giữa trên Cây Vũ Trụ Yggdrasill của Bắc Âu.

 Cây Vũ Trụ Yggdrasill của Bắc Âu.

Dĩ nhiên, cũng giống như chim nông ở cùng nhóm, cùng vành, hươu nai, mang trọn vẹn ý nghĩa triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh của Vũ Trụ giáo.

Hươu Nai Trong Vũ Trụ giáo

 Chỉ xin nhắc sơ qua những điểm chính (xem thêm Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

-Hư vô , Vô Cực.

Con hươu nai mang tính sinh tạo, bầu trời là một loài mang mễn. Mang có một nghĩa là cái bọc, cái bầu, có một khuôn mặt biểu tượng cho hư vô, vô cực của ngành nọc dương (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc). Sừng hươu tìm thấy chôn theo người chết trong các ngôi mộ cổ.

-Thái Cực

Mang cũng có một nghĩa là “cái bầu, cái bọc sinh tạo” như có mang, cưu mang, mang thai. Vì thế mang mễn có một khuôn mặt sinh tạo, tạo hóa. Nhìn dưới dạng nhất thể là Thái Cực.

 Mang có một khuôn mặt sinh tạo thái cực.

-Lưỡng nghi

-Cực Dương

 Mang có nghĩa là chiếc gai nhọn, nọc nhọn (thảo mang) vì thế mang mới chỉ con hươu là con vật có sừng, nọc nhọn. Mang biến âm với măng, cái mầm tre hình nọc nhọn, gai nhọn. Mang với nghĩa vật nhọn này biểu tượng cho nọc, dương, lửa.  

Như đã biết hươu, hưu, hiêu biến âm mẹ con với hèo là kèo, kẻ, cọc là con thú có sừng biểu tượng cho dương, nọc, lửa, mặt trời, cực dương.

Hươu tương đương với các con vật có sừng như dê (có một khuôn mặt là thần mặt trời) của Ai Cập cổ, con bò Nandi biểu tượng cho của Shiva Ấn-Độ có một biểu tượng là linga.

-Cực âm

Ở cõi tạo hóa, theo duy âm, thuần âm, âm nữ, với nghĩa cái bọc, dạ con  sinh tạo, con mang cái biểu tượng cho cực nòng, âm, mẹ… Việt ngữ nai biến âm mẹ con với nái (cái), có gốc na- liên hệ với ná, nạ, nái, nàng, nương, nòng, nác, nước…  Con nai sao cái là thú biểu của Âu Cơ trong truyền thuyết Mường (xem dưới).

-Tứ Tượng:

 Tượng Lửa Trời Càn thế gian

Mang gạc có một khuôn mặt biểu tượng cho lửa trời cõi thế gian. Con mang này mang biểu tượng lửa thái dương. Đây là loài mang đỏ “red deer”, sừng có ba mấu nhọn Càn.

 Tượng Lửa Đất Đá Li thế gian

 Như đã biết Việt ngữ hươu, hiêu, hiu là con hèo, con kèo, con nọc, con cọc nên hươu có một khuôn mặt biểu tượng cho lửa đất, đất dương, Núi Trụ thế gian. Điều này thấy rõ qua sư kiện ở Đông Nam Á hươu được cho là biểu tượng của đất khô, núi dương. Truyền thuyết và cổ sử Việt  có núi Kì. Kì Dương Vương là vua tổ đất thế gian của Bách Việt.

Tượng Lửa Nước thế gian

Thú biểu dòng lửa nước là con mang nước gọi theo danh từ động vật học là “Chinese water  deer” (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

Tượng Gió thế gian.

Theo dòng hươu là con hươu gió, có thể là con hươu khoang hay đuôi bông lau như đuôi ngựa mang biểu tượng gió.

-Trục Thế Giới

Hươu có một khuôn mặt biểu tượng cho Trục Thế Giới. Kì Dương Vương có một khuôn mặt Trục Thế Giới. Như đã nói ở trên Kì Dương Vương Hươu Mặt Trời tương đương với bò Nandi của Shiva, với dê mặt trời của thần đất Keb của Ai Cập cổ có một khuôn mặt Trục Thế Giới.

Núi Tản Viên có một khuôn mặt là Trục Thế Giới của Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) vì thế còn có tên là Núi Tam Từng. Kì Mang (con mang sừng, mang gạc) là một vị thần ở Núi Tản Viên cứu sống lại Tiểu Long Hầu (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

-Cây Đời, Sự Sống

Tam Thế biểu tượng bằng Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống). Cây này sinh ra sự sống, muôn sinh. Như đã biết mang là sinh đẻ. Mang có một nghĩa là sinh tạo.

Con mang là con thú tổ sinh ra loài muông thú trong đó có cả con người nguyên khởi trên mặt đất. Mang biến âm với muông còn có một nghĩa chỉ chung các loài thú. Điều này giống hệt Anh ngữ deer (mang hươu), có nghĩa gốc chỉ chung tất cả các loài thú. Điều này cho thấy mang hươu được coi là con vật tổ của các loài thú sống trên mặt đất này, kể cả con người. Điểm này ăn khớp trăm phần trăm với truyền thuyết cho rằng hươu mang hình bóng con người đầu tiên trên mặt đất như  thấy qua từ Đông Á cổ kek có nghĩa là con hươu và cũng là con người đầu tiên trên mặt đất (James Churchward). Kek biến âm với kẻ, có một nghĩa là người (xem dưới). Điều này cũng đúng trăm phần trăm khi đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt. Kì Dương Vương là vua Hươu Nọc Mặt Trời có nhũ danh là Lộc Tục (Hươu Đực), vua tổ thế gian đầu tiên của chúng ta, lập ra nước Xích Quỉ (Kẻ Đỏ).  

-Tái Sinh, Hằng Cửu.

Như đã nói ở trên, Kì Mang, thần núi Tản Viên là khuôn mặt mang gạc, hươu sừng đã cứu tử hoàn sinh Tiểu Long Hầu, con cháu dòng Lạc Long Quân.

 Người Trung Hoa diễn tả sự sống hằng cửu vĩnh cửu theo nghĩa duy tục là sống lâu, tuổi thọ. Ông Thọ của Trung Hoa thường đi với con hươu có ý nghĩa là trường thọ, hằng cửu.

 Tóm lại hươu mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo của ngành nọc dương ở Cõi Giữa thế gian, Trung Thế.

 Hiểu tổng quát như thế rồi, bây giờ ta hãy khảo sát hươu nai ở vành số 8.

 Số 8 là số Khôn tầng 2 thế gian như thế chim thú ở vành này có khuôn mặt Khôn hôn phối với Càn tức khuôn mặt sinh tạo tạo hóa. Do đó ta thấy ngay hươu nai ở vành 8 này có một khuôn mặt sinh tạo, tạo hóa tức có một khuôn mặt mang mễn. Vì là thú bốn chân sống trên mặt đất nên khuôn mặt sinh tạo là của cõi đất trần gian và khuôn mặt này mang tính phụ (khuôn mặt chính ở cõi trên phải là chim mang tính lửa vũ trụ Càn).

Như đã biết, ở vành số 8 này, mỗi bán viên dương và âm đều có một nhóm chim và một nhóm hươu nai.

Bán viên dương của nhóm 7 người nhẩy múa có nhóm chim 6 con và nhóm hươu 10 con trong khi bán viên âm  nhóm 6 người nhẩy múa có nhóm chim 8 con và nhóm hươu cũng 10 con.

Mỗi nhóm có 10 con với số 10 là số Khảm tầng 2 hôn phối với Li tầng 2, thế gian. Cả hai nhóm đều có 10 con cho thấy trống này diễn tả hai khuôn mặt âm dương, ngoại nội của đại tộc hươu tức Li thế gian.  Ta cũng thấy rất rõ hươu nai có khuôn mặt nòng nọc, âm dương khác nhau vì mỗi nhóm có 5 con hươu đực đi xen kẽ với 5 con nai cái. Như vậy nhìn ở diện đất thế gian, qua hai con số Khảm 10 ta có  số 10 Khảm ở bán viên âm là Khảm âm hôn phối với Li âm tức Li ở vùng đất âm và số 10 Khảm dương ở bán viên dương hôn phối với Li tức Li ở vùng đất dương. Nhìn theo Tam Thế, ta suy ra mười nhóm hươu nai ở bán viên dương nhóm 7 người nhẩy múa có khuôn mặt chủ là Li thế gian đất Dương và ở 10 con ở bán viên âm nhóm 6 người nhẩy múa có khuôn mặt chủ là Li vũ trụ tức Càn thế gian (lúc này hươu có tên là mang, mang gạc, mang kì). Ta nghĩ ngay ra lá các con nai cái mang tính Càn âm thế gian (Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt ứng Mẹ Tổ Âu Cơ thái dương thần nữ mang tính sinh tạo đẻ bọc trứng thế gian).Khuôn mặt chủ của hươu là đất dương Li ứng với số 5. Số 5 là số trục của 9 con số từ 1 tới 9 và ma phương có số trục 5 là ma phương trục 5/15 (ma phương trục của 9 ma phương có số ở tâm là các số từ 1 tới 9). Ma phương 5/15 có số ở tâm là 5 và tổng số các chi là 15 (hành Thổ của Trung Hoa, ở  số 5 tâm ma phương 5/15 cho thấy rõ Li 5 có khuôn mặt chính là núi trụ thế gian, đất dương thế gian, trục thế giới).

Ta hãy kiểm chứng những khuôn mặt của hươu nai này qua ma phương 5/15 này

 

 

 Ma phương trục 5/15.

 Theo ma phương 5/15 này, ta thấy ngay đường chéo 2-5-8 có Khảm 2 có hai khuôn mặt là Li 5 và  Khôn 8. Khôn hôn phối với Càn. Như thế đúng như đã nói ở trên, ở đây ta thấy rõ hai nhóm 10 con hươu Khảm có một con mang tính chủ Li ở cõi đất thế gian và một nhóm mang tính chủ Càn hôn phối với Khôn tức ở cõi sinh tạo, tạo hóa mang tính phụ.

Ta sẽ tìm hiểu xem sao.

 

1. Nhóm hươu nai ở bán viên dương 7 người nhẩy múa.

 Nhóm 10 con hươu đực nai cái đi với nhóm 6 chim nông ở nhóm 7 người nhẩy múa trên bán viên dương (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).  

Vì ở bán viên dương và đi với chim nông âm thái dương nên nhóm 10 con hươu nai này mang tính  thiếu dương (vì lưỡng hợp tiểu vũ trụ với 6 con nông mang tính thiếu âm).

Bây giờ ta hãy nhận diện tỉ mỉ những con thú này.

 .Sừng

Những hươu đực nai cái ở đây đều có sừng.

 Điểm này cho thấy rõ hươu đực nai cái ở đây diễn tả theo ý nghĩa mang tính biểu tượng vì trong thiên nhiên hầu hết nai cái không có sừng ngoại trừ loài tuần hươu “reindeer” con cái mới có nhưng sừng của loài tuần lộc to và dẹp, có nhiều mấu nhọn không giống loài hươu ở đây. Rõ ràng hươu cái có sừng ở đây mang một ý nghĩa biểu tượng. Như đã nói ở trên, thú mang ý nghĩa biểu tượng không nhất thiết phải giống hệt thú trong thiên nhiên.

Ta cũng thấy rõ thêm ý nghĩa biểu tượng này qua số mấu nhọn (nhánh) của sừng. Ta thấy con hươu dẫn đầu nhóm này có sừng bên phải có 5 mấu nhọn. Trong khi sừng trái có 3 mấu nhọn. Những con còn lại có con hai sừng đều có 3 mấu và đa số còn lại có một sừng hai mấu sừng kia có 3 mấu. Trong thiên  nhiên không có loài hươu nào có hai loại sừng khác nhau.

 Con đầu đàn sừng phải có 5 mấu nhọn. Số 5 là số Li, lửa đất, đất dương, thiếu dương.

 Hươu đực dẫn đầu nhóm ở bán viên dương có nhóm 7 người nhẩy múa (nguồn: Phạm Huy Thông và các cộng tác viên). 

Trong khi sừng trái có 3 mấu nhọn. Theo duy dương, ba mấu nhọn, ba nọc nhọn là ba hào dương, Càn.

 Khuôn mặt Li mang tính chủ vì ở sừng bên phải tức phía dương. Càn ở sừng bên trái là Càn âm mang tính phụ.

Con hươu dẫn đầu nhóm 10 con ở bán viên này có khuôn mặt Li-Càn của ngành nọc thái dương thế gian và có khuôn mặt Li mang tính chủ.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là tộc Người Mặt Trời Li Kì Dương Vương ngành nọc thái dương thế gian Viêm Đế. Như thế chúng ăn khớp với đại tộc Người Mặt Trời (Bách Việt) ở vành số 6.

Kiểm chứng với ma phương 5/15 như đã nói ở trên con hươu này có khuôn mặt chủ hôn phối Li-Khảm và khuôn mặt phụ tương hòa Càn-Khảm.

Con cuối cùng của nhóm là con nai cái

Con cuối cùng của nhóm là con nai cái có sừng phải ba mấu nhọn Càn và sừng trái hai mấu nhọn Khảm-Li.  

      Con cuối cùng ở bán viên dương có nhóm 7 người nhẩy múa là nai cái, có sừng phải có 3 mấu nhọn và sừng trái hai mấu.

 Vì ở sừng phải nên khuôn mặt Càn mang tính chủ. Nhưng Càn ở đây là Càn âm thế gian tức Li âm vì ở cuối đàn và là nai cái so với Li của con hươu đực đầu đàn.

Đối chiếu với ma phương 5/15 ta cũng thấy theo duy âm Khảm tương giao với Càn Khôn âm.

 Như thế qua cặp sừng ta thấy rõ con hươu được dẫn đầu có khuôn mặt Li-Càn với Li mang tính chủ và con nai cái cuối đàn có khuôn mặt Càn-Li với Càn mang tính chủ. Nhóm này là hươu nai thú biểu của ngành nọc thái dương Càn Li ứng với Viêm Đế. 

Vì hai sừng đều có 3 mấu nhọn Càn nên khuôn mặt Càn mang tính chủ. Trong hai Càn này có một Càn âm thế gian tức Li âm (vì là con cái) mang tính phụ vì ở cuối đàn và là nai cái so với Li của con hươu đực đầu đàn.

Đối chiếu với ma phương 5/15 ta cũng thấy theo duy âm Khảm tương giao với Càn Khôn âm.

 .Mõm

 Trên mõm tất cả hươu nai đều có chữ nòng nọc mũi mác  > thái dương. Những con hươu nai này đều thuộc ngành mặt trời thái dương. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là ngành Viêm Đế thái dương. Ngay cả các con nai cái cũng thuộc ngành mặt trời thái dương

 .Mắt

 Những con hươu nai này có con mắt dương diễn tả bằng chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình vòng tròn đơn có chấm. Ta thấy những con hươu lửa, đực mang tính chủ.

Điểm này cũng ăn khớp trăm phần trăng với hươu nai ngành nọc thái dương.

 .Thân

 Ở thân hươu nai có viết chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc que hai bên có đánh dấu bằng hai hai hàng nọc chấm mang nghĩa lửa, thái dương sinh tạo cho biết chúng là những con hươu nai ngành nọc thái dương.

 Đa số những con còn lại có sừng phải 2 mấu Khảm hôn phối với Li và sừng trái 3 mấu Càn trời và Càn thế gian Li.

Như vậy ở bán viên dương này, hươu nai biểu tượng cho ngành nọc thái dương Càn-Li và có khuôn mặt chủ là thiếu dương Li, lửa đất, đất dương diễn tả bằng con dẫn đầu có sừng phải 5 mấu Li.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là ngành nọc thái dương Viêm Đế có khuôn mặt Đế Li Kì Dương Vương mang tính chủ.

 2. Nhóm hươu nai ở bán viên âm 6 người nhẩy múa với 8 con nông.

 Tổng quát ta cũng thấy giống như ở bán viên dương có nhóm 7 người nhẩy múa. Có khác là những chi tiết mang tính nòng nọc, âm dương khác nhau thấy rõ nhất qua cặp sừng.

Nhóm 10 hươu nai ở bán viên dương có nhóm 6 người nhẩy múa và 8 con nông.

Con đầu đàn sừng phải có 2 mấu nhọn. Số 2 là Khảm hôn phối với Li. Sừng trái có 4 mấu nhọn. Số 4 là số Cấn, non (núi âm), Li âm.  

 

 Con hươu đầu đàn ở bán viên âm có nhóm 6 người nhẩy múa có sừng phải hai mấu và sừng trái 4 mấu nhọn.

Nhưng vì ở bán viên âm nên Li là Li âm, lửa đất âm (núi âm, tức non). Li âm thấy rõ qua sừng phải hai mấu Khảm-Li (Li qua hôn phối với Khảm âm) trong khi ở nhóm dương ta có Li dương thấy rõ qua sừng phải có 5 mấu nhọn Li (Li trực tiếp không qua hôn phối). Hai sừng đều có số mấu nhọn âm (số 2 và số 4 là số chẵn, số âm) cũng cho biết tính âm của Li này. Đây là con hươu đực đại diện của phía âm.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, đây là khuôn mặt âm của hươu Kì Dương Vương đại diện cho nai Âu Cơ. 

Nai sao là một thú biểu đất thế gian của Mẹ Tổ Âu Cơ. Điểm này thấy rõ nhất qua văn hóa Mường. Thầy mo Mường ngày nay khi tế lễ vẫn cắm hai bên bàn thờ hai lá cờ. Một lá vẽ hình con nai sao biểu tượng cho Âu Cơ. Người Mường vẽ nai sao thú biểu của Âu Cơ có hai sừng đàng hoàng. Một lá cờ vẽ hình con cá chép biểu tượng cho Lạc Long Quân (xem hình).

 

 

Cờ tế nai sao biểu tượng của Ngu Cơ của người Mường (nguồn: J. Cuisinier, Les Mường).

Hai sừng được cắm thêm vào đầu con nai ở đây trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I và trên lá cờ tế Mường chỉ mang một nghĩa biểu tượng là hai nọc nhọn, hai dương tức thái dương. Những con nai cái ở đây và trên lá cờ tế Mường là những con nai thái dương dòng nọc lửa, mặt trời thái dương.

Lưu ý là sừng của con nai sao trên lá cờ cũng có 4 mấu nhọn như sừng trái của con đầu đàn nhóm này. Số 4 là số chẵn số âm và số 4 là số Cấn (non, núi âm) vì con nai sao này là vật biểu của bà Ngu Cơ có một khuôn mặt là non (nên bà dẫn 50 con lên núi là vậy). Nai sao Cấn Ngu Cơ hôn phối với Chấn con cá chép nước-dương Lạc Long Quân. Đốm sao cũng mang âm tính đi với phái nữ vì sao sáng về đêm. Cổ Việt gọi sao là Nàng Sáng. Ta cũng thấy các thần nữ thường có biểu tượng là ngôi sao sáng như Venus có biểu tượng là sao mai.

Con cuối đàn ở bán viên âm này là con nai cái. Con nai này có hai hình vẽ khác nhau trong hai tài liệu của Phạm Huy Thông và của  Nguyễn Văn Huyên.

Theo Phạm Huy Thông, con nai này có sừng phải là một nọc que thật dài, rất cường điệu,

 Nai cái cuối đàn ở bán viên âm (nguồn: Phạm Huy Thông và các cộng tác viên).

 mang nhiều dương tính có một khuôn mặt Nọc Lửa thái dương thế gian, Núi Trụ thế gian, Li đất thế gian.  Sừng trái có 3 mấu Càn. Ở nai cái, ở cuối đàn và bán viên âm Càn ở sừng trái mang tính chủ.

 Theo Nguyễn Văn Huyên, thì con nai cuối đàn này có sừng bên phải có 3 mấu nhọn Càn.

                              Con nai cái cuối đàn 10 con ở bán viên âm nhóm 6 người nhẩy múa theo  Nguyễn Văn Huyên sừng phải có 3i mấu nhọn.

 Đây là Càn âm vì là nai cái và ở bán viên âm (ứng với Mẹ Tổ Âu Cơ thái dương thân nữ). Sừng trái có 2 mấu nhọn Khảm-Li.

Ta thấy theo hình vẽ của Nguyễn Văn Huyên  thì nai cái cuối đàn có Càn âm mang tính chủ ở sừng phải ăn khớp với khuôn mặt Li âm của con hươu đực đầu  đàn. Nhóm này là nhóm hươu nai biểu tượng cho Li âm thế gian đất non và Càn âm, mặt trời âm nữ. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, đây là khuôn mặt Li âm non và Càn âm thái dương thần nữ của Mẹ Tổ Âu Cơ.

Như vậy ở bán viên âm này, hươu nai có biểu tượng cho Li Càn phía âm. Khuôn mặt chủ là con nai cái cuối đàn có khuôn mặt Càn-Li nòng âm.

Khuôn mặt Càn này hôn phối với khuôn mặt thái âm Chấn 8 con nông ở cùng bán viên âm có nhóm 6 người nhẩy múa này.

 Mỗi nhóm hươu nai này có con đầu Li và con cuối Càn mang tính chủ đại điện cho hai đại tộc của ngành nọc thái dướng Càn Li. Ta có thể suy ra 8 con hươu nai còn lại là 4 cặp biểu tượng cho 4 tộc ứng với tứ tượng dương và âm (8 tượng ứng với bát quái).

Tóm lược lại hai nhóm hươu nai ở hai bán viên âm dương trên vành số 8 này:

.Là những con thú mang tính biểu tượng, là thú biểu nọc thái dương thế gian của Người Mặt Trời thái dương. Hươu đực là thú biểu của nọc dương nam và nai cái là thú biểu của nọc âm, nữ. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là thú biểu của Bách Việt, phía nam là Kì Dương Vương và về phía nữ là Mẹ Tổ Âu Cơ.

Ở bán viên dương những khuôn mặt hươu nai có khuôn mặt chủ là thiếu dương Li, lửa đất, đất dương diễn tả bằng con dẫn đầu có sừng phải 5 mấu Li. Hai nhóm hươu nai đều có 10 con tức số Khảm thế gian cũng cho biết khuôn mặt Li hôn phối với Khảm mang tính chủ. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là Li Kì Dương Vương hôn phối với Thần Long Khảm.

Nhóm hươu nai thiếu dương Li mang tính chủ này lưỡng hợp dưới dạng tiểu vũ trụ với nhóm chim nông 6 con thiếu âm ở cùng trên bán viên dương có nhóm 7 người nhẩy múa.

.Ở bán viên âm những khuôn mặt hươu nai có khuôn mặt chủ là Càn phía âm diễn tả bằng con nai cuối đàn có sừng trái ba mấu nhọn Càn. Nhóm hươu nai mang tính chủ Càn này lưỡng hợp dưới dạng đại vũ trụ với nhóm chim nông 8 con thái âm ở cùng trên bán viên âm có nhóm 6 người nhẩy múa.

.Thú có cả hươu đực và nai cái cho thấy khuôn mặt nữ còn được tôn trọng và giữ một khuôn mặt nòng nọc, âm dương  đề huề. Điểm này cũng cho thấy và xác thực một lần nữa trống đồng là trống nòng nọc, âm dương.

Hai khuôn mặt cái đực của hươu sừng ở đây ăn khớp với hai khuôn mặt Chấn Đoài của hai nhóm 8 và 6 chim nông bay. Nhóm 10 hươu Li và nhóm 6 con nông Đoài ở cùng một bán viên theo giao hòa thiếu dương thiếu âm cõi tiểu vũ trụ và nhóm 10 hươu Càn với nhóm 8 con nông Khôn Chấn ở cùng một bán viên theo giao hòa thái dương thái âm cõi đại vũ trụ.

Như đã thấy ở trên phần chim nông, vành nông hươu qua nhóm 6 con bổ nông và 10 con hươu mang dương tính của ngành thái dương diễn tả chim thú biểu của trời và đất vùng đất dương theo dạng thiếu âm thiếu dương ở Cõi Giữa nhân gian Tiểu Vũ Trụ và qua nhóm 8 con bồ nông và 10 con hươu mang dương tính của ngành thái dương diễn tả Nước-Lửa vũ trụ, khôn càn theo dạng thái âm thái dương ở Cõi trên Tạo Hóa, Đại Vũ Trụ.

.Mỗi nhóm hươu nai này có con đầu Li và con cuối Càn mang tính chủ đại điện cho hai đại tộc của ngành nọc thái dướng Càn Li. Ta có thể suy ra 8 con hươu nai còn lại là 4 cặp biểu tượng cho 4 tộc ứng với tứ tượng dương  và âm (8 tượng ứng với bát quái).

.Vành chim thú này là những biểu tượng của chủng người vũ trụ, họ Người Mặt Trời thái dương. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là họ Bách Việt Người Mặt Trời thái dương, ngành Viêm Đế-Thần Nông thái dương, sinh ra từ quả bầu vũ trụ. Chim Nông bay đẻ ra Trứng Vũ Trụ có một khuôn mặt chính biểu tượng cho cõi sinh tạo, tạo hóa, Thượng Thế. Hươu nai bốn chân sống trên mặt đất có một khuôn mặt chính biểu tượng cho cõi đất thế gian, Trung Thế.

.Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, những con hươu này mang hình bóng thú biểu của  Kì Dương Vương  đội lốt Viêm Đế họ Khương (Sừng). 10 con mang tính dương của ngành dương ở bán viên dương mặt trống là thú biểu của Đế Kì Dương Vương (Đế Li mang tính chủ) và 10 con của ngành dương ở bán viên âm mặt trống là thú biểu của Viêm Càn Đế Minh.

So sánh với chim nông như trên đã biết chim nông biểu tượng cho Khôn thế gian Thần Nông chia ra là hai nhóm: nhóm 8 con biều tượng cho Thần Nước dương Chấn và nhóm 6 con biểu tượng cho Nông khí gió Đoài.

Như vậy chim nông và hươu ở vành số 8 biểu tượng cho Viêm Đế-Thần Nông thái dương (vì thế hai loài này mới để chung cùng trên một vành)

(phần 10)

Ý NGHĨA VÀNH CHIM THÚ TRÊN TRỐNG ĐỒNG ÂM DƯƠNG NGỌC LŨ I.

Hươu Trên Trống Đồng Âm Dương và Đồ Đồng Đông Sơn khác.

.Trên Các Trống Khác

-Mang Hươu Trống Miếu Môn I.

Trống này cũng có mặt trời 14 nọc tia sáng là trống thế gian nên có vành chủ chốt nằm gần phía mặt trời là vành diễn tả hai loài thú bốn chân sống được trên mặt đất.

Một loài thấy rất rõ là mang gạc hươu sừng và một loài “thú lạ” mà tôi đã nhận diện ra là con thiên cẩu Sói Lang trời đã khởi đầu thần thoại hóa.

Hai loài thú bốn chân trên Trống Miếu Môn I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Trống Miếu Môn I cũng là trống có mặt trời 14 nọc tia sáng cùng nhóm với trống Ngọc Lũ I vì thế mà hươu nai ở hai trống tổng quát giống nhau. Tuy nhiên ý nghĩa biểu tượng khác nhau vì mỗi bán viên ở đây có 8 con chia ra làm hai tiểu nhóm 4 con thay vì là hai nhóm 10 con như ở trống Ngọc Lũ I. Số 4 là số Cấn. Số 4 Cấn âm có khuôn mặt dương là Li 5 làm đại diện và hôn phối với Chấn. Như thế theo duy dương những con hươu này mang khuôn mặt là hươu Li dòng nước Chấn. Cả hai nhóm đều có 4 con cho thấy khuôn mặt Li mang tính chủ so với khuôn mặt Càn. Điểm này cũng giống như ở trống Ngọc Lũ I hai nhóm đều có 10 con, số 10 là số Khảm hôn phối với Li.

Nhóm hươu có cả hươu đực và cái cho thấy có sự hiện diện của lưỡng hợp nòng nọc, âm dương ngay cả trong một đại tộc. Bán viên dương là nhóm có con đực đi với 4 con hươu Càn thế gian/Li. Và bán viên âm có 4 con cái đi với 4 con hươu phía Đoài.

Trong 8 con thì 7 con là cái và chỉ có 1 con đực. Điểm này cho thấy khuôn mặt âm mang tính chủ.

Ở đây cũng như ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I những con hươu cái có sừng diễn đạt theo ý nghĩa biểu tượng. Điều này dễ hiểu vì loài thú đi cùng vành được thể điệu hóa rất nhiều trông rất “lạ”, hoàn toàn mang ý nghĩa biểu tượng. Trống này đã hơi muộn.

Ta cũng thấy rất rõ trong 8 con thì có 7 con là nai cái? Tại sao lại 7? Số 7 là số Càn, lửa thái dương. 7 con nai cái thái dương Càn mang nghĩa biểu tượng là mặt trời Mặt Trời Nàng Thái dương, Thái dương thần nữ. Khuôn mặt này mang tính chủ yếu.

Từ đây ta kiểm chứng lại, ta thấy cũng đúng là nai cái (con cuối đàn) ở nhóm 6 người nhẩy múa ở bán viên âm trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có một khuôn mặt là Càn âm, ứng với thái dương thần nữ Tổ Âu Cơ.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, ta cũng thấy hươu nai ở đây ứng với hươu Li/Càn ngành Nọc Lửa thái dương Viêm Đế, Kì Dương Vương với tộc hươu Li thuộc ngành Mẹ Tổ Âu Cơ thái dương thần nữ tức nhánh Hùng Vương Lửa Núi mang tính chủ. Điều này ăn khớp trăm phần trăm với Mẹ Tổ Âu Cơ ở cõi trời sinh tạo có một khuôn mặt là Nàng Lửa, Nữ Thần thái dương OII, Tốn và ở cõi đất thế gian có một khuôn mặt là lửa đất thế gian tức núi Cấn, có thú biểu là con nai sao cái còn thấy trong truyền thuyết Mường.

Ta thấy rất rõ ở các con mang ở đây giống hươu nai ở trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I, có khác là chi tiết của cặp sửng.


Những con mang trên Trống Miếu Môn I
(nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

.Sừng mang có 3 mấu nhọn là ba hào dương III, Càn.

.8 con mang với số 8 là số Khôn hôn phối với Càn. Rõ ràng mang có một khuôn mặt Càn.

Như thế tóm lại 8 con mang trên trống Trống Miếu Môn I này thuộc ngành nọc lửa, mặt trời thái dương với khuôn mặt lửa thế gian thiếu dương Li mang tính chủ. Với 7 con cái cho biết khuôn mặt thuộc dòng lửa thế gian nữ thái dương là chính yếu.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, 8 con mang biểu tượng cho ngành nọc lửa mặt trời Viêm Đế thái dương, với khuôn mặt Kì Dương Vương lửa thế gian Li mang tính chủ và nhánh Hùng Vương theo Âu Cơ thái dương thần nữ lên núi là khuôn mặt chính yếu.

Đây chính là khuôn mặt thiếu dương Li lửa đất thế gian (Càn thế gian) tức Đế của Viêm Đế tương hợp với khuôn mặt Tốn 14 nọc tia sáng của trống Miếu Môn I ứng với phía Lửa, Núi Âu Cơ.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, ta thấy hươu nai ở đây ứng với hươu Li dòng An Dương Vương Lạc Long Quân mang tính chủ trong khi hươu Li ở trống Ngọc Lũ I thuộc dòng thái dương dòng Kì Dương Vương mang tính chủ.

-Mang gạc (muntjac) trên trống Phú Xuyên.

Mang sủa, mang gạc muntjac thể điệu hóa trên trống Phú Xuyên.

Ta đã biết những con thú trên trống Phú Xuyên là những con hươu sủa (barking deer) hay mang gạc cervulus munjac (xem trống Kì Việt Phú Xuyên).

Trống Phú Xuyên cũng thuộc nhóm trống thái dương có mặt trời 14 nọc tia sáng nên con mang, con hươu này mang tính âm dương thuộc nhóm những con hươu, mang trên hai trống trống Ngọc Lũ I và trống Miếu Môn I. Ở đây mặt trống chỉ có bốn con mang sủa ứng với tứ tượng cho thấy trống Phú Xuyên chỉ là trống biểu của một tộc hươu sủa duy nhất mà thôi. Điểu này thấy rất rõ là khoảng không gian giữa các tia sáng mặt trời có hình thái đơn gồm 4 nọc mũi mác chồng lên nhau hay hình tháp nhọn có sọc biểu tượng cho Li. Đúng lý ra phải là 5 nọc mũi mác, có thể người làm trống dùng số 4 có ý muốn nói đây là Cấn tức núi âm non, khuôn mặt âm của Li, ứng với non Âu Cơ?

Sự sai sót này cũng có thể xẩy ra vì như đã nói ở trên trống này hơi muộn, hình hươu sủa cũng đã có khuynh hướng thể điệu hóa, thần thoại hóa. Trống Phú Xuyên có thể là trống biểu của tộc hươu trong nhóm trống nọc thái dương.

Ngoài ra các trang trí trên mặt trống hoàn toàn mang dương tính cho thấy tộc hươu ở đây mang tính thuần dương tức biểu tượng cho tộc nọc lửa ngành nọc mặt trời thái dương. Vì là trống thế gian nên là tộc lửa thế gian, đất dương Li.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, ta thấy trống này là trống biểu của tộc lửa đất, núi dương Kì Dương Vương của nước Văn Lang Hùng Vương, ngành nọc thái dương Viêm Đế.

Tóm lại con thú trên trống Phú Xuyên là con hươu sủa mang gạc thái dương, cervulus muntjac, kijang, kì dương vật tổ của Bách Việt, thú biểu của Kì Dương Vương.

Trống Phú Xuyên là trống Kì Việt Kì Dương Vương của ngành nọc dương mặt trời thái dương Viêm Đế.

-Mang gạc (muntjac) trên Trống Sangeang, Nam Dương.

Trên thân trống Sangeang, Đông Nam Dương có hình mang gạc có thân trống giống con chó, có sừng có hai mấu. Đây chính là con mang sủa, mang gạc muntjac, kijang.

Mang gạc sừng hai mấu nhọn thái dương trên trống Sangeang ở Nam Dương.

So sánh hình này với hình hươu sủa muntjac trong thiên nhiên ta thấy vóc dáng y hệt nhau.

-Người Hươu Trên trống Thành Vân.

Trên trống Thành Vân có mặt trời có 10 nọc tia sáng là trống thiếu dương Li/Khảm có hình người thể điệu hóa là người của tộc đất dương Li được diễn tả theo motif hình “người chim-sừng hươu” có hai sừng có chấm nọc dương.

Trống Thành Vân (nguồn: Phạm Huy Thông và các cộng tác viên).

Những hình người thuộc tộc đất dương thiếu âm Li thể điệu hóa tối đa trở thành các motifs hình hươu trên trống Thành Vân có hình hai sừng có chấm nọc dương.

Kiểm chứng lại ta thấy rất rõ:

Như đã nói ở trên trống này có 10 nọc tia sáng là trống thuộc nhóm thiếu dương Khảm-Li.

Khoảng không gian giữa các tia sáng mặt trời hình núi tháp vách kép có sọc Li (xem chương Ý Nghĩa Cực Âm Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á ).

Vành chim có 10 chim bay với số 10 là Khảm thế gian hôn phối với Li. Trên người chim cũng có hình núi tháp, mắt “vòng tròn có chấm” Li, mỏ to nhọn, ngắn có bờm nọc que lửa, Núi Trụ Thế Gian Li. Tổng cộng có 28 người, số 28 là số Cấn tầng 4. Cấn là non, núi âm, có Li núi dương là đại diện (Li số 5 là số dương của Cấn số 4)…

Đây là những người tộc hươu nai Li. Ta cũng thấy trống có 10 nọc tia sáng Khảm thế gian hôn phối với Li thế gian. Vành cò bay cũng có 10 Khảm Li. Điểm này thấy rõ giống ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I cũng có hai nhóm 10 Khảm hôn phối với hươu Li.

-Trống Nam Trung Hoa

Trong chuyến viếng thằm Nam Trung Hoa tôi đã thấy một trống muộn Nam Trung Hoa trên mặt trống có 4 tượng hình hươu thay vào chỗ 4 tượng cóc/ếch.

Các Đồ Đồng Đông Sơn Khác.

Không phải chỉ trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có hươu mà còn thấy trên nhiều đồ đồng Đông Sơn khác.

.Thạp đồng Hợp Minh (Yên Bái).

Ở dưới phần thân thạp có vành mang gạc sừng hai mấu nhọn.


Thạp đồng Hợp Minh (Yên Bái), hình vẽ của Hà Nguyên Điềm
(Hà Văn Phùng, Di tích Hợp Minh Yên Bái, một sưu tập sáng giá thuộc văn hóa Đông Sơn, Khảo Cổ Học,4- 1995, tr.26).

Thạp là vật dùng trong mai táng cho thấy rõ mang gạc hươu nai có một khuôn mặt tái sinh hằng cửu của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo.

.Rìu Thờ Đông Sơn

Trên một chiếc rìu thờ Đông Sơn có hình hươu sừng, mang kì có hai mấu hình chữ V, đây là nét đặc thù của mang gạc Muntjac. Rìu này có khắc đủ cả ba vật biểu mang kì của Kì Dương Vương, sấu Việt Giao long của Lạc Long Quân và chó sói Lang Việt của Hùng Lang, có một khuôn mặt biểu tượng cho ba cõi thế gian (ba con vật tổ đều là loài bốn chân).

Rìu thờ Đông Sơn hay Rìu Việt.

Lưu ý theo chiều dương đọc từ dưới lên (hướng lên phía mặt trời) ta có thứ tự chó sói biểu tượng cho cõi trời (khí gió) mang gạc biểu tượng cho cõi đất và giao long biểu tượng cho cõi nước.

.Thạp Việt Khê

“Trên chiếc thạp đồng tìm được ở Việt Khê có hình người hóa trang thành nai nhẩy múa” (Văn Tân, Thời Đại Hùng Vương, tr.230).

Hình người hóa trang thành người hươu nhẩy múa trên thạp đồng Việt Khê (Charles Higham fig. 4.22).

Đây là hình ảnh Kẻ-hươu, Người-Hươu, Xích Quỉ con dân Lộc Tục, Hươu Đục, Kì Dương Vương Kẻ Chàng, Chàng Hươu…

.Đèn Đông Sơn sừng hươu.

Một chiếc đèn thờ Đông Sơn có hình sừng hươu hai mấu nhọn hươu sủa, muntjac.

Đèn thờ Đông Sơn hình sừng hươu tại Viện Bảo Tành Lịch Sử Việt Nam ở Hà Nội (ảnh của tác giả).

.Gạc hươu

Ngoài ra những vật khảo cổ học đáng giá nữa mà các nhà khảo cổ học không biết ý nghĩa của nó gọi là những

chiếc gạc. Những cái gạc này có thể làm bằng gốm, sành hay kim loại. Đây là chiếc gạc, chiếc sừng biểu tượng của vật tổ hươu của chúng ta. Gạc này là một thứ nêu thờ để hồn thần tổ tộc Sừng mặt trời đậu xuống, dùng làm gậy lễ, gậy hộ mạng, quyền trượng… Ví dụ trong một ngôi mộ cổ tìm thấy một cặp “móc sắt”. Những vật này mang hình ảnh những chiếc gạc, sừng hươu sủa hai mấu nhọn.

Cặp sừng mang gạc (BEFEO).

Tóm lại những con hươu trên trống đồng âm dương và trên đồ đồng Đông Sơn là những con thú mang ý nghĩa biểu tượng mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ thuyết, Dịch. Riêng những con hươu trên trống Ngọc Lũ I, những con hươu đực có hai loại sừng mang biểu tượng cho ngành Lửa gồm hai đại tộc Càn thế gian và Li thái dương ứng với Viêm Đế, Đế Minh và Kì Dương Vương. Riêng những con cái mang biểu tượng Lửa âm nữ, ứng với con hươu sao cái vật biểu của Mẹ Tổ Âu Cơ của Mường Việt.

Hươu là vật tổ thế gian của Kì Dương Vương của Đại tộc Người Mặt Trời thái dương Việt Xích Quỉ, ngành mặt trời Viêm Đế-Thần Nông thái dương.


(phần 11)

Ý NGHĨA VÀNH CHIM THÚ TRÊN TRỐNG ĐỒNG ÂM DƯƠNG NGỌC LŨ I.

VẬT TỔ HƯƠU CỦA ĐẠI TỘC VIỆT

Qua tác phầm Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt và nhiều bài viết khác, chúng ta đã viết rõ hươu là vật tổ cõi thế gian, là hươu Việt của Bách Việt phía nọc dương Viêm Đế đối ứng với thiên cẩu sói lang phía Thần Nông.

Ở đây chỉ xin nhắc qua vài điểm chính yếu.

Ta đã biết Việt là vọt, nọc, đực, mặt trời nọc tia sáng, mặt trời rạng ngời. Hùng cũng có một nghĩa là con thú đực. Như vậy vật tổ của chúng ta phải có tên mang nghĩa như vậy. Ở cõi Thượng Thế, cõi trời có vật biểu là một loài chim, đó là con chim cắt, chim có mũ sừng, chim Việt. Ở cõi đất Trung Thế là một loài thứ bốn chân sống trên mặt đất có tên cũng phải có nghĩa nọc, đực, vọt, Việt, đó chính là con hươu, hiêu, con hèo, con nọc, con Cọc, con Hươu Việt.

Hươu Việt, hươu sừng có di thể Sừng (gene) truyền từ thần mặt trời Viêm Đế họ Khương (Sừng). Truyền thuyết ghi rằng Đế Minh là cháu ba đời thần Mặt Trời Viêm Đế đẻ ra vua đầu tiên thế gian của chúng ta là Vua Hươu Mặt Trời Kì Dương Vương có nhũ danh là Lộc Tục, Hươu Nọc, Hươu Sừng. Viêm Đế có họ là Khương (Sừng), ở thượng thế biểu tượng chính là con chim Sừng, chim mỏ cắt có mũ sừng (hornbill), là con chim Việt. Ở trung thế, cõi đất trần gian, dòng máu, gene Sừng có từ Viêm Đế này truyền xuống nên Đế Minh có biểu tượng là con mang trời. Đế Minh sinh ra Kì Dương Vương có khuôn mặt chính là con thú bốn chân ở cõi thế gian có sừng là Kì Mang, Muông Gạc, Mang gạc. Như thế khuôn mặt hươu nai có sừng trên trống Ngọc Lũ I có mang gene sừng từ thần mặt trời Viêm Đế. Như đã thấy ở trên, sừng ba mấu Lửa vũ trụ Càn sinh tạo có một khuôn mặt biểu tượng cho Đế Minh Càn và sừng hai mấu nhọn hay 5 mấu nhọn biểu tượng cho Kì Dương Vương Li thế gian.

Lưu ý

Hươu sừng là thú biểu cho vùng đất dương, đất khô, đất núi. Còn nếu là đất âm có nước là loài thú bốn chân sống được trên đất có nước và dưới nước, ở địa bàn Bách Việt là con cá sấu Việt, Trâu Việt… và ở cõi nước Hạ Thế là con rắn nước có mào sừng.

Sau đây chỉ xin vắn tắt nhắc lại một hai hình ảnh hươu sừng là thú biểu của cõi đất dương Trung Thế.

.Trước hết là ở trên Cây Tam Thế (Cây Vũ Trụ, Cây Đời Sống) Yggdrasill của Bắc Âu, ta thấy rất rõ cõi trên Thượng Thế ứng với vòm ngọn cây có biểu tượng là con chim ưng, Trung Thế ứng với cành cây là con Hươu Sừng và Hạ Thế ở gốc cây là con rắn độc đang lè lưỡi đỏ ra.


Cây Tam Thế (Cây Vũ Trụ, Cây Đời Sống) Yggdrasill của Bắc Âu (Nordic).

.James Churchward cũng đã nói tới hình bóng con hưou Keh là thủy tổ loài người trong những tác phẩm viết về một lục địa cổ mà ông gọi là Continent of Mu (Mu chính là Việt ngữ Mụ. Mẹ) tức là Đất Mẹ (Motherland) ở vùng biển Đông Nam Á (lúc đó còn dính liền với Đông Nam Á) mà ông cho đó là cái nôi của nền văn minh của con người. Ông đã diễn tả sự sáng thế bằng hình chính tay ông vẽ dưới đây:

Hươu Keh là con người đầu tiên của loài người (James Churchward) mang khuôn mặt Kì Dương Vương.

Theo ông, truyền thuyết Đông Á cổ cho rằng con hươu Keh là con người đầu tiên của nhân loại. Hình vẽ cho thấy trong quá trình sáng thế từ biển nước Vũ Trụ nhô lên mô đất nguyên khởi (tương tự như Primevial Mound của Ai Cập cổ), trong có Trục Thế Giới hình chữ T (cũng là Cây Vũ Trụ, Cây Tam Thế, Cây Đời Sống). Núi Trụ Thế Gian là một phần của Trục Thế Giới nên Núi Trụ cũng biểu tượng cho cõi đất thế gian vì thế mà phần nằm ngang của Trục Thế Giới biểu tượng cho cõi bằng mặt đất trên đó có hình cây và thú. Trên mặt đất con hươu Keh xuất hiện đầu tiên. Con hươu này có sừng là hai cọc nhọn không có đâm nhánh tương tự như cặp sừng của con hươu sủa trên trống Phú Xuyên. Hươu Keh đứng trên hai chân mang hình bóng con người đầu tiên.

Hươu Keh chính là hình bóng Kì Dương Vương (xem dưới).

Bây giờ ta thử xem hươu sủa mang gạc có phải là con thú Việt bốn chân tức con Hươu Việt sống trên mặt đất ở cõi Trung Thế hay không?

Theo truyền thuyết vua tổ cõi thế gian của Việt Nam là Kì Dương Vương, vị vua của nước đầu tiên Xích Quỉ, Người Đỏ, tức Người Mặt Trời của chúng ta.

Xin nhắc lại Xích là Đỏ. Quỉ biến âm với Pháp ngữ Qui, Latin Quo (Quo Vadis) có một nghĩa là Kẻ, Người. Quỉ ruột thịt với Kì, Kẻ có một nghĩa là Người. Bằng chứng cụ thể là ở Vân Namhiện nay còn một tộc người tên là Naxi mà người Trung Hoa phiên âm là Nạp Tây. Người Naxi có một thứ chữ viết vẽ hình hay hình tự (pictograph) do các pháp sư tên là Dongba sáng tạo ra dùng đế viết sớ trong tế lễ. Chữ này là thứ chữ vẽ hình sống (live) duy nhất ngày nay còn dùng (xem Hình Tiêu Biểu Tháng 6, 2011). Nguyên gốc nghĩa của Naxi là “Người Đen”. Có giả thuyết cho rằng người này có da ngăm đen nên gọi là ‘Người Đen” (Hắc tộc). Giải tự từ Naxi ta có Nax- đen và Xi là người. Nax (đen) liên hệ với Việt ngữ nắc là đêm như con nắc nẻ là con bướm đêm, với Hán Việt nặc có một nghĩa là kín, bí mật, đen (xã hội kín, bí mật là xã hội đen) như thư nặc danh, với Đức ngữ nacht là đêm. Còn Xi, theo x= s = k như kong (Mekong, Sông Mẹ) = sông, ta có Xi = Kì, Kẻ, người và theo x= q như xoăn = quăn, ta có Xi = Pháp ngữ Qui, Kẻ, Người.

Tóm lại Xích Quỉ là Kẻ Đỏ, Người Mặt Trời còn Naxi là Kẻ Đen.

Kì Dương Vương nghĩa là gì?

1. Kì Dương là Kẻ Dương, Cọc Dương, Cọc Lửa, Nọc Đực, Bộ Phận Sinh Dục Nam.

Kì với nghĩa là kẻ (que, cọc, thước kẻ), ke (bộ phận sinh dục nam.

Trước hết Kì Dương Vương có Kì biến âm với kẻ có nghĩa là que, nọc, cọc như thước kẻ, kè là cọc, cột (cây kè là cây palm có thân như cây cọc, cây cột không có cành)… Kì biến âm với ke có một nghĩa là bộ phận sinh dục nam (Alexandre de Rhodes, từ điển Việt Bồ La). Theo k = c =que, ta có ke = que (que, cọc, c…c).

Như thế kì là cây, cọc nếu hiểu theo tận cội nguồn của chữ viết nòng nọc vòng tròn-que thì là cọc dương, nọc dương, là bộ phận sinh dục nam. Vậy Kì Dương Vương có một khuôn mặt biểu tượng cho phái nọc nam, cho ngành nọc, ngành mặt trời, ngành Việt (vật nhọn, mặt trời). Ở đây ta hiểu tại sao Kì Dương Vương là con người Nam đầu tiên và là thần tổ Nam của con Người. Theo duy dương, Nọc dương, bộ phận sinh dục nam sinh tạo ra con người (qua tinh dịch). Thần tổ Nọc Dương đẻ ra loài người.

Đối chiếu với truyền thuyết Ấn giáo đây là khuôn mặt linga của thần Shiva. Thần Shiva có một khuôn mặt là Cọc Lửa, Trụ Lửa ‘Pillar of Fire’. Cọc Lửa của Shiva có một khuôn mặt là Cọc Lửa, Cọc Dương, bộ phận sinh dục nam này của Kì Dương Vương. Về ngôn ngữ học ta cũng thấy rất rõ Shiva có Shi- biến âm với Kì (s=sh= k = c).

Ta có từ đôi Kẻ Sĩ với Kẻ = Sĩ = Kì = Shi. Sĩ có nguồn gốc nguyên thủy là bộ phận sinh dục nam (xem Kẻ Sĩ). Như thế ta có Kì (Dương) = Shi(va) có một nghĩa là bộ phận sinh dục nam, là Linga.

Một lần khi đi du lịch đến Ấn-Độ, tôi đã chứng kiến tận mắt một phụ nữ trẻ vái lạy linga rồi đổ sữa lên đầu linga trông giống hệt như linga đang xuất tinh. Người nữ nầy lấy tay xoa sữa trên đầu linga rồi xoa lên đầu lên mặt mình. Chắc cô ta cầu xin lấy chồng, cầu tự hay cầu mắn sinh, thịnh vượng.

Đây là khuôn mặt tạo hóa sinh tạo này của Kì Dương Vương ở cõi Đất thế gian đội lốt khuôn mặt sinh tạo, tạo hóa của Viêm Đế ở Thượng Thế.

Lưu Ý

.Kì Dương Vương với Kì Dương có nghĩa là bộ phận sinh dục nam cũng như các từ Việt có nghĩa là vật nhọn, Hùng có nghĩa là đực… cũng có nguồn gốc nguyên thủy là gốc nọc, bộ phận sinh dục nam đã khiến nhiều người “cau mặt” hay “sợ hãi”. Với nghĩa bộ phận sinh dục nam này, ta phải hiểu theo nghĩa sinh tạo, tạo hóa sinh ra loài người của ngành nọc nam, mặt trời nam. Thời nguyên sơ cũng như trong các tôn giáo thờ sinh thực khí như chúng ta thờ Nõ Nường, như Ấn giáo thì các bộ giống phái nam nữ có một khuôn mặt là sinh tạo, tạo hóa.

.Trống có một nghĩa là đực cũng hàm nghĩa bộ phận sinh dục nam. Trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn là trống biểu của Hùng Vương lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng, của Bách Việt nên trống đống hình Cây Nấm Vũ Trụ (Cây Nấm Tam Thế, Cây Nấm Đời Sống) Nguyễn Xuân Quang VI (Heger I) cũng mang hình ảnh bộ phận sinh dục nam (cắt bằng đầu để làm mặt trống) và nếu nhìn theo duy âm từ dưới lên có hình âm đạo dạ con). Trống mang hình dương vật (bằng đấu) thấy rõ nhất ở những trống thô sơ có mặt giống hình vòm cây nấm như trống Thượng Nông (D-IV-1):

Trống Thượng Nông (nguồn: Phạm Huy Thông và các cộng tác viên) có hình dương vật (bằng đầu). Trống Vạn Gia Bá ở Xử Hùng, Vân Nam mà các nhà khảo cổ Trung Quốc cho là cổ nhất cũng có hình dáng như trống này. Rất tiếc trống Thượng Nông này không thử được Carbon 14 phóng xạ để định tuổi.

2. Kì Dương là Cọc Lửa Thế Gian, Núi Trụ Thế Gian. Núi Trụ Thế Gian, Núi Chống Trời.

Kì với nghĩa là Kẻ (chổ ở, vùng đất dương, đất núi, đất cao).

Cũng với khuôn mặt Cọc Lửa Trụ Lửa này, Kì Dương Vương là Trục Thế Giới ngành nọc lửa dương. Núi Trụ thế gian nằm trong Trục Thế Giới nên Kì Dương Vương Trụ Lửa Trục Thế Giới có một khuôn mặt là Núi Trụ Thế Gian, Núi Trục Thế Gian ngành nọc lửa tức biểu tượng cho núi dương, cõi đất dương, Trung Thế. Ở đây ta thấy Kì = Kẻ với nghĩa Kẻ là chỗ ở, vùng đất, mường… như Kẻ Sặt, Kẻ Mau, Kẻ Trọng.

Với nghĩa là Cọc Dương, Cọc Lửa, Trụ Dương, Kì Dương Vương có nghĩa là vua Nọc Dương, Cọc Lửa, Trụ Lửa thế gian đội lốt thần mặt trời Viêm Đế, Cọc Lửa vũ trụ.

Ta cũng thấy rất rõ Cọc Dương vừa có nghĩa là Bộ Phận Sinh Dục Nam vừa có nghĩa là Núi Cọc, Núi Trụ Thế Gian, Núi Trụ Chống Trời qua hình ảnh Núi Nam Giới ở Hà Tĩnh (Nam giới là “chữ thánh hiền” chỉ Núi Cọc, Núi C…c). Theo truyền thuyết bà Nữ Oa thách ông Tứ Tượng đắp núi thi, nếu ông đắp cao hơn bà sẽ lấy làm chồng. Kết quả ông Tứ Tượng đắp núi thua bà. Nữ Oa đắp một ngọn núi cao ngất trời, đứng trên đó có thể thấy khắp cõi trời đất. Dấu tích còn lại của ngọn núi cao do bà Nữ Oa đắp, dân gian cho là núiNamgiới ở Hà Tĩnh ngày nay… Núi Nam Giới chính là hình ảnh Núi Trụ Thế Gian, Núi Trụ Chống Trời (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

Đối chiếu với truyền thuyết Ấn giáo, Shiva có biểu tượng chính là linga với khuôn mặt Trụ Lửa cũng có một khuôn mặt Trục Thế Giới nên mới nói là có nguồn gốc sinh ra từ Núi Trụ Thế gian Kalaisha ở Hy Mã Lạp Sơn.

Đối chiếu với truyền thuyết Ai Cập cổ Thần Đất Keb có Ke- = kẻ = ki, cọc, nọc và ke-,như đã nói ở trên có nghĩa là bộ phận sinh dục nam (Alexandre de Rhodes, Từ Điển Việt Bồ La). Vì thế mà thần Đất Keb có bộ phận sinh dục nam mang hình bóng núi Trụ Thế Gian, Núi Chống Trời chống bầu trời là nữ thần Bầu Trời Nut đang uốn cong người thành hình vòm trời.

Thần Đất Keb có bộ phận sinh dục nam cương cứng cố rướng lên tới thân người của thần nữ Bầu Trời Nut mang hình ảnh Cọc Dương (Kì Dương), Núi Trụ Thế Gian, Trụ Chống Trời chống bầu trời của thần Bầu Trời Nut.

Đây là khuôn mặt ở cõi đất thế gian của Kì Dương Vương.

Như thế ta thấy rất rõ ta có thể dùng Kì Dương Vương của chúng ta với Kì Dương có nghĩa là Cọc Dương, Bộ Phận Sinh Dục Nam, Núi Trụ Thế Gian, Trục Thế Giới, Trụ Chống Trời, biểu tượng cho cõi đất Trung Thế này mà giải thích được truyền thuyết về thần Shiva của Ấn giáo và thần Đất Keb của Ai Cập cổ.

3. Kì Dương là Người Dương, Người Nam, Người Mặt Trời.

Với biến âm với Kì = Kẻ và Kẻ có một nghĩa là Người như kẻ nào đó = người nào đó, như Kẻ Sặt… thì Kì Dương là Người Dương, NgườiNam, Người Mặt Trời.

Điểm này được xác thực bởi sự kiện là Kì Dương là Cọc Dương, bộ phận sinh dục nam sinh ra con ngườiNamđầu tiên như đã nói ở trên.

Xác thực bởi truyền thuyết và cổ sử Việt, Kì Dương Vương là vua tổ đầu tiên của nước Xích Quỉ, Người Mặt Trời của chúng ta và cũng là Người đầu tiên của nhân loại.

Xác thực bởi cổ ngữ Đông Nam Á Keh, là con hươu và cũng là con người đầu tiên của nhân loại (James Churchward) như đã thấy qua hình ở trên.

Lưu Ý

Từ Kẻ chỉ người dương, người nam, người mặt trời, theo duy dương nhìn tổng quát chỉ chung loài người giống như Anh ngữ man là người nam cũng chỉ chung con người.

Nhìn dưới góc cạnh tộc người thì Kẻ chỉ người thuộc tộc nọc, tộc ngành mặt trời thái dương, tộc người ở trên vùng cao, vùng núi, tộc hươu sừng, tộc thuộc đại tộc Kì Dương Vương.

4. Kì Dương là Mặt Trời Thiên Đỉnh trên đỉnh Trục Thế Giới.

Kì là Kẻ là Nọc, như đã biết Nọc có một nghĩa là mặt trời (Việt Là Gì?). Kì Dương là Cọc Dương là Mặt Trời thái dương. Với nghĩa này, Kì Dương là Mặt Trời Thiên Đỉnh trên đỉnh Trục Thế Giới, chính ngọ, giữa trưa tức vua mặt trời nóng bỏng, chói chang nhất trong ngày.

Ta đã thấy ở trống Kì Việt Phú Xuyên, trên mặt trống tất cả các yếu tố đều mang dương tính và trống có một nghĩa là đực, dương nên ăn khớp trăm phần trăm với khuôn mặt trời thiên đỉnh nóng bỏng chói chang rạng ngời nhất của Kì Dương Vương.

5. Kì Dương là con Cọc, con Hươu Cọc, Con Mang Gạc, Hươu Gạc, Hươu Sừng, Hươu Đực.

Kì = Kẻ với Kẻ có một nghĩa là là con Cọc, con Hươu Sừng, Mang Gạc.

Về ngôn ngữ học ta đã biết hươu, hưu biến âm với hèo (roi, vọt, nọc). Con hươu là con hèo con nọc, con cọc. Ta cũng đã biết con Cọc là con hươu sừng qua trò chơi Bầu Cua Cá Cọc (thường gọi lầm là Bầu Cua Cá Cọp, trên bàn Bầu cua không có con cọp mà chỉ có con Cọc hươu sừng) (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc).

Theo h = k (hết = kết), hèo = kèo và ta có từ đôi kì kèo nghĩa là kì = kèo = hèo = hươu. Con hươu là con Kì, con Kèo, con Cọc.

Ta cũng thấy kì, kẻ biến âm với gốc Hy Lạp ngữ kera-, sừng, với Pháp ngữ cerf, con hươu.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử, như đã biết Việt Kì Dương Vương có Kì Dương có một nghĩa là con Hươu Đực (dương với nghĩa là đực) hay Hươu Mặt Trời (dương với nghĩa là mặt trời), là vua đầu tiên của nước Xích Quỉ. Kì Dương Vương là Hươu Đực, Hươu Gạc Mặt Trời vì thế mới có nhũ danh là Lộc Tục (Hươu Đục, Hươu Đực). Kiểm chứng với con Hươu Keh của Đông Á cổ có một khuôn mặt là con người đầu tiên của nhân loại ta thấy trăm phần trăm Keh chính là Việt ngữ Kẻ (cọc, người, hươu), chính là Kì Dương Vương với khuôn mặt hươu cọc, hươu sừng, mang gạc, hươu mặt trời, con người đầu tiên của Xích Quỉ, của nhân loại.

Như thế trăm phần trăm mang gạc hươu sửng cervulus muntjac là thú biểu, là thú chủ của Kì Dương Vương. Kì Dương Vương là vua mặt trời thiên đỉnh ở trên đỉnh Núi Trụ Thế Gian, Trung Thế, vị vua đầu tiên của nước Xích Quỉ, Kẻ Đỏ, Người Mặt Trời Bách Việt.

Để cho chắc chắn thêm, ta kiểm chứng với Mã Lai ngữ, một thứ ngôn ngữ ruột thịt với Việt ngữ và vả lại ở Mã Lai-Nam Dương còn có con cháu của những tộc Bộc và Giao Việt, Giao nhân giỏi về sông biển đã đi khắp năm châu bốn biển. Ta cũng thấy họ gọi Hươu sủa barking deer này là Munt’jac, Munt’jak, Mun jak tức Muông gạc, Mang gạc như chúng ta. Eureka! Tôi đã tìm ra! Hươu sủa muntjac Mã Lai còn có tên là kijang, kijangjan.

Từ kijang là muntjac trong English-Malay Dictionary của R.O. Winstedt, 1920.

Eureka! Kijang chính là Kì Dương! Kijang Hươu Sủa, barking deer chính là hươu Kì Dương, mang gạc.

Như thế trăm phần trăm Kì Dương Vương có thú biểu bốn chân là con hươu sủa barking deer, mang gạc cervulus muntjac, kijang, Kì Dương. Con thú trên trống Phú Xuyên chính là con hươu này.

Ta đã thấy trống Kì Việt Phú Xuyên có một khuôn mặt chủ là con mang gạc kì dương là trống có một khuôn mặt chủ là Kì Dương Vương.

Kiểm chứng với truyền thuyết và cổ sử Việt ta cũng thấy rõ Mẹ Tổ Âu Cơ, Nàng Lửa, thái dương thần nữ của chúng ta dẫn 50 con lên núi, đất dương thuộc ngành Lửa (Viêm Đế-Đế Minh)-Kì Dương Vương nên có một thú biểu thế gian là con nai sao (nai là con cái).

Điểm này thấy rõ qua truyền thuyết Mường, bà Ngu Cơ (Âu Cơ) có biểu tượng là con hươu sao. Khi tế lễ bao giờ cũng có lá cờ nai sao biểu tượng cho Ngu Cơ và cờ cá chép biểu tượng cho Lạc Long Quân (J. Cuisinier, Les Mường).

Cờ hươu sao biểu tượng của Ngu Cơ của người Mường (nguồn: J. Cuisinier, Les Mường).

Trong Lĩnh Nam Chích Quái, có truyền thuyết nói về một vị Thần Núi Tản Viên có tên là Kỳ Mang, Kỳ Mạng cứu con rắn nước Tiểu Long Hầu con của Lạc Long Quân. Kỳ Mang là Mang Kì, Mang Kẻ, Mang Gạc chính là Mang Gạc Muntjac Hươu Sủa. Mang Sừng cũng có thể hiểu là con Muông Sừng nghĩa là nói chung hươu, dê (Ai Cập cổ lấy dê núi làm vật biểu)… vì thế mà trong truyền thuyết nói rằng Kỳ Mang được dê núi nuôi. Núi Tản Viên có một khuôn mặt là núi Trụ Thế Gian, Núi Trục Thế Giới nên còn gọi là Tam Từng ứng với Tam Thế. Trong Cây Tam Thế (Cây Vũ Trụ, Cây Đời Sống) có Trục Thế Giới. Núi Tản Viên cũng còn gọi là núi Ba Vì biểu tượng của ba vị vương Kì Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng vương. Thần Kỳ Mang là khuôn mặt ứng với Kì Dương Vương, khuôn mặt Lạc Long Quân thấy qua Tiểu Long Hầu và theo truyền thuyết Mường Tản Viên có một khuôn mặt Hùng Vương.

Tác giả Bình Nguyên Lộc cho biết “Theo sử Tầu nhà Hạ chia nước ra làm 9 châu trong đó có đất Kinh Việt gọi là châu Kinh (cũng còn gọi là châu Kì). Ở phía đông châu Kinh, đất cũng do dân Việt làm chủ, người Trung Hoa gọi là Dương Việt và cho làm thành Châu Dương”, (Nguồn Gốc Mã Lai Củaa Dân Tộc Việt Nam tr.147). Ở chỗ khác ông viết tiếp : «Nhưng khu tứ giác đó, tức bờ Tây sông Hán là đất của ai? Chủ đất ở đó thuộc một chủng mà họ gọi là Việt, lần đầu tiên trong sử của họ. Ở đó có một cái núi mà dân di cư đặt tên là núi Kinh…

Tỉnh Hồ Bắc nằm trong khu tứ giác đó, là đất của chủng Việt”.

Như thế Núi Kinh, Núi Kì, Châu Kì, Kì Việt, Dương Việt thuộc Bách Việt tất phải liên hệ với Kì Dương Vương.

Xin nhắc lại những địa danh trong cổ sử Việt và Trung Hoa ứng với tứ tượng là Châu Dương (Châu Mặt Trời ứng với Đế Minh, Châu Kì ứng với Kì Dương Vương, Châu Hoan ứng với Lạc Long Quân và Châu Phong ứng với Hùng Vương) (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

Từ Việt trong hai chữ Việt Nam hiện nay viết với bộ tẩu là “chậy”. Con hươu là con thú bốn chân chạy trên mặt đất biểu tượng cho đất dương, dương trần. Con hươu biểu tượng cho đất dương, đốt khô cũng thấy rất rõ qua từ Hán Việt trần (bụi) có chữ lộc (hươu). Con hươu chậy trên đất khô làm bụi tung lên gọi là trần. Rõ ràng con hưou biểu tượng cho cõi dương trần, trần thế.

Chữ tẩu là chạy liên hệ mật thiết với con hươu là loài có nét đặc thù là chỉ có cách chậy để thoát thân (tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách). Ta cũng thấy rõ tính chậy này qua câu ví của người Việt “chỉ đường cho HƯƠU CHẠY”. Vậy con vật chậy có (bộ) búa, qua, vật nhọn (sừng) trong chữ Việt viết với bộ tẩu mang một hình bóng con hươu. Việt viết với bộ tẩu phải hiểu là Việt Hươu, Việt Lộc Tục (Hươu Đực, Hươu Dương, Hươu Mặt Trời). VIỆT viết với bộ tẩu CHẠY là VIỆT HƯƠU, là VIỆT KÌ DƯƠNG VƯƠNG. Kì Dương Vương là con người đầu tiên và là vị vua đầu tiên của nước Xích Quỉ của chúng ta ở cõi đất thế gian. Chữ Việt Nam hiện nay viết với bộ tẩu là lấy theo truyền thuyết Kì Dương Vương này. Ngoài ra ta cũng có câu ví nói chuyện con tườu con vượn tức nói hươu nói vượn. Ta có con tườu = con hươu. Tườu biến âm với tiều, tìu, dìu (rìu). Ông tiều phu là ông thợ rìu chặt cây trong rừng. Như vậy con tườu, con tiều là tìu, con dìu, con rìu, con Việt. Rõ như “con cua tám cẳng hai càng một mai hai mắt rõ ràng con cua” Việt có một khuôn mặt là rìu là Hươu.

Gần cận chúng ta, lịch sử của vương triều Lana Lúa Nước ở phía bắc Thái Lan còn ghi chép lại việc vua Mengrai vào thế kỷ 13 khi tuần du đến một vùng rừng núi phía nam, nằm mơ thấy con hươu sủa barking deer và năm con chuột bạch nên đã dời đô từ Chiang Rai về một chỗ mới đặt tên là Chiang Mai (Chiềng Mới, Giềng Mới) lập nên triều Đại Lúa Nước Lana huy hoàng vang bóng một thời, ngày nay còn lại những di tích tường thành. Nằm mơ thấy hươu sủa là điềm lành, được thánh thần phù trợ, đất có hươu sủa xuất hiện là đất lành. Điều này cho thấy rõ hươu sủa là con thú chủ thần thoại hóa thành con nghê, con kì trong cặp kì lân. Người Trung Hoa tin là khi thấy kì lân xuất hiện là có thánh nhân, minh quân ra đời (xem dưới). Vương quốc Lana Lúa Nước ruột thịt với với Lạc Việt Lạc Long Quân con của Kì Dương Vương.

Ngôn ngữ của Lạc quốc Lana Lúa Nước rất ruột thịt với ngôn ngữ cổ Mường Việt, ví dụ tên thủ đô Chiang Mai chính là Việt ngữ Chiềng Mới, Giềng Mới. Giềng là xóm, xóm giềng. Tên nước Lana người Tây phương dịch là “country of rice field” (xứ của đồng lúa). Lana là Cổ Ngữ Mường Việt, La là ló: lúa và na là nà, ruộng lúa nước, nà liên hệ với nã, nác, nước. Lana là xứ trồng Lúa Nước. Họ liên hệ với Lạc Việt, Lạc dân có lạc điền. Lana là một tộc của dân Lạc làm ruộng nước. Lana liên hệ với Lạc Việt nên cũng thờ Hươu Sủa Kinh Dương Vương.

Tóm lại hươu sừng, hươu cọc, hươu đực, hươu mặt trời là vật tổ thú bốn chân của chúng ta ở cõi giữa Trung Thế. Hiển nhiên vật tổ Hươu Việt này cũng mang trọn ý nghĩa trong Vũ Trụ Tạo Sinh Vũ Trụ giáo.

Nhìn dưới diện Tam Thế, Kì Dương Vương với nghĩa là vua Cọc Dương, Cọc Lửa, Trục Thế Giới dương có đủ ba khuôn mặt nọc lửa dương ở Tam Thế ứng với ba phần của Trục Thế Giới dương.

Ở Thượng Thế Cọc Lửa Kì Dương đội lốt Cọc Nóng Viêm Đế và với khuôn mặt bộ phận sinh dục nam mang khuôn mặt sinh tạo, Tạo Hóa. Ở Trung Thế, Cọc Dương mang khuôn mặt Núi Trụ Thế Gian, Núi Trụ Chống Trời, Trụ Trời. Kì Dương Vương tương đương với thần đất Keb của Ai Cập cổ và Shiva của Ấn-Độ.

Kì Dương Vương, Shiva, Keb có khuôn mặt là thần Cọc dương bộ phận sinh dục nam vì thế là vị thần tổ loài người, là thần sinh tạo ra loài người và là con người đầu tiên của ngành nọc lửa (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Ở Hạ Thế cõi Nước là khuôn mặt Cọc Lửa Búa Thiên Lôi của khuôn mặt thần sấm Lạc Long Quân.

Chứng tích thờ vật tổ hươu còn thấy nhiều trong xã hội ta ngày nay. Nhiều làng ở vùng đất tổ miền Bắc trước đây còn thờ hươu. Như đã nói ở trên, vật tổ chính của người Mường là con nai sao biểu tượng cho bà Ngu Cơ (và con cá chép biểu tượng cho Lạc Long Quân).

Linh Thú Nghê hay Kì.

Mang gạc thần thoại hóa thành con Kì trong cặp kì lân. Nghê là một linh vật đa thú (chimera) có nghĩa là con thú chủ (host) được ghép thêm nhiều phần tượng trưng của nhiều con thú vật tổ của các chi tộc khác (ghép ngoại chủng, xenotransplation) của ngành nọc lửa thế gian. Con thú chủ của Nghê là con hươu sủa, mang gạc muntjac bổn mạng của Kì Dương Vương (xem chương Linh Vật trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

Nghê và mang gạc munjac có những điểm đặc thù giống nhau là sừng ngắn chỉ chia ra hai mấu nhọn, răng biến thành nanh nhọn, mũi to (mũi kì lân), nhỏ con, thấp, chân ngắn. Hai điểm mấu chốt là cái sừng ngắn chỉ chia hai nhánh và cái răng nanh lòi ra như răng lợn lòi. Trên người con Nghê Kì cũng có nhiều hay ít nhất 4 phần thân thể khác của các thú biểu ứng với tứ tượng của ngành nọc lửa thế gian. Sừng hai mấu biểu tượng cho Lửa Đất Dương Kì Dương Vương Li, các ngọn lửa bay trên người và chung quanh người biểu tượng cho Lửa vũ trụ Đế Minh Càn, đuôi trâu, mình có vẩy thuộc về Nước dương Lạc Long quân Chấn, tai chó thuộc về Gió dương Hùng vương Đoài…

Hươu sủa muntjac rất hiền, rất nhát, thường đi từng cặp lẻ loi, lông lẫn vào cỏ cây nên hiếm thấy, những điều này ăn khớp với truyền thuyết về Kì-lân có những đặc điểm là “Đi rất êm ái, không dẫm nát cỏ dưới chân, sống bằng cây cỏ, không ăn động vật…. không làm hại người lương thiện… và thánh nhân mới gặp được nó. Mỗi lần thấy nó xuất hiện là có minh quân ra đời, là điềm lành, được thánh thần phù trợ, đất có hươu sủa xuất hiện là đất lành…” (như đã nói ở trên Vua Lana Thái nằm mơ thấy hươu sủa nên dời đô về Chiang Mai. Điều này cho thấy hươu sủa chính là con Kì trong cặp kì lân) (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

Ở đây cũng cần nhấn mạnh một điều là hươu sủa, mang gạc là con thú chủ (host)của linh thú nghê hay kì chỉ sống ở địa bàn Đông Nam Á và Nam Đảo không có ở vùng phía bắc Trung Hoa. Điểm này và các điều ta thấy về hươu sủa trong truyền thuyết và cổ sử Việt nhất là con hươu sủa trong cổ sử của Lana Thái liên hệ với Lạc Việt xác thực linh vật Kì (lân) là gốc của Bách Việt.

Tóm lại Kì Dương với nghĩa Cọc Dương, Nọc Đực, Bộ Phận Sinh Dục Nam, Núi Trụ Thế Gian, Trụ Chống Trời, Người Mặt Trời, Thần Tổ Nam của loài người, Mặt Trời Thiên Đỉnh, Nọc Việt, con Cọc, Hươu Sừng, Mang Gạc, Hươu Mặt Trời, Hươu Việt liên hệ với thần Shiva của Ấn giáo và thần Đất Keb của Ai Cập cổ.

Con hươu sủa, mang gạc là thú biểu của Kì Dương Vương, Vua Nọc Việt thế gian, Vua Mặt Trời Việt thiên đỉnh rạng người, của Người Việt Mặt Trời Xích Quỉ của nhánh Nọc Việt thái dương của họ Hồng Bàng Mặt Trời thế gian của ngành Mặt Trời Viêm Đế.

Vậy ta thấy rất rõ hươu nai ở vành số 8 trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là vật tổ bốn chân biểu tượng cho cho cõi đất thế gian mang tính chủ của chủng Người Mặt Trời thái dương có trang phục đầu hình chim có góc cạnh.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt hươu nai này là vật tổ của ViệtNamnói riêng và của Bách Việt nói chung tức của Đại Tộc Việt Người Mặt Trời thái dương.

Ta thấy rõ sử đồng của đại tộc Đông Sơn ăn khớp trăm phần trăm với sử miệng và sử sách ViệtNam.

Kết Luận

.Vành chim thú số 8 có những con chim bay là những con chim nông và các con thú là hươu nai mang ý nghĩa biểu tượng trọn vẹn của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo.

.Vì là loài chim nước, các con chim nông bay này là chim biểu của phía nòng âm Khôn, trong khi hươu nai có sừng là thú biểu của phía nọc dương Càn.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt chim nông là chim biểu của phía Thần Nông và hươu nai là thú biểu phía Viêm Đế.

.Các con chim nông đang bay biểu tượng cho cõi thượng thế, cõi trời thế gian mang tính sinh tạo, tạo hóa ăn khớp với truyền thuyết chim nông, chim nang, chim Trứng Vũ Trụ. Trong khi các hươu nai là thú bốn chân mang tính chủ biểu tượng cho cõi giữa Trung Thế. Chim nông là chim nước trong khi hươu sừng mang tính lửa đất. Ở đây chim thú cùng một vành nên có một khuôn mặt lưỡng hợp nòng nọc, âm dương nước-lửa, Trời âm đất dương.

Nhìn dưới diện lưỡng hợp đại vũ trụ thì khuôn mặt chim nông thái âm (nhóm 8 con) mang tính chủ lưỡng hợp với khuôn mặt nai cái (10 con) thái dương mang tính liệt. Nhìn dưới diện lưỡng hợp tiểu vũ trụ thì khuôn mặt thiếu dương (10 con hươu đực) lưỡng hợp với khuôn mặt chim nông thiếu âm (nhóm 6 con).

Như thế ta có lưỡng hợp đại vũ trụ với khuôn mặt nòng âm mang tính chủ và lưỡng hợp tiểu vũ trụ với khuôn mặt nọc dương mang tính chủ.

.Chim chia ra làm hai nhóm. Nhóm 6 con ứng với Khôn dương thiếu âm và nhóm 8 con ứng với Khôn âm thái âm.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, chim nông là chim biểu của ngành nòng Khôn Thần Nông và chia ra hai nhóm 6 con nông Khôn dương Nông Đoài và nhóm 8 con nông Khôn âm Thần Chấn. Chim nông biểu tượng cho Thần Nông chia ra hai nhóm Thần và Nông.

Trong khi hươu nai nhóm 10 con ở nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương có khuôn mặt chủ lửa đất Li ứng với Đế và nhóm 10 ở nhóm 8 người nhẩy múa ở bán viên âm có một khuôn mặt là lửa trời Càn âm. Hươu nai biểu tượng cho Viêm Đế và chia ra hai nhóm Viêm và Đế.

Ở đây là trống thế gian ta có lưỡng hợp Nông Đoài và Hươu Li ứng với Nông của Thần Nông với Đế của Viêm Đế, tức lưỡng hợp Đế-Nông.

.Ở đây ta thấy lưỡng nghi Thần Nông chim nông và Viêm Đế hươu đã phân ra làm bốn nhóm ở dạng tứ tượng là Thần, Nông, Viêm và Đế. Điểm này cho thấy vật tổ ở đây có một khuôn mặt chính là dạng biểu tượng cho sinh tạo ở cõi thế gian ứng với tứ tượng.

Ta cũng thấy rõ khuôn mặt sinh tạo thế gian này qua sự kiện là lửa trời thế gian tức ánh sáng mặt trời ứng với Đế Minh (Đế Ánh Sáng) Càn ở cõi trời sinh tạo thế gian được biểu tượng bằng một con thú bốn chân sống trên mặt đất là con mang trời có sừng 3 mấu nhọn Càn thay vì phải là một loài chim cắt hay trĩ lửa biểu tượng cho lửa trời thế gian hay ánh sáng. Khuôn mặt thế gian này ăn khớp trăm phần trăm với tộc Người Mặt Trời Thái Dương thế gian và với khuôn mặt thế gian của trống có mặt trời 14 nọc tia sáng.

Khuôn mặt thế gian này ăn khớp trăm phần trăm với tộc Người Mặt Trời Thái Dương thế gian và với khuôn mặt thế gian của trống có mặt trời 14 nọc tia sáng.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt Viêm Đế Thần Nông tách ra thành Viêm, Đế, Thần và Nông ứng với 4 vị vua tổ của chứng ta là Đế Minh (ứng với Viêm), Kì Dương Vương (ứng với Đế), Lạc Long Quân (ứng với Thần) và Hùng Vương (ứng với Nông). Với khuôn mặt mang trời Càn Đế Minh có tính phụ, tính liệt, mang tính biểu tượng sinh tạo thì vành vật tổ này là vật tổ của Họ Mặt Trời, Họ Đỏ, Họ Hồng Bàng thế gian của Kẻ Đỏ Xích Quỉ, Người Việt Mặt Trời Thái Dương kể từ Kì Dương Vương trở xuống đúng như truyền thuyết và cổ sử Việt đã nói.

Như thế tóm lại ở cõi tạo hóa, chim nông biểu tượng cho Thần Nông, hươu biểu tượng cho Viêm Đế . Ở cõi thế gian bốn nhóm chim nông và hươu biểu tượng cho bốn vị vua tổ của ViệtNam.

.Chim nông là loài chim nước là chim tổ tối cao về ngành nòng âm của Bách Việt sống ở vùng sông biển, tuyệt nhiên Trung Hoa không có. Trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có hình chim tổ nông nước là trống biểu của Bách Việt nói chung và của Việt Nam nói riêng.

(phần 12)


Ý NGHĨA VÀNH CHIM BAY VÀ CHIM ĐỨNG TRÊN TRỐNG ĐỒNG ÂM DƯƠNG NGỌC LŨ I.

MƯỜI TÁM CHIM BAY Ở VÀNH SỐ 10.

Vành 10 gồm 18 chim bay và 18 chim đứng (nguồn: Phạm Huy Thông và các cộng tác viên).

.Vành giới hạn số 9.

Vành này nhìn thoáng qua giống vành số 7 là vành sóng chuyển động vòng tròn có chấm (đọc theo chiều dương tức thiếu dương) hay chấm vòng tròn (đọc theo chiều âm tức thiếu âm) có tiếp tuyến. Tiếp tuyến ở đây mang nghĩa chuyển động, vận hành, sinh tạo, không có nghĩa là nước.

Nhưng nhìn kỹ ta thấy nó ngược với vành số 7.

Tiếp tuyến ở đây có tiếp điểm ở phía dưới vòng tròn đi lên nối với tiếp điểm ở trên của vòng tròn kế tiếp nghĩa là tiếp tuyến âm. Như thế ta suy ra ngay với tiếp tuyến âm ở đây vành này mang nghĩa thiếu âm Đoài (ngược với vành 7 thiếu dương Li). Kiểm chứng lại ta cũng thấy vành này nằm xa mặt trời nên mang âm tính so với vành 7 gần mặt trời mang nhiều dương tính. Thêm nữa, vành này là vành số 9 tức số Chấn tầng 2 nước dương thuộc phía nòng Khôn nên mang âm tính so với vành 7 Càn lửa vũ trụ. Do đó chấm vòng tròn ở vành này mang nghĩa là thiếu âm Đoài.

Lưu ý

Vành giới hạn số 9 này mang nghĩa thiếu âm Đoài cho biết vành chim bay và chim đứng số 10 có một khuôn mặt thiếu âm Đoài mang tính chủ nghĩa là những con chim bay mang tính chủ.

.Vành số 10 với 18 chim bay và 18 chim đứng.

Kế tới là vành số 10 gồm 18 chim bay và 18 chim đứng. Như đã nói, chim thú trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I mang khuôn mặt biểu tượng tức chim thú biểu, vật tổ nghĩa là ta phải hiểu theo ý nghĩa biểu tượng trong Vũ Trụ giáo.

Những loài vật dùng làm biểu tượng hay mang ý nghĩa biểu tượng không nhất thiết phải giống y chang những loài tương ứng có trong thiên nhiên.

Số 10 là số Khảm tầng 2 thế gian như thế chim thú ở vành này có khuôn mặt Khảm viết theo Dịch nòng nọc vòng tròn-que là OIO (nòng âm O thiếu âm IO) hôn phối với Li (IOI) và có khuôn mặt Đoài IIO (nọc dương I thiếu âm IO) là đại diện (số Đoài 11 tầng 2 là số dương ngay theo sau số âm Khảm 10 tầng 2). Do đó ta thấy ngay 18 con chim đứng trên mặt đất mang khuôn mặt Li hôn phối với Khảm 10 và 18 con chim bay Đoài đại diện cho Khảm 10.

Mỗi bán viên dương và âm đều có một nhóm 9 chim bay và 9 chim đứng.

Rất tiếc không có hình vẽ chi tiết của tất cả 18 con chim bay và 18 con chim đứng. Trong Nguyễn Văn Huyên chỉ có hình vẽ chi tiết của 5 con chim bay và 5 con chim đứng.

Hình 5 chim bay và 5 chim đứng ở vành 10 trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Do đó tôi chỉ xin giải độc tổng quát không muốn đi vào chi tiết từng con một qua suy diễn.

1. 18 con chim bay.

Mười tám con chim bay trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là chim gì?

Các nhà làm văn hóa Việt Nam hiện nay gọi 18 con chim bay trên mặt trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là chim Lạc, là gọi theo tác giả Đào Duy Anh. Theo ông con chim Lạc là một loài ngỗng trời. Đào Duy Anh trong Cổ sử Việt Nam (Hà Nội 1955) khi nói về Lạc Việt đã viết : “Theo Từ Quảng thì Lạc là họ, tức tên thị tộc của một nhóm người Việt ở xứ Mãn… tên Lạc kia có thể là vật tổ được không? Chữ Lạc… chỉ một loài hậu điểu ở miền Giang Nam tương tự với loài ngỗng trời. Có thể chim Lạc là vật tổ của người Lạc Việt… (dẫn L. Pinot và V. Goloubev)… Chúng tôi (tức Đào Duy Anh) đồng ý với hai tác giả trên, duy phải nói thêm rằng chim Lạc mà những người sản xuất trống đồng đã thờ làm vật tổ chính là người Lạc Việt”.

Thật vắn tắt ở đây, ta thấy những con chim bay trên mặt trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có dáng dấp thanh lịch, lả lướt, có mỏ rất dài đầy dương tính không phải là loài ngỗng nên không phải là chim Lạc ngỗng trời.


Một con cò bay trên trống Ngọc Lũ I (Nguyễn Văn Huyên, tr.169).

Hiển nhiên trước mắt ta thấy rất rõ là những con chim bay có dáng dấp họ nhà cò. Ngỗng có chân màng bơi được dưới nước trong khi những con chim trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I chân không có màng, không thể là ngỗng được. Ngỗng Lạc (và ngay cả cò Lạc, cò nác, cò nước, cò đêm tức con vạc đi nữa) có đuôi ngắn. Chim Lạc với từ Hán Việt Lạc viết với bộ chuy là con ”chim đuôi ngắn”. Chim ở đây có đuôi dài không thể là chim Lạc. Trăm phần trăm đây không phải là loài ngỗng. Đây nhất định phải là cò. Đây chính là những con cò thanh lịch đuôi dài. Điều này cũng thấy rất rõ qua sự kiện là những loài chim này khắc ở ngoài cùng mặt trống tức vùng đất âm có nước của Cõi Giữa đất thế gian, chỗ tiếp cận với tầng nước ở vai trống (Cơ Thể Học Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Đây là loài chim sống ven bờ nước (wading birds), cò không biết bơi. Cò “đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao” thì phải kêu cứu “ông ơi, ông vớt tôi nao” nếu không được vớt thì cò sẽ bị chết đuối.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt , các chim tổ phía Nọc, Lửa, Mặt Trời, Nọc thái dương của Đại tộc Việt đều là những loài chim mang dương tính có tên có nghĩa là nọc, cọc, que, vọt (nói chung là vật nhọn)… tức là CHIM VIỆT vì Việt có một nghĩa là vọt (roi, nọc), vớt (con dao cán dài), hiểu theo nghĩa Hán Việt thì Việt là rìu, một thứ vật nhọn sắc (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt), ví dụ ở Cõi Tạo Hóa, ở ngành lửa, ta có chim biểu là chim cắt, chim rìu tức Chim Việt tạo hóa; ở Cõi Trời đất dương thế gian ở phía ngành nọc lửa là con trĩ lửa hay con Gà qué (gà trống), qué là que, nọc (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc). Trĩ lửa là trĩ Việt và gà là gà Việt Cõi Đất dương thế gian vì tuy là loài chim nhưng trĩ và gà sống nhiều trên mặt đất. Ở Cõi Đất âm có nước là con . Cò biến âm với cồ (đực), cu, với cổ (cây, trụ, cổ người là cây trụ cắm đầu vào thân người, ông Bàn Cổ là ông Trụ Chống Trời với Bàn là phiến đá bằng, bàn thạch, bằng như mặt bàn và Cổ là cây Trụ). Cò là Cò Việt của vùng Đất âm có nước, ao đầm (nên nhớ cò là loài chim lội nước, sống ở bờ nước, vùng đất có nước chứ không phải là loài chim nước, sống dưới nước); chim biểu thật sự của Cõi Nước âm là con Cốc. Con cốc có mỏ mang dương tính nhọn như mũi phi tiêu, có loài dùng mỏ đâm cá vì thế dân dã Âu Mỹ còn gọi tên là “darter” (“chim phi tiêu”). Từ Cốc biến âm với cọc… Con cốc mang âm tính nhiều hơn cò vì chân cốc có màng, bơi lội và lặn hụp dưới nước được. Con cốc thường có mầu đen là mầu của nước thái âm. Như thế con Cốc biểu tượng dương của nước thái âm. Cốc là chim biểu của nước-dương của Lạc Long Quân. Cốc là Chim Việt Cõi Nước. Vì thế Cò nhìn chung là chim biểu, chim tổ của những tộc sống ở vùng đất âm có nước như ao đầm (Đoài thế gian), sông ngòi nhưng mang dương tính nhiều nghĩa là dương của âm tức thiếu âm, nguyên thể của khí gió tức Đoài vũ trụ. Nhìn chung Cò là chim biểu Khôn dương, bầu trời, gió của vùng đất âm có nước, ao đầm Đoài thế gian. Cò mang khuôn mặt dương trội cồ, cu nên nghiêng nhiều về phía chim biểu Khôn dương khí gió, mang khuôn mặt tiêu biểu cho Khôn dương, khí gió, Đoài của vùng đất âm có nước.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, cò là chim biểu của Tổ Hùng Vương có một khuôn mặt bầu trời thế gian Đoài. Tổ Hùng Vương sinh ra từ bọc trừng thế gian có một khuôn mặt là bầu Trời đội lốt bầu Vũ Trụ, Khí Gió. Ta cũng thấy Hùng Vương cùng mạng với Phù Đổng Thiên Vương nên được Thần Sấm Dông Gió Phù Đổng Thiên Vương giúp đánh dẹp giặc Ân. Như thế cò mang khuôn mặt chính biểu tượng cho Khôn dương khí gió phải là chim biểu của Tổ Hùng Vương sinh ra từ bọc Trứng Vũ Trụ. Kỉểm chứng với truyền thuyết Aztec, ta cũng thấy cò mang khuôn mặt biểu tượng chính liên hệ với Gió. Aztec có nghĩa là Người Cò (Heron People). Aztec người cò liên hệ với ardeidea, họ chim cò. Aztec có Az- với A, ruột thịt với mẫu tự “rustic a” /\ cùng một gốc chữ nọc mũi mác /\ (có nghĩa là dực, dương, mặt trời). Ardeidea có gốc ar- có nghĩa là vật nhọn, nọc nhọn, dương như adze, rìu, việt, arrow, mũi tên, Phạn ngữ ar, cầy (vật nhọn dùng xới đất), Pháp ngữ arbre, cây… Vật nhọn là dực, nọc, cọc, là c…c, là cu, là cồ, là cò. Con cò được gọi tên theo chiếc mỏ dài nhọn mang dương tính. Như thế tộc Cò Aztec có một khuôn mặt chính là Gió dương (Tiếng Việt Huyền Diệu). Cò có một khuôn mặt chính biểu tượng cho Gió, bầu trời.

Cò là chim tổ của chúng ta chứ không phải con ngỗng trời Lạc (Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt).

Mười tám con chim bay trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ là loại cò gì?

Bây giờ ta hãy nhận diện xem 18 con cò bay trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là loài cò gì? Có phải là cò nước, cò Lạc tức cò đêm mà chúng ta thường gọi là con vạc không? Đây có phải là Cò Lạc, một thứ chim Lạc, chim biểu của Lạc Long Quân như các nhà làm văn hóa hiện nay thường gọi không?

Sau đây là mười một đặc tính của con cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I:

1. Mỏ

Nhìn chung chung, mỏ chim càng thẳng, càng to, càng nhọn, càng dài, càng khỏe, càng mang dương tính.

Những con cò bay trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có mỏ rất dài, dài bằng thân người và nhọn, rất cường điệu mang dương tính, lửa, thái dương, mặt trời. Điều này được xác nhận bằng dấu (marker) nọc mũi mác, răng cưa, răng sói (>) ở trên mỏ cò có nghĩa là nọc, đực, thái dương, mặt trời (Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Đây là cò thái dương (II) của ngành nòng Khôn (O), tức IIO (Đoài), cò gió. Mặt khác mỏ ở đây rất dài mang dương tính nhưng mỏ trông rất tao nhã mang âm tính nghĩa là dương của âm, tức thiếu âm, nguyên thể của gió. Tóm lại mỏ cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I cho biết những con cò này là loài cò Gió, cò Đoài.

2. Bờm

Nhìn chung chung cò có bườm cường điệu thuộc về đại tộc Gió. Cò Đại tộc gió có bờm cường điệu nhất. Tùy theo tính chất của bờm gió ta biết cò thuộc về chi tộc nào của đại tộc Gió. Cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có bờm rất cường điệu, rất đặc biệt, bờm có hình túi nang, hình cờ phướn hay con diều gió (kite) bay theo chiều gió tạt ngang về sau, trên có tua hay mào. Túi nang biểu tượng cho gió; cờ phướn, con diều biểu tượng cho gió; tua, mào biểu tượng cho gió. Đọc theo chữ viết nòng nọc bờm cò có hai phần, một phần túi, nang là dạng dương hóa của chữ nòng O thành hình chữ nhật nằm ngang ở bên trái và phần tua, mào hình trụ I. Đọc theo duy âm tức theo chiều âm từ phải qua trái, theo chiều kim đồng hồ, của chim sống ở bờ nước, ta có IO, thiếu âm, nguyên thể của gió. Như thế bờm cò là bờm thiếu âm IO, nguyên thể của gió. Phần đứng hình tua, mào gồm 3 chiếc lông. Số 3 là số Đoài vũ trụ khí gió. Bờm mang tính gió Đoài.

Tóm lại bờm rất cường điệu cò hình túi, hình phướn, hình con diều gió cho thấy những con cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là cò Gió.

Bờm cò gió trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I khác với bờm của Cò Lửa, Cò Đất dương, Cò Nước (xem dưới).

3. Cánh

Cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có cánh trải rộng như cánh diều lướt trên cánh gió. Cánh có hình chữ nhật có những tua bay trong gió trông như một tấm thảm thần lướt bay trong gió của xứ Ngàn Lẻ Một Đêm.

Tóm lại cánh hình cánh diều, hình thảm thần cho biết cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là cò Gió.

4. Cò Liệng

Cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I bay ở thế liệng nghĩa là đang xoải cánh rộng buông la đà trong gió, không ở thế vỗ cánh hình chữ V và có nét đặc thù là khi bay cổ duỗi thẳng không co rụt cổ lại dựa vào vai. Mỏ cũng duỗi thẳng. Toàn thân trông như một mũi tên bay trong gió.

Cũng xin lưu tâm, tổng quát chỉ cần một yếu tố giản dị là bay cũng đủ biểu tượng cho gió. Ở đây đã bay mà còn liệng nữa thì chắc chắn là biểu tượng cho gió.

Tóm lại cò ở thế bay, liệng la đà cho biết cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là cò lả (bay lả bay la), cò Gió.

5. Mắt dương

Cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có con mắt dương vòng tròn-chấm (khác với con mắt âm có hai vòng tròn đồng tâm có chấm ở tâm như con mắt âm của chim nông ở cùng vành với hươu), đây là loài chim Khôn dương tức gió Đoài. Chữ vòng tròn-chấm cũng có một nghĩa là Đoài (Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Với con mắt dương này những con cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I không thể là cò nước cò Lạc.

Tóm lại cò có con mắt dương cho biết cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là cò Gió.

6. Cổ

Cổ cong nhưng không rụt quá mang tính dương của âm tức thiếu dương, khí gió. Trong cổ có viết chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc cong thiếu âm hình đuôi con diều gió.

7. Thân và đuôi dài

Thân thon nhỏ và đuôi dài, trông thanh lịch, giống như một mũi phi tiêu gấp bằng giấy lao vút trong gió. Như trên đã nói con vạc, cò nước, cò Lạc có đuôi ngắn. Chim Lạc viết với bộ chuy là con ”chim đuôi ngắn”.

Tóm lại thân thon nhỏ và đuôi dài trông thanh lịch cho biết cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là cò Gió.

8. Địa bàn đất âm ao hồ.

Cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I bay trên vùng đất âm có nước ao đầm ở vùng biên trống (Cơ Thể Học Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Đoài thế gian có một khuôn mặt ao đầm. Cò bay trên vùng đất âm này biểu tượng cho tầng trời Đoài vũ trụ khí gió của vùng Đoài thế gian ao đầm (cò Nước, cò Lạc phải bay trên vùng nước ở vai trống).

Tóm lại cò bay ở vùng đất âm cho biết cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là cò Gió biểu tượng cho tầng trời Đoài vũ trụ khí gió của vùng Đoài thế gian ao đầm.

9. Vành số 10

Mười tám con cò bay trên trống Ngọc Lũ I ở vành số 10. Số 10 theo Dịch là Khảm tầng 2 nước vùng đất dương thế gian. Khảm 10 là số âm có một khuôn mặt dương đại diện là Đoài thế gian 11 (số 10 bước thêm một bước nữa về phía chiều dương bên phải là số 11). Ta cũng thấy 18 chim bay với số 18 cũng là Khảm tầng 3, vùng đất âm có nước. Tương tự ta suy ra 18 con cò này có một khuôn mặt dương đại diện là Đoài 19. Với hai nét Đoài này cho thấy cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I mang tính chủ là cò gió Đoài.

Tóm lại cò ở vành số 10, theo Dịch, cho biết cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là cò Gió.

10. Trống Ngọc Lũ I thuộc nhóm trống Tốn/Đoài thái dương.

Trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có mặt trời 14 nọc tia sáng có khuôn mặt là Tốn/Đoài thái dương. Cò trên trống này phải mang tính chủ là cò gió Đoài.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là trống biểu của Hùng Vương có một khuôn mặt là khí gió, bầu trời Đoài (Giải Đọc Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á).

Tóm lại cò ở trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I Đoài/Tốn thế gian, có một khuôn mặt là cò Gió và là cò lang, chim biểu của Hùng Vương có khuôn mặt bầu trời, khí gió.

11. Con số 18 con cò

Số 18 là số của ma phương Đoài 3/18 (ma phương này có số trục là số 3 Đoài và số 18 là tổng số các nhánh của ma phương cộng lại). Con số 18 cò bay ở vùng đất âm ứng với Đoài. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt con số 18 là mã số di truyền DNA của Hùng Vương (xem bài viết Mã Số Di Truyền DNA của Hùng Vương).

Tóm lại

Qua 11 đặc điểm trên, những con chim bay ở vành số 10 cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là con cò có khuôn mặt mang tính chủ là Cò Gió. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là Cò Lả, Cò Lang, Bạch Hạc, Cò Đoài, cò Hùng Vương. Tuyệt nhiên không phải là Chim Lạc ngỗng trời hay Cò Nước, Cò Lạc, Cò Vạc.

(phần 13)


Ý NGHĨA VÀNH CHIM BAY VÀ CHIM ĐỨNG TRÊN TRỐNG ĐỒNG ÂM DƯƠNG NGỌC LŨ I.

MƯỜI TÁM CHIM BAY Ở VÀNH SỐ 10.

Vành 10 gồm 18 chim bay và 18 chim đứng (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Như thế nhìn tổng quát 18 con chim bay ở vành số 10 là những con cò, sống ở bờ nước chứ không phải là những con chim nước chân có màng như chim ngỗng, chim Lạc. Đây là những con cò gió, cò lả, đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là cò Lang, Bạch Hạc.

Ta thấy 18 con cò này đều có bờm gió cường điệu hình phướn hay cánh diều giống nhau cho thấy chúng cùng một đại tộc cò gió, đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử là cùng một đại tộc cò Lang Hùng Vương. Trong bờm có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que khác nhau cho biết mỗi con cò mang một tính nòng nọc, âm dương khác nhau, biểu tượng cho các khuôn mặt khác nhau của thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh hay là cò biểu của các tộc, chi tộc khác nhau của đại tộc cò gió.

Như đã nói ở trên, tiếc là không có hình vẽ chi tiết của 18 con cò giò mà chỉ có hình chi tiết năm con nên tôi không muốn giải đọc một cách suy diễn năm con cò này vì dễ rơi vào sai lầm.

Tuy nhiên nhìn tổng quát ta thấy 18 con cò bay này là chim biểu tượng cho đại tộc cò gió ứng với Hùng Vương.

Ta cũng đã thấy rất rõ con số 18 này là mã số DNA của Hùng Vương (xem bài viết này).

Mười tám cò bay này chia ra mỗi bán viên 9 con. Ở bán viên dương nhóm 7 người nhẩy múa, 9 con cò gió mang dương tính biểu tượng cho phía dương, lửa. 9 con ở bán viên âm nhóm 6 người nhẩy múa mang âm tính biểu tượng cho phía âm nước.

Trong 9 con phía dương có một con biểu tượng cho nhánh dương còn lại 8 con biểu tượng cho bốn tộc hay chi tộc dương và âm của nhánh dương này ứng với tứ tượng dương và tứ tượng âm của nhánh cò gió phía dương. Tương tự ở bán viêm âm cũng vậy.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, 18 con cò gió bay, cò Lang biểu tượng cho đại tộc Hùng Vương.

Chín con ở nhánh dương ứng với 50 Hùng Lang theo mẹ lên núi có một con biểu tượng toàn nhánh này còn lại 8 con biểu tượng cho 8 chi là chi lửa nòng/nọc, âm/ dương, chi nước nòng/nọc, âm/dương, chi gió nòng/nọc, âm/dương và chi đất nòng/nọc, âm/dương ứng với tứ tượng nòng/nọc, âm/dương của nhánh dương này.

Tương tự ở nhánh âm ứng với 50 Hùng Lang theo cha xuống biển có một con có một con biểu tượng toàn nhánh này còn lại 8 con biểu tượng cho 8 chi là chi lửa nòng/nọc, âm/ dương, chi nước nòng/nọc, âm/dương, chi gió nòng/nọc, âm/dương và chi đất nòng/nọc, âm/dương ứng với tứ tượng nòng/nọc, âm/dương của nhánh âm này.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, ta thấy phía ngành dương Viêm Đế (Viêm Việt) gồm có 9 khuôn mặt biểu tượng ngành, tộc. Một đại tộc biểu tượng cho toàn ngành Viêm Đế, bốn tộc phía tứ tượng dương là Lửa vũ trụ Ánh Sáng Đế Minh, Lửa thế gian Đất Dương Kì Dương Vương, Nước Dương Lạc Long Quân và Gió Dương Hùng Vương thế gian.

Về phía ngành Thần Nông thái dương (Hoàng Việt với Hoàng hiểu theo nghĩa là mầu âm thái dương của của mầu đỏ, mầu của ngành nòng âm trong khi Viêm là nóng đỏ, mầu đỏ là mầu dương thái dương của ngành dương) gồm có 9 khuôn mặt biểu tượng 9 ngành và tộc. Một đại tộc biểu tượng cho toàn ngành Thần Nông thái dương, bốn tộc phía tứ tượng dương là Nước vũ trụ Vụ Tiên, Khí gió Thần Long, Lửa thế gian Âu Cơ và Đất Dương vợ Hùng Vương thứ nhất với khuôn mặt thái dương.

Lưu ý

Trên trống có khuôn mặt chủ là trống (đực, nọc, nam) không có các khuôn mặt nữ thuần âm mà chỉ có khuôn mặt Nam (chồng hay con trai) đại diện cho khuôn mặt nữ. Vì vậy cần phải có từ thái dương đi kèm trong Thần Nông thái dương (tức mặt trời) chứ không phải Thần Nông thái âm (không gian).

Trong cổ sử Bách Việt cũng có nói tới 18 tộc chia ra Cửu Lê và Cửu Lạc. Nhìn dưới diện nòng nọc, âm dương thì Cửu Lạc là 9 tộc phía Nước, âm và Cửu Lê là 9 tộc phía Lửa (Lê hiểu theo biến âm với lá, lửa), dương.

Đối chiếu với truyền thguyết và cổ sử Ai Cập ta cũng thấy phía Đại Tộc Nước Osiris, mặt trời Chiều Tối của ngành mặt trời Âm, Nước Atum ở Heliopolis gồm có Cửu Thần (The Ennead were the nine great Osirian gods) là:

1. Thần Atum (Tem, Temu, Tum, Atem).

2. và 3: Nam thần Shu và nữ thần Tefnut.

4. và 5: Thần Keb (Geb, Seb) và Nut.

6, 7, 8 và 9: Thần Seth Nephrys, Osiris, Isis.

Chín vị thần này ứng với thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh và Vũ Trụ giáo giống như trong truyền thuyết và cổ sử Việt (xem sự Tương Đồng Giữa Cổ Sử Việt và Ai Cập Cổ).

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, trống đồng có cò bay là biểu tượng cho Đại tộc Hùng Vương có khuôn mặt ở cõi tạo hóa sinh tạo ứng với Tổ Hùng Tạo Hóa và ở cõi thế gian có một khuôn mặt Hùng Vương lịch sử gồm 18 khuôn mặt biểu tượng cho ngành, đại tộc, tộc, chi tộc của Bách Việt, Người Mặt Trời thái dương con cháu của Hùng Vương Mặt Trời thái dương rạng ngời được diễn tả ở trống này.

Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Sơn khác.

Như thế ta thấy rất rõ họ nhà cò có nhiều loại cò khác nhau biểu tượng cho ngành, đại tộc, chi tộc khác nhau về tính nòng nọc, âm dương. Do đó trên các loại trống biểu của ngành, đại tộc, chi tộc khác nhau có những loại cò khác nhau. Cò trên trống đồng có thể có hai khuôn mặt:

-một là khuôn mặt tạo hóa, sinh tạo, vũ trụ (ứng với Viêm Đế-Thần Nông thái dương nhất thể và khuôn mặt tạo hóa của Hùng Vương đội lốt Viêm Đế-Thần Nông của ngành nọc, dương, lửa Viêm Đế hay nòng, âm, nước Thần Nông thái dương). Khuôn mặt sinh tạo, tạo hóa này thấy rõ qua hình cò bay trên những trống vũ trụ có mặt trời dưới 7 nọc tia sáng ví dụ như trên trống Bình Đà mặt trống chỉ có mặt trời có 5 nọc tia sáng và 4 hình cò bay.


Trống Bình Đà
(nguồn: Phạm Huy Thông và các cộng tác viên).

-hai là khuôn mặt thế gian, lịch sủ tức là cò biểu của ngành, đại tộc, tộc, chi tộc của cò Gió (Lang) (Hùng Vương Gió), cò Nước (Lạc) (Lạc Long Quân Nước), cò Lửa vũ trụ (Càn), (Đế Minh Ánh sáng) và cò Đá (Li) (Kì Dương Vương).

Lưu ý

.Vì thế phải phân biệt ý nghĩa biểu tượng của mỗi con cò trên mỗi trống theo ý nghĩa biểu tượng của thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh của Vũ Trụ giáo theo từng giai đoạn trong quá trình Vũ Trụ Tạo Sinh của trống. Cần phải nhớ là trong mỗi ngành lại chia những đại tộc theo Vũ Trụ Tạo Sinh và các tộc, chi tộc cũng vậy. Ví dụ ngành Viêm Đế có biểu tượng là cò Lửa thái dương tạo hóa, có bốn đại tộc là Cò Lửa vũ trụ Đế Minh, Cò Đá Kì Dương Vương, cò Lạc Lạc Long Quân và cò Lang Hùng Vương. Trong đại tộc Cò Đá Kì Dương Vương chẳng hạn là chia ra 4 tộc Lửa vũ trụ Càn của đại tộc Đất; tộc Đất dương Li của đại tộc Đất, tộc Nước Chấn của đại tộc Đất và tộc Gió Đoài của đại tộc Đất. Mỗi tộc và chi này có một loại cò biểu tượng tương ứng.

Trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn gần như hầu hết các trống đều có hình cò bay mang hình bóng cò Gió tức Cò Lang biểu tượng cho Hùng Vương. Điều này, như đã biết, ăn khớp trăm phần trăm với trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn là trống biểu của Hùng Vương.

Vì thế phải nhận diện xem một con cò trên trống đồng nòng nọc, âm dương có khuôn mặt cò gió sinh tạo tạo hóa ứng với khuôn mặt tạo hóa của Tổ Hùng sinh ra từ bọc trứng thế gian hay chỉ là một khuôn mặt biểu tượng cho một đại tộc, một tộc, một chi của họ Hùng Vương lịch sử.

.Cò cũng như các thú và các biểu tượng khác trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn được diễn tả khác nhau theo chữ viết nòng nọc vòng tròn-que, dấu, biểu tượng nòng nọc khác nhau dọc theo bề dầy thời gian nghĩa là tùy theo tuổi của trống.

1.Cò trên mặt trống.

-Cò gió

a. Trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

Ta đã thấy rất rõ cò bay trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là cò Gió. Trống Ngọc Lũ I mang trọn vẹn ý nghĩa của Vũ Trụ Tạo Sinh của Vũ Trụ giáo nên 18 con cò như đã thấy mang trọn vẹn ý nghĩa biểu tượng cho sinh tạo, tạo hóa, cho họ, ngành, đại tộc, chi của họ mặt trời thái dương.

b. Trống Miếu Môn I.

Ở trên trống hơi muộn Miếu Môn I có mặt trời 14 nọc tia sáng cùng một nhóm với trống Ngọc Lũ I, cò gió được diễn tả khác đi một chút để thấy rõ khuôn mặt cò giò hơn nữa. Cò trên trống Miếu Môn I cũng có bờm phướn gió cường điệu như cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I này.

Hình cò gió có hình ngữ “túi âm thanh” ở dưới mỏ trên trống Miếu Môn I.

Nhưng đặc biệt là dưới mỏ có “phụ đề” một hình ngữ hình túi chữ V hay hình tam giác mà các tác giả hiện nay cho là chiếc mồi và gọi là cò tha mồi hay “cò đói” (“insatiable birds”, Kempers, p.175).

Như đã nói ở trống Miếu Môn I, “cái mồi” này là một chữ, một dấu hình trong chữ viết nòng nọc vòng tròn-que.

Nếu nhìn theo diện thiếu âm gió thì đây là cái túi dương khí gió tức túi âm thanh cho biết những con có này là những con cò “húyt sáo” được tức những con cò gió Đoài. Nếu nhìn theo diện chữ V thì có nghĩa là âm, nước thái dương Chấn ứng với khuôn mặt Lạc Long Quân của trống. Nếu nhìn dưới dạng hình tam giác thì đây là nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) hình tam giác ngược có cũng nghĩa là nước lửa thái dương Chấn. Hiểu theo Chấn nước này thì đây là con cò gió (có bờm phườn gió) biểu tượng cho cho chi gió của đại tộc nước dương Chấn (xem Trống Văn Lang Miếu Môn I).

c. Trống Bình Phủ.

Ở những trống muộn hơn nữa cò gió được diễn tả một cách dễ hiểu, giản dị, bình dân học vụ hơn. Ví dụ

cò há to đang kêu hay “huýt gió” như thấy trên trống đồng âm dương Bình Phủ.


Cò há mỏ trên trống Bình Phủ (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Cò há miệng diễn tả đang kêu là cò gió (phát ra tiếng kêu, tiếng hót, tiếng hú biểu tượng cho gió giống như khèn là nhạc cụ bộ gió).

Ta thấy rõ trên trống này, sát mặt trời có vành “chấm vòng tròn” Đoài và vành răng lược dương thái âm diễn tả Đoài khí gió thái dương. Ngoài biên trống có vành “chấm vòng tròn” Đoài nằm ở giữa hai vành răng lược dương thái âm, dương Khôn. Trống này có một khuôn mặt khí gió Đoài dương thái âm nên cò là cò gió.

Trống có mặt trời 10 nọc tia sáng. Số 10 là số Khảm tầng 2. Theo hôn phối là trống Khảm/Li của đại tộc Li. Đoài cũng là khuôn mặt dương đại diện cho Khảm. Như thế trống có một khuôn mặt là trống tộc Đoài của đại tộc Li/Khảm. Tóm lại mỏ cò há miệng là mấu chốt chính cho biết cò là con cò tộc gió.

-Cò Nước, Cò Lạc, Cò Vạc, Cò Chấn.

Cò nước, cò Lạc cũng được diển tả dưới nhiều cách ở các trống khác tuổi nhau.

a. Trống Hữu Chung

Ta đã biết trống Hữu Chung là trống thuộc nhóm trống Cấn/Chấn có mặt trời thế gian có 12 nọc tia có một khuôn mặt la trống sấm mưa (xem Nhóm Trống Cóc/Ếch). Ở đây chỉ xin đưa thêm một thí dụ xác thực trăm phần trăm là trống mặt trời có 12 nọc tia sáng có một khuôn mặt Sấm Mưa. Tôi đã tìm thấy trong Bảo Tàng Viện Quốc Gia National Museet ở Copenhagen, Đan Mạch có một chiếc trống da Nhật Bản trên mặt có mặt trời 12 nọc tia sáng và khối lửa mặt trời diễn tả bằng biểu tượng đĩa sấm.

Trống da Nhật Bản trên mặt có mặt trời 12 nọc tia sáng và khối lửa mặt trời diễn tả bằng biểu tượng đĩa sấm (ảnh của tác giả).

Như đã biết đĩa sấm gồm có ba chữ viết nòng nọc vòng tròn-que móc nước cong do ba vòng tròn nòng OOO mở ra tức quẻ Khôn OOO có một khuôn mặt là nuớc vũ trụ. Ba đầu móc nọc nhọn là ba hào dương Càn lửa vũ trụ. Lửa nước vũ trụ liên tác tạo ra sấm. Ba móc nươc-lửa chuyển động vòng tròn mang nghĩa sinh tạo, sinh động. Ta cũng đã biết tộc Tráng Zhuang thờ trống đồng nòng nọc, âm dương như chúng ta nhưng ngay nay họ nghiêng nhiều về nghĩa duy tục là nhìn trống đồng dưới diện trống sấm trống mưa, trống cầu mùa (có lẽ bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa). Vì thế trống tiêu biểu mà họ hãnh diện nhất là Trống Đại Lôi (Great Thunder Drum). Thờ trống sấm mưa nên họ thờ thần sấm mưa qua biểu tượng đĩa sấm (xem Lạc Việt Tráng Zhuang 2).

Thờ Thần Sấm qua biểu tượng ‘đĩa sấm’ Lửa-Nước Càn-Khôn vũ trụ (ảnh của tác giả chụp tại Làng Tráng Zhuang ở Làng Văn Hóa Sắc Tộc Quảng Tây tại Nam Ninh).

Ở trống da Nhật này, với biểu tượng khối lửa mặt trời là đĩa sấm xác nhận mặt trời 12 nọc tia sáng có một khuôn mặt là Sấm. Nhất là lại còn ở trên trống vì trống vốn có một khuôn mặt biểu tượng cho sấm (đánh trống qua cửa nhà sấm, thần sấm thường cầm biểu tượng trống).

Vành 6 trên trống Hữu Chung là vành hỗn hợp có hình cò bay và hình dóng sấm, búa thiên lôi (thunderbolts, Phạn ngữ vajras) mà các học giả về trống đồng thường gọi sai là ‘hình trâm’ (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á).

Trống Hữu Chung (nguồn: Phạm Huy Thông và các cộng tác viên).

Như thế chỉ mới nhìn thoáng qua, trực giác cho ta biết ngay những con cò này bay cùng chung một vành với các hình dóng sấm, búa thiên lôi thì chúng phải có một khuôn mặt liên hệ với sấm.

Bây giờ ta kiểm chứng lại bằng chữ viết nòng nọc vòng tròn-que viết trên người những con cò này.

Mười con cò bay xen kẽ với hai hình dóng sấm, búa thiên lôi (‘hình trâm’), mỗi nhóm 5 con.

Cò có mỏ thon dài hơi cong lên mang âm tính nghiêng về cò nước.

Cò trên trống Hữu Chung.

Bờm cụp xuống che cổ như mũ che mưa. Mắt âm có hai vòng tròn thái âm nước. Cánh có những hình sóng nước gẫy là sóng dương, sóng động là nước chuyễn động, ở cõi trời là mưa. Hai đầu cánh có hai chữ nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) > có một nghĩa là dương, hai chữ > là hai dương, là thái dương, lửa. Như thế cánh cò là lửa-nước, chớp mưa tức sấm.

Ta cũng thấy ở cổ cò có hình giống như con diều hình con nòng nọc. Đầu hình vuông đứng trên một đỉnh là dạng thái dương chuyển hành của nòng O (yoni vuông là ỵang thái dương của yoni tròn) có một nghĩa là nước thái dương chuyễn động. Hình vuông cũng có một biểu tượng cho tứ phương, bốn phương trời. Ở đây hình vuông đứng trên một đỉnh dưới dạng chuyển đông bốn phương trời liên hệ với sấm mưa.

Chữ viết nòng nọc vòng tròn-que sấm hình cánh diều hay con nòng nọc trên cổ cò ở trống Hữu Chung.

Đuôi nòng nọc cong vì hợp (accord) với đầu nước âm là nọc lửa, là tia chớp.

Hình con diều nòng nọc mang tính nòng nọc, âm dương sinh động này diễn tả sấm chuyển động bốn phương trời. Đây là một hình ngữ, một chữ viết nòng nọc vòng tròn-que diễn tả sấm. Thật vậy, khi so sánh với Hán tự dìan có nghĩa là chớp, điện,

ta thấy rất rõ chữ dian, điện, chớp ruột thịt với hình chữ viết nòng nọc vòng tròn-que ‘con diều hình con nòng nọc’ trên cổ cò. Chớp là phần dương của sấm. Về sau chữ diàn, chớp này cắt bỏ đuôi thành chữ điền gộp với (vũ, mưa) tạo thành chữ lei (lôi, sấm).

Như thế rõ như ban ngày con cò ở trống Hữu Chug này trăm phần trăm là cò sấm mưa. Chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình con diều ở sấm mưa cổ có chính là tên con cò.

Tóm lại 10 con cò bay trên trống này là cò sấm mưa.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, cò sấm là chim biểu của Lạc Long Quân có một khuôn mặt sấm mưa.

Đây là một loại cò Lạc, con cò Lạc có khuôn mặt sấm mưa.

Ngoài hình dóng sấm, búa thiên lôi và mặt trời Chấn/Cấn 12 nọc tia sáng cho biết là trống sấm mưa, trống Hữu Chung còn nhiều yếu tố khác nữa xác thực những con cò bay là cò sấm, cò nước là trống có Tượng cóc có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que sấm gầm (100% là trống sấm mưa), vành sóng nước-lửa, uốn khúc sấm gầm.

Như thế cò bay trên trống Hữu Chung 100% là cò nước, cò sấm mưa, cò Lạc.

b. Trồng Hàng Bún

Cò trên trống Hàng Bún (nguồn: Phạm Huy Thông và các cộng tác viên).

mỏ cong vòng hình móc nước, sấm trên trống Hàng Bún là những con cò sấm mưa. Những sọc nước trên cánh cò xác nhận những con cò này là cò mưa (lưu ý trống này cũng có búa thiên lôi hay lưỡi tầm sét “hình trâm” và vành uốn khúc sấm gầm cho biết trống này là trống sấm mưa vì thế cò trên trống này là cò sấm mưa).

Ta thấy rất rõ các trống vừa nêu trên đều là những trống có mặt trời 12 tia sáng và có một khuôn mặt là những trống sấm mưa Chấn/Cấn vì thế cò trên những trống này là cò sấm mưa.

-Cò Lửa vũ trụ, Cò Càn.

Trống Đông Sơn IV.

Mỏ cò dài, to, khỏe, trông cương cường giống bộ phận sinh dục nam đang cương cứng. Trong mỏ có phụ đề hình que nọc mang nghĩa cọc, dương. Đây là con cò Nọc lửa trời Càn. Thêm vào đó cò không có bờm.Cò Nọc Càn trên trống Đông Sơn IV (nguồn: Phạm Huy Thông và các cộng tác viên).

Kiểm chứng lại ta cũng thấy trống Đông Sơn IV thuộc nhóm trống Càn/Khôn với mặt trời có 8 nọc tia sáng (số 8 là số Khôn thế gian hôn phối với Càn thế gian). Hai vành răng sói, răng cưa ở biên trống xác định trống có khuôn mặt lửa, thái dương, Càn.

-Cò Núi, Cò Đá, Cò Đất dương, Cò Li.

clip_image002[17]

Trống Hà Nội I.

Cò được diễn tả bằng mỏ hình búa chim hay hình tháp.

Bờm cò cóp hình búa chim biểu tượng cho lửa đất dương Li.Trên trống Hà Nội I những con cò cuối mỏ có hình móc. Có tác giả cho rằng những con cò này tha mồi. Kempers cho rằng những con chim này cũng giống những con chim ở trên trống Banyumering, Nam Dương là những con cốc (the small hook at the end of the bird’s beak in Banyumering, suggests a cormorant rather than a heron). Đây không phải là những con cò tha mồi hay chim cốc (con cốc đuôi ngắn, mỏ ngắn, thường không có bờm). Chiếc móc hợp với đầu mỏ diễn tả chiếc rìu, cây búa chim thể điệu hóa. Rìu biểu tượng cho đất dương. Những con cò mỏ rìu, mỏ búa này là cò Đất dương Li. Cánh và thân hình chữ T, trụ chống trời Li. Kiểm chứng lại thì trống này thuộc nhóm trống Li/Khảm thế gian có mặt trời 10 nọc tia sáng (số 10 là số Khảm tầng 2 hôn phối với Li tầng 2).

b. Trống Đông Sơn VI.

.Bờm Cò Đất dương, Cò Đá.

clip_image002[21]

Cò đá trên trống Đông Sơn VI.

Cò trên trống Đông Sơn VI có bờm hình ngạnh nhọn hình núi tháp Li hợp với đầu thành hình búa rìu giống như loài cò “đầu búa”.

Kiểm chứng lại, trống này thuộc nhóm Li/Khảm thế gian có mặt trời 10 nọc tia sáng.Búa rìu ngang biểu tượng cho Đất dương Li. Cò này có mỏ nhọn vừa phải hơi cong diễn tả âm của dương tức thiếu dương Li, trong mỏ có phụ đề một hình que nọc trụ chống trời Li. Thân và đuôi hình tháp Li (>). Thân và cánh hợp thành nọc chữ T, hình ảnh của Núi Trụ Chống Trời, Trục Thế Giới. Đây là cò Đất dương, cò Đá, cò Li.

Lưu Ý

Tên những con cò bay trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn thường được viết bằng chữ viết nòng nọc vòng tròn-que.

2. Cò ở tang trống

Cò ở trên mặt trống thường là cò bay có một khuôn mặt biểu tượng cho thượng thế, bầu trời thế gian có khuôn mặt biểu tượng cho sinh tạo và là cò biểu của ngành, đại tộc, tộc chi tộc đất thế gian. Cò ở tang trồng vùng nước thường là cò đứng có một khuôn mặt chính biểu tượng cho nước, tộc nước, thường là cò nước.

Xin đưa ra một hai ví dụ điển hình về những con cò đứng ở vùng nước tang trống.

  1. Trống đồng âm dương Hoàng Hạ.

Trước mũi một con thuyền trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ có một con chim. Chim thuộc loài chim nước hay sống ở bờ nước vì nó đứng ở tang trống vùng nước, đứng trước mũi thuyền và rõ nhất là nó đang mổ con cá.


Một hình thuyền trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ
(nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Chim nước này có chân cao, cổ cao và cong, có bờm thuộc loài cò sếu. Chim có con mắt âm hai vòng tròn đồng tâm thái âm nước có con ngươi là điểm chấm cho biết thuộc loài cò dòng Khôn nước. Mỏ dài nhọn trong có chữ nọc que hình kim. Trên người có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình vòng tròn có chấm thái dương. Như thế đây là con cò nước thái dương Chấn.

Kiểm chứng lại ta thấy trống đồng âm dương Hoàng Hạ là trống thuộc nhóm Càn/Khôn thái dương thế gian cõi nước có mặt trời 16 nọc tia sáng có một khuôn mặt chủ lửa nước Chấn (xem trống này).

b. Trống Đồi Ro.

Ở đầu và đuôi thuyền trên trống Đồi Ro có những con chim nước giống loài cò. Nhưng chim có cổ ngắn, người thon tròn, đuôi ngắn thuộc họ nhà vạc, cò đêm.


Những con vạc trên trống Đồi Ro.

Đây chính là những cò nước, cò vạc, cò Lạc, cò Chấn. Kiểm chứng lại ta thấy trống Đồi Ro là trống thuộc nhóm Càn/Khôn thái dương thế gian cõi nước có mặt trời 16 nọc tia sáng. Trên mặt trống, sát mặt trời có vành chấm vòng tròn kép Chấn và ngoài biên có vành chấm vòng tròn kép Chấn nằm kẹp giữa hai vành răng sói, răng cưa thái dương. Trống này có một khuôn mặt Chấn thái dương vì thế những con chim này là những con vạc, cò Lạc, cò Chấn.

(phần 14)


Ý NGHĨA VÀNH CHIM BAY VÀ CHIM ĐỨNG TRÊN TRỐNG ĐỒNG ÂM DƯƠNG NGỌC LŨ I.

MƯỜI TÁM CHIM BAY Ở VÀNH SỐ 10.

Cò Trên Trống Đồng và Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo.

Theo chính thống, cũng như các loài chim thú khác và các vật biểu tượng khác ở trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn, cò có đủ những khuôn mặt diển tả trọn vẹn thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo. Tôi đã viết rõ trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt và Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt cũng như ở các bài viết khác như trong chương Thế Giới Loài Vật trong Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á, ở đây chỉ xin nhắc lại một cách tóm lược.

Tổng quát, cò là một loài chim lội nước được thờ phượng và làm vật tổ ở nhiều nơi theo hay bị ảnh hưởng của Vũ Trụ giáo, đạo Thờ Mặt Trời.

-Ai Cập

Ai Cập cũng thờ mặt trời như chúng ta và cũng có vật tổ cò và cũng thờ cò.

Một con chim nổi tiếng trong các trong các loài chim biểu, chim thờ là con cò Bennu. Cò Bennu là hóa thân, hiện thân của thần mặt trời.


Cò vàng Bennu ở lăng Anhurtkhawi, vùng Thebes (Triều đại thứ 20).

Theo truyền thuyết ở Heliopolis (Thành phố Mặt Trời), Cò Bennu biểu tượng cho thần mặt trời Ra Atum đậu xuống trụ đá Benhen, một thứ thạch trụ nhọn đầu-nọc tia sáng mặt trời (sun ray-obelisk) vào lúc bình minh, làm tỏa ra ánh dương để xua đuổi bóng đêm đi. Cây thạch trụ ánh sáng mặt trời coi như cây trụ diêm, trụ lửa (một nghĩa của Viêm Đế), cò Bennu đậu xuống đầu que diêm kích hỏa tạo ra ánh dương khiến tạo vật tái sinh sau một đêm tăm tối liên hệ với cõi âm, cõi chết.

Cò Bennu cũng được cho là được tạo sinh từ ngọn lửa cháy trên linh mộc (sacred tree) persea vào lúc bình minh tại thành phố Heliopolis. Theo truyền thuyết linh mộc persea được đem xuống trần gian từ vùng đất của thượng đế. Người Ai Cập cổ dùng cành cây này trong bó hoa tang. Quả của persea được coi là trái tim thiêng liêng của thần mặt trời Horus. Thần mặt trời Ra (Re) cũng liên hệ với linh mộc persea, Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) lúc này Re dưới dạng là con mèo gọi là Mau [Re was connected with the Persea, the Tree of Life, here he took on the form of a cat... This male Cat is Ra himself, and he was called 'Mau' (The Book of Ani)] (http://www.reshafim.org.il/ad/egypt/botany/persea.htm).

(lưu ý Mau ruột thịt với Việt ngữ mấu, mão, mèo, xem Mão là Mấu là Mèo).

Như thế ta thấy cò Bennu là mặt trời rạng đông liên hệ với Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) persea.

Vì thế cò Bennu có một khuôn mặt là biểu tượng cho tái sinh, phục sinh, hằng cửu. Cò Bennu vì thế cũng liên hệ với cõi sau khi chết, đây là cõi trời, cõi trên, cõi tiên, thiên đường. Những người chết sẽ gặp cò Bennu.

Tương tự, có tộc thổ dân Mỹ châu (có gốc từ Đông Nam Á) cũng quan niệm là sau khi chết hồn cưỡi cò bay về hư vô. Trung Hoa tin là cưỡi hạc (cùng họ nhà cò) qui tiên.

Người Ai Cập cổ vì thế coi cò ibis, một loài cò có nhiều ở vùng sông Nile, là cò thiêng ibis. Trên chóp đỉnh châu thổ sông Nile là thành phố Saquarra, thành phố của Người Chết (City of the Dead) liên hệ với Memphis còn có những nhà mồ chứa hàng triệu xác ướp cò thiêng ibis quấn trong băng vải đặt trong các bình chôn cất.

Ở Hermopolis, một trung tâm thờ thần cò Thoth, phía thượng lưu sôngNile cũng có những nhà mồ chứa xác ướp cò thờ ibis.

Cổ Ai Cập cũng có truyền thuyết nói rằng thần cò Thoth đẻ ra trứng vũ trụ ăn khớp với Âu Cơ của chúng ta có một khuôn mặt là U Cò “lặn lội bờ ao, phất phơ hai giải yếm đào gió bay” đẻ ra một bọc trứng chim.

-Maya

Maya Trung Mỹ ruột thịt với Bách Việt có DNA giống hệt người cổ Việt Đông Nam Á. Văn hóa Maya cũng giống Việt Nam theo Vũ Trụ giáo dựa trên căn bản nòng nọc, âm dương Chim-Rắn, Tiên Rồng. Họ có nòng nọc, âm dương gọi là Kanah và Ku và cũng có bát quái, Dịch (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Họ phát minh ra con số không vẽ hình con sò có hai cái răng.

Đây chính là hình ảnh Nữ Oa là “con sò có hai ngà” (Kim Định). Nữ Oa là nữ, âm, Khôn diễn tả bằng chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình vòng tròn O tức con số không zero 0 và thuộc ngành thái dương nên có hai ngà. Hai ngà là hai nọc, hai lửa, thái dương.

Họ cũng cò hình ảnh trai cò nòng nọc, âm dương thấy qua một vật thờ.

Các nhà khảo cổ học đào tìm thấy ở thành phố Rio Azul (Thành phố Sông Xanh) còn gọi là The Lost City of Maya ở Guatemala một vật thờ có hình con chim mà họ gọi là con cốc (cormorant) khắc trên một chiếc vỏ ốc. Các nhà khảo cổ học này hoàn toàn sai khi cho đây là con cốc. Đây phải là con cò vì chân nó không có màng. Chim cốc là loài chim nước chân phải có màng.

Hình trai cò của Maya (Richard E. W. Adams, Rio Azul, Lost City of Guatemala, Nat. Geo, vol.4, No 4, 4-1986, tr. 449).

-Aztec

Aztec có văn hóa ruột thịt với Maya chỉ khác tính nòng nọc, âm dương (văn hóa Maya nghiêng nhiều về thái âm, Khôn âm trong khi văn hóa Aztec nghiêng về thiếu âm, Khôn dương nhưng cả hai cùng thuộc ngành nòng Khôn). Aztec có nghĩa là Người Cò: “The name Aztec means ‘the heron people’ (Irene Nichelson, Mexican and Central American Mythology, tr.136). Các nhà khảo cổ học cũng đào tìm thấy nhiều tượng cò bằng đá ở Mễ.

Người Aztec cũng có truyền thuyết vị thần râu tóc bạc hẹn trở về cứu giúp họ khi gặp nguy khốn giống như truyền thuyết Lạc Long Quân của chúng ta. Cũng vì truyền thuyết nầy mà đế quốc Aztec đã mất vào tay nhà viễn chinh Tây Ban Nha Hernán Cortés chỉ có dưới tay vài chục tên thủ hạ. Các vua chúa Aztez đã tưởng lầm Cortés là vị thần da trắng râu tóc bạc của họ trở về cứu giúp họ (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

Người Aztec cũng tự cho mình là Người Mặt Trời ‘People of the Sun” giống chúng ta là Người Việt Mặt Trời thái dương rạng ngời Xích Quỉ.

Ta thấy rất rõ Người Cò, Người Mặt Trời Aztec nằm trong đại tộc Người Mặt Trời thái dương. Trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có vành chim biểu cò bay, chim biểu tượng của Hùng Vương Mặt Trời, như thế Người Cò Aztec cũng nằm trong Đại Tộc Bách Việt. Điều này cũng dễ hiểu thôi vì Maya có DNA giống hệt người Việt Nam mà văn hóa Aztec ruột thịt với văn hóa Maya.

Bây giờ xin tóm tắt thật vắn gọn cò và Vũ Trụ giáo.

Hư vô

Cò có một khuôn mặt biểu tượng cho hư vô thấy qua hình ảnh cò đưa linh hồn người chết về hư vô. Như đã nói ở trên, có tộc thổ dân Mỹ châu quan niệm là sau khi chết hồn cưỡi cò bay về hư vô. Trung Hoa tin là cưỡi hạc (cùng họ nhà cò) qui tiên. Cò biểu tượng cho hư vô, miền vĩnh cửu hay tái sinh thấy rõ qua con cò Bennu.

Thái cực

Cò mang dương tính, cò biến âm với cồ (đực) với cu (bộ phận sinh dục nam) sống ở bờ nước mang âm tính. Như thế cò có âm có dương, nhìn dưới dạng nhất thể cò có một khuôn mặt thái cực, trứng vũ trụ. Vì thế mà cò đẻ ra trứng thế gian, vũ trụ mang khuôn mặt sinh tạo, tạo hóa như khuôn mặt của U Cò Âu Cơ và của Cò Thoth của Ai Cập cổ đẻ ra Trứng Thế Gian.

Tổ Hùng Vương có một khuôn mặt tạo hóa sinh ra từ bọc Trừng Thế Gian có hai ngành nòng nọc, âm dương nên cò Lang, chim biểu của Hùng Vương cũng có khuôn sinh tạo, nòng nọc, âm dương nhất thể.

Như đã nói ở trên, cò Bennu sinh ra từ tro lửa của linh mộc persea có một khuôn mặt là Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) có quả được coi là trái tim thiêng liêng của thần mặt trời Horus tương đương với Hùng Vương (xem Sự Tương Đồng Giữa Cổ Sử Việt với Ai Cập Cổ). Thần mặt trời tạo hóa Ra nòng nọc, âm dương nhất thể (thái cực, trứng vũ trụ) liên hệ với Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) như thế cò Bennu cũng có một khuôn mặt sinh tạo nhất thể. Cò Bennu có một khuôn mặt biểu tượng sinh tạo, tạo hóa của Horus (Tổ Hùng).

Lưỡng nghi

Khi khuôn mặt nòng nọc, âm dương nhất thể tách rời ra, cò biểu tượng cho cực dương và âm tức lưỡng nghi.

Theo duy dương, như đã nói ở trên cò Bennu là hóa thân của mặt trời tức cực dương.

Theo duy dương Hùng Vương là Vua Mặt Trời (Hùng là đực, là dương, là mặt trời).

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Ai Cập cổ, ta thấy rất rõ Tổ Hùng (Hùng Lang) có một khuôn mặt của thần mặt trời hóa công Re (Ra) và Hùng Vương có một khuôn mặt của thần mặt trời rạng đông Horus (Lang là trai trẻ ứng với mặt trời rạng sáng trong khi mặt trời lặn ứng với cụ già Lạc Long Quân). Horus và Ra liên hệ với cò Bennu thì dĩ nhiên Tổ Hùng và Hùng Vương có chim biểu là con cò là chuyện hiển nhiên.

Tứ Tượng

Cò có khuôn mặt lưỡng nghi thì cũng có khuôn mặt tứ tượng. Trong triết thuyết cổ dùng bốn loại cò khác nhau để diễn tả tứ tượng như cò lửa, cò nước (cò Lạc), cò đá, cò lả (cò gió). Ở trên ta đã thấy rõ qua bốn khuôn mặt ứng với tứ tượng của bốn loại cò trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn.

Tam Thế

Như đã thấy cò Bennu liên hệ với cây persea có một khuôn mặt là Cây Đời Sống (Cây Vũ Trụ, Cây Tam Thế).

Tái sinh, hằng cửu, sinh sản

Như đã nói ở trên qua cò Bennu của Ai Cập cổ.

Về sinh đẻ, Tây phương có truyền thuyết con cò biểu tượng cho sinh đẻ qua hình bóng con cò tha trẻ sơ sinh trong một cái tã.

Đối Chiếu Với Truyền Thuyết và Cổ Sử Việt

Hùng Vương có dòng máu cò Gió.

Truyền thuyết nói rằng Mẹ Tổ Âu Cơ đẻ ra một bọc trứng chim nở ra Trăm Lang Hùng. Như thế cò biểu của các Lang Hùng mang di thể (gene) bọc, bầu, trứng (vũ trụ). Điều này thấy rất rõ qua hình bóng con cò Thoth của Ai Cập cổ đẻ ra Trứng Vũ Trụ (hay Trứng Thế gian). Cò bỉểu của Lang Hùng mang di thể bầu, bọc Trứng Vũ Trụ (hay Trứng Thế gian) nên có một khuôn mặt Khôn, bầu vũ trụ, bầu trời dương khí, gió.

Có tác giả cho rằng tên Âu Cơ là biến âm của U Cò. Phụ nữ Việt con cháu của Mẹ Tổ Âu Cơ nên là những nàng “cò lặn lội bờ ao, phất phơ hai giải yếm đào gió bay”.

Vậy Cò Gió là chim biểu của Lang Hùng. Lang cũng có nghĩa là trắng, là trong là mầu của khí gió. Cò Lang là Bạch Hạc. Vì có bản thể Gió, bầu trời nên vùng đất tổ của Hùng Vương mới có tên là châu Phong. Cò Gió là chim biểu của Hùng Vương ở đất châu Phong.

Địa danh Bạch Hạc, thuộc đất tổ châu Phong cho thấy rõ Cò Lang, Cò Trắng, Bạch Hạc là chim biểu của Hùng Vương. Hai địa danh Hạc Trì tức Ao-Cò (hạc đi với ao là con cò chứ không phải là con hạc crane sống trên cạn, đất khô), Việt Trì là Ao Việt ở vùng đất tổ châu Phong cũng liên hệ với Hùng Vương vì Hùng Vương thế gian có khuôn mặt Đoài thế gian là ao đầm. Cò là loài chim lội nước sống ở ao đầm nên cò Gió Đoài cũng có một khuôn mặt là chim biểu của bầu trời vùng Đoài thế gian ao đầm của Hùng Vương thế gian hay lịch sử.

Vì thế mà ta thấy gần như trống đồng nào cũng có hình cò bay. Trống đồng là trống biểu của Hùng Vương, của các tộc thuộc liên bang Văn Lang. Vì liên bang Văn Lang có cả trăm tộc Bách Việt (hiểu theo nghĩa rất nhiều) nên có cả trăm loại trống và do đó có cả trăm loài cò trên trống đồng âm dương. Mỗi trống có một loài cò khác nhau, trên những trống khác nhau, không có cò nào giống cò nào. 18 cò bay trên trống Ngọc Lũ I là 18 Cò Lang, Cò Gió, Bạch Hạc của Đại Tộc Việt Hùng Vương.

Những con chim bay này tuyệt nhiên không phải là chim Lạc ngỗng trời, không phải là cò nước, cò nác, cò Lạc, chim biểu của Lạc Long Quân. Cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là cò Lang, cò Trắng, cò Chàng, cò Hùng, cò Gió, Bạch Hạc.

Ca dao Việt thường nhắc tới con cò bay lả bay la:

Con cò bay lả bay la,

Bay từ cửa tổ bay ra cánh đồng.

Đây chính là hình ảnh con cò lả, cò liệng, cò Gió, chim biểu của Hùng Vương. Ca dao cũng nói tới con cò trắng toát như bông và có bờm:

Con cò trắng toát như bông,

Gió bay lất phất chùm lông trên đầu.

Con cò trắng toát như bông” chính là con cò trắng, cò Lang vàGió bay lất phất chùm lông trên đầu” chính là hình ảnh chiếc bờm gió hình túi, hình phướn, hình con diều gió trên đầu 18 con cò bay trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

Chúng ta có một điệu hát Cò Lả, đây chính là điệu hát của Đại tộc Cò Gió Hùng Vương (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

Con cò là chim biểu của Tổ Hùng vì thế khi cò chết, đám ma cò được tổ chức linh đình như quốc táng. Đủ mọi ngành, mọi tộc của liên bang Văn Lang tham dự như thấy qua các bài đồng dao về đám ma cò (có nhiều dị bản, chỉ xin đưa ra một bài):

Con cò chết rũ trên cây,

Bổ cu mở lịch xem ngày làm ma,

Cà cuống uống rượu la đà,

Bao nhiêu ếch nhái nhẩy ra chia phần.

Chào mào thì đánh trống quân,

Chim chích cởi trần, vác mõ đi rao…

Bổ cu, bổ cắt là chim Rìu, chim Việt có một khuôn mặt biểu tượng cho Đại Tộc Lửa Trời ứng với Đế Minh đội lốt Viêm Đế ở cõi tạo hóa. Cà cuống là con Nọc Nước (Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt) biểu tượng cho Đại Tộc Nước Dương ứng với Lạc Long Quân. Ếch nhái ruột thịt với Hán Việt oa, một khuôn mặt của Mẹ Tổ Âu Cơ, biểu tượng cho Đại Tộc Lửa âm Thái dương Thần Nữ Âu Cơ. Chào mào biểu tượng cho Đại Tộc Gió Dương (mào biểu tượng cho gió, chim biểu tượng cho dương) ứng với Hùng Vương. Chim chíchchích là kim nhọn, cọc nhọn biểu tượng cho Trụ Chống Trời, Núi Trụ Thế Gian ứng với Núi Kì, với Đại Tộc Đất Dương Kì Dương Vương. Xin lưu tâm hai từ cởi trần với trần cũng có một nghĩa là bụi đất (biểu tượng cho đất khô, đất dương) là một mấu chốt, một chiếc chìa khóa cho thấy Chim chích cởi trần biểu tượng cho Đại Tộc Đất Dương Trần (xem thêm Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt).

……

Tóm tắt

Tóm tắt lại, những con chim bay ở vành số 10 trên trống Ngọc Lũ I là những con cò Gió. Trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có một khuôn mặt là trống Đoài/Tốn có mặt trời 14 nọc tia sáng nên cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là Cò Đoài (có hai khuôn mặt: Đoài vũ trụ khí gió và Đoài thế gian ao đầm). Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt Cò Gió, Cò Đoài, Cò Lang, Cò Lả, Cò Trắng, Bạch Hạc, là chim tổ của Hùng Vương, là chim biểu cõi trời của liên bang Văn Lang.

Tổng quát những con cò liệng bay này mang đủ ý nghĩa vũ trụ luận và là chim biểu của 18 chi tộc ứng với càn khôn và tứ tượng dương và âm của hai ngành nòng nọc, âm dương thái dương.

Mười tám con cò bay chia ra hai bán viên 9 chín con: bán viên dương nhóm 7 người nhẩy múa có khuôn mặt Khôn dương mang tính chủ Lửa Đoài và bán viên âm nhóm 6 người nhẩy múa khuôn mặt Khôn âm mang tính chủ Nước dương Chấn.

Cò có hai khuôn mặt tạo hóa sinh tạo và thế gian (biểu tượng cho các ngành, đại tộc, tộc người thế gian).

Cò thiếu âm Khí Gió ở cuối vòng sinh tạo của Vũ Trụ Tạo Sinh mà cũng là ở khởi đầu trở lại vòng sinh tạo vũ trụ vì thế cò có khuôn mặt tạo hóa đội lốt chim tổ tạo hóa.

Đối chiếu với sử miệng qua bài đồng dao Bồ Nông Bồ Cắt diễn tả các loại chim biểu của Việt Nam theo Vũ Trụ giáo:

Bổ nông là ông bồ cắt,

Bồ cắt là bác chim di,

Chim di là dì sáo sậu

Sáo sậu là cậu sáo đen

Sáo đen là em tu hú

Tu hú là chú bồ nông.

……

Cò tương đương với chim tu hú trong bài đồng dao này biểu tượng cho khí gió thiếu âm ở cuối chu kỳ sinh tạo lại là chim khởi đầu cho vòng sinh tạo trở lại nên tu hú mới là chú bồ nông. Bài hát tiếp nối vòng tròn như vòng sinh tạo nối tiếp vô cùng tận (Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt).

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt cò là chim biểu tượng của Tổ Hùng ở cuối vòng sinh tạo khởi đầu từ Viêm Đế-Thần Nông (có một khuôn mặt sinh tạo, tạo hóa) và Tổ Hùng cũng là khởi đầu của vòng sinh tạo kế tiếp tức sinh ra, ngang hàng hay đội lốt Viêm Đế-Thần Nông nhất thể (như thấy qua bài ca dao: Sinh con rồi mới sinh cha, Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông). Vì thế Hùng Vương lịch sử di duệ của Tổ Hùng có hai khuôn mặt một khuôn mặt sinh tạo đội lốt Tổ Hùng và một khuôn mặt thế gian lịch sử.

Như thế ta thấy rất rõ cò trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn cũng có hai khuôn mặt như thế.

Ta cũng thấy rõ DNA của Tổ Hùng. Viêm Đế là nọc, dương I mặt trời, Thần Nông là nòng âm O không gian,

Tổ Hùng là di duệ hay sinh ra hoặc đội lốt Viêm Đế-Thần Nông nên có hai khuôn mặt nòng nọc, âm dương (vì thế mới chia ra hai ngành lửa núi và nước biển). Dưới dạng nhất thể, lưỡng nghi mang khuôn mặt sinh tạo, tạo hóa.

Dưới dạng lưỡng nghi, theo duy dương Hùng Vương là vua mặt trời đội lốt Đế Minh trong thái dương hệ và Viêm Đế ở cõi tạo hóa vũ trụ. Dưới dạng tứ tượng dương và âm sinh tạo thế gian thấy qua khuôn mặt của bốn tổ phụ Lửa Đế Minh, Đất Kì Dương Vương, Nước Lạc Long Quân và Khí gió Tổ Hùng và của bốn tổ mẫu Vụ Nước bầu trời thế gian Vụ Tiên, Gió bầu trời Thần Long, Lửa bầu trời thế gian (thái dương thần nữ) Âu Cơ và Đất âm thế gian Vợ Tổ Hùng.

Chim biểu cò cũng vậy.

Hàng 18 chim đứng

­­

Năm con chim đứng (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Tiếc là chỉ có hình vẽ chi tiết 5 con chim đứng nên không thể giải đọc chi tiết được. Tất cả các tác giả từ trước tới nay đều cho rằng đây là những con chim nước. Điểm này chỉ đúng một phần. Thật vậy để ý ta thấy có những con chim đứng dưới mỏ có hình cái mồi nên gọi là chim nước “tha mồi” (“insatiable birds”). Như đã nói ở trên, theo tôi cái mồi có một nghĩa là chữ nòng nọc hình nọc nhọn V có một nghĩa là Chấn, nước dương (IOO). Hình ngữ chữ V “tha mồi” này xác định những con chim nước đứng này là chim nước ngành thái dương. Tuy nhiên, trong nhóm 18 chim đứng này còn có những loài chim khác không phải là chim nước, như có mỏ như mỏ rìu, trên người có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình vòng tròn có chấm hay chấm vòng tròn có nhiều nghĩa như lửa vũ trụ thái dương, thiếu dương lửa đất, thiếu âm gió (con chim đứng thứ ba trên hình)…

Vành 18 chim đứng biểu tượng cho cõi trời (vì là chim) thế gian (vì đứng trên mặt đất) có một khuôn mặt mang tính lửa (lửa vũ trụ Càn và lửa đất Li) của đại tộc người thế gian với khuôn mặt lửa đất Li mang tính chủ.

Kết Luận

Tóm lại vành số 10 có 18 cò gió đang bay liệng biểu tượng cho bầu trời sinh tạo, tạo hóa thế gian và 18 chim đứng Li đất biểu tượng bầu trời vùng đất thế gian.

18 con Cò bay là khuôn mặt thiếu âm, Khôn dương, dương I thiếu âm IO (thiếu âm của nhánh dương, thái dương), tức quẻ Đoài IIO trong khi 18 con chim đứng trên đất mang khuôn mặt chủ là Li thiếu dương, đất dương, dương I thiếu dương OI tức quẻ Li IOI (thiếu dương của nhánh dương, thái dương). Hai loài chim bay và chim đứng cùng ở trên một vành số 10 như thế chúng có một khuôn mặt lưỡng hợp. Ở đây ta lại thấy có dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu âm với thiếu dương. Ta thấy rõ vành chim bay và chim đứng là những chim biểu của cõi thế gian trong khi chim nông có khuôn mặt chính là chim biểu của cõi tạo hóa.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, vành cò bay và chim đứng biểu tượng cho Hùng Vương thế gian lịch sử trong khi chim nông có một khuôn mặt biểu tượng cho Thần Nông cõi tạo hóa.

Nhìn cả hai vành chim thú ta thấy:

-Đế Minh ứng với Chim đứng (với lửa bầu trời thái dương thế gian mang tính chủ).

-Kì Dương Vương ứng với Hươu (với Lửa đất thái dương mang tính chủ).

-Lạc Long Quân ứng với chim nông (với khuôn mặt nước thái dương mang tính chủ).

-Tổ Hùng Vương ứng với 18 cò bay (với khuôn mặt gió thái dương mang tính chủ).

Ta cũng thấy trên mặt trống có ba loài chim:

.chim nông nước đang bay ứng với khuôn mặt sinh tạo, tạo hóa phía nòng âm Thần Nông.

.chim đứng ứng với khuôn mặt sinh tạo, tạo hóa của bầu trời thế gian phía nọc dương Viêm Đế.

.Cò bay ứng với khuôn mặt sinh tạo, tạo hóa của Tổ Hùng và khuôn mặt lịch sử của Hùng Vương thế gian. Cò là di duệ của ngành nọc dương Viêm Đế chim đứng và của ngành nòng âm Thần Nông chim nông tức là dạng kết hợp nòng nọc, âm dương của hai ngành Viêm Đế-Thần Nông. Vì thế cò có bản thể âm dương (về động vật học thì mỏ mang dương tính và sống bên bờ nước mang âm tính) có di thể (gene) nòng nọc, âm dương (nên mới chia ra làm hai ngành núi biển). Cò và Tổ Hùng mang trọn vẹn ý nghĩa biểu tượng của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo và của Dịch dựa trên nguyên lý nòng nọc, âm dương.

Như thế hai vành chim thú là những vật biểu, vật tổ của Đại Tộc Người Mặt Trời trong họ Người Vũ Trụ trên mặt trống được diễn tả thật trọn vẹn theo ý nghĩa của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo, Việt Dịch.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt đây là những vật biểu, vật tổ của Đại Tộc Việt Người Mặt Trời thái dương rạng ngời con cháu của Tổ Hùng Vương có thủ đô là Bạch Hạc ở châu Phong…

Vành 11 đến 16: sáu vành chữ viết nòng nọc vòng tròn-que ở biên trống.

.Vành giới hạn số 11 và 16 là những vành có chấm nhỏ nọc cho biết trống là trống nọc lửa, thái dương.

.Ba vành chữ viết nòng nọc vòng tròn-que gồm hai vành 12 và 15 ở ngoài có hình nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) có một nghĩa là nọc lửa, thái dương.

Vì trống Ngọc Lũ I diễn tả trọn vẹn âm dương đề huề của ngành nọc thái dương (còn có hiện diện của nai cái) nên các vành này phải nhìn trọn vẹn dưới lăng kính nòng nọc, âm dương của Vũ Trụ Tạo Sinh của Dịch.

Tổng quát hai vành răng cưa là hai vành sáng, vành lửa, vành thái dương. Nhìn theo nòng nọc, âm dương thì ta có thể đọc theo hai dạng nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) chìm và nổi. Theo duy dương tức đọc theo diện nổi hai vành này có nghĩa mà ta thường hiểu trên trống (có một nghĩa là là đực, là dương) là nọc dương thái dương ngành nọc dương ứng với Viêm Đế. Nhìn theo nòng nọc, âm dương đề huề ở trống này, nhìn theo duy âm ta có thể đọc thêm theo diện chìm, thì hai vành chìm có nghĩa là nọc dương thái dương ngành nòng âm ứng với Thần Nông thái dương. Trong mỗi hình nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) có đánh dấu hai chầm nọc nhấn mạnh thêm khuôn mặt lửa, thái dương.

Hai vành này kẹp giữa hai vành sóng vòng tròn có chấm hay chấm vòng tròn có tiếp tuyến đối ngược nhau, như đã nói ở trên là vành Li/ Đoài vận hành, sinh động, hai khuôn mặt chủ của hai nhánh nòng nọc, âm dương, ở dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu dương Li với thiếu âm Đoài.

Như đã biết nhìn các vành chữ viết nòng nọc vòng tròn-que ở biên trống ta biết được đó là trống biểu của dòng, tộc nào. Ở đây trống Ngọc Lũ I là trống lưỡng hợp đại và tiểu vũ trụ ngành nọc thái dương.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là trống diễn tả trọn vẹn Đại Tộc Việt Người Mặt Trời Thái Dương Xích Quỉ ngành nọc thái dương của họ Người Tiểu Vũ Trụ.

Tóm tắt nhìn lại cả mặt trống từ tâm trống ra ngoài biên ta có:

.Thượng Thế là mặt trời 14 nọc tia sáng thái dương. Không gian có vỏ là vòng tròn có nét vừa phải mang tính nòng nọc, âm dương đề huề.

Các khoảng không gian giữa tia sáng mặt trời có hình thái tứ tượng và các vành tứ hành sinh động mang nghĩa sinh tạo.

.Trung Thế

Vùng đất dương có vành chủ yếu diễn tả sinh hoạt nhân sinh. Người là Người Mặt Trời thái dương có trang phục đầu hình chim có góc cạnh mang tính nọc thái dương của họ người tiểu vũ trụ (qua trang phục đầu hình quả bầu của người cuối cùng nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương). Đại tộc thiếu dương Li ứng với người Xích Quỉ Kì Dương Vương mang tính chủ. Trống này diễn tả trọn vẹn triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh của Vũ Trụ giáo, của đại tộc Người Mặt Trời thái dương ngành nọc thái dương nên có thêm hai vành chim thú là vật biểu, vật tổ cũng được diễn tả trọn vẹn theo Vũ Trụ Tạo Sinh của Vũ Trụ giáo của Việt Dịch.

Cò bay là Cò Gió mang hai khuôn mặt tạo hóa ứng với Tổ Hùng đội lốt Viêm Đế-Thần Nông nhất thể và lịch sử thế gian. 18 con chim đứng có một khuôn mặt biểu tượng cho 18 ngành, đại tộc, tộc Người Mặt Trời (ứng với Người Mặt Trời Bách Việt). 18 tộc này là con cháu của Tổ Hùng chia ra là hai bán viên nòng nọc, âm dương. Mỗi bán viên có 9 chim đứng với 9 cò bay tương ứng có thể xem là biểu tượng của 9 vị thần hay của 9 ngành, tộc. Trong 9 con có một con đại diện ngành và 8 con đại cho đại tộc ứng với tứ tượng dương và âm của mỗi ngành.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Ai Cập, 9 thành phần phía âm tương ứng với Cửu Thần của phía nòng âm Re-Atum ở Heliopolis.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt:

-Nếu nhìn dưới lăng kính trọn vẹn Tam Thế thì con số 18 chia ra:

.9 khuôn mặt (Cửu Thần) ngành nọc dương thái dương gồm Viêm Đế, 4 thần tổ cõi tạo hóa và 4 thần tổ thế gian là Đế Minh, Kì Dương Vương, Lạc Long Quân và Tổ Hùng.

.9 khuôn mặt ngành nọc âm thái dương gồm Thần Nông thái dương và 8 vị thần tương ứng.

-Nếu nhìn dưới diện thế gian lịch sử thì con số 18 này có chín khuôn mặt gồm một đại biểu nhánh nọc dương thái dương và 8 đại tộc ứng với tứ tượng dương và âm phía nọc lửa Kì Dương Vương và 9 khuôn mặt mặt gồm một đại biểu nhánh nọc âm thái dương và 8 đại tộc ứng với tứ tượng dương và âm phía nọc nước An Dương Vương.

Ở diện lịch sử hai nhóm 9 khuôn mặt thế gian này có thể tương ứng với Cửu Lê Cửu Lạc.

Những vành chữ viết nòng nọc vòng tròn-que ở biên trống cũng cho biết trống ở dạng lưỡng hợp đại và tiểu vũ trụ của ngành nọc thái dương và thiếu dương Li mang tính chủ.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, mặt trống diễn tả nhánh Người Mặt Trời thái dương Bách Việt ngành nọc thái dương Viêm Đế-Thần Nông (Thần Nông ở đây mang khuôn mặt là mặt trời thái dương ngành nòng âm chứ không phải là không gian) thuộc chủng Người Tiểu Vũ Trụ sinh ra từ một quả bầu vũ trụ đúng như truyền thuyết Mường Việt đã lưu truyền.


(phần 15)


2. VÙNG NƯỚC THẾ GIAN

Vùng nước là phần phình tang trống (trông như một vật đựng nước).

Vùng Nước thế gian ở tang trống đồng âm dương Ngọc Lũ I (Nguồn: The Bronze Dongson Drums compiled by Hà Thúc Cần, 1989).

.Phần trên tang trống có 6 vành hoa văn hình học gồm hai vành giới hạn chấm nọc lửa sinh tạo còn lại bốn vành hoa văn có hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) thái dương trong có bỏ hai dấu nọc chấm cũng cho biết là lửa, thái dương. Hai vành này kẹp giữa hai vành vòng tròn đồng tâm có chấm Lửa Nước Chấn có tiếp tuyến. Ở đây ở vùng nước tang trống ngoài nghĩa chuyển vận, sinh động, tiếp tuyến cũng có thể có một nghĩa là sóng nước chuyển động, nước dương.

Như thế so sánh với các vành ngoài biên trống, ta thấy các vành ở phía trên tang trống này chỉ khác ở hai vành nằm giữa là hai vành có hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có tiếp tuyến có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn sinh động trong khi ở biên trống là hai vành một vòng tròn có chấm/chấm vòng tròn có tiếp tuyến có nghĩa là thiếu dương Li, thiếu âm Đoài vũ trụ sinh động. Điểm này cũng dễ hiểu vì tang trống là vùng nước và chúng cũng cho biết các tộc ở vùng nước thế gian này có khuôn mặt nòng Khôn thái âm nước của ngành thái dương Chấn mang tính chủ.

Lưu ý

Ở biên trống Ngọc Lũ I hai vành nọc mũi tên thái dương kẹp ở giữa hai vành vòng tròn có chấm (hay chấm vòng tròn) thiếu dương Li/thiếu âm Đoài trong khi ở các trống khác chỉ kẹp ở giữa có một vành cho thấy trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là trống mang tính lưỡng hợp nòng nọc, âm dương dưới dạng tiểu vũ trụ hay liên hiệp hai tộc của hai nhánh nòng nọc, âm dương của ngành nọc dương thái dương. Ở những trống chỉ có một vành thì chỉ diễn tả một ngành, nhánh, đại tộc, tộc mà thôi. Đôi khi cụng thấy chỉ có một vành nhưng vành đó lại có hai hình thái. Ví dụ như ở trống Sông Đà chỉ có một vành kẹp ở giữa diễn tả một nhánh nhưng vành này có hai hình thái là sóng hình thoi nhọn đầu Khí gió Đoài vũ trụ (Khôn dương) thái dương và sóng uốn khúc hình vuông Nước dương Chấn (Khôn âm) thái dương cũng cho biết ở dạng lưỡng hợp nhưng chỉ ở riêng trong nhánh nòng âm Khôn thôi.

.Phần dưới chân tang trống có 5 vành gồm hai vành ngoài cùng là hai vành trống không nòng Khôn âm kế đến hai vành chấm nọc dương, thái dương, Càn, sinh tạo kẹp giữa một vành vòng tròn có chấm có tiếp tuyến Li/Đoài. Theo duy âm tức đi với vành trống không Khôn âm thì vành này mang tính Đoài vũ trụ và theo duy dương tức vành này đi với vành chấm nọc dương sinh tạo Càn thì vành này mang nghĩa Li. Ta thấy 5 vành này diễn tả Đoài Li sinh tạo với Đoài mang tính chủ vì ở vùng nước âm và vì vành trống không Khôn âm nằm phía ngoài cùng (gần mặt trời hơn).

Hai nhóm vành trên Chấn và dưới Đoài mang tính chủ ở vùng tang trống này cho thấy cảnh thuyền nằm giữa ở tang trống mang tính chủ Chấn-Đoài tức ngành Khôn. Điểm này ăn khớp trăm phần trăm vì đây là vùng nước tang trống và cũng ăn khớp với phần đất dương ở mặt trống có Càn Li mang tính chủ theo dạng lưỡng hợp đại và tiểu vũ trụ.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt những vành này cho biết các thuyền và chim thuộc ngành nòng Khôn Thần Nông thái dương.

.Thuyền

Hai phần trang trí với các vành chữ viết nòng nọc vòng tròn-que này giới hạn phần chính vùng nước ở giữa của tang trống có chủ thể là 6 hình thuyền.

Lưu ý

Với nghĩa sinh tạo của hai nhóm những vành chữ viết nòng nọc vòng tròn-que của tang trống cho thấy các thuyền này là những thuyền thuộc cõi trên mang ý nghĩa biểu tượng trong quá trình sinh tạo, tạo hóa, tái sinh… đây không phải là thuyền thế gian dùng trong lễ hội nước, dùng làm thuyền chiến, chuyên chở người…

Số 6 là số lão âm, âm thái dương, vậy 6 con thuyền này và những người trên thuyền, theo nòng nọc, âm dương đề huề thì thuộc nhánh Nòng âm thái dương (vì thuyền thuộc tộc nước, âm) nhưng theo duy dương thì thuộc nhánh nọc âm thái dương. Số 6 Tốn, theo duy âm (vì ở vùng âm, nước) hôn phối với Đoài và Chấn. Chi tiết về các con thuyền này đã nói ở chương Ý Nghĩa Hình Người Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á (tập 2). Ở đây chỉ xin tóm lược lại.

Hình vẽ 6 con thuyền trên trống trống đồng âm dương Ngọc Lũ I trong quyển Những Trống Đồng Đông Sơn Đã Phát Hiện Ở Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên.

Tổng quát

Như đã thấy ở trên, mặt trống đồng âm dương Ngọc Lũ I diễn tả trọn vẹn triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh nên thuyền không phải là thuyền thông thường dùng làm phương tiện vận chuyển trên mặt nước thường thấy trên các trống muộn ở miền Nam Trung Hoa (ví dụ hình thuyền trên trống Nam Trung Hoa Shih Chai Shan Tây Hải Sơn) mà chúng mang ý nghĩa biểu tượng tín ngưỡng ma thuật (magico- religious meaning) là những thuyền thiêng liêng (sacred boats).

Có nhiều loại thuyền biểu tượng:

– Thuyền tang

Thuyền tang (funerary boats and/or Boats of the Dead) dùng như một phương tiện chuyên chở người chết tương dương với xe tang ngày nay. Ví dụ thuyền tang của người Ai Cập Cổ.

Thuyền tang Ai Cập cổ chở một xác người đem đi chôn vẽ trong nhà mồ ở Barsha (Peter Miller, Nat. Geographic April 1988).

– Thuyền vong hay thuyền linh hồn (soul boats and/or Boats of the Spirits)

Thuyền vong chở vong linh người chết về miền vĩnh cửu hay chở hồn những giáo nhân (religious care takers) ví dụ Phật A Di Đà (Amida) lái con thuyền Bát Nhã chở các vong linh vượt bể khổ về nát bàn, thuyền “funata” của Nhật Bản chở vong linh người chết trong lễ vong nhân “O bon”, các bà đồng ViệtNamngày nay vẫn còn dùng tay chèo trong lúc lên đồng. Việt Mường, Indonesia, Ai Cập v. v… đều có thuyền vong (Nguyễn Xuân Quang, Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt, tr. 117).


Thuyền vong của Việt Mường
(Barque des âmes or Esprits) (V. Goloubew, 1937).

Thuyền vong của người Ngaju, Dayak, Borneo, Indonesia: Thuyền Rắn Nước hay Thuyền Vàng (Watersnake or Gold-boat) chở vong linh phái nữ. Plate XX, illustration 23 (Hans Scharer).

Thuyền Bổ Cắt hay thuyền châu báu (Hornbill or Jewel-boat) dùng cho phái nam (Plate XIX, illustration 22).

Dưới một góc cạnh, những thuyền tang tí hon này dùng như những vật tùy táng chôn theo người chết (grave goods) giống như những trống minh khí Đông Sơn tí hon. Dùng làm phương tiện chuyên chở linh hồn các vua chúa, những thuyền tang mặt trời tí hon đã được chôn trong các mộ cổ Ai Cập hàng ngàn năm. Luôn luôn, chúng mang những biểu tượng của thần mặt trời mà các vị vua là con trời. ví dụ như thuyền tang mặt trời bằng ngọc trắng alabaster trang trí đầu dê rừng ibex, biểu tượng của thần mặt trời tìm thấy trong mộ Tutankhamun.

Một chiếc thuyền trời tí hon bằng ngọc trắng (alabaster “solar bark”) tìm thấy trong mộ Tutankhamun. Đầu và đuôi thuyền trang trí đầu dê rừng ibex, biểu tượng của thần mặt trời (Peter Miller, National Geographic, April 1988, tr.541).

– Thuyền biểu tượng Vũ Trụ giáo.

Thuyền Vũ Trụ giáo mang biểu tượng sự Sống, Chết, Tái Sinh và Hằng Cửu…


Thuyền trời Ai Cập Hennut. Thuyền chở linh hồn của Ai Cập cổ bay về miền tái sinh. Thuyền người chết đi qua bầu trời đầy sao đến Amenti, vùng đất của Osiris, để được phán xét và tái sinh
(Papyrus Mes-em-neter dated 4266 B.C.), (James Churchward,1965, tr.140).

– Thuyền quan tài

Thuyền dùng làm quan tài trong thuyền táng cũng mang ý nghĩa trong Vũ Trụ giáo như đưa người chết về cõi trên của nhánh nước để được sống hằng cữu hay được tái sinh. Ví dụ như thuyền táng ở di chỉ Việt Khê Hải Phòng, các thuyền táng của Vikings, Bắc Âu.

– Thuyền trừ tà ma và bệnh tật.

– Thuyền lễ hay thuyền đua dùng trong các hội nước (water festivals).

THUYỀN BIỂU TƯỢNG TRONG VŨ TRỤ GIÁO

Thuyền liên hệ với nước nên thuyền biểu tượng Vũ Trụ giáo của ngành âm, nước.

.Thuyền Vũ Trụ (Cosmic boat).

Thuyền vũ trụ biểu tượng hư không, vũ trụ âm hay biển vũ trụ (cosmic ocean). Thuyền mặt trời Ai Cập (Egyptian solar barque) là một thứ thuyền vũ trụ chở mặt trời vượt biển vũ trụ hàng ngày.

.Thuyền Thái Cực.

Thuyền biểu tượng Thái Cực hay Nhất Thể (Great Ultimate or Totality or Unity) có âm dương kết hợp với nhau. Ví dụ thuyền tang Rắn Nước-Bổ Cắt (Watersnake-Hornbill ship of the dead) của người Ngaju, Dayak.

.Thuyền Lưỡng Cực hay Lưỡng Nghi.

– Cực âm

Thuyền liên hệ tới nước biểu tượng cho âm, nữ, bộ phận sinh dục nữ. Anh ngữ “ship” có giống cái, Việt ngữ “ghe” (boat) có một nghĩa là bộ phận sinh dục nữ (Tiếng Việt Huyền Diệu). Thuyền Rắn Nước (Watersnake boat) của người Ngaju, Dayak biểu tượng cho âm, nữ, nước, âm thế v. v……

– Cực dương

Thuyền có hình chim hay trang trí các phần có dương tính của chim biểu tượng cực dương hay dương. Thuyền Bổ Cắt của người Ngaju, Dayak biểu tượng cho dương, nam, cõi dương, v. v…

.Thuyền Tứ Tượng.

Thuyền có thể biểu tượng cho tất cả Tứ Tượng hay cho riêng từng tượng một.

–/ Thuyền Tượng Lửa vũ trụ hay thái dương:

Loại thuyền này có hình chim lửa hay các bộ phận dương tính của chúng ví dụ chim bổ cắt lửa, phượng hoàng, v. v…

–/ Thuyền Tượng Nước vũ trụ hay thái âm:

Theo duy âm, loại thuyền này có hình rắn nước không có trang trí gì cả hay hình cá v. v… Vào thời muộn sau này, thuyền có hình thú vật sống dưới nước hay trang trí các thú vật sống dưới nước có mang tính thần thoại hóa ít nhiều như thuồng luồng của ViệtNam, Naga của Hindu, rồng nước của Trung Hoa.

–/ Thuyền Tượng Đá vũ trụ hay thiếu dương:

Đất đá liên hệ với thuyền là đất âm, đất thấp, đất có nước, đầm lầy, v. v… Thuyền loại này có hình cá sấu hay trâu nước hay trang trí các loại thú này. Ví dụ các thuyền ở Nam Dương trang trí sừng trâu.

–/ Thuyền Tượng Khí vũ trụ hay thiếu âm:

Thuyền loại này có hình loài chim gió như bồ nông gió hay có trang trí cánh chim, bườm chim, chim bay, v.v…

.Thuyền biểu tượng sự Sống, Chết và Tái Sinh, Hằng Cửu.

Như đã nói ở trên.

Nói thật tóm tắt thì thuyền liên hệ với nước. Nước là Mẹ của sự Sống. Vì thế thuyền biểu tượng mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ luận bao gồm cả sự Sống, Chết và Tái Sinh, Hằng Cửu… Điểm này giải thích tại sao người cổ Việt được chôn trong các quan tài hình thuyền. Ví dụ như chiếc quan tài hình thuyền với một cái tay chèo tìm thấy ở di chỉ khai quật Việt Khê, Hải Phòng. Người Mường và vài sắc dân ở Tây Nguyên ngày nay còn chôn người trong các quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng. Nhìn dưới một khía cạnh của nhánh nước âm, đây là những quan tài thuyền độc mộc.

Ngoài ra còn có những ngôi mộ hay nghĩa trang hình thuyền như nghĩa trang hình thuyền của người Todo (Flores,Indonesia).

Thuyền tái sinh thấy rất rõ trong truyền thuyết Ai Cập.

Hình thuyền trên một sợi dây chuyền cổ của vua Tutankhanum, con bọ hung, tiêu biểu cho thần mặt trời bình minh biểu tượng cho tái sinh. Đĩa tròn đỏ (ở giữa) biểu tượng mặt trời mọc, trong khi hai đĩa tròn vàng trên hai vành trăng bán nguyệt trên đầu hai con vượn biểu tượng mặt trăng (Peter Miller, National Geographic, April 1988, tr.540-541).

Hai cây gậy âm dương “was” ở hai bên xác nhận chiếc thuyền này mang ý nghĩa âm dương, nguyên lý căn bản của Vũ Trụ Tạo Sinh. Đầu gậy có hình con thú viết dưới dạng nọc nghiêng biểu tượng cho dương, chân gậy có hình túi vòm omega, âm (trông giống như âm đạo hay dạ con). Thổ dân Úc châu biểu tượng đàn bà bằng hình vòm này. Thần Bầu Trời Nut của Ai Cập cổ thường diễn đạt bằng hình người đàn bà uốn cong hình vòm trời như phần chân của cây quyền trượng was này (xem chương Ý Nghĩa Dấu, Hình, Biểu Tượng Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á).

Tóm lại thuyền này biểu tượng mang trọn vẹn Vũ Trụ thuyết.

THUYỀN BIỂU TƯỢNG TRÊN TRỐNG ĐỒNG ÂM DƯƠNG ĐÔNG NAM Á.

Các thuyền biểu tượng chính thống trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn cũng phải mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ Tạo Sinh của Vũ Trụ giáo. Thuyền thấy xuất hiện trên khoảng 25 trống. Trong danh sách này không kể các thuyền loại Nguyễn Xuân Quang VI (Heger I) thuộc vùng Nam Trung Hoa và VânNam. Số thuyền tương đối lớn này cho thấy chủ nhân của trống đồng âm dương có hình thuyền là những tộc Khôn dòng nước hay các tộc liên hệ với họ.

Chính thống, trên trống đồng âm dương các thuyền phải xuất hiện trên vùng nước tức trên vai trống (xem chương Cơ Thể Học Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Trên các trống muộn và mất chính thống, thuyền xuất hiện ngoài vùng nước, ví dụ trên trống Nam Ngãi II có 15 chiếc thuyền nằm ở vùng đất âm ở ngoài biên mặt trống.

Thuyền thường có sáu chiếc mang trọn nghĩa vũ trụ luận (hai chiếc biểu tượng âm dương và bốn chiếc biểu tượng Tứ Tượng), di chuyển theo chiều dương, chiều mặt trời (ngược chiều kim đồng hồ). Trên các trống muộn, có thể chỉ thấy có bốn chiếc ứng với Tứ Phương, Tứ Tượng…


phần 16)


THUYỀN TRÊN TRỐNG NGỌC LŨ I

Trên vai trống Ngọc Lũ I có 6 con thuyền biểu tượng. Hiển nhiên, thuyền thuộc tộc nước, âm. Số sáu là số lão âm, âm thái dương, vậy sáu con thuyền này và những người trên thuyền theo nòng nọc, âm dương đề huề thuộc ngành Nòng âm thái dương và theo duy dương tức ở ngành nọc thái dương vì ở trên trống thì thuộc nhánh nọc âm thái dương mang tính chủ. Tổng quát về các con thuyền này đã nói ở chương Ý Nghĩa Hình Thuyền Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á. Ở đây chỉ xin tóm lược lại.

Sau đây là hình vẽ 6 con thuyền trong quyển Những Trống Đồng Đông Sơn Đã Phát Hiện Ở Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên:

Sáu con thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Thuyền mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ thuyết nhánh nòng âm. Nhìn theo diện giới hạn ở nhánh nòng thái dương, thì những con thuyền này diễn tả nhánh nòng thái dương dưới nước có đầu thuyền là đầu linh vật Rắn Nước thái dương biểu tượng cho đại tộc Chấn nước thái dương và đuôi thuyền hình chim Nông mang dương tính biểu tượng Đoài gió thái dương (xem chi tiết ở dưới). Nhánh này là nhánh Rắn Nước-Bổ Nông. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, ứng với Thần-Nông (ứng với con Tôm trên bàn Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc).

Nhìn tổng quát thân sáu con thuyền này đều có những nét chung là những hình ngữ sọc đứng và sọc ngang mang ý nghĩa nòng Khôn gió nước Đoài Chấn. Thân thuyền chỉ khác nhau các chữ viết nòng nọc vòng tròn-que, các dấu (markers) hay các phụ đề thay đổi theo tính âm dương của các đại tộc, tộc…

Giống như con số 6 ở nhóm 6 người nhẩy múa ở bán viên âm như đã nói ở trên, con số 6 chiếc thuyền cũng mang theo nghĩa trong Vũ Trụ Tạo Sinh ( 6 = 2, âm dương + 4, tứ tượng). Theo Dịch số 6 là số thành, sinh thành. Như thế ta biết ngay giống như 6 người múa trên mặt trống, trong 6 thuyền, có hai thuyền biểu hiệu cho âm dương, Lưỡng Nghi, cho hai đại tộc và 4 thuyền cho Tứ Tượng hay bốn tộc, chi tộc tương ứng với Tứ Tượng. Nói một cách khác có ba thuyền thuộc phía âm, trong đó có một thuyền đại diện cho đại tộc nòng âm và hai thuyền cho hai tộc âm là nòng thái âm và nòng thiếu âm và 3 thuyền dương trong đó có một thuyền đại diện cho đại tộc nòng dương và hai thuyền cho hai tộc dương là nòng thái dương và nòng thiếu dương.

Hình dạng và kích thước các thuyền trên trống Ngọc Lũ I đều giống nhau nhưng về chi tiết không một thuyền nào giống một thuyền nào. Hiển nhiên mỗi thuyền biểu hiệu cho một ngành, nhánh hay một đại tộc, tộc, chi tộc riêng biệt nào đó. Chi tiết là yếu tố quyết định để nhận dạng mỗi thuyền. Trái lại, trên trống Nam Dương Beelaerts, một trống muộn, hình dáng và kích thước các thuyền khác nhau. Trên trống này, hình dạng và kích thước là chìa khóa để nhận dạng các thuyền. Cũng có 6 thuyền, ba thuyền có hình gần giống hình bán nguyệt, hai đầu thuyền có ba vòng tròn đồng tâm tức Khôn (OOO). Đây là ba thuyền thuộc dòng âm. Ba thuyền còn lại mũi nhọn dương, thuộc dòng dương. Bốn thuyền lớn, mỗi thuyền có hai người chèo trang phục lông chim biểu tượng Tứ Tượng hay bốn chi tộc tương ứng với Tứ Tượng. Hai thuyền nhỏ hơn, mỗi thuyền chỉ có một người chèo, biểu tượng âm dương, lưỡng nghi, hai ngành. Điều này xác định vững chắc rằng 6 thuyền trên trống Ngọc Lũ I có cùng ý nghĩa biểu tượng trong Vũ Trụ giáo như 6 con thuyền trên trống Beelaerts thấy rất rõ qua hình dáng và kích thước khác nhau.

(rất tiếc tôi đã để thất lạc hình 6 con thuyền của trống Beelaerts này ở một chỗ nào đó tìm chưa ra, có thể vào tìm reference trong The The Kettle Drums of Southeast Asia của A.J. Bernet Kempers).

Vậy điểm mấu chốt cốt yếu, sinh tử là phải nhận diện ra hai chiếc thuyền đại biểu cho nhánh nòng âm nước trong 6 chiếc thuyền này. Ở đây theo nguồn Nguyễn Văn Huyên chính là hai con thuyền số 5 và số 6.

Thật vậy ta thấy rất rõ hai thuyền hai thuyền cuối cùng có những đặc tính khác biệt với các thuyền khác, cho thấy đây là hai thuyền biểu tượng phía nước hay của nhánh nòng thái dương như sau:

– Hai thuyền cuối là hai thuyền biểu tượng cho nhánh này gồm hai đại tộc thấy rõ khi ta lấy đường nối đúc trống làm mốc. Ở hai hình dưới đây cho ta thấy rõ như ban ngày thuyền cuối cùng số 6 có hình chim đứng trước mũi thuyền ở bên trái đường nối và thuyền số 1 có chim đứng ở phía đuôi thuyền ở bên phải đường nối theo nguồn Nguyễn Văn Huyên.

Thuyền số 6 và thuyền số 1 ở hai bên đường nối của trống.

Hình vẽ lại thuyền số 6 và số 1 ở hai bên đường nối (The Kettle Drums of Southeast Asia của A.J. Bernet Kempers).

Lưu Ý

Nếu ta lấy đường nối khuôn đúc làm chuẩn thì như đã thấy thuyến số 6 theo nguồn Nguyễn Văn Huyên là thuyền dẫn đầu của nhóm 6 con thuyền. Như vậy nếu ta lấy theo tính cách biểu tượng dẫn đầu dựa vào đường nới đúc trống thì thuyền này là thuyền số 1 rồi kế tiếp theo sau là những thuyền số 2, 3, 4, 5 và 6 tức là vị trí sẽ ngược với nguồn Nguyễn Văn Huyên. Tính theo cách sau này thì hai thuyền 1 và 2 dẫn đầu nhóm lại là hai thuyền hướng về tới đường nối khuôn đúc bên trái (tức thuyền 6 và 5 theo nguồn Nguyễn Văn Huyên).

Dựa vào cách lấy đường nối khuôn đúc làm mốc chuẩn ta thấy hợp lý hơn vì sao? Vì đây là vùng Nước tang trong nên phải đọc theo theo duy âm tức theo chiều kim đồng hồ khởi đầu từ thuyền số 1 (tức số 6 của nguồn Nguyễn Văn Huyên). Trong khi đó nguồn Nguyễn Văn Huyên đọc theo duy dương tức theo chiều ngược với kim đồng hồ.

Tôi sẽ đọc theo thứ tự duy âm này.

Để dễ theo dõi, tôi sắp xếp các hình thuyền lại theo chuyển động vòng tròn như trên vai trống.

Sáu thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I sắp xếp lại theo chuyển động vòng tròn như trên vai trống và theo duy âm đọc theo chiều kim đồng hồ của tôi dựa vào mốc đường nối đúc trống.

Trên hai thuyền dẫn đầu 1 và 2 đọc theo chiều âm của nhánh nước, mỗi thuyền có hai linh hồn người chết

.Ở thuyền số 1, một trong hai linh hồn bị soi mòn mất chỉ còn một phần nên trông giống như chiếc khăn. Linh hồn người chết trông như trẻ con trần truồng mà hiện nay các học giả về trống đồng hiểu lầm là tù nhân (xem dưới ở phần Người Trên Thuyền) đang ngồi bệt dưới sàn.

Thuyền số 1 dẫn đầu đọc theo chiều âm của nhánh Nước.

Thuyền số 2, một trong hai thuyền dẫn đầu đọc theo chiều âm của nhánh Nước.

Có hai linh hồn có nghĩa là có hai cảnh phán xét linh hồn ứng với hai phía nòng nọc của nhánh nòng nước gồm có hai đại tộc trong khi bốn con thuyền còn lại chỉ có một linh hồn người chết tức một cảnh phán xét linh hồn ứng với mỗi tộc..

-Hai người gác cổng thiên đàng đứng trên đài cao ở hai thuyền này khác hẳn với những người ở bốn thuyền còn lại. Hai người này ở vị trí cao nhất so với các người còn lại trên thuyền nên là đại diện, là biểu tượng cho cả tộc người của con thuyền.

Người gác cổng trời ở thuyền số 1 ở trần có mặc váy hay quần tức chỉ có một âm, theo duy âm là thiếu âm (chiếc váy trong hình của A.J. Bernett Kempers ở trên thấy rõ hơn là ở trong hình của Nguyễn Văn Huyên). Ở đây rõ ràng theo duy âm vì ở dưới nước là thiếu âm nguyên thể của khí gió. Như thế, theo duy âm thái dương người ở trần là người tộc gió, cõi trời Đoài vũ trụ.

Người chim ở trần trên trống Quảng Xương thuộc ngành dương, theo duy âm là dương I thiếu âm Đoài IIO, khí gió vũ trụ.

Người này tròn trịa, tóc ngắn mang dương tính và quay về phía mũi thuyền tức chiều dương. Tay cầm khiên và lao tức có hai yếu tố âm dương, ở đây cây lao để nghiêng ở tư thế bắn lên trời diễn tả gió tức thiếu âm Đoài vũ trụ. Như thế thiếu âm Đoài mang tính trội vì thuyền này là thuyền số 1 (theo cách đọc duy âm của tôi). Đây là người tiêu biểu của tộc nòng Khôn dương thiếu âm Đoài vũ trụ đại diện cho cả nhánh Khôn Đoài-Chấn.

Người ở thuyền số 2 trần truồng, mảnh mai, thon gọn mang nhiều âm tính tức thái âm., nước, Chấn.

Lưu Ý

Những tộc nước được biểu tượng bằng người trần truồng vì khi bơi lặn không mặc quần áo, sợ bị ướt như thấy rõ ở tộc người nước trần truồng phía 50 Lang nhánh Lạc Long Quân trống Quảng Xương (xem trống này).

Ngưới Rắn tộc nước trần trưồng phía 50 Lang theo Lạc Long Quân ở trống Quảng Xương.

Người này quay mặt về chiều âm đuôi thuyền, tay chỉ cầm cái khiên hai chữ DD ngược nhọn đầu lồng vào nhau (DD là biến dạng của hai chữ nòng âm OO) với hai đầu nọc nhọn là hai dương tức thái âm mang tính thái dương. Người này không cầm cây lao (lao mang dương tính) cho thấy rõ thuộc về phía nòng thuần âm, nước. Đây là người tiêu biểu của phía nòng Khôn âm Chấn nói chung của toàn họ hay thái âm của riêng ngành nòng âm Chấn Đoài vũ trụ thái dương.

Một mấu chốt bằng vàng nữa để xác định danh tính, bộ mặt thật của hai con thuyền biểu tượng cho nhánh, đại tộc nòng nước này là hình chim đứng ở đầu hay đuôi thuyền. Như đã thấy ở trống Sông Đà hình chim đứng ở mũi và đuôi thuyến diễn tả tính nòng nọc, âm dương của thuyền tức danh tính của thuyền. Ở đây, như đã nói ở trên, ta đã thấy ở đầu con thuyền số 1 và đuôi thuyền số 6 có hình chim.

Con chim ở thuyền số 1 đứng trong nước, trước mũi thuyền và ở vùng nước tang trống là một loài chim nước. Chim nước này mang dương tính vì đứng ở mũi thuyền chuyển động theo chiều ngược với kim đồng hồ, theo chiều mặt trời (mũi thuyền dương còn đuôi thuyền âm). Con chim có bờm gió. Chim nước có bờm gió là chim nông. Chim nông này có mỏ phình hình búa rìu là chim bổ nông thiếu âm Đoài. Trên người có hai chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình vòng tròn có chấm có một nghĩa là hai mặt trời, hai dương, thái dương. Vậy con bổ nông này là chim bổ nông ngành thái dương.

Như thế con chim bổ nông Đoài vũ trụ thái dương nói cho biết thuyền dẫn đầu của 6 con thuyền có khuôn mặt chủ là thuyền Đoài vũ trụ thái dương. Điểm này ăn khớp trăm phần trăm vì như đã thấy ở trên thuyền số 1 là thuyền Đoài vũ trụ.

Tóm lại

Nhìn theo hai người gác cổng thiên đường này ta thấy:

.Thuyền số 1 là thuyền có khuôn mặt chủ là Đoài vũ trụ đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt ứng với Nông của ngành thần Nông. Theo lưỡng hợp nòng nọc, âm dương khuôn mặt Đoài vũ trụ này lưỡng hợp Li ở dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ.

.Thuyền số 2 là thuyền có khuôn mặt chủ là Chấn, đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là Thần của nhành Thần Nông. Theo lưỡng hợp nòng nọc, âm dương khuôn mặt Chấn này lưỡng hợp Càn ở dạng lưỡng hợp đại vũ trụ.

Sáu con thuyền này thuộc nhánh nòng âm thái dương Đoài-Chấn có khuôn mặt chủ là Khôn thái dương Đoài vũ trụ.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là nhánh Thần Nông thái dương có khuôn mặt Nông thái dương mang tính chủ.

Ta suy ra căn cước của bốn con thuyền còn lại biểu tượng cho bốn tộc ứng với Tứ Tượng.

Ý Nghĩa Các Con Thuyền

Tôi chia thuyền ra làm hai phần: phần thứ nhất gồm cấu trúc và các tài vật (paraphernalia) của con thuyền và phần thứ hai gồm người, thú trên thuyền.

Một chiếc thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên) .

1. Cấu trúc và Tài Vật của Thuyền.

Thân thuyền

Bán diện của thuyền hình cong như hình bán nguyệt biểu tượng cho nước dương. Hình cong biểu tượng cho thân của loài bò sát sống được dưới nước như rắn nước, cá sấu (water reptiles). Trên thân thuyền có những chữ nòng nọc hay những hình nòng nọc giúp ta nhận diện ra danh tính con thuyền. Thân của sáu con thuyền căn bản đều có những chữ viết nòng nọc vòng tròn-que, hình ngữ âm gồm các sọc song song nằm ngang khí gió không gian và các sọc song song đứng nước không gian và các biến thể của chúng như hình răng lược, nhìn chung chung là Khôn. Tóm lại thân thuyền biểu hiện các con thuyền của ngành âm, những con thuyền vũ trụ, không gian. Đầu tất cả sáu tay chèo đều có hình đầu chim cho thấy các con thuyền này có thể bay được trong vũ trụ.

Mũi thuyền

Mũi thuyền biểu tượng đầu linh thú nước (mythical water creatures). Mắt âm “hai vòng tròn đồng tâm có chấm” xác định con thú này là con thú âm, thú sống được dưới nước, theo duy dương là Chấn. Mũi thuyền biểu hiện đầu linh thú nước. So sánh với truyền thuyền và cổ sử Việt, các thú này có thể là loài “thuồng luồng” (mythical water creatures). Loài linh thú nước này biểu tượng âm, nước. Miệng thú há rộng biểu hiện bộ phận sinh dục nữ. Theo truyền thuyết của người Ngaju, Dayak, Borneo, Rắn nước Watersnake Tampon (trong ngôn ngữ Hindu-Javanese gọi là naga) là thần Nước Nguyên khởi hay Âm thế (deity of the Primeval water or Nether world). Dưới thời ảnh hưởng văn hóa Hindu, vị thần này được gọi dưới tên là Bawin Jata Balawang Bulau có nghĩa là “ thần nữ Jata với cửa vàng” (the feminine Jata with the golden door”). Biểu ngữ “cửa vàng” chỉ âm hộ phái nữ (the expression “golden door” is a euphemism for the female pudenda) (Hans Scharer, tr.15). Như thế , theo thuần âm, đầu thuyền hình rắn nước, linh thú nước biểu tượng nòng, âm, nước nguyên khởi, nước vũ trụ, cực âm, thái âm và bộ phận sinh dục nữ, Cõi Âm. Ta cũng đã thấy phần rễ của Cây Vũ Trụ Yggdrasill của người Bắc Âu ứng với Cõi Dưới, Cõi Âm được biểu tượng bằng hình con rắn độc có lưỡi mầu đỏ (xem chương Khái Lược Về Vũ Trụ Giáo).

Một hình chim có mỏ hình rìu lao vào trong miệng linh thú rắn nước.

Hiển nhiên, chim mỏ rìu là chim dương, chim lửa, biểu tượng cho Lửa Nguyên khởi, Lửa vũ trụ, dương, cực dương và bộ phận sinh dục nam. Dưới một diện, có thể đây là con chim rìu chim mỏ cắt. Rõ như ban ngày, mũi thuyền biểu hiện sự Lưỡng Hợp hay Nhất Thể (Duality or Totality), kết hợp giữa âm dương vũ trụ, thái âm, thái dương, Lửa Nước, Thái Cực, v.v… ở cõi Đại Vũ Trụ (thái âm thái dương có thái là đại).

Chi tiết của đầu linh thú nước cũng diễn tả theo Tứ Tượng. Mắt hai vòng tròn đồng tâm biểu hiện tượng nước dương Chấn; sừng hình nêm, hình tháp biểu hiện đất đá dương Li; những chấm nhỏ biểu hiện tượng lửa nguyên khởi Càn và các sọc song song nằm ngang hay đứng ở hàm dưới, tượng gió vũ trụ Đoài. Đầu thuyền linh thú nước diễn tả trọn vẹn nghĩa Vũ Trụ giáo.

Đuôi thuyền

Đuôi thuyền có hình đầu chim có con mắt âm “hai vòng tròn có chấm” và cái túi, cái nang nam hóa có góc cạnh nhọn dưới mỏ-cổ cho thấy đây là đầu chim bổ nông nước.

Một đuôi thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I hình chim bổ nông có con mắt âm hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc con ngươi và có túi dưới mỏ hình rìu nhọn.

Trụ phía sau mũi thuyền diễn tả một hay hai đầu chim. Những đầu chim này có con mắt dương “vòng tròn đơn có chấm” và chiếc mũ sừng nam hóa cho biết đây là chim bồ cắt. Trụ có hai đầu chim bồ cắt như thấy ở hình trên (thuyền 1 và 4) mang ý nghĩa hai dương, thái dương. Trên trống Hoàng Hạ hai đầu chim bồ cắt này được diễn tả bằng hai cây trụ riêng rẽ. Cây trụ chim bồ cắt này diễn tả Núi Trụ, núi Kỳ, Trụ Chống Trời, Trục Thế Giới, Cõi Đất thế gian. Đuôi thuyền diễn tả sự hôn phối, giao hòa giữa thiếu âm bổ nông với thiếu dương bồ cắt ở cõi Tiểu Vũ Trụ (xem thêm chương Thú Vật Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á).

Trang trí dưới đuôi thuyền mang ý nghĩa biểu tượng kết hợp thiếu âm và thiếu dương.

Như thế đầu thuyền hình linh thú nước Rắn nước có sừng thái dương tức Chấn nước thái dương có hình chim rìu lửa vũ trụ Càn trong miệng diễn tả sự giao hợp âm dương chim lửa-rắn nước, càn khôn duới dạng thái Cõi Trên Đại Vũ Trụ tức thái dương chim lửa Càn và thái âm rắn nước Chấn. Đuôi thuyền hình đầu chim nông gió có túi, bìu (nang, nông) dưới cổ có góc cạnh mang dương tính, nghĩa là chim nông này là chim dương, thái dương, bổ nông, bổ nông thái dương. Phía sau mũi thuyền có nọc hình đầu chim bồ cắt. Hai đầu chim diễn tả sự giao hợp âm dương dạng thiếu (thiếu âm chim bổ nông với thiếu dương chim bồ cắt) tức Cõi Trời thế gian, Tiểu Vũ Trụ (trời vì là chim).

Tay lái:

Ngoại trừ thuyền số 5, năm thuyền kia đều có tay lái dưới mũi thuyền.

Một thuyền có tay lái dưới mũi thuyền.

Hình dạng khác nhau của tay lái mang ý nghĩa biểu tượng khác nhau. Những tay lái này giúp nhận diện các thuyền (xem dưới).

Tay chèo

Tay chèo mang ý nghĩa biểu tượng (xem hình ở hình đuôi thuyền). Không có một tay chèo nào giống nhau về chi tiết. Đầu sáu tay chèo đều có hình chim cho thấy các thuyền này có thể bay lên Cõi Trên như chim bay. Các tay chèo cũng giúp nhận diện các thuyền (xem dưới).

Trống Cây Vũ Trụ hay Cây Đời.

Trên mỗi thuyền có một người dùng tay trái gõ vào một vật hình lục giác đặt trên một cây trụ biểu tượng cho Trục Thế Giới. Đây là chiếc trống Cây Vũ Trụ hay Cây Đời.

Trống Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) ờ một thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

Trống hình lục giác (biến thể của nòng O) biểu tượng không gian, sinh thành (theo Dịch số 6 là số thành). Dưới diện ma thuật, có thể mang hình ảnh của con mắt thần hay cái gương thần dùng trong quá trình phán xét linh hồn (xem chương Ý Nghĩa Dấu và Biểu Tượng Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Tay phải của người này nắm đầu một người nhỏ bé, trần truồng ngồi trên sàn thuyền. Đây là linh hồn người chết (xem chi tiết ở dưới ở phần Ý Nghĩa Hình Người Trên Thuyền Trên Trống Ngọc Lũ I). Người gõ trống và giữ đầu linh hồn là người phán xét linh hồn. Những người này gõ trống Cây Đời để khơi động dậy vòng tử sinh và lượng giá, thẩm định linh hồn. Sau khi được phán xét xong, linh hồn thiện, tốt được cho qua Cầu Thử Thách để về miền hằng cửu ở Cõi Trên, để sống đời đời hay tái sinh và các hồn ác, xấu bị tống xuống cõi âm hay âm ty (xem dưới).

Đầu chim cắm trên trống biểu tượng cõi trên, xác nhận đây là trống Cây Vũ Trụ hay Cây Đời thật sự, trong khi các trống trong các ngôi nhà nọc, mặt trời cũng để trên các trụ nhưng không có hình đầu chim chỉ mang nghĩa biểu tượng của hình ngữ (symbolic scripts). Trong mỗi trống hình lục giác, có hình ngữ nòng nọc và phía trên trống bên cạnh hình đầu chim, trên bốn thuyền còn có cắm thêm các gậy hay khí giới biểu tượng. Những hình vật này giúp nhận diện các thuyền. Không một trống Cây Vũ Trụ nào giống nhau về chi tiết. Sự khác nhau của mỗi trống diễn tả các diện khác nhau của triết thuyết Vũ Trụ giáo hay biểu tượng của các tộc khác nhau.

Cầu Thử Thách hay Cầu Gian Nguy.

Cầu thử thách (“bridge of challenge”) hay cầu gian nguy (“dangerous bridge”) là cây cầu mà người chết phải đi qua để chịu sự thử thách cuối cùng trước khi được về cõi hằng cửu, cõi trời, Cõi Trên (thiên đường). Những linh hồn ác hay tội lỗi không thể nào vượt qua được cây cầu này và bị rơi xuống vực thẳm của Cõi Âm. Cầu thử thách là nhịp cầu nối, giao thông giữa Tam Thế mang hình bóng của Cây Vũ Trụ đúng như M. Eliade đã ghi nhận: “Sự giao thông giữa thiên đường và trần gian có thể mang lại-hoặc có thể là illo tempore- bởi một vài phương tiện thể chất (cầu vòng, cầu, cầu thang, cây thang, dây, rợ, “xâu chuỗi mũi tên”, núi, v.v…). Tất cả những hình ảnh biểu tượng của sự liên kết giữa trời và đất chỉ là dạng biến thể của Cây Thế Giới hay trục vũ trụ. Trong một chương trước, chúng ta đã thấy huyền thoại hay biểu tượng của Cây Vũ Trụ bao hàm ý của “Trung Tâm Thế Giới” ở điểm mà đất, trời và âm thế gặp nhau” (M. Eliade, 1964, p. 492). M. Eliade cũng đã viết: Người Niassans biết rằng Cây Vũ Trụ đã sinh ra mọi vật. Để đi lên trời, người chết đi qua một cây cầu, dưới cầu là vực thẳm của Cõi Âm. Một người gác với lao và khiên đứng ở cổng trời, một con mèo giúp hắn ném hồn người ác xuống nước hỏa ngục (ghi chú thêm của tác giả: ở trống Ngọc Lũ I có con chó thay cho con mèo). Quan niệm về cây “cầu gian nguy” này rất phổ thông trong tôn giáo ở Đông Nam Á: Có một sự tương đồng giữa phức thể này của người Niassans và ý tưởng của người Naga ở (cận) Ấn Độ (ghi chú thêm của tác giả: Naga là người Rồng ruột thịt với Ao-Naga tức Âu-Long, một thứ Âu Lạc), chúng ta đang “dealing” với di tích của cái gọi là nền văn minh Nam Á, chia xẻ với người Tiền-Aryan và Tiền-Nam Ấn của Ấn Độ và đa số của dân bản địa ở Đông Dương và Quần Đảo Ấn Độ.

Một điểm rất quan trọng cần phải nhấn mạnh ở đây là cây cầu thử thách trên các thuyền này trong quá trình phán xét linh hồn người chết mà M. Eliade đã xác nhận là thuộc nền văn minh Nam Á và của dân bản địa Đông Dương trước cả nên văn hóa Tiền-Aryan và Tiền-Nam Ấn của Ấn Độ cho thấy trống đồng thuộc dân bản địa Đông Dương.

Cây cầu này cũng thấy ở địa ngục trong các tôn giáo sau này như Phật giáo chẳng hạn. Trong chuyến du hành trên sông Dương Tử đi đến Trùng Khánh, tôi có ghé qua Phong Đô (Feng Du), thành phố của Người Chết, tại đây có những cảnh Cõi Âm, địa ngục và cũng có một tấm bích họa vẽ chiếc cầu thử thách này.

Cầu Thử Thách ở Thành Phố Người Chết Phong Đô, Trung Hoa (ảnh của tác giả, tháng 9-2007)

Lưu ý hồn người chết ở đây cũng trần truồng như hồn người chết ngồi trên sàn thuyền.

Ở trống Ngọc Lũ I và các trống họ hàng, trên mỗi thuyền, phía sau cảnh phán xét linh hồn đều có một cây cầu thử thách có hình một đài cao biểu tượng Tam Thế trong có Trục Thế Giới.

Một chiếc cầu thử thách trên một chiếc thuyền ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

Cầu Tam Thế có ba tầng: Tầng trên hay Cõi Trên là khoảng không gian trên mặt cầu biểu hiệu bằng một hay hai cây trụ hay thành cầu có hình đầu chim. Một người đứng trên sàn cầu cầm mộc và giáo (hoặc chỉ cầm mộc thôi) là người gác cổng Cõi Trên (hay thiên đường). Người này có nhiệm vụ chỉ cho những linh hồn thiện, tốt đi vào Cõi Trên và ngăn chặn, tống xuất các linh hồn ác ra khỏi Cõi Trên (xem chương Người Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Sàn cầu biểu tượng Cõi Giữa. Phần nước dưới thuyền dưới gầm cầu là Cõi Dưới. Gầm cầu là Trục Thế Giới nối liền Tam Thế. Không một chiếc Cầu Thử Thách nào giống nhau về chi tiết. Sự trình bày khác nhau của mỗi chiếc cầu diễn tả những diện khác nhau của Vũ Trụ giáo hay của các ngành, tộc hay chi tộc khác nhau.

2. Người và Thú Trên Thuyền

Người

Nhìn tổng quát, người trên thuyền mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ giáo của dòng âm, nước. Hiển nhiên người trên thuyền tiêu biểu cho dòng nước hay cõi âm. Người trên nước diễn tả theo âm Dịch.

Những người này đang thực hiện một cảnh phán xét linh hồn (afterlife judgment). Xem ở dưới và xem chương Người Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á.

Thú

Chó gác Cầu Thử Thách hay chó phán xét linh hồn (The afterlife judgment dogs).

Trên thuyền 1 và 5 có một con chó đứng sau Cầu Thử Thách (xem hình ở hình thuyền ở trên). Những con chó này gác Cầu Thử Thách hay gác cổng Cõi Trên. Chúng phụ giúp người gác cổng Cõi Trên xé xác hay ném những linh hồn ác xuống vực thẩm âm ty (xem Thế Giới Loài Vật Trên Trống Đồng Âm Dương). Chúng giống như những con mèo phán xét linh hồn trong truyền thuyết của tộc Nissan ở Polynesia. “A cat throws the guilty souls into the infernal waters for him” (the guardian of the sky gate) (“Một con mèo ném những linh hồn ác xuống cõi nước địa ngục cho người gác Cổng Trời”). Những con chó này là những con chó phán xét linh hồn. Chúng có một khuôn mặt liên hệ với con chó Anubis của Cổ Ai Cập hay con chó ngao ở địa ngục của nhà Phật.


(phần 17)


Ý NGHĨA HÌNH NGƯỜI TRÊN THUYỀN TRÊN TRỐNG ĐỒNG ÂM DƯƠNG NGỌC LŨ I.

Những người này ở trên thuyền, theo duy âm là những người của ngành nòng âm thái dương và theo duy dương là những người của nhánh nọc âm thái dương.

Như đã biết ở trên là 6 con thuyền gồm có hai con thuyền 1 và 2 dẫn dầu. Nói một cách khác, theo nòng nọc, âm dương đề huề, hai thuyền này là hai thuyền biểu tượng cho hai phía nòng nọc, âm dương của toàn họ thái dương hay theo duy âm là biểu tượng cho riêng nhánh nòng nước thái dương.

Bốn thuyền còn lại biểu tượng cho cho 4 tộc ứng với tứ tượng.

Mỗi tộc lại chia ra hai phía nòng nọc, âm dương, ngoại nội nữa, ta có bốn chi dương ứng với bốn Tứ Tượng dương và bốn chi âm ứng với bốn Tứ Tượng âm, gộp lại là bát quái, ứng với Dịch lý. Ở trống Ngọc Lũ I âm dương nòng nọc còn đề huề nên ta phải đọc theo Dịch âm dương đề huề. Vì ở trên trống mang dương tính và trên thuyền nước ngành âm nên ta cũng phải đọc theo duy dương của âm Dịch, một loại Dịch giống Dịch Phục Hy mang tính chủ (xin nhắc lại là Phục Hy có đuôi rắn nên thuộc dòng Rắn nước-Chim Nông và là mộtngười nam mang dương tính vì thế Dịch Phục Hy là dương Dịch ngành âm).

Hiển nhiên những người này mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ giáo, Dịch (xem thêm chương Ý Nghĩa Hình Người Trên Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á).

Tổng Quát về Người Trên Thuyền

Phần lớn những người trên thuyền đều có trang phục đầu có nét cong mang âm tính khác với trang phục đầu có góc cạnh mang dương tính của những người nhẩy múa trên mặt trống thuộc nhánh nọc thái dương.

Trang phục đầu có những nết cong mang âm tính.

Trang phục đầu có nét cong này cho biết những người trên thuyền thuộc nhánh nòng âm thái dương.

Những người ở đầu thuyền là thuyền trưởng hay người đại biểu của đại tộc, tộc đều ngồi. Ta đã biết ngồi là âm, đứng là dương (xem Chữ Nòng Nọc). Điểm này cũng cho thấy rõ những đại tộc, tộc này thuộc nhánh nòng âm thái dương.

Ngoại trừ một số người chèo thuyền và những người đứng trên đài cao còn lại những người khác có trang phục đầu phía trước đều có hình chim có mỏ dài cong cắm xuống trán. Chim là dương, là trời, mỏ dài và cong là mỏ âm thái dương. Những người này mang biểu tượng người thái dương cõi trời của nhánh nòng âm thái dương.

Tất cả những người thuyền trưởng hay đại biểu của đại tộc hay tộc ngồi ở mũi thuyền tay đều cầm gậy hay khí biểu (ceremonial weapon) đầu chẻ hai hình chạc cây Y mà đa số các tác giả cho rằng đây là cây rìu chiến.

Cũng như tất cả các dấu, hiệu, vật biểu tượng, người, thú… khí biểu, gậy thờ biểu tượng cũng mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ giáo nên phải được giải đọc theo âm dương, tứ hành, sinh tạo, nói một cách khác phải theo Dịch lý. Vì thế Rìu chữ Y trên trống Ngọc Lũ I này có đầu rìu thay đổi với tính âm dương.

Trước hết loại rìu này thấy nhiều ở trên thuyền và trên trục trống tức Trục Thế Giới thông thương Ba Cõi vì thế rìu này mang âm tính và liên hệ tới quá trình sinh tạo, sinh tử, tái sinh. Rìu có đầu chẻ hai hình chữ V (tôi gọi là rìu hình chữ Y). Ta đã biết theo duy âm, hình ngữ Y có một khuôn mặt lửa vũ trụ Càn và khuôn mặt của tia sấm mưa Chấn (xem chương Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng). Rìu, gậy Y này mang hình bóng của tia chớp (the forked lightning symbol) của thần sấm, mưa Adad (Canaanite Hadad Baal).

Tia chớp hình Y của thần Adad trên trụ đá biên giới ở Marduk-nadine-ahhe (BritishMuseum,London).

Hai nhánh hình sóng hai bên biểu tượng hai nòng OO nước chuyển động và thân hình trụ | là nọc dương, gộp lại là lửa-nước, |OO, Chấn, có một khuôn mặt sấm. Như thế rìu chữ Y thấy ở tay người thuyền trưởng là thứ rìu lửa-nước, rìu sấm sét, rìu Chấn (ta thấy rõ thuyền, các tộc nước thuộc dòng Chấn Mặt Trời Nước như Giao Việt Lạc Long Quân). Sấm sét là dạng giao hòa hôn phối lửa nước vũ trụ, thái dương thái âm có một khuôn mặt mang nghĩa tạo sinh, sinh tạo, tạo hóa. Tiếng sấm khai thiên lập địa chính là tiếng nổ Big Bang.

Mặt khác nhìn theo diện tín ngưỡng búa rìu sấm sét là búa rìu thiên lôi, búa rìu nhà trời, là rìu tử sinh, phán xét. Những kẻ ác thường bị sét đánh, “trời đánh”. Vì thế mà rìu này thường thấy trên thuyền phán xét linh hồn (xem dưới) và trên Trục Thế Giới là vậy. Vì liện hệ tới sự phán xét linh hồn và vòng sinh tử nên tôi gọi rìu này là rìu phán xét sinh tử, rìu trời. như đã nói ở trên, đầu chữ V có hình dạng thay đổi ứng với nghĩa theo âm dương. Ngày nay người Fuji cũng còn có một thứ vũ khí cổ truyền hình chữ Y này mà họ gọi là cái “bẻ cổ” (neck breaker).

Rìu bẻ cổ của người Fuji.

Tôi cũng đã thấy một chiếc rìu loại này ở Bảo Tàng Viện Fonck chuyên về nền văn hóa đảo Easter và Đa Đảo ở Valparaiso, Chile.

Rìu chữ Y ở Đa Đảo ở bảo tàng viện Fonck, Valparaiso, Chile (ảnh của tác giả).

Tóm lại

Gậy hay khí giới hình Y ở cõi nước mang một biểu tượng của rìu búa sấm sét “búa” thiên lôi, rìu nhà trời, rìu phán xét biểu tượng của nhánh nòng thái dương (xem thêm chương Ý Nghĩa Dấu, Hình, Biểu Tượng Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Như đã nói ở trên, những đầu rìu này thay đổi tùy theo ý nghĩa trong Vũ Trụ thuyết của từng đại tộc, tộc.

Tất cả các thuyền đều có một (thuyền 3, 4, 5, 6) hay hai người tí hon (thuyền 1 và 2) ngồi bệt dưới sàn thuyền bị canh gác mà hiện nay các nhà khảo cổ học về trống đồng đang hiểu lầm là tù nhân. Đây chính là những linh hồn người chết (xem dưới).

Những linh hồn này cho biết cảnh sinh hoạt của những người trên thuyền liên hệ với cõi âm.

Tất cả những người chèo thuyền đều cầm tay chèo có đầu chèo hình đầu chim cho thấy những con thuyền này biểu tượng cho Cõi Trời của dòng nước và đều có thể bay trong không gian được, bằng chứng là dưới thuyền không có một dấu vết sóng nước nào cả.

Đầu tay chèo hình đầu chim.

Đây là những thuyền trời cõi nước.

Tôi chia những người trên thuyền ra như sau:

-Thuyền trưởng hay đại biểu của đại tộc hay tộc.

Đây là người đầu tiên ngồi sau mũi thuyền (xem hình ở trên). Đầu chim dương trước tiên của trang phụ đầu của người này diễn tả Tầng Trời dương, thái dương của Cõi Nước, Cõi Âm.

-Người phụ tá thuyền trưởng.

Người này ở ngay phía sau người thuyền trưởng.

Người phụ tá thuyền trưởng, ở đây đang gác một linh hồn.

Đôi khi người này là đại biểu của một chi cùng tộc với người thuyền trưởng và trong trường hợp thuyền có hai linh hồn (thuyền 1 và 2) người này giữ thêm vai trò canh gác linh hồn thứ nhất.

– Linh hồn.

Trống Ngọc Lũ I và các trống họ hàng có những hình người nhỏ bé trần truồng trông như những đứa trẻ con ngồi bệt dưới sàn thuyền bị canh gác và phán xét mà các tác giả hiện nay gọi lầm là những tù nhân.

Linh hồn người chết như một đứa trẻ trần truồng ngồi trên sàn thuyền đang bị canh giữ và phán xét. Trên thuyền này có hai linh hồn.

Đây chính là những hồn người chết. Vũ trụ quan của Việt cổ tin là lúc nào hồn con người cũng trẻ thơ như một đứa trẻ, hồn sinh ra trẻ thơ như trẻ thơ, tự nhiên, thiên nhiên, trần truồng không quần áo, không trang sức. Với năm tháng thân xác con người già đi nhưng hồn người mãi mãi vẫn là trẻ thơ. Khi chết những linh hồn trẻ thơ này vẫn thế và được về miền vĩnh cửu hay tái sinh. Quan niệm này thấy rõ trong đức tin của người Mường cũng như ở các hải đảo Nam Á. Xin trích dẫn nguyên văn một đoạn nói về đức tin linh hồn trẻ thơ này trong cuốn Les Mường của J. Cuisinier (Jeanne Cuisinier, Les Mường, Géographie humaine et Sociologie, Paris, Institut d’Ethnologie, 1946, p.463-64):

“À côté du cercueil, on installe l’autel du mort devant lequel seront presentées les offandes et recitées les prières jusqu’à la fin du deuil; parfois (nous l’avon observé dans le Mường Vang et à Ngọc Mỹ) on suspendre entre les deux un étrange objet appelé ‘jouet à huit angles’ tlai kon bát yák parce qu’il doit de deux carrés superposés auxquels pendent des écheveaux de soie multicolores, de petits cubes et de petits calices en calocot blanc ou en papier d’oré. On le met entre l’autel et le cercueil pour que l’âme du mort s’amuse avec ce jouet, parce que les âmes, disent les Mường, même dans le corps de vieillards, sont toujours pareilles à de jeunes enfants. Devant la croyance en une perpétuelle enfance de lâme, on ne peut s’empêcher d’évoquer les Dayak chez lesquels, au cours de leurs grandes fêtes funéraires, les prêtresses portent dans les plis de leurs vêtements, comme des petits enfants, les âmes des donateurs de la fêtes” (R. Hertz, Contribution à une étude sur la présentation collective de la mort, p.102). (Bên cạnh quan tài, người ta dựng bàn thờ người chết, trước đó dâng cúng lễ vật và cầu nguyện cho tới mãn tang chế, đôi khi (chúng tôi nhận thấy ở Mường Vang và Ngọc Mỹ) người ta treo giữa quan tài và bàn thờ một vật lạ gọi là “đồ chơi tám góc” tlai kon bát giác bởi vì gồm có hai hình vuông chồng xéo lên nhau trên đó có treo các sợi tơ đa sắc và các khối lập phương và hình chén nhỏ bằng calocot trắng hay giấy vàng. Người ta để đồ chơi này giữa bàn thờ và quan tài để cho linh hồn người chết vui chơi bởi vì người Mường cho rằng linh hồn người chết ngay cả trong các thân xác người già, vẫn luôn luôn giống như những trẻ thơ. Trước đức tin là linh hồn trẻ thơ mãi mãi, ta không thể không nói tới ở người Dayak (một tộc Bộc Việt), trong suốt các tang lễ lớn, những nữ pháp sư, nữ tế mang các linh hồn người chết chủ lễ trong các túi gấp nếp ở quần áo của họ như địu (mang) các trẻ con (R.Hetz). J. Cuisinier cũng dẫn thêm cho rằng các người Fidji cũng quan niệm linh hồn người chết “chỉ là những đứa trẻ” (et on songe aussi à la conception de l’âme chez les Fidjiens qui se servent de grands éventails pour protéger l’âme du mort qu’ils enterrent, afin de la protéger, dit Frazer “because as one explained to a missionary his soul is only a little child”) (D’une lettre du Rev. Lorimer Fison, citée par Frazer in Taboo and the perils of the soul, p.30). Người Semang Pygmies, một trong nhóm người cổ đại nhất ở quần đảo Mã Lai cho rằng người chết trở thành trẻ con trở lại, do đó sửa soạn cho một đời khác trên thế gian (among one of the most archeic peoples of the Malay Peninsula, the Semang Pygmies beleive that the dead become infants again, thus preparing themselves for another life on earth) (M. Eliade, Shamanism, p.280- 281).

Rõ như ban ngày những người nhỏ bé trẻ thơ trần truồng đang bị canh giữ, phán xét ngồi trên sàn thuyền chính là những linh hồn và cũng chính vì có sự hiện diện của những linh hồn này mà thuyền mới được gọi là thuyền linh hồn là vậy. Tất cả thuyền trên trống Ngọc Lũ I đều có cảnh một hay hai linh hồn ngồi dưới sàn thuyền đang được phán xét, riêng ở trống Hoàng Hạ, ở thuyền số một, có một linh hồn sau khi đã làm xong thủ tục phán xét đang đi vào cổng Trục Thế Giới để vượt qua thử thách cuối cùng là đi qua cầu thử thách hình Tam Thế để lên Cõi Trời.

Ở một thuyền trên trống Hoàng Hạ, một linh hồn sau khi đã làm xong thủ tục phán xét đang đi vào cổng Trục Thế Giới để đi qua cầu thử thách hình Tam Thế để lên Cõi Trời (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

* Cần lưu tâm

.Cần phải phân biệt những người nhỏ bé như trẻ con trần truồng là những linh hồn với những người lớn trần truồng (như những người đánh trống ở trần hay trần truồng hay hai người gác cổng trời trần truồng ở thuyền số 1 và 2 trên trống Ngọc Lũ I) là những người cõi trời hay thuộc ngành âm đội lốt người nhà trời. Người thế gian thường có quần áo.

.Như đã thấy ở trên, hồn người chết đi qua cầu thử thách ở Phong Đô Trung Hoa cũng trần truồng.

Tóm lại những người nhỏ bé trẻ thơ đang bị canh giữ, phán xét ngồi trên sàn thuyền chính là những linh hồn và cũng chính vì có sự hiện diện cửa những linh hồn này mà thuyền mới được gọi là thuyền phán xét linh hồn là vậy.

-Người phán xét linh hồn.

Người phán xét linh hồn.

Người này một tay để lên đầu linh hồn, một tay gõ vào trống Cây Vũ Trụ, Cây Đời để khơi động vòng tử sinh trong quá trình định giá linh hồn (xem chương Ý Nghĩa Dấu, Hình, Biểu Tượng Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á).

-Người gác cổng cõi trên hay thiên đường.

Người gác cổng trời, cổng thiên đường đứng trên đài cầu cao Tam Thế cầm lao và khiên hay chỉ cầm khiên thôi.

Người gác cổng cõi trên hay thiên đường

Sáu người gác cổng trời có một người trần truồng (thuyền số 2) mang tính thái âm, biểu tượng đại tộc nước Chấn (ứng với Thần của ngành Thần Nông), một người ở trần (thuyền số 1) theo duy âm mang tính thiếu âm, biểu tượng đại tộc Gió Đoài (ứng với Nông) và theo duy dương mang tính thiếu dương và bốn người còn lại ở bốn thuyến 1, 2, 3, 4 đều mặc áo, có ba người nhìn về chiều dương mũi thuyền thuộc về tộc ứng với phía dương và ba người nhìn về chiều âm đuôi thuyền thuộc về tộc ứng với phia âm cho thấy họ là đại biểu của những đại tộc, tộc khác nhau.

Người chèo thuyền tay cầm tay chèo có đầu hình chim như đã nói ở trên. Tay chèo là một trong những mấu chốt, một thứ căn cước để nhận dạng ra một con thuyền


(phần 18)


Ý NGHĨA HÌNH NGƯỜI TRÊN THUYỀN TRÊN TRỐNG ĐỒNG ÂM DƯƠNG NGỌC LŨ I.

Bây giờ ta đi vào chi tiết về người trên mỗi con thuyền.

a. Hai thuyền dẫn đầu biểu tượng cho toàn nhánh. Mỗi nhánh có hai đại tộc nòng nọc, âm dương, nội ngoại.

.Thuyền số 1

Đây là thuyền thứ nhất trong hai thuyền dẫn đầu đọc theo chiều âm.

Thuyền số 1 biểu tượng cho cực dương gồm hai đại tộc Càn-Li ngành nòng âm trên trống Ngọc Lũ I.

Mấu chốt căn cước tay chèo.

Để tránh rườm rà ở đây tôi chỉ nói tới một mấu chốt tay chèo mà thôi. Phần trên tay chèo có hình đầu chim hình cây búa chim, chim mỏ rìu mang nghĩa Li Càn, Chim chúc đầu xuống nước tức mang âm tính, có nghĩa là chim nọc của dòng nòng nước. Phần tay chèo phía dưới cong vòng nhấn mạnh ý nghĩa âm, của nhánh nòng. Tay chèo đầu chim bổ, chim rìu chỉ xuống nước này theo duy dương là chim cắt mang tính thái dương là Bổ cắt Càn và tính thiếu dương là Bồ cắt Li; còn theo duy âm là chim Bổ nông thiếu âm gió và Bồ nông thái âm nước của nhánh nòng (vì đầu chim chỉ xuống nước).

-Người thuyền trưởng hay người đại biểu của ngành, đại tộc.

.Trang phục đầu

Trang phục đầu của người đại biểu gồm có ba phần:

./ Phần bên phải dương là hình đầu chim có mỏ cong âm cắm xuống trán mang âm tính giống như phần lớn những người còn lại có nghĩa là dương, thái dương, cõi trời phía âm. Đầu chim này cho thấy những người trên thuyền thuộc nhánh nòng âm thái dương cõi trời âm.

Tuy nhiên, đặc biệt mỏ chim ở đây rất to, khỏe, cường điệu mang nhiều dương tính, nọc tính ăn khớp với khuôn mặt Càn Li.

./Phần chính giữa có hình đầu chim cong Khôn có ba phụ đề: trên hết là hình lưỡi rìu ngang có góc cạnh nhọn mang ý nghĩa Càn Li, trong có phụ đề chấm-vòng tròn có nghĩa thái dương hay Li. Ở giữa mỏ chim có vòng tròn-chấm có một nghĩa là thiếu dương Li. Phụ đề dưới cùng hình vuông Khôn dương, trong có chấm-vòng thái dương Càn xác định nghĩa Li Càn.

./ Phần sau gáy có hình tia sáng Càn.

Như thế trang phục đầu mang ý nghĩa Càn-Li.

.Gậy biểu hay khí biểu

Người này cầm rìu hình chữ Y. Hai nhánh chữ V dài ngắn khác nhau. Nhánh phụ bên phải hình mũ sừng chim cắt (hornbill) hay mấu sừng hươu mang nhiều dương tính. Đây là búa rìu nọc dương ăn khớp với bổ cắt Càn, bồ cắt Li, (hay theo duy âm Bổ nông và bồ nông đực). Trong gậy có phụ đề các chấm nọc dương, thái dương cõi trời. Vậy đây là rìu nhà trời, rìu phán xét, rìu tia chớp Càn Li.

-Người gác linh hồn thứ nhất.

Tay phải giữ đầu linh hồn (bị soi mòn chỉ còn nắm tóc), tay trái cầm đòng. Đòng chỉ địa mang nghĩa đòng của dòng âm. Mũi đòng có phần đỉnh nhọn chữ V, to bản mang dương tính, trong đánh dấu những chấm nọc mang nghĩa thái dương.

Cuối đòng là chim có mỏ dài cong đầu có bờm gió Đoài.

Thân đòng có khung hình mã tấu chỉ thiên có những sọc ngang âm Đoài thái dương. Phụ đề vòng tròn-chấm, thiếu âm Đoài.

Bên ngoài có phụ đề hình núi tháp vách đôi nối giữa đòng và đầu chim ở trang phục đầu biểu tượng núi tháp Li. Hai phụ đề này xác định đòng cũng như người này có khuôn mặt Li Đoài.

Như thế đòng mang tính chủ Li-Đoài thái dương. Tộc Li mang tính chủ.

Trang phục đầu có

/. phần đầu chim bên phải dương là hình đầu chim có mỏ cong âm cắm xuống trán mang âm tính giống như tất cả các người còn lại có nghĩa là dương, thái dương, cõi trời phía âm.

/. Phần giữa là hình hai nọc cong có hình hai chiếc mã tấu ngắn (ngắn mang âm tính) chỉ thiên trông như hai chiếc sừng, biểu tượng Li hươu thế gian.

./ Phần sau gáy hình hộp chữ nhật nòng âm Khôn dương hóa vì hiệp với hai nọc lửa, thái dương. Khôn dương là Đoài. Đây là nòng âm thái dương Đoài.

Như thế người này thuộc đại tộc Càn Li với Li mang tính chủ biểu tượng cho chi Li/Đoài dòng nước.

-Người phán xét linh hồn.

Người phán xét linh hồn ở thuyền 1.

Tay phải giữ đầu linh hồn, tay trái gõ vào trống Cây Vũ Trụ, Cây Đời để khơi động vòng sinh tử, để phán xét linh hồn.

Trang phục đầu có

/.phần đầu chim bên phải dương là hình đầu chim có mỏ cong âm cắm xuống trán mang âm tính giống như tất cả các người còn lại có nghĩa là dương, thái dương, cõi trời phía âm.

/.Phần giữa là hình hai nọc cong có hình như hai tai thỏ là hai nọc lửa âm, là Li âm.

/.Phần thứ ba sau đầu hình bờm nước. Đọc gộp hai phần lại là Li Chấn nước thái dương.

Lưu Ý

Trên trống Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) có hình đầu chim mỏ dài cong giống như ở trang phục đầu nhưng mỏ to cướng điệu hơn và bờm hình sừng thẳng mang dương tính Càn Li. Phía sau có cặp sừng cong mang âm tính nhưng trong có đánh dầu các chấm nọc dương diễn tả lửa ngành âm tức Càn Li ngành âm. Hai biểu tượng này xác thực người trên thuyền này thuộc đại tộc Càn Li.

Như thế người này thuộc đại tộc Càn Li với Li mang tính chủ biểu tượng cho chi Li/Chấn dòng nước.

-Người gác linh hồn thứ hai.

Tay trái cầm đòng để trên đầu linh hồn. Đòng chỉ địa mang nghĩa đòng của dòng âm, mũi có phần đỉnh nhọn chữ V ngắn nhất và rất nhọn mang thái dương tính, trong có những chấm nọc mang nghĩa thái dương Càn, có khung phướn hình lưỡi mác có sọc tua chỉ thiên Đoài. Đây là đòng gió thái dương Càn Đoài vũ trụ.

Phụ đề chấm-vòng tròn, thiếu âm, gió và đuôi đòng hình thoi kép là dạng lửa gió. Hai chi tiết này xác định đòng là đòng Càn Đoài vũ trụ.

Tay phải người này cầm lao hình mũi tên chỉ thiên với đầu mũi lao hình nọc mũi tên rất cường điệu mang ý nghĩa trụ dương, núi trụ chống trời Li.

Trang phục đầu có:

/. phần đầu chim bên phải dương là hình đầu chim có mỏ cong âm cắm xuống trán mang âm tính giống như tất cả các người còn lại có nghĩa là dương, thái dương, cõi trời phía âm.

/. Phần giữa là hình hai nọc cong hai tai thỏ là hai nọc lửa Li âm.

/. Phần thứ ba sau đầu hình nọc thẳng Li.

Vậy trang phục đầu của người này mang biểu tượng của tộc Li/Li thái dương.

Như thế người này thuộc đại tộc Càn Li với Li mang tính chủ biểu tượng cho chi Li/Li dòng nước.

Ta thấy rất rõ bốn người (thuyền trưởng, 2 người gác linh hồn và một người phán xét linh hồn) ở thuyền số 1 mang thuộc nhánh cực dương Càn Li với hai đại tộc Càn Li và đại tộc Li mang tính chủ. Đại tộc Li lại chia ra bốn tộc Càn, Đoài, Chấn và Li ứng với tứ tượng của nhánh nòng thái dương.

Một lần nữa điểm này xác nhận là hai chiếc thuyền này là hai thuyền dẫn đầu và là hai thuyền đại biểu của nhánh nòng thái dương.

-Linh hồn

Có hai linh hồn ứng với cảnh phán xét linh hồn của hai đại tộc. Một linh hồn bị soi mòn mất một phần. Hai thuyền này là hai thuyền duy nhất mỗi thuyền có hai linh hồn, một lần nữa xác nhận là hai chiếc thuyền dẫn đầu này là hai thuyền đại biểu của ngành nòng thái dương. Tổng cộng bốn linh hồn ứng với bốn cảnh phán xét linh hồn của bốn tộc ứng với Tứ Tượng.

-Người gác cổng trời hay thiên đường.

Người gác cổng trời hay thiên đường ở thuyền 1.

Người này ở trần theo duy dương là Li (theo duy âm là Đoài) đã nói ở trên.

-Người chèo thuyền.

Trang phục đầu có hai phần. Phần trước có những hình nọc dài cong như dòng thác đổ nước dương Chấn. Phần sau hình tia sáng Càn. Trang phục đầu cho thấy người này thuộc đại tộc Càn-Chấn, Càn của ngành nòng âm nước ho ặn nhìn theo nòng nọc, âm dương thì là dạng Càn-Chấn lưỡng hợp đại vũ trụ nghĩa là Càn mang tính sinh tạo.

Đặc biệt là người chèo thuyền này là người ở tư thế ngồi. Ta đã biết ngồi là âm. Như thế khuôn mặt Càn Li ở đây mang khuôn mặt nòng âm, nước.

Kiểm chứng lại ta cũng thấy rất rõ ở thân thuyền có hình giống như vật đựng, như cái chậu có chứa nước đặc (đen) biểu tượng ao đầm thế gian, đất âm, Li âm. Điểm này cũng cho thấy Li âm mang tính chủ.

Dưới gầm cầu tam thế có để một cái trống hay vật hình trống. Theo duy dương là trống cho biết người thuyền này thuộc nhánh dương cực dương tức Càn-Li.

Tóm lại

Những người trên thuyền số 1 này nhìn chung mang trọn nghĩa Vũ Trụ thuyết. Nhìn dưới lăng kính vũ trụ là người biểu tượng phía dương của ngành Trụ trong Vũ Trụ tức là nhánh Viêm Đế của Viêm Đế-Thần Nông. Nhìn dưới đại tộc của trống là hai đại tộc dương, nội, Càn Li của nòng âm, nòng nước.

. Thuyền số 2.

Thuyền số 2 biểu tượng cho cực âm gồm hai đại tộc Chấn Đoài ngành nòng âm trên trống Ngọc Lũ I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Nhìn tổng quát, ta suy ra ngay đây là thuyền biểu tượng cho nhánh âm ngược với thuyền 1 tức biểu tượng phía âm ngành Vũ trong Vũ Trụ, tức là ngành Thần Nông của Viêm Đế-Thần Nông. Nhìn dưới đại tộc là hai đại tộc âm Chấn Đoài vũ trụ nòng nước. Ở đây dòng nước âm, khuôn mặt Chấn mang tính chủ.

Thuyền đại biểu này là thuyền Chấn Đoài có khuôn mặt Chấn mang tính chủ.

Mấu chốt căn cước tay chèo.

Phần trên tay chèo có hình đầu chim mỏ cong mang âm tính, trên có bờm 4 tua âm nước, mắt là vòng tròn có chấm mang nghĩa âm dương sinh tạo. Đây là tay chèo chim nông Khôn nước. Đây là thuyền Khôn Chấn Đoài vũ trụ.

-Người thuyền trưởng hay đại biểu của ngành, đại tộc.

.Trang phục đầu

Trang phục đầu của người đại biểu gồm có ba phần:

./ phần bên phải dương là hình đầu chim có mỏ cong âm cắm xuống trán mang âm tính giống như phần lớn những người còn lại có nghĩa là dương, thái dương, cõi trời phía âm. Đầu chim này cho thấy những người trên thuyền thuộc nhánh nòng âm thái dương cõi trời âm.

./ phần chính giữa có hình đầu chim cong Khôn có phụ đề chấm-vòng tròn chia ra làm hai phần: phần dưới cong vòng mang nhiều âm tính biểu tượng cho nước Khôn thái âm Chấn. “Chấm vòng tròn” có thể nhìn theo hai diện: một là con mắt của đầu chim thứ hai, nói chung là hai đầu chim Khôn nhánh nòng âm thái dương. Chấm-vòng tròn còn có nghĩa là thiếu âm, dương, sinh tạo. Hai đầu chim này diễn tả Chấn Đoài vũ trụ nhánh nòng nước. Cách nhìn thứ hai là coi “chấm vòng tròn” ở dưới là một cái dấu mang nghĩa lửa, dương, thái dương thì đầu chim là chim Chấn thái dương.

./ phần thứ ba sau gáy có hình bờm nước trới tức Chấn trời.

Như thế trang phục đầu mang ý nghĩa Chấn-Đoài vũ trụ (Đầu thuyền Rắn Nước-Đuôi thuyền Bổ Nông tức biểu tượng cho cả con thuyền) và Chấn nước thái âm Đầu Rắn nước mang tính chủ (vì ở phía đầu thuyền).

.Gậy, Rìu biểu hay Khí biểu.

Người này cầm rìu tia chớp hay búa rìu thiên lôi hình chữ Y, rìu nhà trời, rìu phán xét biểu tượng chung cho toàn nhánh nòng âm cõi trời âm và cho biết đây là thuyền phán xét linh hồn. Phần đầu chẻ hình chữ V, nhánh dương bên phải nhọn đầu hình mỏ chim biểu tượng cho Đoài và nhánh âm bên trái là nọc bằng đầu hình chữ nhật biểu tượng cho Chấn. Trong gậy có phụ đề các chấm nọc dương, thái dương cõi trời. Vậy cây rìu này có một khuôn mặt là cây rìu Khôn thái dương Chấn-Đoài vũ trụ thái dương cõi trời. Đây có thể là rìu sấm chớp mưa-dông. Ở đây hai phần chẻ bằng nhau mang nghĩa thái (thái âm OO hay thái dương ||). Vì là dòng nòng nước nên đây là hai nòng thái âm OO dương hóa, tức thái âm nước mang dương tính dương hay thái dương tức Chấn. Điểm này cũng cho thấy Chấn là khuôn mặt chủ.

Nói gọn lại, dưới diện nhánh, người này là biểu tượng của ngành Nòng Khôn Chấn-Đoài vũ trụ thái dương cõi trời của nhánh nòng thái dương; dưới diện đại tộc người này mang biểu tượng Khôn thái âm Chấn nước dương.

-Người gác linh hồn.

Tayphải giữ đầu linh hồn, tay trái cầm đòng. Đòng chỉ địa mang nghĩa đòng của dòng âm, mũi có phần đỉnh nhọn chữ V cường điệu dài mang ý nghĩa dương của âm tức thiếu âm, trong có những chấm nọc mang nghĩa thái dương, có khung phướn chữ nhật có những sọc răng lược nghiêng. Đây là đòng nước Chấn. Trang phục đầu có phần đầu chim bên phải dương là hình đầu chim có mỏ cong âm cắm xuống trán mang âm tính giống như tất cả các người còn lại có nghĩa là dương, thái dương, cõi trời. Phần giữa là hình hai nọc cong có hình như hai tai thỏ mang âm tính có phụ đề chấm dương sinh tạo, tổng quát là hai nọc lửa âm, là thái dương âm. Phần sau gáy hình chữ nhật nhỏ có các sọc song song dọc ngang mang ý nghĩa Khôn Chấn Đoài vũ trụ.

Như thế người này mang biểu tượng của tộc Khôn Chấn Đoài vũ trụ.

-Người phán xét linh hồn.

Người phán xét linh hồn ở thuyền 2.

Tayphải giữ đầu linh hồn, tay trái gõ vào trống Cây Vũ Trụ, Cây Đời để khơi động vòng sinh tử, để phán xét linh hồn. Trang phục đầu có phần đầu chim bên phải dương là hình đầu chim có mỏ cong âm cắm xuống trán mang âm tính giống như tất cả các người còn lại có nghĩa là dương, thái dương, cõi trời. Phần giữa là hình hai nọc cong có hình như hai tai thỏ là hai nọc lửa âm, là thái dương âm. Phần thứ ba sau đầu hình hộp chữ nhật có sọc song song có nghĩa là Khôn nước thái dương. Đọc gộp hai phần lại là Khôn nước thái dương Chấn.

Tóm lại, trang phục đầu của người này mang biểu tượng của tộc Khôn âm Chấn nước thái dương.

Ta thấy rất rõ hai người này đều giữ đầu linh hồn mang biểu tượng cảnh phán xét linh hồn của hai tộc Chấn Đoài vũ trụ đại diện cho đại tộc Khôn này.

-Linh hồn

Có hai linh hồn ứng với cảnh phán xét linh hồn của hai đại tộc.

-Người gác cổng trời hay thiên đường.

Người gác cổng trời hay thiên đường ở thuyền 2.

Người này trần truồng với khuôn mặt tộc nước mang tính chủ đã nói ở trên. Lưu ý người này quay mặt về hướng đuôi thuyền mang âm tính tay chỉ cầm khiên mang âm tính, không cầm lao (mang dương tính) cho biết nhánh hay hai đại tộc người ở thuyền này thuộc phía âm nòng.

-Người chèo thuyền.

Trang phục đầu có ba phần. Phần trước có hình nọc cong biểu tượng dương mang âm tính. Phần sau hình hộp chữ nhật hơi cong trong có các sọc ngang và đứng biểu tượng cho Khôn. Hộp ở đây cao, dài mang nhiều âm tính ngả về phía Khôn thái âm nước. Phần tua sau gáy biểu tượng nước. Tóm lại trang phục đầu diễn tả Khôn nước dương tức Chấn dương.

Tóm lại những người trên thuyền số 2 này nhìn chung mang trọn nghĩa Vũ Trụ thuyết. Nhìn dưới lăng kính vũ trụ là người biểu tượng phía âm của nhánh Vũ trong Vũ Trụ tức là nhánh Thần Nông của Viêm Đế-Thần Nông. Nhìn dưới đại tộc là đại tộc âm, ngoại, Chấn Đoài vũ trụ dòng nòng nước.

Nhìn dưới diện toàn họ Nọc Nòng thì thuyền này giống như người dẫn đầu cầm đòng Đoài Chấn ở nhóm 6 người nhẩy múa nghĩa là có hai khuôn mặt của Khôn Đoài Chấn. Nhìn tổng quát đây là thuyền Khôn âm dòng nước gồm hai đại tộc là Khôn thái âm nước (Rắn Nước) và Khôn thiếu âm gió (Bổ Nông) trong họ Nọc Mặt Trời Hừng Rạng. Nhưng ở đây dòng nước âm, khuôn mặt Chấn mang tính chủ. Như thế thuyền này có những khuôn mặt chính là Chấn nước cõi trời. Thuyền đại biểu này là thuyền Đoài Chấn có khuôn mặt Chấn mang tính chủ.

Lưu Ý

Ở thuyền này người phụ ta thuyền trưởng kiêm luôn vai trò của người gác linh hốn nên phía trước chỉ có ba người thay vì bốn người. Do đó cách diễn tả kheo ứng theo tứ tượng.

Nhìn tổng quát toàn diện cả hai vùng đất trên mặt trống và vùng nước tang trống thì hai thuyền 2 và 1 này biểu tượng hai phía nòng nọc, âm dương của ngành Vũ của Vũ Trụ ứng với Thần Nông của Viêm Đế-Thần Nông nhất thể trong khi những người trên mặt đất biểu tượng cho ngành Trụ ứng với khuôn mặt Viêm Đế. Nhìn dưới lăng kính

Ngành, đại tộc nòng nọc, âm dương đề huề, hai thuyền này biểu tượng ngành nòng âm, nòng nước thái dương trong khi những người trên mặt đất biểu tượng ngành nọc dương nọc lửa.

b. Bốn thuyền còn lại biểu tượng cho bốn tộc ứng với Tứ Tượng.

.Thuyền số 3.

Thuyền số 3 biểu tượng cho tộc Càn/Khôn trên trống Ngọc Lũ I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Thuyền này có những khuôn mặt chính như sau:

Mấu chốt căn cước tay chèo.

Người này tay cầm tay chèo có hai phần rất khác biệt: phần trên hình đầu chim có mỏ rất to mang dương tính tức chim bổ, chim cắt nhưng mỏ có những nét cong và không có mũ sừng mang âm tính tức Cắt âm. Trong có phụ đề những chấm nọc lửa nguyên tạo, nọc, dương, thái dương, sinh tạo và vòng-tròn-chấm có nghĩa là dương, Càn Khôn. Đây là đầu chim duy nhất có “hai con mắt thái dương” tức chim cắt thái dương Càn. Phần dưới có hình khiên hai chữ DD nhọn đầu lồng vào nhau quay về phía dương tức hai nòng OO thái dương. Đây là Khôn thái âm mang tính thái dương.

Như thế nhìn chung qua tay chèo, con thuyền này có hai khuôn mặt chính là Càn/Khôn.

Như thế con thuyền số 3 này là thuyền biểu tượng cho tộc Càn/Khôn.

-Người thuyền trưởng hay đại biểu của tộc.

.Trang phục đầu

gồm có bốn phần:

./ phần chung ở bên phải dương là hình đầu chim có mỏ cong âm cắm xuống trán mang âm tính giống như tất cả các người còn lại có nghĩa là dương, thái dương, cõi trời phía âm.

Nhìn dưới dạng Tứ Tượng, đầu chim này có hình vòng tròn Khôn trong có mắt tròn có chấm Lửa, dương, Càn và mỏ

dài cong, cứng cáp, cường điệu mang nhiều dương tính, thái dương của âm là Đoài vũ trụ, Tốn gió âm. Phần bờm hình chữ nhật có sọc không gian Khôn dương Đoài vũ trụ, Tốn. Đầu chim mang ý nghĩa Càn/Tốn.

./ phần thứ hai có hình đầu chim có mỏ cong gợn sóng biểu tượng Càn/Khảm.

./ phần thứ ba hình tháp trụ chữ nhật lùn trong có sọc dọc và hai sọc ngang lửa, thái dương biểu tượng Cấn đất âm (Li âm) thái dương. Ta có Càn/ Cấn.

./ phần thứ tư sau gáy có sọc nước biểu tượng Chấn. Ta có Càn/Chấn.

Như thế trang phục đầu diễn tả bốn chi ứng với Tứ Tượng âm thái dương của Càn.

.Rìu biểu.

Người này cầm rìu hình Y, giống như cây đao mũi nhọn, trong phụ đề các nọc chấm dương, thái dương mang biểu tượng Càn thái dương, nhánh nhỏ bên phải hình móc cong mang âm tính. Đây là cây rìu Càn âm thái dương.

Nói gọn lại, ở diện tộc người này biểu tượng cho Càn/ Khôn.

-Người phán xét linh hồn.

Người phán xét linh hồn ở thuyền 3.

Người này tay trái gõ vào trống Cây Vũ Trụ, Cây Đời để khơi động vòng sinh tử, để phán xét linh hồn. Lưu ý đầu chim trên trống Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) có mỏ cương điệu mang dương tính Càn , com mắt dương Càn nằm trong vòng tròn Khôn và bờm tia sáng Càn. Đầu chim diễn tả Càn/Khôn của ngành âm.

Trang phục đầu có bốn phần:

./ phần chung ở bên phải dương là hình đầu chim có mỏ cong âm cắm xuống trán mang âm tính giống như tất cả các người còn lại có nghĩa là dương, thái dương, cõi trời ngành âm.

Nhìn dưới dạng tứ tượng là Đoài vũ trụ.

./ phần thứ hai hình hai tai thỏ hay sừng âm có chấm nọc mang nghĩa hai lửa âm, thái dương âm, Càn âm.

./ phần thứ ba hình tháp Li âm.

./ phần sau gáy những sọc Khôn nước Chấn.

Trang phục đầu của người này mang mang trọn vẹn ý nghĩa tứ tượng phía âm.

-Linh hồn

Người nhỏ bé ngồi dưới sàn thuyền.

-Người gác linh hồn.

Người này cầm đòng dí vào đầu linh hồn.

Trang phục đầu có bốn phần:

./ Phần đầu chim có mỏ cong âm cắm xuống trán mang âm tính giống như tất cả các người còn lại có nghĩa là dương, thái dương, cõi trời phía âm.

Nhưng ở đây đầu chim có mũ sừng như cặp sừng tai thỏ ngắn, trong có phụ đề chấm nọc nhỏ cho biết người này biểu tượng cho phía nọc, dương, nội khác với người phán xét linh hồn biểu tượng cho phía nòng, âm ngoại và khuôn mặt Li mang tính chủ.

./ Phần thứ hai như tai thỏ giống ở trang phục đầu mang tính Càn của người phán xét linh hồn.

./ Phần thứ ba có hình cánh chim có hình nọc mũi mác /\ dương. Đây là cánh chim dương, gió dương Đoài (ngược với cánh chim âm Tốn của người phán xét linh hồn).

. Phần sau gáy là nọc thẳng đáng lý phải có các sọc nước Chấn để diễn tả đúng tứ tượng.

Như thế trang phục đầu diễn tả đủ tứ tượng.

Taytrái cầm đòng chỉ địa mang âm tính, đầu đòng nhỏ sắc trong có phụ đề que nọc, dương. Đuôi đòng hình thoi không cân có phần âm V dài hơn phần chóp mũi mác /\ dương, trong cũng có phụ đề hình que nọc. Dọc suốt thân đòng là khung phướn chữ nhật có tua gió. Đây là dòng gió dương Đoài.Tayphải cầm gậy Y có mấu hình mỏ chim cắt nhưng gậy chỉ địa mang âm tính, biểu tượng Càn của phía dương ngoại.

Tóm lại người này mang biểu tượng chính của tộc Càn/Khôn diễn tả đủ tứ tượng.

-Người gác cổng trời hay thiên đường.

Người gác cổng trời hay thiên đường ở thuyền 3.

Người này đứng trên cầu đài tam thế quay mặt về phía đầu thuyền tức theo chiều dương. Cho biết tộc này là tộc dương Càn-Li. Đầu tóc phía trên có nọc mũi mác lửa dương ở đây là Càn, phần dưới sọc nghiêng gió nước Khôn âm. Trên người có chấm-vòng tròn Càn- Khôn. Váy tròn đầu có sọc không gian Khôn, trong có 3 chấm nọc Càn là váy Càn/Khôn. Ở đây người này cầm lao khiên rất to, rất cường điệu nhấn mạnh nghĩa Càn-Khôn.

Nói gọn lại người này mang biểu tượng của tộc Càn/ Khôn.

-Người chèo thuyền.

Trang phục đầu phía trước có hình đầu chim có mỏ cong, cứng mang dương tính Càn dương phía âm, phần sau hình hộp chữ nhật đứng hơi cong trong có các sọc không gian Khôn gió-nước biểu tượng Khôn âm. Trang phục đầu người này mang biểu tượng Càn Khôn.

Taychèo đã nói ở trên.

Tóm lại những người trên thuyền số 3 này nhìn dưới diện tộc mang biểu tượng Càn/Khôn nước.

Kiểm chứng với gầm đài cầu. Ở đây trống trơn biểu tượng cho Khôn hư không lưỡng hợp với Càn.

Chắn chắn hơn ta có thể kiểm chứng với hình khung đa giác ở thân thuyền. Khung này trắng, trong biểu tượng nòng Khôn dương hóa trong có những chấm nọc dương Càn. Cả khung mang nghĩa Càn Khôn.

.Thuyền 4

Thuyền số 4 biểu tượng cho tộc Li/Khảm trên trống Ngọc Lũ I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

-Người thuyền trưởng hay đại biểu của tộc.

.Trang phục đầu

gồm có bốn phần chính với một phần:

./ phần chung ở bên phải dương là hình đầu chim có mỏ cong âm cắm xuống trán mang âm tính giống như tất cả các người còn lại có nghĩa là dương, thái dương, cõi trời phía âm.

Ở đây đầu chim này có mỏ khá cứng cáp, cường điệu mang khá nhiều dương tính trông giống như đầu chim cắt có mỏ cong nghĩa là biểu tượng cho thiếu dương Li.

./ phần thứ hai có hình hai cây nọc cong như hai chiếc tai thỏ dài cong trong có phụ đề các dấu chấm nọc dương là hai nọc âm, hai chiếc sừng âm, thiếu dương, lửa âm có một khuôn mặt là Li âm.

./ phần thứ ba có hình đầu chim nọc mũi mác chỉ địa V có một nghĩa là nước thái dương mang âm tính, Chấn nước thái dương. Bờm có 4 tua dài cong có và sừng hình chữ nhật có sọc nước cũng có bốn gạch nghiêng ngắn. Số 4 là Cấn hôn phối với Chấn.

./ phần thứ tư có hình cánh chim có một khuôn mặt Đoài gió cõi trời.

./ phần sau gáy hình nọc có chấm là Càn.

Như thế trang phục đầu dưới diện tộc là Li/Khảm diễn tả đủ tứ tượng.

.Rìu biểu.

Người này cầm rìu hình Y, mấu rìu giống như mấu sừng. Rìu trông như chiếc sừng có hai mấu nhọn của hươu sủa mang gạc muntjac.

Nói gọn lại, ở diện tộc người này biểu tượng tộc, chi Li/ Khảm.

-Người phụ tá thuyền trưởng

Người này ở ngay phía sau người thuyền trưởng, cũng ở tư thế ngồi. Trang phục đầu phía trước có hình chim như những người khác nhưng đầu chim trông mạnh mẽ mang nhiều dương tính, tính lửa hơn.

Như thế trang phục đầu này mang biểu tượng cho Nọc-Nước, Li-Khảm nước sinh tạo cõi trời.

-Người phán xét linh hồn

Người phán xét linh hồn ở thuyền 4.

Người này tay phải gõ vào trống Cây Vũ Trụ, Cây Đời để khơi động vòng sinh tử, để phán xét linh hồn.

Trang phục đầu ngoài phần hình chim phía trước trán giống các người khác, nhưng ở đây cường điệu vừa phải và rất cong mang âm tính, tức âm của dương là thiếu âm nguyên thể của Li. Phần giữa có ba tia cong dài có một khuôn mặt Chấn nước dương lưỡng hợp với Càn và phần sau hình hộp có sọc đứng và ngang diễn tả không gian, ở giữa có hai nọc ngang mang nhĩa thái dương. Như thế không gian thái dương là Đoài vũ trụ. Đoài lưỡng hợp Li.

Người này mang biểu tượng của Li/Khảm có Chấn nước dương đại diện.

-Linh hồn

Người nhỏ bé ngồi dưới sàn thuyền.

-Người gác linh hồn.

Người này cầm đòng dí vào đầu linh hồn.

Đòng ở đây mũi đòng chỉ địa mang âm tính. Đuôi đòng có ba nọc tẽ ra như dòng nước chẩy mang ý nghĩa lửa, dương mang tính âm dòng nước. Thân đòng khung chữ nhật có sọc ngang nước. Gộp lại nhìn theo tính nòng nọc, âm dương thì âm của dương là thiếu dương Li. Như thế đòng là đòng lửa âm Li dòng nước Khảm.

Trang phục đầu

./ phía trước hình đầu chim có bờm tia sáng mang tính lửa, dương.

./ Phần giữa nhưng sọc song song cong mang nghĩa nước.

./ Phần hình hộp nghiêng trong có những sọc nghiêng diễn tả không gian dương gió.

Trang phục đầu diễn tả lửa trời âm không gian.

-Người gác cổng trời hay thiên đường.

Người gác cổng trời hay thiên đường ở thuyền 4.

Người này đứng trên đài cầu Tam Thế quay mặt về phía đầu thuyền tức theo chiều dương. Cho biết tộc này là đại tộc dương Càn-Li. Đầu tóc phía trên có nọc mũi mác dương Li, phần dưới sọc nghiêng nước gió Khảm. Trên người có vòng tròn-chấm, ở đây theo phía dương là thiếu dương Li. Váy có các sọc nghiêng gió nước cho thấy ở đây váy mang âm tính của tộc nọc dương vì người này quay mặt về phía dương đầu thuyền. Âm của dương là thiếu dương Li. Ở đây cái lao chỉ hơi chênh chếch lên cao ra phía trước mang âm tính, tức âm của dương là thiếu dương Li.

Nói gọn lại người này mang biểu tượng của tộc Li/ Khảm.

-Người chèo thuyền.

Trang phục đầu có hình trụ dài cong gồm có 4 đường cong song song diễn tả nước âm (số 4 là số chẵn là số âm) Khảm

Phần phía sau có hình hai chiếc tai thỏ hay hai chiếc sừng âm Li âm và phần dưới hình chữ nhật có phụ đề các vạch nước không gian Khảm. Phần này mang nghĩa Li/Khảm. Như thế trang phục đầu của người chèo thuyền mang biểu tượng Li/Khảm.

Taychèo đã nói ở trên.

Tóm lại những người trên thuyền số 4 này nhìn dưới diện tộc mang biểu tượng Li/Khảm.

Kiểm chứng với vật hình ấm nước hình bầu nậm cổ lùn đựng nước để trên bếp lửa dưới gầm đài cầu thì bếp lửa có lửa Li, bình nước hình trái bầu là nước không gian Khảm.

.Thuyền số 5

Thuyền số 5 biểu tượng cho tộc Đoài/Cấn trên trống Ngọc Lũ I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Mấu chốt căn cước tay chèo.

Người này tay cầm tay chèo có đầu hình chim hình núi tháp

có góc cạnh, có chấm nọc dương mang dương tính tức đất dương Li. Tuy nhiên mang âm tính của phía âm vì người gác cổng thiên đường quay mặt về chiều âm đuôi thuyền. Li này đại diện cho non, đất âm Cấn. Đầu chim có bờm gió Đoài vũ trụ.

Đây là cây chèo Đoài/Cấn.

-Người thuyền trưởng.

.Trang phục đầu

gồm có bốn phần:

./ phần bên phải dương là hình đầu chim có mỏ cong âm cắm xuống trán mang âm tính giống như tất cả các người còn lại có nghĩa là dương, thái dương, cõi trời phía âm.

Ở đây đầu chim này có mỏ hơi cứng cáp, mang chút ít dương tính trông giống như đầu chim bổ nông gió Đoài.

./ phần thứ hai có hình mã tấu cong trong có phụ đề các dấu chấm nọc dương là nọc âm, Càn âm thái dương tức Đoài/Càn của nòng âm.

./ phần thứ ba phía trái hình đầu chim có mỏ rất cường điệu bên trong có phụ đề chấm nọc dương sinh tạo, cõi trời, có mũ sừng có gạch song song âm và bờm có 4 tua. Số 4 là Cấn có một khuôn mặt là non (núi Li âm). Đây là chim Đoài/bồ cắt Li thái dương cõi trời âm.

./ phần thứ tư thấp có hình cánh chim tam giác có một khuôn mặt biểu tượng gió cõi trời Đoài.

./ phần thứ sau gáy hình nọc chữ nhật trống trơn biểu tượng cho Khôn nước thái dương.

Như thế bốn phần sau cùng biểu tượng Tứ Tượng Lửa, Đất, Gió, Nước cõi trời của tộc Đoài/Cấn.

.Rìu biểu.

Người này cầm rìu hình Y, ở đây có hình đầu chim gần

giống gậy ở thuyền thứ 1 Càn-Li. Như thế có một khuôn

mặt Càn mang tính chủ và một khuông mặt Đoài ngược với Li.

Nói gọn lại người này biểu tượng mang tính chủ Đoài/Càn.

-Người phụ tá thuyền trưởng

Đây là người ngồi ở ngay phía sau người thuyền trưởng. Người này cũng ngồi cho thấy thuộc về tộc âm. Trang phục đầu phía trước có hình chim như những người khác nhưng đầu chim trông mạnh mẽ mang nhiều hùng tính hơn. Phần giữa gồm hình bờm dài cong biểu tượng gió dương Đoài vũ trụ. Bờm có ba nọc cong là Càn âm, thái dương âm là gió dương Đoài. Phần thứ ba gồm sáu tua ngắn song song. Số 6 là Tốn O||. Tốn theo âm Dịch đi với Chấn. Phần thứ ba này mang ý nghĩa Chấn Nước thái dương. Phụ đề chấm-vòng tròn ở đây có nghĩa là thiếu âm, gió. Như thế trang phục đầu mang biểu tượng Đoài/Chấn nước thái dương.

-Người phán xét linh hồn.

Người phán xét linh hồn ở thuyền 5.

Người này tay phải gõ vào trống Cây Vũ Trụ, Cây Đời để khơi động vòng sinh tử, để phán xét linh hồn. Trang phục đầu có phần đầu chim bên phải dương là hình đầu chim có mỏ cong âm cắm xuống trán mang âm tính giống như tất cả các người còn lại nhưng đầu chim mang hùng tính hơn, có nghĩa là dương, thái dương, cõi trời phía âm. Phần giữa là hình nọc cong giống người phụ tá thuyền trưởng mang nghĩa Đoài. Phần thứ ba sau đầu hình tháp có sọc âm và phía trên có hình nọc mũi mác /\, lửa, trong có phụ đề vòng tròn-chấm thiếu dương. Hình này là Đoài/Li âm tức Đoài/Cấn.

Như thế trang phục đầu mang biểu tượng Đoài/Li âm tức Cấn.

-Linh hồn

Người nhỏ bé ngồi dưới sàn thuyền.

-Người gác linh hồn.

Người này cầm đòng dí vào đầu linh hồn.

Trang phục đầu có

./ Phần đầu chim bên phải giống như những người khác đã nói qua.

./ Phần giữa giống người phụ tá và người phán xét linh hồn có hình nọc cong mang nghĩa Đoài.

./ Phần thứ ba có hình nọc vuông góc là Khôn thái dương trong có phụ đề vòng tròn có chấm mang nghĩa thiếu âm, gió. Phần này mang nghĩa Đoài/Khôn gió cõi trời sinh tạo. Tay cầm đòng âm chỉ địa, có khung lông chim hay tua lá có nghĩa là gió, đầu đòng có phụ đề chấm nọc có nghĩa là dương, thái dương, có phụ đề chấm-vòng tròn có nghĩa là dương, thiếu âm gió, sinh tạo, cõi trời.

Như thế người này mang biểu tượng của Đoài/ Khôn thái dương Đoài sinh tạo.

Ta thấy bốn người này mang biểu tượng của bốn chi ứng với Tứ Tượng của phía nòng dương Đoài. Người thuyền trưởng trang phục đầu có hai phần chính biểu tượng chi Đoài/Càn thái dương, người phụ tá là chi Đoài/Chấn, người phán xét linh hồn là chi Đoài/Đất Li và người canh linh hồn là chi Đoài/Gió Đoài của ngành nòng âm.

-Người gác cổng trời hay thiên đường.

Người gác cổng trời hay thiên đường ở thuyền 5.

Người này đứng trên đài cầu Tam Thế quay mặt về phía đuôi thuyền tức theo chiều âm, cho biết đại tộc này là mang tính âm của ngành nòng âm thái dương. Búi tóc ngắn có cạnh thẳng đứng như hình trụ có đỉnh nọc nhọn mũi mác phía trên, mang tính thiếu dương Li. Tay phải người này cầm lao mũi tên chỉ lên trời mang hình ảnh trụ chống trời Li. Người này quay mặt về phía đuôi thuyền âm nên Li mang âm tính tức đại diện cho Cấn, non, đất âm. Tay trái cầm khiên hình hai chữ DD ngược nhọn hai đầu lồng vào nhau mang nghĩa nòng thái âm thái dương. Đọc theo chiều âm lao mũi tên là nọc dương (I) và khiên là nòng âm (O) tức IO, thiếu âm nguyên thể của Đoài vũ trụ.

Hai vạt váy có góc cạnh dương và có phụ đề những chấm nọc dương mang ý nghĩa nọc dương. Đây là váy thái dương của phía nòng (vì người này quay mặt về chiều âm nòng) tức Đoài vũ trụ.

Nói gọn lại người này mang biểu tượng của tộc Đoài/Cấn thái dương cõi trời âm.

-Người chèo thuyền.

Trang phục đầu có hình bờm dài cong gió có 6 đường cong song song. Số sáu là số Tốn gió âm. Phần dưới hình chữ nhật Khôn dương có phụ đề những chấm nọc là Khôn dương Đoài.

Kiểm chứng với vật hình trống để dưới gầm đài cầu thì theo duy âm trống là đực của nòng âm tức thiếu âm, gió, Đoài vũ trụ có một nghĩa là không, không khí, gió. Trống có một khuôn mặt biểu tượng cho trống không, hư không, không gian Đoài vũ trụ.

Tóm lại những người trên thuyền số 5 này nhìn dưới diện tộc, mang biểu tượng Đoài/Cấn.

.Thuyền số 6

Thuyền số 6 biểu tượng cho tộc Chấn/Tốn trên trống Ngọc Lũ I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Mấu chốt căn cước tay chèo.

Taychèo này giống tay chèo ở thuyền số 2 như thế có khuôn mặt chủ là tay chèo Chấn.

-Người thuyền trưởng hay đại biểu của tộc.

.Trang phục đầu

Trang phục đầu gồm có bốn phần:

./ phần bên phải dương là hình đầu chim có mỏ cong âm cắm xuống trán mang âm tính giống như phần lớn những người còn lại có nghĩa là dương, thái dương, cõi trời phía âm. Đầu chim này cho thấy những người trên thuyền thuộc nhánh nòng âm thái dương cõi trời âm.

./ phần chính giữa có hình như tóc gợn sóng bay trong gió biểu tượng cho nước chuyển động cõi trời là Chấn/Khôn nước thái dương cõi trời âm.

./ phần chính giữa có hình đầu chim cong gợn sóng biểu tượng nước gió Chấn/Tốn

./ phần sau gáy có hình bờm nước-gió, tức Chấn/Khôn.

Như thế trang phục đầu mang ý nghĩa Chấn/Tốn.

.Rìu biểu

Người này cầm rìu chữ Y, mang hình ảnh của tia chớp hay rìu búa thiên lôi. Rìu gần giống rìu ở thuyền số 2 nên có khuôn mặt chính là rìu Chấn. Đây có thể là cây rìu thiên lôi, phán xét mưa gió.

Nói gọn lại, dưới diện tộc người này mang biểu tượng Chấn/Tốn.

-Người phán xét linh hồn.

Người phán xét linh hồn ở thuyền 6.

Tay phải giữ đầu linh hồn, tay trái gõ vào trống Cây Vũ Trụ, Cây Đời để khơi động vòng sinh tử, để phán xét linh hồn. Lưu ý trong trống có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình hai vòng tròn đồng tâm có chấm là nuớc dương Chấn. Người trên thuyền này có một khuôn mặt Chấn mang tính chủ.

Trang phục đầu có

/. Phần đầu chim bên phải dương là hình đầu chim có mỏ cong âm cắm xuống trán mang âm tính giống như tất cả các người còn lại có nghĩa là dương, thái dương, cõi trời phía âm.

/.Phần giữa là hình nọc cong như hình cái kiếm cong bằng đầu mang âm tính, trong có phụ đề các chấm nọc sinh tạo là thái dương âm Đoài vũ trụ khí gió dương đại diện cho Tốn gió âm.

./ Phần thứ ba sau đầu hình hộp vuông có sọc không gian trong có phụ đề chấm-vòng tròn thiếu âm gió. Phần này là Đoài vũ trụ gió dương đại diện cho Tốn gió âm.

Vậy trang phục đầu của người này mang biểu tượng của tộc Chấn/Tốn.

Như thế người này mang biểu tượng của tộc Chấn/Tốn.

-Linh hồn

linh hồn bị soi mòn mất một phần.

-Người gác cổng trời hay thiên đường.

Người gác cổng trời hay thiên đường ở thuyền 6.

Người này đứng trên đài cầu Tam Thế quay mặt về phía đuôi thuyền tức theo chiều âm, cho biết tộc này là mang tính âm. Tóc ngắn có gạch nước. Hai tay chỉ cầm khiên hình hai chữ DD ngược nhọn hai đầu lồng vào nhau mang nghĩa hai nòng âm OO, nước thái dương, Chấn. Hai vạt váy có gạch nước gió.

Nói gọn lại người này mang biểu tượng của tộc Chấn nước gió tức Chấn/Tốn.

-Người chèo thuyền.

Trang phục đầu có hai phần. Phần trước có hình chim mỏ cong mang âm tính có phụ đề chấm-vòng tròn rất nhỏ mang dương tính, thiếu âm. Đây là đầu chim nước gió Chấn/Tốn có thể là bồ nông gió. Phần sau có hình chim mỏ cong gợn sóng mang nhiều âm tính, có phụ đề chấm-vòng tròn lớn mang âm tính, thái âm có nghĩa sinh tạo, Khôn dương. Đây là đầu chim nước nước Chấn/Khôn, có thể là bồ nông nước. Phần dưới hình hộp chữ nhật có nghĩa là Khôn dương trong có hình sóng cuộn tiếp tuyến nối hai vòng tròn-chấm. Hình sóng mang nghĩa nước, hai chấm là thái dương. Hình sóng cuộn là Chấn/Tốn thái dương.

Điểm mấu chốt quan trọng nữa là thuyền này có con chó âm đứng sau cầu thử thách giống như ở thuyền số 2. Ta đã biết thuyền số 2 là thuyền Chấn-Đoài như thế thuyền số 6 này với sự hiện diện của con chó cõi âm bắt buộc phải có một khuôn mặt Chấn. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt Lạc Long Quân Chấn thần sấm có một khuôn mặt trị vì cõi âm, có thủy phủ ở Vịnh Hạ Long. Vì thế thuyền có con chó cõi âm phải liên hệ với khuôn mặt Chấn.

Kiểm chứng với hai cái bình để dưới cầu đài ta cũng thấy không sai. Hai bình đựng là hai nòng OO, nước. Bình bên phải hình cái âu rộng miệng hình chữ U biểu tượng nước thái dương Chấn và bình bên trái giống hình cái ngỗng đựng rượu mang dương tính biểu tượng cho Đoài vũ trụ/Tốn gió âm.

Tóm lại những người trên thuyền số 6 này nhìn dưới diện tộc mang biểu tượng Chấn/Tốn.

TỔNG LƯỢC

Những người trên sáu chiếc thuyền này mang trọn vẹn nghĩa Vũ Trụ giáo. Họ là những người mặt trời của ngành nòng thái dương trên sóng nước thuộc những nhánh, đại tộc, tộc, chi ứng với Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Tam Thế, Bát Quái, Dịch Nòng Nọc của nòng âm nước thái dương. Theo duy dương, phía, lửa, nội là dương Dịch của dòng nước. Ở trống Ngọc Lũ I này còn trọng âm dương đề huề của toàn họ Người Vũ Trụ, Người Mặt Trời Không Gian, còn mang tính âm dương đề huề còn theo Dịch nòng nọc, âm dương đề huề.

Những người này đang tham dự những cảnh Phán Xét Linh Hồn. Những thuyền này là những Thuyền Phán Xét Linh Hồn.

Ở những trống diễn tả Tam Thế trọn vẹn, chính thống như trống Ngọc Lũ I hay ở các trống phỏng theo chính thống cõi âm thường được diễn tả qua hình ảnh những con thuyền phán xét linh hồn ở trên vùng mặt nước thế gian ở tang trống. Vùng nước tang trống có một khuôn mặt là cõi sinh tạo, tạo hóa của Cõi Âm thông thương với Hạ Thế chân trống bằng trụ thân trống Trục Thế Giới.


(phần 19)


Nhận Diện Chi Tiết Những Thuyền Trên Trống Ngọc Lũ I.

Ta đã hiểu rõ về cấu trúc, các tài vật (paraphernalia) của con thuyền và người trên thuyền, bây giờ ta đi vào chi tiết từng thuyền một. Như đã nói ở trên, dựa vào mấu chốt ở hình vẽ trong The Kettle Drums of Southeast Asia của A.J. Bernet Kempers ta có thuyền số 1 ở bên trái và số 6 ở bên phải đọc theo chiều âm theo tức theo chiều kim đồng hồ.

Hình thuyền số 6 và số 1 (The Kettle Drums of Southeast Asia của A.J. Bernet Kempers).

Lưu Ý

Mấu chốt chính để nhận diện ra thuyền số 6 là ở dưới đài cao Tam Thế có hai chiếc bình (xem dưới).

Như thế đọc theo chiều âm cùng chiều kim đồng hồ của ngành âm nước, ta có theo thứ tự như sau:

1. Thuyền số 1 dẫn đầu biểu tượng cho một nhánh gồm hai đại tộc ứng với một cực trong lưỡng nghi.

Thuyền số 1 biểu hiện nhánh âm Li Càn vũ trụ của người dòng Nước (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Thuyền có những đặc tính sau:

Mũi thuyền

Sáu thuyền, nhìn chung đều có mũi giống nhau chỉ khác về chi tiết nòng nọc, âm dương diễn tả theo các diện khác nhau của Vũ Trụ luận, chúng cũng cho biết thuyền thuộc nhánh, đại tộc, tộc nào. Như đã biết, tổng quát các mũi thuyền đều biểu hiện thái dương chim mỏ rìu biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam nằm trong miệng thái âm rắn nước biểu tượng cho bộ phận sinh dục nữ. Nó diễn tả Nhất Thể, Thái Cực, hay Lưỡng Thể tức sự kết hợp giữa âm và dương, nước và lửa ở dạng thái dương và thái âm ở cõi đại vũ trụ, nghĩa là mang trọn vẹn vũ trụ thuyết.

Ở đây, con chim có mỏ rìu nhọn Càn trong có phụ đề nọc nhọn mang dương tính. Con chim mỏ rìu biểu tượng cho Càn. Rắn nước ở đây biểu tượng cho thái âm. Rắn có mào sừng nên thuộc ngành thái dương. Như thế đấu rắn biểu tượng cho Chấn. Rõ ràng ta có lưỡng hợp thái dương Càn với thái âm Chấn dạng đại vũ trụ ngành thái dương.

Ở đây điểm đặc thù nhất là mũi thuyền đầu rắn nước có sừng cong như sừng tê giác. Sừng là nọc nhọn biểu tượng cho nọc, dương và cong mang âm tính. Sừng nhọn và cong này diễn tả nhánh nọc, dương, thái dương tức Càn-Li của ngành nòng âm, nước tức Thần Nông thái dương. Trong sừng có đánh dấu hay viết chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc que cong cũng xác thực sừng là sừng nọc dương Càn Li phía nòng âm nước.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, An Dương Vương dòng Lạc Long Quân (được thần Rùa Vàng, một thú biểu của Lạc Long Quân giúp xây thành Cổ Loa) lúc cuối đời cầm sừmg tê giác 7 khấc rẽ nước đi xuống biển về với Lạc Long Quân. Sừng tê giác có 7 khấc với số 7 là số Càn biểu tượng cho nọc dương Càn Li ngành nòng nước thái dương giống như sừng tê giác có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc que ở thuyền này.

Mũi thuyền cho thấy thuyền là thuyền đại biểu của nhánh nọc Càn-Li dòng nòng nước thái dương.

Thân thuyền

Mấu chốt đặc thù là ở giữa thân thuyền 1, hình đĩa nổi (mầu đen) diễn tả đất âm, đất có nước, đất ruộng đồng Cấn hay Li âm tức Li dòng Cấn, đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là Li Kinh Dương Vương dòng Cấn Âu Cơ (Âu Cơ Cấn non đem 50 con lên non Cấn). Li dòng Cấn này là khuôn mặt dương số 5 (Li Kinh Dương Vương) cha của Âu Cơ Cấn 4 khác với Li Khảm ở thuyền số 4, Li này hôn phối với Khảm (Li Kinh Dương Vương chồng của Thần Long Khảm) (xem dưới).

Thân thuyền số 1 cho thấy thuyền này biểu tượng nhánh Li (dòng Cấn)-Càn (dòng Tốn) của ngành thái âm Nước thái dương.

Một mấu chốt quí báu nữa ở ngoài con thưyền là con chim ở mũi thuyền.

Như đã nói ở trên, trước mũi thuyền có một hình chim đứng trong nước, trước mũi thuyền và ở vùng nước tang trống là một loài chim nước. Chim nước này mang dương tính vì đứng ở mũi thuyền chuyển động theo chiều ngược với kim đồng hồ, theo chiều mặt trời (mũi thuyền dương còn đuôi thuyền âm). Con chim có bờm gió. Chim nước có bờm gió là chim nông. Chim nông này có mỏ phình hình búa rìu là chim bổ nông mang dương tính, nọc lửa, thái dương [xin nhắc lại theo duy dương chim nông gọi theo cái mỏ lớn hình rìu là chim bổ (nông) như người Tây phương theo duy dương gọi là pelican có gốc Hy Lạp ngữ pelikus, cái rìu. Trong khi chúng ta theo duy âm gọi theo cái túi dưới mỏ là chim nang (túi), chim nông].

Trên người có hai chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình vòng tròn có chấm có một nghĩa là hai mặt trời, hai dương, thái dương, lửa.

Lưu Ý

Như đã biết chim nông mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo. Vì thế chim nông mỏ rìu có một khuôn mặt biểu tượng cho nọc lửa Càn-Li ngành nòng nước. Trong thực tế là con chim nông lửa mỏ đỏ.

Vậy con bổ nông này là chim bổ nông ngành nọc lửa thái dương. Như thế con chim rìu bổ nông nói cho biết thuyền 1

dẫn đầu của 6 con thuyền có khuôn mặt chủ là thuyền của nhánh nọc lửa thái dương Li Càn.

Đuôi thuyền

Đuôi thuyền đầu chim nông của thuyền số 1 này có con mắt âm hai vòng tròn đồng tâm có túi nang hình tháp ngược đầu có phụ đề với nhiều đường sọc song song nghiêng là chim bổ nông nước dòng Li ngành nòng âm. Bờm chim có những sợi lông dài như tia sáng mang dương tính Càn dòng âm nước. Đầu chim bổ nông này diễn tả nhánh Li-Càn của dòng nước. Đầu chim bồ cắt sau đuôi thuyền có mũ sừng có tia sáng và bờm dương diễn tả Li-Càn. Hộp chữ nhật có chấm dưới đươi thuyền biểu tượng vũ trụ, không gian dương Li Càn.

Tóm gọn lại, đuôi thuyền 1 diễn tả nhánh Li-Càn của dòng Nước. Có sự hôn phối, giao hòa giữa thiếu âm bổ nông với thiếu dương bồ cắt ở cõi tiểu vũ trụ.

Tay lái

Taylái của thuyền này có cái dầm hình trụ chống có đáy hình núi Li.

Như thế, tay chèo diễn tả nhánh Li của dòng Nước.

Trống Cây Vũ Trụ

Trống Cây Vũ Trụ trên thuyền số 1 trên trống Ngọc Lũ I.

Trống Cây Vũ Trụ có hình lục giác kép Khôn hôn phối với Càn và trên có cắm hai thanh cong như hai cái tai thỏ diễn tả hai sừng âm Li dòng nước. Trống Cây Vũ Trụ này biểu tượng nhánh Li Càn dòng nước âm (xem chương Ý Nghĩa Dấu và Biểu Tượng).

Cầu Thử Thách hay Gian Nguy.

Cầu Thử Thách trên thuyền số 1 trên trống Ngọc Lũ I.

Dưới gầm cầu thuyền này có một cái trống hay một vật đựng hình trống hình cái đồng hồ nước. Theo duy âm thì vật này là một vật đựng. Đọc theo âm là Khảm O|O, hôn phối với Li. Theo duy dương thì là trống Khảm-Li. Nếu là trống thì đây chính là trống Moko của Nam Dương là loại trống Li càn thế gian của dòng nước. Hiển nhiên các tộc ở hải đảo như Nam Dương có một gốc lớn thuộc dòng nước.

Như thế đây là trống hay vật đựng Li/Khảm.

Cầu có một tay vịn diễn tả bằng hai đầu chim không có bờm mang nghĩa hai dương, thái dương Li Càn.Tayvịn này biểu tượng nhánh Li càn. Thành cầu, những chấm nhỏ dương nguyên tạo bụi lửa vũ trụ Càn hay bụi đất Li.

Tay chèo

Đầu chim trên đầu tay chèo có mỏ mang dương tính trông giống cái búa chim Càn hay rìu Li vì có phụ đề “vòng tròn có chấm” Li. Phần dưới tay chèo cong vòng mang nghĩa Khôn đi với Càn hay vũ trụ cho biết Li là Li vũ trụ.Taychèo này biểu tượng nhánh Càn-Li vũ trụ.

Người

Như đã thấy ở trên người trên thuyền này thuộc đại tộc Li Càn.

Tóm lại, tất cả các chi tiết trên thuyền số 1 đều ăn khớp với nhánh dương Càn Li của người tộc Nước và khuôn mặt Li mang tính chủ vì trống trống Ngọc Lũ I là trống thế gian. Thuyền diễn tả hai cảnh phán xét linh hồn (afterlife judgment) và mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ luận.

2. Thuyền số 2 sau thuyền dẫn đầu biểu tượng cho một nhánh gồm hai đại tộc ứng với một cực trong lưỡng nghi.

Thuyền 2 sau thuyền dẫn đầu là thuyền đại biểu của tộc Đoài của nhánh Đoài Chấn dòng nòng âm thái dương (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Thuyền này có những đặc tính sau:

Mũi thuyền:

Mũi thuyền biểu hiện đầu linh thú Rắn nước giao hợp với chim Rìu lửa. Như thuyền số 1 là dạng lưỡng hợp thái âm thái dương ở cõi đại vũ trụ, mang trọn vẹn vũ trụ thuyết.

Ở thuyền này hình chim không rõ lắm nhưng theo suy luận thì đây phải là chim lửa thái dương (II) phía nòng (O) âm tức IIO, Đoài. Đầu rắn rắn nước mang tính thái âm Chấn. Như thế mũi thuyền diễn tả ngành nòng âm thái dương Chấn-Đoài (đối ứng với khuôn mặt Càn Li thưyền số 1).

Ta thấy rất rõ mũi thuyền không có sừng tê giác tức không có dương tính của ngành nọc lửa Càn Li.

Thân thuyền

Thân thuyền có những sọc ngang nước Chấn và các sọc nghiêng có chấm nọc dương Đoài. Ở giữa thân thuyền 2, có một khoảng trống không giống hình đĩa hay vật đựng biểu tượng Khôn dương, vũ trụ dương tức Chấn-Đoài. Chấn ở đây là khuôn mặt dương đại diện cho Khôn, khác với Chấn dòng Tốn ở thuyền số 6 và Đoài ở đây là khuôn mặt đại diện cho Khảm, khác với Đoài dòng Cấn ở thuyền số 5 (xem dưới). Thuyền này biểu hiện nhánh Chấn khôn Đoài khảm vũ trụ của người sống dưới Nước.

Thân thuyền 2 biểu hiện nhánh Chấn khôn-Đoài khảm vũ trụ của người Nước.

Đuôi thuyền

Đặc biệt là túi nang cách điệu của đầu chim bổ nông có sọc nước diễn tả Chấn và bờm hình dải phướn gió diễn tả gió Đoài vũ trụ. Chim diễn tả nhánh Chấn-Đoài.

Khung hình chữ nhật có chấm dưới đuôi thuyền biểu hiện vũ trụ hay không gian Chấn-Đoài. Như thế đuôi thuyền đầu chim bổ nông diễn tả nhánh Chấn Đoài.

Đầu chim bổ cắt trên chiếc trụ cắm sau đuôi thuyền có sừng nước Chấn và mỏ có chấm dương gió dương vũ trụ Đoài.

Tóm lại, đuôi thuyền biểu hiện nhánh Chấn-Đoài của người Nước.

Ở đuôi thuyền có sự hôn phối, giao hòa giữa thiếu âm bổ nông với thiếu dương bổ cắt ở cõi tiểu vũ trụ.

Tay lái

Taylái hình chữ nhật giống như cái dầm chèo thuyền có phụ đề hai nọc thái dương diễn tả nhánh Đoài vũ thụ thái dương.Taylái có khuôn mặt Đoài mang tính chủ.

Trống Cây Vũ Trụ:

Trống Cây Vũ Trụ trên thuyền 2 trên trống Ngọc Lũ I.

Trống Cây Vũ Trụ có chữ chấm-vòng tròn thiếu âm Đoài ở giữa và đoản dao âm nước Chấn thái dương cắm trên trống. Trống Cây Vũ Trụ này diễn tả nhánh Chấn-Đoài vũ trụ (xem chương Ý Nghĩa Dấu, Hình, Biểu Tượng Trên Trống Đồng).

Cầu Thử Thách.

Cầu Thử Thách hay Cầu Gian Nguy trên thuyền 2 trống Ngọc Lũ I.

Như đã nói ở trên người gác cổng thiên đường đứng trên cầu thử thách trần truồng thuộc dòng nước Chấn. Tay chỉ cầm khiên hình hai chữ DD ngược lồng vào nhau là hai nòng OO, nước, thái âm ỡ dạng dương hóa, thái dương. Ở đây không cầm lao cho thấy người này thuộc tộc thuần âm nước. Ta cũng thấy rất rõ người này quay mặt về phía đuôi thuyền tức chiều âm.

Dưới gầm cầu Thử Thách của thuyền này, có một cái bình.

Tổng quát bình, vật đựng biểu tượng cho nòng, âm, nữ, nước, thái âm. Bình có cổ thẳng và rộng mang dương tính, t

Và thâm bầu tròn mang tính thái âm. Trong bình có chấm nọc dương, thái dương. Chiếc bình này diễn tả Chấn thái dương dòng nòng, nước.

Cầu chỉ có một tay vịn diễn đạt bằng hình đầu chim dương với bờm dài mang âm tính. Đầu chim này biểu tượng Đoài vũ trụ. Trên thành sàn cầu, có hình ngữ hình sóng biểu tượng cho nước dương chuyển động Chấn. Sóng gồm có bốn chữ chấm-vòng tròn nối lại với nhau bằng tiếp tuyến. Số 4 là số Cấn hôn phối với Chấn.

Lưu Ý

Đặc biệt sau Cầu Thử Thách có con chó cõi âm phụ giúp trong việc phán xét linh hồn cho thấy vững chắc thuyền ngày thuộc nhánh nòng âm Chấn-Đoài.

Tay chèo

Đầu chim dương trên đầu tay chèo thuyền 2 có bờm gió-nước biểu tượng Đoài.

Người

Như đã thấy ở trên người trên thuyền này thuộc đại tộc Đoài -Chấn.

Tóm lại, tất cả các chi tiết trên thuyền 2 đều ăn khớp với nhánh âm Chấn-Đoài của người tộc Nước và Chấn là khuôn mặt mang tính chủ. Thuyền diễn tả hai cảnh phán xét linh hồn (afterlife judgment) biểu tượng cho cả nhánh, đại nòng âm và mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ luận.

3. Thuyền số 3 biểu tượng cho một tộc ứng với một tượng trong tứ tượng.

Thuyền biểu tượng tộc Khôn/Càn dòng nòng âm

thái dương (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Thuyền này có những đặc tính sau:

Mũi thuyền

Sáu thuyền, nhìn chung đều có mũi giống nhau, chỉ khác về chi tiết diễn tả theo các diện khác nhau của vũ trụ luận.

Ở thuyền này con chim có mỏ hình búa chim diễn tả Càn. Hàm trên miệng rắn nước có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình vòng tròn cò chấm có một nghĩa là mặt trời, Càn. Hàm dưới hình khung chữ nhật có các sọc diễn tả không gian ngành thái dương. Như thế đầu rằn nước diễn tả Khôn dương Chấn ngành thái dương.

Đầu thuyền diễn tả Càn Khôn thái âm ngành nòng thái dương.

Thân thuyền

Ở giữa thân thuyền này có khung chữ nhật có chấm dương diễn tả Khôn/Càn vũ trụ. Thuyền này biểu tượng tộc Khôn/Càn thái dương.

Đuôi thuyền

Đầu chim bổ nông nước có mắt âm đuôi thuyền này có túi nang hình chữ nhật Khôn phụ đề với ba nọc nước song song nghiêng mang tính Càn lưỡng hợp Chấn. Bờm chữ nhật phụ đề với các sọc song song nghiêng theo chiều âm, Khôn và lông hình tia sáng Càn. Mấu gai hình nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) ở chân cổ chim nông mang nghĩa dương, thái dương, Càn. Như thế đầu chim bổ nông đuôi thuyền biểu tượng chi Khôn/Càn dòng Chấn.

Trụ hơi cong sau đuôi thuyền có hai đầu chim bồ cắt diễn tả thái dương Càn. Đầu chim bổ cắt này là bổ cắt Càn thái dương.

Hộp chữ nhật có chấm dương dưới đuôi thuyền diễn tả Khôn/Càn.

Tóm lại, đuôi thuyền này biểu tượng chi Khôn/Càn vũ trụ.

Tay lái

Taylái hình hộp chữ nhật có sọc không gian Khôn có một nọc dài dương Càn dương diễn tả Càn Khôn. Như thế tay lái biểu tượng chi Khôn/Càn vũ trụ.

Trống Cây Vũ Trụ

Trống Cây Vũ Trụ trên thuyền số 3 trống Ngọc Lũ I.

Chữ vòng tròn-chấm ở giữa trống mang nghĩa âm dương Khôn-Càn bởi vì đầu chim cắm trên trống có đầu hình tròn O Khôn. Đầu chim cắm trên trống có mỏ cường điệu mang dương tính và con mắt có vòng nòng Khôn bao bọc. Trống Cây Vũ Trụ này biểu tượng chi Khôn/ Càn (xem Dấu và Biểu Tượng).

Cầu Thử Thách

Cầu Thử Thách trên thuyền 3 trên trống Ngọc Lũ I.

Khoảng trống không ở gầm sàn cầu diễn tả không gian, vũ trụ Khôn, giao hòa với Càn. Cầu chỉ có một tay vịn diễn tả bằng cái trụ có đầu chim cắt có mắt bao bọc bởi vòng tròn lớn Khôn. Thành cầu có chuỗi hình sóng gồm 3 vòng tròn-chấm nối với nhau bằng tiếp tuyến diễn tả nước dương Chấn cho biết tộc Càn Khôn này thuộc dòng Chấn.

Người gác cổng trời có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình vòng tròn có chấm có một nghĩa là mặt trời, Càn.Taycầm mộc và lao Càn-Khôn. Quay mặt về phía mũi thuyền dương thuộc tộc nọc dương Càn.

Tay chèo

Phần trên tay chèo có hai thành tố: thành tố bên trên là đầu chim dương có mỏ rất lớn có chấm mang dương tính và bờm hình tia sáng. Đầu chim này diễn tả thái dương Càn. Cái khiên chữ D kép hai đầu nhọn Khôn nước dương Chấn. Như thế tay chèo biểu tượng chi Khôn/ Càn dòng Chấn.

Người

Như đã thấy ở trên người trên thuyền này thuộc đại tộc Càn-Khôn.

Tóm lại, tất cả các chi tiết trên thuyền 3 đều ăn khớp với chi Khôn/Càn vũ trụ của người tộc Nước. Thuyền diễn tả một cảnh phán xét linh hồn (afterlife judgment) và mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ luận.

4. Thuyền số 4 biểu tượng cho một tộc ứng với một tượng trong tứ tượng.

Thuyền số 4 biểu tượng tộc Khảm/Li dòng nòng âm thái dương (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Thuyền này có những đặc tính sau:

Mũi thuyền

Sáu thuyền, nhìn chung đều có mũi giống nhau, chỉ khác về chi tiết diễn tả theo các diện khác nhau của vũ trụ luận.

Ở thuyền này, con chim dương có mỏ rìu trong có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) hình tháp nhọn Li và ở đuôi có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình vòng tròn có chấm có một nghĩa là Li.

Như thế chim rìu dương Càn-Li có khuôn mặt Li mang tính chủ. Rắn nước Chấn có nhiều sọc nước mang tính Khảm chủ. Nhìn chung đầu thuyền này giống đầu thuyền Li Càn biểu tượng cho nhánh Li Càn ở đầu thuyền số 1.

Đầu thuyền này cũng có sừng tên giác nhưng chỉ khác là cái sừng này nhỏ, ít thể điệu hơn tức ít dương tính hơn và đầu sừng bằng không nhọn cho biết Li mang tính chủ.

Đầu thuyền diễn tả Li/Khảm.

Thân thuyền

Ở giữa thân thuyền này có hai hình ngữ hình học. Một hình nêm dạng hình thang nhỏ nổi giống như hình ở thân thuyền số 1 nhánh Càn Li nhưng ở đây nhỏ hơn để diễn tả Li dòng Khảm. Hình thứ hai có hình thoi nổi biểu Đoài, khuôn mặt dương của Khảm. Như thế thân thuyền biểu tượng chi Khảm Li dòng Đoài.

Đuôi thuyền

Đầu chim bổ nông nước có mắt âm đuôi thuyền này có túi nang không gian có ba sọc Càn tức không gian dương Đoài. Bờm có hình trụ chống Li phụ đề các sọc ngang nước Khảm. Như thế, đuôi thuyền đầu bổ nông diễn tả chi Li Khảm dòng Đoài. Trụ đầu chim bổ cắt sau đuôi thuyền có sừng hình thanh trụ thẳng đứng Li có bờm gió lông dài Đoài.

Trang trí dưới mũi thuyền có hình trụ cụt Li và hình chữ nhật gió Đoài.

Tóm lại, đuôi thuyền 3 biểu tượng chi Khảm Li dòng Đoài. Có sự hôn phối, giao hòa giữa thiếu âm bổ nông với thiếu dương bổ cắt ở cõi tiểu vũ trụ.

Tay lái

Taylái thuyền này giống thuyền số 1 của nhánh Càn Li nghĩa là có hình cái dầm hình trụ chống có đáy hình núi Li. Ở đây chỉ khác là cái dầm ít cường điệu hơn và có hình tròn mang âm tính hơn vì Li biểu tượng cho một tộc ứng với một tượng nghĩa là Li đi với Khảm. Như thế tay lái diễn tả chi Khảm/Li.

Trống Cây Vũ Trụ

Trống Cây Vũ Trụ trên thuyền 4 trên trống Ngọc Lũ I.

Chữ vòng tròn-chấm ở giữa trống mang nghĩa thiếu dương Li. Điểm này được xác định bằng con dao ngắn thiếu dương Li âm và đầu chim dương Đoài với mỏ chỉ hơi cong cắm trên trống. Trống Cây Vũ Trụ này là trống Cây Vũ Trụ Li khảm dòng Đoài (xem chương Ý Nghĩa Dấu, Hình, Biểu Tượng Trên Trống Đồng).

Cầu Thử Thách

Cầu Thử Thách trên thuyền 4 trên trống Ngọc Lũ I.

Người gác cổng thiên đường đứng trên cầu quay mặt về phía mũi thuyền dương tức thuộc đại tộc dương Càn-Li. Trên người có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que vòng tròn có chấm có một nghĩa là Li. Tay cầm khiên và lao có âm O

có dương I. Người này quay về phía dương nên có khuôn mặt chủ là thiếu dương OI Li.

Ở gầm cầu có một ấm trong có nước Khảm để trên lửa Li. Như thế hình này diễn tả Khảm Li.

Cầu chỉ có một tay vịn là cái trụ đầu có 5 hình chữ L hơi cong diễn tả Li dòng nước âm Khảm (số 5 là số Li). Trên thành cầu có hình sóng ba chữ vòng tròn-chấm diễn tả nước. Chữ vòng tròn-chấm mang dương tính là thiếu dương Li. Như thế sóng này diễn tả Li Khảm dòng Đoài.

Vậy cầu thử thách diễn tả Li Khảm.

Tay chèo

Đầu chim dương với mỏ lớn có chấm dương là đầu chim bồ cắt Li. Như thế tay chèo diễn tả chi Li.

Người

Như đã thấy ở trên, người trên thuyền này thuộc đại tộc Li Khảm.

Tóm lại, tất cả các chi tiết trên thuyền số 4 đều ăn khớp với tộc Li/Khảm ứng với tượng Li của người ngành Nước.

Thuyền diễn tả một cảnh phán xét linh hồn (afterlife judgment) và mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ luận.

5. Thuyền số 5 biểu tượng cho một tộc ứng với một tượng trong tứ tượng.

Thuyền 5 biểu tượng tộc Cấn/Đoài dòng Li thái dương.

Thuyền này có những đặc tính sau:

Mũi thuyền

Sáu thuyền, nhìn chung đều có mũi giống nhau, chỉ khác về chi tiết diễn tả theo các diện khác nhau của vũ trụ luận.

Ở thuyền này, con chim dương không có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc nhọn Càn Li mà chỉ có những chầm nọc mang tính dương, thái dương. Đuôi hình tua gió.

Chim diễn tả khuôn mặt Đoài thái dương.

Thân thuyền

Ở giữa thân thuyền, khoảng trống không diễn tả khí vũ trụ Đoài và ngay phía trái, có 4 nọc nghiêng Cấn. Thuyền này biểu tượng chi Cấn/Đoài vũ trụ.

Đuôi thuyền

Đầu chim bổ nông nước có mắt âm có túi nang hình hộp

Có sọc diễn tả không gian. Bờm hình túi lông chim khí gió Đoài vũ trụ. Như thế đuôi thuyền diễn tả chi Đoài vũ trụ.

Trụ một đầu chim cắt sau mũi thuyền có sừng hình chữ nhật đất Cấn phụ đề các sọc song song nghiêng âm và bờm gió Đoài với các tua như chùm lông dài. Đầu chim cắt biểu tượng Li dòng Cấn/Đoài.

Trang trí dưới đuôi thuyền hình hộp chữ nhật có chấm dương Đoài.

Tóm lại, đuôi thuyền này biểu tượng chi Đoài Cấn ngành nước. Ta cũng thấy có sự hôn phối, giao hòa giữa thiếu âm bổ nông với thiếu dương bổ cắt ở cõi tiểu vũ trụ.

Tay lái

Thuyền này không có tay lái biểu tượng chi gió khí Đoài (không là không có gì, hư không, không gian, không khí có một nghĩa là khí gió Đoài). Sự vắng bóng của tay lái ăn khớp với khoảng trống không Đoài ở giữa thân thuyền.

Trống Cây Vũ Trụ

Trống Cây Vũ Trụ thên thuyền 5 trên trống Ngọc Lũ I.

Hình ngữ chấm-vòng tròn ở giữa trống theo duy âm có nghĩa là thiếu âm gió Đoài (đọc theo duy âm vì người gác cổng cõi trên quay mặt về chiều âm đuôi thuyền). Hình đầu chim có mỏ cong nhiều và bờm gió diễn tả Đoài. Nọc đầu cong có chấm dương diễn tả Li âm tức Cấn. Trống Cây Vũ Trụ này biểu tượng chi Đoài Cấn ngành nòng nước.

Cầu Thử Thách

Cầu Thử Thách trên thuyền 5 trên trống Ngọc Lũ I.

Người gác cổng trời đứng trên cầu thử thách quay mặt về đuôi thuyến, chiều âm thuộc về nhánh âm Chấn Đoài. Trên người có chấm nọc dương, thái dương như thế khuôn mặt

âm thái dương tức Đoài vũ trụ mang tính chủ.Taycầm khiên và lao. Cây lao chỉ lên trời diễn tả khí gió cõi trên Đoài vũ trụ.

Người này thuộc tộc Đoài vũ trụ.

Dưới gầm cầu có một cái trống hay một vật đựng hình trống. Theo duy dương thì vật này nghiêng nhiều phía trống. Trống có một nghĩa là Không biểu tượng cho hư không, Khôn dương khí gió. Trống biểu tượng cho sấm và theo thiếu âm, trống có một khuôn mặt là sấm dông Đoài.

Trống cho biết thuyền có một khuôn mặt Đoài vũ trụ tức Khôn dương có một khuôn mặt là dông gió vũ trụ.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, ông thần sấm dông Phù Đổng thiên vương liên hệ với trống như thấy qua câu ca dao vùng Hà Bắc “Ông Đổng mà đúc trống đồng” (Ca Dao Tục Ngữ, Tinh Hoa Dân Việt).

Trống ở đây có phần trên bầu tròn, thân và eo không phân biệt thuộc loại trống hình dù, lọng tức trống Đoài loại Nguyễn Xuân Quang III. Vậy chiếc trống Đoài này cho biết thuyền này có một khuôn mặt dương là Đoài đi với Cấn non (ông thần sấm có nhà ở đầu non gió hú).

Cầu chỉ có một tay vịn diễn tả bằng hình đầu chim với mắt dương, bờm gió dương và mỏ thẳng dương biểu tượng gió dương Đoài.

Tay chèo

Taychèo có hình đầu chim mõ rìu có chấm nọc thái dương có bờm gió Đoài. Đây là con chim bổ nông gió thái dương Đoài nhìn theo cái mỏ rìu đúng với tên pelican.

Taychèo này diễn tả tộc Đoài.

Người

Như đã thấy ở trên, gười trên thuyền này thuộc đại tộc Đoài.

Tóm lại, tất cả các chi tiết trên thuyền số 5 đều ăn khớp với tộc Đoài/Cấn/của người tộc Nước.

Thuyền diễn tả một cảnh phán xét linh hồn (afterlife judgment) và mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ luận.

6. Thuyền số 6 biểu tượng cho một tộc ứng với một tượng trong tứ tượng.

Thuyền số 6 biểu tượng tộc Tốn/Chấn dòng Càn thái dương.

Thuyền này có những đặc tính sau:

Mũi thuyền

Sáu thuyền, nhìn chung đều có mũi giống nhau, chỉ khác về chi tiết diễn tả theo các diện khác nhau của vũ trụ luận.

Ở thuyền này, con chim dương có mỏ rìu cũng không có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc nhọn mang dương tính Càn-Li, cho thấy chim Càn thuộc nhánh nòng âm, nước.

Mũi thuyền đầu rắn nước không có một yếu tố dương nào (không có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que nọc mũi tên mũi mác, răng cưa, răng sói, nọc que hay chấm nọc) chỉ có các sọc song song diển tả không gian gió nước, mang nhiều âm tính và nghiêng về thuần âm thái âm nước.

Mũi thuyền có chiếc sừng diễn tả bằng hai hình sóng nước chuyển động >>. Đây là sừng nước diễn tả nước thái dương Chấn.

Vậy đầu thuyền cho biết đây là tộc Chấn lưỡng hợp chim Càn ngàn

Toàn thân thuyền này chỉ có các sọc không gian gió nước, ở giữa có một nhóm sọc ngang song song dài nhất trong tất cả các thuyền diễn tả nước vũ trụ thái dương Chấn cho thấy thuyền này có khuôn mặt chính là Chấn.

Đuôi thuyền

Đầu chim đuôi thuyền có con mắt âm hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước Chấn. Túi chim bổ nông nước ở đây có hình chữ V nghiêng. Chữ viết nòng nọc vòng tròn-que V có một khuôn mặt diễn tả nước âm thái dương Chấn. Trong chữ V có phụ đề các sọc song song song nước xác thực rõ chim là chim nông nước Thái dương Chấn.

Đầu chim bổ nông diễn tả nước Chấn thái dương.

Sau mũi thuyền, trụ hình uốn cong có hai đầu chim cắt diễn tả Li thái dương dòng nước Chấn.

Trang trí dưới đuôi thuyền gồm các hình chữ L nghiêng trông giống dòng thác nước đổ xuống. Chữ L nghiêng là dạng biến thể theo âm dương của chữ V nước thái dương. Như thế hình trang trí này diễn tả chi nước dương Chấn mang tính thái dương.

Ngoài ra có một con chim đứng dưới nước sau đuôi thuyền như thấy ở hình của Kempers viện dẫn ở trên.

Chim đứng dưới nước sau đuôi thuyền 6.

Chim đứng dưới nước phải là loài chim sống được dưới nước hay ở bờ nước. Chim quay mặt về phía âm đuôi thuyền biểu tượng cho ngành âm Chấn-Đoài. Chim có hình dáng loài gà có chân cao để lội nước. Đây chính là loài chim thuộc loài chim cuốc. Trên người có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn (bị mất một vòng cung nhỏ). Người chim có những chấm nọc mang nghĩa thái dương. Đây là chim cuốc Chấn thái dương, cho bíết thuyền có một khuôn mặt Chấn thái dương mang tính chủ.

Tóm lại, đuôi thuyền biểu tượng tộc Chấn/Tốn.

Ở đây cũng có sự hôn phối, giao hòa giữa thiếu âm bổ nông với thiếu dương bồ cắt ở cõi tiểu vũ trụ.

Tay lái

Taylái thuyền có hình cái dầm chèo thuyền nhưng ở đây hở đáy có các sọc nước dương diễn tả dòng nước chẩy Chấn thái dương

Trống Cây Vũ Trụ

Trống Cây Vũ Trụ thên thuyền 6 trên trống Ngọc Lũ I.

Hình ngữ vòng tròn kép có chấm ở giữa trống cho biết đây là trống Chấn nước dương. Những chấm nhỏ trên mặt trống diễn tả dương, thái dương nguyên khởi (vũ trụ). Hình đầu chim thẳng, ngắn mang nhiều dương tính có bờm gió, theo duy âm là Tốn gió âm.

Như thế trống Cây Vũ Trụ này biểu tượng cho chi Chấn/Tốn thái dương.

Cầu Thử Thách

Cầu Thử Thách trên thuyền 6 trên trống Ngọc Lũ I.

Người gác cổng thiên đường quay mặt về phía đuôi thuyền cho biết thuộc về nhánh nòng âm Chấn-Đoài. Trên ngưới có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình vòng tròn có chấm có một nghĩa là thái dương. Người này chỉ cầm khiên hình hai hai chữ DD có đầu nhọn lồng vào nhau có một nghĩa là nước OO thái dương Chấn. Ta thấy khiên này giống ở thuyền số 2 mà ta đã biết có một khuôn mặt là Chấn. Người này biểu tượng cho một tộc ứng với một tượng trong tứ tượng, Tứ Tượng nên có mặc quần áo khác với người ở thuyền số 2 cũng có một khuôn mặt biểu tượng cho Chấn nhưng ứng với đại tộc nên ở trần truồng.

Tóm lại người này diễn tả khuôn mặt Chấn thái dương.

Dưới gầm cầu có hai cái bình. Hai bình diễn tả hai nòng OO tức thái âm có một khuôn mặt nước.

Bình bên phải rộng miệng mang âm tính diễn tả nước. Bình bên trái có hình bầu nậm giống cái ngỗng rượu mang hình ảnh nọc que dương biểu tượng nọc dương phía âm. Hai bình có một khuôn mặt là nước dương tức Chấn. Điểm này thấy rõ là hai bình đều có chấm nọc dương, thái dương. Hai bình cho biết thuyền này biểu tượng tộc nước Chấn đi cặp với Tốn gió âm OII tức thái dương, lửa của âm.

Cầu có hai tay vịn diễn tả bằng trụ đầu chim.Tayvịn phải có đầu chim có mắt dương và bờm lửa diễn tả thái dương.Tayvịn trái có hình đầu chim có bờm gió, có phụ đề vòng tròn-chấm tí hon mang nhiều âm tính Đoài âm tức Tốn và hai hình vòng tròn đồng tâm có chấm Chấn. Tay vịn này diễn tả chi Chấn Tốn thái dương.

Thành cầu có hình sóng nước Chấn gồm có bốn hình ngữ chấm- vòng tròn nối với nhau bằng tiếp tuyến (Cấn 4 hôn phối với Chấn) giống như ở thuyền 2 biểu tượng nhánh Chấn-Đoài.

Lưu Ý

Đặc biệt sau Cầu Thử Thách cũng có một con chó cõi âm phụ giúp trong việc phán xét linh hồn như ở thuyền số 2 cho thấy vững chắc thuyền này có một khuôn mặt Chấn như thuyền số 2, thuộc nhánh nòng âm Chấn-Đoài. Cả hai đều có khuôn mặt Chấn nhưng mang nghĩa biểu tượng khác nhau. Ở thuyền 2, Chấn thuộc nhánh hay đại tộc nòng âm thái dương ứng với cực âm của lưỡng nghi, trong khi ở thuyền số 6 này, Chấn biểu tượng cho một tộc ứng với một tượng trong tứ tượng.

Trong 6 con thuyền chỉ có hai thuyền có con chó cõi âm cho biết rõ khuôn mặt mang tính âm thái dương của hai con thuyền.

Điểm này cũng xác thực thuyền số 2 đã là biểu tượng cho cực âm thì tất nhiên thuyền số 1 bắt buộc phải

biểu tượng cho cực dương và thuyền số 6 biểu tượng cho một tượng Chấn thì còn lại ba thuyền biểu tượng cho ba tộc kia bắt buộc phải biểu tượng cho ba tượng còn lại.

Như thế chỉ riêng con chó thôi đã cho ta biết trong 6 thuyền thì có hai thuyền biểu tượng cho hai nhánh ứng với lưỡng nghi và 4 thuyền biểu tượng cho 4 tộc ứng với tứ tượng.

Tay chèo

Taychèo thuyền này cũng giống tay chèo thuyền 2 Chấn-Đoài nhưng đầu chim lớn hơn có bờm gió mang âm tính nhiều hơn nghĩa là nghiêng về Chấn nhiều hơn.Taychèo biểu tượng tộc Chấn.

Người

Như đã thấy ở trên, người trên thuyền này thuộc đại tộc Chấn/Tốn.

Tóm lại, tất cả các chi tiết trên thuyền số 6 đều ăn khớp với chi Chấn/Tốn của người tộc Nước.

Thuyền diễn tả một cảnh phán xét linh hồn (afterlife judgment) ứng với một tượng/tộc trong tứ tượng và mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ luận.

Tóm Lược

Thuyền trên trống Ngọc Lũ I là thuyền phán xét linh hồn. Chúng mang trọn ý nghĩa vũ trụ luận.

-Thuyền số 1 là thuyền dẫn đầu biểu tượng nhánh dương gồm hai đại tộc Càn Li của người tộc Nước và Li là khuôn mặt mang tính chủ. Thuyền diễn tả hai cảnh phán xét linh hồn (afterlife judgment) ứng với hai đại tộc Càn Li và mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ luận.

-Thuyền số 2 biểu tượng nhánh âm Chấn Đoài của người tộc Nước và khuôn mặt Chấn mang tính chủ. Thuyền diễn tả hai cảnh phán xét linh hồn (afterlife judgment) ứng với hai đại tộc Chấn Đoài và mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ luận.

-Thuyền số 3 biểu tượng tộc Khôn/Càn vũ trụ của người tộc Nước ứng với tượng Càn trong tứ tượng. Thuyền diễn tả một cảnh phán xét linh hồn và mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ luận.

-Thuyền số 4 biểu tượng tộc Khảm/Li của người tộc Nước ứng với tượng Li trong tứ tượng. Thuyền diễn tả một cảnh phán xét linh hồn và mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ luận.

-Thuyền số 5 biểu tượng tộc Cấn/Đoài của người tộc Nước ứng với tượng Đoài trong tứ tượng. Thuyền diễn tả một cảnh phán xét linh hồn và mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ luận.

-Thuyền số 6 biểu tượng chi Tốn/Chấn của người tộc Nước ứng với tượng Chấn trong tứ tượng. Thuyền diễn tả một cảnh phán xét linh hồn và mang trọn ý nghĩa Vũ Trụ luận.

Thuyền trên trống Ngọc Lũ I là thuyền phán xét linh hồn. Chúng mang trọn ý nghĩa vũ trụ luận. Trong 6 thuyền, hai thuyền biểu tượng âm dương hay hai cực hay hai nhánh âm dương của ngành âm, nước. Bốn chiếc còn lại biểu tượng tứ tượng hay tứ tộc tương ứng với tứ tượng. Những thuyền này thuộc diện thái dương dòng âm.

Những thuyền này mang tính cách là thuyền phán xét linh hồn cho thấy vai trống tức là Tầng Nước của Cõi Giữa nhân gian có một khuôn mặt là bầu trời âm tạo hóa, Cõi Trên âm của Cõi Nước, Cõi Âm.


(phần 20)


Thuyền Trên Các Trống Và Đồ Đồng Đông Sơn Khác.

Bây giờ ta so sánh thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I với các thuyền trên các trống và đồ đồng Đông Sơn khác để xác thực, bổ túc những điều chúng ta vừa giải đọc về thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

Thuyền thấy xuất hiện trên khoảng 25 trống. Trong danh sách này có cả thuyền trên trống Nam Dương, Nam Trung Hoa, Thái Lan, Lào nhưng không kể các thuyền loại Nguyễn Xuân Quang VI (Heger I) thuộc vùng Nam Trung Hoa. Số thuyền tương đối lớn này cho thấy chủ nhân của trống đồng âm dương là những tộc Khôn dòng nước và các tộc liên hệ với họ. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, chủ nhân của trống đồng nòng nọc, âm dương bắt buộc phải là của Bách Việt những cư dân sống ở vùng sông biển Đông Nam Á, tuyệt nhiên không phải là của dân du mục bắc phương Trung Hoa.

Ngoài ra thuyền biểu tượng còn thấy trên các thạp đồng như thạp Đào Thịnh, thạp Hợp Minh, thạp thấy trong mộ Nam Việt Vương ở Quảng Châu, Nam Trung Hoa.

Thuyền Trên Trống Đồng Hoàng Hạ.

Trống Hoàng Hạ là trống có mặt trời16 nọc tia sáng. Số 16 là số Khôn tầng 3 (0, 8, 16). Như thế trống đồng âm dương Hoàng Hạ thuộc nhóm Càn/Khôn thế gian tầng nước.

Quẻ Khôn là ba hào nòng âm OOO có một khuôn mặt nước âm O thái âm OO của phía nòng O (nòng, âm, không gian) có khuôn mặt đại diện là nước dương I thái âm OO tức Chấn IOO. Ta cũng đã biết Chấn lưỡng hợp với Càn III ở dạng đại vũ trụ. Vì thế theo duy âm của ngành thái dương trống có khuôn mặt Chấn IOO tức nọc I thái âm OO của ngành thái dương mang tính chủ.

Xin nhắc lại, trống Quảng Xương có mặt trời 8 nọc tia sáng với số 8 là số Khôn tầng 2 (0, 8) tầng trời đất thế gian. Trống đồng âm dương Hoàng Hạ và Quảng Xương cùng một nhóm trống Càn/Khôn. Nhưng trống đồng âm dương Hoàng Hạ ở tầng 3 mang nhiều âm tính hơn, thuộc vùng nước thế gian. Vì thế trống Quảng Xương có khuôn mặt khí gió bầu trời thiếu âm Đoài mang tính chủ, trong khi trống đồng âm dương Hoàng Hạ có khuôn mặt nước dương thái âm Chấn mang tính chủ.

Lưu Ý

Xin nhắc lại mặt trời trên trống đồng nòng nọc, âm dương càng có nhiều tia sáng càng mang âm tính nhiều, càng thuộc về vùng nước, cõi âm. Mặt trời có số nọc tia sáng dưới 8 là mặt trời vũ trụ. Mặt trời có số nọc tia sáng bằng hay lớn hơn 8 là mặt trời thế gian. Các thạp đồng dùng trong mai táng liên hệ với cõi âm là một thứ trống âm hình trứng Nguyễn Xuân Quang loại I giống như trống để ở đền Tổ Hùng ở Phú Thọ mang tính sinh tạo, tạo hóa (tro than, sọ người chết chôn trong thạp để được tái sinh hay được về cõi vĩnh hằng) có mặt trời có nọc tia sáng rất lớn. Vì thế mặt trời trên nắp thạp có số tia sáng rất lớn lên tới 20 tia sáng.

Nắp thạp Đào Thịnh có mặt trời 20 nọc tia sáng.

Một nắp thạp khác cũng có mặt trời 20 nọc tia sáng.

Lưu ý trên nắp thạp có những vành sóng chuyển động hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn cho thấy rõ khuôn mặt liên hệ với cõi âm của thạp (Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, Lạc Long Quân Chấn có một khuôn mặt Long Vương cõi âm có thủy phủ ở vịnh Hạ Long). Ngoài ra còn có vành chim nông biểu tượng cho tạo hóa, sinh tạo. Chim nông đẻ ra trứng vũ trụ. Trên người chim nông cũng có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình vòng tròn-chấm, ở đây có nghĩa nòng nọc, âm dương, sinh tạo (vòng tròn chấm cũng là hình ảnh của quả trứng có chấm là tròng đỏ và vòng tròn bao quanh tròng trắng). Người chết chôn trong thạp là chôn trong bầu sinh tạo vũ trụ để được tái sinh…

Do đó trống đồng âm dương Hoàng Hạ và Quảng Xương cùng một nhóm nhưng trống đồng âm dương Hoàng Hạ có mặt trời có nọc tia sáng lớn hơn nên mang nhiều âm tính hơn.

Trên vai trống đồng âm dương Hoàng Hạ cũng có 6 chiếc thuyền.

Tổng quát thuyền trên trống Hoàng Hạ tương tự như các thuyền trên trống Ngọc Lũ I nhưng thuộc diện nọc thái âm của nhánh thái dương của họ Người Mặt trời-vũ trụ.

Ở đây chỉ xin nêu ra các điểm khác biệt chính yếu.

Nhìn chung các điểm khác biệt là theo tính nòng nọc, âm dương. Trống đồng âm dương Hoàng Hạ có khuôn mặt Nọc I thái âm OO tức quẻ IOO, Chấn mang tính chủ vì thế thuyền trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ chủ yếu mang tính nọc I thái âm OO trong khi thuyển trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I chủ yếu mang tính nọc I thái dương II tức III, Càn. Nói một cách dễ hiểu thuyền trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ mang nhiều âm tính hơn. Theo diện lưỡng hợp thì thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I và trống đồng âm dương Hoàng Hạ ở dạng lưỡng hợp thái dương, thái âm đại vũ trụ.

Trong 6 thuyền cũng có hai thuyền đại biểu cho nhánh âm và dương ứng với lưỡng nghi. Nhánh dương gồm hai đại tộc Càn Li và nhánh âm gồm hai đại tộc Chấn Đoài. Còn lại 4 thuyền biểu tượng cho bốn tộc ứng với tứ tượng.

Xin thật vắn tắt ở đây. Tôi chỉ dựa vào mấu chốt những hình chim, cá đứng trước mũi và sau đuôi thuyền để nhận diện mỗi con thuyền.

Liếc mắt qua ta nhận thấy ngay trong 6 con thuyền chỉ có hai con thuyền phía mũi và sau đuôi có hai hình chim/cá còn lại 4 con thuyền kia chỉ có hình chim ở đuôi thuyền. Rõ như ban ngày hai thuyền có hai hình chim/cá là hai thuyền biểu tượng cho nhánh còn lại bốn thuyền chỉ có hình chim đứng dưới nước sau đuôi thuyền biểu tượng cho bốn tộc ứng với tứ tượng.

Ở bốn thuyền biểu tượng cho 4 tộc này, hình chim mang ý nghĩa cõi trời, cõi trên. Chim đứng trong nước, không bay, mang ý nghĩa cõi nước, vùng nước thế gian. Đứng ở phía đuôi thuyền có âm tính mang ý nghĩa ngành, nhánh, phía âm. Gộp lại 4 thuyền chỉ có chim đứng sau mũi thuyền biểu tượng cho cõi trời vùng nước của bốn tộc ngành âm.

Ta cũng thấy rất rõ ba thuyền không có bánh lái hay chỉ có một bánh lái ở mũi thuyền thuộc về nhánh thứ nhất còn lại ba thuyền có hai bánh lái thuộc về nhánh thứ hai.

1. Thuyền biểu tượng cho nhánh dương Càn Li.

Thuyền không có bánh lái. Nhắc lại thuyền của nhánh dương không có tay lái hay chỉ có một tay lái đơn giản.

Thuyền biểu tượng cho nhánh dương Càn Li trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Ta thấy ngay không có bánh lái với số 0 là số Khôn hôn phối với Càn (dương), vậy thuyền không có bánh lái thuộc nhánh dương Càn Li.

Đầu thuyền và đuôi thuyền có hai con chim cho thấy thuyền biểu tượng cho hai tộc tức cho một nhánh. Ở đây là nhánh dương tức Càn Li.

Thật vậy

.Con chim đứng ở mũi thuyền là loài chim nước có con mắt âm hai vòng tròn đồng tâm. Trên người có hình sóng hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước cũng xác thực con chim này là con chim nước ngành nước dương thái dương. Đầu chim không có bờm mà có mũ tia sáng ngắn mang ít dương tính nghiêng về lửa thế gian Li.

Nhưng mấu chốt rõ nhất là tên con chim viết bằng hình hai chân có hình núi tháp vách (hình chữ delta) kép Li. Bên cạnh còn có “tấm biển nhỏ” viết chữ nòng nọc vòng tròn-que hình vòng tròn-chấm có một nghĩa là Li để xác quyết thêm là con chim Li.

Trong núi tháp này không có chấm nọc dương cho thấy núi Li của phía nòng âm tức núi âm tức Non Cấn. Điểm này ăn khớp với hình người ngồi trên cầu thử thách có tóc dài mặc váy phồng mang vóc dáng của một người phái nữ. Ngồi là âm. Người này quay mặt về phía mũi thuyền dương. Như thế thuộc về phía nữ thái dương, thái dương thần nữ.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là Mẹ Tổ Âu Cơ, thái dương thần nữ.

Ta cũng thấy khuôn mặt Li mang tính chủ vì con chim Li này đứng ở phía dương mũi thuyền và người nữ tộc thái dương là con người thứ hai duy nhất ở trên cầu thử thách thấy trong 6 con thuyền.

.Con chim bay ở đuôi thuyền.

Chim bay biểu tượng cho cõi trời, cõi trên, bầu trời thường phần lớn không phải là chim nước thái âm. Theo duy dương (I) của ngành thái dương (II) là III, Càn. Chim ở đây có con mắt dương một vòng tròn, mỏ lớn hình nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) mang dương tính, lửa. Người chim thon gọn như hình mũi tên nhọn mang dương tính. Chim mang vóc dáng chim lửa không phải là chim nước.

Mấu chốt chính là tên con chim này viết bằng chữ nòng nọc vòng tròn-que hình nọc que ở cổ chim. Chữ này xác thực tính nọc dương, lửa của chim bay là lửa vũ trụ Càn.

Tóm lại con chim bay này diễn tả lửa vũ trụ Càn.

Như thế thuyền có hai loại chim ở mũi và đuôi thuyền này biểu tượng cho nhánh dương Li Càn. Nhánh này gồm hai đại tộc Càn và Li và Li mang tính chủ.

a.Thuyền biểu tượng cho tộc Càn.

Thuyền chỉ có một bánh lái ở mũi thuyền. Số một là số lẻ, số dương. Bánh lái hình chuông úp không gian trong có ba nọc que tức quẻ Càn.Tay lái mang nghĩa Càn Khôn, tạo hóa sinh tạo. Tay lái cho biết thuyền thuộc về nhánh dương Càn Li.

Thuyền biểu tượng cho tộc Càn (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Con chim có con mắt âm hai vòng tròn đồng tâm là loài chim nước. Chim đứng ở sau đuôi thuyền có mỏ rìu mang dương tính lửa Càn Li ngành nòng âm. Trong có viết chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc nhọn mũi lao dương tính nhưng hình nọc rỗng mang âm tính. Mỏ diễn tả dương, lửa tức Càn Li ngành âm.

Tuy nhiên có nhiều yếu tố cho thấy thuyền có khuôn mặt Càn. Thứ nhất con chim quay về phía mũi thuyền Dương vậy thuyền mang tính dương trội tức thuần dương Càn. Thứ nhì người chim có những sọc ngang và dọc diễn tả không gian Khôn cho thấy khuôn mặt Càn hôn phối với Khôn mang tính chủ. Thứ ba, đuôi chim hình tia sáng tỏa rạng cũng xác thực chim có khuôn mặt lửa vũ trụ Càn. Thứ tư chim có bờm hình sừng có tia sáng ngắn cũng nghiêng về lửa vũ trụ Càn. Thứ năm, chim đang mổ mồi hình hộp chữ nhật là dạng thể hiệp (accord) theo tính âm dương hay thể điệu hóa của nòng O, trong có các sọc dọc ngang diễn tả không gian Khôn lưỡng hợp với Càn. Nhìn theo góc cạnh khác, mồi hình nọc que mang dương tính, lửa.

Vậy thuyền này qua hình chim đứng sau mũi thuyền là thuyền biểu tượng cho tộc Càn nhánh dương Càn Li.

Thuyền có một tay lái Càn-Khôn cho biết thuyền mang ý nghĩa sinh tạo ở cõi trên.

b. Thuyền biểu tượng cho tộc Li.

Thuyền biểu tượng cho tộc Li (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Con chim có con mắt âm hai vòng tròn đồng tâm là loài chim nước. Trên người chim cũng có chữ hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước xác thực chim là loài chim dương của nhánh nước.

Chim đứng ở sau đuôi thuyền có mỏ rìu mang dương tính lửa Càn Li nhưng mỏ chim ở đây đầu mỏ bằng không nhọn như mỏ chim Càn ở trên, mang âm tính hơn, tức nghiêng về thiếu dương Li (âm của dương).Trong mỏ cũng có viết chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc nhọn mũi lao dương tính nhưng hình nọc to và rỗng hơn mang nhiều âm tính hơn so với con chim Càn ở trên tức nghiêng về thiếu dương Li. Mỏ diễn tả thiếu dương Li ngành âm.

Ngoài ra con chim quay về phía âm đuôi thuyền như vậy là âm của dương tức thiếu dương Li.

Nhưng mấu chốt rõ nhất là tên con chim viết bằng hình hai chân có hình núi tháp (hình chữ delta) vách kép Li giống con chim Li đứng ở mũi thuyền biểu tượng cho nhánh Càn Li.

Vậy thuyền này qua hình chim đứng sau đuôi thuyền là thuyền biểu tượng cho tộc Li nhánh dương Càn Li. Thuyền không có tay lái.

Lưy Ý

Cả ba người gác cổng trời đứng trên cầu thử thách hình đài tam thế của ba thuyền thuộc nhánh dương này đều quay mặt về chiều âm đuôi thuyền và tay chỉ cầm khiên hình hai chữ DD lồng vào nhau không cầm lao (không có dương) mang âm tính cho biết ba thuyền nhánh dương này thuộc ngành nòng âm nước thái dương.

2. Thuyền biểu tượng cho nhánh âm Chấn Đoài vũ trụ.

Thuyền biểu tượng cho nhánh âm Chấn-Đoài trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Ta thấy ngay thuyền có hai bánh lái ở mũi thuyền thuộc về nhánh âm. Số 2 là số chẵn số âm. Thuyền biểu tượng cho nhánh âm Chấn Đoài.

Đầu thuyền và đuôi thuyền có hai con chim/cá cho thấy thuyền biểu tượng cho hai tộc tức cho một nhánh. Ở đây là nhánh âm tức Chấn Đoài.

Thật vậy nhìn tổng quát ta thấy ngay chim có một khuôn mặt biểu tượng cho cõi trời khí gió Đoài và cá biểu tượng cho nước Chấn.

.Con chim đứng ở mũi thuyền

Chim là loài chim nước có con mắt âm hai vòng tròn đồng tâm. Chim có cổ dài, cong, chân dài, mỏ dài, nhọn đang mổ con cá, có bờm mang hình bóng cò.

Ta đã biết cò biểu tượng cho thiếu âm khí gió Đoài vũ trụ (Thế Giới Loài Vật trong Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á). Chữ vòng tròn-chấm có một nghĩa là thiếu âm khí gió xác thực đây là con cò gió Đoài vũ trụ.

Ta cũng thấy cò có những chấm nọc thái dương, quay mặt về chiều dương hướng mũi thuyền đi tới mang ý nghĩa thái dương II của âm O tức quẻ IIO, Đoài.

Cò đứng ở mũi thuyền nên khuôn mặt Đoài vũ trụ mang tính chủ. Người gác cổng trời (mất chỉ còn hai chân) quay về chiều dương cũng cho biết thiếu âm Đoài vũ trụ mang tính chủ.

.Con cá ở đuôi thuyền

Hiển nhiên cá biểu tượng cho nước, âm. Con cá ở đây có con mắt dương một vòng tròn, có mõm hình chữ nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) mang tính nọc lửa thái dương. Vậy con cá này biểu tượng cho nước lửa, Chấn.

Ở phía mũi thuyền có một con cá nhỏ nữa. Nhìn tổng quát hai con cá với số 2 là số chẵn số âm cũng cho biết cá thuộc phía âm, nước. Con cá nhỏ này quay về phía dương mũi thuyền là dương của âm tức thiếu âm thuộc tộc Đoài. Ta cũng thấy rất rõ con cá này có lưng hình vòm bầu trời diễn tả khí gió Đoài. Vậy con cá nhỏ này nói rõ thêm mũi thuyền mang tính Đoài thuộc nhánh nước âm.

Con cá lớn ở đuôi thuyền quay về phía âm đuôi thuyền nên Chấn mang tính liệt, thứ yếu.

Như thế thuyền có cò và cá ở mũi và đuôi thuyền này biểu tượng cho nhánh âm Đoài Chấn.

Ta cũng thấy rất rõ khuôn mặt Đoài mang tính chủ ở thuyền biểu tượng cho nhánh âm này hôn phối với khuôn mặt mang tính chủ Li của thuyền biểu tượng cho nhánh dương ở trên. Đây là dạng lưỡng hợp thiếu âm thiếu dương tiểu vũ trụ.

.Thuyền biểu tượng cho tộc Đoài.

Thuyền biểu tượng cho tộc Đoài.

Thuyền có hai tay lái thuộc nhánh âm Đoài Chấn. Chỉ có một con chim đứng sau đuôi thuyền.

Con chim có con mắt âm hai vòng tròn đồng tâm là loài chim nước. Chim có mỏ túi phình to là con chim nông. Chim có nhiều yếu tố mang dương tính.

Trong mỏ, cổ và người có đánh dấu các chấm nọc dương, lửa thái dương. Trong mỏ còn có chữ nọc que. Chim đứng quay mặt về phía mũi thuyền mang dương tính. Vậy con chim nông này là chim nông dương, thái dương tức bổ nông có một khuôn mặt biểu tượng cho khí gió Đoài vũ trụ.

Chim cũng có bờm gió Đoài vũ trụ.

Ngoài ra con chim quay về phía dương mũi thuyền như vậy là dương của âm là thiếu âm Đoài.

Vậy thuyền này qua hình chim đứng sau đuôi thuyền là thuyền biểu tượng cho tộc Đoài nhánh âm Chấn Đoài.

.Thuyền biểu tượng cho tộc Chấn.

Thuyền biểu tượng cho tộc Chấn (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Thuyền có hai tay lái thuộc nhánh âm Đoài Chấn.

Chỉ có hai chim đứng sau đuôi thuyền. Số hai là số chẵn số âm cho thấy ngay khuôn mặt âm trội tức nước Chấn của thuyền này. Hai con chim đứng trên bè có hình sóng nước cũng cho biết chúng là loài chim nước.

Con chim có con mắt âm hai vòng tròn đồng tâm là loài chim nước.

Nhưng mấu chốt chính là tên chim viết trên thân chim bằng chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn.

Chim có mỏ túi phình to mang nhiều âm tính là con chim nông nước.

Con đứng trước mỏ túi phồng lên mang âm tính nhiều là con cái. Con đứng sau trên lưng con cái là con đực và mỏ có túi hình nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) cũng cho biết rõ là con đực.

Trong mỏ còn có chữ nọc que xác thực là con đực. Hai con nông đang giao hợp diễn tả tính sinh tạo.

Trong mỏ, cổ và người hai con chim có đánh dấu các chấm nọc dương, lửa thái dương. Ở đây lấy nghĩa thái dương.

Chim có bờm tua nước Chấn.

Vậy thuyền này qua hình hai chim nông đứng sau đuôi thuyền là thuyền biểu tượng cho tộc Chấn nhánh âm Chấn Đoài.

Như thế 6 con thuyền trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ cũng là những con thuyền mang trọn vẹn triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh trong Vũ Trụ giáo và diễn tả theo nòng nọc, âm dương theo Dịch. Sáu con thuyền này thuộc phía nòng thái âm trong khi 6 con thuyền ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I thuộc phía nòng thái dương của ngành nòng âm thái dương.

Thuyền ở đây cũng là thuyền phán xét linh hồn như thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

Sau đây là những điểm khác biệt chính yếu quan trọng và hữu ích giữa 6 con thuyết trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ và trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

1. Người trên thuyền ở trống đồng âm dương Hoàng Hạ có trang phục đầu có nhiều đường nét cong mang âm tính hơn người ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

2. Cổng vào cầu thử thách ở trống đồng âm dương Hoàng Hạ có khuôn cửa rõ hơn cho thấy rõ các cổng diễn tả đơn giản ở trống Ngọc Lũ I.

3. Có linh hồn người chết đang đi vào cổng để vượt qua cầu thử thách để vào được cõi trên.

Một linh hồn người chết đang đi vào cổng cầu thử thách để vượt qua thử thách để vào được cõi trên.

4. Sau đuôi thuyền hình đầu chim bổ nông, có thuyền có hai cọc đầu chim cắt riêng rẽ để diễn tả hai dương, lửa, thái dương. Điểm này xác thực một nọc có thể diễn tả hai đầu chim cắt mang nghĩa lửa, thái dương ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là đúng.

5. Chiếc sừng tê giác ở mũi thuyền ở trống đồng âm dương Hoàng Hạ cong hơn, mang nhiều âm tính hơn ở thuyền trên trống Ngọc Lũ I cho thấy Hoàng Hạ thuộc nhành nòng âm thái âm ngành thái dương.

Ta cũng thấy ba thuyền của nhánh âm đều có sừng tê giác mang nhiều âm tính này. Điểm này cho biết thuyền nhánh âm thuộc nọc thái âm ngành thái dương.

6. Hình khắc trên các thuyền trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ đã kém mỹ thuật và chính xác hơn ở thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I cho biết trống đồng âm dương Hoàng Hạ muộn hơn. Vì thế mà cách diễn tả theo hình, chữ viết nòng nọc vòng tròn-que dễ hiểu hơn.


(phần 21)

Thuyền Trên Các Trống Và Đồ Đồng Đông Sơn Khác.

Thuyền Trên Trống Đồng Miếu Môn I.

Ở đây chỉ xin nói tới các điểm biểu tượng chính yếu khác so với các thuyền ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I , xem thêm chi tiết ở Trống Văn Lang Miếu Môn I (4).

Trống Miếu Môn I là trống có mặt trời 14 nọc tia sáng thuộc cùng một nhóm với trống Ngọc Lũ I nhưng là trống muộn. Trên vai trống Miếu Môn I cũng có 6 chiếc thuyền. Rất tiếc chỉ có hình vẽ chi tiết hình hai con thuyền nên bốn thuyền còn lại không biết như thế nào.

Nhìn tổng quát, sự trình bày ít tinh vi và ít phức tạp hơn vì là trống muộn.

Thuyền không còn là thuyền phán xét linh hồn nữa nhưng vẫn mang ý nghĩa Vũ Trụ giáo được diễn tả bằng một cách đơn giản hóa và nghiêng theo duy dương. Mũi thuyền diễn tả sự kết hợp linh thú rắn nước âm-chim lửa dương. Hàm trên biến thành chim dương (trong khi ở trống Ngọc Lũ I, cực dương là một con chim rìu riêng rẽ lao vào miệng linh thú rắn nước). Đuôi thuyền vẫn là dạng kết hợp thiếu âm bổ nông và thiếu dương bồ cắt nhưng bắt đầu đã thấy có sự hiện diện của thể điệu hóa, nam hóa chim nông có con mắt dương (xem dưới).

Hai chiếc thuyền ở đây, một thuyền có chim đứng ở đầu mũi và đuôi thuyền cho biết thuyền biểu tượng cho một nhánh và chiếc thuyền kia chỉ có một con chim đứng ở đuôi thuyền tức biểu tượng cho một tộc ứng với tứ tượng. Chim nhìn theo hướng âm tức theo chiều kim đồng hồ.

-Chiếc thuyền thứ nhất biểu tượng cho nhánh

Thuyền có chim đứng ở mũi và đuôi thuyền biểu tượng cho hai tộc của nhánh.

  1. Con chim đứng ở đầu mũi thuyền

Hai nhóm chim này đứng quay về chiều dương tay phải chỉ cho biết nhánh này là nhánh dương gồm có hai tộc Càn Li.

Hình thuyền trên Trống Miếu Môn I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Mũi thuyền hình đầu Rắn Nước Chấn đang há miệng tương tự như ở mũi thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I. Hàm trên của linh vật Rắn Nước biến thành con chim dương có mỏ rất lớn, hết sức cường điệu, mang dương tính cực đại tức thuần dương, siêu dương ứng với Càn.

Mũi thuyền lưỡng hợp đại vũ trụ thái dương, thái âm Chim-Rắn, Tiên Rồng ở dạng nhất thể riêng biệt (hòa hợp thành một với hai cá thể thái dương và thái âm còn riêng biệt).

Trong hai phần mỏ chim có đánh dấu các chấm nọc có nghĩa là nọc, dương, lửa, thái dương. Đầu có mũ sừng có chấm nọc, dương, lửa và có con mắt dương vòng tròn có chấm. Chim mang hình ảnh chim mỏ cắt lửa lớn (Great Hornbill Buceros bicornis) mang tính siêu dương lửa thái dương Càn vũ trụ. Mũi thuyền diễn tả sự lưỡng hợp ở cõi đại vũ trụ tức thái âm nước Rắn Chấn với thái dương lửa Chim mỏ cắt lớn Càn.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là dạng lưỡng hợp Tiên-Rồng ở cõi đại vũ trụ ngành mặt trời thái dương Thần Nông-Viêm Đế. Ở đây khác với ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I. Chim và Rắn còn là hai thực thể riêng rẽ ở trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I. Chim rìu mỏ cắt lao vào miệng Rắn nước ở đầu thuyền diễn tả lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng theo dạng hai cá thể riêng rẽ. Ở trống Trống Miếu Môn I này chim và rắn ở dạng nhất thể hòa hợp lại thành một cá thể là đầu thuyền rắn-chim nhưng vẫn còn giữ nguyên dạng thiên nhiên chim-rắn. Đây là dạng nhất thể riêng biệt (với hai cá thể thái dương và thái âm còn riêng biệt). Trường hợp nhất thể này là dạng tiền thân của dạng đầu thuyền nhất thể tiến xa hơn nữa ở dạng rắn có bờm chim như thấy ở trống Hữu Chung. Dạng Chim-Rắn, Tiên Rồng nhất thể rắn bờm chim sau này chính là dạng Rắn Lông Chim Quetzal-Coatl của Mễ và Kukulcan của Maya (nên biết là Mễ và Maya có gốc từ ven biển Đông Nam Á qua Trung Mỹ và Maya có DNA giống như cổ Việt ở Đông Nam Á).

1. Con chim đứng ở đuôi thuyền

Chim đứng sau đuôi thuyền 1.

Đuôi thuyền có hình chim có bờm trông như mũ sừng, mỏ rìu mũi nhọn mang dương tính trong có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc nhọn mang dương tính và có con mắt dương. Đây là con chim nước nước mang nhiều dương tính thuộc nhánh dương Càn Li. Con chim mổ con cá cho biết là dương của ngành âm nước, tức thiếu dương Li. Con cá có mõm nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) trong cũng có viết chữ nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) cho biết chim mang tính lửa, thái dương.

Nhưng mấu chốt chính là tên chim viết bằng hình hai chân hình núi tháp trong có chấm nọc Li.

Ngoài ra còn phụ đề bắng chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình vòng tròn chấm (O.), có một nghĩa theo duy dương là thiếu dương Li.

Đây là con chim nông thiếu dương lửa thế gian Li của ngành nòng âm nước thái dương.

Như thế thuyền này diễn tả Càn Li của nhánh dương ngành nòng âm nước thái dương.

Đuôi thuyền

Đuôi thuyền có hình đầu chim có bờm gió và có con mắt dương diễn tả chim bổ nông gió thiếu âm Đoài. Ở đây đầu chim bổ nông đã thể điệu hóa khó nhận diện hơn, vì trống đã hơi muộn.

Lưu Ý

Ở đây con mắt chim dương một vòng tròn thay vì âm hai vòng tròn đồng tâm như ở trống trống đồng âm dương Ngọc Lũ I vì trống này là trống muộn nghiêng về phía dương ngự trị (xã hội phụ quyền ngự trị).

Sau đuôi thuyền hình đầu chim bổ nông có cây cọc hình chim mỏ lớn, có mũ sừng và con mắt dương. Đây là chim bồ cắt (OI) thiếu dương lửa Li giống như ở trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

Như thế ở đây cũng có dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu âm Đoài vũ trụ đầu bổ nông và thiếu dương Li cọc đầu bồ cắt ở sau đuôi thuyền

Như thế đầu thuyền diễn tả dạng lưỡng hợp đại vũ trụ thái dương lửa vũ trụ Càn với thái âm nước Chấn dưới dạng nhất thể và đuôi thuyền dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu dương lửa đất Li với thiếu âm gió Đoài.

-Chiếc thuyền thứ hai biểu tượng cho một tộc

Chiếc thuyền thứ hai chỉ có một con chim đứng dưới nước ở đuôi thuyền biểu tượng cho một tộc ứng với một tượng của tứ tượng.

Hình thuyền 2 trên Trống Miếu Môn I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Con chim đứng quay về chiều âm tay trái cho biết tộc này mang âm tính. Chim trông giống như chim trĩ thuộc loài gà. Loài gà sống ở bờ nước, dưới nước là loài chim quốc. Gà, trĩ, cuốc mang dương tính biểu tượng cho nọc dương, lửa (chim phượng có cốt là chim trĩ của Trung Hoa là chim lửa) và sống nhiều trên đất là lửa thế gian tức thiếu dương Li. Nhìn dưới diện nòng nọc, âm dương thì chim lửa dương quay mặt về chiều âm là âm của dương tức thiếu dương Li.

Vậy con chim này cho biết thuyền thuộc tộc Li ngành nòng âm nước thái dương.

Kiểm chứng thêm ta thấy:

.Đầu chim cắt ở hàm trên đầu thuyền rắn không có mũ sừng nên ít có dương tímh tức thiếu dương Li cho biết thuyền có khuôn mặt Li.

.Ở thân và cổ thuyền có những hình trông giống như chiếc “nơ”. Đây là đất âm tức Li âm của ngành âm. Ta thấy rõ thuyền này có 4 hình. Số 4 là số Cấn là đất âm non (núi âm).

Thuyền cũng có 4 người, ở đây theo duy dương cùng ngành lửa số 4 Cấn đi với khuôn mặt dương đại diện là Li 5 và cùng ngành Càn (Mẹ Tổ Âu Cơ Cấn núi âm số 4 có Kì Dương Vương núi dương Li 5 đại diện và cùng ngành Càn Viêm Đế).

Thuyền trưởng có trang phục đầu hình rìu trong có hai chấm nọc lửa có một khuôn mặt Lửa thế gian Li. Cây rìu Việt cầm trong tay có mấu nhọn có góc cạnh dương tính lửa mang hình ảnh rìu Việt sừng mang gạc.

Vậy thuyền này là thuyền biểu tượng cho tộc Li.

Hai con thuyền có một khuôn mặt ở dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu âm Đoài và thiếu dương Li.

Rất tiếc bốn chiếc thuyền còn lại không có hình vẽ chi tiết.

Tóm lại

Thuyền không còn là thuyền phán xét linh hồn nữa nhưng vẫn mang ý nghĩa Vũ Trụ giáo bằng một cách đơn giản hóa và nghiêng theo duy dương. Mũi thuyền diễn tả lưỡng hợp đại vũ trụ Chim-Rắn, Tiên Rồng ở dưới dạng nhất thể, đuôi thuyền ở dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ bổ nông-bồ cắt.

Thuyền Trên Trống Hữu Chung

Trống Hữu Chung là trống thuộc nhóm trống Chấn/Cấn thái dương thế gian có mặt trời 12 nọc tia sáng. Cũng có 6 hình thuyền trên vai trống, nhưng thuyền to nhỏ khác nhau. Kích thước của thuyền và số người thể điệu hóa thành motifs hình chim có thể cho biết căn cước của thuyền. Rất tiếc chỉ có ba hình vẽ chi tiết.

Hình ba con thuyền trên trống Hữu Chung (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Các thuyền này đã thể điệu hóa cùng cực (extremely stylized) na ná giống thuyền ở trống Quảng Xương (xem dưới). Thuyền có đầu to và cong hơn đuôi. Thuyền to nhỏ xen kẽ nhau (khác với các con thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I có cỡ như nhau).

Mũi thuyền.

Mũi thuyền diễn tả đầu linh thú nước rất thể điệu hóa dưới dạng rắn có sừng (một thứ thuồng luồng, Rắn Việt). Ta biết rõ là con vật sống dưới nước vì có con mắt âm nước hai vòng tròn đồng tâm. Con vật há miệng rộng. Trên đầu có sừng. Con vật này sống dưới nước và thân có hình thuyền thuộc loài rắn nước khổng lồ (anaconda), theo duy dương (vì có sừng) là vật biểu của nước dương Chấn.

Lưu ý

Dưới cằm có tua râu hình chữ S sóng nước cho biết thuyền có khuôn mặt phía thái âm nước Chấn mang tính chủ vì trống Hữu Chung có một khuôn mặt sấm mưa mang tính chủ.

Chim dương Càn ở đây giờ biến thành chiếc bờm lông của linh thú rắn nước. như đã nói ở trên, đây chính là con Rắn-Lông Chim Quetzal Coatl của Aztec và Kukucan của Maya. Tôi đã chứng minh là có sự tương đồng giữa truyền thuyết và cổ sử Việt với Aztec và Maya (xem các bài viết này).

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, là dạng lưỡng hợp Âu Cơ-Lạc Long Quân, nhưng nòng nọc, âm dương rắn-chim còn quyện vào nhau dưới dạng Trứng Vũ Trụ, Thái Cực. Vì có mang di thể kết hợp Trứng Vũ Trụ này mà Mẹ Tổ Âu Cơ đẻ ra bọc Trứng Thế Gian sinh tạo Lang Hùng.

Đầu linh thú rắn nước Chấn có bờm chim Càn vẫn còn mang biểu tượng lưỡng hợp đại vũ trụ thái dương thái âm, chim rắn Tiên-Rồng dưới dạng nhất thể hợp nhất nhưng khác trống Miếu Môn I là ở đây đã thể điệu hóa cùng cực, không còn thấy cả đầu chim mà chỉ còn thấy bờm biểu tượng cho chim. Như đã biết, dạng thể điệu hóa, thần thoại hóa là dạng muộn so với dạng thiên nhiên. Như thế hiển nhiên trống Hữu Chung thuộc loại trống muộn hơn (loại C I 1 theo cách xếp loại của Việt Nam) so với Trống Miếu Môn I (A-II-1). Dạng này khác với dạng lưỡng hợp còn ở dạng riêng rẽ là chim dương, lửa mỏ rìu nằm trong miệng rắn nước thấy ở các đầu thuyền trên trống Ngọc Lũ I và các trống họ hàng.

Đuôi thuyền.

Đuôi thuyền trống Hữu Chung.

Đuôi thuyền diễn tả chim bổ nông rất thể điệu hóa có bờm túi gió có con mắt dương và cánh (hay đuôi) có chữ vòng tròn kép đồng tâm thái âm nước cho biết chim này là loài chim nước. Tay chèo diễn tả đầu chim bổ cắt có mũ sừng có con mắt dương nhưng cánh có mỏ rìu hay mũi mác và cũng có chữ vòng tròn kép đồng tâm thái âm nước, ở đây cho biết chim này thuộc phía thái âm nước. Đuôi thuyền vẫn còn sự hôn phối thiếu âm bổ nông và thiếu dương bồ cắt như thấy ở đuôi thuyền trên trống Ngọc Lũ I nhưng diễn tả thể điệu hóa hơn.

Như thế đầu thuyền lưỡng hợp chim lửa-rắn nước nhất thể hợp nhất thái dương-thái âm (đã bắt đầu thần thoại hóa) ở cõi đại vũ trụ và đuôi thuyền lưỡng hợp chim thiếu âm bổ nông-thiếu dương bồ cắt ở cõi tiểu vũ trụ.

Tóm lại

Thuyền trống Hữu Chung không còn là thuyền phán xét linh hồn nhưng vẫn còn mang triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh của Vũ Trụ giáo nhưng ở đây chim thái dương đã thần thoại hóa chỉ còn là bờm chim của linh vật rắn nước thái âm. Chim-Rắn ở dạng nhất thể hợp nhất.

Thuyền Trên Trống Quảng Xương

Trống Quảng Xương là trống có mặt trời 8 nọc tia sáng Càn/Khôn thế gian, là trống biểu của người mặt trời vũ trụ thái dương gồm hai ngành nọc dương thái dương và nọc âm thái dương. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là trống Tổ Hùng 100 Lang Hùng gồm hai nhánh người Chim Lửa mỏ cắt Âu Cơ lên núi và nhánh người Rắn Nước Lạc Long Quân theo cha xuống biển (xem Một Chương Sử Đồng).

Trống cũng có 6 hình thuyền. Rất tiếc chỉ có hình vẽ chi tiết một chiếc thuyền, còn năm thuyền kia không biết ra sao.

Tổng quát thuyền đã thể điệu hóa cùng cực (extremely stylized) tương tự như các thuyền ở trống Hữu Chung, chỉ khác biệt về vài chi tiết. Thuyền hình rắn nước. Đầu thuyền hình đầu rắn nước có bờm chim, dạng rắn-chim nhất thể hợp nhất thần thoại hóa.

Thuyền trên trống Quảng Xương (Nguyễn Văn Huyên, tr.202).

Đầu thuyền

Tổng quát giống thuyền ở trống Hữu Chung ở dạng rắn-chim nhất thể hợp nhất đã thể điệu hóa, thần thoại hóa của dạng lưỡng hợp Chim-Rắn tức là dạng muộn.

Sau đây là vài điểm khác biệt với thuyền ở trống Hữu Chung.

.Linh thú rắn nước có con mắt dương thay vì con mắt âm ở trống Hữu Chung. Trống Quảng Xương có mặt trời 8 nọc ánh sáng Càn Khôn có khuôn mặt thiếu âm khí gió Đoài mang tính chủ nên con mắt con vật thần thoại ở đầu mũi thuyền là con mắt dương vòng tròn có chấm.

Trong khi trống Hữu Chung có mặt trời 12 nọc tia sáng Cấn/Chấn có khuôn mặt Chấn mang tính chủ nên có con mắt âm hai vòng tròn kép đồng tâm nòng nước

.Người mặt trời hóa trang thành chim trên thuyền có mặt hình lục giác biểu tượng người hư không (hình lục giác là khuôn mặt sinh tạo dương của O, số sáu là số thành, sinh thành) giữa mặt có hình ngữ chấm-vòng tròn Đoài/Li, vì là thuyền mang âm tính nên nghiêng về Đoài mang tính chủ.

.Dưới cằm không có tua râu hình chữ S sóng nước như ở trống Hữu Chung cho biết thuyền có khuôn mặt phía thiếu âm khí gió Đoài mang tính chủ

Đuôi thyền.

Đuôi thuyền không có tay lái.

Phần trên cao có hình đầu chim với con mắt dương, mỏ dương và mũ sừng. Đây là đầu chim bồ cắt thiếu dương. Phần dưới là cánh có hình đầu chim có bờm túi gió với con mắt dương. Đây là đầu chim bổ nông. Như thế đuôi thuyền cũng diễn tả lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu âm bổ nông và thiếu dương bồ cắt nhưng ở dạng nhất thể hợp nhất giống như ở mũi thuyền.

Tóm lại

Đầu thuyền lưỡng hợp chim lửa-rắn nước nhất thể hợp nhất thái dương-thái âm (đã bắt đầu thần thoại hóa) ở cõi đại vũ trụ và đuôi thuyền lưỡng hợp nhất thể hợp nhất chim bồ cắt-chim bổ nông, thiếu dương-thiếu âm ở cõi tiểu vũ trụ, mang trọn vẹn triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo, cốt lõi văn hóa của Đại Tộc Việt, với Viêm Đế-Thần Nông, chim rắn, Tiên Rồng, hai nhánh Lang Hùng, Hùng Vương, với Âu-Lạc của Đại Tộc Việt Việt nhưng đã diễn tả rất thể điệu hóa, đã bắt đầu thần thoại hóa. Trống Quảng Xương là một trống hơi muộn.

Thuyền Trên Trống Sông Đà hay Moulié

Trống Sông Đà là trống có mặt trời 14 tia sáng cùng với trống Ngọc Lũ I nhưng là trống muộn hơn.

Thuyền trên trống Sông Đà (Nguyễn Văn Huyên).

Sáu thuyền trên trống Sông Đà vẫn còn thấy có trống Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) nhưng không thấy linh hồn và cầu thử thách, chúng chỉ diễn tả lễ hội tôn giáo trên sông nước, không còn là thuyền phán xét linh hồn nữa.

Xem phần chi tiết ở Trống Âu Lạc Sông Đà, ở đây chỉ xin nói tới đầu và đuôi thuyền để so sánh với trống đồng âm dương Ngọc Lũ I và các trống khác.

Đầu và đuôi thuyền chỉ diễn tả lưỡng hợp âm dương một cách đơn giản. Đầu thuyền linh thú Rắn nước thái âm và đuôi thuyền Chim Bổ Cắt, thái dương dưới dạng lưỡng hợp đại vũ trụ Ở đây đầu chim Rìu Bổ Cắt có mỏ hình rìu thấy rất rõ. Ta không còn thấy dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ ở đuôi thuyền.

Thuyền chỉ có dạng lưỡng hợp đại vũ trụ mũi thuyền rắn nước thái âm với đuôi thuyền chim lửa thái dương.

(còn nữa).


Bác Sỹ Nguyễn Xuân Quang
http://bacsinguyenxuanquang.wordpress.com
Vietsciences

 



Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang:  Trống Ngọc Lũ
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com

Email: thuky@vietnamvanhien.net

"Bất chiến tự nhiên thành" chi kế
Văn Hiến ngàn năm sử đã đề
  Giải trừ quốc nạn bằng Tâm lực
"Nhân Chủ (tự chủ) - An Vi (an lạc)" khai lối về


Lấy Tâm Lực thay cho vũ lực để giải trừ quốc nạn là phục hoạt nếp sống Văn Hiến và phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.