Nội Dung
Giới
thiệu - Tựa
I. Từ An Vi tới Vô Vi
II. Tổng quan về Thiền
III. Tiến trình xuất hiện của
Vô Vi
IV. Vô Vi với cơ cấu
V. Lốt chân đạo nội
VI. Trống Việt thường lung
lay bóng Phật
PHẦN
PHỤ TRƯƠNG
VII. Những hàm ngụ trong Tây
Du Ký
VIII. Từ đốc hành tới hoá nhi
đa hí lộng
IX. Tóm kết
X. Vài cảm nghĩ về bản dịch
"Quyển Chơn Lý"
XI. Chính phương pháp và hiện
thực
XII. Từ hoang mang tới tôi
cuời tôi
XIII. Từ cuỡng hoà đến an hoà
TỰA
Từ
hơn mười năm nay bên Việt Nam xuất hiện
một lối tu Tâm dưỡng tính mới gọi là
Pháp lý Vô vi và quãng từ 1980 thì
truyền bá mạnh trong các cộng đồng người
Việt hải ngoại. Hiện nay số thiền đường
đã lên tới gần một trăm ở rải rác khắp
năm châu: Âu, Á, Mỹ, Phi, Úc đều có cả.
Thoạt nhìn thì tưởng đâu là
một thứ Yoga của Ấn Độ hay một chi nhánh
thiền của Phật giáo. Nhưng xét kỹ tới
đợt cơ cấu thì mới thấy đó là một kết
đúc tinh hoa của nhiều đạo pháp tâm
truyền khác nhau, nhưng về mặt triết lý
thì phần căn bản hơn hết là do Việt Nho:
cái xương sống của bộ triết lý An vi
được khai quật lên từ Việt Nho cũng thấy
chính là bộ xương sống của Vô vi, đến
nỗi nói được Vô vi chính là đạo nội của
Việt Nho nhưng xưa thì bí truyền đến nay
thì phổ truyền sau khi đã được phục hoạt
một cách dị thường đặc biệt. Bởi vậy tôi
đề tựa quyển là Trùng Phùng Đạo Nội với
mục đích nghiên cứu Vô vi theo cái nhìn
của An vi, vì thế đồng thời nó cũng là
bản tóm triết lý An vi, nhất là về cơ
cấu, bởi có đứng trong phương diện cơ
cấu mới nói được Vô vi giống với An vi
như mặt trong với mặt ngoài của một đồng
tiền, như nội thánh ngoại vương, đến nỗi
nói được rằng huyền sử của An vi chính
là tiền sử của Vô vi. Đây quả là một
duyên phúc lớn lao cho dân tộc Việt. Vì
vậy quyển này muốn là một Việt Nam kiện
An vi tiếp nhận Vô vi, và Vô vi được
công khai kể như một kết tinh trác việt
nảy mầm từ trong di sản thiêng liêng của
dân tộc.
Kim Định
I. Từ An
vi tới Vô vi
1.
Vô Vi và Vô Vi
Nói
đến Vô Vi người ta nghĩ ngay đến Phật và
Lão vì nhà Phật theo thuyết Thái Hư với
khẩu hiệu “vạn pháp giai vô”, Lão
thì lấy “chí hư cực” làm cứu
cánh, còn hữu vi là Nho. Nhưng khi nghiên
cứu tường tận thì hai chữ Vô Vi lại do
Nho: lần đầu tiên trong quyển Luận Ngữ
chương XV câu 4 rằng: “Tử viết: Vô Vi
nhi trị giả, kỳ Thuấn dã dư. Phù hà vi
tai? Cung hỷ chính Nam diện nhi dĩ hĩ
= Thầy rằng: trong những người dùng đạo Vô
Vi trị nước thì phải kể tới ông Thuấn: ông
có làm chi đâu chỉ cung kính giữ mình,
ngồi quay mặt về hướng Nam mà thôi”. Câu
này có tính cách chính trị sẽ được giải
rộng bằng nhiều câu có tính cách siêu hình
trong cả Kinh Dịch, Đạo Đức Kinh. Ở đây
chỉ xin trưng một câu trong sách Trung
Dung:
“Bất
hiện nhi chương
Bất
động nhi biến
Vô
Vi nhi thành”
Không
hiện mà rõ
Không
động mà biến
Không
làm mà thành.
Như vậy là thuật ngữ Vô Vi có
trước Lão (1).
Sách
Trung Dung chỉ là bản tóm của Kinh Dịch,
một bản kinh chính cống Vô Vi, bởi ban đầu
vốn là kinh vô tự, và là của Việt tộc.
Thành thử chính nguồn gốc tối hậu của Vô
Vi là do Việt Đạo cũng gọi là Đạo Trống
(mà Trống Đồng đã nói lên một cách tuyệt
diệu, xem chương V Sứ Điệp).
Xưa
người ta cứ yên trí Lão Tử đồng thời với
Khổng Tử là sai do cái lầm của Tư Mã Thiên
lẫn Lão Tử với một nhân vật huyền thoại.
Điều này đã được chứng minh, nên nay các
học giả quốc tế đặt Lão vào thời Chiến
Quốc quãng thế kỷ IV-III tr.c.n (xem chi
tiết trong Needham II tr.35).
Xin
xem lại bài Nét Song Trùng ở quyển Kinh
Hùng để biết đó là nét đặc trưng của Việt
lý, nó khó vô cùng: vì tính cách hàm hồ
căn bản của nó là có-không, không-có. Nếu
chỉ hẳn “có là có” như triết Tây, hoặc
“không là không” như triết Ấn Độ thì là sự
thường. Còn có mà lại không, không mà lại
có thì chỉ thấy cách hệ thống nơi Việt tộc
với nền siêu hình gọi là “Đạo Trống”. Chữ
Trống bao hàm cả có lẫn không, tức phải có
cái gì mới không được: cái hang trống, cái
nhà trống. Nói Đạo Trống phải hiểu là tâm
trí phải được trống trơn không bận tâm đến
những gì xảy ra tới hay nghĩ ngợi về những
gì đã xảy ra. Đó là điều kiện rất tốt để
đạt tâm linh.
Nguyên
Nho đã công thức nổi Đạo Trống trong hai
chữ âm dương: âm là không, dương là có. Về
sau không và có được mở rộng trong câu nói
thời danh là “vô cực nhi thái cực”
vô cực mà vẫn thái cực. Đó là dấu Nguyên
Nho bảo tồn nổi tính chất hàm hồ của Việt
Đạo. Hãy đọc lại câu sách trên sẽ rõ: “bất
biến nhi chương, bất động nhi biến, vô
vi nhi thành”. Bất biến là không,
nhưng không mà lại có, vì có mới chương ra
được. Bất động là không, nhưng lại biến
được nên là có. Vô vi là không nhưng không
mà lại thành, nên là có: vì có mới thành
được chứ.
Chính
từ trong tư tưởng có mà không, không mà có
này mà nảy ra câu ngạn ngữ “chân không
diệu hữu”, để sửa lại lối hiểu
không là không có gì, mà phải hiểu rằng
cái có với không đang nói đến ở đây phải
hiểu trên đợt siêu hình tâm linh, chứ
không được hiểu ở đợt hiện tượng, nơi đây
có là có, không là không phân minh rành
rọt. Cái có với không này mọi người đều
biết và phải dùng hằng ngày trong cõi hữu
hình. Muốn đạt “có không” kiểu siêu hình
phải đi ngược chiều. Muốn có lại phải đi
tìm không, tìm cho tới cái Chân Không mới
trông đạt Diệu Hữu.
Sách
Trung Dung nói muốn đạt chân không phải đi
tới “vô thanh vô xú” (lý tưởng
của Trung Dung). Đó là điều cực kỳ khó,
phải vượt được 4 đợt là vô hình, vô tượng,
vô thanh, vô xú. Phần lớn triết học chỉ
vượt đợt siêu hình, không đi nổi bước hai
là siêu tượng, đã vậy làm sao đến hai cấp
sau là siêu thanh, siêu xú. Triết duy ý
vượt được siêu hình nhưng kẹt lại đợt
tượng (tôi gọi là ý hệ do chữ tượng ý).
Triết duy thức (phi thế) kẹt lại đợt thanh
(tức danh từ chữ nghĩa nên kinh sách man
vàn). Xuất thế của Lão kẹt lại đợt xú, tức
tiềm thức bị cái không ám ảnh: quá chú ý
đến cái không đến lơ là cái có. Riêng Việt
Nho đã có lần đi qua cả 4 đợt như được ghi
lại trong sách Trung Dung.
Sách
đó đã đưa ra một nguyên lý tuyệt diệu
trong ba chữ “Chí Trung Hòa” lấy
từ câu phát đoan của sách rằng: “Trung
dã giả thiên hạ chi đại bổn dã, Hòa dã
giả thiên hạ chi đạt đão dã, Chí trung
hòa thiên địa vị yên, vạn vật dục yên”.
Như vậy Trung là gốc rễ của Đạo, còn Hòa
là hậu quả của đạt Đạo, tới được Chí Trung
Hòa thì thiên và địa được định vị, và vạn
vật được nuôi dưỡng. Muốn biết Trung đi
tới đâu trên nấc thang dẫn tới “vô thanh
vô xú” thì xem hậu quả có bao hàm toàn bộ
chăng. Toàn bộ đó gọi là diệu hữu, diệu
hữu phải gồm cả có lẫn không, cả sáng lẫn
tối... được như vậy mới là Chí Trung, mà
có Chí Trung mới đạt Chí Hòa, là hòa được
cả có với không, động với tĩnh, nhất với
đa... Ngược lại không hòa tới nơi thì hiểu
là Trung chưa tới cùng tột, mà Trung không
cùng tột thì không thể ôm cả Có với Không
một trật. Nói khác Chí Trung là Vô vi. Chí
hòa là hậu quả. Vô vi thì vô hình ta khó
có thể xét nội tại cao thấp tới đâu, nhưng
Chí Hòa là cái đã hiện hình ra ngoài thì
ta có căn cứ vững làm thước đo. Chỉ xem
thuyết lý nào gây được chí hòa cao thấp
đến đâu là biết được độ Vô vi của thuyết
đó. Nói cụ thể vào người thì vạn vật hiểu
là tình lý, tiểu ngã đại ngã. Tình được
nuôi dưỡng tài bồi mà lý trí cũng được
phát triển, không duy tình hay duy trí.
Tiểu ngã được chăm nom mà Đại ngã cũng
được vun bồi. Thế mới là Thiên Địa vị yên,
vạn vật dục yên. Nói vào An vi là Hữu vi
được chăm sóc, mà không bỏ bê Vô vi, trược
cũng học mà thanh cũng học v.v... Đấy là
đại để nguồn gốc và ý nghĩa sâu xa của Vô
vi. Thứ Vô vi này là nền tảng cho tam giáo
Thích, Lão, Nho. Nhưng sau tất cả đều suy
vi thoái hóa.
Chính
vì chỗ suy thoái chung nọ mà chúng tôi
phải đặt ra tiếng mới là An vi chống với
cả Vô vi lẫn Hữu vi để trình bày khuôn mặt
chân truyền của nền triết Việt theo nghĩa
Việt là phải thực sự siêu việt. Khi cái
nào siêu việt thực sự thì nó bao hàm chính
cái nó vượt qua khi đã gạn lọc cho sạch
cát bụi, thí dụ Vô vi chính truyền có bao
hàm cái Hữu vi, nếu không bao hàm nổi thì
cái Vô vi nọ trở thành thứ duy nào đó tức
đã sa đọa. Chính bởi Việt lý (tên mới là
An vi) đã bao gồm được cả hữu vi lẫn vô
vi, nên trong thực tế nó gặt hái được
nhiều kết quả hơn hẳn hai đối cực kia. Nó
hơn hữu vi vì đã thiết lập nổi nền Nhân
chủ khiến con người được hưởng thong dong
tự tại, được đặt vào vị trí ngang Trời
cùng Đất.
“Trời đất ta đây một chữ
Đồng”.
An vi
cũng đạt được nền Dân chủ, tức thiết lập
được chế độ bình sản cũng như phá được chế
độ nô lệ. Đó là hai ân huệ căn bản cho
kiếp người mà trong 25 thế kỷ qua không
nền triết nào đạt được đến độ bằng triết
lý An vi.
2.
Tại sao lại chấp nhận Vô vi?
Thế
tại sao nay lại dọn nhận Vô vi? Thưa Vô vi
được đón nhận ở đây là một Đạo Pháp phải
viết hoa để chỉ đó là Đạo Pháp mới được
Thượng Đế ban cho loài người, nó chưa bị
suy thoái như sẽ nói đến sau về quyển Chơn
Lý với hiện tượng Kim-Thân-Cha. Chính hiện
tượng này đã làm tôi kính nể Vô vi và cuối
cùng chấp nhận.
Quả
thực đây là Vô vi thứ thiệt. Vô vi đến
Việt Nam tận cùng nên rất cân đối có cả
trong lẫn ngoài, cả trược lẫn thanh. Đây
quả là một phương pháp thực tiễn căn cứ
trọn vẹn trên con người, không dùng cái gì
bên ngoài: không kinh kệ, không tượng ảnh,
tuyệt đối đề cao con người, hoàn toàn dân
chủ: cả đến nhà truyền pháp cũng không
chịu xưng là thầy, tất cả đều là bạn đạo.
Đó là điều đặc biệt của Vô vi, và đó là
chỗ đáng nể hơn cả, bởi như vậy Vô vi tỏ
ra có tinh thần mạnh khỏi cần tổ chức.
Tổ
chức chỉ cốt để trợ lực cho tinh thần.
Tinh thần còn cần trợ lực nhất định không
mạnh bằng thứ không cần tổ chức. Vì tổ
chức là phần hữu vi sắc tướng, tuy có hỗ
trợ tinh thần được phần nào, nhưng cũng
tạo điều kiện cho người đời lợi dụng: xưa
nay “lấy đạo tạo đời” là thường, tư nhân
cũng như chính quyền. Có tôn giáo hay
thuyết lý nào trong dĩ vãng không bị lợi
dụng chưa? Mà lợi dụng là đầu mối làm sai
lạc đạo pháp. Tất cả mọi thuyết lý cũng
như giáo lý đều bị thoái hóa phần lớn vì
đó. Cho nên không chịu cho tổ chức là Vô
vi tỏ ra đích thực là Vô vi, Vô vi chính
tông, nó hứa hẹn một tương lai chính
truyền miên viễn. Đây là điểm đầu làm cho
Vô vi không là một tín ngưỡng mà là một
phương pháp khoa học bất cứ người tôn giáo
hay triết thuyết nào cũng có thể thực
hiện.
3.
Vô vi giống An vi chỗ nào?
Ở đây chỉ cần nói tổng quát rằng
Vô vi giống với An vi hơn tất cả mọi nền
triết cổ xưa, Đông cũng như Tây ở chỗ cả
hai đều nhấn mạnh đến chữ tự cường, tự
lập. Vô vi đặt trên chữ “tự tu tự tiến”
An vi đặt trên chữ “tự đạo, tự thành”
gọi là đặt nền trên đợt An hành tức bên
trên Cưỡng hành và Lợi hành. Cưỡng hành là
làm vì sợ trời đánh thánh vật. Lợi hành là
làm để được lợi lộc nọ kia có tính cách
vật chất, gọi tất là Địa lợi tức những cái
lợi có thể cột chặt con người vào cõi hồng
trần. An hành trái lại thấy đáng làm là
làm, làm vì lẽ phải, vì công ích, vì thành
nhân, tức là đặt nổi chữ “tự chủ tự lập”
không để mình bị lợi dụng điều khiển.
Chính vì nét đặc trưng chung này mà xét
đến cơ cấu và định đề cũng như nguyên lý
cả hai đều như nhau, như sẽ được chứng
minh sau. Riêng về hành pháp thì An vi có
thất truyền phần nào về mặt công phu nhưng
về công quả và công trình thì còn lại khá
nhiều, nên không đến nỗi chỉ lý thuyết và
biểu tượng suông mà còn có nội dung chân
thực, đó là pháp “tôn tâm dưỡng tính”
với những mối tình người cao cả, cũng như
những tôn chỉ hành xử: nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín, tất cả đều làm nên công quả công
trình đích thực. Nhờ thế Việt Nho kể là bị
suy thoái ít nhất.
Khổng
Tử được tiếng là đã hiện thực được bốn cái
Vô trong nội tâm là:
- Vô ý: không bám vào ý niệm
kiểu duy lý.
- Vô tất: không bám vào tất định
kiểu tất mệnh.
- Vô cố: không cố chấp nhưng
theo thuyết tuỳ thời.
- Vô ngã: không bám vào tiểu ngã
nhưng cố vươn lên Đại Ngã Tâm Linh.
Vì
thế bên ngoài tránh được mấy cái hữu vi
sắc tướng sau là: không miếu mạo chùa
chiền, không cúng vái cầu đảo, không đặt
ra hàng sư ni phương sĩ, không thâu nhận
mê tín dị đoan... Kinh Điển cũng chỉ có
chừng mực, mà toàn nói về đời sống sao cho
hợp Đạo, còn chính Đạo thì giữ đúng câu “Đạo
bất khả ngôn” không dám nói đến.
Điều này đặc biệt hơn cả, nhưng chính vì
thế mà người đời tưởng là Nho chẳng có gì,
mà không ngờ rằng đó là cái Không đầy ứ
những cái Có ẩn tàng. Vô cực mà vẫn là
Thái cực (vô cực nhi thái cực)
tức là một tay Vô vi cao độ vậy.
Về
công phu thì có song bị thất truyền, nhưng
còn thấy dấu vết trong những câu nói của
môn đệ như “vừa học vừa tập vui biết mấy”:
“học nhi thời tập chi bất diệt duyệt
hồ”, hoặc người quân tử nghĩ luôn
đến rèn luyện con người “như cắt như dũa,
như đục như mài”: “hữu phỉ quân tử như
thiết như tha như trác như ma”.
Phải có một hành pháp nào, một lối sống
công phu nào đó mới có những câu nọ. Những
câu đó quả là những dấu chỉ Tâm đạo xưa,
nhưng hành pháp đích thực ra sao thì nay
không biết đích xác. Chắc rằng nó nằm một
phần trong lễ nhạc, nhưng nhạc đã thất
truyền nên người sau không biết căn cứ vào
đâu mà theo. Chính vì thế mà trong công
cuộc trở về nguồn tôi cứ cố tìm cái hành
pháp nọ.
4.
Chiếc ghế hư linh đã có tọa vị
Năm
đầu tiên vào dạy triết Đông ở Đại học Sài
Gòn (1961) tôi đã khai mạc bằng khoá giảng
tựa đề là “Tự Chiêu Minh Đức” nhằm phân
tích và quảng diễn bốn bước định, tĩnh,
an, lự trong đầu sách Đại học:
Định
là định thần tập trung tâm trí mà đích
điểm là đi tới chỗ định hướng tinh thần.
Tĩnh
là yên lặng hiểu cả về xác thân, cảm xúc
cần được luyện lọc để trở nên thanh thoát,
cũng như về mọi nhu yếu trong con người
phải được nuôi dưỡng (vạn vật dục yên)
thì không còn sự rấy loạn.
An là
trạng thái an nhiên tự tại trong hành động
lẫn tư tưởng: bao nhiêu sinh lực đều được
đầu tư trọn vẹn vào việc làm.
Lự là
suy tư sáng suốt. Thường người ta hay tư
lự, đây phải là an lự. Tư lự là suy tư
trên sự kiện, trên vật thể nhỏ bé hoặc ích
lợi tư riêng vụn vặt. An lự suy tư về
những cái bao quát, về ích chung, hoặc
những gì thanh thoát: nó dẫn đến an hành,
trong khi tư lự dẫn đến lợi hành hay cả
cưỡng hành. Vì vậy chữ lự ở đây hiểu được
là hành. An lự cũng là An hành.
Như
vậy đường tu có hai chặng một vào một ra.
Vào là hai bước định tĩnh để đi tới Chí
Trung. Còn ra là hai bước An và Lự: để tới
Chí Hòa: tức ra với đời, với sự việc. Đó
gọi là xử thế. Chính do hai bước sau này
làm cho Việt Nho khác màu sắc với Thích,
Lão. Ở Thích có thể nói là chỉ có đi vào:
Định tĩnh rồi tịch diệt: niết bàn, thái
hư, nên gọi được là phi thế. Ở Lão cũng
chỉ có đi vào: Định tĩnh rồi ngồi lại nhà
mà thủ tĩnh đốc: tuy không chối sự hiện
hữu của trần tục, nhưng không chịu ra nữa,
không chịu vào đời nên gọi là xuất thế.
Còn Nho thì nhập cuộc nên gọi là xử thế:
xử thế đi với An lự, nó đến sau định tĩnh,
nếu thiếu hai bước định tĩnh mà vào đời
liền thì gọi là nhập thế, như thế tục sống
vật lộn với đời: trôi theo đời Nho gọi là
“lưu tục”.
Đó là
đại khái nội dung khóa trình Tự Chiêu Minh
Đức. Khóa trình này chỉ quay ronéo chứ
không được in thành sách nhưng tôi phải
nhắc lại ở đây vì nó giúp cho sự nhận diện
An vi cũng như Vô vi. Sở dĩ không ra sách
vì tôi cảm thấy phần công phu chưa tìm ra
khiến tôi phải mượn yoga hơi nhiều, mà
yoga nói chung thì tuy tôi chấp nhận và đã
tập luyện, nhưng chưa muốn giới thiệu vì
với hành pháp phiền toái cần có vị linh
hướng, mà phần triết lý lại thiên lệch,
nên mặc dầu sinh viên yêu cầu tôi vẫn
không cho xuất bản, là có ý còn tìm thêm
cho ra pháp hành nào ứng hợp hơn nữa. Thế
là tôi tiếp tục nghiên cứu hết Ấn đến Phật
rồi Nho và cuối cùng đến Việt mong tìm ra
một phép tu đáp ứng được những đòi hỏi của
triết Việt, mà tôi cho là đã có lúc đạt
được “Chí Trung Hòa”.
Nhờ
cuộc nghiên cứu kéo dài nọ mà tôi gặt hái
được nhiều ơn ích về mặt văn học cũng như
thâm tín thêm về con đường Định, Tĩnh, An,
Lự đích là con đường hợp tình lý của dân
tộc cũng là nhân tộc như được ghi lại cách
tiềm ẩn trong Trống Đồng. Và tuy có thất
truyền, có suy thoái nhưng vì tất cả các
môn phái khác còn suy thoái nhiều hơn nên
trong nước mù anh chột làm vua. Tin tưởng
như thế nên tôi đã khai quật nhiên liệu
kho tàng văn hóa dân tộc và Nho nguyên
thuỷ để thiết lập ra nền triết An vi hầu
hướng dẫn đời sống tư riêng của con người
cũng như cho cả nước. Tuy nhiên vẫn còn
cảm thấy thiếu một hành pháp cặn kẽ, nên
tôi vẫn cưu mang trong lòng ý định tìm một
pháp hành nào đó mà tôi cảm thấy nó bàng
bạc trong biết bao huyền thoại, truyện
tích, biểu hiệu cũng như những lễ cổ xưa:
nào Tế Thiên, Nguyệt Lệnh, nào Tứ Quý, nhà
Minh Đường với Đạo nội, Đạo tiên v.v...
Tôi tính sẽ trình bày trong bộ Ngũ kinh
Việt mang tên là Kinh Hùng, Kinh Ước, Kinh
Ngữ, Kinh Nghĩ, Kinh Lạc. Mấy tên kinh kia
mới chỉ như cái ghế rỗng để đón tôn sư,
nhưng tôn sư chưa xuất hiện nên chưa dám
viết thêm, thì may thay đến giữa năm 1982
lúc tôi vừa viết xong quyển cuối cùng của
triết lý An vi thì bị một cơn bệnh rất
nặng kéo dài hai tháng và do đó tôi gặp
được Pháp lý Vô vi nên tôi cho là Trời đã
xếp đặt như thế để chước cho tôi việc hiện
thực bộ Ngũ kinh Việt. Nay đã gặp Pháp lý
Vô vi mà tôi thấy nó giống với Việt Đạo từ
nguyên lý đến cơ cấu nên tôi chấp nhận và
nghĩ là nó có thể thay cho dự định kia một
cách viên mãn ở chỗ gia tăng thực chất cho
tất cả các biểu tượng của An vi.
II. Tổng
quát về thiền
1.
Mục đích và phương pháp thiền
Mục
đích thiền là phát triển hết cả khả thể
tàng ẩn trong con người để trở nên Người
toàn diện, nói khác là đi đến chỗ hội nhập
được cả trong lẫn ngoài vào một thực thể
thống nhất, không để phần nào mâu thuẫn
nhau hay cả ngổn ngang tản mác. Nói thông
thường thì thiền là để đạt được một tư
cách mạnh, để hiện thực chân tính đến độ
tròn đầy viên mãn mà Nho gọi là thành hay
thánh cũng vậy “thành giả thánh dã”.
Thánh nhân chính là người đã hiện thực
được đầy đủ nhân tính. Mà nhân tính đích
thực thì cao cả vô cùng, cho nên Nho nói
thêm “chí thành như thần” tức dù
cao cả như thần linh cũng là một khả thể
đã tàng ẩn sẵn trong người, hễ biết phát
triển vun bồi thì sẽ đạt.
Muốn
đạt phải dùng phương pháp nào? Thưa là làm
việc cách tận tình, tận ý, tận chí. Nho
gọi là đốc hành. Muốn có đốc hành thì
người ta dùng phương pháp mà Đạo học gọi
là “thủ nhất” = giữ riết cái một
tức là trong một lúc chỉ làm một việc, dồn
cả tâm hồn: ý, tình, chí, cả thể xác nữa
vào có một việc và chỉ một việc đó thôi.
Đang ăn thì chỉ nghĩ đến ăn, đang hát thì
chỉ nghĩ đến hát, đang học thì chỉ nghĩ
đến học. Việc làm được như vậy sẽ đưa đến
hậu quả lớn bất ngờ mà Nho gọi là như
Thần. Ta có thể lấy thí dụ nước sông, suối
đang chảy lan tràn hỗn độn, có khi còn gây
lụt lội mất mùa... nhưng nếu người ta đắp
đập để quy tụ nước cho chảy vào một điểm
thì sức mạnh sẽ tăng cả ngàn triệu lần đẩy
được máy sinh điện gây nên sáng láng. Cũng
vậy, nếu biết quy tụ được trọn ý tình chí
vào một việc, và chỉ một việc trong một
lúc, thì việc đó sẽ đẩy rất sâu vào nội
tâm đến bờ đại dương của những khả thể
tiềm ẩn trong con người: đạt đến đợt thánh
đợt thần. Thiền là cốt để quy tụ tình ý
chí vào một việc. Hiện nay quá ít người có
nhân cách cao, ít hiền nhân quân tử, ít
thánh ít thần là chỉ vì thiếu quy tụ tức
khi làm một việc thì tâm trí để vào hai ba
việc, thành thử sinh lực bị tản mát, không
được đến chỗ cùng cực để đạt chỗ như thần.
Muốn chữa trị bệnh tản mát, hay cả mâu
thuẫn thì đó là thiền.
Như
vậy điều quan trọng để nên người lớn không
phải là đối tượng lớn của việc, tức làm
việc to hay việc nhỏ không quan trọng, mà
quan trọng nằm chính trong cách làm phải
có lớn, có làm được cách cùng kỳ cực
chăng. Tâm trí có dồn trọn vào đó chăng,
nếu được thì sẽ đạt cao cả. Như vậy khởi
đầu thiền chỉ là việc thường thường nhưng
kết quả sẽ là làm người đến cùng cực. Nói
mở rộng là sẽ hội nhập được cả nội lẫn
ngoại, hay cả thiên cả địa cũng thế. Tâm
linh sẽ là Thượng Đế. Thiền sẽ trở nên như
một tôn giáo cao siêu khi hiểu tôn giáo là
nối con người với Thượng Đế. Tất cả bấy
nhiêu điều cao siêu lạ lùng cũng chỉ là
hậu quả của những việc làm rất thông
thường, nhưng là tới chỗ cùng cực. Nho
nói: “quân tử vô sở bất dụng kỳ cực”:
“người quân tử không làm gì mà chẳng làm
đến chỗ cùng cực” là do lẽ đó.
2.
Những thành tố của thiền
Để
đạt mục tiêu trên (đốc hành) khoa tâm lý
đã mở đầu bằng phân tích việc làm ra nhiều
thành tố đơn giản, thí dụ chỉ nhìn một vật
nào bất kỳ, nhưng nhìn chăm chú, không
chia trí sang chuyện khác, nhìn càng lâu
càng tốt. Khi đã quen thì mới tập trung
tâm trí vào việc khác. Thở cũng vậy, chỉ
nghĩ đến thở, đến từng hơi thở, nghĩ đến
từng nhịp đi của hơi thở. Đạo Lão gọi là “đạo
tức” mục đích chính là nhằm huấn
luyện tâm trí bắt phải theo vào một đường
lối để có thể đi cùng cực xa.
Thứ
đến để được hiệu nghiệm hơn khoa tâm lý
lại phân tích cả tâm hồn con người thành
từng thành tố nhỏ, đó là ý, tình, chí. Các
đạo pháp đã căn cứ vào ba yếu tố này mà
thiết lập ra vô số thiền nhưng quy tụ lại
được ba loại theo ba thành tố trên:
Ý:
con đường lý trí đi đến cùng đi đến chỗ
vượt qua lý trí thì gọi là tuệ. Trí tuệ
cũng nói là huệ, bên Ấn gọi con đường này
là minh triết thiền (Jaina
yoga).
Tình:
phát triển tình cho ngày thêm thâm sâu và
mở rộng, để chấp nhận và yêu thương tất cả
mọi người như Từ bên Phật, Bác ái bên
Thiên Chúa giáo. Đường này bên Ấn gọi là
sùng mộ thiền (bhakti yoga) nhằm tôn kính
mến yêu Thượng đế hay một vị thánh nhân
nào đó.
Chí:
Nho nói rộng là “chỉ ư chí thiện”
gồm hai ý niệm một là tìm ra cái tốt nhất
để theo, hai là theo cái tốt đó cách bền
bỉ. Cả hai điều đó đều khó cả. Cái khó thứ
nhất có thể quy về ý: đó là việc của lý
trí. Cái khó thứ hai là của riêng chí. Nho
gọi là Dũng. Làm một việc gì lâu bền phải
có đức Dũng. Công việc nào cũng vậy mới
bắt đầu thì tương đối dễ vì được nâng đỡ
bởi sự hăng say của bước đầu cũng như của
sự mới lạ. Nhưng sau khi nhiệt tình ban
đầu hạ xuống rồi mà còn kiên trì được thì
phải có đức Dũng cách riêng. Bên Ấn gọi là
Karma Yoga = tác động thiền hay hành
thiền.
Ngoài
ba mối trên bên Ấn còn thêm một thành tố
nữa là thân xác gọi là Hatha Yoga. Thí dụ
việc thở, việc thể dục, các lối võ như võ
Bảo Truyền, Nhu đạo, Vô vi nam, cả đến các
việc thường ngày: kết hoa, đánh kiếm, làm
bếp, quét nhà, gánh nước đều có thể cho
vào yoga. Tóm lại bất cứ làm việc nào mà
để hết tâm trí vào thì đều có thể gọi là
thiền.
Đó là
đại khái 4 thành tố thiền. Nó là 4 mối
thường tình mà con người gặp ngay trong
đời sống theo lương tri thường nghiệm cũng
đã có bấy nhiêu, nhưng khi hiện thực theo
thiền thì làm cho các thành tố đó vượt lên
một độ trên:
Trí thêm Huệ
Tình thêm Tính
Chí thêm Tâm
Nho
quy tất cả vào chữ Tâm mà gọi tâm trí, tâm
tình, tâm chí. Đó là nét song trùng cơ
bản. Muốn thiền thành công hay bất cứ việc
gì muốn thành tựu thấu đáo phải hiện thực
được nét song trùng cơ bản nọ, nghĩa là
trí không được duy trí, duy ý, mà phải mở
sang huệ thành ra trí huệ. Tình cũng không
được duy tình nhỏ bé mà phải mở cho tình
sang Tâm cao cả, để yêu thương khắp loài
người, yêu mến cả Thượng Đế vô hình vô
tượng. Chí cũng phải mở lên đến chỗ cao cả
thành Tâm chí. Nối hai đàng nối vào nhau
đó là mục tiêu của thiền, của tôn giáo,
của triết lý.
Tất
cả các đạo pháp đều là theo một hay nhiều
thành tố vừa kể trên. Phần nhiều là gồm cả
4, khác nhau chỗ nhấn. Nhấn trên ý thì là
minh triết thiền đó là đường triết lý Nho
giáo gọi là Minh thành. Nhấn trên tình thì
là thiền sùng mộ, là tôn giáo Nho gọi là
Thành minh... Do đó có thiền phi tôn giáo
như Zen. Có thiền rất mực tôn giáo. Nhưng
tôn giáo trong thiền chỉ còn là cái tinh
tuý của tôn giáo là mến yêu để kết hợp với
Thượng Đế, chứ không còn nghi lễ bái cúng,
là cốt để dễ thi hành khẩu hiệu “trong một
lúc chỉ làm một việc” như trường hợp Pháp
lý Vô vi sẽ được nói đến sau.
3.
Những trở ngại gặp trên đường thiền.
Ta đã
bàn về mục đích gần của thiền là trong một
lúc chỉ làm một việc. Lý do dễ hiểu là một
lúc mà làm nhiều việc hay tuy một việc
nhưng phiền toái thì khó đi tới cùng cực,
không “chỉ ư chí thiện” được. Vậy
mà việc đó khó vô cùng: bạn chỉ việc ngồi
rất im rồi ngắm một vật nào thí dụ cái bút
và chỉ ngắm có cái bút, không nghĩ gì
khác, làm như vậy trong 5 phút. Bạn sẽ
ngạc nhiên thấy tâm trí mình thiếu kỷ luật
lạ thường. Nhà Phật nói “tâm viên ý mã”
là muốn ví tâm với vượn đu hết cành nọ đến
cành kia, và ý như ngựa bất kham thích đi
hết mọi nẻo, trừ nẻo đường chủ muốn nó
tới. Xem thế nếu không trải qua một cuộc
vun bồi luyện tập có phương pháp và bền
chí thì không thể nào trong một lúc chỉ
làm, chỉ nghĩ có một việc được. Thiền lập
ra cốt để rèn luyện tâm trí để có thể làm
được việc nọ. Nho gọi thiền là định tức
định tâm trí vào một việc mà thôi.
Định được thí dụ 1 giờ gọi là tiểu
định.
Định được thí dụ 2 giờ gọi là
trung định.
Định được thí dụ 3 giờ liền thì
gọi là đại định.
Đến được trung định có thể gọi
là thành (full humanhood)
Còn đại định là chí thành thì
như thần.
Biết
được cấu trúc của thiền như trên rồi thì
ta có căn cứ để biết đâu là những trở
ngại. Trở ngại là những gì ngãng trở ta
không thể định được lâu, không thể trong
một lúc chỉ làm có một việc.
Trở
ngại đầu tiên là xác thân, phải sao cho
được khoan khoái để khỏi rấy loạn hay
thiếu sức đi với tâm chí. Các lối hãm mình
phạt xác xưa thì nay đều bỏ hầu hết, ngầm
hiểu đó là một ngãng trở chung. Phật chỉ
đắc đạo sau khi uống li sữa do một nữ sinh
dâng.
Ngoài
ra chính lúc thiền phải ngồi kiểu nào để
thân xác không phản đối (bằng tê mỏi thí
dụ) lúc no quá hay đói quá cũng trở ngại ở
chỗ làm chia trí ra. Vì thế chỉ dùng có
chừng. Tương đối tốt hơn cả là các lối
ngồi kiết già, bán già, xếp bằng... hay
kiểu nào hợp cho mình có thể ngồi
hằng giờ mà xác thân không bị khó chịu. Ta
thấy ngay cũng phải rèn luyện cả năm chưa
chắc đạt. Có điều đây là trở ngại tương
đối dễ vượt qua, vì dễ thấy. Bây giờ ta sẽ
đi vào các trở ngại tế vi hơn:
Trước
hết là các hiện tượng như khi nhắm mắt mà
xem thấy hình nọ, vật kia, các màu sắc rực
rỡ rồi cả xuất vía, xuất hồn... những hiện
tượng này có thể xảy đến cho một số người
ít hay nhiều do tác động đốc hành mà ra. Y
như khi ta tập võ có phương pháp hẳn hòi
thì ít lâu sau sẽ có nhiều biến chuyển
trong mình: khoẻ mạnh, mau lẹ, đi đứng cảm
thấy người nhẹ nhõm khác trước. Cũng vậy
đốc hành là việc luyện tập cả ý, tình,
chí, nên có thể xảy ra những hiện tượng
khác thường (paranormal). Tuy nhiên đâu là
tà đâu là chánh, đâu là chủ quan ảo tưởng,
đâu là đích thực... tất cả rất khó phân
biệt. Nếu phải để trí vào đấy thì sẽ là
một trở ngại cho việc tu tiến. Vậy khi
thấy những hiện tượng nọ ta có thể mừng
coi như là hậu quả của sự tập luyện đã
tinh tiến khá của ta. Và chỉ đến đó thôi
không nên quan trọng hóa lấy đó làm tiêu
chuẩn định mức tiến cao thấp, hoặc để tâm
cầu ước, hay mừng rỡ quá đà đến làm chia
trí ra không còn theo đuổi được việc tinh
tiến tu luyện nữa. Trong Phật có truyện kể
một vị tì kheo đi đến sông không đò, ông
liền cởi áo ra làm thuyền sang sông. Về
đến nhà Phật hỏi đêm khuya không đò sao về
được? Thưa con giải áo ra làm thuyền. Thế
là bị đuổi ra khỏi chùa. Đó là ẩn dụ ngăn
ngừa không cho hành giả chú tâm vào những
điềm lạ. Không Tử tránh điều đó mà ông gọi
là “sách ẩn hành quái” kẻo bán đồ
nhi phế (nửa đường bỏ dở) là vậy. Lịch sử
có ghi những “ông thánh” làm phép lạ mà
tâm trí nhỏ nhen, cố chấp... là vì đó (xem
chẳng hạn Practical Mysticism by Evelyn
Underhill, London J.M.Dent 1914).
Trở
lực thứ hai là đừng nói về đạo ở tầm xa
trình độ mình như về thần tiên. Trước hết
nói về những truyện đó chỉ là chuyện chơi
bằng những tượng ý (ý lấy từ sự vật hữu
hình) gọi là duy thức chứ không có nội
duy. Đã vậy lại có nguy hiểm là coi thường
trần thế đến độ cho là không có thực, mà
chính ra là nó thực hơn hết, ít ra cũng
thực bằng thân xác và tâm hồn ta nghĩa là
đủ thực để trì kéo hành giả không tiến lên
được. Nói theo “chữ Thời” là phải để hết
tâm trí vào hiện tại (ở đây và bây giờ) có
vậy mới đốc hành tức trong một lúc chỉ làm
một việc. Nếu lúc này lại nhớ đến những
truyện đã qua hay nghĩ tới cái chưa tới
(tương lai) thì làm sao mà đốc hành. Đốc
hành đòi 100% cả ý, tình, chí nhưng đây đã
để cho dĩ vãng chiếm 20-30%, tương lai
cũng bằng ấy nữa. Thành ra đầu tư vào hiện
tại được có 50% là nhiều. Làm sao đốc
hành, không đốc hành làm sao đi tới thành
tựu là chí thành để mà như thần. Vì thế
các bậc thầy đã nói đi nhắc lại “đạo
bất khả ngôn”. Thế nhưng người ta
lại nói nhiều về đạo thì hầu hết là duy
thức tức là chơi tượng ý, chứ không có thể
nghiệm. Vì một khi thể nghiệm sẽ thấy cõi
thần tiên vượt xa ngôn ngữ hạn hẹp trần
gian: nói sao được. Vậy cần nói về những
điều ăn làm sinh sống thường nhật (hiện
tại) như đạo làm người. Điều quan trọng là
tư thế thường tình thường nghiệm phải bước
lên được một bước. Bước lên chỗ kế cận
liền với chỗ mình đang đứng. Thí dụ ta
đang đứng ở đợt 1 thì bước sau chỉ là 2
không thể là 4, 5 được. Bước lên 4, 5 là
duy thức tức bỏ hiện tại mà chạy rong
trong mơ mộng.
Ngãng
trở thứ ba là chống lý trí: chủ trương này
phát xuất hoặc do người duy trí đã một
thời quá thượng tôn lý trí sau thấy lý trí
bất lực liền chối tuột giá trị của lý trí;
hoặc do những người khởi tu tự tình cảm
tức Thành minh hay sùng mộ và thấy hăng
say ơn ích hơn đi đường lý trí (Minh
thành) tránh được những suy luận rắc rối
thì quay ra lên án lý trí cùng với triết
học đi kèm. Đây là trở ngại lớn. Vì lý trí
là thành tố đầu tiên phải tu luyện vun
bồi: nếu không đặt lên đầu như Nho: trí,
nhân, dũng, thì cũng không bỏ được như
trong “bi trí dũng” của nhà Phật. Không
thể bỏ được vì nó giữ vai trò chỉ hướng,
nó ví đựơc như người cầm lái. Thiếu nó
thuyền sẽ mất hướng, hoặc đi trật, mở
đường cho sự chấp nhận các dị đoan. Lý trí
là cơ năng rất quý trong con người, nó chỉ
đáng trách khi dùng nguyên có nó gọi là
duy trí, nhưng nếu mở vào huệ thì nó là
nền gọi là trí tuệ.
Phải
kể vào việc chống lý trí khi bỏ bê việc
học hỏi, so đo, phê bình, thiếu những điều
đó thì làm sao chọn được con đường hợp cho
trình độ mình, làm sao biết những gì là
trở ngại mà tránh, để khỏi rơi vào bánh xe
trước, động một tí phải đi hỏi thầy, đó là
ỷ lại. Hỏi thầy hay tin vào thế giá chỉ là
bước đầu, đến sau phải tự lập dần, tự mình
quyết định phải trái lấy, không được kéo
dài đường lối ỷ lại. Kéo dài ỷ lại là
không tiến đúng cỡ, không tu tiến về trí.
Đã
vậy ngày nay chống lý trí trở nên nguy
hiểm vì tâm trạng con người đi tới chỗ
thượng tôn lý trí, càng ngày càng gia tăng
số người chỉ chấp thuận đạo pháp nào đó vì
những lý lẽ, những chứng minh hợp lý hợp
tình có thể cứu xét, chứ không như xưa
chấp nhận vì tin lời người lập pháp hay
truyền pháp. Đi theo lối tin đang dần dần
trở nên lỗi thời, đó là điều đáng mừng tỏ
ra con người có tiến bộ về đàng trí, nên
cố giữ lối tin nhiều khi nguy hiểm, vì đến
một lúc nào tự mình nhận thấy hay có người
chỉ tỏ cho thấy khiếm khuyết của nhà lập
pháp liền bỏ pháp. Như đã xảy ra cho Âu
châu thế kỷ 18-19.
Thế
mà khoa học ngày nay đã chứng minh rõ là
các vị sáng lập ra triết lý, tôn giáo, đạo
pháp tuy là những bậc thượng trí siêu việt
nhất loài người, nhưng hầu hết các ngài đã
không thoát khỏi bầu khí bái vật hoặc ma
thuật của đời mình, cũng như chưa bỏ được
óc lẫn lộn biểu tượng với sự thực, thần
thoại với khoa học. Cho nên còn theo đạo
pháp hay tôn giáo vì tin thì thế nào đến
một sức tiến hóa nào đó sẽ bỏ pháp. Đấy là
trở ngại. Nhưng nếu đi theo lối lý trí:
chấp nhận đạo pháp vì thấy nó hợp tình hợp
lý, thí dụ khi thấy tôn giáo mình đương
theo hoặc thần tượng mình đang tôn thờ
biểu lộ khuyết điểm sẽ không bị xúc động
mạnh đến căm thù người, phê bình, hoặc bỏ
đạo khi thấy đạo mình theo có điều không
đúng, vì đã biết rằng khuyết điểm thuộc
bản tính loài người, bản tính của tôn
giáo. Vì tất cả còn đang trên đường tiến
hóa, thiếu khuyết điểm làm sao có tiến
hóa. Tu tiến là con đường mê và phá mê bất
tận.
Đàng
khác con người nay được hưởng nhờ một gia
tài khổng lồ của các thế hệ trước để lại
gồm vô số điều quý giá cũng như sai lầm.
Lên sổ những điều ấy là làm khoa học, là
vận dụng lý trí và thu thập và đối chiếu
các kinh nghiệm. Đó cũng là một lối tu: tu
lý trí, nó sẽ giúp ta biết đích xác hơn
những bước phải tránh, những điều phải cố
theo. Chính nhờ thế mà trong khắp thế giới
hiện nay đang nẩy lên rất nhiều cố gắng tu
luyện để đi lên tinh thần. Nhà sử học trứ
danh Toynbee đã dám nói nhân loại đang
tiến đến một “tân giáo hội hoàn vũ” (New
Universal Church). Đây là ơn ích của khoa
học, của lý trí khi đi đúng đường, tức trí
mở lên được huệ thành ra trí huệ.
4.
Định đề và luật tác
Định
đề là nền tảng của một nền triết. Triết
thành bởi những suy luận ra từ định đề,
nghĩa là mọi câu nói, mọi kết luận đều
được suy diễn ra từ một số câu nói không
thể suy diễn. Đó gọi là định đề vì giả
thiết là cao hơn hết ở chỗ nó không bị suy
diễn mà xuất hiện ra như nền tảng mà mọi
người theo nền triết lý đó phải tiên thiên
chấp nhận, nên tiếng Âu Tây gọi định đề là
tiền đề (prémise) hiểu là câu nói được đặt
trước mọi sự suy luận để làm nền móng.
Triết nào cũng có một số định đề thí dụ
Nho là âm dương, tam tài, ngũ hành; là
nhân, trí, dũng. Đó là định đề rồi quảng
diễn thành ba nguyên lý trong câu: “Đại
học chi đạo tại:
- Minh
minh đức (trí)
- Tại
thân dân (nhân)
- Tại
chỉ ư chí thiện (dũng)
Định
đề của Phật là bi, trí, dũng. Cũng có ba
thành tố như Nho nhưng thứ tự khác nghĩa
là chỗ nhân khác nhau. Phật nhấn trên
tình. Nho nhấn trên ý.
Ngoài
định đề và nguyên lý thì còn một vài luật
tắc cần chú ý. Có nhiều nhưng trong bài
tổng quát này xin chỉ nói đến một luật đó
là “tìm phi thường trong những cái thường
thường”. Luật này được suy diễn ra từ
lương tri hay công cảm (bon sens, common
sense). Cái gì hợp tình hợp lý là đúng.
Nói khác cái gì ở đâu và bao giờ cũng được
coi là quan trọng thì nên lấy làm tiêu
chuẩn. Thí dụ tình nước, tình nhà, tình
người ở đâu và bao giờ cũng được quý
trọng. Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cũng vậy.
Lâu lâu một vài triết gia hay chủ trương
văn học muốn chối bỏ nhưng chỉ xuất hiện
như một sự lập dị. Tôn giáo hay Thượng Đế
cũng vậy, không đâu không tin vào Thượng
Đế nên Thượng Đế cũng thuộc lương tri công
cảm, muốn chối đi chỉ là lập dị, và cũng
chỉ trong từ ngữ, chứ trong thực tế sẽ
phải trở lại cách nọ hoặc cách kia như thí
dụ tam vô cộng sản: nói là vô gia đình, vô
tổ quốc, vô tôn giáo, mà thực tế vẫn phải
trở lại cả ba dưới hình thức ngụy tạo nào
đó.
Tóm
lại những gì đã có mãi mãi, trường tồn với
con người thì ta gọi là lương tri là công
cảm. Và ta coi đó như thuộc bản tính con
người, hoặc nói theo ngôn từ tôn giáo thì
đó là ngọn đuốc Trời ban cho con người để
sống tạm, trong khi chờ đợi phần đóng góp
của con người là tôn giáo, triết lý, minh
triết. Do vậy vừa phải theo lương tri,
phải lấy đó làm tiêu chuẩn, vừa phải cố
vượt lương tri đến chỗ cao hơn. Nói khác
phải tìm phi thường (cái cao) trong những
cái thường thường (bao giờ cũng có). Việt
Nho đã ngầm đặt phi thường vào chữ Tâm và
cho đi với những cái thường thường là trí,
tình, chí, thành ra những kiểu nói song
trùng là:
Tâm Trí
Tâm Tình
Tâm Chí
Trí,
tình, chí là thường thường vẫn phải theo
sát nút. Nhưng theo để mà vượt lên Tâm là
cái phi thường. Nói là phi thường vì nói
Tâm cho gần gũi chứ tới cùng thì sẽ thấy
phi thường: Tâm sẽ là Đại ngã Tâm linh, là
thần linh, là vũ trụ chi Tâm, là vạn vật (vạn
vật giai bị ư kỷ) là vũ trụ...
Nhưng nói Tâm để theo sát luật “đốc hành”
chuyên chú vào hiện tại.
Đó
là vài điều cần biết cả về trở ngại, cả về
định đề và luật tắc là cốt để gạt bỏ những
cái gì gây ra việc nửa đường bỏ cuộc (bán
đồ nhi phế) là điều trái với thiền.
Nho đã đưa ra công thức định, tĩnh, an,
lự. Phải sao cho tâm định được, không nhảy
từ cái nọ sang cái kia như con vượn, mà
chỉ quy vào có một. Định cũng bao hàm Định
Trí là một bước hàm tàng triết lý đến độ
Minh Triết. Có được như vậy, cả Định Tâm
lẫn Định Trí, thì mới hy vọng đạt được
Tĩnh cả Tâm hồn lẫn Tĩnh lý Trí để được An
Hành, mà đi mãi mãi. Vì bản tính con người
là tiến hóa chẳng cùng. Thế là với chương
hai lý trí ta đã đuợc trang bị bằng một ít
ý niệm căn bản về thiền dùng được như dụng
cụ để đi vào khảo sát Vô Vi.
III. Tiến
trình xuất hiện của vô vi
Tiến
trình nọ có thể chia ba giai đoạn:
Giai
đoạn I là giai đoạn ông Tư tức ông Đỗ
Thuần Hậu (1887-1967). Việc ông Tư đi tìm
đạo cũng có nhiều đợt. Đợt đầu học về Địa
Tiên biết được nhiều phép màu, nhưng không
được thỏa mãn nên ông quay ra đi tìm nơi
các chùa chiền, nhưng thấy hầu hết không
thoát khỏi vòng mê tín dị đoan, nên ông bỏ
sang đợt ba là quay hẳn vào thiền và học
với thầy danh tiếng lúc đó là Cao Minh
Thiền sư. Cuối cùng cũng không vừa ý, ông
trở về nghiên cứu riêng. Nhờ lòng mộ đạo
chí thành nên ơn trên đã chuyển cho ông
ngộ được Pháp lý Vô vi (quãng 1945) gồm có
phép soi hồn pháp luân thường chuyển và
định thần.
Đó
phải gọi là hồng ân của Cha Trời ban vì
ông không học được ở thầy nào như phép soi
hồn không gặp thấy ở đâu cả trong các phép
tu trước, nó ở tại chú ý tới bộ đầu, cố ý
mở bộ đầu trước hết, đó là điểm đặc biệt
vì các môn thiền khác thường chú ý tới bộ
ba ở huyệt đan điền, nơi có hỏa hầu
(kundalini). Chính sự chú ý bộ đầu này
giải nghĩa tính cách hiệu nghiệm mau lẹ về
điển: chỉ tu chừng dăm ba tháng đã thấy có
điển trên đầu (lâu mau tuỳ người).
Pháp
luân là phép thở cũng đặc biệt ở chỗ hít
vào phồng bụng thở ra hóp bụng lại, lại
được chỉ rành rẽ bằng câu: “đầy rốn, đầy
ngực, tung lên bộ đầu” thế là hút vào đầy
bụng đoạn thở ra liền cái cốt tránh không
để hơi xuống miền hỏa hầu. Nhiều phép thở
khác thì hít vào thường bóp bụng, nín hơi
rất lâu, thở ra lại phồng bụng. Sự cải tổ
trên khiến cho phép Vô vi bỏ đi được tính
cách nguy hiểm, vì thế mà được cho phổ
truyền. Các pháp xưa đã bí truyền phần lớn
là vì điểm này, hoặc nhiều người thiền mà
không có thở, bỏ uổng một pháp rất ơn ích
cho việc tu chứng.
Giai
đoạn hai của ông Tám (tức ông Lương Sĩ
Hằng sinh năm 1923). Đây gọi được là giai
đoạn truyền pháp cũng có vài cải đổi như
về soi hồn, ông Tư cho mở mắt và nhìn vào
đầu mũi. Ông Tám nghiêm thấy làm như vậy
hồn không xuất lên được cao, nên ông kêu
nhắm mắt và nhìn vào điểm tam tinh (trung
tâm chân mày) quen gọi là huệ nhãn.
Thứ
đến về pháp luân ông nhấn mạnh hít vào đầy
liền thở ra ngay, không được nín hơi để
tránh cho hơi khỏi thấu xuống đợt đan điền
có thể gây nguy hiểm như tẩu hỏa nhập ma.
Yoga thường nín hơi gấp bốn lần thở. Thí
dụ hít 2 giây, nín 8 giây, thở 4 giây.
Cũng
về phép thở ông nhận được một lối cách
mạng khiến cho Pháp lý Vô vi thêm được một
nét đặc sắc nữa đó là phép thở nằm gọi là
Pháp luân chiếu minh, do bên trên chuyển
cho ông để giúp ông dễ thi hành phép thở
ra bóp bụng, hít vào phình bụng mà ông cố
làm mãi không được. Điều khó khăn này dễ
hiểu cho những ai đã tập thở lối xưa là
thở phình bụng hít lại hóp bụng, nay có
phép chiếu minh thì nhờ sự nằm nên có thể
chú ý trọn vẹn vào việc thở hóp hít phình,
một khi quen rồi thì làm pháp luân thường
chuyển không còn khó. Ngoài ra ông cũng
đưa vào một ít cải đổi khác như thiền vào
nửa đêm, ngồi quay về hướng Nam, chú ý đến
đỉnh đầu nhiều hơn.
Giai
đoạn III là ngôn văn lý đạo hay là những
lời phân lý để giải nghĩa rõ về Pháp lý Vô
vi như được trình bày trong quyển Chân Lý
(1) gồm những lời giải đáp được ơn linh
hứng. Sách cũng đưa ra ít điều cải thiện
cho hành pháp như việc niệm danh Cha thay
cho những lời niệm Phật rườm rà lúc trước.
Đó là việc rất ơn ích nó làm cho việc tu
luyện được thêm dung dị và nhất là làm cho
việc phổ truyền đạo pháp trở nên dễ dàng
như chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này sau. Ở
đây chỉ nói đến mục tiêu chính của quyển
Kinh là phân lý cho ta dễ hiểu tại sao ta
phải tu: lời giảng phân minh mà phong phú,
lý lẽ xoắn xuýt nhau mà quán triệt, đề tài
đặc biệt mà mới lạ... Tất cả làm tỏa ra
một vẻ siêu việt dị thường nhằm hợp nhất
loài người vào một mối yêu thương. Quyển
Kinh đã cặn kẽ phân lý cho biết con người
bởi đâu mà ra, sẽ trở lại nguồn cội nhờ có
tu luyện, tất cả đem lại cho Vô Vi một địa
vị quốc tế có khả năng được phổ biến khắp
nơi.
(1)
Viết tắt thay cho quyển “Thượng Đế Giảng
Chơn Lý” cũng gọi là Bửu Kinh.
Ở hai
giai đoạn trước Vô Vi mới xuất hiện như
một pháp hành chưa hẳn có “văn ngôn lý
đạo”, nhưng tới giai đoạn ba thì Vô vi đã
nghiễm nhiên xuất hiện như một nền pháp lý
ưu việt. Cần phải đọc chính Kinh để thưởng
thức sự sâu xa phong phú và nhất là cảm
giác sung sướng khi đọc một cuốn kinh thâm
sâu mà lại bằng tiếng Việt trôi chảy không
hề mắc mứu vào những danh từ tiếng Ấn đã
xa lạ lại còn làm cho kỳ dị lố bịch khi
phiên âm qua tiếng Trung Hoa. Ở đây lời
lời đều trực chỉ nói ra là hiểu liền, khỏi
cần phải giải nghĩa vòng vo. Đây không thể
đi vào chi tiết chỉ xin trích ra hai câu
định nghĩa về hai thực thể then chốt là
Thượng Đế và con người. Với hai định nghĩa
này ta đang bước sâu vào phần lý thuyết
rồi đó.
Quan
niệm điện tử về Thượng Đế
Theo
Bửu Kinh thì Thượng Đế được định nghĩa là
“khối điển quang vô cực vô biên, sinh
động mãnh liệt. Các cung các cõi từ
trược tới thanh, từ nặng tới nhẹ, từ tối
tới sáng đều là những tần số điển khác
nhau của Người đó thôi. Các cung các cõi
này được duy trì nuôi nấng, sinh hoạt
nhờ nguồn điển lực cung cấp từ trung tâm
vũ trụ, có thể nói ở đó phát xuất sinh
lực của càn khôn vậy” (câu 59). Đó
là một định nghĩa về Thượng Đế vừa tuyệt
vời vừa đầy ứ tác động tính bao la man mác
như ẵm ôm, ấp ủ lấy mọi người, mọi vật. Vì
vật nào người nào cũng được bao quanh bởi
bầu không khí mênh mông. Nay thì ta biết
đó không là không khí suông mà trong đó
hay chính đó là chất Thượng Đế, nói thông
thường là điển (1), khiến bất cứ lúc nào
nếu muốn thâu thêm chất Thượng Đế vào
trong mình để kết hợp hòa đồng với Người
là ta có thể làm liền và còn được khuyến
khích làm nhiều lần nữa. Muốn vậy chỉ việc
hút thật nhiều và sâu là ta đã vượt vòng
ngoài không khí để đi vào vòng trong thanh
điển.
(1)
Tiếng Bắc kêu là điện, vì Kinh xuất hiện ở
miền Nam nên thiết nghĩ cần phải tôn trọng
lối phát âm trong Nam. Cũng nói thế về vài
chữ khác như trược (trọc), huỳnh đình
(hoàng đình)...
Ta
biết tất cả những biểu lộ của sự sống là
do điển và được tạo thành bởi những rung
động vô hình, như ánh sáng, sự nóng, thanh
âm, sự động... đều là những tác động của
điển hết. Cho nên định nghĩa Thượng Đế là
khối điển quang hoặc linh quang cũng thế
đều là đưa ra một vũ trụ quan động cùng
cực, bao la man mác hơn điển trần gian vô
cùng và nó sẽ tránh cho ta cái nguy cơ hạn
chế Thượng Đế, khi đóng khung Người vào
một hình thái nhất định nào thí dụ một con
người, một ông vua đều là hạn cục. Thượng
Đế không hạn hẹp như vậy mà là khối linh
quang vô cùng tận, một khối điển mãnh liệt
vô biên với ngàn triệu tần số cao thấp,
bao trùm vạn vật, vật nào cũng được vây
bọc bởi khối điển đó tuỳ tần số thanh trọc
khác nhau.
Đó là
một định nghĩa đem lại cho Pháp lý Vô vi
tính cách khoa học thượng thặng tức là
khoa vật lý vi thể, một ngành vật lý cao
nhất hiện nay. Nhờ có khoa này ta mới cảm
nhận được phần nào giá trị của câu định
nghĩa Thượng Đế là khối điển quang vô cực
vô biên. Vì khoa vật lý vi thể đã phân
tích vật chất đến đợt cuối cùng có thể,
thì nhận ra sự vật chỉ là hai luồng điện
tử giằng co nhau. Ban đầu khám phá tới
nguyên tử tưởng là đã hết, nhưng sau lại
nhận ra nguyên tử còn là thực thể kép, bên
dưới còn có vi thể (particles) cực nhỏ gọi
là proton, electron, nucleons... cực kỳ
nhỏ bé. Nhất là electron còn nhỏ hơn
nucleon nhẹ nhất 1840 lần, đến nỗi không
thể thấy được dù với kính hiển vi điện tử.
Chỉ bằng một hạt cát đã chứa đến tỉ, tỉ,
tỉ, tỉ vi thể (viết ra sẽ là số 1 với 36
zéro theo sau) nhưng sức mạnh thì ghê hồn,
chỉ một gram đã chứa đến trên mười triệu
kilowatt. Chỉ cần bằng một hòn sỏi đã đủ
sức phá một thành lớn nhất... Với những
khám phá điên đầu này, chúng ta phải từ bỏ
hẳn quan niệm sự vật là bản thể đặc, im
lìm, trái lại tất cả vạn vật đều là điển,
và đang quay tít với độ nhanh vượt trí
tưởng tượng của loài người. Lúc ấy ta mới
hiểu câu “thiên địa vạn vật nhất thể”
là gì. Thể đó là điển, nó gồm muôn vàn tần
số với những làn sóng dài vắn thanh trược
khác nhau, có vô cùng đợt dài vắn thì cũng
có vô cùng đợt thanh trược nối tiếp nhau
làm nên con đường tiến hóa của con người,
của vạn vật, của chính Thượng Đế.
Đó là
định nghĩa tiến bộ hơn hết, có sức thống
nhất luôn cả vạn vật và đầy hoạt lực tính.
Đem ghép nó vào với phép soi hồn, pháp
luân, thiền định là ta có một máy sinh
điển rất tinh vi. Muốn có điển lúc nào là
ta “xay” ra liền. Cho nên Vô vi đáng gọi
là tu điển hoặc “điển quang pháp giới” là
vậy. Dưới con mắt triết học thì tiến xa
nhất là Việt Nho với câu định nghĩa Thượng
Đế là “lý thái cực, thái cực sinh
lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng...”
Các nhà khoa học đã nhận ra rằng đó là một
“sáng thế ký” (cosmogony) vắn gọn nhất mà
cũng là cái nhìn khoa học hơn hết. Vì vậy
với câu định nghĩa trên Việt Nho vượt trên
các triết học khác với sáng thế ký dài
thòng mà lại không theo sát được khoa học.
Nhưng đến nay với câu định nghĩa của quyển
Chơn Lý thì Việt Nho phải nhường ghế nhất.
Vì tuy đã nói lên được cơ cấu của điển tức
Thái cực sinh lưỡng nghi thì lưỡng nghi kể
được như dây âm dây dương, nhưng đời trước
chưa biết điển nên không nói lên được chữ
Điển, phải dùng tiếng trừu tượng kiểu
triết là khí Thái cực. Tuy thua chữ điển
nhưng về cơ cấu thì giá trị vẫn còn y
nguyên và được Bửu Kinh dùng hoài. Hãy đọc
câu sau: “Chơn Lý (tức cũng là Thượng
Đế) là cái khối tròn vô biên, đời đời
xoay quanh Nó, luôn luôn tự nhìn Nó, tự
sống với Nó, tự học hỏi Nó, tự lo tìm
thấy biết Nó đời đời, để đời đời không
bao giờ Nó tự đánh mất Nó” (Chơn Lý
cuối câu 61). Hãy tạm ghi điều này là có
tới 5 chữ tự trong câu trên để sau này sẽ
phân tích. Ở đây hãy nói đến Thái Cực Viên
Đồ mà câu văn gợi lên quá rõ để gửi vào đó
thêm ít chơn lý căn bản.
Hình cơ cấu thái cực viên
đồ
Đó là
một khối tròn chia ra bảy vòng ta hãy tạm
gọi là cung, mỗi cung có nhiều ngăn, ta
hãy tạm gọi là cõi, thí dụ cung ngoài cùng
là 64 cõi, cung 6 có 32 cõi... càng cao
trong các cung càng nhỏ lại, càng ít cõi
hơn. Vào đến cung 2 chỉ còn 2 cõi, rồi đến
cung cuối cùng không còn cõi nào nữa, ta
gọi đó là “hư linh”, “vô
thanh vô xú”. Hình ảnh này có thể
giúp cho ta tạm có vài ý niệm về cuộc tiến
hóa của con người, về thời gian và các cõi
trên, cũng như về sự biến động mau lẹ khác
nhau ở các cung các cõi. Thí dụ đem hình
thái cực trên kia quay một vòng thì cung
ngoài cũng phải trải qua một quãng đường
dài thí dụ một thước, đang khi cung gần
trong cùng chỉ trải qua có một vài phân,
cuối cùng chẳng còn phân nào cả. Điều đó
cho ta một ý niệm về thời gian trên cõi
Bồng Lai tiên cảnh rất vắn, chỉ một vài
ngày thì ở cõi trần phải mất cả hàng trăm
hàng ngàn năm... Nhưng trong quãng vài
phân mà cũng quay một vòng thì sự di động
trở nên cực kỳ mau lẹ, mau lẹ đến biến mất
nên trở thành cực thanh cực tịnh. Do đó ta
biết càng quay về nội tâm thì càng xa động
loạn, càng vượt thời gian không gian càng
trở nên thanh tịnh, càng gần Chúa tể Càn
Khôn hơn. Nhờ vậy ta hiểu được lý do tại
sao lại có phép định thần cũng gọi là tâm
pháp hay thiền.
Quan
niệm điện tử về con người
Bây
giờ xem đến con người là điểm then chốt
thứ hai sau Thượng Đế. Vậy con người được
Bửu Kinh định nghĩa là “tiểu linh
quang chiết ra từ Đại khối linh quang để
sai xuống thế đặng đóng góp vào cuộc
tiến hóa của vũ trụ”. Nói vậy có
nghĩa là con người cùng một bản tính như
Thượng Đế, cũng làm toàn bằng điển như nơi
khác ta đọc được: “Cho nên khi hiểu ra,
con người sẽ thấy rằng: Nó thực sự chỉ là
điển quang được cấu tạo bằng điển âm và
điển dương”. Bản chất điển là năng động,
cho nên năng động chính là bản chất con
người, y như di động là bản chất của gió
thế nào thì năng động tính là bản chất của
người như vậy, ta không thể bít gió trong
hộp kín vì làm thế là cắt mất đi di động
tính của gió tức cũng là làm hết gió luôn.
Con người cũng vậy không có năng động tính
là hết người. Không những động mà còn động
hơn nhiều y như điển khí di động mãnh liệt
hơn gió vậy.
Từ
quan niệm con người là điển với bản tính
là tác năng ta rút ra quan niệm tự tác
hành và tự tiến hóa. Bởi vì cái gì có bản
tính là động thì nó phải tự động. Vì động
là bản tính của nó, nó không cần nhờ cái
chi bên ngoài máy động cả, nếu do cái gì
ngoài máy động, hay chỉ khơi động thì động
không còn là bản tính nó nữa. Chính vì thế
mà triết lý An vi luôn nhấn mạnh đến tính
cách tự động, tự tác. Sách Trung Dung nói
“tự thành, tự đạo” (câu 25) là
theo ý đó. Bốn chữ này lấy từ câu 25: “thành
giả tự thành dã, nhi đạo tự đạo dã”.
Xin ghi nhớ sự quan trọng của chữ tự này
để hiểu tại sao nói tu là tiến mạnh nhất,
cao nhất vì tu là tác động giàu tự động
tính nhất (Vô vi quen nói tự tu tự
tiến là chính đó). Tu là một việc
“người hơn hết” vì cả tâm hôn lẫn thể xác
đều chú trọng vào đấy mới trông làm được,
là bởi nó cực khó, có thể nói là khó vô
cùng. Trước hết nó đi ngược lại thói
thường. Thói thường khi tác động con người
vừa có đối tượng vừa có động lực bên ngoài
thúc đẩy như là danh hoặc lợi thuộc cõi
hồng trần (lợi hành) hoặc do sự ép buộc
(cưỡng hành). Đàng này tu là khước từ đối
tượng, thay vào đó bằng cái Không. May
thay ta biết được cái Không đó đã là phần
huyền linh của Thượng Đế, nên là quan niệm
đầy an ủi.
Đó là
đại để khuôn mặt Vô vi. Khởi đầu xuất hiện
như một ngành thiền sùng mộ bậc trung, tức
lấy Phật làm cùng đích. Đến khi Kim Thân
Cha xuất hiện thì nâng lên bậc nhất vì lấy
Thượng Đế làm cùng, đồng thời đưa Minh
Triết vào đặt cân bằng với sùng mộ chuyển
Vô vi từ Thành Minh đi vào hướng Minh
Thành, làm cho Vô vi đầy khả năng bước lên
hàng các lãnh đạo về đạo pháp ở thời mới.
Tôi nói đầy khả năng là do sự sắp xếp và
hướng dẫn của Cha Trời, nhưng còn phải
thực hiện là phần con người. Do lẽ đó mà
Cha Trời giao cho Tân Dân Nho Giáo lo việc
này là vì Việt Nho đã đi theo con đường tự
Minh tới Thành tức từ triết lý tới tu
chứng (thành) đang khi hầu hết các đạo
pháp đều đi theo lối tự Thành tới Minh tức
khởi đầu tu chứng liền, biết đến sau và
chỉ là phụ thuộc.(1)
(1)
Mấy chữ này khởi sáng từ câu 21 trong
Trung Dung: “tự thành minh vị chi
tính, tự minh thành vị chi giáo, thành
tắc minh hĩ, minh tắc thành hĩ”. Tự
Thành tới Minh là tính (tức tính tự nhiên,
hiểu là lương tri chứ lý trí con người
chưa có phần tham dự vào). Tự Minh tới
Thành là giáo tức là giáo hóa, học hành,
(tức lý trí con người đã có tham dự vào
rồi), tôi gọi đó là triết, triết mà tới
minh thì là Minh Triết tức có sự tham dự
của lý trí và thành tựu. Còn duy lý thì lý
trí có tham dự mà không thành tựu.
Xét
về đường tu tiến thì như nhau, tức cũng
thành tựu trong việc tu tiến, nhưng xét về
đàng triết lý thì trong lối tự thành tới
minh thì định ít khi tới tĩnh, nên thường
phải có sự đặt lại nền tảng như đã xảy đến
cho hầu hết các nền văn hóa đạo pháp. Đấy
là do sự khiếm khuyết ở thời xưa, mà đến
nay cần vượt qua. Xưa kia triết học hầu
hết là duy lý, duy vật, không mấy giúp vào
việc tu, vì thế bị các đạo pháp coi thường
và nhiều khi thải bỏ. Nhưng làm thế là
lầm: không được thải bỏ triết, mà phải
giúp cho nó tiến đến Minh Triết, tức là
đưa trí đến huệ thành ra trí huệ. Nếu đạt
được trí huệ, nói khác khi triết học đạt
Minh Triết thì sẽ giúp vào việc tu trì rất
mực, tức giúp cho việc định với tĩnh, để
rồi có thể an lự. Việt Nho đã đi lối đó,
tuy không trọn hảo, nhưng xét về cơ cấu
thì đã đặt, vì thế nó đã sửa sai được các
đạo pháp tiếp cận với nó, như sẽ được
chứng minh bằng lịch sử trong các chương
sau.
IV. Cơ
cấu với vô vi
Về cơ cấu thì những nhà
sáng lập cơ cấu nay như Levi Strauss đều
công nhận là có một cách nền tảng nơi Nho,
ta nói là nơi Việt Nho có cơ cấu bao hàm
đối đáp như trong ngoài, trên dưới, chẵn
lẻ v.v... nên cơ cấu cùng cực là tất nhiên
thành bởi số 2, tôi gọi là nét song trùng,
nói theo nghĩa bóng là “sông Tương nước
chảy hai dòng” tức phải có 2 hạn từ mới
làm ra được mối Tương quan. Hai hạn từ đó
là bất cứ cái gì đều nương nhau mà có (mà
tương) như trời đất, sáng tối, đực cái,
chẵn lẻ, chiêu mục (tức tay chiêu tay mặt)
hoặc trên dưới, trong ngoài. Nền tảng chỉ
có vậy nhưng biến hóa vô cùng như trong
Kinh Dịch (toán điện tử cũng phát xuất từ
nền móng nọ: một có một không, một trên
một dưới, một chiêu một mục...).
Văn
hóa nào xuất hiện cũng có cơ cấu cả, mà
biểu lộ rõ nhất là một ít con số uyên
nguyên. Nghiên cứu về các con số gốc đó có
thể giúp ta biết được đại khái khuôn mặt
của một nền văn hóa nhất định. Ở đây chỉ
xin nói tới kết quả của hơn ba mươi năm
tìm tòi tôi mới nhận ra số nền tảng của
Việt Nho là “vài ba, tham lưỡng”
hay 2-3 hoặc 3-2 nó sẽ là chìa khóa mở tất
cả những kho tàng ẩn dấu như sẽ xem sau.
Số 2
(âm dương) tức muôn vật trong trời đất đều
thành bởi đối đáp: sáng phải do tối, cao
phải do thấp, đất phải do trời, v.v... Tóm
lại, phải có hai mới đích là có, vì có
biểu diễn bằng động, chữ nếu chỉ có một là
tĩnh chỉ. Triết học duy lý theo nguyên lý
đồng nhất A=A: một là một, không có vụ
lưỡng tính nhất. Vì thế mà cơ cấu ở nền
triết đó không xuất hiện rõ nét như Việt
Nho, nơi này đã có số 2 lẫm liệt với các
huyền thoại có lưỡng nhất tính. Nhất mà
lưỡng nên cũng gọi là lưỡng hợp (dual
unit): hai mà một. Đây là bộ số nền tảng
hơn cả và mở đầu để có các số 3, 5 sau.
Số 3
(tam tài): Thiên, Địa, Nhân tức là đạt
nhân chủ đó: vì nếu trời là chủ, đất là
chủ thì người cũng là chủ, nhờ là chủ tức
phải mạnh mới hội nhập hai thái cực lại
được để thành ba, ba Tài. Vậy nên hễ khử
trừ số 3 (tiers exclu: triệt tam) thì
không đạt nhân chủ mà bị vật làm chủ vì
không đủ sức nối hai thái cực lại. Nên rơi
vào duy nào đó: duy tâm hay duy vật cũng
một chiều cả như nhau: đều là ‘chosisme’.
Hai
bộ số 2-3 hợp lại thành số 5 của ngũ hành
có giá trị vượt bực. Bí quyết nọ nằm trong
hành thứ 5 (hành Thổ) đặc biệt đến nỗi
đứng riêng một tầng, bốn hành kia ở tầng
dưới (hiện tượng) hoặc tầng có, còn hành
năm ở tầng trên, hay là tầng không, tức
vượt không gian và thời gian. Vì có bốn
phương, bốn mùa cho bốn hành kia, trật lại
hành ngũ không có gì: nhưng Không ở đây
lại chính là “diệu hữu” nên nói là “hư
linh”. Triết nào thiếu ngũ hành thì duy
vật từ trong bản chất, thiếu sự “sang qua
sông lớn” tức là đi sang bờ Vô vi đó. Vậy
mà hầu hết văn hóa loài người thiếu số 5.
Nói đúng hơn thì số 5 bất kỳ nào thì đâu
cũng có, nó cung cấp do lương tri thường
nghiệm mà không do Minh Triết. Vì do Minh
Triết thì nó phải là số 5 nền tảng cho rất
nhiều định nghĩa và lược đồ như Hà Đồ Lạc
Thư, Trống Đồng v.v... nếu xét ngặt như
vậy thì chỉ thấy trong Việt Nho.
Ba bộ
số 2, 3, 5 này đã xuất hiện từ buổi sơ
nguyên của nền văn hóa Việt rồi sau Nho
công thức hóa thành Kinh Dịch. Kinh Dịch
ban đầu không có chữ mà chỉ có hai vạch
đứt (- -), liền (–) chồng lên nhau thành
quẻ ba vạch, rồi chồng nữa thành quái 6
vạch, sáu vạch nhưng chỉ là dùng có năm
vạch. Nói vắn tắt Kinh Dịch ban sơ chỉ là
bộ số vài ba (2-3) tham lưỡng (3-2). Về
sau người ta mới thêm chữ vào gọi là “hệ
từ” nghĩa là “chữ treo” tức là cái gì tuỳ
phụ treo vào bộ cơ cấu 2, 3, 5 đã có
trước.
Từ
đấy theo với trào lưu suy thoái chung của
mọi thuyết lý thì Kinh Dịch cũng sa đọa
thành sách bói toán, bỏ mất phần đạo lý
sâu xa nằm trong số 2, 3, 5 và nằm tê liệt
trong các số 8 của 64 quẻ suốt hơn hai
ngàn năm, cho đến khi Việt Nho phát giác
ra bộ cơ cấu nọ và thấy nó chính là dấu
chỉ sự tiến bước tột độ của nền văn hóa
Việt Nho. Bởi vì cơ cấu là sự đúc kết đến
cùng cực tất cả tinh hoa của một nền văn
hóa rồi chỉ thị tinh hoa đó bằng vài ba
con số (gọi là huyền số) với dăm ba tượng
hình, v.v... cốt để dẫn đến cửa ngõ hành
động, vì muốn hành động nên nói nhiều mà
chỉ cần ít dấu hiệu để trỏ phương hướng,
vì thế có những quyển Kinh chỉ dùng có vài
ba huyền số với dăm ba tượng hình như
những quyển Kinh vô tự của Việt Nho (Kinh
Dịch, Sách Ước, Gậy Thần...)
1.
Sự quan trọng của vị trí trong cơ cấu
Bây
giờ xét đến sự sắp đặt vị trí. Vì sự sắp
đặt chính là linh hồn của cơ cấu, nó ở tại
xếp cái gì trên cái gì dưới, cái nào trước
cái nào sau, bên tả bên hữu, v.v... Đây là
luật tối quan trọng của Chữ Thời, nói kiểu
thông thường là : một việc mà muốn tốt thì
phải làm ở lúc tốt và nơi tốt “The right
thing in the right place and the right
time” nếu không thì tốt cũng ra xấu, đúng
cũng ra sai. Xem thế sự sắp đặt quan trọng
chừng nào: biết bao cái mới mẻ và công
hiệu hơn xưa mà nếu chỉ xét về các bộ
phận, các thành phần cấu tạo thì có thể
thấy đã có truớc, nhưng chỉ vì khác ở lối
xếp đặt mà hóa hay hoặc dở. Cũng cùng là
số 5 nhưng kép bởi 4-1 thì khác hẳn kép
bởi 2-3.
Nho
đã nhấn mạnh điều đó trong câu châm ngôn
bao quát (Trung Dung, câu 1): “Thiên
địa vị yên, vạn vật dục yên”, “Trời
đất có đặt đúng vị thì vạn vật mới được
nuôi dưỡng”. Theo đó phải xếp trời trên
đất dưới thì dân mới được ăn tức được
hưởng bình sản. Còn nếu xếp đất ở trên
trời ở dưới, tất dân sẽ đói khổ. Dùng chữ
ăn với đói (vạn vật dục yên) là
có ý cụ thể hóa câu nói mới nghe tưởng như
xa xôi không quan trọng mà kỳ thực thiết
thân vô cùng, không những đến thân mà cả
tâm. Hễ duy một bên là bên kia không được
“dục yên”. Duy vật thì hồn không
được dục yên...
Sở dĩ
có sự tối quan trọng trong việc xếp đặt
này là vì như đã nói trên: những bộ số
trong cơ cấu không chỉ là con số đơn thuần
mà là những bộ số phản chiếu những bước
tiến quyết liệt đầu tiên của con người
trên nấc thang tiến hóa. Bước quan trọng
đó liên hệ tới tương quan giữa Thần minh
và Con người y như đạo thở và thiền định
giúp con người độc lập trong hành pháp thế
nào thì với lý trí cơ cấu, đồ biểu và số
độ cũng chơi vai trò như vậy. Tức những
hình thái tròn vuông và số độ cũng chơi
vai trò như vậy. Tức những hình thái tròn
vuông hoặc số chẵn (số đất), số lẻ (số
trời) là những thử thách đầu tiên của lý
trí tìm đường cắt nghĩa vũ trụ cách khoa
học, không cần đến các thần để chỉ huy
từng việc như trong giai đoạn toàn thần.
Thời
mà con người kể mình như không, chỉ có
thần minh là tất cả, đến độ vật nào cũng
có thần hoặc là chính thần: tự đống đá cây
cỏ, giếng ăn, cửa ngõ, nhà bếp, đến các
con thú vật cái gì cũng có một số thần coi
giữ. Trong thế giới toàn thần đó con người
chỉ còn là một vật yếu hèn phải van xin tứ
phương. Đó là thời bái vật, một tiếng
chung để chỉ nhiều hình thức tin tưởng từ
vật tổ qua phong nhiêu (thờ ‘phallus’
dương vật...) cho tới ma thuật đủ thứ.
Hệ
quả của thời toàn thần bái vật này là Thần
chủ, mọi quyền bính nằm trong tay thần
minh, con người bị đày đọa cùng cực: nơi
thì cả hàng trăm trẻ con bị giết để làm
đẹp lòng thần, nơi khác giết người lấy máu
nuôi mặt trời. Bên Ấn Độ thì Thần chủ đẻ
ra đẳng cấp (caste) chia người trong xã
hội theo niềm tin vào thần Brahma: tuỳ
sinh ra bởi miệng, tay, bụng, chân mà được
làm tăng sĩ, tư bản hay nhà nông, thợ
thuyền. Còn nếu vô phúc không sinh ra từ
phần nào của Brahma thì là vô loài
(paria), cực khổ hơn nô lệ bên La Hy (cũng
quan niệm thần chủ), không được nhìn vào
mặt người tự do (4 loại trên). Muốn qua
thành phố phải đi vòng ra ngoài thành: nếu
lỡ bị đất trời bắt được nghe trộm kinh
Veda thì phải chịu đổ chì sôi vào tai.
Phạm tội thì phải đền tội bằng tiền của
nộp cho tăng lữ... Chồng chết rồi vợ phải
lên giàn hỏa, để của cải được sung vào quỹ
các tăng. Đó là hình thể thái thậm biểu lộ
sự chuyên chế của thần quyền, là thứ đã
trùm lên khắp nơi với những hình thái khác
nhau. Vì thế mà con người phải chiến đấu
để giũ bỏ những gông cùm nọ.
Hậu
quả của cuộc chiến đấu nọ là tiến sang
giai đoạn hai là duy lý duy ý nên tôi quen
gọi là ý hệ tức hệ thống ý niệm, hoàn toàn
duy vật, chối bỏ thần minh nhiều hay ít
tuỳ mỗi nơi mỗi thời. Bởi vì lý trí con
người dần dần phát triển mới nhận ra rằng
con người cũng có quyền năng nào đó, ít ra
trên thân phận mình, còn các thần thì phần
nhiều lại chẳng theo lý lẽ, luật pháp nào
cả: hầu hết đều có tính bốc đồng và tàn
nhẫn, nhiều khi còn đủ các nết xấu như con
người, rõ nhất là các thần khí tượng như
thần sấm, thần sét, thần bão lụt, làm hại
con người vô kể, cúng tế rất đàng hoàng
rồi mà nhiều thần còn đòi phải có máu
người mới chịu ăn cho.
Ở
Trung Hoa ta thấy những việc như tế Hà Bá
phải dìm chết những cô gái trinh để xuống
làm vợ thần, vậy mà nhiều lần vẫn còn lụt
chết trôi cả hàng tổng... thành ra lòng
tin tưởng vào thần minh dần dần bị lay
động và con người gia tăng việc nghĩ đến
tự cứu gỡ mình khỏi sự đàn áp của thần
minh. Thần chủ có thể chỉ bằng vòng tròn
(lấy từ sự xếp đặt các ‘stonehang’ thời cự
thạch) và chỉ sự vô biên như trời bao la
hay số 3 (số pi). Còn thời ý hệ thì chỉ
bằng hình vuông, số 4, ám chỉ sự công
chính theo nghĩa uyên nguyên là sự chí
công theo những luật lệ thường hằng chứ
không bốc đồng tuỳ hứng, và rất chính trực
không thiên vị ai, coi mọi người như nhau
nên chỉ bằng 4 phương. Phương nào cũng
cách trung ương như nhau, như thấy trong
chữ Vạn chữ Vãn.
Trên
đây là nói về hai hình thức thái thậm của
hai giai đoạn toàn thần (bái vật) chỉ bằng
vòng tròn, và duy nhân (ý hệ) chỉ bằng
hình vuông. Trong thực tế ít có toàn tròn
hay vuông, mà thường gặp những hình thái
dung hòa. Vì toàn thần cũng bao hàm một
chân lý căn bản rất cần thiết cho con
người, bởi nếu vô thần rồi cuối cùng cũng
là vô nhân khốn khổ. Và lý trí con người
không thể chấp nhận việc không có thần
linh: trời cao đất rộng bao la phải có một
sức gì toàn năng vô đối làm chủ... Cho nên
hữu thần có cái lý rất chính thực, nếu xảy
ra những điều không ổn như vụ chuyên chế
của thần quyền là do sự quá trớn của quan
niệm về thần mà thôi. Trái lại ý hệ duy
nhân cũng có cái lý của nó là người phải
được tự do tự chủ, nhưng sai lầm chỉ vì
chỗ quá trớn là muốn độc lập ngoài quyền
thần minh.
Đến
đây ta nhận ra sự quan trọng của việc Thái
Hòa, nói vắn tắt theo người là hòa tình
với lý, nói theo vũ trụ quan là hòa đất
với trời, nói theo cơ cấu là hòa tròn với
vuông... Chính sự ước lượng số độ của sự
Hòa trộn này làm nên xương sống của các
nền văn hóa, cũng gọi là chân trời hay môi
sinh văn hóa. Thế là với hai hình tròn
vuông ta nắm được một thứ tiêu điểm khách
quan để đi vào rừng các nền văn hóa đặng
mà phân loại, nhưng không thể đi vào chi
tiết mà chỉ có thể đặt một cái nhìn cai
quát lên văn hóa của mấy khu vực lớn. Theo
đó có thể chia văn hóa loài người làm ba
khu vực là duy tròn, duy vuông và tròn
vuông hòa hợp.
Tròn
là Trời (toàn thần) thì đại biểu có thể là
Ấn Độ với biểu hiệu rắn cắn đuôi: chung
nhi phục thuỷ. Đất (vuông) không có phần
nào vào đó. Các nhà nghiên cứu gọi Ấn Độ
là quê hương tôn giáo, quê hương các thần
minh. Phật chối bỏ thần Brahma và đề cao
con người nên bị đánh bật ra khỏi Ấn Độ.
Vuông
thì đại biểu có thể là Âu Mỹ mà văn minh
đã kế tiếp văn hóa Lưỡng Hà
(Sumer-Babylon) nơi phát minh ra nền tảng
khoa học được đại biểu bằng thiên văn với
những định số thường hằng. Chính nơi đây
thấy có những kiến trúc thờ tự gọi là
ziggurat hoàn toàn vuông. Lối vuông đó
truyền sang Ai Cập, rồi La Hy... Tuy đôi
khi có tròn pha vào như thang xoáy ốc hay
‘coupole’, nhưng hoặc vì ích dụng hay vì
mỹ thuật chứ không đứng vào làm tiêu biểu
trời tròn như thấy rõ bên Việt Nho.
Việt
Nho nơi mà tròn vuông hòa hợp như thấy
trong bánh dầy tròn bánh chưng vuông, về
sau Nho công thức hóa thành câu “thiên
viên địa phương” và kiến trúc đền
tế thiên bằng nền vuông, nhà mái tròn, rồi
đưa vào cùng khắp như xe vua đi phải là
thùng vuông mui tròn, nho sĩ phải đi giầy
vuông đội mũ tròn... Tóm lại tròn vuông đi
với nhau một cách có chủ đích, chứ không
phải là việc cầu âu nghĩa là trúng trật
phó cho may rủi hay chỉ là do óc thẩm mỹ
định đoạt, mà do một sự suy tư căn bổn để
hòa hợp trời với đất, nói bằng hình ảnh là
tròn với vuông, đó gọi là Thái Hòa.
Thái
Hòa là khi hội nhập được cả cái hay của
hai thời là thần minh (hình tròn) lẫn lý
trí con người hay khoa học căn cứ trên
luật thường hằng (hình vuông) để làm nên
hình tròn mà vuông, vuông mà vẫn tròn. Nói
cụ thể là vuông khoa học mà vẫn tròn tôn
giáo hay thần minh, và đó là nền tảng nhân
chủ: con người vẫn giữ được tự do mặc dầu
nhận thần minh. Biểu thị điều đó bằng hình
tròn vuông gọi là cơ cấu. Hiểu theo cơ cấu
mới thấy câu “thiên viên địa phương”
ghi một thành tựu hi hữu trong văn hóa.
Nhưng người sau mất ý thức nên căn cứ vào
lối hiểu nghĩa đen: trời là tròn, đất là
vuông mà chế nhạo.
Cũng
như người ta chế nhạo ngũ hành sắp nói
tới, vì Nho suy vi nên người sau chỉ còn
biết đến ngũ hành kiểu ma thuật, hoặc dùng
để xếp loại sự vật chứ không biết đến ngũ
hành như cơ cấu. Vì vậy ở đây tôi thấy cần
trình bày lại ngũ hành về phương diện cơ
cấu.
2.
Cơ cấu ngũ hành
Ngũ
hành cũng nói một truyện như câu “thiên
viên địa phương” nhưng bằng cách khác: một
đàng bằng hình tròn vuông còn đây bằng số
chẵn số lẻ, số sinh số thành v.v... nó vừa
kiện chứng cho tượng hình, vừa đào sâu
thêm triết lý Thái Hòa. Vì thế ngũ hành là
một thành tựu đẹp nhất trong phạm vi triết
học Đông Tây kim cổ không đâu có đến độ
nọ, và có thể nói nghiên cứu văn hóa Việt
Nho mà chưa nắm được then ngũ hành là chưa
tới nơi...
Hai
câu này mới nghe qua tưởng như tự đề cao
cách lố bịch, vì trong lịch sử văn minh
nhân loại ở đâu mà chẳng có ngũ hành. Đó
là cảm tưởng đầu tiên, nhưng khi xét kỹ
mới thấy hầu hết chỉ có “tứ tố” (four
elements) là nỗi nhất, ngoài ra cũng có
ngũ tố nhiều khi cả lục tố, thất tố. Thí
dụ thuyết Sankhya mà Phật tiếp nhận thì nó
giống của Empedoche bên Hy Lạp, tức sau
nước, lửa, khí, đất thì có thêm tố thứ 5
là ‘ether’ bao trùm cả tứ tố, nhưng xét
cho kỹ sẽ thấy nó cùng bản chất với 4 tố
kia, nên số 5 vận chỉ là số 5 mà không là
bộ số 5 kép bởi 2-3 như ở Việt Nho. Vì thế
số 5 không thắng được số 4 và người ta
tiếp tục dùng tứ tố. Đó là một bế tắc
trong việc hòa tròn với vuông mới nói
trên, ở đây huyền số lại kiện chứng điều
đo tức tứ tố là một thứ duy (isme): duy
vật hay duy tâm, duy nào cũng là một chiều
cả. Trái lại bên Việt Nho không là tứ tố
mà là ngũ hành. Nói hành là nói đến tính
cách biến hóa của ba bộ số 2, 3, 5.
Số 2.
Có 2 mới có động, vì động là đi từ 1 đến
2. Sự di động này làm nên nét hàm hồ nền
tảng: có mà không, không mà có. Thiếu nó
là văn hóa trở nên bất động như văn hóa
nào căn cứ trên số 1 tức nguyên lý đồng
nhất A=A. Việt Nho căn cứ trên số 2 mà
Kinh Dịch công thức hóa thành câu “âm
dương tương thôi nhi sinh biến hóa”.
Luật biến hóa là luật thường hằng, bất di
bất dịch. Thế là với số 2, ngũ hành đã đáp
ứng được nhu cầu căn bản về luật thường
hằng nhưng thường hằng về biến hóa. Vì
tính chất biến hóa này Việt không nói hai
mà nói vài, Nho không nói nhị mà lại nói
lưỡng thành ra thuật ngữ “vài ba tham
lưỡng”. Kinh Dịch nói “tham
thiên lưỡng địa nhi ỷ số” 3 trời 2
đất, đó là những số cần phải dựa vào (số
căn bản).
Số 3.
Sau số 2 thì tới số 3, là số nhân chủ.
Sách Trung Dung gọi là tam tài: Thiên,
Địa, Nhân đặt người ngang cùng trời đất.
Đó là điều táo bạo nên học giả J.Legge phê
bình sách Trung Dung cho là điên rồ. Đó là
ông căn cứ trên nguyên lý triệt tam (tiers
exclus = middle excluded). Còn Việt đề cao
số 3 rất mực đến nỗi phương ngôn gọi là
Đạo Ba:
Con
ơi cố giữ Đạo Ba,
Sau
dù có chết cũng là thơm danh.
Danh
đây phải hiểu là danh con người Nhân Chủ:
tức làm chủ cái tiểu vũ trụ của mình để
rồi hòa với Đại vũ trụ. Muốn vậy phải có
cái Tâm bao trùm vũ trụ mà Kinh Dịch gọi
là “vũ trụ chi tâm”. Nhờ đó mà
tránh được nạn vong thân thường xảy đến
cho hầu hết các nền thuyết lý.
Số 5.
Bây giờ đến số 5, tức thành bởi 2 và 3, nó
là số tâm linh vì đặt nổi hành thổ là hành
hư linh như sẽ nói sau. Bà Nữ Oa được
tiếng đã lập ra phép linh phối (hierogamy)
tức là tác nhân cuộc phối hiệp này, nên
chuyện kể bà nấu đá ngũ hành để vá lại
trời, tay cầm thập tự nhai tức thập tự số
4 cánh bằng nhau +. Đó chẳng qua là ngũ
hành được cơ cấu hóa. Ta hãy xem qua cách
xếp đặt trong cơ cấu đó ra sao
Thuỷ 1 Đen
Kim Thổ
Mộc 4
5 3 Trắng
Vàng
Xanh
Hỏa
2 Đỏ
Kim số 4, màu trắng chọi với
Mộc, số 3, màu xanh.
Thủy số 1, màu đen, chọi với
Hỏa, số 2, màu đỏ.
Thổ ở giữa không có đối kháng,
số 5, màu vàng. Vì không đối kháng nên
cũng có tên là “hành vô hành, địa vô
địa” do sự không có phương riêng và
nhất là không có mùa riêng, phải đi mượn
mỗi mùa một tuần làm vốn và gọi là tứ quý.
Tứ quý liên hệ với nhà Minh Đường và
Nguyệt lệnh là thể chế bồi đắp Tâm linh.
Tất cả nói lên sự quan trọng hóa ngũ hành
vì đặt căn bản trên nó.
Nếu
ta vẽ ngũ hành thành thập tự nhai kép thì
được như hình bên... gồm có 5 ô vuông. Rồi
ta lấy 4 ô vuông tách rời ra như hình
sau... thì ô giữa không còn nữa, nên gọi
là “hành vô hành, địa vô địa” quá
đúng. Vì chỗ vô địa đó mà hành Thổ nhiều
lần bị coi là bà con nghèo. Nhưng chính
nhờ chỗ vô địa đó mà hành ngũ lại là nền
tảng cho tâm linh và làm cho triết Việt
Nho trở nên ưu việt, nhờ thiết lập được
nền Thái Hòa: hòa hiện tượng với siêu
linh. Nền Hòa này sẽ là một thứ tiêu chuẩn
chính xác dùng được để đo lường giá trị
các nền triết. Triết đạt thân nhiều hay ít
là tuỳ nó hợp với ba bước trong ngũ hành
đến đâu: số 2 là bước đầu thuộc Vũ trụ
quan động giữa Có với Không, giữa thời
gian và siêu thời gian. Số 3 đưa ra nền
Nhân chủ để cứu gỡ con người khỏi thời
gian, khỏi ách thần quyền. Số 5 tâm linh
là duy trì được siêu linh mà vẫn tôn trọng
thần linh, nhờ đã hội nhập được Linh vào
mình. Tức nhờ ngũ hành triết đã hiện thực
được một cuộc Thái Hòa giữa Trời với Đất.
Lợi cả cho người lẫn thần minh, nên đó là
tiêu chuẩn hoàn bị: nó nêu ra những vấn đề
đích đáng đúng thực là căn bản, đúng thực
là siêu hình. Đặt được ba vấn đề trên và
thưa đúng sẽ là một nền triết mở đầu cho
bốn bước định, tĩnh, an, lự. Nếu đạt ra
ngoài ba điểm trên dù có nói đúng nhiều
cũng chỉ là những cái đúng thường nghiệm,
tức là những sự thực thuộc lý trí lưng
chừng, chứ không phải triết, triết là
triệt, triệt cùng, triệt để: trải qua hết
bôn bước định tĩnh an lự để đi êm trong
tiến hóa (evolution). Nếu không sẽ có lúc
phải đặt lại vấn đề liên tiếp qua những
cuộc cách mạng (revolution) đầy đổ máu.
Muốn tiến hóa phải đặt ra những vấn đề căn
bản thụôc Vũ trụ, Nhân sinh và Tâm linh
như được biểu thị trong ba số tiềm ẩn ở
ngũ hành, tức cả thời gian lẫn siêu thời
gian, cả hiện tượng lẫn siêu linh.
Đã
biết ngũ hành là tiêu chuẩn chính xác như
vậy rồi bây giờ ta cũng dùng để phân loại
các văn hóa như đã làm với hai hình tròn
vuông, và ta sẽ thấy có thể phân ra ba thứ
văn hóa, một là của Tây Bắc với số 4, một
của Ấn Độ với số 1, và một của Đông Nam
với số 2-3. Thế là bằng số ta cũng thấy có
sự chênh lệch nghiêng hẳn về một bên ở hai
văn hóa số 1 và số 4, không giàn hòa được
đất với trời. Kết quả sẽ là duy vật hoặc
duy tâm. Nói khác ngũ hành là giàn hòa
được tự do con người với luật thường hằng
của vũ trụ mà bộ số 4 hay 1 không làm được
như đã không giàn hòa được giữa toàn thân
với toàn nhân: mãi cho tới Kierkergard mà
còn nói “con người phải chọn mình chống
lại Thiên Chúa”. Nếu không quyết liệt (hay
quá trớn) đến như vậy thì cũng chỉ là
cưỡng hòa một thứ ‘modus vivendi’ nghĩa là
tạm nhận có đạo Chúa cho xong truyện chứ
không sống không hiện thực như đạo dạy,
chỉ coi đó là một thể thức tạm dung nhau
khi chưa thiết lập được một chủ thuyết An
hòa có hệ thống và hoàn bị đủ sức cứu con
người khoải nạn đàn áp chuyên chế của thần
quyền, mà đồng thời lại duy trì lòng tôn
sùng kính trọng Thượng Đế như ngũ hành đã
làm được.
Ngũ
hành thành bởi bộ số “vài ba, tham
lưỡng”. Số 2 là số đất đã rút nhỏ
lại cho đỡ duy vật: từ 4 rút xuống 2, còn
gọi là vài để chỉ sự biến hóa hầu gảy ra
ngoài vũ trụ quan cố định (fixisme). Số 3
Nhân chủ là nhờ con người có nhân chủ tính
mới giữ được hai thái cực như trời cao đất
thấp. Nhờ đó người có thể và phải giữ vai
trò chủ nhân ông trong tiểu thiên địa của
mình, thì mới đáng lên bậc là một Tài
trong Tam Tài. Trời là vua, đất là vua,
thì rồi người cũng phải là vua. Phải như
sách Trung Dung (câu 10) nói “trung
lập nhi bất ỷ” là tự lực không được
ỷ lại vào đâu. Số 5 là Tâm linh ở tại việc
đưa linh thiêng xưa kia vốn ở ngoài con
người để đem đặt cả vào lòng mình gọi là “thiên
lý tại nhân tâm”, biến con người
thành thần linh “homo homini deus” người
là thần linh cho người (chống homo homini
lupus: người là chó sói cho người). Đem
chữ Lễ vốn dành riêng cho Thượng Đế áp
dụng vào cả con người nữa: khi sống cũng
như khi chết: sống là hai lễ quan, hôn,
chết là hai lễ tang, tế gọi gọn là lễ gia
tiên. Thành thử chọn Trời cũng là Con
Người, chọn Người cũng là chọn Trời. Bởi
thế bên Việt Nho không có vấn đề hữu thần
với vô thần.
Được
như vậy là nhờ có cả hai quan niệm về
Trời: một là Thượng Đế tức Chúa có ngôi
vị, hai là Thiên tức Chúa vô ngôi vị, “vô
thanh vô xú” dễ dàng thẩm thấu mọi
nơi, mọi vật. Đó là một thành công nền
tảng gọi là Thái Hòa hay An Hòa. Chính
quan niệm này giúp cho Việt Nho tránh được
những cuộc tranh đấu nền tảng giữa đạo với
đời, tôn giáo với khoa học, bà với ông...
thường xảy ra nhất là trong các xã hội quá
thiên về số 4, hình vuông hiện tượng khiến
cho triết học là cơ khí, khô khan trừu
tượng, không ăn nhập vào đời vào đạo, nên
nếu không chống đối ra mặt như vô thần với
hữu thần thì cũng chỉ đi được đến những
giải pháp tạm dung để mà sống cách thực tế
không hòa không được, chứ trên phương diện
lý thuyết triết lý vẫn chưa tìm ra nền
tảng giàn hòa, nói bóng là chưa lồng được
vuông vào tròn, nên vẫn còn đầy mâu thuẫn
gây nên tâm trạng lạc hồn: tâm trí như bị
chẻ đôi (split personality) tin một đàng
làm một nẻo. Cái nguy nhất của văn hóa Tây
Âu là đặt nền tảng luân lý trên tôn giáo,
mà tôn giáo nay lại hầu không được chấp
nhận nữa, nên luận lý cũng lung lay luôn,
thành ra tâm hồn con người không biết
hướng đến bờ bến nào, con người cảm thấy
hụt hẫng, nói bóng là cảm thấy không nhà
không cửa (homeless). Người trong xã hội
Việt Nho có thể tránh được tai họa ấy là
nhờ có ngũ hành. Chẳng may trải qua bao
đời không còn ai nhận ra giá trị của
thuyết đó nữa. May thay nay được Trời ban
cho Pháp lý Vô vi là pháp làm sống lại
thuyết ngũ hành trên chiều hướng sinh
động.
3.
Ngũ hành với Vô vi
Sau
khi đã biết đại lược về cơ cấu rồi bây giờ
ta đi vào Vô vi để xem Vô vi đứng ở chỗ
nào trong cơ cấu. Có hai phương diện cần
xét: một là bầu khí hai là số độ.
Bầu
khí hay môi sinh tinh thần là cái toàn thể
của một pháp, một đạo, muốn biết Vô vi có
hợp ngũ hành chăng thì trước hết phải xét
cái bầu khí của nó, nếu nó hợp với ngũ
hành thì khi xét tới phần số mới chắc ăn,
không sợ làm một việc gán ghép, cưỡng ép.
Tinh thần của ngũ hành là Thái Hòa tức là
hòa được đất với trời, áp dụng vào người
là tình với lý, áp dụng vào tôn giáo là có
nhận Thượng Đế mà con người không mất tự
do tự chủ như đã nói trên. Lý tưởng là hòa
hợp được cả hai. Vậy ta thấy Vô vi đã hiện
thực được lý tưởng nọ.
Trước
hết là Thượng Đế không những được truy
nhận mà tình yêu thương Thượng Đế còn được
biểu lộ cách minh nhiên như chưa từng xảy
ra trong loài người đó là hiện tượng Kim
Thân Cha được điển Thượng Đế chiếu tới và
xuất hiện như biểu tượng đấng Cha – là cha
mà mẹ luôn – tức tràn ngập tình yêu con
người, một thứ tình yêu thấu nhập đến tận
từng tế bào, từng hơi thở, tràn ra vạn vật
cho đến cả loài cỏ cây, kim khí, đến từng
nguyên tử không một hột nhỏ điện tử nào
không được ấp ủ trong mối tình man mác của
Cha Trời.
Đàng
khác đọc quyển Chơn Lý ta sẽ thấy con
người được đưa lên cao cùng tột không thể
cao hơn được nữa, vậy mà vẫn không cần
chối Chúa, lại còn nhận Chúa như Đấng Cha
Lành. Quả có sự hòa hợp cùng tột bao gồm
mọi hòa hợp khác như giữa đạo với đời, tôn
giáo với triết lý v.v... Như vậy là yên
lòng về bầu khí vô vi quả là bầu khí Thái
Hòa, nên có thể yên trí bàn về các số.
Hỏi
Vô vi có theo bộ số 2-3 chăng? Có chứ, coi
tác động soi hồn kia chả thấy 5 ngón tay
giơ lên 3, ngón bịt mắt, tai, tinh, còn 2
ngón thả lỏng là gì. Đó là dấu chỉ tam
bửu: tinh, khí, thần và 2 mạch nhâm đốc.
Nhâm là mạch âm đi từ vùng rốn lên đến môi
dưới, đốc là mạch dương khởi từ thận xuyên
qua xương sống, vòng lên đầu rồi qua trán,
mũi tới môi trên, nay ngậm miệng răng kề
răng là có ý cho hai mạch đó thông giao
với nhau đặng cho hai luồng điện âm dương
nối kết. Đó quả là một cách hiện thực ngũ
hành vào thân tâm vậy. Về số 3 trên là
tinh, khí, thần thì cũng như tam tài
thiên, địa, nhân. Địa là tinh, Nhân là
khí, Thiên là thần, cả ba tụ nơi tam tinh
(trung tâm giữa hai lông mày) Nho gia gọi
đó là “tam gia tương kiến” ba nhà
xem thấy nhau. Đạo giáo căn cứ vào đó lập
ra Đan Đạo là phép luyện thuốc trường
sinh: gọi huyệt tam tinh là “lò lửa của lư
hương” được biểu thị bằng những bình đèn
hoặc cái đỉnh tất cả đều có 3 chân 2 tai.
Những cái đó đều là biểu tượng để đốc ra
dị đoan hướng ra ngoài như vụ Cát Hồng
Tiên Ông đòi xuống tận Việt Nam để lập lò
luyện thuốc kim đan, mà không ngờ rằng lò
ấy ở ngay trong mình. Sự không ngờ đó gọi
là vong thân cầu ngoại. Vô vi đã tránh
được điều đó bằng đặt số 3 vào tinh, khí,
thần đem khí (chí khí) để luyện tinh cho
ra thần. Luyện bằng cách nào? Thưa bằng
cách soi hồn. Thiệt là cụ thể cùng cực
không thể đọa ra dị đoan kiểu luyện thuốc
trường sinh hay kim đan được nữa. Luyện
đây là luyện cho điển trược trở nên điển
thanh gọi là khử trược lưu thanh. Khử
trược là khử trân cấu: phải bịt lỗ tai để
từ khước thính, bịt mắt để từ sắc, bịt
màng tang để hướng dẫn tinh, bắt tất cả
phải đi vào “lư hương” của tam tinh để
phanh luyện cho hết chất hữu vi trần
trược. Vì thế lúc tu không được xem, nghe,
nghĩ đến hữu vi mà phải đi vào cõi thanh
của Vô vi để đạt đợt “vô thanh vô xú”...
Soi
hồn xong thì đến Pháp luân thường chuyển,
nói theo cơ cấu là sau 3 thì đến 2, 2 đây
là hít vào thở ra, hít khí thanh của trời
đất vào rồi thở khí trược của thân xác ra,
như vậy là tiếp tế điển thanh cho hồn. Nhờ
răng kề răng nên hai mạch nhâm đốc nối
liền chuyên chở khí thanh đi khắp nơi để
lọc rửa ngũ tạng cho khỏi trược khí, để
rước thanh điển vào. Khi thở cũng ngầm có
số 3 ở trong: 1 là hít vào đầy rốn, 2 là
đầy ngực, 3 là tung lên bộ đầu. Đó là ngầm
hiện thực ngũ hành. Phương ngôn tu trì
quen nói “ngũ khí triều nguyên, tam
huê tụ đỉnh” là chỉ về đó.
Đến
việc thiền định thì quả là quy vào trung
cung hành Thổ. Hai chữ định thần ghép lại
thành ra thiền, nói thiền hay nói định
cũng như nhau. Khi nhà Phật nói “giới,
định, huệ” thì định ở đây có nghĩa là
thiền, cả hai chữ có nghĩa là tập trung
tâm trí đến cùng cực. Đó là bí quyết thành
tựu của các thiên tài.
Tại
sao vậy? Trong quyển Sứ Điệp tôi đã phân
tích và trình bày ý nghĩa của vòng đồng
tâm trên mặt Trống Đồng mà tôi gọi là luật
“Chí Trung Hòa”. Đó là luật của phẩm, nó ở
tại hướng tiến ngược chiều với lượng: ở
lượng càng to càng tốt, ngược lại ở phẩm,
ở thần thì càng nhỏ càng hay, nhỏ đến cùng
cực không còn thấy chi nữa thì quý vô
cùng, vì đây là đạt chân không mà “chân
không thì sẽ có diệu hữu”. Do lẽ đó sau
khi đã hít vào nhiều điển thanh rồi thì
phải ép điển đó lại như gói giò, ép sao
cho bé không còn bé được nữa mới thôi. Ép
đây là thiền. Vì thế lúc thiền tất nhiên
phải bỏ hết thế sự bên ngoài để quay vào
trong: không cho một ý nghĩ hay cả âm
thanh sắc tướng lọt vào, cố riết cho đến
độ trống trơn không còn động loạn trong
tâm trí thì mới đạt cái “hư tâm” cũng gọi
là “hư linh”. Hư là trống không nhưng lại
linh vô cùng, thành công nhiều hay ít là
tuỳ tập trung tư tưởng được nhiều hay ít.
Đó là điều rất khó. Tâm viên ý mã là vậy.
Ai đã
thử mới biết, chỉ mới định độ 15 phút đã
thấy chia trí đến cả trăm lần, ngã lòng
quá hễ nghĩ đến giờ thiên là run cả người
lên. Nhưng may thay đây là chỗ lợi hại của
Vô vi vì tập không bao lâu bạn đã thấy
chút hiệu quả có thể sờ ngay thấy. Thí dụ
vài tuần đã thấy sức khỏe cải thiện, tu
vài tháng thì thấy tê tê trên đỉnh đầu,
lâu lâu như có ai giật tóc, đó là điển
giật đấy. Lâu lâu lại thấy được mấy hạt
điển sáng lóa, người xưa gọi là hà sa, nó
bay lơ lửng một chút rồi biến mất để lại
xuất hiện nữa. Thế là hành giả được khuyến
khích rất mực, nhiều người còn mong tới
giờ thiền nữa, chân cũng bớt tê đi trông
thấy. Thế là cứ vậy mà tiến. Đó quả là
hiện thực thể chế nhà Minh Đường đặt căn
để trên ngũ hành để phanh luyện chất siêu
linh trong con người vậy.
Tóm
lại Vô vi đã áp dụng ngũ hành cách trọn
vẹn không những về bộ số mà còn cả vị trí
các số: tròn trên vuông dưới, như bánh dầy
đặt trên bánh chưng bằng cách đặc biệt là
chú ý trước hết tới bộ đầu, mở bộ đầu bằng
phép soi hồn. Đây quả là một cuộc cách
mạng khác lạ nhưng vẫn hợp tinh thần Việt
Nho khiến suy tới đó tôi bất giác reo lên
một lời mừng:
“A
ha! Mẹ tôi bắt chạch đàng đầu,
Người
ta tham giàu bắt chạch đàng đuôi.”
Câu
“đầu xuôi đuôi lọt” ở đây mang ý nghĩa
thâm sâu cả về pháp tu luyện nói lên đường
lối đặc biệt của đạo Việt chú ý đến bộ đầu
như sẽ nói sau. Nay được Vô vi hiện thực
cách bất ngờ và thú vị với phép soi hồn,
nhờ vậy mà đuôi lọt là thể hiện được dễ
dàng tinh thần Việt Nho là tự cường tự
lực.
Vô vi
đã hiện thực điều đó đến cao độ biểu lộ
bằng cách không chấp nhận một thứ trung
gian nào: không Phật, không Pháp và nhất
là không Tăng, không cả tổ chức, không
chùa chiền, miếu mạo tức là cất hết mọi
đầu mối có thể đàn áp con người.
Điều
làm tôi quý trọng Vô vi là tinh thần nhân
chủ cao độ nọ, cao đến độ không để ai có
thể lợi dụng, có tổ chức đâu mà lợi dụng.
Thượng Đế xuất hiện trong Vô vi như chữ
Thái Hòa hiện thân: vừa Hữu vi nhưng vẫn
Vô vi tức tuy có cái biết của tiểu ngã mà
vẫn có cái biết của Đại ngã và Vô ngã nên
vẫn có luật tắc thường hằng không ai hay
vật nào thoát khỏi: đó là luật tiến hóa
được đề cao như linh hồn của tất cả. Nói
kiểu khác luật tiến hóa là một sự thiết
yếu không vật nào trên trời dưới đất thoát
khỏi, vậy mà vẫn giàn hòa được với tự do
con người: con người theo Vô vi đã không
bị đàn áp như nói trên (không bị vong thân
vì thần) mà còn được đưa lên bậc nhân chủ
cao nhất không thể cao hơn được nữa vì
được tuyên dương là ánh linh quang của
Thượng Đế. Thật cao cả huyền diệu y như
Việt Nho là tinh thần Thái Hòa trong tam
tài: Thiên Địa Nhân. Đó là hậu quả tận
cùng của Ngũ hành: cộng 2 với 3 thành 5
nghĩa là khi Trời (số 3) hợp với Đất (số
2) thì con người Tâm linh (số 5) sẽ được
tôn trọng. Vô vi đã hiện thực đúng điều
đó.(1)
(1)
Bài thơ sau đúng tinh thần Vô vi rất đáng
được nhiều người thưởng thức, xin ghi lại
đây:
CHÙA VÔ VI
Chùa
tôi, không cột, không kèo.
Không
lợp mái ngói, không treo chuông đồng.
Bên
trong đèn nến cũng không,
Không
hoa, không quả, cũng không ông thầy.
Tụng
kinh “không chữ” mới hay,
Không
tô tượng Phật, không xây bồ đoàn.
Cũng
không có mái tam quan,
Không
treo bảo cái, tràng phan, Phật kỳ.
Không
xây ngọn tháp uy nghi.
Không
chuông, không mõ, vậy thì chùa đâu?
Chùa
ngay trên chính đỉnh đầu,
Chùa
trong tâm thức nhiệm màu đâu xa.
Chùa
trong thường niệm danh Cha (a)
Chùa
trong trí huệ, sáng lòa đi lên.
Noi
gương chư Phật, Thánh, Tiên,
Cô
công tu luyện, quy nguyên cội nguồn.
19/11/1982
Diệu
Nhung
(a) Chính bản văn là “Chùa trong
lục tự Di Đà”, xin được sửa lại như trên.
V. Lốt
chân đạo nội
1.
Những ấn tích lâu đời nhất của Đạo Nội
Đạo
Nội nói ở đây chính là Việt Đạo, cũng có
thể gọi là đạo Tiên Rồng, đạo Trống, đạo
tu Tiên... đây có thể là phần tâm truyền,
hay phần nội, còn phần ngoại hay phổ
truyền là đạo gia tiên, đạo thờ quốc tổ và
lễ tế thiên địa. Cả hai phần nội cũng như
ngoại đều có chung một số điển chương và
huyền tích như Lạc Thư có thể gọi là Thánh
Kinh của Việt Đạo. Tiếp tới là truyền
thuyết hay là bộ nhân thoại trong Kinh
Hùng. Rồi tới điển chương là Trống Đồng
Ngọc Lữ, cũng như huyền số là “vài ba”
biến ra ngũ hành rồi Cửu lạc v.v... Tuy
nhiên vì Đạo đã thất truyền nên những điển
chương vừa nhắc đến không nói lên được cái
nội dung của một đạo pháp, mà chỉ còn là
những ấn tích lu mờ, vì thế bao thế kỷ qua
Việt Nam vẫn bị coi như không có tôn giáo
hay đạo pháp nào, kỳ thực thì ngay tự ngày
khai quốc Việt tộc đã có một đạo pháp siêu
đẳng đến nỗi nói Việt Đạo không còn nghĩa
là đạo của Việt tộc cho bằng là đạo pháp
siêu việt.
Sau
hơn ba mươi năm nghiên cứu văn hóa Việt
chúng tôi nghĩ đã khám phá ra phần ngoại
vương của đạo đó mà tôi gọi là triết lý An
vi. Đến nay gặp thêm Pháp lý Vô vi thì tôi
tin nó phản chiếu đúng cái phần nội thánh
của Việt Đạo, bởi vì Vô vi chiếu ánh sáng
cụ thể vào các biểu tượng và huyền số của
Việt Đạo làm cho dễ nhận ra những ấn tích
đó chính là lốt chân của Đạo Nội. Đây quả
là một sự nhận diện đầy hứng khởi, xin
được trình bày tóm lược trong bài này.
Chương
trên đã cho thấy Pháp lý Vô vi đi theo bộ
cơ cấu vài ba tức ngũ hành, vậy ở đây ta
hãy tìm xem bộ số đó xuất hiện từ lúc nào,
vì nó là biểu hiệu chỉ trỏ sự hiện thực
của một đạo pháp ưu việt, nó ghi lại những
bước tiến vĩ đại của con người trên đường
tiến hóa, nên nói về sự xuất hiện của nó
cũng là nói về Đạo Nội, nói về triết lý An
vi và Việt Nho, cả ba đều lấy bộ số 2-3
làm nền tảng. Hiểu được bộ số đó là nắm
được then chốt của An vi, của Việt Nho
cũng như của Đạo Nội.
Con
số 2 (vài, lưỡng) nói lên vũ trụ quan
động, văn hóa nào không có nó tất bị sa
vào sự bất động im lìm. Vậy bộ số này
người ta đã thấy dấu vết mãi từ đời đá mới
Bắc Sơn trong hai vạch song song tạc trên
các hòn sỏi được mài nhẵn. Vì môi sinh
tinh thần của nó là lưỡng hợp tính
(dual-unit) mà các nhà khảo cổ gọi là nét
đặc trưng của Đông Nam Á, bởi các truyền
thuyết trong vùng đều mang tính chất lưỡng
nhất như Tiên Rồng, bà Nữ Oa ông Tứ
tượng... nên ta có thể gán cho hai vạch đó
vai trò biểu thị số 2 nền tảng này và xin
ghi lại ấn tích này bằng hình 2 chim và 2
rắn (nhất điểu nhì xà) chỉ tiên rồng, tìm
thấy trên Muờng hoặc hai giao long đang
vờn nhau tìm thấy ở Đông Sơn.
Số 3
là bộ số của con người, số nhân chủ mà
huyền thoại mở đầu cách chói chang là
truyện ông Bàn Cổ, nói lên nét tự cường tự
lực hết cỡ, đến nỗi ngay sự xuất hiện cũng
tự mình trọn vẹn. Hai việc lớn hơn hết của
ông là phân ra âm dương (số 2) và tiến hóa
(số 3): sách nói một ngày ông biến đổi 9
lần (3*3=9). Khi ông khóc hai hàng nước
mắt chảy ra làm nên hai dòng sông Hoàng Hà
và Dương Tử; hơi ông thành ra gió. Cái
nhìn của ông làm ra sấm chớp. Khi ông chết
xác rữ ra làm thành năm (số 5) dãy núi
trong thiên hạ... Đó là lối kể của huyền
thoại để nói lên con người là tiểu vũ trụ
rồi sẽ tiến hóa đến chỗ trở nên “vũ
trụ chi tâm”, v.v... tức là nói lên
tính cách nhân chủ triệt cùng, nên tôi gọi
những huyền thoại này là nhân thoại tức
vai chủ động là con người (thần thoại thì
thần làm chủ). 15 truyện trong Kinh Hùng
đều là nhân thoại vì các nhân vật chính
trong đó đều làm những chuyện có tầm vóc
vũ trụ như truyện bánh dầy bánh chưng là
nối trời với đất. Con số 3 này xuất hiện
trong các hình tam giác mà ta gặp thấy lu
bù trên mặt trống đồng và bình động hoặc
gốm có 3 chân.
Số 5
là ngũ hành thì phải hiểu là bộ số cơ cấu,
tức là kép bởi 2 và 3, nói nôm na là “vài
ba”, chữ Kinh Dịch là “tham lưỡng”.
Tự trước tới nay người ta cứ tưởng ngũ
hành là của Tàu và có đã từ lâu đời lắm.
Nhưng gần đây cổ sử và khoa khảo cổ khám
phá ra rằng ngũ hành mới xuất hiền bên Tàu
vào đời Chiến Quốc ở nước Yên và Tề vào
quãng 350-270 tr.c.n. Vai trò nổi nhất
phải quy cho Châu Diễn với thuyết Ngũ đế
đức. Người ta cũng gặp ngũ hành trong vài
ba sách cổ khác như Kinh Thư, nhưng hầu
hết học giả ngày nay cho phần đó mới được
giặm vào sau vì thế không thay đổi được
niềm tin rằng ngũ hành mới có tự quãng thế
kỷ thứ IV tr.c.n. Nhưng có một điều cần
lưu ý là khi ngũ hành xuất hiện trong sách
vở thì nó đã thấy được phổ biến sâu rộng
trong dân chúng với thứ tự quen thuộc là
kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, chứ không phải
thuỷ, hỏa, mộc, kim, thổ có sau và là của
của bác học (của Kinh Thư). Ông Needham
gọi thứ tự trên kia là của dân chúng là
“mới” thì sai, phải gọi là “cổ” mới đúng
vì nó có lâu trước.
Lâu
trước tới đâu thì không biết, nhưng khảo
cổ có cho ta những ấn tích ít ra ba mươi
thế kỷ trước công nguyên như thấy trong vụ
5 hòn sỏi tìm được trong một ngôi mộ ở
Phùng Nguyên thấy 2 hòn thô, 3 hòn mài
nhẵn. Di chỉ Long Sơn ở Bắc Tàu có cái
lịch thời danh với 3 chân rồng và 2 tai,
lại còn các bình đèn tìm thấy Đông Sơn
cũng có 3 chân 2 tai. Ta biết rõ 2 tai chỉ
là biểu tượng vì có cả trong những đồ nhỏ
như cái giả không cần tai để xách, hoặc to
như cái đỉnh thì 2 tai cũng chẳng dùng vào
việc mang xách được. Vậy đã tỏ nó chỉ là
biểu tượng. Lúc ấy ta mới hiểu hình xếp
trong cán qua tìm được cả ở Hà Nam và Tây
Sơn Bắc Việt (mà người ta đoán thuộc nhà
Thương Ân) và hình một thứ phủ việt tìm
được ở Đông Sơn cũng trên 2 (hai giao
long) dưới 3 (ba người hoặc ba con vật)
tất cả đều diễn tả bộ số ngũ hành là “vài
ba tham lưỡng”, nên ta biết bộ số
này xuất hiện đã lâu lắm. Ở Bắc Sơn là
quãng –5000 năm, còn Long Sơn và Phùng
Nguyên lối –3000 năm. Nhưng đó chỉ là
những mảnh vụn mà ta may mắn gặp được chứ
không phải là một lâu đài đầy đủ. Nếu gặp
đủ chắc chắn chứng từ sẽ chói chang hơn
nhiều.
2.
Thuyền tình bể ái
Nếu
nói về lâu đài đầy đủ phần nào thì phải đi
đến Trống Đồng (đầu thiên niên kỷ tr.c.n,
quãng thế kỷ 7-9). Đó là bản tóm trác việt
về Đạo Nội, gồm đầy đủ bộ số 2-3-5 mà nổi
bật nhất là số 2 chỉ lưỡng nhất tính.
Huyền thoại nói rằng bà Nữ Oa lập ra phép
linh phối (hierogamy) trong khi sách Trung
Dung rằng: “quân tử chi đạo tạo đoan
hồ phu phụ” = đạo quân tử khởi đầu
từ việc vợ chồng. Những dữ kiện hợp nhau
trên giúp ta thấy tính chất của Đạo Việt
là nó khởi đầu từ việc vợ chồng, có nghĩa
là không khởi đầu tự đạo trời hay đạo đất
nhưng từ đạo người, mà cụ thể hơn cả là vợ
chồng. Có vợ chồng rồi mới có con cái, có
cha mẹ, rồi mới có vua tôi... Vì thế Kinh
Hùng mở đầu bằng những cuộc phối hợp có
tính cách linh tượng như giữa Đế Minh với
Vụ Tiên, giữa Lạc Long Quân với Âu Cơ...
Tiếp theo tinh thần đó xin dùng ánh sáng
Vô vi để thử tìm hiểu con thuyền tình bể
ái trong Trống Đồng.
Thuyền
tình là thuyền đã biến ra thể rồng, một
thứ rồng tràn ngập tình tự và đang há
miệng để nhận lấy cái hôn nồng cháy của
chim âu đưa mãi vào tận cổ họng. Còn nói
bể ái là vì thuyền đang bơi trong nước nên
nói là bể để chỉ mối tình ân ái mênh mông
như biển cả. Thuyền tình bể ái đó là ai?
Ai mà cả gan làm tình một cách lộ liễu như
vậy, phải chìa mặt ra coi. Câu hỏi có vẻ
diệu vợi nhưng may thay nhờ vào huyền sử
ta tìm ra câu đáp. Đó là “Lạc Long Quân
gặp Âu Cơ trên cánh đồng Tuơng” (Kinh Hùng
số 5). Vì đây là phạm vi huyền sử thì mọi
chữ cũng như mọi cử chỉ đều hàm tàng nhiều
ý nghĩa cần phải cân nhắc cẩn trọng.
Trước
hết hãy nói về cặp đôi “Tiên Mẫu Long
Phụ”. Đó là hai vật biểu của nước ta. Có
lẽ Việt là nước duy nhất nhận hai vật biểu
đi đôi chứ các nước chỉ có một, rồng của
Tàu, voi của Ấn, gà của Pháp, chim ưng của
Mỹ... Riêng Việt nhận cả tiên lẫn rồng tức
là con số 2 nền tảng của cơ cấu đó. Hai
vật biểu lại ở đối cực: chim bay trên trời
rồng lặn dưới biển, vậy mà gặp nhau được
mới tài. Tiên mẫu được đại diện bằng chim
nước: như Âu Cơ tức là hải âu, Hồng Bàng
là một thứ ngỗng trời gọi là chim hồng
hộc, Vụ Tiên là vịt trời, Lộ (Bàn) là cò
trắng... Cần chú ý hai điểm: một là chim
nước, hai là bay cao. Bay cao được bày tỏ
rõ nhất trong chim hồng cũng gọi là thiên
nga hàm ý bay thật cao để chỉ Trời. Còn
rồng chỉ đất nên ở tận thuỷ phủ. Trời đất
tuy xa cách nhưng phải gặp nhau thì mới
sinh ra được con người Hùng Vương, như ta
xem thấy đứng lố nhố trên lưng thuyền
rồng.
Bạn
sẽ hỏi sao mà chóng thế, ông bà chưa ái ân
xong mà đã con đàn cháu đống đứng đầy trên
thuyền và hơn thế nữa tất cả đều đã khôn
lớn, đã biết ca vũ tưng bừng là cái nghĩa
chi vậy? Thưa có sự tréo cẳng ngỗng như
vậy là vì đây là truyện cõi tiên thì nó
theo luật nghịch chiều “đẻ trước dục sau”.
Ở cõi trần giao cấu trước rồi có thai sau,
trên cõi tiên trái lại có thai trước rồi
mới giao cấu sau. Ai đã tu Vô vi cũng nghe
biết phải tu đến trình độ cao cho tới khi
tiến tới cõi tiên thiên thì hồn mới gặp
lại vía như cô vợ lý tưởng mà cuộc động
phòng nghe nói còn cực lạc gấp ngàn lần
những cuộc dục ở trần gian, phải nói là
ngụp lặn trong biển phúc lạc, nên quyển
Chơn Lý gọi tu chính là dục, vì cuối cùng
cũng có giao hoan rồi cũng có thai y hệt
dục ở cõi trần. Có điều ở trần thì dục
trược nên miếng hoan lạc vừa nhô ra đã bị
kẹp giữa hai tấm bánh đắng cay. Nietzsche
bảo cái thú chơi gái đầy nguy hiểm là vậy.
Còn dục trên cõi tiên là dục thanh, thai
nghén trước rồi mới dục sau. Cho nên Âu Cơ
Nghi Mẫu đẻ ra cái bọc trứng trước
(Mô-ni-châu hay quả cầu sáng?) rồi có con
sau, cuối cùng mới gặp Lạc Long Quân trên
cánh đồng Tương. Cánh đồng Tương là Bồng
Lai tiên cảnh, đó là tiền đường của cuộc
phối thiên. Vì sự nghịch chiều này nên cái
thuyền tính trong Trống Đồng chính là phác
họa lại cái dục thanh của mẹ Tiên cha
Rồng. Đó là hậu quả của Đạo Nội cũng gọi
là Đạo tu tiên. Cho nên huyền sử nước Việt
tràn đầy Tiên là do lẽ đó.
Như
vậy chim thiên nga chỉ Trời, Lạc Long Quân
ở thuỷ tề chỉ Đất, còn giao cấu đổi thành
Giao chỉ cho bớt tính cách ‘sexy’ nhưng
khi vẽ ra hình thì dùng thuyền tình bể ái.
Đó chính là con thuyền bát nhã đưa người
từ bến mê sang bến giác. Kinh Dịch chỉ
việc đó bằng câu “thiệp đại xuyên”
= lội qua sông lớn. Mỗi tên nói lên một
khía cạnh. Bát nhã nói lên sự thức giác,
Dịch Kinh nói lên sự lội qua sống là biến
đổi tâm thức, còn Việt gọi đó là thuyền
tình bể ái, mỗi tên có một cái hay. Cái
hay của Kinh Dịch đòi phải giàu trí nhớ để
nối vào cuộc “đạp thanh” tức giao cấu trên
nền cỏ xanh xảy ra sau khi lội qua sông
trong cuộc hát trống quân xa xưa. Như vậy
tuy có hấp dẫn nhưng nói bóng gió không
trực chỉ bằng tên thuyền tình bể ái, lại
có hình nữa, sức lôi kéo có thể mạnh hơn
cả “con thuyền bến Ngự” nên đầy khả năng
hấp dẫn, có thể kéo cả những ông râu xồm
vào tu lúc nào không hay: cũng soi hồn và
pháp luân như ai chứ bộ. Hoan hô các ông
hết mình, chỉ xin dặn nhỏ rằng trên thiên
tiên tuyệt đối không có cái vụ “tiền trảm
hậu tấu” như dưới cõi trần: đừng có nóng
mà đâm ra vọng động. Phải kiên trì, đó mới
là học chữ Dũng. Nhớ câu Nho “trì kỳ
chí, bất bạo kỳ khí”: phải bền chí
chớ phung phí khí. Dũng tại kỳ trung hỹ.
3.
Trống Đồng canh đã điểm ba
Hỏi
tại sáo lại tạc hình thuyền tình bể ái
trong Trống Đồng? Thưa vì mối liên hệ giữa
hai đàng rất mật thiết. Huyền sử kể rằng
“ở Hội Kế kinh đô U Việt có trao một cái
trống lớn khi nào con bạch hạc bay qua
chạm vào thì trống kêu vang rền, tiếng
vang tới mãi Lạc Dương”. Bạch Hạc là biểu
hiệu của người tu tiên đắc đạo gọi là vũ
hóa (nghĩa là hóa ra có lông cánh như
chim). Mẹ Âu Cơ ở Bạch Hạc phải hiểu là tu
đã đạt độ vũ hóa. Tu đắc đạo thì đánh
trống mới đúng cách, mà đánh có đúng cách
thì tiếng mới vang tới Lạc Dương. Lạc
Dương là kinh đô Trung quốc cũng xưng mình
là thiên hạ, nên nói tiếng trống vang tới
Lạc Dương là nói vang khắp thiên hạ. Tại
sao tiếng trống lại lan rộng như vậy? Thưa
là vì sức hội nhập của nó vô cùng. Kinh Lễ
nói: “Cổ vô đương ư ngũ hành, ngũ
thanh bất đắc bất hòa” = Trống
không tương ứng với ngũ thanh, nhưng ngũ
thanh mà không được Trống thì không thể
hiện thực được cuộc Hòa. Ngũ thanh là âm
nhạc, mà âm nhạc có tiếng là nữ hoàng của
các nghệ thuật vì khả năng hòa hợp của
nhạc cực cao, người ta hay nói về nhạc là
hòa âm, hòa nhạc, vậy mà Kinh Lễ nói thiếu
Trống cũng đành bó tay không hiện thực
được cuộc hòa là có ý nói về cuộc Thái
Hòa: hòa hiện tượng với siêu linh, là vì
thanh là đợt vi tế cuối cùng của cõi hiện
tượng, nhưng cũng còn là có: có vi, có tế,
vẫn còn là Hữu vi chưa thể làm chủ cuộc
Thái Hòa nên phải nhờ đến Vô vi hàm tàng
trong cái Trống mới hiện thực được. Vì thế
mà có câu phương ngôn “ba hồi trống
thu không”.
Để
hiểu được câu này cách thấu triệt lại phải
dùng đến cơ cấu bằng ôn lại cách xếp đặt
ngũ hành theo hai vòng sinh khắc như hình
kèm theo...
Hai
vòng xoay ngược chiều nhau để chỉ tác động
và phản động rất cần thiết trong quan niệm
tiến hóa. Lạc Thư cũng như Trống Đồng đều
đi theo vòng khắc. Nói đơn sơ là “tả nhậm”
tức đi theo vòng ngược chiều kim đồng hồ.
Trong Trống đồng các người vũ để tay trái
hướng về mặt trời. Sách cắt nghĩa chữ khắc
là hoạch (khắc giả hoạch dã).
Hoạch là thu hoạch nên “ba hồi trống thu
không” có nghĩa là đi theo đường Trống
Đồng (vòng khắc) mới Thu được cái Không
chân thực. Ba hồi trống là các số 2, 3, 5
hay hành Hỏa số 2 khắc Mộc số 3, Mộc khắc
Thổ số 5. Xem vào hình vòng khắc sẽ thấy
số 3 tiến vào số 5. Đó là biểu tượng, còn
nói theo Trung Dung là “khủ phù ngoại
dụ chi tư, nhi sung kỳ bổn nhiên chi
thiên” (câu 1) = “là từ bỏ những
cái trần trược bên ngoài có tính cách dụ
dỗ, để làm cho cái gốc thanh của ta thêm
sung mãn”. Thực hiện là Vô vi bịt lỗ tai,
cài lỗ mắt, ghìm cái tinh để làm cho mạch
chấn lực bộ đầu thì sẽ thu được cái Không
chân thực, biểu lộ bằng diệu hữu là trụ
được điểm, rồi sẽ có thánh thai, xuất hồn,
tâm thần thanh nhẹ để “tiêu tao du”.
Cũng
vì thế mà “ba hồi trống thu không” đã được
khua lên trong Vô vi. Sách Chơn Lý có câu:
Trống
Long Hoa giục đến giờ,
Sao
con cứ mãi chần chờ vậy con?
Trống
Long Hoa đã giục nhưng trước đó cũng đã
gại Trống trong câu dao miền sông cầu
thường được hát khi múa trống rồng:
Trống rồng canh đã điểm ba.
Trống
rồng là trống Long Hoa đó. Tại sao lại gọi
là trống? Thưa vì Pháp lý Vô vi là trống
trơn: vô là không, vi là du bé cũng không.
Bởi thế pháp này được ban ra cho loài
người để sửa soạn Cơ Quy Nhất là vì nó
giống như bản tính của Trống Việt tức là
trống rỗng. Nói Pháp lý Vô vi hay nói Đạo
Trống cũng là một, cho nên nó mới hợp nhau
từng chữ như thế. Vô vi nói “Long Hoa kỳ
ba” thì Đạo Trống nói “ba hồi trống thu
không”. Đạo Trống nói: “Trống Rồng
canh đã điểm ba”, thì Vô vi nói: “Trống
Long Hoa giục đến giờ”.
Lại
còn vụ khai mạc Trống khi mới đúc xong thì
xưa kia đều do các bà, nay câu Trống Long
Hoa cũng do miệng Đức Linh Nữ Kim Thân.
Hợp nhau từng nét như vậy đó, vì thế mà
tiếng Trống mới được khua lên để mở hội Cơ
Quy Nhất: quy Tam hợp Ngũ nhờ nguyên lý
Chí Trung Hòa của Trống Việt.
4.
Nguyên lý Chí Trung Hòa đã bày tỏ trong
Trống Việt
- Đâu nào? Xin chỉ cho coi.
- Đây nè: trên mặt trống đó.
- Mặt trống à, có thấy chi đâu?
- Đây nè: hãy xem cho kỹ trên
mặt trống có tất cả 5 vòng chia ra 3 đợt.
Đợt
ngoài cùng gồm 2 vòng chim và nai đại diện
cho đất.
Đợt
giữa gồm 2 vòng đại diện cho người cả tiểu
ngã (vòng người đang múa) lẫn đại ngã
(vòng những tam giác gốc).
Còn
vòng trong cùng là đại diện cho Trời ta
gọi là mặt trời (tức thay mặt cho Trời)
đó.
Vậy
là đủ mặt Thiên Địa Nhân tức gồm toàn vũ
trụ rồi còn chi. Toàn vũ trụ thế mà tất cả
đều hòa hợp, đều đang cùng nhau ca vũ. Đó
không là cảnh Thái Hòa sao. Đây là điểm
một.
Điểm
hai tất cả các vòng vũ đều đang tiến theo
chiều “tả nhậm” tức tiến ngược kim đồng
hồ, có nghĩa là không tiến ra mà lại tiến
vào, vào đến cùng cực là mặt trời. Nói mặt
trời là nói tạm chứ trời có mặt đâu, trời
chẳng có chi hết, vô vi hạng nặng mà lị.
Có vậy mới là trung tâm quy hợp cho tất cả
muôn loài. Nói theo Lão: nõn xe có rỗng
thì mới là chỗ quy tụ cho mọi đũa xe.
- Đã thấy rồi, rõ ràng là cuộc
Thái Hòa: hay quá ta!
- Vậy mà chưa hết, đó mới là mặt
ngoài chứ bên trong còn lắm điều hay.
- Đâu nào xin nói thử nghe thêm
chút nữa, ham quá ta.
- Muốn xem nữa hả? Hãy lật ngửa
Trống lên.
- Rồi.
- Đít Trống có bịt kín không?
- Không.
- Bên trong có thấy cái chi
không?
- Cũng không nốt.
- Đấy! Cái hay ở chỗ đó, ở chỗ
không có gì, không bịt kín: thế mới thực
là Trống chứ. Nhờ vậy mà cái Trống mới hay
vô cùng, quả đáng tham dự vào câu “chân
không diệu hữu”. Thế nhưng biết bao
người không thấy được rằng, cái Trống muốn
là cái Trống thì phải trống phải rỗng.
Chính vì trống không thấy thế nên du mục
Bắc phương mới đem trống mà bịt kín hết
rồi người ta cứ để nguyên tên cũ mà gọi là
cái trống, thành ra cái trống đã bị bịt
kín rồi đưa ra đánh hồi lùng thì làm sao
mà hiểu được chữ “ba hồi trống thu không”.
Phải là trống rỗng mới thu được cả ba Trời
Đất Người quy vào Một mối được chứ. Có thế
mới thống nhất được con người. Vậy mà xưa
rầy nhiều đạo giáo ưa đánh trống đã bịt
kín mít như vậy, cho nên đánh thủng cả
ngàn vạn trống bịt kín mà đạo vẫn cứ thoái
hóa và càng cố gắng thống nhất thì càng
ngoi ra đa tạp, đa phe, đa phái cho nên
Cha Trời mới phải trao cho Tân Dân của
Việt Nho khởi lo việc quy nhất vì cái
Trống của Việt chưa bị bịt kín. Cũng như
Nho vẫn đặt lý tưởng cao nhất ở chỗ “vô
thanh vô xú”.
Như
vậy cả Việt lẫn Nho đều tỏ ra còn tương
đối giàu chất Vô vi hơn, xứng đáng đứng ra
khởi công lo Cơ Quy Nhất, nhất là phía
Việt càng tỏ ra chú ý tới cái Trống, vì
Trống đã không bịt kín, thế mà lúc treo
Trống để đánh còn cẩn thận treo cách mặt
đất 20 phân, bên dưới khoét cái lỗ sâu 30
phân để chỉ trời 3 đất 2 giao thoa. Trời ở
trên nằm úp xuống mặt đất (để giao chỉ).
Lối treo này còn được duy trì trên Mường
cho mãi tới đầu thế kỷ này. Đó là lối treo
nhằm nhấn mạnh chữ “Chí Trung”: trung đến
không còn chi, đã trống tức chưa bịt kín
vậy mà bên dưới còn để trống đúng như con
số cơ cấu 2-3 thì biết tiền nhân muốn nhấn
mạnh đến chữ Trống ngần nào. Các ngài thâm
tín rằng có vậy tiếng trống mới lan ra
khắp hàng huyện, ta có thể nói “lan khắp
hoàn vũ”. May thay muốn được thế thì không
còn phải dùng biểu tượng cái Trống nữa vì
ta đã có Trống Vô vi không bịt kín, nên hy
vọng tiếng trống sẽ nghe ran khắp hoàn
cầu.
5.
Kinh vô tự
Cha
Trời đã bảo Vô vi là “chân kinh vô tự”. Về
điểm này Việt Đạo cũng lại giống Vô vi nữa
vì cũng có kinh vô tự. Vô tự mà lại là
kinh tức Không mà Có, Có mà Không đúng đạo
Trống. Vì không tức không có chữ, nhưng
lại có nên phải biểu thị bằng đồ hình và
số độ. Sau đây xin kể ra hình thức đầu
tiên của kinh vô tự mà ta quen nghe nói
tói, đó là:
Sách
ước, gậy thần. Đây chính là tên của kinh
vô tự, không có chữ mà chỉ có vài ba số
tức 2, 3, 5 thuộc vòng sinh cũng gọi là
vòng trong, rồi thêm 4 số vòng thành (6,
7, 8, 9) cũng gọi là vòng ngoài thành 9
như hình sau:

Huyền sử nói gậy thần có
9 đốt, ai biết cầm vào đốt thứ năm thì
biết được cả sống lẫn chết. Vua Hùng có
gậy thần, Kinh Hùng gọi là “huyền thuật”
nhờ đó uy quyền trải khắp 15 bộ nước Văn
Lang. 15 bộ là có ý đề cao hai bộ số 3 và
5 (3*5=15). Huyền sử nói ai mà nắm được số
5 thì biết được cả đạo sống lẫn chết, đó
là Thái Hòa, sống chết khác nhau vậy mà
hòa được là nhờ số 5 của Ngũ hành. Như vậy
sách ước gậy thần không là chi khác hơn là
Ngũ hành.
Kinh
Dịch. Sau sách ước gậy thần thì phải kể
tới Kinh Dịch. Đó là cuốn kinh có 5 giai
đoạn hình thành thì ở ba giai đoạn đều
hoàn toàn vô tự. Một là đạo Dịch của trời
đất biểu diễn bằng các cặp đôi trong huyền
thoại như sông núi, tiên rồng. Hai là đạo
Dịch của Phục Hy biểu thị bằng các nét đức
và liền. Giai đoạn ba của ông Đại Vũ thêm
số 9. Từ giai đoạn bốn, rồi năm mới có chữ
gọi là hệ từ nghĩa là “lời treo” tức treo
vào quẻ đã có từ trước. Tinh hoa của Kinh
Dịch nằm gọn trong ba bộ số 2, 3, 5 (âm
dương, tam tài, ngũ hành) còn các lời thêm
vào tuy có giúp phần nào cho người sau
hiểu được ý kinh nhưng cũng là cớ gây ra
sa đọa, nhất là Dịch của Văn Vương. Có thể
nói hệ từ gây cả lợi lẫn hại, nhưng hại
nhiều hơn lợi. Nay muốn hiểu được tinh
thần đó thì có thể đọc Trung Dung. Sách
Trung Dung chính là một quyển kinh của
Việt Nho mà đồng thời cũng có thể là kinh
của Vô vi vì nó cung ứng cho Vô vi tất cả:
từ tên gọi đến định đề (prémise), nguyên
lý và tinh thần nữa.
Sách
của thần Tản Viên. Ngoài Kinh Dịch ra thì
còn một số huyền thoại khác liên hệ đến
kinh vô tự như Lạc Thư đã nói đến nơi khác
hoặc như truyện Thần Tản Viên xuống thăm
vua Thuỷ Tề là Lạc Long Quân được ban cho
một sách chỉ có 3 trang giấy trắng và thần
đã đọc 2 trang... Đó ta thấy con số 2-3
xuất hiện. Trong Đạo Nội có tứ bất tử thì
thần Tản Viên đứng đầu rồi tới Chử Đồng Tử
và Thánh Dóng, sau cùng là bà Chúa Liễu
Hạnh. Đó có thể là cách diễn tả bộ số Ba
thường cũng xếp thành hình tam giác gặp
được lu bù trong Trống Đồng. Ta có thể xếp
tứ bất tử thành hình tam giác như
sau:

Tản
Viên giữ góc trên để tỏa ra 2 phía. Tản
Viên tức hình tròn (viên chỉ thiên) tỏa ra
(tản ra) hai bên: số 2 chỉ đất, làm thành
hình ba góc, nên Thần cũng có tên là Ba
Vì.
Thánh
Dóng là quan thầy triết lý An vi, không
nói mà chỉ làm là đuổi quân xâm lăng (đó
là khử trược) tới lúc thành tựu không màng
công danh, lợi lộc, nhưng lên núi Sóc Sơn
ở miền An Việt để hóa ra tiên. Chử Đồng Tử
là quan thầy Vô vi phái tả chân: vô là
không, vi là khố, ông đã cởi bỏ trần trược
đến cái khố cũng không luôn. Liễu Hạnh đại
biểu nguyên lý mẹ nên quy ẩn (trong ngoặc)
nhưng vẫn là Bà Chúa Xứ tức làm Chúa của
văn hóa nên nó không đốc ra đực rựa.
Nón
chóp và linh tinh.
Đã
nói đến sách “Ba Vì” cũng xin nói thêm về
cái nón chóp có hình tam giác. Đó cũng là
một thứ kinh vô tự. Ban đầu tôi không hề
để ý đến ý nghĩa nón chóp, nhưng khi
nghiên cứu gặp thấy những hình vẽ người có
đầu nhọn như tam giác và ghi chú sự nhọn
đó chỉ tinh thần thì tôi đặt vấn đề nón
chóp có được tiền nhân ta gửi gấm ý nghĩa
chi chăng? Tại sao toàn dân dùng nón chóp
một cách bền bỉ? Cuối cùng tôi khám phá ra
cái chóp chỉ mặt trời tỏa ánh xuống chung
quanh đầu: chung quanh là vòng tròn, là số
3 hợp với số cơ cấu của Việt Nho. Suy đoán
như vậy là do tôi đọc biết Kim Tự Tháp là
hình ảnh mặt trời chiếu xuống 4 phương,
còn mặt trời là đỉnh tháp. Lúc ấy tôi mới
nghĩ đến nón chóp cũng như vậy. Sự suy
đoán còn được kiện chứng bằng những tượng
Chàm đầu nhọn, cũng như tượng Núi Nưa cũng
đầu đội mũ nhọn và nhất là cuối cùng khám
phá được ý nghĩa những tam giác đặt quanh
hình mặt trời mà các học giả đầu tiên gọi
là tam giác gốc. Sau bao suy trước tính
sau tôi mới nhận ra đó là Đại Ngã Tâm Linh
quan trọng vô cùng trong nền triết học
nhân chủ, nên có vô số hình tam giác nhỏ
rải cùng khắp mặt trống. Nay gặp Pháp lý
Vô vi thì nón chóp nhắc tôi tới cái tam
giác của điển quang pháp giới là Tinh,
Khí, Thân mà ông Tư có vẽ ra hình tam giác
trong quyển Phép Xuất Hồn (tr.46 và 48).
Từ đấy tôi coi nón chóp là nón đã xuất
hiện tự lúc cha ông ta còn thờ mặt trời,
và nón chóp đã được giao phó nhiệm vụ làm
biểu tượng cho việc đó. Điều suy đoán này
hợp bầu khí văn hóa Việt Nho quen gửi ý
tưởng vào sự vật thường dùng như nhà ở, áo
mặc, mũ, nón. Thí dụ Nho gia xưa đội mũ
tròn chỉ trời, chân đi giầy vuông chỉ đất.
Còn Việt thì đội nón chóp chỉ mặt trời và
sau cũng là Trời, còn áo thì có 5 cúc: 2
cúc trên ngực còn 3 cúc ngang hông. Nhân
tiện xin nói đến hai việc nữa là luyện
thuốc trường sinh và thai tức.
Luyện
thuốc trường sinh
Luyện
bằng chất đơn sa (cinabre) là một sự hiểu
trật chữ tâm pháp. Vì tâm là một khối có
màu đỏ nên cũng gọi là hồng trần. Từ chữ
hồng chữ đỏ đó dẫn đến chất đơn sa có màu
đỏ, nên đơn sa cũng gọi là chu sa là chất
đứng đầu trong thuốc trường sinh: chính nó
đã giết hại khá nhiều nguời muốn đi tìm
trường sinh trong nẻo ỷ lại, cậy dựa vào
thuốc bên ngoài.
Thai
tức và tinh thai.
Hiểu
theo Vô vi là pháp thở làm cho nảy sinh
thánh thai... nhưng vì sự suy thoái nên đã
hiểu quặt ra phép “hoàn tinh bổ não” trong
Đạo Giáo là đưa tinh lên đỉnh đầu để được
sống lâu. Phép đó đưa đến lối thiền bằng
giao cấu bên Tây Tạng: hai bạn đạo một nam
một nữ giao hợp trong thế ngồi quay mặt
vào nhau và cứ để trong trạng thái tĩnh
cho hai luồng khí âm dương không xuất mà
chỉ bồi dưỡng nhau như thấy những tượng
tạc thần nam nữ đang ôm nhau trong thế
giao hợp đó (gọi là maithuna) để đưa tinh
lên đỉnh đầu như được tả trong sách Đại Hỉ
Lạc Thiền Định. Pháp này cũng thấy bên Ấn
Độ trong Kundalini yoga đem tinh thai
(bindu) lên đỉnh đầu nơi hoa sen nghìn
cánh để đạt trạng thái vô nam vô nữ, là
trạng thái giống Thượng Đế, nên là Niết
Bàn cực lạc. Quan trọng là sự hình thành
tinh thai. Có sách bảo rằng phải hình
thành bằng thiền định, nhưng phần lớn bảo
rằng đàn bà thực để thúc đẩy khí âm trong
hàn giả chỗi dậy rồi dùng phép thở và tập
trung tâm trí mà đưa tinh lên đỉnh đầu,
lúc ấy tinh khí biến ra tinh thai (bindu).
Chính trong ý đó mà có câu châm ngôn “Phật
tính nằm ngày trong âm vật: buddhatvam
yosit-yoni-samastra”. Khó có thể xét đoán
lối hành pháp này đi tới đâu, chỉ biết đã
có nhiều lạm dụng nên bên Tàu từ sau đời
Đường các sách liên hệ đều bị kiểm duyệt
gắt gao nên thất truyền hoặc đi vào mật
tông. Ở đây chỉ nhắc sơ qua để biết trong
dĩ vãng đã có dấu vết như thế. Nay nhờ ánh
sáng vô vi ta có thể hiểu được là tinh
thai chính là Thánh thai bị hiểu quặt đi.
Còn
biết bao pháp về thở, về chay tịnh (tịch
cốc) tràn đầy trong trăm ngàn sách (Đạo
Tạng) của Lão giáo đều chứng tỏ đã có đạo
tu, tuy xét về công quả và công trình thì
rất cảm động, tỏ ra lòng tu đạo rất thâm
sâu, nhưng về công phu thì có nhiều thoái
hóa, may nhờ Pháp lý Vô vi ta lại thấy
được ý nghĩa trung thực của các biểu tượng
xưa đã bị bóp méo nhiều khi đến độ kỳ dị
như phép hoàn tinh...
Vũ
chú cửu đỉnh
Bây
giờ xin nói đến trang huyền sử lẫy lừng là
thiên Vũ Cống trong Kinh Thư nói về vụ ông
Vũ đúc 9 đỉnh. Đây là biểu thị việc Việt
Đạo cải hóa vănn hóa du mục Bắc phương đại
biểu bằng ông Cổn là cha ông Vũ. Ông Cổn
không trị thuỷ nổi vì làm chìm mất ngũ
hành, tại ông đắp đê ngăn nước. Đến lượt
ông Vũ lên thay cha không đắp đê nhưng đào
sâu xuống lòng sông (tuẩn xuyên: tức nhận
số 3) liền trị được thuỷ. Trị thuỷ chính
là cai trị nước mà bí quyết thành công là
“hư tâm”= tức biết giữ đạo Trống.
Huyền
sử còn chỉ xa nguyên do của sự thành công
bằng cách khác là “ông lấy vợ Việt” hiểu
là đi theo nguyên lý mẹ như Việt Đạo vốn
căn cứ trên bộ số vài ba tham lưỡng. Sách
Trúc Thư Kỷ Niên nói ông Vũ có “hai tai mà
ba lỗ” (lưỡng nhĩ tam lữu). Đọc câu trên
ta không hiểu làm thế nào mà hai tai lại
có đến ba lỗ! Ẩn ý gì đây? May nhớ có câu
sách trong Kinh Dịch ta lần ra ý nghĩa.
Câu đó là “tham thiên lưỡng địa nhi ỷ
số” = ba trời hai đất là số để tựa:
như vậy là có số 3 và số 2 rồi, chỉ khác
chi tiết là ở đây nói lưỡng trước tham
(luỡng nhĩ tham lữu) tức nói theo Việt là
2-3 (vài ba). Rồi ta lại tìm ra hình ảnh
con số 2-3 trong cái lịch hay cái đỉnh đều
có 2 tai ba chân. Thế là tìm ra ý nghĩa
tiêu biểu đầy đủ.
Đến
nay nhờ Pháp lý Vô vi ta đoán thêm rằng
hai bộ số đó chắc là ám chỉ một đạo pháp
có thể giống như phép soi hồn dùng 2 tay
bịt tai, mắt, tinh. Lão Tử nói: “thường
ngậm miệng, bịt tai, mắt nhụt bén nhọn...”
(ĐĐK 56).
Còn
tại sao lại có vụ đúc đỉnh là do chữ đỉnh
đầu. Y như vụ có tên cái Trống là do tâm
hồn phải được trống trơn, phải hư tâm.
Muốn nhấn mạnh thì dùng ngay chữ Trống đặt
tên cho hiện vật được dùng để chỉ phép tu
luyện gồm các số 2, 3, 5. Còn chữ đúc thì
do chữ chú ý vào đỉnh đầu đọc trại từ chữ
trụ (trụ ý). Việc đúc thì Tàu lại đọc là
chú: thành thử nói trụ ý vào đỉnh đầu dễ
dàng biến ra chú đỉnh là đúc đỉnh. Còn số
9? “Vũ chú cửu đỉnh” ẩn nghĩa chỉ
phương pháp đạo tâm của Việt Đạo bảo phải
chú ý vào đỉnh đầu mà người xưa gọi là
“thượng đan điền” có 9 ngăn đặt tự trán ra
sau gáy, ngăn giữa là huyệt bách hội. Đó
quả là chú ý vào đỉnh đầu như Vô vi, nhưng
vì thất truyền nên người sau hiểu trật ra
ngoài. Thành thử nói ông Vũ trụ ở đỉnh đầu
nơi có 9 ngăn biến ra biến ra ông Vũ đúc 9
cái đỉnh. Sự hiểu sai đó có lối đọc chữ TR
ra CH: đọc trụ ra chú, khách trú biến ra
khách chú: chú ba Tàu có nghĩa là ba ông
Tàu trụ ngụ bị người ta hiểu là chú là
bác.
Huyền
sử nói thêm rằng: đỉnh dùng nấu đồ cúng
không cần lửa cũng sôi và nấu chín được đồ
ăn. Nếu lấy ánh sáng Vô vi chiếu vào thì
ta biết tinh do thận thuỷ đưa lên để khí
hỏa luân xa phanh luyện ra Thần, không cần
lửa vì đã có lửa bên trong người gọi là
hỏa luân xa. Chính trong ý đó mà có danh
từ “lư hương xạ nhiệt” lò hương tỏa sáng.
Lư hương theo nghĩa đen biến ra các bình
đèn có ba chân thấy được lu bù ở khảo cổ
cả Tàu lẫn Việt (Đông Sơn) mà xưa kia chỉ
việc tu luyện, còn nay dùng để đốt hương
cũng như các đỉnh vậy, nhưng theo nghĩa
nội thì ba chân chỉ tam huê tụ đỉnh, hoặc
Tinh, Khí, Thần hoặc đạo Ba...
Đó là
đại để những dấu chân của đạo pháp xưa đã
để lại trong những cái bé nhỏ không ai
ngờ: từ 5 cái cúc, cái nón chóp, cho đến
những cái đỉnh 3 chân 2 tai, nấu chín đồ
ăn không cần lửa... đều liên hệ với nhau
một cách cơ cấu mà huyền sô 2-3-5 là then
chốt, tất cả đã xuất hiện rất sớm nói là
có mãi tự đời Thần Nông. Đó có thể gọi là
những kinh vô tự mà khi nhận thức ra được
ý nghĩa tiền nhân gửi gắm vào những biểu
tượng nọ liền hiểu được đó chính là tâm
đạo và biết được tâm đạo nọ đã được ban ra
rất sớm, nhưng vì bí truyền nên các tổ sư
dùng các biểu tượng trên để biểu thị,
nhưng người sau không hiểu được nội dung
nên đã hiểu trật ra ngoài sự vật như luyện
thuốc trường sinh, đúc đỉnh, thai tức ra
giai cấu thiền. Chỉ có Nho giữ được nhiều
nghĩa nội hơn trong phạm vi chính trị,
luân lý và giáo dục như cơ cấu hóa ngũ
hành và đặt con người vào điểm trung tâm,
nhờ đó có những câu “vũ trụ tiện thị
ngô tâm, ngô tâm tiện thị vũ trụ”...
và những câu “thiên lý tại nhân tâm”
với những khẩu hiệu đầy tính cách nhân chủ
như sách Trung Dung (câu 25): “Thành
giả tự thành dã, nhi đạo tự đạo dã”:
phải tự tu thì mới tiến (chữ đạo sau là đi
là tiến), phải tự thành (thực hành) thì
mới thành tựu, tức nên thánh (thành
giả thánh dã).
Nói
tổng quan: đạo nội có ngay tự đầu, đến sau
suy vi thì Lão Thích giữ được ít nhiều
phần pháp, còn Nho thì ít nhiều phần Lý,
còn một phần bàng bạc trong các huyền
thoại. Nay Vô vi xuất hiện thì như ngọn
đèn sáng soi vào các biểu tượng âm u kia
khiến cho Đạo Nội lấy lại được ý nghĩa
trung thực để phục hoạt. Ta thấy Đạo Nội
đặc biệt chú ý tới đầu: cất nhà có lễ đặt
đòn nóc (đòn dông) khác Tây Âu đặt viên đá
đầu tiên, rồi Nữ Oa đội đá vá trời (sẽ nói
sau) cho đến nữ Thần Mộc... đội nón chóp,
đúc đỉnh, tam giác góc... Nay Vô vi làm
phép soi hồn chú ý đến bộ đầu thì ta thấy
được mối liên hệ ngầm giữa Vô vi và Đạo
Nội. Tôi không nói đến lễ tế Thiên vì có
phần thuộc ngoại vương nhưng cũng là một
“lốt chân” vĩ đại của Đạo Nội. Tất cả như
được sáng tỏ lại cách lung linh dưới ánh
sáng Vô vi. Nghĩ tới đó tôi thấy tự lòng
trào lên những mối tình sâu thẳm đối với
Cha Trời khi ghi lại những dấu xa xưa của
tiên tổ với tâm hồn tràn ngập tri ân.
Chương này bàn về những lốt chân của Đạo
Nội. Có thể hỏi thêm rằng Đạo Nội có tác
động chi chăng? Thưa có chứ. Để chứng tỏ
Đạo Nội quả là Đạo Trống tuy không hiện
hình mà vẫn có làm, toàn Kinh không chữ
nhưng vẫn tác động mạnh, xin bàn thêm
trong chương tới.
VI. Trống
Việt thường lung lay bóng Phật
1.
Từ huyền sử tới lịch sử
Trống
Việt Thường là Đạo Việt. Còn bóng Phật xin
hiểu là Phật giáo đã suy thoái, do đó đã
bị Việt Đạo điều chỉnh nhiều lần.
Lần
đầu là truyện Man Nương trong Kinh Hùng đã
biến đổi Phật Kim ra Phật Mộc. Nói bằng số
là từ số 4 ra số 3; từ duy dương sang miền
âm dương hòa của nữ Thần Mộc tức miền mà
nguyên lý mẹ làm chủ văn hóa. Cho nên sau
này khi thần Avalo Kitesvara xuất hiện
trên đất Việt Nho đã mặc hình nữ là Quan
Âm. Khi còn bên Ấn Độ Ngài là Thần Nam,
làm phó đức Di Đà trong Tây phương tịnh
thể.
Truyện
Man Nương chính là trang huyền sử tuy vắn
tắt nhưng báo hiệu những lần đổi thay lớn
sẽ xảy ra cho Phật giáo khi truyền vào địa
bàn tổ của Việt Nho, mà ở đây xin nhắc lại
vài ba trường hợp đặc biệt:
Lần
hai có thể quy tụ chung quanh nhà sư Trúc
Đạo Sinh (365-434) vì đã nhấn mạnh tính
chất nhân chủ khi tuyên bố Phật tính có
trong mọi người; Phật tức tâm, tâm tức
Phật, chỉ cần tìm trong tâm mình thì có
thể đắc đạo khỏi cần cầu ông Phật nào bên
ngoài. Cũng nên kể đến thuyết đốn ngộ của
ông cho rằng con người có thể đạt đạo ngay
trong một kiếp, ngược với thuyết tiệm tiến
bảo phải tu trong nhiều kiếp. Đó là những
điều đặt nổi nhân chủ tính tuy đã có trong
Phật giáo, nhưng vì bầu khí thần chủ của
Balamôn nên không phát triển được như khi
truyền vào đất Việt Nho.
Lần
thứ ba có thể quy tụ vào Thiên thai tông
do nhà sư Trí Khải (tịch năm 597) với câu
“lý sự vô ngại” và thuyết “Ngũ Thời”. Với
câu “lý sự vô ngại” ông bác bỏ các thuyết
coi đời là ảo hóa, là huyễn tướng. Trái
lại đời cũng thật như tâm, hai đàng thông
dung như kiểu Kinh Dịch: âm cũng có thực
như dương, lý cũng thực mà sự cũng thực.
Lý sự viên dung: lý sự vô ngại, sự sự vô
ngại.
Với
thuyết “Ngũ Thời” ông tìm cách dung hòa
các mâu thuẫn trong Phật giáo. Ông cho sở
dĩ có vẻ mâu thuẫn là do đạo được truyền
trong nhiều thời khác nhau: có 5 thời là
Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã,
sau cùng là Pháp Hoa.
Lần
thứ bốn là Thiền xảy ra với tổ Huệ Năng
(638-713) đưa vào Thiền tính cách hành
động thay cho lối tu quá thụ động, biểu
thị bằng chín năm ngồi ngắm tường của Bồ
Đề Đạt Ma mà người Tàu quen gọi là “Bích
quan Bàlamôn”. Huệ tổ cũng chống lối tu
quá thiên về kinh sách, kéo chú ý nghiêng
mạch đến việc làm, đến tâm tính. Tam bảo
của Phật giáo... tắt cho giác ngộ, chơn
chính, và thanh tịnh. Đại để đó là mấy
cuộc biến đổi làm cho Phật giáo dễ được
chấp nhận cho người theo Việt Nho. Chứ nếu
để y nguyên như bên Ấn Độ thì khó lòng
được đón nhận vì hai đàng theo cơ cấu khác
nhau: đại để bên Phật là Vô, bên Nho là
Hữu Vô. Nay muốn được chấp nhận tất phải
cải đổi cho ra Hữu phần nào.
Niết Bàn ra Tòa sen.
Bi quan ra Lạc quan (Đức Di Lạc)
Avolo nam thần ra Quan Âm Thị
Kính...
Tuy
nhiên những cuộc biến đổi trên vẫn chưa đi
đến triệt cùng. Trời của Phật giáo vẫn còn
rạn nứt chưa ở được, không thấy Thượng Đế
đâu cả. Cho nên còn cần đến bàn tay của Nữ
Oa Nghi Mẫu xuất hiện để nấu đá Ngũ hành
mà vá lại, rồi mời Thượng Đế hồi kinh thì
việc cải biến mới là triệt để.
2.
Phải chăng Nữ Oa tái xuất giang hồ?
“Nữ Oa đội đá vá trời”.
Đó là câu nghe quá quen thuộc nên không
còn mấy gợi lên gì trong tâm trí con cháu,
nhưng kỳ thực câu trên hàm tàng một nét
đặc trưng hết sức hệ trọng của triết lý
Việt Nho, là nền triết cân đối có âm có
dương. Điều này lẽ ra phải là đức phổ biến
cho hết mọi nơi, mọi đời, như ban sơ đã
xuất hiện phần nào nơi hầu hết các văn
hóa. Nhưng rồi đến đời phụ hệ đàn áp
nguyên lý mẹ, làm cho văn hóa trở nên
nghiêng lệch, đốc ra một chiều, huyền sử
gọi việc đó là Cộng Công húc đầu vào núi
Bất Chu là cột chống trời, nên trời
nghiêng đất lệch. May nhờ Nữ Oa Nghi Mẫu
ra tay vá lại, nên con cháu Việt Nho vẫn
còn trời để che. Các nơi không được mẹ Oa
Lô vá trời cho thì trời vẫn dột nát. Trời
của Phật giáo cũng bị thế. Vì theo cơ cấu
số 4 là số Đất. Tứ đại là tứ tố mà không
là Ngũ hành cân đối, nên Trời Đất không
được đặt vào đúng vị. Trời bị soán ngôi...
Nên trước đây đã được nguyên lý mẹ vá qua
loa hai lần: lần một với Man Nương, lần
hai với Quan Âm tống tử, nhưng chưa hết
dột. Nên vẫn còn cần đến bàn tay của Thái
Mẫu. Phải chăng những lời sau đây có ý báo
tin Mẫu đến:
Vì
nhiệm vụ lìa nơi cung thượng,
Đà
La Hoa thiên mạng hiện thân.
Chơn
âm ra lệnh ân cần,
Phật,
Trời, Tiên, Thánh cứu thêm vài phần.
Các
giáo chủ hội về đầy đủ,
Để
xin cùng Thiên Mẫu lãnh công.
Trước
lo trật tự giáo môn,
Sau
cùng các đấng lập phương cứu đời.
Tiên
thiên đến hậu thiên hợp sức
Các
linh căn có xác dưới trần.
Đều
ra trình diện Mẫu Nghi,
Để
ra cứu nước cứu dân hội này.
Mùi
hoa thơm Mẫu rưới khắp miền.
Tiếng
đàn nhạc trổi triền miên,
Chuông
ngâm trầm bổng ru hồn vạn linh.
..........................................................
Huyền
lực hóa vô biên khó tả,
Xưa
Nữ Oa luyện đá vá trời.
Đà
Hoa vá đất hiện thời,
Chỉnh
luôn tam cõi mà đời chưa hay.
Bầu
thái cực hóa sinh vạn hữu,
Cũng
là nguồn dưỡng dục muôn loài.
Âm
dương tiêu trưởng vận hoài,
Ngũ
hành, tứ tượng, Hà đồ, Lạc thư.
Đất
Nam Việt trung ương mồ kỷ,
Nơi
tập trung phát xuất huyền năng.
Kỳ
ba nắm hết chuẩn thằng,
Bảy
hai ba sáu (*) tuỳ tùng lại đây.
Để
sau phát triển hậu lai.
....................................................
(Trích
lời sấm về Long Hoa của Hồng Quang
(1970). (*) Bảy hai chỉ đất, ba sáu chỉ
trời, tức cả vũ hoàn)
Phải
chăng Mẹ (Mẹ mà Cha luôn) đã xuất hiện rồi
trong một thân Nữ Việt?
Câu
hỏi trên tôi chỉ đặt ra sau khi đã đọc đi
đọc lại đến nát quyển Chơn Lý (sách thu
thập những bài nói của Kim Thân Cha) và
xét nét thật kỹ thì thấy:
Tiêu
cực: không có dấu nào gọi là lừa đảo tức
không có những lời mở lối cho sự đàn áp
con người. Vẫn nể trọng con người đến cùng
cực. Không lời nào lớn lối, ép buộc như
dọa đe hay hứa hẹn, cũng không có những
phép lạ thị oai.
Tích
cực: thấy là một nền triết siêu diệu vượt
hết thảy, nghĩa là đừng nói vượt sức một
cô gái lại thuộc miền Nam nước Việt nơi
quá nóng không tiện suy tư thâm trầm, chỉ
hợp cho văn chương nhẹ với ba câu vọng cổ
mùi... nhưng là vượt xa luôn cả những tay
chuyên môn kỳ cựu về triết học, bằng sắc
treo lủng lẳng khắp nơi, sách đọc có tới
thiên kinh vạn quyển cũng không thể nói
được như vậy. Trước một vấn đề nào bất cứ,
hễ đặt ra là được trả lời liền, không cần
sắp xếp thế mà ý tưởng cứ tràn ra cách lớp
lang và xoắn xuýt với nhau làm thành mũi
dùi nhọn hoắc đâm thủng vào trung tâm đề
tài. Nói ngay về lối văn đã là một sự hiếm
họa: trước những vấn đề sâu xa hóc búa mà
được nói ra cách rất dung dị mà vẫn đầy đủ
và phong phú, không hề dùng một ngoại ngữ
nào mà vẫn trôi chảy đến độ nhiều người
không nhận ra cái tài vượt khó khăn nọ.
Nhưng những ai chuyên môn mới thấy quả
thực đó là một áng văn nghị luận trác
việt. Xưa rầy Việt Nam vẫn bị kể như không
có triết lý, đột nhiên xuất hiện một quyển
triết tuyệt luân bằng một thứ tiếng Việt
đầy đủ và phong phú ngay trong phạm vi
triết lý siêu hình. Đó quả là một hiện
tượng kỳ lạ. Chưa biết các điều nói tiên
tri về sau sẽ thật tới đâu (nên tôi xin
được gạt sang một bên) chứ về văn hóa thì
Việt Nam đã được một ân ban quý giá là
quyển Chơn Lý, khiến người dè dặt đến đâu
cũng thấy đáng lưu tâm nghiên cứu.
3.
Chung quanh vụ tiếp điển
Sau
khi thấy lời nói đáng tin, chúng tôi mới
hỏi han tra cứu về hiện tượng. Được biết
cô Lê Hoàng Kim là nữ sinh trường Oiseaux
Đà Lạt, đỗ cử nhân, đã dạy Pháp văn ở
trường Hưng Đạo (?) dùng hết tiền để nuôi
trẻ không cha mẹ sống lây lất đầu đường xó
chợ (cô đã gửi chúng vào các trường). Khi
được tiếp điển (lúc 25 tuổi, năm 1976) đột
nhiên cô thấy mình sáng suốt lạ thường,
thông hiểu nhiều chân lý cao cả... Dầu vậy
cô vẫn nghi ngờ sợ bị tà ma xâm nhập chi
đây, nên cô đã la lối vật vã không chịu
ngủ, cứ nói: “xin ông ra khỏi tôi”. Linh
điển bảo cô đi gặp ông Tám. Cô đã đến gặp
và nhờ ông chuyển lên Thượng Đế lá sớ cô
viết để tố cáo vụ này mà cô cho là việc
của “khối mạo hóa”. Nhưng ông Tám đã chứng
nhận chính là điển Ngọc Hoàng Thượng Đế,
cô nên về tiếp tục học. Thượng Đế bảo cô
mỗi tuần đến Thiền Đường (?) một lần để
ông Tám giúp quân bình luồng điển. Chỉ học
ít tuần cô đã được lên chức Kim Thân
Cha...
Đó là
đại để về vụ này. Theo những dữ kiện ít ỏi
đã thâu góp được có thể nhận thấy những
khác biệt với vụ bị tà ma nhập hoặc ông
lên bà xuống như sau:
Trước
hết nếu là tà thì người bị nhập mất tự do,
mất sáng suốt, mắt trở nên lờ đờ, mất trí,
có khi điên khùng, sức khoẻ thường sa sút.
Trái lại cô Kim vẫn giữ được sự sáng suốt,
tỉnh táo và tự do tức làm chủ thân xác
cũng như tâm trí mình, sức khỏe lại gia
tăng.
Thứ
đến nếu phải là ma nhập thì không làm gì
có vụ trải tiếng là tu cao nhất đương
thời, đó là ông Tám. Ông đã mở huệ nhãn có
thể nhận định tường tận về thế giới vô
hình, đã từng chứng kiến rất nhiều vụ ông
Tư đuổi quỷ, nên rất am hiểu về hành tung
của quỷ ma, vì vậy việc chứng nhận của ông
có giá trị vững chắc; ông đã phải tuyên
bố: “Ngài là chủ các nhà truyền pháp” ngầm
hiểu rằng ông chỉ là thừa sai của Ngài.
Ngài
chưa muốn cho nhiều người biết đến, chỉ
cho một số có đại căn duyên mới được gặp.
Khác hẳn nếu là tà thì thích ra mặt, nói
ào ào rứt ra không được...
Thường
những người bị tà nhập thích làm phép lạ
để khoe mẽ thị oai. Đây không làm phép lạ
nào cả, chỉ có một số sự vụ xảy ra như
trường hợp mỗi lần Ngài xuất hiện người ta
tuôn đến một hai trăm mà công an không làm
phiền gì. Người ta đoán rằng: Cha có làm
sao đó mới được như vậy, chứ luật lệ lúc
này là hễ tụ họp trên 10 người phải có
phép.
Những
người được nghe Ngài thuyết giảng đều cảm
thấy rất say mê, ngồi gần như được thanh
nhẹ thoát tục, an tịnh và phúc lạc như
quên hết cõi trần nhỏ nhen này.
Tóm
lại không thấy dấu hiệu nào tỏ ra là tà
nguỵ. Trái lại thấy là trường hợp rất đứng
đắn và dị thường nên đã được hầu khắp giới
trí thức thuộc đủ các tôn giáo: Phật, Cao
Đài, Hòa Hảo, Nho, Công giáo... đã đến tra
xét và thử thách đủ mặt cuối cùng đều phải
công nhận. Trong số đó nên đặc biệt chú ý
đến Công giáo và Nho. Công giáo xưa rầy
rất thận trọng đối với những trường hợp
tương tự, thì hầu hết bỏ ngoài tai coi như
tà ma quỷ mị không nên đụng tới. Nhưng lần
này cũng có một nhóm đến xin diện kiến,
đặt vấn đề cách rất kính trọng: như mở đầu
bằng Kinh Thưa Cha... (được ghi lại trong
2 băng và đã in ra sách). Còn Nho thì xưa
rầy có thái độ gần giống Công giáo đối với
những trường hợp tương tự thường tiên
thiên khinh rẻ không thèm lưu ý. Vậy mà
lần này cũng cử phái đoàn hùng hậu đến xin
diện kiến và trình bày rất nhiều vấn nạn
cũng như tìm hiểu thêm. Tất cả đã được Đức
Ngài trả lời thỏa đáng như được ghi lại
trong quyển Chơn Lý.
Tóm
lại đây là một hiện tượng dị thường có thể
tin được theo niềm tin của triết lý, nghĩa
là trước khi tin phải điều tra xét nét thử
thách cực kỳ cặn kẽ. Vậy tất cả những gì
phải là (xét nét, thử thách) đều đã được
làm đến chỗ tận cùng có thể, và đã đi đến
kết luận: có thể tin được bằng niềm tin
triết lý, tức người tin không bị ép buộc
mà là do tự tình, nên vẫn còn giữ tính
cách chọn lựa điều nào nên nhận điều nào
nên gạt sang một bên. Tóm lại có thể xem
Kim Thân Cha như một hiền triết thượng
thặng.
4.
Đà Hoa Nghi Mẫu
Xưa
Nữ Oa luyện đá vá trời,
Đà
Hoa vá đất hiện thời (đời ta).
Đà
Hoa là ai? Có hai lối thưa nằm ngay trong
lối đọc Đà Hoa và cả hai đều đúng. Lối một
đọc là Hoa Đà chỉ một thần y có tiếng chữa
được những bệnh không ai chữa được. Lối
hai đọc Đà Hoa: là đem lại tinh thần hòa
hợp càng đúng hơn nữa. Bệnh trầm trọng
nhất của nhân loại ngày nay là bất hòa,
muốn hòa giải phải có bàn tay thần y. Phải
chăng Kim Thân Cha chính là Thần y đến với
môn thuốc đó ẩn trong dự phóng “quy tam
hiệp ngũ” và hiện đang hướng dẫn các con
Ngài luyện đá ngũ hành để trát lại trời là
cải tổ các đạo giáo, sửa lại các chỗ sai,
để quy tất cả về một mối gọi là “quy Tam
hợp Ngũ”. Tam giáo là Thích, Lão, Nho quy
về một mối, Ngũ chi là Nhân đạo, Thần đạo,
Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo hợp một. Ta
thấy Người thi hành điều đó ngay trong
cung cách giảng giải: nói như người cha mà
không như kiểu các nhà lập đạo. Các vị này
thường đi theo lối phán truyền và thường
kèm thêm lời đe loi hay hứa hẹn, coi người
nghe là kẻ phàm hèn mê muội. Thí dụ: “Ta
sợ chúng ngươi còn mê muội... và bây giờ
các ngươi cả thảy phải quỳ xuống... trước
hết ta truyền cho năm phần... Ta sẽ phá
nghi cho các người hết mê muội... Hãy y
theo lời kinh này mà nói, ấy gọi là chánh
pháp”. Thường thường các kinh sách vẫn kèm
theo những lời đe loi, hoặc hứa hẹn như
vậy.
Trái
lại Kim Thân Cha nói năng như một ông cha
giữa bày con: hiền từ, ưu ái, xuề xòa, vui
tính để phân giải, khuyên răn, thúc đẩy,
soi sáng... không hề dùng kiểu phán truyền
hoặc đe loi thí dụ bay không tin tao sẽ sa
địa ngục. Trái lại Ngài thường nói nếu các
con không tin Cha thì “hãy gạt Cha
sang một bên, Cha không bảo con nào phải
tin Cha”. Cả đến những lỗi lầm ta
cho là cực kỳ vô phép như vụ “Phật soán vị
Thượng Đế” Ngài cũng không để ý đến, Ngài
chỉ nói qua loa khi “đứa nó hỏi Cha
vậy chứ ông Trời cao hay ông Phật cao?”
Với ta thì ngay việc hỏi câu đó đã là một
tội quái gở, vậy mà Ngài chỉ trả lời cách
cười vui giàn hòa. Có người nói quyết chí
tu đến xuất hồn để lên đảnh lễ Phật và
Cha, Ngài cũng chỉ cười và nói êm cho nó
hiểu rằng “đảnh lễ Cha mới đến nơi con”.
Về niệm Phật, niệm Cha cũng thế. Không nói
thẳng mà chỉ nói cách rất tế nhị để nó
hiểu niệm danh Cha mới đúng.
Đó là
cung cách, còn về nội dung thì là một sự
giàn hòa lớn lao: xưa nay tôn giáo với
khoa học hầu hết ở thế đối nghịch. Tôn
giáo thì chỉ biết có tin, tin đến mê tín.
Còn khoa học thì chỉ biết có lý, lý đến
duy lý, duy trí, bám sát vào mớ ý niệm của
sự vật. Vì thế cả hai không hợp nhau được.
Nay đến lượt Vô vi thì tình thế rất lơ mơ
vừa muốn là khoa học nhưng lại thêm tiếng
Phật giáo và danh hiệu thành ra cái tên
dài thòng một cách vô duyên và tự mâu
thuẫn. Đã là tôn giáo thì phải tin cả
những điều lý trí chẳng hiểu ra sao cả thí
dụ Adiđà là ai? Tây phương cực lạc có thật
chăng, v.v... chưa biết vậy mà phải tiên
thiên chấp nhận thì hẳn là trái với khoa
học không buộc tin gì mà chỉ có việc thực
nghiệm và chứng minh để đạt tới sự minh
hiển khách quan và phổ biến. Nói chung
không tôn giáo nào có tính cách khoa học,
ít hoặc nhiều, phần lớn là nhiều, đều chứa
lu bù mê tín. Và đấy là yếu tố cản đường
không cho các tôn giáo hợp được với nhau.
Vì muốn hòa hợp phải tìm ra điểm quy tụ có
tính cách khoa học theo nghĩa tốt nhất tức
là phổ biến tính: ở đâu và bao giờ cũng
vậy, kiểu luật vật lý hay toán học. Điểm
đó trong tôn giáo hay triết lý phải là Vô
vi thứ thiệt. Tuy Đức Phật tỏ ra đã ý thức
điều đó khi tuyên bố lấy Thái Hư làm nền
siêu hình, nhưng đạo Phật truyền đến đời
ta không còn tinh tuyền Vô vi mà đã đẩy
Hữu vi dị đoan mê tín rồi, thành thử cố
buộc Vô vi vào với Phật tất mắc sẹo.
May
thay Kim Thân Cha đã đem đến cho Vô vi một
chiều kích mới đó là nền triết lý gắn liền
với Minh Triết, nên có tính cách phổ biến
đầy khả năng làm nơi quy tụ mọi tôn giáo,
đạo pháp hay cả triết lý nữa như đã bàn sơ
qua ở trên khi nói về cơ cấu. Như vậy là
thêm cho Vô vi chiều kích Lý nữa, Lý viết
hoa tức thứ Lý mà khi mình đạt được thì
vạn lý thông. Cái lý đó khiến Vô vi trở
nên một Pháp lý hoàn bị: không những có
Pháp chính tông mà còn có cả Lý siêu diệu
đủ sức hòa giải được tôn giáo với triết
học và đó là đầu mối cho mọi cuộc hòa giải
khác.
5.
Triết lý đang hướng đến Vô vi
Đó sẽ
là bình minh cho một kỷ nguyên mới làm
bằng hòa hợp yêu thương mà loài người đang
mong đợi, nhưng cho tới nay chưa làm sao
thiết lập được vì then chốt nằm trong
triết học và tôn giáo. Triết có hòa hợp
được với nhau trước rồi với các tôn giáo
sau thì mới có các hòa giải khác. Vậy mà
hiền triết còn đang chia rẽ trầm trọng.
Người ta hé nhìn thấy căn do ở tại tính
chất cơ khí của triết học tức triết còn
nằm trọn vẹn ở đợt hiện tượng như khoa
học. Muốn đạt thân triết học phải mặc được
tính cách cơ thể: hòa hợp được Có với
Không, siêu linh với hiện tượng: hai đàng
phải xoắn xuýt với nhau một cách cơ thể.
Hiện
nay nền triết này đã thấy manh nha bên Âu
Mỹ, rõ nhất có lẽ nơi triết gia Mỹ ông
Whitehead. Người ta đã tìm xem triết cơ
thể này đã được gợi hứng từ đâu và đã tìm
thấy dấu vết của nó qua thuyết “đột biến”
(emergen evolution) của Lloyd Morgan và
Smut, rồi lần lên qua thuyết biến hóa của
Darwin, rồi qua thuyết không mâu thuẫn
(noncontradiction) của Hegel (hiểu ngầm là
vừa có vừa không một trật mà vẫn không mâu
thuẫn), rồi lên nữa đến Leibniz, sau đó
thấy bặt tăm. Thế là phải kết luận nền
triết cơ thể mới bên Âu Mỹ được gợi hứng
từ Nho. Nhưng nền Thái Hòa mà Leibniz đưa
ra chưa hẳn có tính chất cơ thể: nó chưa
đạt thân: cơ thể phải tự nội, nội khởi,
còn đây phần nào nó giống với số phận Thái
Hòa tiền chế (Harmonie préétablie của
Malebranche) tức do Thiên Chúa xếp đặt
trước (préétablie) bên ngoài sự vật chứ
không phải Thái Hòa nằm ngay trong sự vật
như trong cơ thể chính tông, triết lý “cơ
thể” này thiếu chất tâm linh không thể
phát triển mạnh đủ để trở thành một nền
triết lý nhân sinh chung cho cả mọi người
trong nước, mới chỉ là một kiến trúc lý
trí được thông báo trong giới đại trí thức
như một đề nghị, một ước mong, mới là trí
lý mà chưa là trí tuệ.
Tuy
nhiên cũng phần nào giúp cho con người hé
nhìn ra nó phải tìm ở đâu như được chứng
tỏ trong hội nghị quốc tế triết học
Honolulu năm 1949 quy tụ đại biểu triết
học của khoảng 50 nước trên thế giới. Sau
nhiều ngày bàn luận hội nghị đã đi đến
việc bầu Khổng Tử làm nhạc trưởng (chef
d’orchestre) để giữ đũa nhịp điều khiển
cuộc hòa tấu Đông Tây đạo đời. Đó quả là
một sự vẻ vang cùng cực cho triết Đông, nó
đã đến cách êm thắm kiểu “bất chiến tự
nhiên thành”. Nhưng thành trên lý thuyết
mà chưa thành trên sự thực, là vì Khổng
hãy còn nằm tê cóng trong các sách vở Hán
Nho, chưa được gạn lọc để xuất hiện như là
Nguyên Nho hay đúng hơn là Việt Nho. Điều
này chỉ mới xuất hiện ở miền nam Việt Nam,
do vậy mới thấy được lý do sâu xa của việc
chọn lựa kia. Lý do hội nghị đưa ra là vì
Khổng Tử có chân đứng trên cả hai tàu: tàu
vật chất khoa học lẫn tàu tâm linh. Nhưng
lý do sâu xa nằm cả bên ngoài ý thức của
mọi người thì đó chính là tính chất Vô vi
cao độ nơi ông, nhờ ông đã hiện thực được
chữ Trống của Đạo Việt làm cho Nguyên Nho
đã đạt được bốn cái Không (tứ vô) như Vô
vi nay:
Không
chùa chiền miếu mạo.
Không
cầu cúng lễ bái.
Không
hàng tư tế sư ni.
Không
có tổ chức.
Vì
những cái Không này nên Nho không là tôn
giáo, nhưng lại có tính cách tâm linh, nên
là triết lý mà vẫn gây ảnh hưởng kiểu tôn
giáo, tức là một trường hợp họa hiếm trong
dĩ vãng. Không may chiều kích tâm linh này
các Nho gia tự Hán về sau đã mất ý thức,
tuy còn sống được ít nhiều nhưng sống cách
vô thức, chính vì thế mà đũa thần chỉ huy
giàn hoà tấu đã được hội nghị ưng trao vào
tay Nho, nhưng Nho chưa đủ sức tiếp nhận
vì thiếu sự nhận thức ra nét đặc trưng của
mình.
Nay
Kim Thân Cha xuất hiện cũng trong chiều
hướng lưỡng thê nó, trần mà không trần,
nhưng được đẩy lên một bậc cao sâu hơn:
một đàng cũng tứ vô: nên không là tôn
giáo, nhưng lại có tính chất tôn giáo rất
mực. Vì khi hiểu tôn giáo là kết hợp với
Chúa, với Thượng Đế thì khó lòng có đâu bì
kịp với Vô vi, nơi mà siêu linh hiện thân
sống động, cũng như với phép niệm Cha,
thường niệm, vô biệt niệm, con người lúc
nào cũng cảm thấy như được nối kết mật
thiết với Cha Trời. Chính vì chỗ này mà
tôi cảm thấy lễ tế Thiên được phục hoạt và
phổ biến ra trong dân chúng cách mỹ mãn.
Xưa kia vì là chế độ quân chủ độc tôn nên
việc tế Thiên dành cho một mình vua chủ sự
thay cho toàn dân. Nay là thời dân chủ thì
hết mọi người phải được tế thiên trực
tiếp. May thay qua Pháp lý Vô vi ta có
được cách tế thuận lợi và thắm thiết vô
cùng đó là việc thường niệm, vô biệt niệm
danh Cha. Nhờ vậy Pháp lý Vô vi (qua quyển
Chơn Lý) vừa là triết học và đồng thời rất
siêu linh và đầy ắp tình người. Xưa rầy
triết học hầu hết chỉ là triết học trừu
tượng nằm chình ình bên ngoài đời sống,
chứ không có minh triết vốn gắn liền với
cuộc đời. Hoặc chỉ có minh triết kiểu Nho
mà không có triết học đi kèm, tức không có
phân tích, lý luận, mạch lạc. Quyển Chơn
Lý kiêm cả hai, vừa lý luận sát nút mà vẫn
đi liền với minh triết siêu linh, nên cũng
giống Việt Nho “có chân trong cả hai tàu”.
Quyển Chơn Lý chính là một thứ kiện chứng
cho Việt Nho; nhiều lần Nho còn được gọi
tên ra để được đề cao cách minh nhiên, đến
độ nhà xuất bản quyển Kinh đã để mấy lời
sau trên đầu sách: “Kỷ niệm tình huynh đệ
xiết chặt giữa “Minh Đức Nho giáo” và Pháp
lý Vô vi với niềm tin tưởng tình huynh đệ
sẽ nới rộng thân ái, hòa đồng với tất cả
các giáo phái tu trên thế gian, thuận theo
Thiên ý (cơ quy nhứt, tam giáo quy nguyên,
ngũ chi hiệp nhứt)”.
Mấy
câu trên của ngưới ấn tống quyển Kinh đáng
được coi như lời lưu niệm của một cuộc An
hòa mà loài người đang mong ước từ trước
tới nay nhưng chưa nơi nào đạt tới, trừ
trên mảnh đất Việt Nho nhưng không được
chói chang như lần này. Đây sẽ là nền An
hòa đầu mối giữa tôn giáo và triết học.
Đây quả là một hiện tượng lớn lao: xưa nay
tôn giáo vẫn ghét triết, nhiều triết gia
đã bị tôn giáo sát hại. Còn triết thì vẫn
khinh tôn giáo, coi như cái gì đầy mê tín
dị đoan không xứng đáng cho người học
triết để ý... Đến nay Pháp lý Vô vi xuất
hiện như một chữ Hòa: Pháp là một thứ tôn
giáo đã tiến đến đợt cao nhất trên đường
tâm linh. Nhìn lại từ lúc loài người phải
cúng thần bằng thịt người, rồi dần dần
thay bằng thịt thú vật. Sau cùng như trong
đạo Phật mới đạt tới độ cúng bằng hoa
trái. Vậy đã là cao nhất cho tới nay. Bây
giờ Vô vượt một đợt là không còn cúng gì
bên ngoài nữa hết, bàn thờ Vô vi chỉ còn
là đỉnh đầu: kinh hạt chỉ còn là danh Cha
được thần niệm.
Còn
triết đã vượt lý trí để vào tâm linh, nên
không còn khô khan trừu tượng, nhưng là
thứ triết đầy ắp tình người, đồng thời
thấu tận minh triết siêu diệu. Đúng là có
chân trên cả hai tàu nhưng cách sống động
đầy linh hoạt: quả là xứng đáng đứng lên
nắm lấy đũa chỉ huy của nhạc trưởng để
điều khiển cuộc hòa tấu giữa Đông Tây, Kim
cổ, giữa khoa học với đạo đức, giữa triết
học với tôn giáo....
Người
ta nói: “tư tưởng hướng dẫn thế giới”. Vậy
mà tư tưởng chính là triết đó, vì triết
chẳng qua chỉ là tư tưởng thấu triệt nhưng
được hệ thống hóa. Cho nên đắc thắng trên
mặt trận triết là một cuộc thắng vĩ đại
hơn hết trong văn hóa loài người vậy.
6.
Những điềm triệu bên ngoài
Đạo
lý đã vậy mà ta còn thấy nhiều điềm triệu
bên ngoài thí dụ vụ tỵ nạn của người Việt
chúng ta từ năm 1975: ông Trời coi lơ mơ
vậy mà khôn đáo để, khéo sắp xếp để tung
chiến sĩ khắp nơi. Đã vậy còn ích kỷ
thượng hạng nữa chứ: tung đi cả ngàn vạn
cán bộ khắp năm châu mà không chịu bỏ ra
lấy một xu, giá đem điều này mà trách cứ
chắc sẽ được nghe trả lời: “Cha có xu nào
mà bỏ hở con, con phải biết Cha Vô vi mà
lại, mà Vô vi cũng là vô xu, nhưng có vậy
mới diệu hữu chứ con. Con chê Cha là ích
kỷ thì Cha nói thêm Cha là kẻ đại ích kỷ,
có vậy mới dậy được con biết mậu kỷ. Vì
xưa rầy con toàn nghĩ đến tha vật chứ có
chịu nghĩ đến cái Kỷ của con đâu để mà mậu
kỷ (mậu kỷ là vun bồi cho hồn mình nên tốt
tươi, trong Nam đọc mồ kỷ), mà không mồ kỷ
thì làm sao con trở nên chiến sĩ đắc lực
của Cha. Con có thấy chưa cờ Vô vi đã bay
phất phới khắp nơi rồi đó mà Cha chưa đủ
chiến sĩ. Sao con không làm chiến sĩ của
Cha và đi tìm thêm chiến sĩ cho Cha.
- Vâng con sẽ đi tìm nhưng Cha
nói cờ Vô vi đã bay phất phới mà cờ ở đâu?
Sao con không thấy? Đã Vô vi thì làm sao
còn có cờ hở Cha?
- A! Không có mà có đó con:
trong Không mà Có mới là Vô vi. Cờ Vô vi
đang tung bay kia kìa con không thấy sao?
Chính là lá cờ của quốc gia Việt Nam chúng
con đó, cũng mang bộ số 2, 3, 5 như Vô vi
nên cũng gọi được là cờ Vô vi. Khi con soi
hồn chính là lúc con kéo cờ Vô vi lên đó
và rồi con cũng chào cờ, chào cách trịnh
trọng bằng cả hai tay. Ba ngón tay bịt
tai, mắt, trán, đang khi hai ngón kia bỏ
thõng xuống. Còn số 5 là lúc con làm pháp
luân để khử trược lưu thanh ngũ tạng của
con: con hiểu vậy chưa? Ngũ tạng là số 5
đó.
- Thưa Cha đúng rồi những con có
thấy bộ ba số này trong cờ Việt Nam chúng
con đâu?
- Có chứ con, đây này để Cha chỉ
cho: số 3 là ba gạch đỏ đó, còn số 2 ẩn
trong màu đỏ. Màu đỏ theo cung ngũ hành
chỉ phương Nam số 2, vậy chả có số 2 là
gì? Số 2 (màu đỏ) chỉ mạch nhâm mạch đốc
đặt trước số 3 chỉ Tinh, Khí, Thần, thì
tức là lá cờ gồm ba số 2, 3, 5 là cờ của
Vô vi cũng là cờ của chúng con, nó hàm ý
rằng Việt Nam có nghĩa là vượt đến chỗ văn
minh, vượt đến bến giác chỉ bằng lửa đỏ
quẻ Li ở phương Nam đó.
- Thưa Cha vậy còn số 5?
- Số 5 à? Đó là màu vàng trung
cung hành Thổ số 5 cũng gọi là ngũ hoàng
cực hay ngũ phúc. Nếu con người tiến đến
được đúng trung cung (số 5) thì ngũ phúc
sẽ lan tỏa khắp hoàn cầu mà trong lá cờ
chỉ bằng màu vàng lan ra khắp hết: Con
hiểu vậy chưa? Cho nên mỗi khi con thấy lá
cờ nền vàng ba sọc đỏ thì con phải nhớ đấy
cũng là cờ Vô vi, đấy cũng là cờ tiên
phong của thế giới đại đồng và lập tức con
phải niệm hồng danh Cha: thường niệm, vô
biệt niệm. Lá cờ giúp con nhớ điều này.
Vậy con hãy nhủ lòng rằng: kìa! Cờ đã phất
lên rồi đang tung bay khắp năm châu bốn bể
sao tôi còn ù lì bê trễ chưa mạnh dạn hăng
say đứng lên chào cờ, và làm việc theo
mệnh lệnh của cờ...”
Trên
đây là đoạn Việt Nam tôi mạo muội bắt
chước lối văn Bửu Kinh mà tôi cực kỳ yêu
mến, một quyển kinh có lời văn cao siêu
nhưng lại thân mật có lúc như dí dỏm. Nếu
đức Di Lạc có nói hay viết chắc cũng theo
lối văn này nên tôi đánh bạo nhái chút cho
hợp tinh thần tự An vi tới Vô vi.
Tóm
kết: xét về nội dung ta thấy Vô vi đã
nhiều lần xuất hiện dưới những hình thái
khác với những danh nghĩa khác và đã tỏ ra
linh hiệu rất mực, huống chi lần này lại
xuất hiện công khai trực chỉ với tên Vô vi
và đã tỏ sự hiệu năng kỳ lạ mà nhiều người
tu Vô vi đều được chứng nghiệm; còn phần
Hữu vi thì việc an bài của Thượng Đế vượt
quá sức tưởng loài người: chỉ sau khi xảy
ra chúng ta mới thấy phần nào. Thí dụ sứ
mạng được trao cho những con Việt để lo Cơ
Quy Nhất với sự hiện diện của người Việt
khắp năm châu là điều trước kia không ai
dám nghĩ tới. Một nước nghèo xác sơ lấy
tiền đâu mà tung cả từng vạn chiến sĩ ra
khắp hoàn cầu. Vậy mà Cha Trời đã làm rồi
đó, không tốn một xu. Như thế ta chỉ còn
biết ngợi khen Cha Trời chẳng cùng và tận
tậm tận lực thi hành theo sự sắp đặt vi
diệu của Người.
Kính
Lạy Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại
Thiên Tôn
PHỤ
TRƯƠNG:
VII. Những
hàm ngụ trong Tây Du Ký
Tổ Huệ Năng (638-713) kể
là cuộc cải cách cuối cùng của Phật giáo
trên đất Việt Nho. Tính đến Vô vi có trên
12 thế kỷ không thấy còn ghi được cuộc cải
cách nào. Nhưng những điều cần cải cách
thì còn nhiều như ta đã thấy trong Vô vi.
Trong quãng hơn một ngàn năm đó có một
cuộc cải cách “ước ao”, hiện thực bằng
tưởng tượng như được ghi lại trong quyển
Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân (1508-1568).
Nhưng cuộc cải cách được nói kiểu bóng bẩy
quá không ai thấy được. Vậy xin bàn sơ qua
ở đây.
Tây
Du Ký là quyển tiểu thuyết có chủ đề, lấy
việc thầy Huyền Trang đi Tây Trúc thỉnh
Kinh làm cốt truyện. Đó là sách châm biếm
đạo Phật đến độ ngạo nghễ, hay muốn nói
hoằng dương đạo Phật như người ta quen tìm
cũng được, nhưng hoằng dương kiểu khác
thường tức dùng ý niệm Vô vi để đả phá tất
cả những gì hữu vi sắc tướng trong Phật
giáo và Lão giáo.
Người
ta không thấy thế vì quá quen với kỷ niệm
hiển vinh về thầy Huyền Trang đi thỉnh
kinh, nên khi đọc truyện Tây Du Ký đã tin
xuôi ngay rằng Tam Tạng đại biểu cho thầy
Huyền Trang, có ngờ đâu rằng Tam Tạng chỉ
là một nhân vật tiểu thuyết được Ngô Thừa
Ân dựng nên để đại biểu cho hạng người cực
kỳ hữu vi, hữu vi cách đặc biệt bằng lối
tu tụng kinh mà không chịu tìm hiểu ý
nghĩa, vì thế mang tên là Tam Tạng, được
giới thiệu là tu lâu đời nhiều kiếp, lên
đến bậc đệ tử thứ nhì của Phật, thế mà lúc
chuyển kiếp vẫn còn tỏ ra ngu như bò: Ngộ
Không giết 6 tên cướp thì om sòm phản đối,
không hiểu được đó chỉ là biểu tượng của
lục căn lục trần, không giết chết chúng
thì tu (nói bóng là đi thỉnh kinh) cái nỗi
gì? Quả thực Tam Tạng chưa đáng xách giầy
cho Ngộ Không, Ngộ Tịnh. Riêng Tam Tạng
đầu óc chứa chật ních chữ chết khô chứ
chẳng ngộ được cái gì cả, lòng còn đầy
tham, sân, si: mất ngựa đã khó, mất cái áo
cà sa lại càng khóc đậm: trằn trọc cả đêm
không ngủ đi được, rồi quay ra sân hận thả
dàn, hơi tí niệm chú cán cô làm khổ Ngộ
Không. Vậy mà được làm thầy chẳng qua nhờ
vào cái hữu vi là quyền đạo ban cho chức
tước, tiêu biểu bằng áo cà sa và cái vòng
xiết cô biểu thị sự chuyên chế của hàng
tăng lữ. Cái vòng này do chính Phật Thích
Ca trao cho Quan Âm, Quan Âm lại trao cho
Tam Tạng rồi Tam Tạng đánh lừa (bằng bất
chính ngôn) để Ngộ Không đội lên đầu đặng
bắt làm việc như ý mình.
Tại
sao lại có tình trạng trớ trêu là trò vượt
xa thầy như vậy? Cần xem đường lối tu mới
hiểu được. Cứ xét tội của Tam Tang phải
luân hồi thì biết đó là tội chểnh mảng bỏ
việc nghe giảng kinh. Câu ấy cho ta biết
lối tu của Tam Tạng ra sao. Đó là lối tu
tụng kinh gõ mõ chứ không chịu nghe giảng
để thấu hiểu thâm ý sâu xa của kinh, nó
không nằm trong chữ nghĩa sách vở mà lại
nằm trong chính tâm mình. Vì không theo
như vậy nên bị luân hồi để làm một việc
ngược hẳn với tụng kinh là đi thỉnh kinh
vô tự. Tụng những ba tạng kinh gồm trên 15
vạn quyển với cả hàng nhiều trăm triệu
chữ, vậy mà bây giờ còn bắt đi thỉnh Kinh
sao? Tại đâu lại có sự trái ngược như vậy?
Thưa vì đây là bí quyết của sự thành công
của việc tu luyện đích thực nó ở tại phải
đi vào đến chỗ chân không mới đạt diệu
hữu. Hãy coi gương Ngộ Không tuy là cốt
khỉ nhưng nhờ lối tu Vô vi, truyện gọi là
“ngộ được tạo không” nên quyền phép trí lự
vượt xa Tam Tạng cả ngàn lần, nếu đo bằng
mức đi nhanh thì phải nói cả triệu lần.
Đường đi Tây phương Ngộ Không đi về một
ngày được 50 lần, hai trò kia phải mất 10
ngày, còn Tam Tạng đi cả ngàn kiếp chưa
chắc tới, tức kém Ngộ Không đến triệu lần.
Ấy
chỉ vì Ngộ Không đã học được bộ cơ cấu của
Việt Nho là ngũ hành. Vì cái học của Ngộ
Không ở mãi đợt 5 bên trên 4 bậc kia là:
Chữ
thuật: biết nói tiên tri
Chữ
lưu: biết kinh sách (lối tu của Tam Tạng)
Chữ
kinh: biết tọa thiền
Chữ
động: biết hành thiền
Vô tự
vô ngôn, tức thầy không nói nữa, mà chỉ gõ
đầu Ngộ Không 3 cái rồi chắp 2 tay sau
lưng đi vào phòng đóng cửa lại. Đó là
phảng phất lối tu tâm đạo nhưng bí truyền
rồi thất truyền nên người sau không biết
cách xếp đặt ra sao: có phải soi hồn chỉ
bằng gõ lên đầu 3 cái chăng? Chỉ biết rằng
nó không ra ngoài bộ cơ cấu vài ba (gõ 3
cái chắp 2 tay lưng: nhớ Ngũ Tổ Hoằng Nhân
đến xem Huệ Năng đang giã gạo cũng gõ vào
cối 3 cái rồi bỏ đi). Nhờ bộ cơ cấu 3-2
trong tâm pháp bí truyền đó mà Ngộ Không
sau này mới đủ khả năng dẫn phái đoàn đi
thỉnh Kinh, và cuối cùng đã thành công đạt
được Kinh Vô tự, có nghĩa là ngộ
được đạo Không. Nhờ đó mà cả nhóm được
thăng tiến.
Tam
Tạng được thăng chức “chiến đàn công đức
Phật” với lời khen “thậm hữu công quả” vì
đã thỉnh được chân kinh.
Ngộ
Không được thăng chức “chiến đấu thắng
Phật” với lời khen biết “ẩn ác dương
thiên” và nhất là “toàn chung toàn thuỷ”.
Đọc qua ai cũng thấy Tam Tạng quả vị thấp
hơn Ngộ Không nhiều lắm. Vì “thậm hữu
công” là thỉnh được Chân Kinh. Mà thực tế
thì hỏi ai có công trong việc này nhiều
hơn nếu không là Ngộ Không.
Chí
như quả vị Ngộ Không thì trung thực không
ai tranh vào đấy được, tức đã vượt công
quả để tiến đến những cái tế nhị thuộc
“công trình” khó hơn nhiều, như “ẩn ác
dương thiện” và nhất là “toàn chung toàn
thuỷ”= khởi đầu đã trọn mà kết quả cũng
trọn.
Để
hiểu được cái khó khăn ở chỗ này ta nên
nhớ lại 4 bước chân tu là định, tĩnh, an,
lự. Phần đông tu được 2 bước đầu tưởng là
đã hết rồi ở lì lại đó mà không dám tiến
lên bước thứ 3 là an, thứ 4 là lự.
Nói
khác phải tu 2 bước đầu cho thấu triệt:
định phải đuợc vững chắc mà tĩnh cũng phải
trọn vẹn thì mới ngộ được Chân Không. Nếu
không định tĩnh trọn hảo thì chỉ đạt cái
không tiêu cực tức là không có gì hết phải
định tĩnh triệt cùng mới đạt Chân Không,
mà có Chân Không mới đạt Diệu Hữu là các
cấp tiến cao hơn như Tề Thiên. Thường
nhiều người ngưng ở 2 đợt đầu là chỉ yêu
có thanh, không dám tiến thêm để biết
trược. Tưởng là đã biết trược rồi mà không
phải. Vì mới biết trược từ trược, chưa
biết trược từ thanh. Vì lầm thế mà ngừng
lại, nên có thuỷ mà không có chung. Muốn
có thêm chung thì phải bước thêm 2 bước An
Lự: “phải chiến thắng tư tưởng lìa
trược để yêu trược, muốn đi xuống trược
để biết trược trở lại” (Chơn Lý).
Tôn Ngộ Không đã được chức Phật chiến
thắng vì đã dám chọn học 72 phép địa sát
là học trược từ thanh. Thanh là đã Ngộ
Không, bây giờ học trược để thể hiện tinh
thần Di Lạc an vui là tinh thần của những
vị đã đi hết định tĩnh bắt đầu đi xuống để
an lự.
Tam
Tạng có công thỉnh được Kinh Vô tự. Bây
giờ nếu khéo tu theo Kinh Vô tự để Ngộ
được Không, thì có ngày sẽ lên được chức
Tôn Ngộ Không, rồi trải qua những giai
đoạn học 72 phép địa sát với những thăng
trầm của nó, lúc ấy và chỉ lúc ấy thôi mới
đạt chức “chiến đấu thắng Phật” và mới có
toàn thủy mà cũng kiêm cả toàn chung. Chứ
hiện nay với chức “đàn công đức Phật” thì
làm sao có được hai chữ ‘toàn chung’. Chưa
toàn chung, mà cũng chưa cả toàn thuỷ.
Chân đã lìa đất mà đầu chưa đội được trời.
Còn lơ lửng giữa không trung: trầm không u
tịch kiểu duy thức vậy thôi.
VIII. Từ
đốc hành đến hoá nhi đa hí lộng
1.
Age Quod Agis
“Hãy
làm cái mày đang làm”. Đó là khẩu hiệu mà
nhiều Đại học trung cổ Âu Châu áp dụng
bằng cho một người cầm gậy đi quanh lớp
lâu lâu nói lên câu đó để giúp thính giả
chú tâm vào đề tài. Việc đó tỏ rõ tầm quan
trọng cực kỳ của sự tập trung tâm ý. Vì
quả thật nó là mấu chốt cho các việc vĩ
đại. Vĩ nhân là người có khả năng dồn trọn
chú ý vào công việc đang làm. Vì vậy mà
Việt Nho nói: “Quân tử vô sở bất dụng
kỳ cực” = người quân tử không làm
cái chi mà không làm đến chỗ cùng kỳ cực
của nó. Cứ xem việc học thì đủ rồi: để thi
hành khẩu hiệu “cùng kỳ cực” Trung Dung
đưa ra đến năm bước là: bác học, quảng
vấn, thận tư, minh biện và đốc hành.
(T.D.20)
Đốc
hành là đợt cuối cùng, Đốc đây là để cả
tâm trí nghị lực vào việc, không cái gì
không được đưa vào. Triết lý An vi muốn
cho đốc hành đạt độ cùng cực trên mọi mặt
nên đặt việc lý tưởng lên đợt an hành bên
trên lợi hành và cưỡng hành. Vì cưỡng hành
là làm vì sợ (sợ trời đánh thánh vật), lợi
hành làm vì lợi vì danh, những động lực đó
đều ở bên ngoài nên làm giảm bớt sự chú
tâm vào việc. Vì thế phải là an hành không
chú tâm vào đối tượng vào mục tiêu nữa mà
dồn mọi năng lực vào chính việc đang làm
để trong một lúc chỉ làm một việc.
Vậy
theo Việt Nho thì việc nào đáng làm hơn
hết? Thưa đó là tu thân. Bởi Việt Nho đã
định nghĩa con người là tác nhân, tức bản
tính nó làm bằng tự tác hành, nên việc nào
giàu tính chất tự tác tự hành hơn hết thì
đó chính là việc triển diễn bản tính của
nó hơn cả, nên đáng làm cách chú tâm hơn
hết. Mà cách chú tâm hơn hết thì không
bằng tu, vì tu là việc đầy công phu mà lại
không nhằm lợi lộc gì trước mắt, chính vì
thế mà nó giàu chất tự động nên đầy khả
năng triển diễn bản tính người. Việt Nho
đã đưa ra một nguyên lý mà giới Nho học
Tây Âu cho là kỳ diệu: nguyên lý đó là hết
thảy mọi người tự vua tới dân đều phải lấy
việc tu thân làm bản gốc: “tự thiên tử
dĩ chí ư thứ dân: nhất thị giai dĩ tu
thân vi bản” (Đại học câu 1).
Đó là
về mặt Việt Nho, còn khi xét về Vô vi thì
Việt Nho cũng đã hiện thực 4 bước trên: là
đọc các sách cần thiết, hỏi han kỹ lưỡng
từ ông Tám trở xuống, rồi suy nghĩ đối
chiếu sâu rộng, đoạn phân tích tỉ mỉ và
thấy đó là lối tu rất đáng thi hành. Vậy
bây giờ còn lại bước cuối cùng là làm, mà
đã làm thì phải đốc hành, phải an vi, tức
phải làm đến cùng kỳ cực: cho hợp câu “quân
tử vô sở bất dụng kỳ cực”.
Vậy
đó cũng là cung cách cả Vô vi. Vì Vô vi
nay không như vô vi xưa chuyên có mặt
thanh mà lánh mặt trược, còn Vô vi mới y
như An vi, bao cả thanh lẫn trược. An vi
không tị thế không lìa đời mà là xử thế.
Vô vi nay cũng vậy: đêm công phu ngày công
quả công trình, nên chấp nhận câu của Việt
Nho:
Thứ
nhất là tu tại gia,
Thứ
nhì tu chợ,
Thứ
ba (mới đến) tu chùa.
Ông
Tư, ông Tám đều có vợ con, gia đình, vậy
mà cứ để cả mảng thế mà tu, quả là giống
với An vi, bao gồm cả trong lẫn ngoài, cả
nội thánh lẫn ngoại vương. Đấy là xét về
phạm vi tác hành.
Xét
đến cung cách hành động cũng lại giống như
An vi là đưa tác hành lên bậc bản tính con
người như trên đã nói về mấy phương trình
căn bản của Vô vi, xin nhắc lại trong bảng
sau đây:
Người
= hồn
Hồn =
điển
Điển
= tự tác
Tự
tác = tiến hóa
Tiến
hóa = tu
Phương
trình thứ nhất “người là hồn” của Vô vi
hơi mạnh, coi như bỏ xác, nhưng thực sự
chỉ có ý nhấn mạnh đừng lẫn hồn với xác,
hồn mới là chính, mới là chơn nhơn chứ xác
thân chỉ là tạm bợ nay còn mai mất.
Phương
trình 2 hồn là điển, đây là câu định nghĩa
mới mà hợp thời và đã có hàm tàng trong
Việt Nho với câu định nghĩa “người là
thiên địa chi đức, âm dương chi tu khí”.
Chữ đức, và nhất là chữ “tú khí”
(cái khí thanh của âm dương) quả là nền
móng cho định nghĩa người là điển (hoặc
linh quang cũng thế, vì quang là một hình
thể của điển) tức nói lên cái gốc rễ của
nó là một khối linh quang cực kỳ mãnh liệt
vô biên.
Phương
trình ba: điển là tự động, tự tác vì điển
là năng lực cường mạnh nhất trong vũ trụ,
nó chỉ có máy động các cái khác chứ nó
không thèm cậy ai đẩy nó. Không có điển
các máy móc liền nằm ụ: hễ có điển là mọi
cái đồng thời sống, động, sáng, nóng...
Cho nên định nghĩa Thượng Đế là khối đại
linh quang quá đúng cũng như nói hồn là
tiểu linh quang chiết ra từ đại khối linh
quang cũng là biểu lộ hết tính chất tự chủ
của con người, vì thế mà có phương trình
điển là tự tác, hoặc nói tự động là tự tác
cùng tột không để chỗ nào hở.
Phương
trình 4: tự tác là tiến hóa. Thoạt xem hơi
khó hiểu nhưng xin nhớ lại lời Bửu Kinh:
con người là hồn (tiểu linh quang) xuống
trần để học tiến hóa. Theo câu đó thì mục
tiêu của hồn đã rõ là tiến hóa tức là trở
về với cội nguồn cực thanh tịnh của nó.
Hồn ví như quả bóng đã được vất xuống thế
tất phải bật lên. Vì bản tính của bóng da
khi ném xuống là phải nảy lên trở lại
trạng thái nguyên thuỷ của mình. Đó là
hình ảnh soi sáng cho quan niệm coi hồn là
điển, nên tiến hóa là bản tính của nó, bản
tính nó là tìm cách xuyên qua mọi trở ngại
để về chỗ tự đó nó được ném xuống.
Phương
trình 5: tiến hóa là tu, nói rộng muốn
tiến hóa phải tu, tức phải có tác động đầy
nhân tính là tự động, tự tác như đã bày tỏ
ở phương trình ba. Nói vậy cũng như nói tu
chính là bản tính của người. Con người
muốn nên người thì phải lấy tu thân làm
bản gốc: “tự thiên tử dĩ chí ư thứ
dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản”.
Do đấy hiểu được tại sao cái tội nặng nhất
trong An vi cũng như Vô vi là lười biếng
và công ty của nó là giải đãi, ù lì, bê
trễ, ỷ lại... không chịu tu hay tu không
tinh tấn. Như vậy không tu là không chịu
làm người, là giảm bớt nhân tính tức giảm
bớt tính tự động, tự cường, tự lực, cương
nghị, tinh tấn, nói vắn tắt là ý chí tự
động đóng vai trò quyết định trong việc
tu. Cũng chính vì thế mà Vô vi không cho
cầu xin sự phò hộ, trong lời niệm chỉ xin
Thượng Đế chứng giám cho mình tu đắc đạo,
chứ không xin phò hộ sợ sinh tính ỷ lại.
Thực ra xin phò hộ không phải là xấu,
nhưng chỉ hợp cho những trình độ khởi đầu,
còn khi đã tiến cao, đến đoạn chót thì
phải tự lực tự cường để giống với Cha Trời
là đấng tự thể tính trọn vẹn.
Tóm
lại tu là tiến hóa, vì tu gồm đủ các đức
tính của năm phương trình trên, nhất là tự
động, nghĩa là không để chút sinh lực nào
mà không được dùng đến. Câu trên coi như
nghịch với tu cần tĩnh lặng cùng cực,
nhưng thực ra không nghịch vì nó chỉ có ý
tĩnh lặng đối với trần trược, không cho
trần trược phá rối hoặc ăn bớt đi chút
sinh lực nào để có thể dốc trọn vẹn vào
việc tu, coi đó là việc đi lên đặng về tới
nguồn của nó, y như bản tính nước là chảy
xuống thì bản tính hồn là đi lên. Không đi
lên, nếu ít thì là giảm bớt hồn, còn không
đi lên hẳn là mất bản tính, gọi là mất
nhân tính, hồn tan vào cỏ cây.
Xem
thế đủ biết việc tu quan trọng dường nào
mà chủ chốt trong việc này là ý chí: ý chí
phải tỉnh thức luôn, chỉ nghiêng đi một
chút là dễ gây tai hại. Vì cuộc đời ví
được với cuộc kéo cóc: bên trược bên
thanh. Nói chi tiết hơn thì bên trược kéo
xuống có hai đại diện là danh và lợi. Bên
thanh kéo lên cũng có hai là trí và nhân
tức yêu thương và sáng suốt. Hai bên ngang
phiếu chỉ còn ý chí, hễ bên nào kéo được ý
chí về mình là có nhiều chiều nắm phần
thắng. Thế mà ý chí thì chuyên môn lè phè,
thực ra đi lên thì muốn chứ, nhưng phải cố
gắng lắm mới rút ra khỏi những mời mọc của
phe trần cấu, nó ve vãn, khuyên lơn, nó
quyến rũ, đút lót đủ thứ. Chính vì chỗ ý
chí cứ lơ mơ thay đổi bấp bênh nên tu trở
thành họa hiếm và trong số họa hiếm đã dứt
khoát tu thì nhiều trường hợp còn tu hú
nghĩa là tu mà không tu. Vì thế cần phải
xét tới công hiệu của sự tu để thấy rõ chỗ
lợi hại.
2.
Tu là hạnh phúc, Trần là điêu linh
Ta thường nghe nói:
“Tu
là cõi phúc, Tình là giây oan.”
Nhưng
câu này có nghĩa hẹp: cõi phúc thường hiểu
liên quan đến chùa chiền hoặc dòng tu nào.
Còn tình hiểu là kết hôn lập gia đình được
coi là đối chọi với việc tu, cho nên cái
nghĩa nó hẹp lại không thể đúng vào việc “tu
thân vi bản” của Việt Nho hay “phước
huệ song tu” của Vô vi. Vì thế xin
đưa ra câu có tầm mức phổ biến trên: “tu
là hạnh phúc, trần là điêu linh”
Hãy
xét vế sau: “trần là điêu linh”. Xin nhắc
lại quan niệm Vô vi về nguồn cội con người
là “tiểu linh quang tách khỏi đại khối
linh quang xuống trần để học bài tiến
hóa”. Nói thế có nghĩa là hồn cần
rất nhiều bài học từ trược tới thanh, mà
hễ trược là đau khổ: trước hết là thân
xác: “Hữu thân hữu khổ”, vì có thân xác
tất phải có ăn, mặc, ở, đi lại là những
cái chứa nhiều đau khổ, cũng như trải qua
sinh, bệnh, lão, tử... nhà Phật gọi đó là
tứ khổ, bát khổ, v.v... Cho nên người ta
gọi thân xác là của nợ quá đúng. Thế mà đã
xong cho đâu còn tai nạn thiên nhiên: mưa
nắng, bão lụt... và nhất là tha nhân. Có
triết gia đồng hóa với hỏa ngục: “tha nhân
là hỏa ngục”. Câu này quá đáng nên xin sửa
lại: 1/3 tha nhân là hỏa ngục, vậy cũng
nghẹt thở rồi. Huống chi còn cái vụ nghiệp
nữa: nghiệp riêng đã vậy còn cả nghiệp
chung làm cho đường đời đầy điêu đứng cam
go. Thế mà con người có chút giác thức để
dò đường thì lại bị trược hóa hầu trọn,
nên nhà Phật gọi là vô minh.
Còn ý
chí thì bị lôi kéo quá thành ra yếu xìu.
Quả thực đời là bể khổ, là cảnh trầm luân,
là điêu linh đủ thứ. Cho nên suy nghĩ về
đời nhiều người quay ra trách trời trách
đất tại sao lại dựng nên mình? Có triết
gia trách cha mẹ lúc sinh ra chẳng hỏi ý
kiến mình xem mình có ưng ra đời
chăng?...Thiệt cả là một lũ cù lần hạng
nặng. Con người thực tế sẽ không trách
than như vậy vì vô ích, đàng nào cũng hiện
diện thù lù ở đây rồi, có mà trời trốn.
Thôi chỉ còn có phép thoát khỏi cõi trần
ai này mà thôi. Làm thế nào đây? Người đời
đã thử đủ mọi cách cả danh lợi, chức trọng
quyền cao, kể cả tự tử nữa. Nhưng tất cả
đều kết cục bằng hư vô, tất cả đều là ngõ
cụt. Cuối cùng chỉ còn một lối là tu,
không còn lối nào khác, nhưng được cái may
là lối này vừa hòa giải được đau khổ lại
vừa đưa đến phúc lạc vô cùng.
Tại
sao lại được như thế? Hãy nhớ lại các câu
định nghĩa người bằng năng động tính, tức
cũng là tự tác hành, tự tiến hóa. Cho nên
tiến hóa không phải là thể tính phụ thuộc
của con người, tức con người muốn tiến thì
tiến, muốn tà tà ở lì lại tuỳ ý. Trái lại
nó phải tiến vì bản tính nó đòi như vậy, y
như gió phải thổi mới còn là gió thế nào
thì người cũng phải tu tiến mới còn là
người thế ấy. Vì vậy hễ đã sinh ra là
người thì phải tiến: tiến hóa trở thành bó
buộc tự trong bản chất. Đúng hơn tiến hóa
là bản tính của con người mà cái gì làm
theo bản tính là gây hạnh phúc, vì hạnh
phúc là sự cảm nghiệm sung sướng trong
việc đáp ứng nhu yếu thâm sâu của bản tính
mình. Nếu bản tính là tiến hóa thì hễ tiến
hóa là đặng phúc. Và vì tu là tiến hóa nên
tu là hạnh phúc, bởi thế mới nói tu là cõi
phúc. Còn không tu thì tất nhiên là nguồn
mọi đau khổ. Vì không tu tiến thì đã có
luật nhân quả lôi đi, bị lôi đi thì ở
trong thế thụ đặng. Hình thái thụ động là
đau khổ, thụ động nhiều, đau khổ dữ. Đau
khổ ai cũng sợ vậy sao không chịu tu tiến.
Thưa vì trong con nguời có ù lì tính do
phần trược khí của xác thân gọi là lục căn
lục trần, chúng họp nhau vừa níu hồn
xuống, lại còn che lấp cái minh đức trong
con người làm cho nó trở nên u mê thêm,
không thấy được diễm phúc của cõi trên nên
càng dễ bị sa đọa vào lạc thú của cõi hồng
trần: đó gọi là si mê. Si, mê, lười... tất
cả đều trì kéo hồn lại nên phải có luật
nhân quả thúc đẩy đi lên như ngựa kéo xe,
không chịu kéo thì roi vào đít. Đó là
nguồn gốc đau khổ. Vậy muốn hết khổ thì
phải tu.
Ta có
thể phân tích điều kiện như sau: không tu
là nguồn mọi đau khổ, nhưng tu thì là việc
cực kỳ cam go y như người trèo núi: phải
khó nhọc mới đi lên được. Như vậy ta có
thể quan niệm đau khổ chính là sự khó nhọc
dồn cục, do sự tích luỹ các lần không tu,
mà không tu là do ù lì, si mê nên có thể
nói khổ đau là sự dồn cục các cái ù lì,
sái bậy, si mê rồi chịu thua, vậy là đau
khổ thêm. Nay muốn tránh đau khổ chỉ còn
cách chia nhỏ sự khó nhọc ra không cho nó
dồn cục lại, phương pháp chia nhỏ đau khổ
là tu. Tu chính là chia nhỏ đau khổ ra mà
tiêu thụ ít ít một, vì tu quả là một việc
khó nhọc nhất trong các việc con người
phải làm. Trước hết vì là việc không có
động lực ngoại tại tức không có lợi nhuận
vật chất nào cả, đã vậy lại không được có
đối tượng hữu hình: phải nhắm cả mắt, bịt
cả tai, đã nhắm mắt còn phải “nhìn” vào
cõi không, thở ra hít vào cũng là hít cái
không nốt. Làm việc trên cái có, tức có
đối tương thì tương đối dễ chứ làm việc
trên cái không, không có đối tượng nó khó
hơn nhiều, nên xưa nay biết bao người ham
nói về Vô vi thế mà đến lúc làm lại đầy
hữu vi sắc tướng. Điều đó nói lên sự cam
go vô kể khi phải làm việc trên những cái
không.
Đã
vậy lại còn không được có động, phải ngồi
im. Rồi nữa tối đến đã chả được dục thì
chớ, nửa đêm ngủ đang ngon giấc lại phải
lồm cồm bò dậy, ngồi đó cả tiếng đồng hồ
còn chê là ít, ấy là chưa kể còn chuyện ăn
lạt, xa lánh những chỗ phồn hoa vui nhộn.
Ôi! Quả là một cuộc khổ nạn, người ta nối
khổ vào với tu thành “khổ tu” quả là đúng:
phải can đảm lắm mới dám khởi công tu, can
đảm hơn cả người xông pha chiến trường; ở
chiến trường là chiến thắng quân địch, có
đối tượng hẳn hoi; ở đây chiến thắng chính
mình, dễ nương tay lắm. Vì thế mà thắng
mình khó hơn thắng người vô kể. Tóm lại tu
chính là chia cái khổ ra để tiêu thụ dần
dần, không cho nó dồn cục lại để trở thành
đau khổ.
Vậy
còn nói tu là cõi phúc đúng chăng? Thưa
đúng lắm: đúng ở chỗ nó hóa giải đau khổ
bằng chẻ nhỏ ra để tiêu thụ mỗi ngày một
chút, nên cuối cùng kể là sướng, sướng vì
không phải chịu đau khổ đã vậy mà hồn còn
được đưa lên cõi trên đầy phúc lạc. Nói tu
là khổ chỉ đúng lúc đầu, đến khi đã đắc
phần nào thí dụ mở được huệ nhãn thì lúc
ấy tu lại trở thành cuộc vui bất tận, phải
nói đời có tu là một cuộc hí lộng chẳng
cùng.
Có
thể nhận xét rằng nhiều người tu lại gặp
đau khổ hơn người không tu, đến nỗi có
nhiều người đâm ra sợ không dám tu, nhiều
người chịu rằng tu là tiến cao: làm thành
thần tiên phật chi đó, nhưng trước hết
phải đau khổ đã, thế là có màn “em chả”,
rồi bằng lòng ở lì lại hiện trạng tà tà
cho nó khoẻ, cần chi cố gắng quá rách
quần. Thưa rằng đó không là trường hợp
thường xuyên tức hễ tu thì khổ hơn, mà chỉ
là một số trường hợp, nhưng khi xem rộng
thì lại thấy là ân huệ do tu mà ra, tức
nhờ tu mà thời gian đau khổ được rút ngắn
để được giải thoát sớm. Vì con người không
ai là không có tiền khiên, đã có tiền
khiên thì bó buộc phải trả quả, sớm muộn
gì cũng phải trả cho xong, không thoát đâu
được. Nếu không tu thì trả đầy đủ nên phải
trả rất lâu, nói theo nhà Phật là trả
trong nhiều kiếp, nhưng có tu thì sẽ được
giải thoát sớm hơn nhiều, vì khi tu thì
nghiệp quả được giảm nhẹ hẳn đi nên tu
cũng gọi là giải nghiệp. Nghiệp được rút
nhẹ thì có thể trả mau hơn để đạt thoát
giải sớm hơn. Do đó thay vì phải trả quả
trong nhiều tiền kiếp thí dụ, thì nay dồn
cả vào một kiếp để đến được giải thoát
liền. Đó là ân huệ lớn lao do tự tu. Vì
thiếu huệ nhãn không nhìn ra ân huệ nọ mới
tưởng tu là căn nguyên của đau khổ mà
không ngờ rằng tu là giải nghiệp. Nếu có
đau khổ coi như nhiều hơn lúc chưa tu là
tại đem cái khối khổ của bao kiếp ra tiêu
thụ ngay trong một kiếp, nên tưởng là
nhiều mà kỳ thực là ít.
Ta có
thể hỏi rút vắn như vậy có trái luật nhân
quả chăng? Thưa không, khi tu thì nghiệp
quả được rút nhẹ mà không trái luật nhân
quả: chẳng qua vì sự đổi chủ nhà: chủ
trước là xác thân, chủ sau là hồn, hay nói
rộng là lúc chưa tu thì lục căn lục trần
đè đầu cưỡi cổ hồn để nó làm chủ, hồn là
nô. Nhờ cuộc tu mà hồn khôi phục lại được
quyền làm chủ nhân ông trong bản thể, nên
ngay đến lúc phải chịu trả nghiệp thì tội
quy vu trưởng. Trưởng mới là hồn chứ không
còn là xác như trước. Xác thân chịu trả
quả thì đau đớn hơn hồn vô kể. Thí dụ anh
Ất đã giết người tất sẽ bị giết để trả
quả, nhưng nay anh quyết tâm tu nên thay
vì xác anh phải chết thì nay hồn anh phải
lãnh những hồn không chết được nên thay vì
chết anh chỉ bị uể oải ít ngày. Tại sao
vậy? Thưa là tại tội quy vu trưởng. Lúc
chưa tu chủ nhân là xác nhân nay anh đã tu
thì hồn làm chủ nên khi quả báo tới thì
chủ nhân mới ra lãnh nhận. Như vậy xét cho
cùng tu bao giờ cũng lợi hơn rất nhiều, ấy
mới là xét có mặt tiêu cực là tránh được
đau khổ, chứ nếu kể tới mặt tích cực thì
tu quả là cõi phúc.
Chính
vì lý do nọ nên đau khổ có khả năng kích
thích linh hồn làm cho nó thức giác được
sự cần phải tu. Cũng như thức giác được
rằng những lạc thú trần gian không đáng
giá nhiều như lúc chưa tu tưởng nghĩ. Do
đó đau khổ làm cho sự trì kéo bớt hẳn đi.
Mỗi trận đau đớn là mỗi trận làm cho hồn
cảm thấy thanh nhẹ nhiều hơn là do vậy.
Đau khổ ví như những nhát dao chặt bớt
những tay tuộc của cõi hồng trần giơ ra
lôi cổ hồn ở lì lại, còn đau đớn là những
nhát dao chặt bớt những mối giây chằng
chuộc linh hồn: như vậy đau khổ cũng là
tiến: tiến bằng bị thúc đẩy, thúc đẩy bằng
đau khổ. Đau khổ làm cho tiến. Nhưng không
thể tiến mạnh bằng tu, vì đau khổ ở thế
thụ động: thiếu chất tự động, giàu chất
cưỡng ép nên không nhiều năng lực bằng tu.
Tu là tự động nên là tác động đầy chất
người, mà tiến nhiều hay ít là do chất
người nhiều hay ít.
Tóm
lại con người đã sinh ra ở đời là phải gặp
đau khổ bởi nhiều nguyên do: xác thân, xã
hội, thiên nhiên lại còn ù lì, si mê...
không thể không gây đau khổ, nhưng đau khổ
lại là những bài học cần thiết để tiến
hóa. Hễ tự tu tự tiến thì hóa giải được
nhiều đau khổ, còn không thì đã có luật
nhân quả lôi cổ đi, mà lôi đi là bị đau
khổ. Đau khổ tuy làm cho tiến hóa nhưng vì
là lối cưỡng hành nên chậm hơn, tốn kém
hơn (tốn kém trả bằng đau khổ). Đấy mới là
xét về đời sống cá nhân. Bây giờ xét về
toàn thể đời sống. Hỏi rằng đời sống có
đáng sống không, có ý nghĩa chi chăng?
3.
Đời sống nôn mửa?
Đời
là bể khổ, vô ý nghĩa. Tôi chẳng biết tại
sao tôi lại sinh ra giữa khổ ải: sinh,
lão, bệnh, tử, lại còn làm khổ nhau một mẻ
nữa thế rồi chết, chả ai hiểu ra sao cả.
Nghĩ mà oán cái ông Trời, đang yên lành
trong cái hư vô thì lôi ngay mình ra cõi
hiện hữu, rồi bắt truân chuyên trả quả.
Vay bao giờ mà bắt tôi trả vậy hở ông? Giá
như Ông cứ để nguyên tôi trong cõi hư vô
thì làm chi có vụ vay để rồi đòi nợ, “tout
notre mal c’est d’avoir existé”: tất cả
đau khổ của ta là tại đã có, mà có ra đây
chỉ tại cái ông Trời. Ông Trời xưng mình
là hư không mà không biết hư không, còn
rắc rối học làm có. Có, có, có. Cha đời
cái có!
Tất
cả những lời trên đại diện cho vô số những
lời than trách trời đất, chửi đời sống
không đáng sống. Có đáng tin không? Thưa
rằng hầu hết là nói láo, chỉ việc quan sát
thực tế đủ hiểu. Hỏi rằng trong các người
đang sống có bao nhiêu người viết như thế,
chưa chừng chỉ dăm ba mạng trong cả triệu
người. Rồi nữa trong những kẻ viết thế
được mấy trự tin như mình viết? Không chắc
có đến dăm ba phần trăm chăng. Còn phần
lớn cũng như tối đại quần chúng vẫn ôm cái
sống, rút ra chẳng được, hình phạt xử tử
vẫn cho là khốn nạn. Như vậy đời đáng sống
chứ còn gì. Cho nên viết chê đời chỉ là
làm văn chương chứ có thật đâu.
Nhiều
tay chẳng hạn còn tuyên bố trước là hổng
thèm lên thiên đàng, nhất định ở lì lại
trần gian để hưởng cho tận hết những “của
nuôi trần thế”: “nourritures terrestres”.
Có ông nói nếu được làm Thượng Đế thì ông
sẽ dựng nên những đàn ông rất sung sức,
những đàn bà rất đẹp rồi, ông từ chức
Thượng Đế để xuống làm người. Nhiều người
không tuyên bố vậy nhưng quá 99% ôm đời
kinh khủng, rứt cũng chẳng ra. Như vậy
chứng tỏ đời đáng sống lắm chứ. Không đáng
sống sao tối đại đa số ôm ghì đời như kia,
giục giã tu mà có được mấy ai theo đâu, ấy
là tu mới bỏ có chút xíu à. Vậy thì đời
quả đáng sống mặc dầu đau khổ tràn đầy và
không thể tránh được như đã phân tích ở
trên, tuy nhiên con người vẫn bám dính vào
đời sống, bám đến độ làm cho đời thêm đau
khổ hơn nhiều. Sở dĩ người ta ham sống là
quả đời đáng sống, và dù đau khổ muôn vàn
nhưng cũng được hưởng nhiều lắm, là vì đã
có tu cả rồi, ít hay nhiều, tự tu hay bị
tu, cũng đều là tu cả, chẳng một ai chưa
tu. Vì thế mà có được hưởng. Nếu vậy có tu
đàng hoàng thì đời sẽ là một cuộc vũ tươi
vui như hình tạc trên mặt Trống Đồng.
4.
Đời là cuộc ca vũ
Quả
đời là một cuộc vũ nhưng phải biết lối đi
đúng như trên đã nói: đời là cuộc sống hai
mặt, biết tu thì sướng, không tu thì khổ.
Bao nhiêu những lời chê cuộc đời cũng đúng
nhưng tại sao người ta không tự tử là vì
còn cảm thấy lờ mờ rằng có lối thoát và
người ta tìm đủ thứ như tích luỹ của cải,
quyền thế, danh vọng, nhưng đấy toàn là
những hướng không có lối thông. Muốn thông
thì phải đi ngược hẳn lối đời.
Muốn
tỏa rồng thì phải bóp vào.
Muốn
tới thì phải lui.
Muốn
bắt thì phải buông xả.
Đường
lối ngược đời đó gọi là tu. Đó là con
đường trung thực nhất để đưa đến chỗ coi
đời là cuộc ca vũ, là cuộc chơi đầy hoan
lạc. Để bạn thấy điều đó cách thực tế thì
hôm nào mát mình mời bạn đi thăm một thiền
đường sẽ thấy khuôn mặt rạng rỡ yêu đời,
vui sống. Bạn hãy gặp riêng một vài người
đã tu Vô vi vài ba năm mà hỏi chuyện thì
hầu chắc bạn sẽ được nghe người đó nói với
bạn rằng trong đời họ, họ nghĩ không thể
gặp ân huệ nào to lớn hơn, quý trọng hơn
là được biết phép tu này. Bạn sẽ nghe kể
về một đôi người tu đã tự ý từ bỏ cả những
công cuộc kinh doanh đang đem lại nhiều
tiền bạc để được xóng lòng hơn mà dồn tâm
trí vào việc tu.
Tại
đâu? Thưa là vì họ đã hé nhìn thấy cõi hư
linh đầy ơn phúc khiến những của cải đời
này bỗng trở nên nhẹ như mây trôi, không
còn đủ sức trì kéo họ như trước. Lòng họ
nghiêng hẳn về cõi siêu linh, về những
phúc lạc trường tồn. Còn bao nhiêu những
nhu cầu vật chất như ăn, mặc, ở, đi tuy họ
không bỏ, nhưng không còn âu lo như trước,
thay vào mối tư lự thì nay là an lự tức
làm tận lực rồi quy thiên số. Sự thành bại
bỗng trở nên nhẹ ký, tự nhiên họ đặt niềm
tin vào Chúa Quan Phòng không đời nào để
cho họ thiếu những thứ cần nọ. Điều tin đó
làm cho lòng họ khoan khoái thanh nhẹ hẳn
đi. Đó là về tâm hồn.
Còn
về sức khỏe thì thấy gia tăng hơn trước,
nhiều bệnh nan y nhờ tu mà khỏi, họ cảm
thấy đời là một cuộc chơi dài dài làm bằng
những lớp tuồng tiếp diễn luôn luôn, mà
trong đó họ vừa là khán giả, vừa đóng một
vai, cao có, thấp có, đôi khi chơi vai đau
khổ thì họ chỉ thấy đó là những kích động
rất ơn ích cho cuộc tiến hóa. Họ không còn
âu lo sợ hãi về những cảnh trầm luân địa
ngục nữa. Vì họ đã quyết chí trở về cùng
Cha Trời, họ thấy rõ Cha Trời đang chờ đón
họ kia, đang mỉm cười với những cố gắng
của họ, những khẳng định ý chí của họ bằng
tu niệm, công phu, công quả, công trình.
Cho nên việc về cõi trên trước kia họ coi
như những chuyện hoang đường, hay cùng lắm
như những ý niệm thoáng qua, có thể là
đúng là hay nhưng không chắc đến lượt
mình... thì nay họ nắm vững một trăm phần
trăm. Vì họ đã biết rõ cái đó tuỳ ý chí
của họ, không hề tại Trời.
Cha
Trời chỉ có ngày đêm mỏi mòn mong nhớ và
luôn gửi tín hiệu để khuyến khích: mới tu
thì có thể là những cú sờ đầu tê tê, rồi
sau sẽ đổi ra những cái xoáy trên đỉnh đầu
tưởng như Cha Trời đang mài mỏng các xương
thóp đặng lúc nào tiện có thể đập bể để mở
thiên môn cho hồn bay lên thiên giới,
trong khi chờ đợi thì lâu lâu cho đi du
lịch miễn phí: đó là những cuộc xuất vía,
xuất hồn hầu quan sát dò đường cho những
cuộc bay xa về sau. Tuy nói là dò đường mà
thực sự đã được xem những phong cảnh nguy
nga rực rỡ chưa hế thấy ở trần gian, chứng
tỏ rằng những truyện bồng lai tiên cảnh
với những phúc lạc trên đó là có thật, còn
vượt xa những câu truyện kể lại là khác.
Có nhiều bạn đạo chưa được nếm trước những
điều trên đây (điển, du lịch) nhưng cũng
tham dự với tất cả bạn đạo niềm tin vững
chắc rằng họ đang tích luỹ những của vô
giá chẳng ai lấy mất đi được nữa, kể cả
cái chết. Hơn nữa chính giờ chết là lúc họ
được đưa về làm chủ những của cải mà bấy
lâu họ vun bồi.
Nó xa
biết bao với lúc chưa tu đầy lao tâm khổ
tứ để chao vét, nhiều khi dùng mưu gian
chước quỷ, ích kỷ hại nhân để thu quén cho
nhiều. Đôi khi cũng hơi nghĩ lại: thu quén
nhiều mà làm chi, chết rồi có mang đi được
đâu nào... Nhưng lập tức có câu trả lời:
ôi cái chết còn lâu, mà cuộc sống thì phải
sống, hiện nó đang trờ trờ ra đây, lại còn
gia đình con cái... biết đâu mà duy tâm vớ
vẩn, thế là cố ôm, cố giữ rồi bỗng dưng
phải di cư thế là nhà tan, cửa mất còn lại
có “hai bàn tay trắng”. Vậy đã là may chứ
nhiều khi tay cũng chẳng còn để mà trắng.
Rồi vào Nam lại hùng hục chao vét, lại giở
đủ mưu chước xưa kia, rồi một khi tiền của
có lên thì lại ôm giữ. Đùng một cái lại di
tản: hai bàn tay lại trắng nữa. Rồi định
cư ở đệ tam quốc gia lại bắt đầu như trước
cái đời dã tràng xe cát bể Đông. Nghĩ lại
vậy họ mới thấy cám ơn Cha Trời Mẹ Đất đã
đưa đẩy cho họ biết đường tu. Thôi từ nay
bái bai cái bể đông với các đồng chí dã
tràng cũ để hô hấp. Mỗi cú thở là mỗi thêm
chút thanh điển cất kỹ mãi đáy linh hồn
không một chính phủ nào hòng tịch thu nổi.
Sao đời tu nó thơ thới vậy ta. Ấy là chưa
nếm hết chứ nếu đã nếm nhiều hơn thì còn
thấy đáng ham hơn cả triệu lần để đi đến
kết luận rằng:
5.
Càn Khôn vũ trụ là một cuộc hí lộng đầy
hoan lạc
Câu
tuyên bố này khỏi gây nhiều tranh luận ồn
ào và những lời cải chính rầm rộ không
những do người đời đã chịu muôn cay ngàn
đắng vì đời, mà ngay cả những vị tu đắc
đạo cũng đồng thanh bảo rằng đời là bể
khổ, là biển trầm luân, là thung lũng đầy
nước mắt... Nhưng xin nhận xét những câu
nói sau này phát xuất từ những vị đắc đạo
quả thực là đúng mọi đàng, nó khác với
những câu chê đời trên kia mà tôi cho là
nói láo, bởi vì họ nói trong vô minh,
không biết ý nghĩa cuộc đời. Còn đây là
các bậc thầy quá hiểu cuộc đời bao gồm
nhiều cung, nhiều cõi, các Ngài đã thấy
phúc lạc vô cùng của những cõi trên đem so
lại thì cõi trần quả là bể khổ, cần phải
rút chân ra để vươn lên cõi trên. Vì vậy,
đây không là câu nói bi quan uỷ mị mà là
những câu nói đầy sáng suốt và tích cực
lạc quan vì nó chỉ cho ta đi vào nẻo có
hạnh phúc thực. Đường lối đó là tu tiến,
tu là đi lên các cõi trên.
Vậy
xin hỏi có bao nhiêu cõi trên? Ta quen
nghe nói 9 tầng trời. Đạo Lão nhân gấp 4
thành 36 cõi. Cõi thứ 36 nhà Phật gọi là
Ta Bà, đó là cõi loài người chúng ta đang
ở. Cõi Ta Bà ví như cái ‘bin đinh’ nhiều
tầng: chúng mình ở tầng trên, quỷ ở tầng
dưới, các tầng giữa thì lộn xòng nhiều
người phải ‘share’ phòng với quỷ. Chưa cần
tìm vào những con số 9 hay 36, đó chỉ là
huyền số, có thể nhiều hơn vô kể nhưng
chắc một điều là ngoài cõi Ta Bà này thì
còn nhiều cõi bên trên, nơi đời sống khá
hơn nhiều lắm, nghe nói ngọt lịm à, phải
tu mới nếm được. Chứ cõi chúng ta ví như
người ăn bưởi mà chỉ gặm có cái vỏ, rồi
chửi thề bưởi Biên Hòa ngọt ở đâu nào? Đó
là tại bạn không gặm sâu vào trong để thấy
ngọt: chỉ cần cắn vào đến cõi 35 đã mê tít
rồi chứ chưa cần lên đến những đợt 34, 33,
32...
Hình
ảnh trên giúp hiểu tại sao tôi kết thúc bộ
triết An vi bằng vũ trụ quan của “hóa
nhi đa hí lộng” coi tiến trình hóa
hóa sinh sinh là một cuộc hí lộng của Tạo
Hóa mà trong đó chúng ta được tham dự. Đó
là kết quả của một truy tầm và nghiên cứu
triết lý kéo dài cả một đời người mới đi
đến được sự chấp nhận câu nói nọ. Tôi cho
câu đó của tiền nhân là một sự thành tựu
to lớn, bởi vì hầu hết triết học cũng như
thuyết lý không đi được tới định đề nọ, mà
thiếu định đề nọ thì có giỏi mấy cũng
không tìm ra đuợc những câu giải đáp thỏa
mãn cả lý trí lẫn tình cảm cho những thắc
mắc về cuộc đời, về ý nghĩa sự sống, về vũ
trụ quan mãi tự xa xưa tới nay vẫn liên
miên được đặt ra, thí dụ từ tác giả sách
Job cho đến văn hào Mỹ Hemingway đã biết
bao triệu lần câu hỏi tại sao đời đầy đau
khổ được lặp lại, và nhất là tại sao những
người lành, những kẻ vô tội lại phải chịu
đày đọa truân chuyên.
Hãy
đi tìm lời đáp cho các vấn đề trên. Thoạt
tiên, cần gảy bỏ vũ trụ quan bất động cách
kinh khủng, nên quan niệm bất động đã gây
đầy bế tắc trong văn hóa và triết học
không đưa ra được lời giải đáp nào thỏa
đáng. Vậy phải nhìn về phía vũ trụ quan
động, nhưng trí ta liền hỏi: tại sao động?
Động để được cái gì? Hễ thưa được cái gì,
thí dụ để Thượng Đế được vinh danh, được
tôn kính là huỷ diệt Thượng Đế rồi đó, bởi
vì Thượng Đế là vô cùng không thể thêm cho
Ngài được chi hết, huống hồ chút vinh danh
tôn kính của con người có là cái thá chi
đối với Ngài. Ngay cả tội lỗi con người,
kể cả tội phạm thượng cũng chẳng là cái
chi. Vì thế phải là thứ động vô cầu và đó
là chơi. Vì chơi mà muốn trung thực phải
là không tìm cầu cái chi bên ngoài: không
tranh thắng, không tiền tài, không danh
vọng. Chơi được như vậy chỉ có hài nhi:
hài nhi chơi luôn luôn, mà chơi là chơi,
không đòi hỏi cái gì, không biết đòi gì.
Vì thế mà ví Tạo Hóa với trẻ đang chơi gọi
là “Hóa nhi đa hí lộng”.
Cuộc
hí lộng đó có thể quan niệm như cuộc kéo
cóc vô cực vô biên mà Hóa nhi tự phân thân
làm hai cực để có bên kéo đi, bên kéo lại.
Bên kéo đi (hay kéo lên) người Việt xưa
kêu là âm, là thanh, là chiêu, là tả...
Bên kéo lại (hay kéo xuống) gọi là dương,
là trược, là mục, là hữu... Đó là bản chất
vũ trụ. Con người cũng như vạn vật, vạn sự
đều phải tham dự vào cuộc kéo cóc này: ở
con vật thì cách vô thức; ở con người thì
cách hữu thức hơn kém. Càng lên cao càng
nhận thức ra và càng tham gia mạnh. Kéo
lên được thì hạnh phúc. Bị kéo xuống thì
đau khổ. Cứu cánh con người là phải kéo
lên đến nguồn cội để được hạnh phúc cùng
cực.
Lão
Tử nói: “Các phục quy kỳ căn” =
muôn vật đều đang đi về nguồn gốc, tức
không vật nào mà không đang tiến hóa,
không đang đi về nguyên bổn của mình. Con
người khác hơn con vật ở chỗ có thể tham
gia cách ý thức vào việc tiến nên có thể
gia tốn đà đi lên. Ý nghĩa cuộc sống là ở
chỗ đó, ở chỗ cuối cùng sẽ tham dự đắc lực
vào cuộc chơi của Tạo Hóa. Như vậy thì đời
sống phải là một cuộc chơi: nếu Thượng Đế
là một Hóa Nhi đa hí lộng Cha, thì loài
người cũng phải là những hóa nhi đa hí
lộng con. Nói cụ thể: nếu quan niệm vũ trụ
như cuộc chơi của con Tạo là ổn thỏa nhất
thì cũng phải xem đời người như một cuộc
chơi mới là quan niệm hay hơn hết cho con
người.
Chính
quan niệm nọ đặt nền móng tâm lý cho cuộc
sống an nhiên tự tại. Xem đời sống là một
ván cờ, hoặc một vở tuồng, hay vở kịch mà
mình cũng đóng một vai: tất cả những đau
khổ, những sự bất như ý, trái tai gai mắt
mình thấy hằng ngày đều là dấu chỉ sự kéo
xuống của bên kia, mình cần cố gắng kéo
lên, để đời sống ngày thêm tươi đẹp. Những
sự cố gắng đó mặc nhiều hình thức gọi là
nhân đức, là trí, nhân, dũng... cần được
vun bồi cho ngày thêm lớn mạnh. Vì thế mà
những bê bối, bất công, lộn xộn trong
đường đời không ở đâu và bao giờ có thể
xóa bỏ, nên ta phải tìm cho chúng lý do
tồn tại đó là để rèn luyện trí óc con
người luôn luôn có dịp xoay sở, tập minh
biện, tập sáng tạo những phương pháp mới
tìm ra đường lối mới để làm đẹp cho cuộc
sống. Cuộc sống ví như chơi cờ ván ván
khác nhau, lý trí phải luôn luôn tỉnh
thức, dò trước xét sau. Có vậy trí mới
tiến được. Trí có tiến thì nhân và dũng
cũng mới tiến theo. Đó là lý do sâu xa tại
sao phải nhận vũ trụ quan động, tại sao
phải quan niệm cuộc đời như cuộc chơi.
Sự
sinh sinh hóa hóa đó không thêm gì được
cho Thượng Đế, nhưng với những tiểu hồn
thì thêm được, vì tự trược tới thanh là cả
một sự thêm hoài hoài, nhưng đấy là những
sự thêm của tiểu linh quang không đưa lại
chi cho Đại khối linh quang. Sở dĩ với
tiểu linh quang nói là có thêm có bớt vì
có đi tự trược tới thanh, lại còn chịu
luật không gian thời gian: có sau có
trước, khác hơn các cõi trên là vì thời
gian của cõi trần kéo dài chứ trên cõi
trung tâm vũ trụ thì một nháy mắt bằng cả
triệu triệu năm dưới này. Dưới này sinh ra
rồi từ từ lớn lên, rồi bệnh, lão, tử...
Chứ trên trung tâm càn khôn vũ trụ sinh
diệt nối liền không thể gọi là thêm bớt
được. Vì thế mà phải dùng quan niệm hí
lộng của hài nhi. Hài nhi luôn luôn hí
lộng mà không cầu cái chi: không có ý thêm
được cái chi. Cũng vậy, Thượng Đế chỉ hí
lộng để mà hí lộng, không thể cầu cái chi
bên ngoài, mà chỉ là biểu diễn cái bản
tính của mình. Ta gọi đó là cuộc hí lộng
của hài nhi, vì hí lộng là hình thái tác
động tinh tuyền nhất, một tác động có tính
cách an vi không thể cao hơn được nữa.
Đó là
quan niệm rút ra được từ các hình tạc trên
mặt Trống Đồng: các hình vẽ trong đó đang
tham dự một cuộc vũ tiến về trung tâm. Tất
cả là một cuộc tiến hóa trong hoan lạc để
trở về với nguồn cội.
Bạn
có thể hỏi đời đầy đau khổ đắng cay pha
vào thì còn gọi là cuộc chơi được chăng?
Thưa rằng vẫn được, vì đau khổ đắng cay
chỉ là thế đối với các tiểu hồn, chúng cần
những đau khổ để được kích thích rời bỏ vỏ
ngoài trần trược đặng tiến vào các cung,
các cõi bên trên. Vì thế có đau khổ, nhưng
đó là đối với tiểu hồn thôi chứ đối với
Đại Hồn thì không đáng gọi là đau khổ, mà
chỉ là một chút khó nhọc y như khi ta chơi
football mà sầy tí da hoặc chảy mấy giọt
mồ hôi, cùng lắm là bong gân về xoa ít dầu
nóng là xong. Hoả ngục với tiểu hồn thì
ghê gớm thật chứ đối với Đại Hồn chưa chắc
đã đáng gọi là bong gân. Còn những khổ luỵ
đời này: tai ương, bão lụt, bất công,
chinh chiến... chẳng qua là một vài giọt
mồ hôi. Đừng nói chết vài trăm triệu, chứ
chết cả loài người trong quả địa cầu này
hỏi có thấm vào đâu so với càn khôn vũ trụ
có cả hàng tỉ địa cầu. Giả sử quả địa cầu
này có tan biến mất thì đối với Chúa Tể
càn khôn chưa chắc đã đáng gọi là một cơn
sốt rét vỡ da.
Lại
còn vụ thời gian ba mươi năm, một trăm năm
đối với ta là dài, chứ với Đại Hồn chưa
đáng là một nháy mặt. Hãy thử nhìn bằng
cái nhìn của Đại Ngã mới thấy vòng sinh
sinh hóa hóa quả là một cuộc vui chơi thỏa
thích của trẻ Tạo Hóa đang hí lộng. Vì thế
cần quan niệm bao trùm cả vũ trụ. Phải tập
soi thiên địa vạn vật là nhất thể mới dễ
thấy ý nghĩa cuộc đời, mới dễ sống an vui
thanh thản như như được.
Kính
Lạy Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại
Thiên Tôn.
IX. Tóm
kết
Mới
nhìn thì dễ tưởng Pháp lý Vô vi là một
ngành nào của Phật giáo: cũng thiền
định, người truyền pháp cũng cạo trọc
đầu, sách vở tràn đầy danh từ Phật
giáo...
Nhưng
khi nghiên cứu theo lối cùng triệt tức
theo cơ cấu toàn thể thì thấy Phật giáo
chỉ đóng góp một phần nhỏ có thể gọi là
bì phu hay nói theo cơ cấu chỉ có ở đợt
ngoài vi là từ, còn mấy bước sau như:
tượng, số, và chế thì lại hầu hết giống
Việt.
Hãy
nói về chế tức phần hữu vi sắc tướng thì
Vô vi cũng đạt bốn cái không như Việt
Nho là không chùa chiền, không cúng bái,
không sư ni, không cả tổ chức nữa. Đã
vậy cái tên Vô vi cũng lấy từ Việt Nho.
Sau
chế đến tượng tức siêu hình cách cụ thể
bằng biểu tượng cũng y hệt, nghĩa là Vô
vi cũng đặt trên thứ Vô tích cực như
Việt Nho nên không hề mảy may thắc mắc
về có linh hồn hay chăng, chết có là hết
chăng như Phật giáo Ấn Độ đã đặt ra, là
vì căn cứ trên siêu hình tiêu cực, do đó
cũng mang tính cách bi quan. Trái lại,
khi truyền sang đất Việt gặp nền siêu
hình tích cực đã dần dần nảy sinh tinh
thần lạc quan phấn chấn. Tinh thần này
sau được quy tụ vào danh hiệu Đức Di
Lạc, một biểu tượng lạc quan yêu đời,
coi như đang sửa soạn vào đời cách rất
tích cực, đến độ đã làm nảy sinh niềm
tin tưởng rằng: đời mạt kiếp nay sắp
tàn, Đức Di Lạc sẽ khai mở một kỷ nguyên
mới với trời mới, đất mới. Niềm tin đó
quả là một phương lược truyền bá mau lẹ,
và đã làm nổ ra một số cuộc nổi loạn
khiến cho mấy vua sau đời Tuỳ, Đường lo
sợ nên đã phải tìm mọi cách kiểm soát
Phật giáo.
Lại
còn biểu tượng về nguyên lý mẹ vẫn “làm
bà Chúa xứ bên Việt” như đã báo hiệu
trong trang huyền sử Man Nương và việc
thờ trời cũng lại hiện hình trong Linh
Nữ Kim Thân Cha mang đến cho Vô vi hai
đặc tính Việt không thể lẫn vào đâu được
là tình mẹ lý cha.
Bây
giờ nếu đi sâu hơn vào Số, ta cũng sẽ
nhận ra Vô vi đi theo bộ số nền tảng của
Việt Nho là “vài ba tham lưỡng”.
Bộ số này hàm tàng một nền triết lý cân
đối giữa tâm vật rất cao siêu, nhưng
không may con cháu đã để cho lu mờ.
May
thay đến nay được phục hoạt cách chói
chang qua pháp Vô vi cùng với quyển
“Chơn Lý” về hiện tượng Kim Thân Cha, đó
là những điều làm cho tôi phải choáng
ngợp, khiến cho sau khi cứu xét cặn kẽ
“theo sự yếu đuối loài người có thể” tôi
phải tin. Đây không phải đức tin tôn
giáo mà chỉ là niềm tin triết lý, tức
người tin vẫn còn giữ sự tự do lựa chọn,
cũng như chỉ tin những điều mà lương tri
có thể tìm ra chỗ tựa. Đó là điều tôi
tìm được rất nhiều trong quyển Chơn Lý:
cả những câu tuyên bố động trời làm
nhiều người kinh ngạc, nếu không coi là
chướng tai, chẳng hạn “quỷ ma cũng
là phần của Thượng Đế. Thượng Đế là kẻ
đại ác...” Những câu khẳng định
kiểu này làm biết bao người mích lòng,
vì nó mới lạ quá. Bên Tây phương mới
thấy có Carl Jung, tổ sư khoa uyên tâm
tuyên bố như thế trong quyển “Réponse à
Job” của ông, nhưng cũng không dám nói
quyết liệt như quyển Chơn Lý. Vậy mà đối
với tôi, câu đó cũng chỉ là quảng diễn
mạnh mẽ một chân lý đã có tự đầu, vì là
nền tảng của triết lý Việt Nho. Thí dụ
trong câu định nghĩa “người là quỷ và
thần một trật” (nhân giả quỷ thần
chi hội). Người là con, Thượng Đế
là cha. Rau nào sâu nấy. Con đã là quỷ
thì cha cũng là quỷ luôn chứ sao.
Nghe
lạ quá phải không? Sự thực đó chỉ là hệ
quả của câu định đề nền tảng là “thái
cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh
tứ tượng...” Lưỡng nghi là chi?
Ai cũng biết là âm dương. Nhưng âm dương
là chi? Thưa là cặp từ để chỉ hai thái
cực chống đối nhau: đất trời, tối sáng,
quỷ thần... Tóm lại hết mọi trạng thái
chống đối nhau đều gọi là âm dương. Thần
và quỷ cũng nằm trong đó. Thần là chí
nhân chống với quỷ là chí ác. Nếu đã
quan niệm Thượng Đế là chí nhân, chí
thần thì đương nhiên phải có chí ác,
phải là quỷ. Có vậy mới có hai cực giằng
co nhau. Phải như vậy mới là Thượng Đế.
Vì Thượng Đế phải được quan niệm như một
tác năng vô cùng vô cực hay nói cụ thể
hơn là “khối điển quang vô cực vô
biên”. Vậy nếu không có hai cực
một tiêu một tích thì còn chi là điển.
Mà không là điển thì còn chi là Thượng
Đế. Người ta quen quan niệm Thượng Đế là
đấng chí nhân không vương chút ác nào và
quỷ ma là thù địch của Ngài. Quan niệm
như thế là do lòng mến yêu cung kính
Thượng Đế nhưng lại là quan niệm một
chiều nên chính là huỷ diệt Thượng Đế.
Vì nếu quỷ mà không là Thượng Đế thì tất
chúng sẽ giới hạn Thượng Đế. Thượng Đế
bị giới hạn tức là có cùng, cùng đó là
những quỷ ma hay bất cứ cái chi không
phải làThượng Đế. Vậy là hạ Thượng Đế
xuống bậc có cùng rồi, thế chẳng là huỷ
diệt Thượng Đế còn chi? Thượng Đế phải
là đấng vô cùng: không thể có bất cứ cái
chi giới hạn được Ngài kể cả quỷ. Nên
quỷ chính là thành phần của Thượng Đế.
Người ta sợ không dám nghĩ như vậy vì
con người quen quan niệm một chiều: tốt
là tốt, xấu là xấu, mà không quan niệm
được cái xấu nằm trong cái tốt. Và tốt
vô cùng lại phải đi kèm với xấu vô cùng:
cái xấu vô cùng đó phải trở nên yếu tố
cấu thành sự tốt; y như phải có giây
lạnh đi với giây nóng mới làm cho có
điện, vì điện gồm cả giây nóng lẫn giây
lạnh. Có vậy mới làm ra nóng ra sáng
được.
Nói
lướt qua một thí dụ thôi để tỏ rằng nền
triết trong Pháp lý Vô vi qua Kim Thân
Cha ăn khớp với triết lý An vi ngay cả
trong những khẳng định ghê hồn. Phương
chi các câu quyết đoán khác đều ăn hợp
hoặc cách minh nhiên hoặc cách mặc
nhiên. Vì thế An vi thâu nhận Pháp lý Vô
vi chẳng qua là thâu nhận những quảng
diễn khác hơn của chính mình mà thôi.
Một
khi đã nhận phần Pháp lý rồi tôi mới xét
kỹ phần pháp hành. Và ở đây lại ngạc
nhiên không ít, khi thấy pháp hành đã
được Việt Nho là bộ số “vài ba tham
lưỡng” với các hệ luận của nó. Ta
hãy ôn lại sơ qua: trước hết là phép soi
hồn: không ngành Yoga hay thiền nào có
hết. Thế mà đó lại là điều đáp ứng với
nét đặc trưng của Việt là chú ý tới bộ
đầu như đã nhắc về tượng Nữ Thần Mộc đầu
đội mũ nhọn, được bình dân hóa thành nón
Chóp và biểu thị bằng các thứ đỉnh
đồng... Soi hồn cũng hàm tàng bộ số của
Việt Nho là 2, 3, 5: giơ hai cánh tay
lên (số 2) bịt tai mắt tinh (số 3) rôi
hai khuỷu tay ở trên liên hệ với hai đầu
gối ở dưới vẽ ra hình vuông (số 4). Đó
chính là hai bộ số của bánh dầy (3) bánh
chưng (4) vậy.
Tác
động thứ hai là thở cũng được Việt hóa
luôn với khẩu lệnh đầy rốn, đầy ngực,
tung lên bộ đầu làm liên tưởng tới ba
phần tang trống là: chân, thân, tang
tương ứng với rốn, ngực, đầu hoặc các
cấp trước bàn thờ của Cổ Việt bó buộc
phải có ba (số 3) nấc.
Ngoài
ra lại còn những câu quen thuộc của Việt
Nho gồm các số như 2 là hai mạch nhâm
đốc, số 3 như tam bửu: tinh, khí, thần.
Số 5 là “ngũ khí triều nguyên”...
Quẻ Vô vi đã được Việt hóa trọn vẹn. Nếu
chỉ xem có bên ngoài thì người Tây Âu sẽ
gọi là phép tu Ấn Độ. Người mình thì gọi
là của Phật nhưng khi xét thấu triệt,
vạch kỹ để xem con dấu chủ quyền đóng
sâu xuống di vật thì phải nói Thiền là
một di sản chung của Đông Nam Á trong đó
Việt tộc giữ vai then chốt. Chính phép
thiền cũng đã xuất hiện lâu đời dưới vô
số tên và nhiều cách thức mà tất cả đều
nhấn mạnh đến sự trống rỗng tâm hồn, Nho
gọi là hư tâm. Việt chỉ bằng chữ Trống
(trống đồng) hay bằng hang động như
trong tên “Động Đình Hồ”. Lão Tử gọi là
Cốc thần, Trang Tử gọi là trai tâm hay
tọa vọng. Người ta bảo là phép đó có tự
thời Vô Hoài nghĩa là không ai nhớ xuất
phát tự đâu và tự bao giờ nữa, chỉ biết
rằng về cách tọa thiền thì được dân
Dravidien bên Ấn Độ vun bồi, rồi sau
người Aryen thâu nhận về đặt tên là
Yoga, một tiếng cùng gốc với từ La Tinh
Jungo có nghĩa là nối, hiểu là nối kết
con người với Thượng Đế. Đó là tâm pháp
được các tôn giáo bên Ấn Độ đều thâu
nhận như Bàlamôn, Jaina, Phật... rồi sau
truyền sang Tàu và gọi là Thiền. Chữ này
là một âm khác của chữ Thiện đi sau chữ
Phong để chỉ lễ tế Trời và Đất đã có tự
thời Vô Hoài trong địa bàn Cổ Việt là
vùng Thái Sơn. Khi tế thì quét đất cho
sạch để làm bàn thờ mà tế. Có thể vì
việc quét này mà chữ Thiền được dùng để
chỉ việc định thần vì muốn “định thần”
thì phải quét khỏi tâm hồn những vấn rác
thế tục. (1)
(1)
Lễ Phong tế ở Thái Sơn, lễ Thiện tế ở
Hội Kê, kinh đô Cổ Việt. Không hiểu tại
sao Hội Kế lại ra Cối Kê. Đọc Hội Kế có
ý nghĩa hơn nhiều: nghĩa là tự 4 bên quy
tụ về giữa để tính sổ sách.
Tóm
lại Thiền là di sản của chung miền Đông
Á có đã tự thời Vô Hoài, nay được Vô vi
thâu nhận thì chính là được Trời ban lại
cho dân Việt, sau khi đã Việt hóa cách
sâu rộng, ngoài ý thức của người “tìm
ra” hay người truyền bá. Thí dụ khi ông
Tám bảo lúc thiền phải quay mặt hướng
Nam (hướng hỏa) hoặc khi nuốt nước bọt
phải quay mặt sang phía trái, hay nói 12
vòng thở theo pháp luân chiếu minh là
vòng con giáp... thì cả ba việc đều là
những nét đặc trưng của Việt tộc. Cả đến
quốc hoa Việt là hoa 9 cánh cũng có thể
coi như được gặp lại trong tên của Cha;
một tên gồm 9 số: 4 số vòng ngoài cùng
gọi là số thành gồm “Ngọc Hoàng Thượng
Đế”, còn 5 số vòng trong (hay số sinh)
là “Vô cực Đại thiên tôn”, lại được
khuyến giục “thường niệm, vô biệt niệm”
làm liên tưởng tới các đoàn vũ trên
trống đồng đang hiện thực câu: “Hoa
quỳ chăm chăm hướng về Thái Dương”.
Rồi
từ đó liên tưởng đến những lễ tế trang
trọng như Tế Thiên và hình thức nhà Minh
Đường với thể chế tứ quý (tức dành tháng
cuối mỗi mùa để tĩnh tâm). Tôi cho việc
thường niệm “Hồng danh Cha” là một thứ
lễ Tế Thiên đã được bình dân hóa và phổ
cập đến với mọi người, để dân tự tế lấy
cho hợp thời đại dân chủ. Với việc
“thường niệm vô biệt niệm” tôi cũng cho
đó là thể chế tứ quý được phục hoạt
không phải chỉ 4 tuần trong một năm mà
trong hết mọi ngày, mọi giờ: đi, đứng,
nằm ngồi, đều nghĩ đến Cha, niệm Cha
khiến cho mối tình giữa Cha Trời và các
con trở nên thấm thiết hơn xưa muôn
phần. Điều này kể ra cũng là được Việt
hóa nữa, vì nét đặc trưng của Việt là
tình người được vun bồi coi như nét
chính: nên ta thấy tình người, tình nhà,
tình nước thắm thiết xiết bao. Nay được
áp dụng vào Thượng Đế cũng trở thành
tình cha con nồng nhiệt, không phải khô
khan như Thái cực hay Thượng Đế trong
Nho hay quá lu mờ như Thái Hư trong
Phật, mà là thắm thiết như cha con. Cha
mà mẹ luôn: hai mối tình lai láng xuất
hiện vào một.
Điều
này làm tôi liên miên nghĩ tới “Tiên mẫu
Long phụ” gặp nhau trên Cánh Đồng Tương”
thì nay “Tiên mẫu Kim Thân Cha cũng chứa
đầy kỳ diệu. Đó không là cuộc gặp gỡ
giữa mẹ tiên cha rồng sao? “Thân mẹ mà
tiếng cha”. Hiện tượng đó cũng làm tôi
nghĩ tới câu “Nữ Thần Mộc dạy anh em Lộ
Bàn Lộ Bộc làm nhà chữ Đinh”, tức dạy
Đạo làm người, thì nay cũng “Tiên Mẫu
Kim Thân Cha” dạy miêu duệ của Mộc Việt
biết đường “Vi nhân” đích thực là trở về
nguồn cội muôn loài. Nguyên lý mẹ năng
được nhắc tới trong bộ triết lý An vi
bỗng hiện ra trong xương trong thịt với
đám con đang lao đao khổ luỵ ngút trời.
Cuối
cùng cũng nên kể đến 4 chặng tu tiến
theo Việt Nho là định, tĩnh, an, lự. Ban
đầu Vô vi có phần dừng lại ở hai đợt
đầu: định, tĩnh. Nhờ Đức Kim Thân đẩy
cho một cái mới mạnh dạn đặt chân lên
hai bước sau (người đẩy bằng nhấn mạnh
đến Đạo làm người: coi trọng nhân nghĩa,
lễ, trí, tín, đừng coi thường địa
tiên... và còn chiều hướng dấn thân vào
chính trị).
Tóm
lại khi xét bao quát từ tên gọi, qua thể
chế (không tổ chức, 4 không của Việt
Nho) qua siêu hình tích cực, qua bầu khí
yêu đời cho đến nền triết tiềm ẩn trong
bộ số vài ba, thấy đều giống với Việt
Nho. Có thể nói Vô vi chính là Đạo Nội
trùng phùng; huyền sử Việt cũng chính là
tiền sử Vô vi. Mỗi trang huyền sử hoặc
ấn tích của văn hóa Việt là bấy nhiêu
bài khuyến “tu tâm dưỡng tính”. Còn Đạo
do Cha Trời ban thì xưa kia được nói
bóng là Nữ Thần Mộc dạy, đến nay việc
trùng tu Đạo Nội cũng lại do Cha Trời
hiện thực qua huyền nữ Kim Thân. Ông Tư,
ông Tám chỉ là công cụ thường không thể
làm chi được, phải do Cha Trời ban ra
mới có được một đường lối tu dưỡng đặc
biệt như vậy. Nói theo Yoga thì Vô vi là
một Yoga tổng hợp gồm cả Yoga sùng mộ
(bhakti) cả Yoga tác hành (Karma) nhưng
được dẫn đầu bởi Yoga trí tuệ (Jaina).
Nói theo đạo pháp thì đây là lối tu đầy
lòng sốt sắng đối với Cha Trời, mà đồng
thời lại là một nền triết cực thâm hậu.
Cả hai điều đó đi với nhau làm nên một
lối tu rất hiệu nghiệm, vì là lối tu hợp
tình hợp lý, cũng chính là lối tu hợp
đạo nội của Việt tộc, nghĩa là một đạo
pháp dẫn đầu bởi Minh Triết, như trong
việc tiếp thâu Phật giáo đã chứng tỏ
điều đó bằng uốn nắn cho đạo Phật phải
Việt hóa phần nào mới tồn tại được trong
địa bàn Việt.
Nếu
ai thắc mắc hỏi tại sao chúng tôi lại
dồn tâm sức vào việc chứng minh Vô vi
giống với Việt Đạo? Thưa là vì Vô vi chỉ
là một đạo nội nên cũng cần đến phần
ngoại vương. Vì quyền hành điều động thế
giới xưa rầy nằm trong tay ngoại vương,
trong tay triết lý.
Ở
đâu và bao giờ cũng vậy “ce sont les
idées qui gouvernent le monde” chứ không
phải mấy người tu (tu chỉ là đạo nội,
muốn cải đổi đời phải kiêm ngoại vương,
ấy là nói theo hữu vi, mà đã viết ra lời
lẽ thuộc hữu vi). Học giả hay nhắc đến
vụ Phật giáo Tàu phát đạt mạnh từ thế kỷ
thứ 2 đến thế kỷ 12, có lần tưởng đã trở
thành quốc giáo, nhưng đến khi siêu hình
Kinh Dịch phát triển với nhóm Chu Trình
thì liền đi lần vào chỗ lụn bại, ấy tại
phần ngoại vương yếu kém. Bên Việt cũng
một hiện tượng xuýt xoát đã xảy ra trong
đời nhà Lý đạo Phật mạnh nhưng đến nhà
Trần đạo Phật lùi bước trước Nho. Điều
đó chắc sẽ không xảy ra nếu như Phật hợp
với Nho đã hòa hợp như Nội thành với
Ngoại vương. Nhưng điều đó không có
(hoặc quá ít). Vì vậy chúng tôi cố chứng
minh Vô vi là nội thành của Việt Nho thì
là muốn độc giả nhận thức được sự vững
vàng của nền đạo pháp mới này. Điều đó
rất thuận lợi cho những người đang đi
tìm Đạo mà biết rõ cả trong lẫn ngoài
như vậy thì sẽ bớt đi được nhiều lý do
ngần ngại.
Nếu
muốn hỏi đâu là nét đặc trưng hơn cả của
Việt Đạo thì đó chính là chữ Tự: tự đạo,
tự thành, khác xa nhiều lối tu khác
thường còn quá lệ thuộc vào sự phù hộ.
Sự cầu phù hộ thực ra không phải là xấu,
trái lại còn cần nữa là khác nhưng chỉ
nên dành cho những trình độ khởi đầu y
như con nít mới tập đi phải nhờ cậy mẹ
nâng đỡ. Nhưng rồi mỗi ngày mỗi tiến
thêm thì phải lần lần tập đi một mình:
càng lên cao càng phải tự lập, vì tự lập
là đức tính làm ta giống với Cha Trời
hơn cả. Người là đấng tự thể trọn vẹn,
nên hồn càng tới gần Người thì càng phải
thêm đức tự lập để giống Cha. Vì thế đức
tự lập trở nên một thứ thước để đo tầm
cao thấp của một đạo pháp. Việt Đạo sở
dĩ được gọi là siêu việt chính vì giàu
đức tự lập, tự cường nọ vậy. Nho gọi đó
là “trung lập nhi bất ỷ”. Đấy
là nét đặc trưng nội tại.
Nếu
hỏi đâu là dấu đặc trưng bên ngoài thì
đó phải là chữ Thái Hòa, nói kiểu triết
là bao được cả Thiên cả Địa: “Thiên Địa
có vị yên” thì vạn vật mới “tịnh dục”.
Vạn vật trong con người hiểu là cả Vật
lẫn Tâm, tất cả đều được nuôi dưỡng vun
bồi. Nói theo Vô vi là cả trược lẫn
thanh, cả đời lẫn đạo đức song tu: tu
đạo mà không bỏ đời, trái lại đêm công
phu, ngày công quả, công trình. Cha Trời
luôn luôn nhắc nhở các con phải lo tròn
Đạo làm Người mới có đà tiến lên làm
Tiên, Thánh, Phật. Khác với nhiều lối tu
ưa tị thế tránh đời, coi đời là giả trá
cần lánh xa. Ở đây tu cả hai, đúng là
nét song trùng đặc trưng của Việt Nho
tạo nên sự cân đối giữa hiện tượng và
siêu việt, giữa “hai đất với ba trời”.
Cả đến quyển Chơn Lý mà Vô vi có thể
nhận làm kinh điển cũng chính là một
quyển triết lý nhân sinh, tức nói những
điều mà tình lý loài người dễ dàng theo
dõi mặc dầu rất cao siêu nhưng không lúc
nào là duy niệm hay duy thức xa lìa đời
sống. Tỏ ra sức ngoại hàm cực rộng gồm
thâu tất cả.
Nói
kiểu khác thì câu “thiên địa vị yên”
có nghĩa là cả lý cả tình đều được chú
ý: tình lý tương tham. Nói đến văn hóa
Việt là phải chú ý đến tình: tình người,
tình nước, tình nhà đều được vun bồi rất
mực. Thế mà tình ấy lại hòa hợp với
triết lý thâm sâu, thâm sâu đến độ đạt
Minh Triết, nó ở tại đáp ứng mọi nhu yếu
nền tảng của con người: tất cả đều được
nuôi dưỡng (vạn vật tịnh dục).
Chính chỗ tình lý tương tham này mà văn
hóa Việt có tiếng là dùng nhiều biểu
tượng: là vì đang khi lý trí có giới
mốc, có biên cương, thì tâm tình lại có
tính cách uyển chuyển không phân bờ cõi
rõ rệt, vì thế mà phải dùng nhiều biểu
tượng, là vì biểu tượng có tính cách co
giãn như cao su, dễ dàng thích nghi với
hoàn cảnh để cho tình lý tương tham mà
lấy quyết định tuỳ theo hoàn cảnh, không
cứng đơ kiểu duy lý hay duy tình. Chính
trong bối cảnh đó mà chúng ta được hoan
hỉ tiếp nhận biểu tượng lớn lao vô cùng
về Thượng Đế giáng phàm trong một xác
thân linh nữ. Yếu tố Nữ nói lên mối tình
thâm thiết của văn hóa Việt xưa đã biểu
thị bằng các nghi mẫu, gọi chung là Tiên
mẫu. Còn mối tình nào cao cả, bao la hơn
tình mẹ. Thế mà vẫn đi với nền triết
siêu phàm. Cụ thể là Pháp lý Vô vi ra
được một dạng thức hòa giải giữa tôn
giáo và triết lý. Xưa nay, triết lý quá
chuyên về lý mà lãng bỏ tình người. Còn
tôn giáo thì quá chú ý về tình mà lãng
về lý, nên không mấy khi hợp nhau. Nay
Vô vi nhờ biểu tượng Tiên Mẫu Kim Thân
Cha đưa ra được một nền triết thâm sâu
mà lại đi với một đạo pháp đầy ứ tình
người, bơm thêm sinh lực cho triết lý để
thẩm thấu ngày càng sâu vào con đường
Đạo.
Một
số độc giả có thể thắc mắc tại sao chúng
tôi nói tới Phật giáo hơi nhiều về những
khía cạnh cần sửa sai. Xin thưa rằng đó
quả là điều bất đắc dĩ do sự vụ là Vô vi
đã quá thiên về Phật, mượn của Phật
nhiều điều làm mờ cả Vô vi. Nghĩ cũng
tội nghiệp. Nếu Vô vi không tâng bốc
Phật quá nhiều thì có ai dám nói chi đến
Phật đâu, nhất là càng ngày chúng tôi
càng thâm tín rằng đạo nào cũng tốt, tốt
cho một số người ở trong một trình độ
nào đó. Có muôn vàn trình độ thì cũng
cần rất nhiều đạo khác nhau, nhiều tôn
giáo khác biệt để ứng hợp cho mỗi trình
độ, cần đến nỗi nói được cả tà đạo cũng
hợp cho một số linh căn (vì tiên khiên
những linh căn đó phải theo tà giáo để
trả nghiệp thí dụ). Đàng khác, trong
việc tu tiến thì quan trọng trước hết
phải kể đến là lòng thành: hễ có lòng
thành thì dù đạo thấp rồi cũng cao, đạo
tà rồi người theo cũng có thể làm cho
nên chánh. Bởi vậy rất không nên phê
bình chỉ trích bất cứ tôn giáo nào.
Huống chi lại là Phật giáo, là một đạo
cao đẳng: Đức Phật là một tấm gương sáng
chói của nhân loại rất đáng kính tôn, vì
Người đã bỏ ngôi báu để chọn con đường
tu hành và tu theo lối cao nhất là thiền
định, nên đã có thể lưu lại ảnh hưởng
lớn lao trong văn hóa. Chỉ nội bấy nhiêu
đã quá đủ để được thán phục, ngợi ca
không thể hết lời, chứ có cần chi phải
tạo những truyện quá đáng làm cho Phật
giáo trở nên khó cho lý trí chấp nhận.
Thế
nhưng có những người quá sùng mộ đã
không chịu theo như vậy, họ đã tâng bốc
Phật với óc tưởng tượng buông cương: cả
dám tôn Phật lên trên Thượng Đế, lấy tên
Phật đặt cho Đấng Tối Cao, làm nảy sinh
nào là Hắc Bì Phật Tổ, A Di Đà Phật, nào
là Tam Thân Phật... thì đó là phạm tội
liệt vị rõ rệt gây ra sự suy thoái có
hại cho đạo Phật rất nhiều, khiến những
người quan sát khách quan không còn dám
ca ngợi Phật nữa vì e phạm tội a tòng
với những kiểu tâng bốc quá lố đến phạm
thượng kia. Bởi thế khi truyền sang bên
đất Việt Nho, mới làm nảy ra những câu
như “phùng Phật sát Phật”... Nhưng đó
chỉ là cái nhìn ước ao, loé sáng chưa đủ
minh biện cặn kẽ, nghĩa là chưa chỉ tỏ
ra được những Phật nào phải sát, vì sao
phải sát, mà chỉ nói chung thì có ai sát
được ông Phật nào đâu. Vì thế đến nay
Cha Trời lại phải truyền lệnh:
“Tiến
vào cõi khổ.
Đạp
đổ Niết Bàn.
Giết
“ta” Phật “ngã”:
Rõ
mặt Ngọc Hoàng”.
Câu
ba nói rõ phải giết ông Phật nào. Đó là
những ông Phật do trí óc phàm ngã của
người sau tô tạo, nên gọi được là “ta
Phật ngã Phật”. Những ông Phật đó đều
phải giết hết thì mới rõ được mặt Ngọc
Hoàng. Chính Phật chưa đi tới Pháp thân,
mà đã vội đưa Phật lên đó rồi. Vậy là
phạm tội liệt vị còn chi. Đã thế còn giữ
độc quyền cho Phật, làm sai luôn thuyết
Tam thân.
Thuyết
đó chính là một kiểu nói bóng để tả đại
khái những chặng tiến của tâm thức con
người:
“Nhục
thân” là đợt còn trong trần trược.
“Hóa
thân” là khi tu đã đắc đạo, đã sang bến
giác.
“Hóa
thân” là khi giác đến tột cùng, đến toàn
giác trở về đến tận nguồn cội. Nho gọi
là “phối thiên”, Lão giáo gọi là “huyền
đồng”.
Vì
thế Pháp thân có những thể tính y như
Thượng Đế: “thường trụ, an tịnh”... Như
vậy không nên đưa chữ Phật vào vì sớm
quá hay đúng hơn vì quá sức phán đoán
của con người. Con người chỉ thể biết
đến Hóa thân là cùng. Phương chi càng
không nên chiếm độc quyền cho Phật. Hắc
Bì Phật cũng phải bỏ. Lên đến đấy thì
còn bì nữa đâu mà hắc với bạch?
Đến
Adiđà Phật cũng vậy, Phạn ngữ là
‘Amitabha’ thì ‘amita’ là vô cùng,
‘abha’ là sáng, Tàu dịch khá sát nghĩa
là “vô lượng quang”, không có Phật nào
cả, đó là Thể sáng của Thượng Đế, cũng
là “ánh linh quang” của con người, Nho
gọi là “Minh Đức” (tại minh Minh Đức).
Nay thêm tiếng Phật vào thành ra là của
riêng ông Phật, thế là cũng tham dự vào
tội soán đoạt liệt vị nốt, nên cũng phải
giết: để vậy mới nghe đã tức cười: bỏ
tiếng sáng (abha) đi rồi chỉ còn vô
cùng, như vậy Adiđà là niệm cái ông vô
cùng. Ủa có cái ông gì tên là vô cùng
vậy ta!
Đại
để đó là lý do tại sao nói về Vô vi mà
phải viết thêm ít lời về Phật. Vì tôi
thấy Vô vi xem ra có phần quá đề cao
Phật đến độ tha và vô vi toàn những loại
ta Phật ngã Phật nên buộc lòng phải nói
ra cho minh bạch mong cho Pháp lý Vô vi
không bị nhận lầm với những tầm giử của
Phật giáo hầu trở nên dễ hiểu, dễ theo
cho mọi người.
Kính
Lạy Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại
Thiên Tôn.
X. Vài
cảm nghĩ về bản dịch quyển "Chơn Lý"
Đây
là một bản dịch rất công phu sát nghĩa
đáng mừng cho Vô vi. Ngay cái tên sách
đã thấy đáng yêu, vắn gọn: ‘truth by
god’. Người trình bày lại chọn màu bìa
vàng Kim càng làm tăng thêm ý nghĩa.
Đành rằng khi đọc bản dịch ta chỉ thấy
được chừng 80% của chính văn, nhưng
thiết tưởng đó là cái mức hầu cuối cùng
mà bản dịch dù tốt nhất cũng chỉ có thế
tới mấp mí cỡ đó; “dịch là diệt” mà. Cho
nên trừ ít tiểu tiết thì nói chung đó là
bản dịch rất được.
Mấy
điều bàn sau đây thuộc về phần chú
thích. Phần này tỏ ra dịch giả là người
có đọc sách về nghiên cứu Phật giáo, tuy
có gia thêm uy tín cho bản dịch nhưng
cũng có chỗ vì đó mà làm thiệt bản dịch
phần nào. Vì dịch giả cố chú thích quá
sự cần thiết nên có vẻ lôi quyển sách
vào chân trời (môi sinh) Phật giáo, đó
là điều không đúng ở cơ cấu. Cơ cấu chú
trọng rất ít đến từ mà chuyên chú ý tới
cái môi sinh. Cái môi sinh Phật là tiêu
cực, bi quan, phi thế, còn môi sinh
quyển Chơn Lý thì tích cực, lạc quan,
nhập cuộc. Vậy hễ điều nào làm cho quyển
Chơn Lý mặc lớp Phật giáo quá đáng thì
sai với bầu khí của nó. Có hai luật coi
như của riêng Phật nhưng thực ra không
phải, vì hai luật đó chỉ là hệ luận của
luật bao quát hơn là tiến hóa, mà tiến
hóa lại là nền của Việt Nho như được
trình bày trong Kinh Dịch. Nên Việt Nho
chấp nhận hai luật đó cách rất dung dị,
coi như những quảng diễn đặc biệt của
luật chung tiến hóa vậy.
Cũng
nói được về nhiều điểm khác như vậy. Vì
thế từ ngữ của Phật có nhiều tới đâu
cũng không đổi được bầu khí quyển Kinh.
Nhất là khi ta thấy Cha Trời rất xuề
xòa, không chấp vào lời chút nào tức
không cần hiểu theo nghĩa gốc mà hiểu
theo tiếng nói thông thường thí dụ khi
ta nói mạt kiếp thì chẳng cần phải nghĩ
đến Kalpa của Ấn, nói Vô vi trống rỗng
cũng không cần nghĩ đến Thái Hư
(Synysta). Vì những chữ ấy đã Việt hóa
nếu không phải là chính Việt ngữ. Bởi
thế sự móc nối với từ gốc Phật nhiều khi
không cần mà còn có thể làm sai lạc chân
trời.
Đây
tôi đưa ra thí dụ về định nghĩa “Thượng
Đế là khối điển quang” (câu 59)
thì rõ ràng là điển tại sao không dịch
bằng một từ nào thuộc ‘electricity’ mà
lại dịch là ‘energy’. Tôi đoán dịch giả
ưng chữ này hơn vì cái hậu trường Kinh
Điển âm u là chữ Prana, không như chữ
điển nghe nó có vẻ nhà bè quá, trần tục
quá, làm sao ví được với chữ ‘energy’
kèm theo Prana Akasa đầy u linh. Vậy
nhưng bản văn nói điển mà khi đọc ta
không nghĩ gì đến khí, nhất là khi đọc
kỹ câu 4 và 5, hay khi nói về con người
còn rõ hơn nữa “người là điển quang
được cấu tạo bằng điển âm và điển
dương” (câu 49) như vậy mặc dầu
chữ ‘electricity’ có vẻ trần tục cũng
vẫn nên dùng mới giữ được cái bầu khí
của bản văn, vì bản văn là của một vị
chị chơi: nói những điều lạ và trần tục
hơn nhiều, còn khó nghe là khác, thí dụ
“Thượng Đế cũng là quỷ ma, Thượng Đế
là đống phân...” thì có ngại gì
mà không dám dịch là điển quang. Xét cho
cùng câu nói Thượng Đế là điển chính là
một định nghĩa mới lạ của bản văn, là
một khải thị vĩ đại vừa cao sâu cùng cực
mà lại cụ thể hơn hết trong thời này. Vì
ngày nay con người đã được nhờ tác dụng
của điển hàng ngày, và chẳng ai thấy
hình tượng điển ra sao cả. Vậy có phải
là ứng hợp với Thượng Đế không? Chẳng ai
thấy Người, nhưng không một cái gì dù
sợi tơ, sợi tóc trên đầu ta mà lọt ra
ngoài quyền Ngài được.
Nhất
là khi nghĩ tới điện tử là nền tảng vạn
vật và nhất thứ khi nói riêng về điện tử
(electron) chính là nền tảng tinh thần
nữa, thì dịch là điển thiết thực xiết
bao, chứ ‘energy’ làm sao ví được, mặc
dầu ‘energy’ có hàm chứa ý niệm điển
nhưng nói chung quá nên dịch giả đã dùng
để dịch cả tinh, khí, thần, vì thế tiếng
‘energy’ làm mất đi ý niệm mạnh mẽ vô
song của chữ điển.
Huống
chi quyển Chơn Lý xuất hiện trong Vô vi,
mà Vô vi thì rất đáng tên là “điển quang
pháp giới”. Người tu đến trình độ nào sẽ
cảm được điển, rồi chú ý đến điển: lúc
được thêm điển, lúc bị mất điển.
‘Energy’ hay ‘Prana’ không thể nào gây
được cảm nghĩ sâu xa, thắm thiết và bao
la như vậy. Cho nên không dịch điển là
điện là một sự mất mát lớn lao. Riêng
với tôi, tôi phải thú thật khi đọc bản
văn đến câu Thượng Đế là khối điển
quang... lòng tôi tràn ngập mối tình mến
yêu bát ngát, mà khi đọc chữ ‘energy’
trong bản dịch tôi chẳng cảm thấy gì
nữa.
Điều
cần bàn thứ hai là câu chú thích về
Khổng Tử. Khổng Tử đại diện Nho, Nho là
Đạo làm người được Cha Trời năng nhắc
đến và nhấn mạnh sự cần thiết coi như
bước đầu không có không được để đi đến
các bước sau. Vậy mà chú thích trình bày
Khổng Tử quá thấp thì người ta hiểu thế
nào được Cha. Không lẽ Cha đề cao một
cái gì tầm thường như vậy sao. Dịch giả
giới thiệu Khổng Tử mà không nói đến cái
nõn (cơ cấu) lại chỉ nói đến cái bì phu
do các đời sau trát vào. Điều này xảy ra
ngoài ý thức dịch giả. Dịch giả giới
thiệu Khổng Tử đã công thức luân lý
thành tam cương là quân thần, phụ tử,
phu phụ (tr.210). Vì sự ngự trị của Hán
Nho nên chắc không ai nói khác dịch giả
hết, nên tôi bàn đây không có ý sửa sai
dịch giả mà muốn bày tỏ rằng đó là Hán
Nho. Hán Nho là Nho đã sa đọa ra khỏi cơ
cấu của nguyên Nho rồi nên mới nói tam
cương là vua tôi, cha con, chồng vợ, còn
nếu theo Việt Nho thì sẽ nói vợ chồng,
cha con, vua tôi. Vì có nói vợ chồng (vợ
trước chồng) thì mới hợp nét song trùng
uyên nguyên là âm dương (âm trước
dương), âm trong dương ngoài (nữ nội,
nam ngoại) tình lý tương tham (tình
trước lý) nhà nước (nhà trước nước) tu
thân, tề gia trước trị quốc bình thiên
hạ... Nếu chỉ có cái thứ tự suông thì
không đáng bàn, đàng này cái thứ tự khác
kéo theo một tinh thần khác hẳn tức Hán
Nho đổi thứ tự đó vì đã lây phải óc du
mục: lấy mạnh hiếp yếu, đề cao tù
trưởng, ông vua, đẳng trưởng, nên đổi
tam cương cân đối có âm có dương ra tam
cương đực rựa là quân thần, phụ tử, phu
phụ. Vậy là đánh mất tinh thần Việt Nho
rồi còn gì, nó ở tại câu “dân vi
quý, quân vi khinh”. Tức dân
trước quân: đặt quân lên đầu thì đâu còn
“quân vi khinh” nữa. Thế mà đấy
mới là đợt luân lý xã hội.
Nếu
nói đến đợt triết lý thì sự sai mới lộ
hẳn: tức lấy phần rất tuỳ phụ để định
tính một đạo lý, y như nói Vô vi là đạo
“di đà do ông Tám” vậy, Vô vi đâu phải
vậy, Nho cũng thế nó không là tam cương
xã hội mà là tam cương đạt đức là: trí,
nhân, dũng và không còn là ngũ luân nữa
(vợ chồng, cha con, vua tôi, huynh đệ,
bằng hữu) mà phải là ngũ thường là nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín. Sau lấy chữ nhân
thay cho tam cương và chữ nghĩa thay cho
ngũ thường thành ra nhân nghĩa. Đó là
cái khung uyên nguyên gọi là Tam tài,
Ngũ hành rồi sau thể hiện vào các bộ tam
và ngũ ứng dụng, trước hết được huyền sử
hoá thành:
Tam Hoàng (thay cho tam cương)
Ngũ
Đế (thay cho ngũ thường)
Rồi Hán Nho lại lịch sử hóa
thành:
Tam Vương (Hạ, Thương, Chu)
Ngũ
Bá (Tề, Tấn, Tần, Việt, Sở). Rồi còn sa
đọa hơn nữa thành ra bộ ba tam cương xã
hội của Hán Nho: quân thần, phu tử, phu
phụ.
Cuối
cùng đốc ra cái tam hạng bét là bộ Tam
tòng tứ đức để hạ đo ván đàn bà. Bộ ba
cuối cùng này sai cả đến từng chữ. Tam
Hoàng làm chi có tam tòng. Âm đi trước
dương chứ âm có tòng dương đâu. Ngũ
thường đổi ra tứ đức: từ 5 xuống 4 mất
đi một chân rồi. Đấy, Hán Nho trình bày
Nho như vậy đó. Khiến từ 20 thế kỷ nay
hễ nói đến Nho là người ta nghĩ ngay đến
tam tòng, tứ đức hay khá hơn là tam
cương xã hội mà không động gì đến cái cơ
cấu của nó, thì đó chỉ là giới thiệu Nho
với cái tầm gửi đợt ba. Như vậy thì làm
sao hợp với Nho chính tông, làm sao
người ta hiểu được tại sao triết học
hiện đại đang đề cao Nho cách long
trọng.
Bên
ngoài là việc hội nghị triết học quốc tế
chọn Khổng Tử giữ đũa nhịp của nhạc
trưởng để điều khiển bản hòa tấu đang
hình thành giữa Đông Tây, cũng như giữa
đạo đời.
Bên
trong là việc Cha Trời giao phó cho Nho
đứng đầu trong nhiệm vụ thực thi Cơ Quy
Nhất. Tức cả trong lẫn ngoài đều hợp
nhau đề cao Nho. Đó quả là một vinh dự
tột cùng không nền triết nào được hưởng.
Tại sao Nho được như vậy? Thưa vì đó là
nền triết đạt được chữ Thái Hòa nghĩa là
hoà cùng cực cả trời cả đất, cả quỷ lẫn
thần, cả nam lẫn nữ vậy.
Điều
thứ ba đáng nói tới là chú thích 36
(tr.221-222) về “Lục tự Di Đà” có chứa
mấy điều làm người đọc phải ngạc nhiên
tại sao dịch giả đã bỏ công dịch quyển
Chơn Lý, tức đã suy xét cân nhắc từng
lời một, vậy mà còn nói mấy điều trái
khoáy như sau:
Thứ
nhất về việc niệm Lục Tự bằng âm Việt,
dịch giả viết “It is important to know
this fundamental and universal notion”.
Ôi
làm chi có chuyện nền tảng với phổ biến.
Đó chỉ là phương pháp của một vài đạo
pháp như Kundalini Yoga thí dụ, chứ có
phổ biến và nền tảng đâu. Nếu nền tảng
và phổ biến thì hết mọi pháp đều phải có
và có y như nhau cả về số chữ, lẫn âm
thanh. Thế mà nhiều đạo pháp không có cả
đến niệm, chứ đừng nói đến âm, còn tên
Ngọc Hoàng lại chẳng có số nào nhất
định. Vậy Lục Tự di đà chỉ là một kiểu
riêng của một số phép nên chỉ là nét đặc
trưng chứ không phải nền móng. Vô vi đã
đặc trưng hóa bằng bớt đi một luân xa
còn có 6 (trong Yoga có 7) còn âm thì
trong Sanskrit có tám là “Na mô amitbaha
budha”. Đây bỏ hai chỉ còn 6 âm.
Thứ
đến sao lại đưa Tây Tạng ra làm thí dụ
về sự hiệu nghiệm? Viết như vậy là theo
lối tu học mà không theo trí học. Tu học
lấy tin làm nền, bất cứ cái gì trong đạo
nói đều cho là thật, còn với trí học
phải có bằng chứng. Nói là hiệu nghiệm
mà mấy người được tin là đắc đạo bên đó
có đưa nổi bằng chứng khách quan chăng.
Ai cũng biết sự hiệu nghiệm của một pháp
còn tuỳ thuộc phần lớn vào sự tinh tấn
cũng như lòng thành khẩn của người tu,
tức là phần chủ quan tham dự rất nhiều
trong sự hiệu nghiệm, nên trí học không
dám trưng phép nọ kia hiệu nghiệm làm
thí dụ để kết luận.
Về
sự phân biệt tu học với trí học, dịch
giả tỏ ra chưa để ý đến chẳng hạn câu 17
Cha nói “triết lý các tôn giáo” mà dịch
là “religions and philosophics” là không
đúng. Đó không là triết lý đúng riêng mà
chỉ là triết lý về tôn giáo, tức một thứ
thần học tuy cũng có suy luận kiểu triết
nhưng lấy các huấn lệnh tôn giáo làm
định đề, nên không là triết mà chỉ là
một khoa minh giáo, một khoa tìm cách
bàn rộng hay là “một biện chứng” theo
nghĩa tìm lý lẽ để bênh vực cho những
điều đã được tiên thiên trước kia. Nói
vắn tắt đó chỉ là tu học chứ không là
triết học. Chính vì triết nói gì cũng
kiểm chứng, hoặc kiểm lý được nên người
đời coi trọng triết hơn tu học nhiều
lắm. Trong câu sau Cha không nói triết
nữa mà chỉ nói “các tôn giáo chỉ
đứng một khía cạnh để nhìn một khía
cạnh khác”. Chứ Cha không nói các
triết học, tuy triết học hầu hết cũng
nhìn một chiều, nhưng có một số biệt lệ
mà trong đó Việt Nho nổi nhất ở chỗ đấy
thật xa lối xét cả hai chiều. Người thí
dụ được Nho định nghĩa là “quỷ thần
chi hội”, vạn vật cũng đều nói có
âm, có dương, có tĩnh có động... Sở dĩ
xét về mặt kiểm soát được thì tu học
thua trí học, là vì tu học dựa trên điểm
và lòng thành. Có lòng thành thì tà cũng
ra chánh. Sách viết luộm thuộm chẳng ra
gì mà những người tu bảo nhau đọc vì “có
điển”, thế là mọi người quý hóa, nền
móng của tu học ở chỗ đó. Với trí học
thì khác, nó không xét có điển hay lòng
thành, mà chỉ xét lời nói có hợp tình
hợp lý chăng, trước sau ăn chịu với nhau
ra sao: nói sai vẫn là sai không vì cãi
được, mặc dầu “có điển”.
Thứ
ba câu kết “it made of necessity to
follow the Vietnamese phonetic”. Viết
câu này dịch giả tỏ ra chưa hiểu rằng
‘Kumdalini’ chỉ là một đạo pháp hạng
thấp vì còn quá lệ thuộc vào thanh sắc
đến độ nguy hiểm. Khỏi cần đọc rộng, chỉ
cần suy nghĩ câu 22 Cha giảng rất rõ về
chính niệm ra sao, tất sẽ không còn
“dám” viết câu trên nữa.
Tôi
nói “dám” vì câu viết tỏ ra dịch giả coi
trọng ông Tám hơn Kim Thân Cha. Đó là
“tội phạm thượng” do ảnh hưởng rớt lại
của tội liệt vị của Phật giáo đã coi
Phật cao hơn Trời. Tôi đặt chữ “dám và
tội” trong ngoặc vì hy vọng ý thức dịch
giả không hề nghĩ cũng như không ngờ như
vậy. Nhưng cần phải nói ra ở đây là
quyển Chơn Lý vượt quá mức trí học và
khả năng hiểu biết của ông Tám nên ít
bạn đạo hiểu được các âm vang của quyển
Kinh. Nhưng những ai muốn dịch nên hiểu
rằng Vô vi ở đợt ông Tư, ông Tám chỉ thể
là một đạo pháp địa phương, chưa đáng
được thức giả chú ý chứ đừng nói đến
kính nể, còn nay được kính nể ngay trong
giới trí học và có tầm vóc lan rộng ra
quốc tế, chính là nhờ quyển Chơn Lý và
hiện tượng Đức Kim Thân. Cho nên dưới
con mắt trí học cái “tội phạm thượng”
tuy vô tình kia cũng rất đáng lưu ý để
tránh tái phạm.
XI. Phương
pháp công phu
Phương
pháp công phu in sau đây trích nguyên
văn từ quyển Vấn Đạo (Hội Ái Hữu Vô Vi
1982) chỉ có vài điều liên can đến lời
nguyện và niệm được sửa đổi. Lời nguyện
đây không phải là cầu nguyện gì cho
mình, nhưng trước hết là lời chào lạy
đấng Cha lành. Sau là nhắc lại lý tưởng
và quyết tâm tu sửa mình để tu cho được
tinh tấn, thường gọi lý tưởng đó là đại
nguyện. Cuối cùng là cầu cho vạn vật
thái bình, cũng như cầu cho cha mẹ tổ
tiên, họ hàng xa gần (gọi là cửu huyền
thất tổ) được thức giác về sự cần thiết
phải tu.
Lời
nguyện thường cũng là lời niệm. Kim Thân
Cha đã cho phép những người ngoài Phật
giáo không phải niệm Phật. Chúng ta nên
thống nhất và quyết chí niệm danh Cha,
và nên coi đó như là lời niệm quốc tế.
Vì số người không theo Phật giáo sẽ ngày
càng đông và phải đông hơn, phải mở rộng
ra quốc tế. Và lời nguyện đó cũng là hợp
cơ quy nhất hơn: muốn trở về một gốc thì
cũng nên bắt đầu niệm một lời như nhau,
đó là niệm Cha, Danh Cha có nhiều nhưng
thường dùng hơn cả là câu:
KÍNH
LẠY NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VÔ CỰC ĐẠI
THIÊN TÔN. Hoặc
KÍNH
LẠY CHÚA TỂ CÀN KHÔN. (câu này sáu chữ
dành cho những ai thích lục tự hoặc dùng
khi mật niệm bát chính).
Chữ
Kính lạy cũng cùng nội dung như chữ
Nam-mô. Thiết nghĩ nên tránh chữ Namô vì
nó gắn liền với Phật giáo quá lâu đời.
Cha ban Vô vi qua người Việt thì dùng
tiếng Việt là sự hợp lý, nên đã rộng
phép cho các người không theo Phật giáo
muốn nguyện và niệm sao cũng được. Tuy
nhiên, vì niệm là có ý nối tiếp việc
thiền, tức tập trung tâm trí vào Cha,
nên lời niệm phải vắn tắt, đọc một kinh
không phải là niệm nữa, vì trí đã lan ra
rộng bằng cả một kinh: đó là mở đường
rơi vào cái tật “tâm viên ý mã”. Lời
niệm phải là một danh xưng mà thôi. Lão
giáo gọi là “thủ nhất”. Cha ông ta xưa
chỉ kêu một tiếng Trời. Thiết nghĩ đó
chính là lời niệm của đạo Việt. Vậy nên
đọc một kinh dài cũng ví được như niệm
nhiều tên Phật sẽ đâm ra chia trí nhiều
ngả. Về việc niệm xin đọc quyển Chơn Lý
nhất là câu 32 (như sẽ trích vài đoạn
trong phụ trương II). Xin đọc lại nhiều
lần để sau này khi gặp trong nhiều sách
Vô vi thấy nhiều kiểu niệm bạn khỏi
hoang mang. Cứ tin vào lời Cha là yên
trí mọi đàng, khỏi cần thắc mắc. Còn
những lời niệm Di Đà, Quan Âm, Di Lạc là
tạm mượn lúc đầu, vì các người tu hầu
hết theo Phật giáo. Nay Vô vi mở rộng
thì nên chọn lời niệm Cha để tránh những
khó khăn cho những người ngoài Phật
giáo.
XII. Bàn
thêm về hiện thực
Pháp lý Vô vi được
coi là một lối tu tắt, nhiều người đạt
ẩn chứng có thể nói là mau lẹ. Không
cần giải nghĩa bằng mặt Vô vi huyền
bí, mà chỉ cần cứu xét mặt hiện tượng
hữu vi cũng đã thấy được lý do.
Một vì đưa trên sự
“tự tu tự tiến” cao độ, gạt bỏ mọi sự
cầu phù hộ, chứng tỏ đã tới gần nguồn
cuối của đấng Tự Hữu, nên kể là giai
đoạn chạy nước rút.
Thứ đến là ý thức sâu
sắc về những tác động, vì bỏ hết mọi
rềnh rang bên ngoài: tổ chức, miếu
mạo, cúng vái để tâm trí được dồn trọn
vẹn vào đường tu, nên hiệu nghiệm dễ
thấy mau hơn.
Thứ ba là ráo riết
tận cùng, thi hành đúng theo câu “quân
tử vô sở bất dụng kỳ cực”:
người quân tử làm cái gì cũng ráo riết
tới chỗ cùng tột mới thôi. Xét riêng
về mặt này thì ta có thể nói Vô vi là
cái xe lắp toàn những bộ phận tốt
nhất: tự soi hồn, pháp luân cho đến
thiền định, tất cả đều rốt ráo. Trong
bài này tôi muốn nhấn mạnh đến điểm
nọ.
Trước hết là lời
nguyện. Bạn có thể bỏ lời nguyện và
niệm, vì thiền là một phương pháp tự
nhiên, có thể hiện thực theo lối khách
quan kiểu khoa học, như nhiều đạo pháp
thiền mà không có nguyện hay niệm gì
cả. Điều đó không có chi trái để phải
phê phán. Còn Vô vi có nguyện có niệm
vì đây là một đạo pháp kép, kết hợp cả
tôn giáo với thiền, cho nên thêm được
phần thành khẩn cùng cực: vì lời
nguyện và niệm làm nổi bật mối liên hệ
giữa ta với Cha Trời và Mẹ Đất, khiến
cho việc thiền thêm chiều kích thâm
thiết, giúp rất nhiều vào việc huy
động toàn bầu tâm tình tha thiết đổ
dồn vào tu luyện, khiến cho việc tu
luyện dễ thành tựu hơn.
Vả trên đường tu tiến
tới một lúc nào đó con người thế nào
cũng sẽ cảm thấy mối tình bao la giữa
mình với Cha Trời, hiện thực mối tình
đó chính là nòng cốt tôn giáo. Vì thế
mối tình này được hiện thực trong Vô
vi thì chỉ là thêm một chứng từ nói
lên tính chất Việt Đạo, vì tổ tiên ta
vẫn gắn bó với Cha Trời cách thâm sâu
cùng cực: động tí là kêu trời. Xưa kia
nhà nào cũng có bàn thờ Trời. Đến nay
Trời được đưa vào Vô vi bằng hình thức
nguyện và niệm thì đó là cách thờ Trời
đã thăng hoa, đó quả là tôn giáo đã
tinh lọc đến cao độ. Bởi thế ta hãy để
hết tâm tình vào lời nguyện, nguyện
cho thực sốt sắng, cho thực chí tình
cũng như kéo dài lời nguyện bằng việc
thường niệm, vô biệt niệm, để gia tốc
đà tự tu, tự tiến của ta.
Sau lời nguyện là đến
soi hồn. Cặp từ nghe có vẻ lạ tai
nhưng thực ra chỉ là một cách nói lên
khía cạnh cùng tột trong sự đoạn lìa
ngũ quan xem, nghe, cảm, nếm, ngửi đều
phải dừng lại trong một lúc để có thể
dồn tất cả tâm trí vào cái đầu. Vì đầu
có xuôi đuôi mới lọt. Xuôi đây phải
hiểu theo đạo trống, tức phải làm cho
trống rỗng tâm trí, gọi là “trai tâm”:
tâm tư phải chay tịnh, không để cái
chi dính bén lại trọn đó đặng dọn chỗ
cho Linh Thiêng xuất hiện. Vì thế xưa
nay đạo Việt luôn chú ý đến cái đầu,
nay Vô vi cũng làm như vậy với tính
cách ráo riết cùng cực, bịt tai, mắt,
tinh để dồn tâm trí vào một điểm. Điểm
đó có thể là tam tinh hay là đỉnh đầu
tuỳ đàng nào người tu thấy dễ thì
chọn. Làm như vậy cách ráo riết thì có
thể cảm tưởng như mình lái chiếc phi
cơ phản lực mũi nhọn đang bay vút lên
các tầng cao, khiến mình cảm thấy sự
rốt ráo của tác động, cũng như đà gia
tốc của sự tự tu tự tiến. Nhờ mấy cử
động đó ta thấy dễ thi hành sự ly lìa
trần cấu để dồn trọn vẹn sinh lực vào
việc siêu thoát. Có lẽ vì vậy mà được
đặt tên là phép soi hồn, như thể nói
hồn xưa nay bị để lẫn lộn với xác
thân, lẫn lộn với bao sự trần cấu uế
tạp, nay được luồng sáng của tâm trí
soi vào làm nổi bật lên trên nền trời
tâm linh để sẵn sàng bay lên cao mãi.
Sau “soi hồn” thì đến
thở. Thở cũng là một tác động rất ơn
ích cần làm rất thong thả và tập trung
cùng cực, chính sự thong thả giúp vào
việc tập trung và do đó mà có sự khác
nhau trong các pháp, nó ở tại tỉ lệ
hít, nín, thở. Yoga thường nín hơi lâu
gấp 4 lần thì giờ hít vào. Nhịp thường
và thấp nhất là 3-12-6 (hít 3, nén 12,
thở 6). Nhịp trung bình là 16-64-32.
Vô vi thì bỏ hẳn đoạn nín để cho hít
và thở nối tiếp liền như bánh xe lăn
không ngừng lại. Vì thế gọi là pháp
luân. Không nín sợ hơi nín lâu quá có
thể đánh thức làn hoả hầu sớm quá gây
ra tẩu hỏa nhập ma. Điều này cũng có
lý, nhưng tẩu hỏa nhập ma còn xảy ra
vì nhiều lý do khác nhau như do bộ đầu
chưa được khai thông (bằng soi hồn
khai thông thì đã tránh được nguy cơ
quá nửa). Vì thế thiết nghĩ những ai
muốn cũng có thể nín hơi ít lâu để kéo
dài nhịp hít thở hầu đạt được sự thong
thả hơn. Vòng pháp luân của ông Tám
kéo dài đến 90 giây. Người mới tập
nhiều lắm 40 giây, nên thêm tác động
nín thí dụ 20 giây nữa thì đạt 60:
theo nhịp 2-2-2. Đó là 2 nhịp không có
hại gì mà vẫn giúp kéo dài nhịp hít
thở. Vì nín cũng bằng hít với thở
không thể gây tai họa gì.
Có người công kích
lối thở luân xa nhưng đó chính là nhịp
thở tự nhiên: tức hít thở liền nhau
không có gì đáng công kích cả. Nó chỉ
khác thở thường ở chỗ chậm rãi, sự
chậm được rải đều trên các bước tiến
của nhịp thở. Tuy nhiên tập luyện được
như vậy có thể là rất khó cho một số
người vì thế mà có phép thở nằm gọi là
chiêu minh đưa ra để tập thở trước.
Thở nằm là cốt cất mọi trở ngại bên
ngoài, hãy dồn trọn chú ý vào việc
thở. Sự ý thức này còn được gia tăng
bằng cách đếm các vòng. Thở đúng theo
số các vòng 12, 11, 10...là lấy chú
tâm đệm vào nhịp thở, lấy sự nhận thức
mà tẩm nhận khí thở ra hít vào, làm
cho nó tự đợt sinh lý vươn lên đợt tâm
linh: biến ra thanh điển. Cho nên càng
thở được nhiều càng hay. Có bạn đạo
không dùng nhiều phép chiêu minh, vì
hay ngủ mất, hoặc thấy không mạnh bằng
thở pháp luân, nên thay vào bằng phép
thiền thở. Nghĩa là sau giờ thiền thay
vì lên giường làm chiêu minh thì ngồi
lại thở pháp luân. Thở một quãng 5 hay
10 phút thấy mệt thì xả, rồi nghỉ chút
đoạn thở như trước, rồi lại xả. Có thể
làm như thế 1, 2 lần cho tới cả chục
lần. Tôi thấy sáng kiến này hay, thở
như vậy đã không sợ ngủ mất mà còn
mạnh hơn chiêu minh. Và nhất là hôm
nào cảm thấy thiền quá nặng không thể
định trí được thì có thể xả, rồi quay
ra thở kiểu trên bù vào. Như vậy hiện
thực tối đa được bước quan trọng thứ
hai là thở. Sau khi đã tập khá quen
chiêu minh thì đến chính thiên. Đây
mới là phần quan trọng nhất, thành
công hay không phần nhiều ở đây. Vì
thế nhiều pháp chỉ có thiền mà không
có thở và soi hồn. Thiền là định thần,
tức đưa tâm trí vào một vật gì, mà chỉ
nghĩ luôn đến vật đó, thí dụ để hết cả
tâm trí lên đỉnh đầu, nghĩ đến cái
trống rỗng, có thể có màu sáng, xanh,
đỏ, hay đen. Nhưng cứ giữ như thế được
càng lâu càng tốt, không nghĩ đến cái
khác. Đó là việc cao quý nhất được làm
cách trọn hảo hơn hết. Cao quý nhất vì
là việc quy hướng về nguồn cội được ý
thức cao độ. Còn được làm cách trọn
hảo nhất và quy hướng trọn thân tâm
không cho những gì chia trí xen vô. Đó
gọi là Định. Nghe nói Phật đạt đại
định hãy tạm cho là 3 giờ (còn 2 giờ
là trung định, 1 giờ là tiểu định). Ta
nói tập thì chỉ mong được 3 phút, rồi
5 phút, rồi 9 phút lên dần dần chưa
biết bao giờ mới tới được một giờ. Cứ
thử đi rồi sẽ thêm lòng kính nể ông
Phật hơn rất nhiều. (1)
(1) Đặc san Vô vi 83
trang 65 có kể về bà Trương Thị Mật 36
tuổi ngồi thiền đã 10 tháng liền,
không ăn uống, không tiêu tiểu, mà
thần sắc vẫn tự nhiên. Nếu có thực thì
quả là siêu đại định.
Sau đây xin giới
thiệu một phương pháp quen thuộc trong
Yoga giúp rất nhiều cho những nguời
mới bắt đầu. Pháp này đã được công
nhận là rất hiệu nghiệm có thể gọi là
tinh hoa của thiền, đó là “Phép nghỉ
toàn diện”, cũng gọi là xả (sawa-sana)
đã có bàn trong quyển Tâm Tư
(tr.66-69). Nay xin nói lại ở đây để
những người mới tập có thể thử. Xả là
có ý tập luyện giúp cho dễ đạt được sự
trống rỗng tâm hồn để không còn vương
vấn gì đến việc đã qua hay sắp đến, có
thể gọi là nghỉ toàn diện. Thường ta
gọi là nghỉ khi thôi làm việc, khi
đứng không hay ngồi, hoặc cả nằm nữa.
Thực ra đó mới chỉ là nghỉ được một
phần tư trong con người. Vì trong lúc
ấy trí mường tượng vẫn chạy lung tung,
làm cho cân não căng thẳng lên một
nửa, thần kinh cần phải lao tác....
Vậy là đã nghỉ toàn diện đâu. Muốn
nghỉ toàn diện phải dùng tư thế xả như
sau:
Nằm ngửa trên giường
hoặc phản hay ghế, đầu để sát giường,
nếu có gối thì chỉ kê cao một chút,
nếu nằm theo hướng Bắc được thì càng
hay cốt để theo chiều từ trường của
trái đất, vì nằm ngược từ trường cũng
làm tốn một ít sinh lực. Tay chân duỗi
ra, úp hai bàn tay xuống giường, thả
mọi gân cốt cho chảy ra hết như không
còn thể vâng lệnh của ý muốn nữa. Đó
rồi xua hết mọi ý nghĩ ra khỏi ý thức,
hễ một ý nào vừa ló diện liền xua đi
tức khắc. Có thể để trí vào gốc mũi,
chỗ giữa hai lông mày gặp nhau. Còn
thân thể thì cứ thả cho giãn hẳn
xuống. Cần sao cho thực sự cảm thấy
mình mẩy chân tay dính đét xuống
giường. Muốn chóng đạt cảm xúc đó nên
đem trí khôn qua từng phần thân thể,
cách rất thong thả: hết tay rồi chân,
thí dụ trước hết đưa trí vào tay tả,
tưởng tượng từng đoạn một từ tay trở
ra, từ từ đưa đi cho đến ngón tay để
thấy tất cả như chảy ra, dính đét
xuống giường. Hết tay tả thì đưa trí
sang tay hữu, rồi hai chân, đến lưng,
cổ và nhất là mặt. Thường gân mặt hay
co lại nhất là khi nhăn nhó, cau có,
vậy cần làm cho thật giãn ra, cũng đưa
trí khôn đi từ phần: hết má đến miệng
đến trán, nhớ là làm thật chậm rãi.
Khi đã thành công thì cảm thấy như tê
liệt, dính hẳn xuống giường đến nỗi
muốn chỗi dậy lập tức không được. Có
người vài tuần đã tập được phép nghỉ
này, có người phải từng tháng mới
quen, lâu mau tuỳ người. Sau khi để tê
liệt hết lại đưa trí đi kiểm soát lại
cả thân mình một lần nữa sao cho thật
tê rồi trở về vị trí cũ ở gốc mũi, nơi
nhà khác tượng Phật quen điểm con mắt
thứ ba gọi là Huệ nhãn và để đó rất
lâu, lúc này việc để trí dễ hơn lúc
trước rồi nên cố để cho lâu. Chính
việc để trí khôn vào điểm Huệ nhãn có
một sức an nghỉ lạ thường nên nhiều
người cho là phép linh thiêng, sự thực
đó chỉ là một cách giúp cho lập được
thế quân bình tâm trí hiệu quả.
Phép xả này giúp lấy
lại sức rất mau. Cả một ngày làm việc
mỏi mệt mà xả theo lối này thì chỉ cần
15 phút lấy lại được sức khoẻ như
thường. Người mất ngủ một đêm cũng chỉ
cần xả một khắc là đã đỡ mệt. Trước
khi ngủ mà xả thì dễ ngủ hơn, không mơ
hay mơ rất ít, ngủ 3 tiếng khoẻ bằng
ngủ 7 tiếng. Phép này ảnh hưởng rất
nhiều đến việc an trụ tâm trí, vì khi
gân mạch giãn ra thì tình tự buồn vui
tức bực dễ hạ hẳn xuống, nên giúp rất
nhiều cho việc gỡ khỏi sự bám víu vào
những cái hiển nhiên theo lưu tục là
điều tối quan trọng cho những ai muốn
suy tư rốt ráo. Sau khi đạt trạng thái
toàn thân chảy ra trên giường, ta có
thể đưa trí nghĩ đến một vật nào đó để
trọn tâm trí vào vật nọ. Đây là bước
đầu của định. Nên chọn vật càng đơn sơ
càng tốt: cái bút, lọ mực, hòn bi, cái
vòng đeo tay, hay cái nhẫn. Nhìn mãi
một vật bạn sẽ có cảm tưởng không còn
nhìn vật đó nữa. Đó gọi là quan. Quan
là nhìn mà không nhìn (hiểu là không
nhìn cái gì) cốt dồn tâm trí vào tác
động, mà không chú ý đến đối tượng.
Làm như vậy là bước lên một bậc gọi là
Đạo trống. Trống rỗng tâm hồn.
Đấy là một vài cách
rồi bạn sẽ xem các sách về thiền để
thấy nhiều cách khác. Phương cách nào
hợp với bạn hơn cả, giúp bạn thành
công hơn hết thì chọn phương cách ấy.
Hễ thấy tốt nhất cho bạn là được. Sau
khi đã tập quen phép này thì đi đến
chú ý trọn vào đỉnh đầu dễ hơn. Dồn cả
tâm trí, cả răng cả lưỡi tất cả quy tụ
vào đỉnh đầu để cố gắng định.
Tập luyện ít lâu có
thể gặp thấy hiện tượng nọ kia: thấy
điển trên đầu, hoặc thấy màu sắc này
nọ hoặc cả đến “xuất vía, xuất hồn”,
xin nhắc lại là hãy vui mừng đón nhận
coi đó như bảo chứng của sự tu luyện
là bạn đã có được sự thành khẩn, tinh
tấn thì mới có được như vậy. Không cần
xét thật hay giả, tà hay chánh. Chánh
tà ở tại mình. Nếu như thấy thế mà
mình càng gia công tu hành tinh tấn
hơn thì tà cũng giúp mình như chánh.
Còn nếu thấy xuất hồn rồi nhân đó đi
coi chơi hết cõi này, cõi khác thì đó
là “bản đồ nhi phế”. Tâm trí chỉ mong
có vậy để khỏi khép mình vào kỷ luật:
là trong một lúc chỉ làm một việc chứ
không được chạy rông đi coi khắp hết.
Vậy chớ quan trọng hóa những hiện
tượng xảy ra, chớ lấy đó làm thước đo
độ thành công cao hay thấp. Hãy coi đó
như những kinh nghiệm bản thân riêng
biệt chỉ thực cho mình, nó có tính
cách chủ quan. Đừng đem lòng chờ trông
mong đợi. Nếu xảy đến thì hay, không
xảy đến chẳng sao. Tiến với không tiến
không ở những thứ đó.
Hãy cố tu cho chuyên
cần, còn tu thật trúng cách cũng phải
cố gắng làm cho được nhưng nên nhớ có
được càng hay, không cũng chưa quan
trọng bằng tinh tấn bền lòng. Vì
phương pháp vô số, nhưng tất cả đều
đòi phải tinh tấn. Vậy phải cố gắng:
đó là chữ dũng. Nên biết rằng không
một sự cố gắng tu luyện nào là không
ghi thêm ơn ích cho ta. Chớ nghe ai
bảo hết điển là ngừng thiền. Đó là xúi
dại. Phải tinh tấn luôn luôn: cả những
lúc khô khan càng phải thêm tinh tấn.
Cố kéo dài giờ thiền ra 45 phút, rồi
một giờ, một giờ mười lăm phút...
không hơn được thì ngày thiền hai lần,
ba lần. Con đường tiến hóa tiến vào
cõi thần linh dài vô biên “nhậm trọng
nhi đạo viễn”. Cao cả nằm ở đó.
Trong quyển “Phong
thái an vi” tôi đã minh chứng rằng con
người yếu hèn, trần trụi hơn vạn vật:
thua tự con kiến trở đi. Con kiến hiểu
được các điềm triệu báo trước về bão
lụt, chứ con người thì chưa. Vậy con
người khác con vật chỗ nào? (nói khác
chứ không dám nói hơn). Thưa khác ở
chỗ cái gì cũng tự làm lấy hết: từ
miếng cơm manh áo cho đến các tài
nghệ. Tất cả đều tự học từ con số
không. Rồi lâu ngày nhiều người tìm
tòi tích luỹ kinh nghiệm mới làm ra
được, thí dụ con chim biết bay ngay tự
đầu, con người không những phải kế
tiếp nhau học lâu lắm mới biết bay tàm
tạm (chết vì bay cũng bộn). Con tò vò
biết tiêm tự thưở nào. Con người lần
mò mãi mới biết. Vậy mà mỗi người còn
phải để công sức vào đó để học, học
quá ư là học cho tới quãng 30 tuổi mới
đỗ y sĩ. Nhưng thôi cứ kể cho là con
người biết tiêm đi. Biết tàm tạm,
nhưng đặc biệt là biết tự tìm ra tiêm,
tự mình tìm ra bay... Việc nào cũng
vậy tự làm ra hết. Trời cho sẵn có
chút xíu, còn toàn phải tự tay làm ra.
Nhưng đó là chỗ con
người khác con vật, và đó cũng là chỗ
con người giống Trời hơn hết. Vì Trời
là tổ sư của đức tự lập. Nói đúng hơn:
tự lập, tự hữu là bản tính của Ngài.
Con người bị bắt phải tự lập là tỏ ra
đã gần Ngài hơn các con vật. Đây là
danh dự đặc biệt mà ta cần nhận thức
thật sâu sắc, để gắng công tu tiến: tự
tu, tự tiến, đừng chờ mong ai giúp,
Trời không giúp đâu. Vì giúp là cướp
công của ta, là hạ ta xuống bậc dưới,
bậc mà cái gì cũng ban ra sẵn cả. Chim
sinh ra biết bay, tò vò chưa học đã
biết chích. Nhưng chích với bay đâu
phải là của chúng tự tay nhà làm ra.
Con người phải ý thức như vậy. Phải
biết mình đã lên bậc cao rồi, tay nhà
làm ra được rồi. Việc nào cũng vậy, kể
ngay tự việc ăn làm thường nhật, huống
chi đến những việc cao hơn thuộc lý
trí, hay tâm linh thì càng phải tự lực
cánh sinh hơn nữa. Phải tự làm mới
tiến, càng tự lực bao nhiêu, tự lực
cho tới chỗ ý thức được từng tác động
của mình thì càng tiến mau. Thiền
không là việc gì đặc biệt cho bằng là
làm công việc thường ngày cách đặc
biệt, làm với tất cả tâm trí để trọn
vào đấy, đến nỗi ý thức được từng cử
động. Thí dụ thở có ý thức đi kèm, như
cảm thấy được hơi thở chạy vào gân
mạch thì đó là thiền, “quân tử vô
sở bất dụng kỳ cực” là thế.
Nhưng sức ta có hạn
thì làm thế nào? Đừng nói trong một
ngày thiền hai ba thời, ngay một thời
cũng mệt lắm rồi, kéo dài được 45 phút
hay một giờ tưởng đã lâu bằng cả thế
kỷ. Làm sao mà kéo được hai giờ, làm
sao mà thiền ngày ba thời cho được?
Thưa hãy làm đến hết chỗ của mình. Ở
đây ta được Cha Trời chỉ cho một phép
để nối dài việc thiền định đó là “niệm
Cha, thường niệm vô biệt niệm”:
ngày đêm, đi, đứng, nằm, ngồi... hễ
nhớ đến là niệm. Với pháp niệm này ta
có thể bù vào những sơ hở hay cả cả
những thiếu sót trong chính lúc thiền,
bù một cách hết sức linh nghiệm. Cha
Trời nói: “Khi các con trụ tâm
tưởng nhớ đến đấng Tạo Hóa muôn
loài, tiểu hồn con sẽ rung động,
linh quang con sáng lên, gửi tín
hiệu liên lạc với Đại Hồn Cha. Và
nếu khi ấy con biết quán tưởng sự
hợp nhất của con với Đại Hồn Cha thì
điển quang của con sẽ hoà vào với
khối Đại linh quang của Càn Khôn.
Nếu con biết hành điều này luôn luôn
và tâm tư con lúc nào cũng tưởng nhớ
hợp nhất với Thượng Đế, tất nhiên
tiểu hồn con sẽ mau được sáng suốt,
sẽ tiến hóa nhanh đến chỗ hợp nhất
với Thượng Đế, trở về cội nguồn của
mọi cuộc sống.”
(Chơn Lý câu 22, nên
đọc rất kỹ cả 5 trang câu này)
Kính Lạy Ngọc Hoàng Thượng
Đế Vô Cực Đại Thiên Tôn.
VÀI PHỤ
TRƯƠNG ĐỂ BUÔNG SÔNG
Muốn
cho việc giới thiệu vô vi với người
không theo Phật giáo được xuôi chèo mát
mái.
Muốn
cho vô vi mai ngày có chỗ đứng ở hàng
lãnh đạo trong nền quốc học nước nhà.
Muốn
cho vô vi được tiếp nhận cách kính nể
vào nền học thuật quốc tế (ngành tôn
giáo tỉ giáo cũng như triết học)
Nên
phải nói ra ít thắc mắc trong hai phụ
trương sau. Tuy vì những lý do nghiêm
trọng như trên nên phải viết ra, nhưng
tác giả vẫn cảm thấy rất ái ngại. Bởi
thế muốn đưa cho dăm ba bạn đạo đọc
trước may ra có giúp được cách nào. Thí
dụ có cách nào để đạt điều thỉnh cầu là
chỉ niệm một danh Cha mà thôi. Không
niệm Phật nữa. Lục Tự Di Đà chỉ dùng
riêng cho những người theo Phật giáo mà
thôi.
VII. Từ hoang mang thắc mắc
đến “Tôi cười tôi”
“Học
là phải hỏi, phải phê bình chỉ trích,
còn cứ mê man không bao giờ tiến bộ”.
(Lời ông Tám trong Tôi Tầm Đạo, trang
225)
Điều
thắc mắc hơn hết của tôi là vụ Vô vi bắt
buộc phải niệm Lục Tự Di Đà đối với hết
mọi người muốn hành pháp, mặc dầu không
theo Phật giáo. Điều đó gây trở ngại lớn
cho những người theo tôn giáo khác: họ
sợ niệm như vậy là phản bội đạo mình
đang theo, hoặc là tự hạ mình xuống hàng
tin theo những dị đoan mê tín.
Đối
với người dày công nghiên cứu Phật giáo
thì biết những định kiến kia là do sự
hiểu lầm, chỉ cần gảy bỏ sự hiểu lầm đi
là có thể chấp nhận niệm Lục Tự Di Đà,
nhưng hầu hết không là người nghiên cứu,
chỉ biết Phật qua cái bên ngoài thì việc
phải niệm Phật gây khó khăn tâm lý như
nói trên. Hoặc nữa họ gặp trở ngại do xã
hội, thí dụ tôi biết nhiều bạn đạo bị
gia đình ngăn cấm hành Vô vi vì sợ con
mất linh hồn, có trường hợp đi đến cả
đập cassette ra vì người mẹ yên trí Vô
vi là Phật giáo (mà họ chỉ biết qua
những dị đoan, những tượng Phật xếp từng
hàng trong các chùa âm u mà chính ông
Tám cũng thấy là quỷ chúng nấp sau đó).
Nhưng dù sao thực muốn tu cũng phải ráng
vượt qua để niệm Phật nếu đó là điều cần
thiết không thể thay thế được.
Thế
nhưng Đức Ngọc Đế đã bảo thay được bằng
niệm danh Cha. Hơn nữa Ngài còn cho niệm
Cha là đúng hơn niệm Phật. Rồi chính
ngay ông Tám cũng nhận như vậy cho là
tiện hơn, và cho phép người không theo
Phật được niệm những câu khác. Vậy tại
sao đến sau lại có sự thay đổi lập
trường cho là việc niệm Lục Tự Di Đà
không đổi được (Vấn Đạo, câu hỏi 32).
Ông còn chống cả Đức Ngọc Đế rằng: “Tôi
không đồng ý cái đó” (Vấn Đạo, câu 33).
Hai câu quyết đoán trên khiến tôi giật
mình: tại sao người phàm dù tu cao đến
đâu cũng còn dưới Thượng Đế vô kể lại
đặt mình trên Thượng Đế bằng cách chống
lại!!! Thế là lòng quý mến tin tưởng của
tôi đối với ông bị thử thách rất nặng và
từ đó tôi bắt đầu xét kỹ các lời khác
của ông, mới nhận ra rằng ông đã nói
nhiều điều bất nhất, tỏ ra ông còn mắc
kẹt trong đợt thanh sắc, tức còn lấy
danh làm quan trọng đến nỗi không tên
nào thay thế được tên A Di Đà. Sao lại
có thể như vậy vì cả pháp còn thay được
(có 84 ngàn pháp) huống chi là một danh
từ, một lời niệm. Hơn thế “Vô là không,
Vi là cái gì nhỏ cũng không” thì danh
xưng đâu có quan trọng. Muốn gọi Thượng
Đế là Ngọc Hoàng, là Allah gì gì đó nào
có chi can hệ? Đành rằng đối với ông và
những bạn đạo theo Phật giáo thì Lục Tự
Di Đà tuyệt hay và hiệu nghiệm thì điều
đó rất đúng, nhưng nó linh nghiệm là vì
đã thành thói quen lâu đời của rất nhiều
người chứ không hẳn do danh A Di Đà. Vì
thế thiết nghĩ không nên tuyệt đối hóa
bằng dựng thành nguyên lý phổ biến rồi
chụp lên đầu cổ những ai không có cùng
một kinh nghiệm. Thiết nghĩ đó là điều
trái với tinh thần Vô vi.
Ở
đây tôi nghĩ đến cái “triết lý gà gáy
sáng” nói “gà gáy thì sáng” là câu nói
đúng nếu không không cần xét thêm gì.
Nhưng nếu hỏi chữ Thì là gì, nếu thưa là
Nên “gà gáy Nên mặt trời mọc” là sai.
Mặt trời mọc lúc gà gáy chứ không phải
vì gà gáy... Cũng vậy Lục Tự Di Đà hiệu
nghiệm là nhờ đi với ba pháp: soi hồn,
pháp luân, thiền định, chứ buông ba phép
đó ra hỏi có còn được hiệu nghiệm như
vậy nữa chăng? Trong băng “Giờ Lâm
Chung” một bạn đạo hỏi ông Tám rằng có
người tu niệm cả đời mà không biết pháp
tu này thì rồi lúc chết có được cứu rỗi
chăng? Trả lời rằng không, vẫn phải
xuống địa ngục học lại khóa khác...
Ông
bảo Phật Thích Ca khôn hơn ông cả triệu
lần vì đã niệm Nam Mô... Câu đó cũng gây
thắc mắc vì chẳng ai biết được việc niệm
A Di Đà xuất hiện thời nào, người ta
đoán rằng khi có Đại thừa nghĩa là sau
khi Phật đã viên tịch. Dầu sao thì bên
Tàu việc niệm Di Đà chỉ phát triển từ
thế kỷ thứ IV lúc nhà sư Huệ Viễn lập ra
môn phái Tịnh Thổ để tránh cho Phật tử
cái nạn kinh sách quá nhiều, nên tuyên
dương chỉ cần niệm Di Đà là đủ, ai niệm
được một ngày cũng sẽ được Phật độ về
Tây phương cực lạc thế giới. Nhờ sự hứa
hẹn đó đi kèm với lối tu niệm dễ dàng,
mà lời niệm A Di Đà được thiên hạ theo
ào ào từ đấy, không sao can được nữa.
Nhưng
hãy cho là Thích Ca có niệm Lục Tự Di Đà
đi nữa thì chắc gì ông đã đọc chữ Nam
(để mà có âm um) vì tiếng Phạn là Na-Mô
chứ không Nam-Mô. Ngoài chữ Nam ra phải
nói là cả câu niệm đó là một câu lai
căng vì phiên âm sai bét: nếu theo âm Ấn
thì là Na-Mô amitabha, nếu theo Tàu thì
là Na-Mô O-Mi-To-Fo, Nhật là Amidà,
chẳng thấy Nam đâu, Di đâu, Đà đâu cả.
Ta
hay nghe nói Lục Tự Di Đà là nguyên lý
và cả là triết lý kỳ diệu, nhưng xét kỹ
thì thấy đó không phải là nguyên lý.
Nguyên lý phải có tính chất phổ biến cả
trong công thức lẫn trong công hiệu: hai
điều ấy không có trong Lục Tự Di Đà như
vừa nói trên. Vậy kết luận Lục Tự Di Đà
không là nguyên lý, cũng chưa được phát
triển thành triết lý riêng biệt mà chỉ
là phương trình do ông Tư hay ông Tám
đặt ra, có hai đợt:
Phương trình đơn:
Nam = lửa
Mô
= khí
A = nước v.v....
Phương trình
kép:
Nam-Mô = soi hồn
A-Di = pháp luân
Đà-Phật = thiền định
Tất
cả bí quyết, tất cả cái diệu dụng nằm
trong đó, trong chỗ nối Lục Tự với ba
phép soi hồn, pháp luân, thiền định.
Chính ông Tám đã nói thế: “Nếu có bạn
đạo thành thật dìu dắt đúng theo các
phép soi hồn, pháp luân, thiền định thì
ba cái phép đó đủ rồi chứ không phải
minh sư nói dóc lung tung vô ích” (câu
140, Vấn Đạo). Tôi thiết nghĩ những luận
lý về “nguyên lý” Adiđà là... “lung tung
vô ích”. Đã vô ích mà còn gây ra sự khó
khăn không cần thiết trong việc truyền
bá Vô vi cho những người không theo Phật
vì làm cho người ta tưởng lầm Vô vi là
Phật pháp nên không dám vào hoặc cho là
cái gì đã biết rồi “déjà su” không cần
động đến nữa.
Hình
như việc móc nối Lục Tự vào sáu luân xa
là “quán tưởng”, mà quán tưởng là điều
không nên: ông Tám ví nó như cái “giây
kẽm gai, nó chặn đầu bước tiến của người
tu. Quán là cố ý suy nghĩ, đó là bắt
buộc thần kinh làm thêm việc không cần.
Vô vi phải xả hết để tâm tư quy nguyên
hoàn bổn... Chúng ta phải trở về Thái
Hư, quán còn là một thứ chưa đạt Thái
Hư, chưa Vô vi” (Tôi Tầm Đạo, Kim Ấn
Quán, tr.292). Có lẽ vì đó nên quyển
Chơn Lý in năm 1980 nói “phép niệm Lục
Tự ở sáu luân xa không còn hành nữa”.
Vậy tại sao trong quyển Vấn Đạo (in
1982) lại có sự quan trọng hóa niệm Lục
Tự Di Đà đến độ cho là không đổi được.
Thiết nghĩ vì ông chưa vượt đợt “vô
thanh vô xú” (hiểu là tập quán đã lặn
xuống miền tiềm thức). Cái tội của Phật
giáo là làm cho Phật soán ngôi Thượng
Đế, ông Tám nhờ Kim Thân Cha đã bỏ được
điều đó, nhưng cái xú thì chưa, vì thế
ông vẫn đề cao Phật bằng tuyên dương Lục
Tự Di Đà, bằng luôn miệng niệm Phật,
niệm Phật đến bảy, tám lần may ra niệm
Cha mới được hai ba lần (1). Có lẽ vì
cái xú của tội soán vị Thượng Đế mà mỗi
khi nói đến Kim Thân Cha ông hay dùng
đại danh từ “nó”, “người ta”, “y”... họa
hiếm mới dùng chữ “người”, còn Ngài
phương chi Đức Ngài thì tuyệt không.
Điều đó có thể cắt nghĩa do vô ý nhưng
khi ông nói “tôi không đồng ý” (với KTC)
thì hiểu rằng những kiểu xưng hô kia
phát xuất do sự ông còn chấp vào Phật
quá đáng.
(1)
Lần hội nghị 83 vừa rồi thấy khá hẳn:
niệm Cha đã tăng nhiều.
Nhưng
phải nhận là sự chấp này chỉ là cái xú
tức quá tôn Phật vì thói quen lâu đời để
lại trong tiềm thức chứ trên bình diện ý
thức thì ông không nghĩ tới Phật Thích
Ca đâu. Ông đã tuyên bố “nếu chúng ta
tưởng tới Phật, tới Đức Thích Ca là
chúng ta sai, vì Phật đâu chẳng thấy
nhưng con ma nó xâm nhập điều khiển phần
hồn” v.v... (Tôi Tầm Đạo tr.2.39)
Đã
tuyên bố vậy nhiều lần sao còn cứ bắt
niệm Phật và lễ Phật để làm cho người ta
tưởng tới Phật... và gây hoang mang cho
những người không có hoàn cảnh để nghiên
cứu sâu xa. Phật tử quen nói Trời Phật.
Theo đồng văn cả Phật giáo thì Trời còn
bên dưới Phật. Điều đó ông Tám không đời
nào chấp nhận, nhất là đã được Đức Kim
Thân sửa sai. Ông chỉ giữ tên Phật vì
chiều theo thói quen bạn đạo theo Phật,
hoặc giữ để phá mê; ông giải nghĩa chữ
“Mô Phật” là chẳng có ông Phật nào hết
trọi. Nhưng theo luật “mạnh chống mạnh
chấp”: nói Phật để chống Phật thì dần
dần đi đến chỗ vô tình đề cao Phật hơn
Thượng Đế, rồi coi mình cao hơn Kim Thân
Cha: “Tôi bắt còn lẹ hơn CK” v.v...
Thế
rồi điều đó lây sang bạn đạo. Trong
quyển Thượng Đế giảng Chơn Lý in năm
1983 (tr.196) sau lời nguyện “Ngọc Hoàng
Thượng Đế”, thì có đủ cả Di Đà, Quan Âm,
Di Lạc y như lần in trước, như vậy là
thụt lùi lại thời cần sự phò hộ trái với
tinh thần Vô vi tự lực tự cường
rồi. (Nên nhớ Đức Kim Thân cho đó
là mê chấp và là óc ỷ lại nghĩ rằng kêu
càng nhiều cửa càng được phò hộ nhiều),
và eo ơi! Lại thêm ba câu đáng sợ nữa
là: “con nguyện quy y Phật... quy y
Pháp... quy y Tăng”. Thật là bức tường ô
nhục xây chắn lối vào nhà Cha chung, quả
là một sự thụt lùi to lớn so với lần in
đầu (Julia Printing 1980), vì trong đó
không có câu tam quy, tỏ ra người ấn
tống đã biết coi trọng quyển Chơn Lý
phần nào. Đến lần in thứ ba thì không
còn coi trọng bằng nên đã cho cái “mùi”
của Phật lấn lên: gần như coi Phật trọng
hơn Thượng Đế. Đó là điều trái với lý
trí vì theo lý trí thì ai cũng cho
Thượng Đế đáng tin đáng trọng gấp vạn
bội Phật. Không lẽ được mở huệ rồi lại
phải đi ngược điều hợp tình hợp lý đó
sao. Pháp lý Vô vi là nhà Cha chung cho
mọi con không phân biệt tôn giáo, tại
sao lại cứ muốn biến Vô vi thành của
Phật bằng bắt mọi người muốn vào phải
chui qua cửa Phật, hít thở mùi Phật,
chẳng hóa ra đi theo lối ông vua nước Sở
kia tiếp sứ Yến Anh: cửa lớn không cho
đi, bắt khoét lỗ nhỏ bên cạnh rồi bảo
phải chui qua đó mà vào.
Bạn
sẽ nói Phật đây không là Phật Thích Ca
mà có ý nghĩa khác... Thiết nghĩ các bạn
đạo nên bỏ ngay thói dùng tên cũ để mang
nội dung mới đó đi vì việc gán ý nghĩa
này không cần, nó chỉ “cần” khi trong
cuộc cách mạng nào (của tôn giáo, của
triết lý hoặc chính trị) người ta muốn
giảm sự xúc động của người nghe mới phải
bất đắc dĩ dùng danh từ cũ để chở nội
dung mới. Nói bất đắc dĩ vì thực ra nó
là một sự đánh lừa tuy “vì đạo” mà đánh
lừa “pia fraus”, nhưng cũng chẳng nên
dùng vì nói sái khoa học sái cả với mục
đích của ngôn ngữ (mỗi từ chỉ mỗi vật,
mỗi việc). Vô vi không phải Phật pháp
thì đèo tiếng đó vào làm chi. Lúc đầu
ông Tư đem buộc vào dưới Pháp lý Vô vi
hai chữ Phật pháp, rồi dùng một số từ cũ
gán ý mới để phá mê vì ông tưởng là cần
phải làm thế (có lẽ đúng cho bạn đạo ở
Sài Gòn, Chợ Lớn lúc đó). Nay Vô vi đã
tràn lan và phải được tràn lan khắp hoàn
vũ thì giữ thói quen đó đã không cần mà
còn có hại vì là làm hẹp cái đạo vốn
rộng lớn, đặt cớ cho người ta hiểu lầm
Vô vi chỉ là một ngành của Phật giáo,
không biết đến Thượng Đế. Tôi có đứa
cháu mới biết qua Vô vi, gặp một người
Cao Đài hỏi: “Cháu tính tu theo ông Tám
à? Tu theo ông Tám không trực tiếp với
Thượng Đế bằng tu theo Cao Đài đâu!” Đó
quả là một sự hiểu lầm như có thể khá
phổ cập. Vì trước khi Kim Thân Cha xuất
hiện thì toàn niệm Phật, chứ có nhắc chi
tới Thượng Đế đâu. Thiết nghĩ Vô vi
không nên đặt căn cứ gây ra sự hiểu lầm
nọ nữa.
Vô
vi là pháp tu tắt, thiết nghĩ chỉ nên
dùng lối nói thẳng, việc chi phải vòng
vo lung tung. Nói lung tung vì mỗi người
gán mỗi ý. Thí dụ với ông Tám thì Phật
là “tôi tìm tôi” (Vấn đạo tr.17); người
khác (có lẽ ông HVE) thì Phật là Tinh,
Pháp là Khí, Tăng là Thần. Đối với ĐH
Thắng thì Phật là thanh tịnh, Pháp là
điển quang, Tăng là trách nhiệm. Với
người khác nữa thì Phật là sáng suốt,
Pháp là nguồn cội, Tăng là Thánh thai...
Sao không nói thẳng tam bảo Vô vi là
Tinh, Khí, Thần cho vắn tắt việc chi
phải nói vòng vo thế? Đã từ gần hai ngàn
năm nay cả triệu triệu người, cả ngàn
vạn kinh sách hễ nói tới Phật là người
ta hiểu ngay là Phật Thích Ca, nói tới
Pháp là Pháp giới nhà Phật, nói Tăng là
chỉ các sư ni phần đông mang họ Thích,
chẳng ai nghĩ khác. Mãi tới nay may ra
một số rất nhỏ bạn đạo Vô vi mới nói
Phật mà không nghĩ đến Thích Ca, nói đến
Pháp là nguồn cội, nói đến Tăng là Thánh
thai... Cho nên thiết nghĩ cần phải hạn
chế tối đa tên Phật (niệm Phật, đánh lễ
Phật, Trời Phật) để dùng chữ Thượng Đế,
Cha Lành, Chúa Tể Càn Khôn... vô số tên.
Pháp lý Vô vi là Hồng ân Thượng Đế ban
ra cho loài người nhưng trước hết ở đất
Việt Nam thì nên dùng từ Việt Nam được
rồi: tiếng Việt Nam đâu có nghèo đến đỗi
phải vay mượn vòng vo đến thế.
Trên
đây là ít điều làm lung lay lòng tin
tưởng của tôi đối với ông Tám lúc ban
đầu, lung lay đến độ có lúc tôi phân vân
không biết Vô vi có phải là pháp tu an
toàn chăng. Vì nghe rằng mỗi khi nói là
ông thả lỏng bộ đầu để nói theo điển tức
theo Bên Trên hướng dẫn mà sao lại có
những lời bất nhất như vậy. Thế là tôi
không tin hẳn vào điển nữa. May thay tôi
lại gặp được quyển Chơn Lý làm cho lòng
trí tôi thỏa mãn hoàn toàn vì tôi cảm
thấy như được dẫn sâu vào cõi đạo mà
không có gì cưỡng lý trí cả.
Câu
làm tôi cảm kich nhất là khi Ngài nói
rằng mỗi tôn giáo biểu thị một màu sắc
của chân lý. Với tôi câu ấy có nghĩa là
mỗi đạo lý (cả tôn giáo lẫn triết lý)
chỉ bày tỏ được một khía cạnh của chân
lý vốn có muôn khía cạnh. Câu đó tuy
kiện chứng cho những điều tôi nghĩ trước
nhưng đồng thời làm cho tôi hiền hẳn ra.
Khi còn nhỏ đọc Tây Du Ký tôi chỉ muốn
tặng Tam Tạng mấy cú đá đít. Nay đọc Kim
Thân Cha rồi nếu gặp ông tôi chỉ cười
xòa lại còn tự răn mình: cứ sách với vở
mà không tu thì hãy coi gương Tam Tạng.
Trước kia tôi thấy các đạo lý có đến 90%
là nói tầm bậy. Ngày nay khi đọc quyển
Chơn Lý rồi tôi không đổi ý đó nhưng tôi
đổi thái độ, thay vì ghét bỏ 90% sai lầm
kia, thì tôi lại yêu mến 10% đúng còn
lại. Trước kia tôi không sao dung hoà
được lòng thán phục Phật Thích Ca đã nói
những lời rất sâu sắc, nhưng lại rất
ghét cái tội phạm thượng trong đạo Phật.
Ngày nay tôi hiểu rằng cái “tội” đó chỉ
là “tội” đối với những cõi hồng trần nhỏ
hẹp này, chứ đối với Chúa Tể Càn Khôn
thì đó chỉ là trò vui. Con người dù đã
tu tới cấp Phật cũng chỉ là con người
nghĩa là đối với Chúa Trời Đất chưa bằng
một phần tỉ con kiến, thì sức mấy mà
phạm thượng nổi. Con kiến nếu biết nói
mà nó bảo rằng nó sẽ cỡi đầu ta v.v...
thì ta đâu có mích lòng, trái lại ta sẽ
lấy làm thích thú, nuôi dưỡng, cưng
chiều và chọn nó riêng ra để nó làm trò
vui cho ta, cho các bạn ta. Con người
xét là tiểu ngã trước Thượng Đế còn nhỏ
hơn con kiến đối với ta, chỉ là một tế
bào trong tỉ tỉ tế bào của Thượng Đế thì
sức mấy mà phạm tội uy quyền Ngài được,
cho nên nói “tội” chẳng qua là chỉ sự
con người đi sái đường tiến hóa thì nó
quật lại thân mình thôi. Thế mà ngày nay
đi sái đường đầy cùng khắp. Cái đó cũng
là do ý Cha Trời: mọi tôn giáo dù là tà
giáo cũng do Ngài cả. Ngài xếp đặt như
thế để có bài cho các con của Ngài học,
học đủ phía: cả trí, cả nhân, cả dũng,
kể cả trong đạo, cả khi đã chọn được một
chánh pháp rồi cũng không thể thải bỏ lý
trí, thải bỏ óc phê phán, trái lại phải
giữ lý trí tỉnh thức luôn, óc phê bình
không được nghỉ, phải phê phán mãi, nó
phải theo sát nút mỗi bước tiến hóa cả
khi đã mở huệ rồi, có điển hóa văn rồi
cũng vậy, không những ở cõi phàm trí, mà
cả khi theo những bậc đã mở huệ, đã trụ
điển, vì điển tuy ở trung tâm vũ trụ thì
vô biên nhưng khi tỏa ra thì nhiều ít
tuỳ cái chứa; cái chứa có nhiều số độ
Watt khác nhau, với đèn 15 Watt thì dễ
xem cò ra quạ lắm. Lại còn vụ nổ cầu
chì, ông Tám có điển cao những lâu lâu
nổ cầu chì liền cho ra những lời lung
tung. Lại còn vụ câu hồ đồ nọ có thể do
chính các vị có y nói ra, hoặc do Cha
Trời chuyển các vị nói ra để tạo cho các
con của Ngài có dịp mài dũa óc phê phán
đặng vun bồi cái trí cũng như duy trì
quyền tự chủ, tự quyết của mình.
Đã
vậy, lại còn vụ văn đạo với lý đời hai
đàng khác hẳn không thay thế cho nhau
được; tu đạo có cao mấy cũng không vì
thế biết được lý đời nếu không học như
được tỏ rõ trong câu nói của Vô vi:
“khôn thiên đàng, ngu thế gian”. Vậy
phải tu cả hai. Nếu chỉ có tu “đạo” thì
việc đời vẫn không giỏi theo được, cho
nên truyền thuyết nói Phật Thích Ca ăn
phải nấm độc mà chết có thể chỉ điều đó,
nghĩa là ông tu thanh thì biết thanh.
Nay nếu muốn biết trược thì ông phải học
trược mới biết. Suy như vậy làm tôi
không còn mích lòng (scandalisé) vì
những câu nói lung tung của những vị đã
tu cao.
Đó
là ơn ích mà tôi đã thu lượm được khi
đọc quyển Chơn Lý, một quyển sách hết
sức cách mạng vì nhiều điều mới lạ xưa
nay chưa sách nào nói tới như vụ tuyên
bố Phật mới biết có thanh chưa biết
trược, nghĩa là thanh trược khác nhau:
tu bên nào biết bên đó. Điều mới nữa là
Đức Ngài sửa lưng mọi tôn giáo nhưng
không như những lời đả kích khác làm cho
người đọc ghét tôn giáo. Ở đây tuy Ngài
có sửa sai nhưng lại làm người đọc mến
tôn giáo hơn. Đó là điều tôi học được
nơi quyển Chơn Lý, nghĩa là sau khi đọc
rồi tôi vẫn còn nghĩ như trước nhưng
thay đổi thái độ. Trước kia tôi không
thể hiểu tại sao tu cao như Thích Ca hay
ông Tám mà còn có những câu hồ đồ nọ. Có
đúng hồ đồ hay tôi hiểu sai? Nay tôi
thấy cái nhìn lý trí của tôi không sai,
nhưng hai chữ “màu sắc” của Kim Thân Cha
làm cho trường hoạt động trong tôi đổi
rồi: trước kia dồn xuống chân trong tư
thế sẵn sàng đá, nay chuyển lên miệng để
sẵn sàng cười xòa. Trước kia tôi cho các
điều nói về các thứ huệ với các quyền
năng của Phật là phóng đại kiểu chưởng:
nghĩa là con đường trở về với Thượng Đế
dài vô cùng, ông Phật chưa chắc đã đi
được 10%, mà người đời đã dám tâng bốc
ông lên trên ngôi Thượng Đế, nhưng nay
tôi đặc biệt chú ý đến 10% đã đạt được
của ông Phật hay ông Tám hay cả các tôn
giáo khác, và đem lòng kính phục mến yêu
coi tất cả như trăm ngàn hoa với muôn
màu sắc đang làm cho thơm đẹp cõi đời:
tất cả đã làm ơn cho con người. Nếu như
thiếu tôn giáo thì cõi thế chắc đã trở
nên hỏa ngục lâu rồi. Việc các tôn giáo
phạm đầy những khiếm khuyết lỗi lầm thì
đấy cũng là do ý Cha Trời để cho các con
của Người có thêm bài học về trí, không
thể ỷ lại vào bất cứ cái gì dù là tôn
giáo, nhưng phải luôn luôn tỉnh thức.
Hổi
tỉnh lại thấy mình đang miên man suy
nghĩ như vậy thật là khác với trước kia,
làm cho tôi cảm động vô cùng; tôi cảm
mến Cha Trời đã đổi tâm thức tôi như vậy
đó, xoay cái nhìn của tôi theo chiều
hướng hòa hoãn từ lúc nào tôi không hay.
Rồi tôi lại suy về chính mình cố gắng
biết bao mà còn bê bối thế đó, đã chắc
gì đạt đuợc trong muôn một. Nghĩ như vậy
tôi bắt đầu “tôi cười tôi” và trở nên
hiền, và sẽ cố gắng trở nên hiền hơn
nữa. Tôi không sám hối; sám hối là tỏ
quyết tâm không tái phạm. Cười cũng tỏ
quyết tâm như vậy nhưng còn đúng với
tinh thần đạo Trống, theo đó thì cuộc
đời chỉ là một cuộc chơi, nên chỉ việc
đánh trống bụng mà cười khì: việc chi
phải đá đít, việc chi phải băn khoăn mà
chỉ còn là cười, cười chính mình tôi:
tôi cười tôi thả dàn.
Tôi cười tôi
Cười mãi mãi trên con đường Mê
và Phá Mê bất tận.
“Quỳ long cổ phúc tiếu hi bi”.
XIII. Từ
Cưỡng hoà tới An hoà
Hòa
thì ai cũng mong muốn và sẵn sàng để hòa
nhưng thiếu điều kiện bất khả vô
(conditio sine qua non) không thể nào có
hòa, dù thiện chí đến đâu cũng chỉ là
tạm bợ, sớm muộn gì cũng sẽ chia rẽ kiểu
nọ hoặc kiểu kia.
Điều
kiện hòa trong ngắn hạn thuộc nhân sự do
một người có khả năng lãnh đạo, được
nhiều người quý mến nên dễ được phục
tùng. Khi có người đó dù chưa hòa rồi
cũng có hòa mà hậu quả trông thấy là một
tụ họp hoặc tổ chức nào đó: văn nghệ, xã
hội, chính trị và cả một tôn giáo mới
nữa.
Điều
kiện dài hạn là một thuyết lý hòa giải
làm nền móng. Ta sẽ gọi là An hòa, còn
hòa ba phải thiếu nền móng triết sẽ tạm
gọi là cưỡng hòa. Thiếu An hòa các công
trình hòa giải khác chỉ là những thử
thách không thể đưa tới thành công
trường cửu như bao cuộc hòa giải đã cố
đưa ra cũng đều thất bại, cùng lắm chỉ
là một thứ tạm ước “méo mó có hơn không”
phải dùng đỡ vì chưa tìm ra thứ An hòa
có nền móng, có địa vị minh triết và
triết lý. Thiếu nó những thứ hòa kia chỉ
là cái mặt bên ngoài làm bằng ngoại
giao, không đủ sức triệt căn những mối
bất hòa ngấm ngầm nội tại. Vì thế cần
phải tìm cho ra thuyết lý vững vàng. Đó
là việc thiên nan vạn nan, cho tới nay
rất là hạn hữu.
May
thay trong Vô vi đã được Bề Trên ban
cho: ngắn hạn là Kim Thân Cha, dài hạn
là quyển Chơn Lý. Đó là ơn huệ lớn chưa
thấy trong lịch sử loài người, không bút
mực nào tả xiết, lẽ ra người Vô vi phải
đầy lòng cảm mến học hỏi và tuân theo.
Thế mà kỳ lạ thay, những lời tri ân đó
quá hiếm hoi, hay nếu có thì cũng bị che
lấp bởi những lời nói về công nghiên cứu
của con người. Điều đó rất có thể gây
trở ngại cho việc truyền bá Vô vi hay ít
ra che lấp mất tính chất khoa học của
pháp môn này. Vì vậy mà bó buộc phải nói
thêm ít lời để bàn đến chỗ triệt để.
Việc
hòa hợp mà Kim Thân Cha nói đến nhiều
nhất, cho là tinh thần của Vô vi không
thể là một thứ hòa bất kỳ nào không cần
đến nền tảng mà phải là một cuộc An hòa
tức có nền móng triết lý và minh triết
hẳn hoi, vì quả đó là điều trong quyền
năng Ngài. Vậy không phải là cái Hòa ba
phải do sự bất lực đưa ra nền triết lý
ứng hợp nên phải đi ve vãn mọi nơi, tỏ
ra mình sẵn sàng hòa đồng. Hòa kiểu đó
thì chưa biết kết quả tích cực tới đâu
chứ nó dễ làm cho pháp lý của mình chóng
trở nên một món hổ lốn, không bao lâu sẽ
đầy nhóc dị đoan như đã xảy ra với hai
đạo Lão và Thích bên Tàu từ thế kỷ thứ
II về sau. Trong suốt thời gian đó cả
hai vừa đánh vừa đàm: nghĩa là hết đồng
ý nhau thì đến đá nhau. Hậu quả là từ
thế kỷ XII cả hai suy tàn. Đó là tại đã
theo kiểu cưỡng hòa chớ không là an hòa,
mà câu châm ngôn cụ thể là “hòa nhi
bất đồng” với ý nghĩa là phải hòa
với hết mọi người dù khác ý kiến, khác
tôn giáo, đảng phái... mình vẫn phải
kính trọng không được khinh khi, nhưng
trên phương diện ý kiến và triết lý mình
vẫn có thể là mình, vẫn có thể bất đồng
ý kiến, nhờ vậy mới tránh được dị đoan
mê tín. Theo tinh thần ấy ta vẫn có
quyền phân tích và phê phán các đạo lý
mà không sợ mắc tội cống cao ngã mạn,
miễn là mình hòa với mọi người dù họ
theo đạo khác, dù đạo ấy mình cho là
thấp kém hay cả sa đọa. Đó là điều không
thể cấm lý trí xét đoán như vậy: một lý
trí lành mạnh phải biết đâu là cao đâu
là thấp, đâu là trung thực đâu là suy
vi.
Xưa
nay thấy một vị lập thuyết hay lập đạo
nào lại không khởi đầu bằng việc phê
bình gắt gao các thuyết đương thời. Phật
Thích Ca được tiếng đã đánh đổ hai triệu
thần phái Brahma, Ngài đã dùng cả đến
những lời lẽ có thể gọi là cạn tàu ráo
máng như ví cuộc rước của tăng lữ đạo
Bàlamôn là đoàn chó cắn đuôi nhau mà kêu
om om đòi ăn (có ý nhái tiếng ‘aum’ là
tiếng thánh của đạo Bàlamôn). Trong hoàn
cầu có vô số tôn giáo, cao có thấp có.
Đó là điều cần thiết cho con người ở
nhiều hoàn cảnh cách biệt nên phải có
nhiều tôn giáo hợp với trình độ rất khác
nhau của mỗi người. Lý trí con người khi
nó lành mạnh tự nhiên thấy đạo nọ cao
đạo kia thấp. Dù cái thấy đó có thể sai,
nhưng thấy như vậy là điều cần để nó
chọn tôn giáo hay phép tu ứng hợp trình
độ mình. Cho nên sự thấy đạo nọ cao, đạo
kia thấp là điều không thể tránh. Vậy
làm thế nào để giữ chữ Hòa. Thưa lúc ấy
mình chỉ cần suy nghĩ là mỗi người có
một trình độ. Cái đạo kia tôi cho là
“kém” lại hợp cho người khác. Trình độ
con người có muôn cấp bậc, nếu lấy lẽ
phải hòa mà đồng với tất cả thì là biến
mình thành người vô bản lãnh, có khi lộn
trở lại thời Bái vật (vì “hòa” nên phải
thâu nhận dị đoan).
Theo
tinh thần đó chúng ta cần bàn thêm về
chữ Hòa của Vô vi: ta sẽ hỏi Vô vi phát
xuất từ Tam giáo, tại sao Cha Trời không
chọn Ấn, Tàu lại chọn Việt. Ta đã nghe
nói Phật đã phá các thần Brahma, vậy là
đi đến chỗ đề cao con người, đưa con
người lên bậc nhân chủ, nhưng xét về cơ
cấu thì Phật chưa hẳn đạt ngũ hành, tuy
đôi khi Phật có lấy ngũ tố của phái
Sankhya nhưng tố thứ năm là ether giống
của Aristote tức cùng bình diện hiện
tượng với tứ tố nên là duy Hữu chứ không
phải là hòa Hữu với Vô như ngũ hành: nơi
chẵn là giao thoa, mà trái lại nghiêng
hẳn sang số chẵn như đã nói trên. Tuy
sau nhà Phật có thêm “tam tế” vào “tứ
đại”, nhưng tam tế cũng còn là có, có
cách tế vi nên chưa là An hòa, chưa đạt
quân bình giữa Có Không, mà đã nghiêng
sang duy thức.
Nói
theo tôn giáo thì quả là vô thần: “thiên
thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Tôi
không tin là Phật tổ đã nói câu đó, mà
do các nhà làm truyện đặt vào miệng
Ngài. Tuy nhiên câu đó nói trúng đạo
Phật lúc sau khi coi Phật là cao nhất
trên trời dưới đất không ai bằng.
Khi
truyền vào Tàu, Phật giáo đã mượn biệt
ngữ của đạo Lão để dịch kinh sách, những
tên cao cả nhất đã được dùng gọi Phật là
Đạo, là Không, là Thiên tôn. Thiên tôn
là nói tắt thay cho “Nguyên thuỷ thiên
tôn” tức vị cao nhất trong đạo Lão (vị
nhì là Ngọc Hoàng Thượng Đế). Đến sau vì
sự tranh chấp với Đạo giáo mới đổi Thiên
tôn ra Thế tôn nhưng ý nghĩa vẫn là cao
cả nhất cao hơn cả Thượng Đế. Thượng Đế
bị đẩy xuống bậc thừa hành, để Phật tổ
Thích Ca Mâu Ni ở đợt lập hiến rồi “phó
thác cho Ngọc Hoàng Thượng Đế từ thế
gian đến âm phủ phải tuân pháp luật hiện
hành” (kinh A Di Đà, ấn bản do ông Tư
tr.135). Đã hạ đo ván Thượng Đế vậy mà
coi như chưa cho là đủ nên tr.143 còn
nói thêm “thiên đàng có hai thứ điển:
văn điển là điển Phật, còn điển của Ngọc
Hoàng Thượng Đế là võ điển”. Thế là Ngọc
Hoàng Thượng Đế bị mất ngôi vị, thiếu
điều bị đặt vào hàng bàng môn tà đạo.
Thành thử đọc kinh nhà Phật để có cảm
tưởng là đọc sách vô thần vì sự vắng mặt
của Thượng Đế, ông Phật kiêm tuốt kể cả
việc sinh sinh hóa hóa. Bao nhiêu chữ
Không hay chữ Cha trong đó đều phải hiểu
về Phật hết, Trời chẳng có được lời nào.
Có lẽ đôi khi tác giả quyển kinh cảm
thấy sự vụ không ổn nên đặt ra một vị
Phật tổ gọi là Hắc Bì Phật có quyển chủ
tể càn khôn y như Trời. Tuy nhiên điều
đó không ổn vì thiếu gì tên mà phải dùng
tên Phật để chỉ Trời, có thể dễ lầm lắm,
như cứ sự đã xảy ra rồi, tức là quả có
sự lẫn Phật tổ với Phật Thích Ca, Kinh A
Di Đà trang 104 nói: “Bạch Phật Tổ Thích
Ca Mâu Ni”. Sự lầm lẫn đó được tiếp nối
xuyên qua bao thế kỷ, mãi gần đây mới
thấy đưa ra phân biệt Ngọc Hoàng Thượng
Đế ở cõi trung thiên... nhưng đó là
truyện quá mới và là của phái Vô vi mà
cũng mới đây thôi, không thể xóa tội
soán vị Thượng Đế trong hai ngàn năm
qua, chính nó đã là cớ cho Phật giáo bị
mang tiếng bất hiếu với Thượng Đế. Thiết
nghĩ Vô vi nên bỏ sự phân biệt rắc rối
nọ: xin bỏ hẳn tên Hắc Bì Phật tổ, có
thể cả mọi tên Phật kể cả Phật Adiđà, vì
tên Phật đã can dự vào “tội soán vị”.
Nếu muốn giữ Adiđà thì nên nói Đức Adiđà
hoặc Đức Vô Lượng Quang hiểu là một
thiên vương hay thế vương. Không thể vịn
cớ Phật là con Thượng Đế nên gọi Thượng
Đế là Phật chẳng sao. Làm thế là trái
luật ngôn ngữ mà còn trái lễ giáo của ta
cũng như thói chung của loài người là
mỗi vật phải có một tên, phương chi
Thượng Đế sao lại không đáng gọi tên,
không những đáng mà còn phải là tên rất
thánh, một đại huý, không được một ai cả
gan dành giật. Vậy mà một Phật tử nào đó
đã dám dành giật ngôi vị Thượng Đế cho
Phật khi đặt vào miệng Phật câu nói
“thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”.
Đó là tôn thờ Phật cùng cực nhưng cách
liệt vị, nên vô tình cũng là chửi bố
Phật. Vì Phật đã nói nhiều lần: “Đạt
được vô ngã mới là đạt Đạo” vậy
mà nay bảo Phật tuyên bố: “duy ngã độc
tôn” thì có khác chi nói Phật chưa đạt
Đạo. Thế nhưng vì quá tôn thờ Phật mà
bao thế hệ Phật tử quý trọng câu nói đó.
Đôi khi cảm thấy có chỗ mâu thuẫn thì
lại dùng lý trí biện chứng tìm cách giải
nghĩa quanh co gượng ép. Đấy là một sự
sa sút đặc biệt. Sự sa sút thì tôn giáo
hay thuyết lý nào cũng mắc hết: nó ở tại
suy tôn quá đáng nhà lập đạo hay một vài
vị nào đó lên ngôi hầu như tuyệt đối,
khiến chắn mất đường đi về cùng Thượng
Đế. Đàng này Phật giáo không thèm chắn
mất đường mà đặt Phật lên trên Thượng
Đế. Tại sao lại có truyện kỳ lạ như vậy.
Có thể vì Phật tổ đã đắc đạo thật cao,
có một sức thu hút mãnh liệt hầu như
thôi miên khiến Phật tử trở nên mê mẩn,
coi lời Phật là Chân lý vô cùng và thân
thế Phật là tuyệt đối siêu việt. Điều
này càng dễ xảy ra hơn là vì Phật giáo
chỉ nói tới có tham, sân, si mà không
thấy nói mối tội thứ tư là bám víu
(moha) và mối thứ năm là ‘Ahankara’
(vanity: ham khoe khoang) đề cao quá
đáng cái ngã của mình. Cả hai tội nhất
là ‘moha’ được kể là mối rất sảo diệu vì
nó khéo tìm cách thấu nhập tâm hồn dần
dần để làm cho trí con người nô lệ vào
những giá trị tương đối được nâng lên
hàng tuyệt đối, rồi dừng lại ở đó mà
không tiến lên đến cùng tột là Thượng
Đế. Không hiểu sự phân tích trên đúng
đến đâu nhưng cứ sự thì Phật tử nào đó
đã phạm tội liệt vị khi đặt Phật trên
Thượng Đế.
Từ
sự đặt vị trí nền tảng sai trật nọ đã
xảy ra nhiều cái xếp đặt sai khác thí dụ
các cung, các cõi trên trời thì Phật còn
được xếp trên Thiên Tiên. Cái bảng đó có
thể đúng, có thể sai không quan trọng vì
nó là cái lược đồ do óc tưởng tượng bày
ra cốt cho ta một ý niệm đại khái để
biết là đường tiến hóa triền miên...
Hiểu như vậy thì đó là một bảng có ích;
nhưng nó trở nên có hại từ lúc người ta
đồng hóa cấp Phật với Phật Thích Ca, để
rồi dè bửu Tiên đạo cho là thấp hơn
Phật, biểu lộ một thứ kiêu thái rất khó
định tính, nhưng biết rằng chúng đều
phát xuất do cái “tội” liệt vị soán
quyền cả Hoàng thiên lẫn Thượng Đế.
Thôi
chỉ xin nói sơ qua thế đủ tỏ rằng Phật
giáo đã bị suy thoái rồi, không còn là
chất an toàn có thể dùng nhiều để bón
cây Vô vi. Vì thế mỗi lần vun trồng cây
Vô vi bằng chất Phật là Vô vi bị mắc
thẹo. Ví dụ kinh Adiđà tuy do ông tổ Vô
vi viết để giải nghĩa kinh theo ánh sáng
Vô vi mà vô tình vẫn truyền lại cái tội
liệt vị, soán ngôi Thượng Đế, rồi cả đến
nhiều chục trang kể hàng trăm tên Phật
dài thòng, lâu lâu lại cho ra một câu
kinh khủng, thí dụ: “kể từ thai thiên
lập địa đến nay đã 2000 năm rồi (tr.25
phần II). Những câu như vậy làm cho
người đọc dễ mất lòng tin vào những lời
ca ngợi quyển kinh, và rồi không tin cả
pháp Vô vi nữa.
Đến
quyển Địa Ngục Du Ký cũng gây thắc mắc ở
chỗ tinh thần Vô vi là tinh thần Di Lạc
an vui với luân lý tích cực (tức khuyến
đức hơn là hăm dọa). Hăm dọa chỉ là
truyện cưỡng hành cực chẳng đã mới phải
dùng vì dùng kiểu đe loi là coi thường
người đọc. Ta quen nói “người khôn nói
mánh, người dại đánh đòn”. Dùng lối đe
loi chưa chi đã đưa địa ngục ra hù là
ngầm hiểu rằng tụi bay toàn lũ đáng đánh
đòn... Vô vi có quá nhiều điều hay rất
tích cực, cần chi phải dùng đến những
kiểu hù tiêu cực nọ. Đây không có ý đặt
vấn đề có với không có địa ngục mà là
vấn đề có hợp hay không hợp tinh thần Vô
vi là tinh thần hoàn toàn kính trọng
nhân chủ tính nơi người nghe, không hề
dùng những lời ngăn đe như không tin thì
phải sa địa ngục. Ngay việc Thượng Đế
giáng phàm mà Kim Thân Cha còn nói: “không
tin cũng được con ơi”... Dùng đến
địa ngục mà giục người tin là hạ sách,
chả hóa ra giống nhiều chùa vẽ cảnh địa
ngục rất dữ khiến người xem thấy sợ quá
phải rộng tay cúng dường, mở đường cho
những kẻ xấu miệng nói địa ngục chỉ là
một mánh khoé làm tiền, rồi giảm mất
lòng tin vào sự có địa ngục. Sợ những kẻ
quá sính khoa học còn chê Vô vi cũng là
phường tin nhảm nhí, v.v...
Vì
vậy thiết nghĩ cũng nên xử đối như quyển
kinh Adiđà là phát ra rất hạn chế. Trí
óc con người đời nay quá sính khoa học,
nhiều khi đến chỗ duy lý. Chưa chi họ đã
thấy tủ sách Vô vi đầy tràn địa ngục với
thiên đàng là tiên thiên họ không thèm
lý đến Vô vi nữa. Muốn phát triển chữ
Hòa cho tới An hòa thiết nghĩ các bạn Vô
vi nên đọc quyển Chơn Lý. Đó là quyển
sách có một không hai đầy tràn minh
triết mà cũng là triết lý luôn, rất xứng
đáng phải được coi là Kinh trên các kinh
của Vô vi. Đọc đi đọc lại và quân cứ sẽ
tránh được cái bề ngoài của “tội liệt
vị”: trên chưa triệt thượng, tức coi như
kính nể ông Tám hơn Thượng Đế (chứng cớ
là về việc niệm...), dưới chưa triệt hạ:
ít lo đáp ứng nhu cầu khoa học... Tôi
đặt dấu ngoặc kép trên chữ “tội” vì sự
thực Vô vi vô tội, mà chỉ là vô tình,
nhưng dầu vậy cũng nên tránh cái bề
ngoài đó để việc truyền bá Vô vi xuôi
chèo mát mái hơn, không vô tình cản trở
việc thiết lập nền An Hoà đó cũng là
giúp vào Cơ Quy Nhất. Các sách đạo Phật
mà ta biết được đã thuộc kỳ suy thoái
nên ít nhiều đã kéo theo dị đoan, nếu
không thì cũng mang đậm nét đặc thù của
Ấn Độ là hiểu chữ Vô kiểu siêu hình, gây
ra nhiều điểm khó hiểu, khó được mọi
người chấp nhận.
Còn
một điểm nữa cần được nhấn mạnh là Vô vi
nên vâng lời Cha mà niệm danh Cha. Niệm
Phật không ổn, đó chỉ là việc tạm chuẩn
cho những con “chưa hiểu”.
Tại
sao Cha dạy niệm Cha thì Cha không nói
ra, Ngài chỉ nói con nào biết niệm (Cha)
thì càng hay. Nếu còn băn khoăn, hay
chưa quen, chưa hiểu thì cứ tiếp tục
niệm Adiđà cũng được. Mấy chữ trên là do
tôi gạch để đặt nổi tính cách tế nhị của
Cha, Cha chỉ nói “càng hay” là đặt việc
niệm Cha bên trên niệm Phật, con nào
“chưa hiểu” thì tiếp tục niệm Adiđà cũng
được. Hiểu gì đây? Theo đồng văn thì có
hai điều phải hiểu:
Trước
hết Vô vi là Hồng Ân Cha ban, một ân rất
đặc biệt không nên đồng hóa với Phật
giáo mà làm nhẹ bớt đặc ân đó. Trái lại
phải trình bày Vô vi như một pháp tối
tân. Vậy phải có lời niệm riêng biệt, vì
lời niệm (hay lời nguyện) của một đạo
pháp kể được như lá cờ của đạo pháp ấy.
Mỗi đạo pháp có một lời niệm của mình
thì cũng như có một lá cờ riêng để người
ta dễ phân biệt. Vô vi là một pháp rất
đặc sắc lại không đáng có một ký hiệu
riêng sao?
Thứ
đến có một lý do đặc biệt nên tránh niệm
Phật vì trong phạm vi triết đạo Phật đã
phạm tội liệt vị tức hạ bệ Thượng Đế
thật thấp, khiến cho con đạo hầu không
biết chi đến Thượng Đế. Nay Vô vi cứ
niệm Phật thì bên ngoài người ta dễ có
cảm tưởng là chửi vào mặt Cha, coi Cha
như chưa đủ thế lực nên phải niệm Phật
để tăng cường (a). Ta cũng nên biết là
niệm Phật ngay trong đạo Phật cũng bị
coi là bất đắc dĩ vì trình độ ngu si của
người theo. Trong Tuyệt Quán Luận của Bồ
Đề Đạt Ma tức ông tổ Thiền có đoạn sau:
“Hỏi: Đã nói Không là gốc đạo thì Không
là Phật chứ gì? Thưa: chính thế.
Hỏi:
Nếu Không quả là Phật thì tại sao thánh
nhân chẳng khiến chúng sinh niệm Không
mà lại dạy niệm Phật?
Thưa:
Vì chúng sinh ngu si, nên mới chỉ dạy
niệm Phật. Còn với người có đạo tâm thì
dạy quán Thực tướng cái thân này cũng
như quán Phật vậy. Này, nói Thực tướng
tức là nói Không, là nói Vô tướng vậy.
Vì ngu si chúng sinh giáo lệnh niệm
Phật. Nhược hữu Đạo tâm chí sĩ, tức lệnh
“quán thân Phật tướng” (Đoạn 4 câu 6 và
7). Thật là rõ ràng: Vô vi và niệm Phật
là đi mượn lời niệm, mà lại mượn phải
lời niệm hạ cấp dành cho những kẻ ngu si
đó!
Đàng
khác Cha ban Vô vi là cốt để lo Cơ Quy
Nhất đặng đưa mọi người quy vào một mối.
Vậy mà lại niệm Phật là tôn giáo có nền
triết lý chưa đạt Thái Nhất cũng gọi là
An hòa, lại cứ sự đã chia năm sẻ bảy (b)
hỏi có ứng hợp cho mục tiêu quy nhất của
Cha chăng?
Hai
điều trên (a và b) chỉ là lấy trí phàm
mà suy luận thì cái lý nó phải ăn chịu
như thế chứ thiệt tình Phật tử cũng như
bạn đạo Vô vi không hề có ý phạm tội như
vậy, vì thế niệm Lục Tự Di Đà vẫn rất
linh nghiệm. Cha Trời chỉ kể có lòng
thành tâm chứ không chấp nhận tội vô
tình. Vì thế Cha nói: “Cứ tiếp tục niệm
Adiđà cũng được”. Chữ “cũng” phải hiểu
là chưa được ổn, còn phải tiến lên cao
hơn. Phải đi từ chỗ “chưa hiểu” đến chỗ
hiểu.
Có
hai lý do buộc phải hiểu nổi mấy chữ Cha
nói mánh “càng hay”, “cũng được” hay
sao? Sở dĩ tôi nói đến người Việt thì
không vì tự ái quốc gia, nhưng vì Cha
Trời đã chọn đất Việt để ban đặc ân, đó
là điều bắt buộc phải kể tới. Vì thế tôi
nghĩ nên dùng tiếng Việt trong lời niệm:
Kính lạy thay vì Nam Mô, chữ này đã gắn
chặt vào Phật từ hai ngàn năm rồi: nên
vừa nghe tới là người ta nghĩ ngay tới
Phật, rồi người Vô vi mất công giải
thích lê thê mà vị tất đã xóa được cảm
tưởng lúc đầu.
Sau
là phải nghĩ tới mục tiêu Vô vi là Quy
Nhất: tức là đưa nhân loại quy về một
mối, nên bạn đạo Vô vi phải nghĩ tới
quốc tế, trong đó sẽ có rất nhiều “con”
vì lý do nọ kia không chịu niệm Phật...
rồi do đó không chịu chấp nhận Vô vi,
thí dụ họ có thể nói nếu quy nhất thì
phải quy về Thượng Đế, chứ sao lại quy
về Phật. Phật là tôn giáo quá đặc thù
làm sao dùng để quy nhất được, v.v....
Có nhiều lý do để Vô vi không được mọi
người chấp nhận, nhưng đó phải là do
trình độ của họ mà không do trở ngại do
Vô vi đặt ra một cách không cần thiết.
Vì những lý do trên các bạn Vô vi nên cố
tiến tới lời niệm chính thức của Vô vi
là:
KÍNH LẠY NGỌC HOÀNG
THƯỢNG ĐẾ VÔ CỰC ĐẠI THIÊN TÔN
Có
vài triệt trong Chơn Lý liên hệ tới lời
niệm, xin được trích ra đây để tiện suy
đi nghĩ lại: “Cho nên, niệm Adiđà là
đánh thức phần sáng suốt trong con.
Niệm danh Thượng Đế là đánh thức trực
tiếp chính con vậy. Và khi con đã thức
dậy, sinh động lại, có nghĩa là thể
tính sáng suốt trong con tự nhiên nó
phải sinh động lại rồi, vì nó là một
thành phần của con, con ngủ thì nó
ngủ, con thức thì tự nhiên nó thức. Do
vậy, để con thấy rằng niệm danh Thượng
Đế tức là đã niệm Adiđà trong đó rồi,
khỏi có gì thắc mắc, sợ niệm danh Cha,
bỏ Adiđà không mở được lục thông. Mở
luôn chớ con! Vì khi chính con tỉnh
dậy, phần sáng suốt trong con dĩ nhiên
sẽ linh động lại, phát triển dần, các
luân xa trong con nhờ đó mà mở và phát
triển.
Con
ơi, Thượng Đế là Càn Khôn vũ trụ, niệm
Thượng Đế là gồm cả Càn Khôn trong đó
rồi. Mọi Phật, Tiên, Thần, Thánh đều
có trong đó, con chẳng sợ thiếu thứ
gì, các con khỏi phải vừa lo niệm
Thượng Đế, vừa niệm Adiđà, Quan Âm...
Nhiều đứa, Cha thấy vừa niệm danh Cha,
vừa niệm Di Đà, vừa niệm danh nhiều
Phật khác. Nghĩ rằng nhiều Vị như vậy
“chắc ăn” hơn, nhiều vị phò hộ cho
mình tốt hơn! Nghĩ vậy, vì các con này
chưa hiểu nguyên lý của Trời, Đất,
chưa hiểu nó là ai, nó chưa biết bản
chất Thượng Đế của nó. Nó chưa thấy
được sự vĩ đại của nó đến ngần nào”...
“Khi
con niệm danh Thượng Đế, con phải hiểu
con cũng đang niệm chính danh của con
đó. Đấy là con biết tưởng Thượng Đế
như ý Thượng Đế muốn, và con cũng đã
đặt con ở đúng vị trí của con. Niệm
như vậy mới là biết niệm: Đây là chánh
niệm mà cũng là chánh kiến, chánh tín,
chánh định, chánh tư duy của Phật giáo
đó con. Và Cha cho chúng rõ, khi con
biết chánh niệm, thí dụ không cầu,
không vọng sự phò hộ chở che cứu giúp,
con lại đuợc hộ giúp, che chở hữu hiệu
hơn, đắc lực hơn nữa. Tại sao? Lẽ dễ
hiểu là vì kẻ vọng niệm phần trí tuệ
chưa sáng suốt bằng kẻ chánh niệm.
Linh hồn nó yếu đuối và kém tiến hóa
hơn vì chỉ biết hướng tới tha lực mà
không biết tự lực, chỉ thấy sức mạnh
bên ngoài, mà không thấy sức mạnh sẵn
có trong chính nó để biết tận dụng sức
mạnh đó. Cho nên khi con niệm để cầu
được cứu giúp, điểm của con không sáng
bằng khi con chánh niệm. Vì nếu con
biết chánh niệm, khi ấy điển trong bản
thể con sẽ hòa cảm với khối điển sáng
suốt Càn Khôn”...
“Cha
vừa giảng cho chúng con hiểu thêm cách
thức niệm. Còn việc niệm Thượng Đế con
khỏi phải thắc mắc. Con nào biết niệm
thì càng hay. Nếu còn băn khoăn, hay
chưa quen, chưa hiểu, thì cứ tiếp tục
niệm Adiđà cũng được”... (Chơn
Lý, câu 22)
Nguồn:
http://anviettoancau.net
|