Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm Thứ
4889
www.vietnamvanhien.net
Trung
Cộng
mướn
rừng
trước, chiếm nước sau
Thursday,
February
25,
2010
|
|
|
|
“16 chữ vàng” của Trung Quốc sau khi
đã được một blogger biến cải cho sát với thực tế.
(Hình: dcvonline)
|
Âm
mưu
Bắc
thuộc kiểu mới
Võ
Long
Triều
Trong một số bình luận,
chúng tôi đã trình bày với
khán thính giả và đồng bào về nguy cơ Bộ
Chính Trị Cộng Sản Hà Nội tự nguyện làm tay sai
cho Trung Quốc, biến Việt Nam thành chư hầu. Trung Cộng
không cần phải dùng võ lực xâm chiếm. Nước ta
sẽ bị quan thầy cai trị như Tân Cương và Tây Tạng.
Mười lăm ông ngồi trong Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản
Việt Nam sẽ là những quan “Thái Thú” vâng
theo lệnh của Bắc Kinh.
Chúng tôi cũng có
phân tích trên truyền thông báo
chí 16 chữ vàng, “Láng giềng hữu nghị, hợp
tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới
tương lai.” Và 4 tốt, “Láng giềng tốt, bạn bè tốt,
đồng chí tốt, đối tác tốt.” Những chữ vàng
và cái tốt đó tác hại vô cùng
to lớn đối với đất nước và lợi ích quốc gia. Sự
nhún nhường, khiếp sợ, hèn nhát hay là
thuận ý tiếp tay của Hà Nội, cho phép Trung Cộng
gây nguy hại cho nền kinh tế bằng cách đưa hàng
hóa, bị thế giới chê trả vì khám phá
có độc, tràn sang Việt Nam vừa làm cho nền
công kỹ nghệ nước nhà bị đình trệ vừa đầu độc
dân chúng. Ấy vậy mà một tên tham vụ kinh tế
quèn của Tòa Ðại Sứ Trung Quốc, Hồ Tỏa Cẩm, họp
báo lớn tiếng yêu cầu nhà cầm quyền Hà Nội
phải cảnh cáo và có biện pháp đối với
báo chí và vị giám đốc Cục Kiểm Soát
Thực Phẩm Việt Nam dám chê hàng Trung Quốc.
Tên này lớn giọng nói, “Hiện chúng ta
có quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước
xã hội chủ nghĩa cho nên báo chí phải
làm theo sự thỏa thuận của hai chính phủ.”
Mặc khác, hàng trăm ngư
dân Việt Nam
đánh cá trong hải phận của mình, bị tàu
Trung Quốc chận bắt người, cướp cá, phá lưới, phá
tàu và giam cầm đòi tiền chuộc! Những chiếc
tàu đó chính thức mang cờ Trung Quốc có
tên hiệu tàu đầy đủ, thế mà phát ngôn
viên cộng sản Hà Nội không dám nêu
dích danh tàu của ai, chỉ dám gọi “tàu lạ”!
Ngược lại, ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá trong
vùng biển Việt Nam, Hải Quân Hà Nội chỉ dám
cảnh cáo và dẫn độ họ ra hải phận quốc tế, không
dám bắt giữ như chính phủ Phi Luật Tân đã
làm và đòi Trung Quốc phải công khai
lãnh về, bảo đảm không tái phạm. Riêng Việt Nam
không dám có một lời phản đối mạnh mẽ.
Gần đây ngày 6 tháng
11, 2009, trong bài “Cộng Sản Hà Nội Hán
Hóa Việt Nam” đăng trên nhật báo Người Việt,
tôi trích dẫn lời kêu gọi của Trường Chinh, tổng thư
ký đảng Lao Ðộng, sau là tổng bí thư đảng cộng
sản như sau, “Việt Nam của chúng ta là một nước biết bao
lâu làm chư hầu cho Trung Quốc. Ðồng bào của ta nên loại hẳn
cách viết theo lối Tây, hãy trở về với chữ của
ông bà ta là chữ nho của Trung Quốc. Vả chăng người
Trung Hoa, bạn của ta - mà có lẽ là thầy của
chúng ta nữa - ta không hổ thẹn mà nhìn nhận
như thế. Ta hãy bỏ bệnh viện của chúng, ta hãy
dùng thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất
là dùng thuốc Tàu danh tiếng khắp cả hoàn
cầu.” (Truyền đơn số 284/LD, báo Tiếng Dội số 426 ngày 24
tháng 8, 1951 của miền Nam tự do đăng lại để vạch mặt bọn
bán nước, hiện còn lưu trữ tại British Museum-London Anh
Quốc) .
Sau Trường Chinh đến Phạm Văn Ðồng
ký bản văn nhìn nhận quyền Trung Quốc nới rộng hải phận.
Ðến lược Nguyễn Tấn Dũng “triều
cống” cao nguyên cho Trung Quốc mà ngay cả Ðại Tướng
Võ Nguyên Giáp, một công thần khả kính
lừng danh viết thơ phản kháng cũng không được. Sự kiện
mà ký giả David Filling của báo Financial Times
dùng chữ “pay tribute” (cống vật) để diễn tả. Và tệ hại
hơn nữa là có tiếng đồn Trung Quốc hối lộ cho Dũng 250
triệu US
đô la. Có hay không chỉ một mình ông
Dũng và người đưa tiền biết.
Ngày 25 tháng 5, năm 2009,
Tổng Bí Thư Nông Ðức Mạnh tiếp Bộ Trưởng Ngoại Giao
Trung Quốc Dương Khiết Trì, xác định liên hệ
Việt-Trung mãi mãi dựa trên 16 chữ vàng
và 4 cái tốt. Mạnh lại còn hứa nâng “hợp
tác toàn diện” lên mức độ cao hơn!
Nhìn lại quá khứ,
báo chí đã từng đưa tin, chỉ đích danh
nhiều xã, huyện, tỉnh, có công nhân Trung
Quốc tập trung đông đúc, lập đường sá đặt tên
bằng chữ Hán. Người Việt phạm pháp bị chúng bắt
giữ và tự ý xử trị. Công an Việt Nam đòi trả
người, chúng không giao. Nhiều nơi công nhân
Trung Quốc rượu chè say sưa ăn uống không trả tiền bị chủ
nhân người Việt lôi kéo ấu đả, cả trăm công
nhân Trung Quốc kéo nhau đánh đập dân
làng công an không dám can thiệp. Thực tế
đã có nhiều xứ “tiểu Trung Quốc” rải rác khắp nơi.
Trong khi đó nhà cầm quyền Hà Nội lại cho
phép người Trung Hoa tự do ra vào Việt Nam không
cần có hộ chiếu hay giấy tờ tùy thân.
Ðúng như Phó Thủ Tướng Tố Hữu khẳng định:
“Bên nầy biên giới là
nhà,
bên
kia
biên
giới
cũng là quê hương”
Cộng sản Bắc Việt còn có
bài ca như sau, “Việt Nam Trung Hoa, núi liền núi,
sông liền sông, chung một biển Ðông, mối
tình hữu nghị sáng như rạng đông. Ðêm
sông núi cùng một dòng, tôi
nhìn sang đấy, anh nhìn sang đây, chúng ta
sống chung nghe tiếng gà gáy cùng. Chung một
ý, chung một lòng, Ðường ta đi hồng màu cờ
thắng lợi. Nhân dân ta ca muôn năm Hồ Chí
Minh-Mao Trạch Ðông.”
Rõ ràng là
công sản Hà Nội đã thuận lòng dâng cả
nước cho Trung Cộng rồi. Từng bước, Trung Quốc lấn dần bằng cách
bỏ tiền đầu tư vào mọi ngành nghề, đấu thầu thực hiện mọi
thứ công tác mà nhà cầm quyền Việt Nam từ
địa phương đến trung ương phải có bổn phận cho họ trúng
thầu như thực tế đã chứng minh.
Ngày nay, lại thêm việc
chín tỉnh phía Bắc và một tỉnh phía Nam
cho mướn đất dài hạn 50 năm, nói là để trồng
cây gây rừng. Thật là một tai hại vô
cùng khủng khiếp xét về nhiều mặt. Tôi tin chắc
không thể nào 15 thành viên của Bộ
Chính Trị không thấu hiểu điều đó. Tôi cũng
tin chắc rằng sự nhận xét của chuyên gia Vũ Ngọc Tiến
là không đúng khi ông cho rằng, “Dưới
không dám phê bình trên, để cho
trên muốn làm gì mặc ý thì trên
cũng thả lỏng cho dưới tha hồ đem tài sản quốc gia trao đổi
bán chác kiếm miếng lợi riêng.” Ngược lại tôi
tin là trên dưới cấu kết bao che nhau với mục đích
cùng chung phục vụ quan thầy, bán nước cầu vinh trục lợi!
Những tai hại trước mắt: Thứ nhứt
là đốn cây phá rừng để trồng lại sẽ ảnh hưởng đến
môi trường, gây lụt lội bất thường, điều này
đã xẩy ra cho các tỉnh Sơn La, Lào Cai, Yên
Bái, Cao Bằng mà vì nhà cầm quyền địa
phương ở đó cho khai thác khoáng sản bừa
bãi. Kết quả thấy liền là
trâu bò ở các tỉnh đó đã chết
vì thiếu cỏ và thời tiết quá lạnh, đó
là theo bản tin đài SBTN loan tải ngày 22
tháng 2, 2010. Tai hại thứ hai là đốn cây
hay trồng cây gây rừng cần nhân công, do
đó sẽ có một cuộc di dân ào ạt vì
các công ty Trung Quốc đưa nhân công của họ
sang lập làng xã riêng biệt như họ đã từng
làm từ trước đến nay. Tai hại thứ ba là những mảnh đất
sát biên giới sẽ trở thành đất của Trung Quốc bằng
cớ là việc cấm mốc phân ranh biên giới phía
Bắc có rất nhiều nơi người Trung Hoa vào sâu trong
đất Việt canh tác mang danh tính là thành
viên của hợp tác xã Tàu, do đó ranh
giới Tàu phải ăn sâu vào đất Việt. Bộ Chính
Trị đảng và nhà cầm quyền Hà Nội không thể
quên điều đó. Năm mươi năm sau, với sự lưu manh
tráo trở và trâng tráo ỷ mạnh hiếp yếu của
đồng chí Bắc Kinh, bản đồ Việt Nam sẽ đổi dạng một
cách bi thảm. Tai hại thứ tư
là các nhà doanh nghiệp đầu tư Hồng Kông,
Ðài Loan, Trung Quốc đều là người Hoa. Với
chiêu bài trồng rừng, mướn đất 50 năm họ có quyền
khai thác những quặng mỏ quan trọng quí giá như
sulfua đa kim giàu chất vàng bạc, uranium. Sự
nghiên cứu địa chất của người Pháp và Việt
trên những vùng đất thật cổ này cho biết kết quả
có rất nhiều khoáng sản và kim loại quí.
Ðiều mà Trung Quốc bỏ tiền của ra mua hay mướn đất ở nhiều
xứ Châu Phi và Châu Mỹ La-Tinh để tìm kiếm
những quặng mỏ mà Trung Quốc có nhu cầu ngày
càng cao. Cũng giống như trữ lượng khổng lồ dầu khí nằm
dưới lòng đáy biển của các quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa khiến cho Bắc Kinh sinh lòng tham
và đẩy mạnh chính sách bành trướng
bá quyền. Tai hại thứ năm, do hai vị tướng lãnh
giàu kinh nghiệm, Ðồng Sĩ Khuyên và Nguyễn
Trọng Vĩnh, nói lên, là các vùng đất
địa đầu có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan
trọng. Hai ông đưa ra những đề nghị hữu lý nhưng Bộ
Chính Trị phớt lờ cũng như đã từng khinh khi lời cảnh
giác của Tướng Võ Nguyên Giáp phản đối việc
cho Trung Quốc chiếm đóng cao nguyên. Tướng Ðồng Sĩ
Khuyên và Nguyễn Trọng Vĩnh cũng đã từng tố
cáo Tổng Cục II và T4, một vụ án quan trọng
gây chia rẽ nội bộ đảng không ít, nhưng Nông
Ðức Mạnh cầm đầu Bộ Chính Trị đã “khoanh lại”
không dám khui vì hai trọng tội là Lê
Ðức Anh và Ðỗ Mười nổi tiếng là “bạn bè
tốt” nhứt và “đồng chí tốt” nhứt của thế lực Bắc Kinh.
Sự bất mãn
oán hờn tràn lan trong xã hội đến nỗi một blogger
trẻ tuổi biến đổi 16 chữ vàng thành 16 chữ oán,
“Láng giềng khốn nạn, cướp đất toàn diện, lấn biển
lâu dài, thôn tính tương lai.”
Ngày 6
tháng 1, năm 2010, Ðại Sứ Ðặc Mệnh Toàn Quyền
Trung Quốc Tôn Quốc Tường họp báo chuẩn bị cho các
hoạt động của Năm Hữu Nghị Việt-Trung giải thích việc tranh chấp
biển Ðông nói rằng, “Hai nước đều là xã
hội chủ nghĩa, do đảng cộng sản lãnh đạo với thể chế một đảng
cầm quyền nên sẽ dễ giải quyết vấn đề tranh chấp.” Ông
Tường còn đưa ra lời hăm dọa “Hợp tác sẽ phát
triển, đấu tranh sẽ thất bại.” Chủ nghĩa bá quyền của Bắc Kinh
đã hiện rõ, và sự quy lụy hèn nhát,
bán nước cầu vinh trục lợi của Hà Nội đã được
chứng minh qua nhiều sự việc. Viễn tượng mất nước và âm
mưu “Bắc Thuộc” đang được thực hiện dần dần qua sự tiếp tay của đảng
Cộng Sản Việt Nam. Chỉ khi nào
đồng bào trong và ngoài nước không
còn sợ hãi, vùng lên xóa bỏ chế độ
độc tài, hay khi nào lòng yêu nước và
tự ái dân tộc của quân đội cộng sản thúc đẩy
họ đứng lên lật đổ bọn cầm quyền bán nước thì mới
hy vọng đoàn kết được toàn dân chống Trung Cộng xăm
lăng.
Võ Long Triều
Tháng 2, 2010
|
Nguồn:
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=108902&z=12
Hai tướng về hưu tố cáo
VN cho Trung Quốc thuê rừng đầu nguồn
Một công ty Ðài
Loan đang chiếm 30,000 mẫu rừng đầu nguồn trong tỉnh Quảng Nam
và còn đang muốn thêm nữa.
Hai tướng về hưu là Ðồng Sĩ Nguyên và
Nguyễn Trọng Vĩnh, từng nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng trong
quân đội và chính quyền CSVN, đã viết
bài tố cáo một kế hoạch của nhà cầm quyền Việt Nam
cho Trung Quốc thuê đất rừng đầu nguồn của 10 tỉnh xung yếu để
trồng “nguyên liệu,” nhưng tiềm ẩn rất nhiều nguy hiểm về nhiều
mặt cho đất nước.
Ông Ðồng Sĩ Nguyên, 87 tuổi, từng là ủy
viên Bộ Chính Trị, trung tướng, Thứ trưởng Quốc
Phòng, phó thủ tướng, bộ trưởng Giao Thông,
Xây Dựng. Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, năm nay 94 tuổi, từng
là đại sứ ở Bắc Kinh giai đoạn 1974-1989. Hai ông từng
phát biểu chống đối mạnh mẽ việc khai thác bauxite,
bán tài nguyên cho Trung Quốc.
Ông Ðồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng
Vĩnh, viết trong bài tố cáo rằng,‘Theo chỉ thị của
Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, Bộ Trưởng Bộ Nông Nghiệp và
Phát Triển Nông Thôn Cao Ðức Phát
đã cử đoàn cán bộ liên ngành trực
tiếp kiểm tra hai tỉnh Lạng Sơn và Quảng Ninh, đồng thời tổng
hợp báo cáo 8 tỉnh Cao Bằng, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Nam, Bình Ðịnh, Kon Tum và Bình Dương.
Kết quả cho thấy 10 tỉnh [các tác giả chỉ liệt kê 9
tỉnh, tức sót một tỉnh - người biên tập] đã cho 10
doanh nghiệp nước ngoài thuê đất rừng đầu nguồn dài
hạn (50 năm) trồng rừng nguyên liệu với tổng diện tích
305,3534 nghìn ha, trong đó Hồng Kông,
Ðài Loan, Trung Quốc chiếm trên 264 nghìn ha;
87% ở các tỉnh xung yếu biên giới.”
Bài viết của hai ông được phổ biến trên
diễn đàn điện tử ‘boxitvn’ vào ngày 10
tháng 2, năm 2010. Người ta không biết trồng rừng
nguyên liệu này là gì? Trồng cao su, gỗ bạch
đàn để sản xuất giấy hay thứ gì khác. Những “rừng
nguyên liệu” này phục vụ kỹ nghệ Việt Nam hay
chở về Trung Quốc phục vụ kỹ nghệ chế biến của nước này?
Tướng Ðồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh
nhận định rằng, “Ðây là một hiểm họa cực lớn
liên quan đến an ninh nhiều mặt của quốc gia. Hám
lợi
nhất
thời,
vạn đại đổ vào đầu cháu chắt. Mất của cải
còn làm lại được, còn mất đất là mất hẳn.”
Vẫn theo lời của hai ông, “Cho Hồng Kông,
Ðài Loan, Trung Quốc khai thác rừng đầu nguồn
là tiềm ẩn đầy hiểm họa. Họ đã thuê được
thì họ có quyền chặt phá vô tội vạ. Rừng đầu
nguồn bị chặt phá thì hồ thủy lợi sẽ không
còn nguồn nước, các nhà máy thủy điện sẽ
thiếu nước không còn tác dụng, lũ lụt, lũ
quét sẽ rất khủng khiếp. Năm qua nhiều tỉnh miền Trung đã
hứng chịu đủ, chẳng phải là lời cảnh báo nghiêm
khắc hay sao?”
Sau vụ cố tình khai thác bauxite để phục vụ nhu
cầu nhôm của Trung Quốc bất chấp các ý kiến của
hàng ngàn chuyên viên quan tâm đến thời
cuộc đất nước, Bộ Chính Trị và chính phủ Việt Nam
đã lập một kế hoạch khác để phục vụ lợi ích của
Trung Quốc mà toàn dân không hề biết, nếu
không có bài viết của hai ông Ðồng Sĩ
Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh.
Hai ông cáo buộc những kẻ cầm đầu Bộ Chính
Trị và Nhà nước Việt Nam hiện nay rằng,
“Các tỉnh bán rừng là tự sát và
làm hại cho đất nước. Còn các nước mua
rừng của ta là cố tình phá hoại nước ta và
gieo tai họa cho nhân dân ta một cách thâm độc
và tàn bạo. Nếu chúng ta không có
biện pháp hữu hiệu, họ có thể đưa người của họ vào
khai phá, trồng trọt, làm nhà cửa trong 50 năm,
sinh con đẻ cái, sẽ thành những ‘làng
Ðài Loan,’ ‘làng Hồng Kông,’ “làng Trung
Quốc.” Thế là vô tình chúng ta mất đi một
phần lãnh thổ và còn nguy hiểm cho quốc
phòng.”
Hồi năm ngoái, ngày 21 tháng 10, năm
2009, Nông Ðức Mạnh, tổng bí thư đảng CSVN, nói
ở Quốc Hội Việt Nam rằng, “Phải cấm bán tài nguyên
thô ra nước ngoài” sau khi chính phủ Việt Nam lập
các dự án khai thác bauxite để phục vụ kỹ nghệ
Trung Quốc.
Ðây không phải lần đầu tiên các
tướng về hưu của chế độ lên tiếng về việc cho Trung Quốc khai
thác tài nguyên của Việt Nam.
Các tướng về hưu như Võ Nguyên
Giáp, Nguyễn Trọng Vĩnh và hàng ngàn
trí thức ký kiến nghị yêu cầu ngưng khai
thác bauxite vì có đủ mọi bất lợi từ môi
sinh, kinh tế đến quốc phòng.
“Tôi đề nghị dừng các dự án khai
thác bauxite ở Tây nguyên, kể cả khai thác
thí điểm.” Tướng Võ Nguyên Giáp viết
trong bức thư thứ ba gửi Bộ Chính Trị ngày 20
tháng 5, năm 2009 sau khi lập lại “các tác động
vô cùng hệ trọng đối với môi trường sinh
thái, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng và đến phát triển ổn định, bền vững của đất
nước.”
Nhưng ngày 18 tháng 8, năm 2009 khi đi thị
sát các công trường khai thác bauxite ở
Tây nguyên, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, đã chỉ thị
“tiếp tục khai thác dự án bauxite theo đúng tiến
độ.”
Trước đó, dù bị quá nhiều chỉ
trích và kêu gọi ngưng lại, Bộ Chính Trị của
chế độ lại vẫn cả quyết khai thác bauxite “là chủ trương
lớn của đảng và nhà nước” như một cách ra mặt
át giọng và đe nẹt.
Nay hai tướng Ðồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng
Vĩnh sốt ruột khi thấy chế độ Hà Nội càng ngày
càng lộ ra những hành vi có tính
cách “tự sát” và “làm hại đất nước.”
Báo SGTT ngày 6 tháng 5, năm 2009
có một ký sự cho thấy người Trung Quốc sống thành
làng ở Quảng Nam. Họ lấy vợ người địa phương, đẻ con và
có thể cái cộng đồng nhỏ này theo thời gian
mà phát triển.
Trước đó, ngày 29 tháng 3, 2009, tờ Tuổi
Trẻ tường thuật lời tố cáo của Trần Ngọc Hùng, chủ tịch
Tổng Hội Xây Dựng Việt Nam, là “hàng vạn công
nhân Trung Quốc đã vào Việt Nam” và
các dự án lớn ở Việt Nam, (nhiệt điện, thủy điện, xi
măng, bauxite, v.v…) đều được chế độ Hà Nội dành cho
nhà thầu Trung Quốc.
Khi trúng thầu, những nhà thầu này đem
sang Việt Nam từ người làm tạp dịch đến cái
chổi quét nhà, nồi niêu song chảo. Nhiều lời tố
cáo đa số trong hàng chục ngàn công
nhân Trung Quốc sang Việt Nam đều là người lao
động bất hợp pháp. Nhưng nhà cầm quyền trung ương
Hà Nội lờ đi, mặc các lời phản đối.
Nhiều người báo động rằng ngoài biển, Trung Quốc
ngày càng lộ rõ chủ trương bành trướng
bá quyền để khống chế và thu tóm toàn thể
biển Ðông. Nay trên đất liền, các khu vực xung
yếu họ nắm giữ như sự báo động của hai ông Ðồng Sĩ
Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh.
Ngày 9 tháng 2, 2010, trong một bài phỏng
vấn của tờ Thời Báo Kinh Tế Việt Nam, ông Trần Xuân
Giá, nguyên bộ trưởng Kế Hoạch và Ðầu Tư cho
rằng chế độ Hà Nội đang đi lạc đường.
“Hiện nay phải thấy là cả tư duy tăng trưởng
và mô hình tăng trưởng đã không
còn phù hợp. Chúng ta không thể tiếp tục tư
duy tăng trưởng theo lượng, khuếch đại, sùng bái con số,
và che đậy các khuyết điểm của nền kinh tế được nữa. Nếu
không, càng tăng trưởng, có thể chúng ta sẽ
càng nghèo đi.” Ông Giá nói.
Theo nguoi-viet.com
Cảnh báo về các dự án cho thuê rừng
Đã có nhiều báo động đỏ
về tàn phá rừng đầu nguồn
Hai nhà lão thành cách mạng vừa
lên tiếng cảnh báo về việc Việt Nam
cho nước ngoài thuê đất đầu nguồn
trồng rừng trong khi địa phương bác bỏ quan ngại.
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên và Thiếu
tướng Nguyễn Trọng Vĩnh cuối tháng trước đã
công bố lá thư về việc 10 tỉnh trong nước
"đã cho 10 doanh nghiệp nước ngoài thuê đất rừng
đầu nguồn dài hạn (50 năm) trồng rừng nguyên liệu với tổng
diện tích 305.3534 ha, trong đó Hong Kong, Đài
Loan, Trung Quốc chiếm trên 264.000 ha; 87% ở các tỉnh
xung yếu biên giới".
Các tỉnh đã ký hợp đồng cho nước ngoài
thuê đất nằm ở cả ba miền Bắc-Trung-Nam.
Hai ông vạch rõ trong lá thư: "Đây là
một hiểm họa cực lớn liên quan đến an ninh nhiều mặt của quốc
gia" và "Mất của cải còn làm lại được, còn mất
đất là mất hẳn".
Các tỉnh bán rừng là tự sát
và làm hại cho đất nước. Còn các nước mua
rừng của ta là cố tình phá hoại nước ta và
gieo tai họa cho nhân dân ta một cách thâm độc
và tàn bạo.
Thư của hai ông Đồng Sĩ
Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh
Theo phân tích của họ, tiềm ẩn
hiểm họa là ở chỗ nước ngoài đã thuê được
đất thì cũng có thể "phá rừng vô tội
vạ".
"Các tỉnh bán rừng là tự sát
và làm hại cho đất nước. Còn các nước mua
rừng của ta là cố tình phá hoại nước ta và
gieo tai họa cho nhân dân ta một cách thâm độc
và tàn bạo."
Hai vị cựu tướng cũng cảnh báo về nguy cơ di
dân, nhất là từ Trung Quốc, vào để thực
hiện các dự án thuê rừng này.
Họ yêu cầu đình chỉ các dự án cho
thuê rừng ngay lập tức.
Bức thư của hai ông khi công bố đã
gây chú ý đặc biệt của dư luận, vì đất
đai là tài sản quốc gia, và các mảnh đất địa
đầu có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng.
Đây không phải lần đầu tiên
các vị lão thành cách mạng phản đối các dự án khai
thác nguồn lợi thiên nhiên ở Việt Nam mà
theo họ gây ảnh hưởng xấu tới môi trường và
xã hội.
Một số cựu tướng lãnh, trong có Đại tướng
Võ Nguyên Giáp và Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên,
từng lên tiếng về việc khai thác bauxite
ở Tây Nguyên, nhưng các dự án vẫn được
tiến hành.
'Không cho thuê rừng phòng hộ'
Riêng tại tỉnh Lạng Sơn giáp với Trung Quốc,
hiện đã có hai dự án cho nước ngoài thuê rừng.
Dự án thứ nhất đang được triển khai
gồm 63.000 ha trồng rừng gỗ nguyên
liệu cao cấp tại địa bàn 7 huyện. Dự án thứ
hai chưa thực hiện gồm gần 9.500 ha trồng
gỗ nguyên liệu bột giấy tại 4
huyện.
Lãnh đạo tỉnh Lạng Sơn bác bỏ quan ngại về nguy
cơ "mất rừng". Ông Đào Đức Hoan, Chánh Văn phòng UBND
tỉnh, nói với BBC rằng khi cấp phép cho các dự án,
chính quyền địa phương đã cân nhắc kỹ lưỡng "vì
lợi ích chung của cộng đồng, vì sự phát
triển kinh tế-xã hội của tỉnh và quốc
gia".
Khi cấp phép cho các dự án, chính quyền
địa phương đã cân nhắc kỹ lưỡng vì lợi ích chung của
cộng đồng, vì sự phát triển kinh tế-xã
hội của tỉnh và quốc gia.
Chánh VP UBND tỉnh Lạng Sơn Đào Đức Hoan
Ông Lý Vinh Quang, Giám đốc Sở Kế
hoạch - Đầu tư Lạng Sơn, thì khẳng định rằng đất
giao cho chủ đầu tư nước ngoài hoàn toàn là "rừng sản
xuất chứ không phải rừng phòng hộ" và
"không có mua bán đất đai, chuyển nhượng sở
hữu mà chỉ có cho thuê".
Ông Quang cũng nói cơ quan Tài nguyên-Môi
trường tỉnh có cơ chế để giám sát các dự án sao
cho bảo đảm về môi trường lâu dài và
việc cho thuê đất được thực hiện theo
đúng quy trình quy định của Nhà nước.
Nhận định về lá thư của các vị lão thành
cách mạng nói ở trên, ông cho rằng đây "chỉ là
ý kiến cá nhân", "có thể bắt nguồn từ
thông tin không đúng và sai lệch".
Ông Lý Vinh Quang cũng bác bỏ quan ngại về
yếu tố Trung Quốc trong các dự án, với lý do
rằng quá trình thẩm định không phân biệt
nhà đầu tư đến từ nước nào.
Bấm Quý vị
nghĩ sao về các dự án cho nước ngoài thuê đất
trồng rừng? Hãy bấm vào đây để chia sẻ
ý kiến với BBCVietnamese.com
Nguồn:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/02/100222_forestation_projects.shtml
|