www.vietnamvanhien.org www.vietnamvanhien.net www.vietnamvanhien.info www.vietnamvanhien.com Bút ký tưởng như trở
về ĐIỆP-MỸ-LINH “Hà-Nội
dịu dàng, Hà-Nội thướt tha,
Hà-Nội quyến rũ...” Bằng một giọng
không còn là Bắc-Kỳ
nguyên thủy, diễn giả nhấn giọng ở dấu nặng
mỗi khi lập lại danh từ riêng
“Hà-Nội”.
Cứ mỗi lần chữ “Nội” được phát
âm, cái dấu nặng dường như nặng hơn
và dội thẳng vào tâm thức
tôi, ở đó bao kỷ niệm ấu thơ đang
yên ngủ, bỗng trở mình, thức giậy.
Trong khi diễn giả vẽ ra những cảnh sắc
nên thơ, những con đường yêu mến của
Hà-Nội thuở xưa, thì hồn tôi
như ngây như dại, âm thầm tìm
về những ngõ ngách quanh co của một
quá khứ mịt mùng; nơi có
tiếng sóng rì rào bên
bờ cát mịn, tiếng chuông chùa
đồng vọng trên đồi cao, tiếng chuông
nhà thờ ngân vang khi chiều xuống
và tiếng xình xịch rã rời của
chuyến tàu đêm.
Bỗng dưng tôi tưởng như tôi
thấy được chuyến xe lửa mệt nhọc đang hổn hển thở
từng ngụm khói đen sì giữa
cánh đồng bao la. Và từ một toa xe
dơ bẩn, tôi đang lặng người, trải dài
bao thương nhớ theo từng vết lăn trên đoạn
đường đầy rỉ sét.
Khi tàu đến Suối-Dầu, nhìn
ánh nắng mỏng lướt nhẹ trên rừng cao
su xanh rì và chiếc cầu nhỏ bắt
ngang con suối cạn để vào Quận đường,
tôi không nén được xúc
động! Phạm-Đình-Phê, ngón
đàn vĩ cầm không đối thủ của
Nha-Trang đã phục vụ nơi đây, một
thời. Nếu thính giả đài phát
thanh Nha-Trang từng mê hoặc tiếng vĩ cầm
của Phê thì các cô
gái Nha-Thành cũng nghe lòng
mình đắm say khi tiếng Tây-ban-cầm
của Phê dìu dặt trong điệu Rhumba Melody
trầm buồn vào những buổi họp mặt. Bây
giờ, tôi không hiểu sau bao
nhiêu năm tù đày, ngón
đàn của người anh cô cậu có
còn làm nhức nhối lòng người
nghe hay anh phải bán đàn và
sử dụng những ngón tay thon dài ấy
vào động tác lao động để mưu sinh?
Tôi thở dài, nhìn rừng cao su
im lìm lùi lại phía xa.
Tàu tiến vào Thành,
nơi xuất phát loại mít ráo,
dày cơm, xơ ít; loại ô mai
ngọt, bùi, màu vàng tươi như
lòng đỏ trứng gà; loại vú sữa
nếp dày cơm, hạt nhỏ; loại
sam-bô-chê ngọt như mật; loại chuối
tiêu trái nhỏ nhưng thơm khi
chín vàng.
Mùi thơm của chuối chín chắc
chắn không giống mùi thơm của
lúa. Nhưng màu vàng của chuối
chín cây lại rạng rỡ chẳng
khác chi màu vàng của
cánh đồng lúa từ đường rầy xe lửa
vào đến bìa làng; nơi
đó, những mái nhà ngói
đỏ thẹn thùng núp sau vườn cây
ăn trái. Trong những vườn cây ấy,
tôi biết chắc chắn thế nào cũng
có cây mận với những trái đỏ
hồng, hình quả chuông; cây
chùm ruột với những trái nho nhỏ,
kết thành chùm, từ xa trông
như chùm nho xanh; cây bông
điệp với những đóa hoa nhỏ nhắn màu
vàng xen lẫn đỏ.
Tàu đến Cây-Dầu-Đôi, nơi
có ông thầy bói nổi tiếng một
thời. Con tàu vẫn tiến về phía trước
nhưng hồn tôi lại lui về quá khứ,
vì thấy cây cổ thụ vẫn tỏa rộng
bóng mát êm đềm trên con
đường nhựa ngập nắng.
Trên con đường ấy, đã biết bao
lần tôi cùng bạn bè đạp xe đạp
từ Nha-Trang lên đây để xem
bói. Đứa học giỏi thì nhờ thầy
bói xem sẽ đậu hay hỏng; đứa học dở
thì nhờ thầy bói xem có bị
bảng “cót” (không đủ điểm để thi lại
kỳ hai) hay không? Cũng có nhiều nam
sinh đi theo chỉ với mục đích được đi
cùng với một nữ sinh nào mà
chàng ta ngầm để ý. Xem bói
xong, chúng tôi thường đến nhà
bạn ở Bình-Can ăn thanh long. Những
trái thanh long vỏ tím hồng
và ruột mát, ngọt tự nhiên,
bây giờ nghĩ đến cũng bắt thèm. Từ
quốc lộ vào làng, chúng
tôi phải đạp xe hàng dọc trên
bờ ruộng khô. Những bờ ruộng này chia
cách cánh đồng lúa mênh
mông thành những thửa ruộng
vuông vắn. Cuối những thửa ruộng ấy
là lũy tre già. Bên kia lũy
tre, dòng sông Cái lặng lờ
xuôi ra biển, lưu lại đấy từng đụn
cát im lìm.
Trên đường về, chúng tôi
không quên ghé Phú-Vinh
thăm bác Lê-văn-Đào,
giáo sư Anh văn và cũng là
ngón đàn vĩ cầm, một thời với Ba
tôi ở Hội Mỹ-Thuật Nha-Trang. Chúng
tôi cũng ghé thăm chú
Vân-Sơn, người có ngón
đàn Hạ-uy-cầm tuyệt vời của ban ca nhạc
Bình-Minh, đài phát thanh
Nha-Trang.
Sau đó chúng tôi
ghé Chợ-Mới uống nước dừa tươi. Ôi!
Những trái dừa xiêm nho nhỏ, xinh
xinh, vừa tới độ “nạo” đã cho chúng
tôi từng miếng dừa non beo béo,
dòn dòn và từng ngụm nước dừa
trong, mát, ngọt mà bất cứ loại giải
khát nào trên hành tinh
này cũng không thể sánh bằng. Ngoài cái thú uống
nước dừa, nam sinh còn thích
ghé Chợ-Mới để ngắm những người con
gái có làn da mỏng, trắng
và mịn như da con gái Dalat.
Riêng tôi, tôi thích
ghé Chợ-mới để thỏa mãn khứu
giác vì mùi cam sành,
mùi xoài chín cây,
mùi hoa chanh, hoa bưởi. Bưởi ở đây
không mang tên diễm lệ như
Thanh-Trà ở Huế, không ngọt đậm
đà như bưởi Biên-Hòa. Nhưng
bưởi ở đây mọng nước và hương vị
riêng biệt của nó cộng với tý
muối ớt cũng đủ làm cho dịch vị của
chúng tôi tiết ra gấp bội. Từ Chợ-Mới tôi có thể thấy
mái chùa Hải-Đức vươn cao trên
ngọn đồi dày đặc cây táo nhơn.
Bậc cấp cao nghệu trước cổng chùa đã
bao lần đếm bước chân tôi? Gốc
bông sứ bên hông chùa
đã bao lần nghe tiếng tôi “gạo”
bài thi hoà với tiếng mõ nhịp
nhàng thoát ra từ chánh điện?
Mấy chú kỳ nhông có còn
phóng nhanh vào khóm
lá khô khi bất ngờ thấy tôi
đang rón rén hái trộm
đoá ngọc lan?
Nhiều hôm học xong tôi men theo
con đường mòn phía sau chùa
Hải-Đức để sang ngọn đồi lớn; nơi chùa
Phật-học im lìm sau hai hàng
cây khuynh diệp, trường Bồ-Đề nương theo
triền đồi thấp, và chùa Ngọc-Hội ẩn
mình vào cuối ngọn đồi, về
phía Tây. Từ ngọn đồi này
tôi có thể thấy ngôi nhà
thờ cao nghệu ở ngã sáu. Dạo đó, mỗi đêm
Giáng-sinh tôi thường choàng
khăn voan quanh cổ, khoát chiếc áo
lạnh ngắn, đi dọc theo đường Gia-Long, dưới hai
hàng me sầu, rồi men theo bậc cấp bên
hông nhà thờ, lên đến gốc đa,
chỉ để nghe những bài thánh ca.
Cách nhà thờ không xa
lắm, trên đường Nguyễn-Hoàng, Nhơn
có còn cùng Ka-Lăng ru đời
bằng Vần Thơ Sầu Rụng? Dàn hoa mimosa trước
nhà “người” Hạ-uy-cầm Hà-Quang-Đức
có còn nở rộ những đóa
vàng hình tháp chuông?
Cuối đường Thủ-Khoa-Huân, trường trung học
bán công
Lê-Qúy-Đôn có còn
tổ chức những lớp luyện thi toán lý
hóa vào mỗi mùa Hè?
Tôi vẫn nhớ, quanh trường
Lê-Qúy-Đôn, hoa giấy nở rộ
trên dàn, đơm bóng mát
êm đềm trước những ngôi nhà
tĩnh mịch. Nhiều khóm hoa giếng trắng,
tím, hồng mọc hoang trên những
vùng cát trắng, cạnh nhóm
cây thồn bồn. Tôi thích
hái hoa giếng, rút từ giữa
đài hoa cái tim dài và
nhỏ, rồi xoè bàn tay để cái
tim lên, thổi nhẹ một tí là
cái tim quay vòng vòng. Ánh mắt tôi vượt khỏi rặng
dương liễu và dừng lại nơi Trung tâm
huấn luyện Không-quân. Lòng
tôi ngậm ngùi khi nghĩ đến
Nguyễn-Đình-Tân, “dân” B-2,
đã trở về lòng đất từ một cao độ
trùng trùng! Và Nghị, người
thường đi chiếc Vespa xanh xám, đến
nhà tôi mỗi sáng chủ nhật để
nghe ban Bình-Minh tập dượt. Là một
người yêu nhạc, thích nghe nhạc,
nhưng khi Nghị chết chỉ có tiếng phản lực
thét gào!
Đến căn cứ Thủy-quân Lục-chiến
tôi lại nhớ một lần ban Bình-Minh
cùng nhóm học sinh đến đây ủy
lạo binh sĩ theo lời mời của người hùng
Nguyễn-Bá-Liên. Lần đó,
Thúy-Minh đơn ca Em Gắng Chờ của Huỳnh-Anh,
Hoàng-Thu đơn ca Mùa Thái
Hòa, Thanh-Điệp vừa đệm phong cầm vừa
hát bản Dạ-Khúc của Nguyễn-Mỹ-Ca
và nhiều học sinh khác cũng đem niềm
vui đến cho những người lính chiến. Sau
đó, chúng tôi được một sinh
viên sĩ quan Quân-y, bút hiệu
Hoàng-Việt-Sơn, tặng bài thơ Tiếng
Đàn Đêm Trung-Thu mà nay
tôi nhớ không trọn: .... Về
đây tôi đã gặp nàng, Bên bờ
biển đẹp lòng tràn nhớ thương. Đêm Thu
ai hát Nghê thường? Phong cầm
chuyển phím tay hường nhẹ buông. ...... Em về
đâu? Em ở đâu? Cho tôi
nghe mãi tiếng đàn, Tâm
tình giọng hát qua làn
gió đưa. Thúy-Minh,
Thanh-Điệp, Hoàng-Thu, Những
hình bóng cũ bao giờ phai
đâu!...
Bây giờ không biết vị
bác sĩ Quân-y “về
đâu? ở đâu?”, nhưng tôi
biết người hùng Nguyễn-Bá-Liên
đang ở một nơi rất yên bình và
không có hận thù!
Và kia là Trung-tâm
huấn luyện Hải-quân; nơi tôi có
những gắn bó không rời; nơi tôi
hiểu thế nào là lễ nghi quân
cách của một quân chủng nặng truyền
thống trưởng giả; và cũng là nơi
Bùi-Tiết-Qúy, “dân” B-3
và Mùi, “dân bê bối
(B-4) của tôi” đầu quân. Qua khỏi cụm thông già nơi
bệnh xá Hải-quân là Chutt với
những tô phở gà thịt thơm,
bánh phở dai, nước dùng trong vắt
và vài cái trứng non, ăn thơm
thơm, bùi bùi.
Cách hàng phở không xa
là con dốc nhỏ nối liền Chutt với
Cầu-Đá. Tôi thích xuống
Cầu-Đá vào mùa Thu để
nhìn lá bàng bay bay trước
khu phố hẹp và trong vòng rào
Hải-Học-Viện; để nhìn những đợt sóng
triền miên kéo về tung bọt trắng
xóa bên ghềnh đá chơ vơ; để
thấy con tàu an bình nhờ sự
vây bọc của ngọn Corniche de Cauda và
hòn Bảy-Miếu; để thấy mấy chàng
Hải-Quân trong quân phục tiểu lễ
trắng, áo dạ màu xanh đen, rời xe
lam với những bước vội vàng.
Khoảng cách từ hòn Bảy-Miếu
đến mõm núi cuối làng
Xóm-Bóng có thể gọi là
“cửa lớn” của “căn nhà” Nha-Trang,
vì muốn vào Nha-Trang bằng đường
thủy, phải qua vùng biển ấy. Nơi vùng biển ấy, mỗi
sáng, từng đoàn ghe lũ lượt ra khơi
từ Xóm-Bóng, và mỗi chiều,
từng cánh buồm no gió lửng thửng trở
về. Cũng nơi vùng biển ấy, vào những
đêm tối trời, những điểm sáng ly ty
của đoàn ghe câu mực trông rực
rỡ và kỳ bí như những vì sao
lấp lánh trên nền trời đêm.
Trên mõm núi cuối
làng Xóm-Bóng là tu
viện và trường dòng. Không xa
hai chốn trang nghiêm ấy, về hướng Bắc,
là Hòn-Chồng; nơi dường như
lúc nào sóng cũng nổi cơn
cuồng nộ, dội ầm ì vào ghềnh
đá cheo leo. Chính cái
âm thanh vang động này và
hình ảnh những lượn sóng vỡ ra trắng
xóa đã đem đến cho Hòn-Chồng
tính chất hùng vỹ và
lãng mạn. Những lần đến đây tôi
thích ngồi lặng lẽ nhìn những
nhánh rong rêu sậm màu chờn
vờn theo từng lượn sóng rạc rào
trên những phiến đá phẳng, cạnh mặt
nước. Ngoài mấy đụn cát bên bờ
vắng, Hòn-Chồng chỉ có nắng,
gió, đá và sóng. Trong
tiếng thét gào của sóng,
Hòn-Chồng âm thầm ghi lại không
biết bao nhiêu mối tình thơ!
Lui về hướng Tây Nam, tôi thấy
lại vườn ổi ở Lương-Sơn với bác giữ vườn
đôn hậu. Ngày xưa, bất cứ toán
học sinh nào đến đây, chỉ trao cho
bác ít tiền tượng trưng là
có thể ăn tại chỗ bao nhiêu cũng
được. Ổi ở đây không lớn như ổi ở Bac
Mỹ-Thuận hay Bac Vàm-Cống. Nhưng ổi ở
đây da mởn, vị đậm đà, ruột đỏ hồng.
Những trái ổi chín cây lại
có mùi thơm ngọt ngào,
lúc nào cũng quyến rũ lũ chim non.
Và đây, Tháp-Bà
ngào ngạc trầm hương đang soi mình
bên dòng sông Cái. Từ
chân cầu Xóm-Bóng lên
đến chánh điện không biết phải qua
bao nhiêu bậc cấp, nhưng những người hoang
mang trước nhiều uẩn khúc của dòng
đời đầy hệ lụy đã tìm đến đây
cầu nguyện, xin xăm. Vào dịp Tết hay cuối
tuần, khung cảnh Tháp-Bà tấp nập
hơn, vì lũ học trò như chúng
tôi thường đến đây chụp hình,
xin xăm và hái lộc.
Rời khóm cây đầy bóng
mát và mấy tàng phượng vỹ đỏ
rực quanh Tháp-Bà, ánh mắt
tôi dừng lại một chốc nơi hòn
Đá-Chữ chơ vơ giữa lòng sông
Cái. Trên hòn Đá-Chữ,
một cây Bồ-đề nhỏ nhắn, lẻ loi!
Nếu cây Bồ-đề trên hòn
Đá-Chữ xinh như loại cây trong chậu
kiểng, thì cây Bồ-đề trên miếu
Sinh-Trung lại sum sê, um tùm như
cây cổ thụ. Từ mặt đường lên đến cổ
thụ này cũng phải qua nhiều bậc cấp ven
triền đồi. Từ đồi này nhìn xuống cửa
sông Cái, doi Xóm-Cồn lặng lẽ
với những mái nhà lụp xụp dưới rặng
dừa xanh. Xóm-Cồn im lìm bao
nhiêu thì trên đồi này
cảnh vật cũng tĩnh mịch bấy nhiêu, tuy dưới
chân đồi là bến xe đò
Sinh-Trung nhộn nhịp, xô bồ.
Đối diện với bến xe Sinh-Trung là
Rọc-Rau-Muống; nơi rau muống được trồng từng ao,
từng ruộng, lan mãi đến đường
Trần-Qúy-Cáp. Chính sự hiện
diện của những ruộng rau muống đã tạo
nên giao điểm của sự khác biệt nơi
đường Trần-Qúy-Cáp: Một bên
thì, Nha-Trang tấp nập, Nha-Trang yêu
kiều, Nha-Trang lộng gió; và
bên kia là vùng quê
êm đềm bên những ruộng rau muống xanh
ngút ngàn.
Nhắc đến đường Trần-Qúy-Cáp
là nhắc đế tiệm nem Ninh-Hòa với
những chiếc nem chua nho nhỏ, chỉ đủ vừa cắn
làm đôi; những cuốn chả ram
dòn rụm, có con tôm ở giữa;
những lụi nem nướng bốc khói trên
lò than hồng; và những đòn
chả lụa nóng, dai, thơm mùi
lá chuối.
Mỗi món ăn có một mùi
thơm riêng biệt. Như mùi thơm của chả
lụa không thể nào giống được
mùi thơm của tô phở Chutt. Và
hương vị phở Chutt cũng hoàn toàn
khác với hương vị phở Bắc chính
thống của tiệm phở Hợp-Lợi, cũng trên đường
Trần-Qúy-Cáp, gần đường rẽ
vào Phường-Củi.
Con đường vào Phường-Củi khởi đầu từ
đường Gia-Long, men theo công trường
Trịnh-Minh-Thế trước sân ga, cắt đường
Yersin, Hoàng-Tử-Cảnh, Độc-Lập và
Trần-Qúy-Cáp. Nhờ vậy, từ phở
Hợp-Lợi, nếu muốn sang đường Độc-Lập, chỉ cần đi
vòng tiệm bánh Thanh-Vân
là đến.
Đầu đường Độc-Lập, trước công trường
Trịnh-Minh-Thế, là nơi ngày xưa
tôi thường chen lấn, cố tìm một chỗ
gần lề đường để xem duyệt binh. Lớn hơn một
chút, tôi không đến đầu đường
Độc-Lập để xem diễn hành nữa, mà
tôi đến để mua sách, mua bản nhạc tại
nhà sách Kim-Anh. Tôi vẫn nhớ
chị bán sách tên Tuyền,
có mái tóc rất dài
và mượt như tơ. Cũng nơi đây, tiếng
phong cầm dồn dập của
Hoàng-Đình-Phiên nghe chẳng
khác chi tiếng đàn chuyên
nghiệp của Trần-Văn-Lý. Ngoài ra,
vào những lúc tinh thần chùng
thấp, Phiên cũng thích ru hồn bằng
tiếng vĩ cầm thiết tha. Phiên là
“linh hồn” của ban Gió-Mùa,
đài phát thanh Nha-Trang. Nhưng mỗi
khi Ba tôi - cụ Điệp-Linh - yêu cầu,
Phiên cũng tăng cường cho ban
Bình-Minh.
Xuôi theo đường Độc-Lập, chưa đến rạp
xi-nê Tân-Tân, nhưng khứu
giác của tôi bắt đầu “báo
động”Ï liên tục vì mùi
thức ăn từ nhà hàng
Dân-Thiên; nơi xuất phát những
món ăn Tây chỉ thua nhà
hàng Frigate ở bưu điện chút
xíu thôi. Nhìn mấy bích
chương đồ sộ treo ngay trước rạp
Tân-Tân, không làm sao
tôi không nhớ những xấp chương
trình xi-nê mà thời đó
chúng tôi rất thích cất giữ
như cất giữ “Lưu bút ngày xanh” vậy.
Tờ chương trình nào có in bản
nhạc là chúng tôi tập
hát ngay. Những bản nhạc được ưa chuộng
lúc bấy giờ là Rivière Sans
Retour, Bernadine, Letters In The Sand, Soyonara,
Only you, v. v...
Nhắc đến mấy bản nhạc này
không làm sao tôi không
nghĩ đến bác Nguyễn-Hữu-Dưỡng, giáo
sư toán và cũng là
ngón đàn vĩ cầm cùng thời với
Ba tôi trong Hội Mỹ-Thuật Nha-Trang.
Cách rạp Tân-Tân chỉ
vài căn phố là ngã tư Độc-Lập
và đường Nhà-Thờ. Nơi đây
lúc nào lời ca và nhạc Ấn-Độ
cũng vang dội từ máy khuyếch đại âm
thanh đặt ngay trước rạp Tân-Tiến. Vốn
không thích nhạc và phim Ấn-Độ
và cũng không thích thưởng
thức nhạc một cách ồn ào,
không bao giờ tôi đến rạp
Tân-Tiến để xem xi-nê mà chỉ
đến vì... hủ tiếu, mì, sâm bổ
lượng và các món chè.
Nếu Sài-Gòn có Chợ-Cũ với
những món ăn vặt rất hấp dẫn của mấy
chú Ba-Tàu thì Nha-Trang
có khu vực chung quanh rạp Tân-Tiến.
Rời khu vực này, chỉ cần qua khỏi
Garage Charner, tôi đã thấy lại
cái quán nhỏ của ông
Tàu già chuyên bán sữa
đậu nành và pa-tê-sô,
ngay ngã ba Độc-Lập và
Công-Quán. Ngày xưa, mỗi khi
thâu thanh hoặc phát thanh trực tiếp
xong, Ba tôi thường đưa toàn ban
Bình-Minh đến quán này uống
sữa đậu nành. Những lần đó,
chú Phan-Phi-Phụng, giáo sư trường
Kỹ-Thuật và cũng là người chơi Banjo
Alto với cả ngón út của bàn
tay trái, thường kể những mẫu chuyện rất
ý nhị.
Từ quán ông Tàu
già, thấy ánh đèn sáng
rực trước rạp xi-nê Minh-Châu,
tôi bùi ngùi nhớ lại giọng
hát, tiếng đàn của những nghệ sĩ
tài tử của trường Võ-Tánh
cũng như của ban Bình-Minh vào những
dịp tổ chức xi-nê có phụ diễn
tân nhạc để gây qũy. Những lần
đó, Thanh-Điệp độc tấu phong cầm những bản
Conserto của J. Rosas, Ivanovici, J. Strauss,
v.v..., và Nguyệt-Thu không bao giờ
đơn ca Sérénata mà
không có tiếng vĩ cầm réo rắc
của Phạm-Đình-Phê. Một lần, cũng tại
rạp này, Ka-Lăng, Thanh-Điệp,
Bích-Khuê, Bích-Khê
cùng Thọ và Luân trong trường
ca Hội-Trùng-Dương của
Phạm-Đình-Chương, hòa âm của
Nghiêm-Phú-Phi, đã đem giải
nhất trong cuộc thi văn nghệ toàn miền
Trung về cho trường Võ-Tánh.
Qua khỏi rạp Minh-Châu, nơi
góc đường Công-Quán và
Yersin, hàng cây khuynh diệp trước
ngôi nhà của nhạc sĩ Minh-Kỳ đang
lã mình trong gió. Giờ
đây Minh-Kỳ không còn nữa, thảo
nào hàng khuynh diệp thì thầm
tiếc thương! Từ nhà nhạc sĩ Minh-Kỳ có
thể nghe tiếng Dalida trong bản Bambino
phát ra vang dội từ máy khuếch đại
âm thanh nơi rạp Tân-Quang, ngay
ngã sáu Nhà-đèn. Xeo
xéo Nhà-đèn, trên đường
Quang-Trung, là ngôi nhà của
Hoàng-Cầm, tiếng hát nhà
nghề.
Từ đây trở ra đường Độc-Lập, quẹo
phải là đầu đường Phan-Bội-Châu; nơi
có căn lầu hai tầng của Trần-Nam, người
có biệt tài xử dụng
Tây-ban-cầm giả tiếng Đại-hồ-cầm mà
bất cứ người nào có trình độ
thẩm âm cao thế mấy đi nữa cũng khó
có thể phân biệt. Nhưng đó chỉ
là sở đoản của Trần-Nam thôi; sở
trường của Trần-Nam là tiếng Clarinette
trầm và đục.
Qua khỏi nhà Trần-Nam khoảng
vài căn phố là ngôi nhà
hai tầng của Thérèse Scott; người
đã đơn ca bản Giòng Sông Xanh,
phát thanh trực tiếp vào hôm
khai mạc đài phát thanh Nha-Trang.
Hôm đó Thanh-Điệp cũng đơn ca Trở Về
Thôn Cũ của Nhị-Hà. Sát
bên nhà Thérèse Scott
là cửa hàng của gia đình
Thúy-Minh và Hoàng-Thu, hai
giọng nữ của ban Bình-Minh.
Xuôi theo đường Phan-Bội-Châu,
qua khỏi rạp Modern, là khu phố sầm uất
nhất của Nha-Trang. Vào những ngày
trước Tết, chợ Tết thường được tổ chức trong
lòng phố này, chiếm hẳn khoảng đường
từ rạp Modern đến Toà án. Ban
ngày chợ Tết thường đông người lớn
tuổi đi mua sắm. Ban đêm là thời gian
của người trẻ và lính. Cứ mỗi chiều,
xe GMC từ các trung tâm huấn luyện
Không-quân, Hải-quân, Đồng-đế
kéo về, “Äđổ” xuống cạnh chợ Tết
không biết bao nhiêu là
sinh-viên sĩ-quan và lính. Nhờ
vậy, lúc nào chợ Tết cũng mang sắc
thái vui tươi, nhộn nhịp.
Mỗi lần đi chợ Tết, chúng tôi
thường chọn những chiếc áo dài vừa
ý nhất, những chiếc áo lạnh hợp thời
nhất và thế nào cũng choàng
những chiếc khăn voan hợp với màu
áo. Chúng tôi thích đi
từng hai hay ba đứa với nhau, vừa đi chầm chậm vừa
cắn hạt dưa vừa nói chuyện thầm thì.
Thời đó, trong nhóm chúng
tôi ít đứa được phép trang
điểm, nên chúng tôi rất
thích cắn hạt dưa cho môi hồng hồng.
Chúng tôi, và hầu như tất cả
mọi người đi chợ Tết ban đêm, cứ lượn
lên lượn xuống dọc theo hai hè phố
tràn ngập ánh sáng, rực rỡ
lụa là, thơm mùi bánh mứt
và lanh lảnh tiếng chào mời của mấy
cô bán hàng xinh xinh. Khi
nào biết “bị” người khác phái
để ý và đi theo, chúng
tôi thích thú trong
lòng nhưng không hiểu tại sao lại cứ
lẫn vào mấy cửa hàng để... trốn! Một trong những
nơi chúng tôi thường trốn là
căn phố hai tầng của Mầu, ngay trước chợ Đầm. Mầu
là “tay” Saxophone nồng cốt của ban
Bình-Minh. Nếu ai đã nghe tiếng
Saxophone Alto của Mầu nức nở từng hồi trong bản
J’ai Rêvé De Vous, người đó sẽ
không còn muốn nghe tiếng Saxo. của
ai khác nữa, ngay như của Louis Amstrong!
Cách nhà Mầu một con đường
nhỏ dẫn ra biển là cửa hàng
và khách sạn của gia đình
chú Huỳnh-Anh; người sử dụng đại-hồ-cầm độc
nhất của Nha-Trang thời bấy giờ. Ngày xưa,
mỗi tối đi học Anh-văn ở Thanh-Thương-Hội, gần
Tòa Tỉnh, tôi thường đạp xe đạp qua
đây và thấy chú Huỳnh-Anh ngồi
đọc sách hoặc hút thuốc ngay dưới
trụ đèn đường. Về sau, các lớp
Anh-văn ở Thanh-Thương-Hội không còn
nữa, cũng như chú Thu-Hoài - giọng
ca nồng nàn, ấm áp nhất của
Nha-Trang vào thời điểm đó -
đã giã từ tiểu đoàn Bảo-an
phòng vệ Tòa Tỉnh.
Vì đài phát thanh nằm
trong khuôn viên Tòa Tỉnh cho
nên, ngày đó, trước hoặc sau
khi thâu thanh, tôi thích lang
thang quanh những con đường rợp bóng
cây bàng để thỉnh thoảng nghe tiếng
trái bàng rơi trên mặt đường.
Trước đài phát thanh,
bên trái, cuối giải cát
vàng là Xóm-Cồn; nơi
có Đài thiên-văn Yersin.
Bên phải, con đường Duy-Tân uốn
mình bên giải cát mềm
và hàng thông cằn cỗi.
Cạnh những hàng thông
này, dạo vừa cùng gia đình từ
Dalat dời về Nha-Trang, mỗi chiều chủ nhật,
tôi thích đến để nghe ban nhạc
“Kèn đồng” (quân nhạc) của
Hải-Quân hòa nhạc. Thỉnh thoảng,
khán giả cũng “nổi máu nghệ sĩ”,
tình nguyện hát một bản. Lúc
ấy tôi chỉ hơn mười tuổi. Nhưng khi nghe một
người hát bản Viễn-Du tôi vẫn hiểu
bản ấy không nên hát với ban
nhạc “Kèn đồng” và trong khung cảnh
này. Tuy vậy, lời ca, tiếng nhạc cũng dẫn
dắt hồn tôi đi thật xa. Nhìn trời
lồng lộng, nhìn biển mênh mông
và nhìn quân phục tiểu lễ
trắng của nhạc công, tôi thích.
Tôi buồn. Và tôi ước mơ!
Dọc theo đường Duy-Tân là viện
Pasteur, Khu Công-chánh, nhà
hàng Beau Rivage, Grand hotel, v. v...
Nhưng nơi tôi thích nhất là
ngã ba Duy-Tân và đường
Bá-Đa-Lộc, vì đường này chạy
ngang ngôi trường thân yêu của
tôi: Trường trung học Võ-Tánh.
Trường Võ-Tánh là
tòa nhà đồ sộ hai tầng, mái
lợp bằng ngói đỏ, tường sơn màu
trứng sáo. Trong sân trường trồng
nhiều cây sao, nhưng cây còn
nhỏ, chưa tỏa được bóng mát um
tùm như hai hàng cây sao dọc
theo đường Bá-Đa-Lộc. Trường tôi
không giàu nên sân trước
không được tráng xi-măng mà
chỉ được “nện” bằng đất đỏ, sân sau
là bãi cát trống, đầy hoa
giếng và cây thồn bồn. Trên
bãi cát này, ngày xưa,
học sinh thường dựng sân khấu lộ thiên
để trình diễn văn nghệ vào những dịp
bãi trường hoặc mừng Xuân.
Đối diện với trường Võ-Tánh,
cách một khoảng đất trống và đường
Yersin, là sân vận động; nơi
tôi thường theo Ba tôi đi xem
đá banh, để thấy Ba tôi lăng xăng
phỏng vấn, viết bài cho tờ
Đuốc-Thiêng.
Từ sân vận động, theo đường Yersin
ngược lên phía ga xe lửa, tôi
bỗng lặng người khi thấy lại ngôi nhà
cũ - nơi chị em tôi lớn lên trong
vòng tay thương yêu của người Mẹ rất
đẹp và trẻ cho đến độ ai cũng tưởng
Bà là chị tôi; và người
Cha mang giòng máu nghệ sĩ nhưng
sống khắc khổ như vị chân tu! Cách nhà tôi độ
vài gốc cây muồng là
khách sạn Phụng-Hoàng; nơi
Hàn-Phong-Cao đã lớn lên,
đã ca vang những ca khúc tình
tự dân tộc và đã đưa tiếng ca
ngọt ngào ấy theo từng vết lăn của
đoàn Kỵ-Binh.
Xéo góc với khách sạn
Phụng-Hoàng, trên đường Gia-Long,
là ngôi nhà của Thanh-Hoa,
người có giọng soprano cao vút, cũng
trong ban Bình-Minh. Cùng với tiếng
vĩ cầm lảnh lót của
Phạm-Đình-Phê, tiếng hát
Thanh-Hoa đã làm say đắm không
biết bao nhiêu tâm hồn yêu nhạc
trong sầu khúc cổ điển
Sénérade của Schubert.
Trong nỗi nhớ khôn cùng,
tôi tưởng như tôi thấy lại tôi
của những lần chơi vũ cầu trong sân, hoặc
tập xe đạp trên đường Yersin, té lăn
nhào trong tiếng cười rộ của đám bạn
cùng lứa. Ngày đó, nếu đường
Yersin cho tôi những tràng cười hồn
nhiên của tuổi ấu thơ thì khi
tôi lớn hơn một chút, đường Gia-Long
lại cho tôi những bâng khuâng,
nhung nhớ ngập lòng, vì tiếng
còi của những chuyến tàu đêm.
Đối với tôi, Nha-Trang tươi thắm nhất
là khi những tia nắng đầu ngày vừa
le lói cuối vùng biển xanh,
và Nha-Trang dịu dàng nhất là
thời gian trước khi màn đêm về.
Vì lẽ đó, tôi thích
lang thang một mình trên ngọn đồi sau
chùa Hải-Đức để nhìn những tia nắng
cuối cùng của một ngày còn
bịn rịn trên ngọn Corniche de Cauda trong
khi cả một vùng không gian rộng lớn
đang từ từ chìm vào màn
đêm.
Bây giờ, tuy đã xa Nha-Trang
gần một phần tư thế kỷ, nhưng đôi khi, từ
vùng “a-lại-gia-thức” sâu thẳm,
tôi vẫn như thấy được những tia nắng hấp hối
trên đỉnh Corniche de Cauda. Những
lúc ấy, hồn tôi rỗng lặng để cảm nhận
được tất cả vẻ đẹp hùng vỹ của quê
Nội thân yêu./. ĐIỆP-MỸ-LINH (Trích
từ Tập Truyện Tưởng Như Trở Về) Nhóm mạng Việt
Nam Văn Hiến
Trang: Tưởng Như Trở Về www.vietnamvanhien.net www.vietnamvanhien.org www.vietnamvanhien.info www.vietnamvanhien.com Email: thuky@vietnamvanhien.net
Lấy Tâm Lực thay cho vũ lực để giải trừ quốc nạn là phục hoạt nếp sống Văn Hiến và phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc. |