HỘI
LUẬN TẠI BẮC CALI VỀ VỤ TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG
Đề
Tài
1-
Hoàng Sa Trường Sa Theo Chình Sử Trung Quốc
2- Chúng Ta Đã Góp Được Gì Cho Một Giải
Pháp
3- ASEAN Vởi Triển Vọng Giải Quyết Tranh Chấp Biển Đông
|
Hoàng
Sa
Trường
Sa Theo Chính Sử Trung Quốc
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống
Năm 1939 Nhật Bản phát động Chiến
Tranh
Thái Bình Dương, chiếm 3 đảo tại Hoàng Sa
và ra Tuyên Cáo đòi chủ quyền tại
Hoàng Sa Trường Sa. Đây là một hành
động xâm lăng võ trang để kết hợp Mặt Trận Hoa Nam
với Mặt Trận Đông Bắc tại Nam Kinh Thượng Hải. Trước nguy cơ đe
dọa an ninh lãnh thổ, Trung Quốc không lên tiếng
phản đối. Và như vậy đã khước từ chủ quyền tại
Hoàng Sa Trường Sa.
Tháng 4-1956, thừa dịp quân đội
Pháp rút khỏi Việt Nam theo Hiệp Định Geneva 1954, Trung
Quốc chiếm 7 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm An Vĩnh phía
đông bắc. Và tháng 1-1974, thừa dịp quân đội
Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam theo Hiệp Định Paris 1973, Trung Quốc
vận dụng toàn lực chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm
Lưỡi Liềm phía tây nam.
Từ Paris Giáo Sư Hoàng Xuân
Hãn nhận định rằng: “Hoàng Sa là đất của nước Việt
Nam thống nhất. Khi Việt Nam còn chia đôi thì
chúng ta không có tư thế để điều đình
đòi lại quần đảo này”. Do đó muốn
giành lại chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa phải có sự
đoàn kết quốc dân trong một quốc gia thống nhất.
Từ
1974
đến nay đã 36 năm, thời gian cho biết nhận định
này đã tỏ ra không chính xác.
Vì
ngày
nay đất nước ta đã thống nhất. Và
toàn dân ta, với trên 85 triệu người Việt trong
và ngoài nước, đã đồng tâm nhất trí
đứng lên đấu tranh đòi lại những hải đảo và hải
phận đã mất. Vậy mà, theo chiều hướng hiện tại,
càng ngày chúng ta càng mất chủ quyền
lãnh thổ tại Biển Đông Hải. Lý do không phải
vì đất nước chúng ta bị qua phân, mà vì
chúng
ta
có một chính quyền đi trái
lòng dân. Đảng Cộng Sản không cho người
dân đứng lên đấu tranh bảo toàn đất tổ và
hành sử quyền yêu nước bằng những cuộc biểu dương lực
lượng quy mô và đồng loạt khắp nơi trên thế giới
làm chấn động dư luận quốc tế và cảnh tỉnh lương
tri nhân loại. Đồng thời gây áp lực buộc kẻ
xâm lược phải chùn bước xâm lăng và phải
tôn trọng danh dự và chữ ký của họ. Và phải
ngồi vào bàn hội nghị để các cơ quan quốc tế
đưa ra những giải pháp công bằng và hợp lý
theo tinh thần và bản văn Công Ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển mà Trung Quốc đã ký
kết năm 1982 cùng với Việt Nam và 117 quốc gia
khác. Công Ước này có hiệu lực chấp
hành từ năm 1994. Qua năm 1995 có hơn 170 quốc gia
đã ký kết và tham gia Công Ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Cũng như Công Ước Quốc Tế về Những
Quyền Dân Sự và Chính Trị 1966, đây là
một văn kiện chính thức về chính sử mà hầu
hết các quốc gia trên thế giới phải tôn trọng
và thực thi.
Địa
cầu
gồm 7 phần nước và 3 phần đất. Nếu có các
Công Ước Quốc Tế cho Con Người tại các lục địa thì
cũng phải có Công Ước Quốc Tế về Luật Biển cho các
Quốc Gia.
Để
giải
quyết những tranh chấp về hải phận và hải đảo, phải đặt
vấn đề trên 3 bình diện: pháp lý, địa
lý và lịch sử. Ở đây, cả 3 bình diện được
tập trung trong một văn kiện duy nhất: Đó là
Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Công Ước
này là một tài liệu lịch sử và
đồng thời là một trong những văn kiện pháp lý
quan trọng nhất trong lịch sử loài người.
Theo Công Ước sự phân định chủ quyền hải
phận và các hải đảo còn phải căn cứ vào vị
trí
địa
lý là khoảng cách tính
từ bờ biển.
Hai
nguyên
tắc hướng dẫn Luật Biển là:
1.
Dành cho các quốc gia duyên hải quyền
đánh
cá
và khai thác dầu khí tại
vủng biển gần bờ.
2.
Duy trì tự do hàng hải tại
vùng biển ngoài hải phận của các quốc gia
duyên hải.
Công Ước Luật Biển gồm 200 trang và 400
điều. Để có một ý niệm tổng quát chúng ta
tham chiếu vào 2 điều: Điều 76 về Thềm Lục Địa; và
Điều 8 về Biển Lịch Sử.
A.
Điều 76 về Thềm Lục Địa
Chiếu Điều 76 Công Ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển các quốc gia duyên hải
được hưởng quy chế Thềm Lục Địa 200 hải lý (370km) để
thăm dò và khai thác dầu khí. Đây
là chủ quyền tuyệt đối và đặc quyền chuyên hữu,
không
tùy
thuộc vào điều kiện phải có sự
chiếm hữu, khai phá hay công bố minh thị. Mọi sự tự
tiện chiếm cứ của ngoại bang, dầu có võ trang hay
không, đều bất hợp pháp, vô giá trị và
vô hiệu lực. Trong Thế Chiến II Nhật Bản chiếm Hoàng
Sa Trường Sa thuộc hải phận của các quốc gia duyên hải tại
Đông Nam Á như Việt Nam, Nam Dương, Mã Lai, Phi
Luật Tân và Trung Hoa. Sự chiếm cứ này không
có giá trị pháp lý. Khi Chiến Tranh chấm
dứt các Quốc Gia Đồng Minh công nhận Quốc Gia Việt Nam
có chủ quyền tại các hải đảo Hoàng Sa Trường Sa
trong Hội Nghị Hòa Bình San Francisco 1951.
Vùng hải phận của các
quốc gia duyên hải gồm có Đường Căn Bản hay Đường Cơ Sở
(Baselines) cùng với Biển Lãnh Thổ (Territorial Sea)
và Thềm Lục Địa (Continental Shelf) đồng thời là
Vùng Đặc Quyền Kinh Tế (đánh cá) (Exclusive
Economic Zone).
1.
Đường Căn Bản thông thường là lằn mức
thủy triều xuống thấp. Vùng bờ biển Việt Nam có nhiều
cù lao hay cồn đảo như Cù Lao Chàm tại Quảng Nam,
Cù Lao Ré tại Quảng Ngãi, Cù Lao Hòn
tại Phan Thiết cùng các đảo Phú Quý,
Côn Sơn và Phú Quốc tại miền đông nam
và cực nam. Trong trường hợp này Việt Nam có thể
vẽ Đường Căn Bản từ 8 đến 15 hải lý (Cù Lao Ré
cách bờ biển Quảng Ngãi 12 hải lý).
2.
Biển Lãnh Thổ rộng 12 hải lý
là vùng biển nối tiếp Đường Căn Bản ra khơi.
3.
Thềm Lục Địa Pháp Lý 200 hải
lý trùng điệp với Vùng Đặc Quyền Kinh Tế
(đánh cá).
4.
Thềm Lục Địa Địa Chất hay Thềm Lục Địa
Mở Rộng có thể đến 350 hải lý. Về mặt địa chất
và địa hình, đáy biển Hoàng Sa
là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền
kéo dài ra ngoài biển. Chiếu Điều 76 Luật
Biển, Việt Nam có quyền được Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa
Liên Hiệp Quốc cho mở rộng Thềm Lục Địa Pháp Lý 200
hải lý thành Thềm Lục Địa Địa Chất hay Thềm Lục Địa
Mở Rộng đến 350 hải lý (650km).
Theo các chuyên
viên quốc tế như Tiến Sĩ Khoa Học Armand Krempt tại Pháp
và các Luật Sư Covington và Burling tại Hoa Kỳ, về
phương diện khoa học kỹ thuật, Việt Nam có nhiều triển vọng được
mở rộng Thềm Lục Địa tại các vùng biển Hoàng Sa
và Trường Sa từ 200 hải lý đến mức 350 hải lý.
Trong khi chờ đợi Liên Hiệp Quốc
định ranh Thềm Lục Địa Mở Rộng, ngày nay vùng hải phận
luật định của Việt Nam có chiều rộng 200 hải lý Thềm Lục
Địa, cộng 12 hải lý Biển Lãnh Thổ, và khoảng 8 hải
lý Đường Căn Bản, tổng cộng là 220 hải lý.
Về mặt Địa Lý
a.
Tại quần đảo Hoàng Sa, đảo Tri
Tôn chỉ cách Quảng Ngãi 135 hải lý,
và đảo Hoàng Sa chỉ cách lục địa Việt Nam 160 hải
lý. Như vậy quần đảo Hoàng Sa nằm trong Thềm Lục Địa
200 hải lý và trong hải phận 220 hải lý của Việt
Nam.
Tại quần đảo Trường Sa,
Bãi Thanh Long Tứ Chính và đảo Trường Sa chỉ
cách lục địa Việt Nam từ 150 đến 220 hải lý. Vì
vậy Bãi Tứ Chính và đảo Trường Sa nằm trong
Thềm Lục Địa 200 hải lý và hải phận 220 hải lý của
Việt Nam.
Chiếu Điều 76 Công Ước về Luật Biển các
hải
đảo
này thuộc chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam. Bất cứ
sự chiếm đóng nào của ngoại bang (như Nhật Bản
trước kia và Trung Quốc hiện nay) đều vô giá trị
và vô hiệu lực. Hơn nữa, sự xâm chiếm này đi
trái với Điều 2 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (cấm bạo
hành). Những sự chiếm cứ do bạo động võ trang không
có giá trị và hiệu lực pháp lý.
Vì bạo hành, dầu kéo dài bao lâu,
cũng không làm mất tính bạo hành của
nó.
Trong khi đó các
đảo Hoàng Sa cách Hoa Lục 270 hải lý, và các
đảo
Trường
Sa cách lục địa Trung Hoa từ 550 đến 800 hải
lý nên không nằm trong Thềm Lục Địa Trung Hoa.
Về mặt Địa Chất
Năm 1925, Tiến Sĩ Khoa Học Armand Krempt
, Giám Đốc Viện Hải Học Đông Dương, sau 2 năm nghiên
cứu về địa chất (đất đai, cây cỏ và sinh vật), đo đạc
và vẽ bản đồ các hải đảo và đáy biển
Hoàng Sa, đã lập phúc trình để kết luận
rằng: “Về mặt địa chất các đảo Hoàng Sa
là thành phần của Việt Nam”. (Geologiquement les Paracels
font partie du Vietnam). Về mặt địa hình, các đảo
Hoàng Sa là một cao nguyên chìm dưới
đáy biển nối tiếp lục địa Việt Nam. Độ sâu nhất tại
vùng biển Hoàng Sa là 900m. (Trong quá
trình hình thành Biển Đông Hải, mực
nước đã rút xuống 4000m). Ngày nay nếu nước biển
rút xuống 900m thì các đảo Hoàng Sa sẽ biến
thành một dãy hành lang chạy thoai thoải từ Trường
Sơn qua Cù Lao Ré đến các đảo Tri Tôn,
Hoàng Sa và Phú Lâm. (Phúc
Trình Krempt về Hoàng Sa được lưu trữ tại Văn Khố Trường
Viễn Đông Bác Cổ Paris).
Trong khi đó từ Hoàng Sa về lục địa
Trung Hoa có một rãnh biển sâu tới 2300m. Như vậy,
về mặt địa chất và địa hình, đáy biển
Hoàng Sa không phải là sự tiếp nối tự nhiên
của lục địa Trung Hoa từ đất liền ra ngoài biển. Trong trường
hợp này Trung Hoa không được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở
Rộng.
Tại Trường Sa cũng vậy. Tại
Bãi Thanh Long Tứ Chính, nơi khai thác dầu
khí, độ sâu chỉ tới 400m, và tại Đảo Trường Sa
và Cồn An Bang, độ sâu chỉ tới 200m. Như vậy về mặt địa
chất và địa hình, đáy biển Trường Sa là
sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền ra
ngoài biển. Theo quan điểm của các Luật Sư Covington
và Burling trong Bản Tường Trình tháng 6-1995, vùng
biển
Trường
Sa có triển vọng được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở
Rộng quá 200 hải lý đến mức 350 hải lý.
Trong khi đó từ Trường Sa về Hoa Lục
có một rãnh biển sâu tới 4550m. Như vậy
các đảo Trường Sa không phải là sự tiếp nối tự
nhiên của lục địa Trung Hoa từ đất liền ra ngoài biển.
Và Trung Quốc không được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở
Rộng 350 hải lý. Dầu sao, trong mọi trường hợp, khoảng
cách từ Hoa Lục tới đảo Trường Sa là 750 hải
lý (quá xa tầm 350 hải lý Thềm Lục Địa Mở Rộng nếu
có).
Tháng 5-2009 là thời hạn chót
để các quốc gia duyên hải đệ nạp Bản Phúc
Trình về Thềm Lục Địa Mở Rộng căn cứ vào những yếu tố
khoa học kỹ thuật do Liên Hiệp Quốc ấn định. Thay vì đệ
trình hồ sơ Thềm Lục Địa Mở Rộng, Trung Quốc chỉ nạp tấm bản đồ
hình chữ U mà họ gọi là Biên Thùy
Chiến Lược của Trung Quốc. Tuy nhiên “biên thùy”
này cách xa bờ biển Trung Hoa đến 2000km nên
không được chấp nhận là biên thùy của một lục
địa (Trung Hoa) hay biên thùy của một hải đảo (Hải Nam).
Vì không nêu ra được một yếu tố pháp
lý, địa lý hay lịch sử nào đáng tin
cậy để đòi chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa
nên Trung Quốc lý sự rằng vùng hải phận này
là Biển Lịch Sử của Trung Quốc từ hàng ngàn năm
nay.
B.
Điều 8 về Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc.
Bắc Kinh gọi Biển Lịch Sử là Lưỡi Rồng Trung
Quốc (nhưng dân gian chỉ gọi là Lưỡi Bò). Nó
chiếm 80% hải phận Biển Đông Nam Á và nằm
sát bờ biển các quốc gia duyên hải, cách
Quảng Ngãi 40 hải lý, cách Phi Luật
Tân và Mã Lai 25 hải lý. Nó
tước đoạt ít nhất 160 hải lý của Thềm Lục Địa
Pháp Lý Việt Nam, và 175 hải lý của
các Thềm Lục Địa Pháp Lý Phi Luật Tân
và Mã Lai. Đây hiển nhiên là sự vi
phạm thô bạo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
dành chủ quyền chuyên biệt cho các quốc gia
duyên hải được hưởng tối thiểu 200 hải lý Thềm Lục
Địa Pháp Lý để thăm dò và khai thác
dầu khí, kể cả 12 hải lý Biển Lãnh Thổ nối
tiếp Đường Căn Bản từ bờ biển ra khơi.
Ngày nay Thuyết Biển Lịch Sử của Trung Quốc
đã bị Luật Pháp và Tòa Án bác
bỏ. Theo Tòa Án Quốc Tế “biển lịch sử chỉ là
nội hải”.
Chiếu Điều 8 Công Ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển: “Ngoại trừ trường hợp các quốc gia quần
đảo [như Phi Luật Tân hay Nhật Bản], biển lịch sử hay nội
hải của một quốc gia nằm trên đất liền, về phía
bên trong Đường Căn Bản của Biển Lãnh Thổ” (The
International Court of Justice has defined “historic waters as internal
waters”. Waters on the landward side of the baseline of the Territorial
Sea form part of the internal waters of the State” Art. 8 LOS
Convention 1982).
Theo học giả Mark J. Valencia tại Viện Hải
Học Đông Tây Hawaii (East-West Institute) yêu
sách của Trung Quốc về Biển Lịch Sử không được Luật
Pháp và Tòa Án chấp nhận. Ngày nay
càng ngày dư luận quốc tế càng phê
phán và chế giễu Lưỡi Rồng Trung Quốc là
khôi hài và lố bịch (China’s claim is being
increasingly criticized and even ridiculed: China and the South China
Sea Disputes, Mark J. Valencia, Oxford University Press. October 1995).
Theo quan điểm của các Luật Sư Covington
và Burling đăng trên Asian Wall Street Journal
tháng 6-1995 “lập trường của Trung Quốc hoàn
toàn đi trái với những điều khoản căn bản về Luật Quốc Tế”
[như Điều 76 và Điều 8 Công Ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển].
Cũng trên Asian Wall Street Journal
tháng 7-1995, người viết, nhân danh Hội Luật Gia
Việt Nam tại California, đã đệ trình các vị
nguyên thủ quốc gia trong tổ chức ASEAN bản tường
trình về vấn đề tranh chấp tại Biển Đông Nam Á
trên phương diện pháp lý và địa lý.
Theo các quan sát viên quốc tế
văn thư này đưa ra giải đáp về pháp lý, địa
lý và lịch sử cho vấn đề tranh chấp giữa các quốc
gia Đông Nam Á và Trung Quốc. Bằng phương thức tranh
nghị
để
đi đến hòa bình. (Paracels Forum: The
Discussion Proceeds for Peace: Asian Wall Street Journal, July 1995)
Như vậy về cả 3 phương diện pháp lý,
địa lý và lịch sử, Trung Quốc không
trình được một lý lẽ hay tài liệu đáng tin
cậy nào để chứng minh rằng Hoàng Sa Trường Sa thuộc chủ
quyền của họ. Với chính sách bá quyền, Đế Quốc Đại
Hán đã rập theo khuôn mẫu trước kia của Đế Quốc
La Mã đòi chủ quyền lãnh thổ toàn
vùng Biển Địa Trung Hải mà họ gọi là “Biển
Lịch
Sử
Của Chúng Tôi!”. Đây là một quan
niệm lỗi thời từ hàng ngàn năm nay.
Về điểm này chúng ta nhắn nhủ
nhà cầm quyền Bắc Kinh rằng: Trong thế kỷ này và
dưới vòm trời này, không có điều gì,
việc gì, hay vấn đề gì là bất khả tranh nghị. Về
mặt tinh thần, văn hóa và đạo lý, Trung Quốc
không thể nói một đàng làm một nẻo. Họ phải tôn
trọng
danh
dự quốc gia và chữ ký của họ trong
Công Ước. Họ phải công khai hóa vụ tranh chấp
và phải đưa ra trước thanh thiên bạch nhật những
tài liệu và quan điểm cho biết tại sao và căn cứ
vào đâu mà đòi tước đoạt chủ quyền
lãnh thổ của các quốc gia Đông Nam Á tại
các thềm lục địa như đã quy định trong Công Ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 mà họ đã
ký kết tham gia với tư cách một trong Ngũ Cường hội
viên thường trực Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết? Nếu
không đưa ra được sự giải thích hợp lý và
các cơ sở pháp lý thì Trung Quốc vẫn
chỉ là kẻ sài Luật Rừng Xanh theo chủ trương Mạnh Được
Yếu Thua của loài cầm thú. Để tước đoạt 4/5 Thềm Lục
Địa Pháp Lý của Việt Nam, và 7/8 Thềm Lục Địa
Pháp Lý của Phi Luật Tân và Mã
Lai.
Trung Quốc phải hay biết rằng Công
Ước
Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 là một văn kiện
pháp lý đồng thời là một tài liệu
chính sử mà trên 170 quốc gia hội
viên Liên Hiệp Quốc phải tôn trọng và thực
thi.
Ngoài Công Ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển, còn có rất nhiều tài liệu lịch sử
rút ra từ chính sử Trung Quốc theo đó chủ
quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa Trường Sa đã được thừa
nhận bởi các quốc gia trên thế giới.
C.
Trung Quốc Không Có Chủ Quyền lãnh thổ
tại Hoàng Sa Trường Sa
1.
Như đã trình bầy, năm 1939,
Chính Phủ Trùng Khánh không phản đối
hành vi xâm lăng của Nhật Bản tại Biển Đông Hải
và như vậy đã khước từ chủ quyền lãnh thổ
tại Hoàng Sa Trường Sa.
2.
Trong Tuyên Cáo Cairo 1943, Tổng
Thống Tưởng Giới Thạch không đòi Hoàng Sa
Trường Sa, và như vậy cũng đã khước từ chủ
quyền tại hai quần đảo này.
3.
Hội Nghị Hòa Bình San Francisco 1951 không
thừa
nhận
chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa Trường Sa.
Trong một phiên Khoáng Đại Hội Nghị, Ngoại Trưởng
Liên Sô Andrei Gromyko đệ trình Tu Chính
Án yêu cầu trao Trường Sa và Hoàng Sa cho
Trung Quốc. Tu Chính Án này đã bị Đại Hội
bác bỏ với 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận và 1 phiếu trắng.
Sau đó Thủ Tướng Trần Văn Hữu, Trưởng
Phái
Đoàn
Quốc Gia Việt Nam lên diễn đàn
công bố chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa Trường
Sa và không gặp sự phản kháng nào của 51
quốc gia tham dự Hội Nghị.
4.
Chủ Quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa Trường Sa được
xác nhận trong Hiệp Định Geneva 1954 nơi Điều 4: “Giới
tuyến
giữa
Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam (Vĩ Tuyến 17)
kéo dài ra ngoài hải phận theo một đường thẳng
góc với đường ven biển. Lực lượng Liên Hiệp
Pháp (gồm có Quốc Gia Việt Nam, Pháp và
đồng minh) phải rút khỏi tất cả các hải đảo tại
phía Bắc giới tuyến (Vĩ Tuyến 17). Quân đội Nhân
Dân Việt Nam (Bắc Việt) phải rút khỏi tất cả các
hải đảo tại phía Nam giới tuyến” (Vĩ Tuyến 17) nơi
tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (từ
vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 7, từ Quảng Trị xuống Nam Cà Mau).
Đối với Trung Quốc, Công Ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển 1982 và Hiệp Định Geneva 1954 là những
tài liệu rút ra từ chính sử Trung Quốc.
5.
Ngoài Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển, trong chính sử Trung Quốc còn cuốn “Lịch
Sử Trung Quốc Thời Trung Cổ” do Hàn Lâm Viện
Trung Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm 1978 trong đó
có đoạn như sau: “Suốt chiều dài lịch sử
dân tộc Trung Hoa không tha thiết đến đại dương.
Theo những tài liệu lịch sử chính thống, thản hoặc
nhà cầm quyền Trung Hoa cũng gửi những đoàn thám
hiểm đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ ba và thứ hai
Trước Công Nguyên, và tại Đông Nam
Á, Ấn Độ, Ba Tư và Đông Phi Châu trong thế kỷ
15. Điểm rõ nét nhất là tại Thái
Bình Dương có rất ít, nếu không
nói là không có, những vụ xâm nhập quy
mô của Trung Quốc” suốt chiều dài lịch sử từ đời Đế Quốc
Tần Hán thế kỷ thứ ba Trước C. N. đến đời Nhà Thanh từ
thế kỷ 17 đến thế kỷ 20.
Đời Nhà Hán, theo chính
sử, trong thế kỷ thứ nhất Trước C.N., Hán Nguyên Đế
(48-33 Trước C. N) đã rút quân khỏi đảo
Hải Nam, mãi tới đời nhà Lương và nhà
Tùy vào cuối thế kỷ thứ 6 mới đặt lại quyền cai
trị”. Nếu Nhà Hán đã bỏ Hải Nam thì cũng
không chiếm hữu Hoàng Sa Trường Sa, cách Hải Nam từ
150 đến 450 hải lý về phía nam.
Đời Nhà Đường, các sử gia tường
thuật về những nơi kỳ dị tại Giao Châu (Việt Nam) như tại
Thất Châu Dương (Nhóm An Vĩnh, Hoàng Sa) trong
đó có nhiều từ thạch khiến các thuyền ngoại dương
có đóng chốt sắt không đi qua được.
Đời Nhà Tống, trong hai thế kỷ thứ 10
và 11, quân Đại Việt đã 3 lần đánh thắng
quân Trung Quốc: Lần thứ nhất, năm 981, Lê Đại
Hành phá đội hải quân của Lưu Trừng tại Bạch Đằng
Giang; trong hai năm 1075 và 1076, Lý Thường Kiệt lại
đánh thắng quân Nhà Tống tại Quảng Đông,
Quảng Tây và trên sông Như Nguyệt và
sông Phú Lương. Sau 3 phen thất trận, theo trình
tấu của hoàng thân Triệu Nhữ Quát, vua Tống Thần
Tông đã theo chính sách Trọng Võ
Ái Nhân (thận trọng việc võ bị, thương
xót mạng người, không phơi binh nơi lam chướng) để thừa
nhận nền độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ của Đại
Việt.
Đời Nhà Nguyên, trong thế kỷ
13, vào những năm 1257, 1284 và 1287, như dưới đời
Nhà Tống, quân Đại Việt đã ba lần đơn phương
phá vỡ kế hoạch Nam Tiến của Mông Cổ. Đầu thế kỷ
này, dưới hiệu kỳ Thành Cát Tư Hãn,
quân Mông Cổ đã thôn tính toàn
giải lục địa Á Châu 6 ngàn dậm đến tận Nam Nga
và Hung Gia Lợi về phía bắc, và đến Ba Tư về
phía nam. Những chiến thắng này của Đại Việt được
quân sử thế giới ghi là vô tiền khoáng
hậu.
Sau ba phen thất bại, Nhà Nguyên
không còn dòm ngó Việt Nam từ trên lục
địa đến ngoài hải đảo. Và trong các thế kỷ
13 và 14, theo chính sử, quân Mông Cổ
không xâm chiếm Hoàng Sa Trường Sa. Sự kiện
này được xác nhận trong cuốn “Tranh Chấp tại Biển Nam
Hoa” của Marwyn Samuels theo đó: “Trong suốt thế
kỷ 14 các đội hải thuyền hùng mạnh của Nhà
Nguyên có đi tuần tiễu, nhưng tại Biển Nam Hoa, Hoàng
Sa
Trường
Sa không bị chiếm đóng và
không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc”.
Việc này còn được xác nhận
trong cuốn Nguyên Sử Địa Lý Chí với đoạn
như sau: “Cương vực Trung Quốc đời Nhà Nguyên về
phía
Nam
chỉ đến Đảo Hải Nam, và về phía Bắc
không quá Sa Mạc Gobi”.
Năm 111 Trước C. N. Trung Quốc thôn
tính nước Nam Việt và đổi tên là Giao Chỉ
Bộ. Vùng Biển Đông Hải từ bờ biển Bắc Việt đến Thanh
Hóa, Nghệ An (Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam) có
tên là Giao Chỉ Dương.
Dưới đời Nhà Minh, trong bản đồ Mao
Khôn, Biển Đông Hải cũng được gọi là Giao
Chỉ Dương. Ngoài ra trong các bản đồ Trịnh
Hòa Hạ Tây Dương và Trịnh Hòa
Hàng Hải Đồ cũng không thấy ghi Hoàng Sa Trường
Sa trên các lộ trình và hải đạo của Trịnh
Hòa 7 lần “đi qua Biển Nam Hoa để khai phá Ấn Độ
Dương” (to cross the South China Sea and explore the Indian Ocean).
Tới hậu bán thế kỷ 15, dưới đời vua Lê
Thánh Tông (năm 1471), Chiêm Thành đã
thuộc lãnh thổ Đại Việt gồm có lục địa, hải phận với
các hải đảo Hoàng Sa Trường Sa. Về việc này Minh
Sử viết như sau: “Sứ thần Chiêm Thành
nói: Cổ lai đất nước Chiêm có 27 xứ, 4 phủ, 7
châu, 22 huyện, nay vua An Nam lấy đi chỉ còn 5 xứ,
từ
Bang
Đô Lang (Phan Rang) đến Chân Lạp”. Lúc
này vua Nhà Minh sai sứ sang yêu cầu vua
Lê Thánh Tông trả đất cho Chiêm Thành,
nhưng Ngài không chịu. (Lý do
là vì Minh Chủ không trả đất Nam Việt đời Triệu Vũ
Đế cho Đại Việt). Như vậy, từ thế kỷ 15, Hoàng Sa Trường Sa
nguyên là địa bàn ngư nghiệp của Chiêm
Thành, đã thuộc lãnh thổ Đại Việt. Lịch sử cũng
ghi: Năm 1427 Lê Lợi đánh thắng quân Nhà Minh
và giành lại chủ quyền độc lập đã bị Trung Quốc
tước đoạt từ 20 năm trước (1407).
Dưới đời Nhà Thanh, theo bản
đồ Hoàng Thanh Nhất Thống Dư Địa Tổng Đồ năm
1894, và cuốn Trung Quốc Địa Lý Học Giáo Khoa
Thư năm 1906, thì đến cuối thế kỷ 19, “lãnh
thổ
của
Trung Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam tại vỹ tuyến 18”. Sự
kiện này được xác nhận trong cuốn Tranh Chấp
tại Biển Nam Hoa của học giả Marwyn S. Samuels
theo đó, cũng như dưới đời Nhà Nguyên, “không
có
bằng
chứng nào cho thấy nhà Thanh
đã sát nhập các hải đảo [Hoàng Sa Trường
Sa] vào lãnh thổ Trung Quốc”.
Trong tập Địa Dư Chí Tỉnh
Quảng Đông năm 1731 và cuốn Đại Thanh Nhất Thống
Chí do Quốc Sử Quán Trung Hoa soạn năm 1842 cũng
không thấy ghi Hoàng Sa Trường Sa thuộc hải phận Trung
Quốc.
Trong vụ ngư dân đảo Hải Nam cướp đồng
trên các tàu ngoại dương bị đắm trôi giạt
vào Hoàng Sa vào những năm 1895-1896, để trả lời văn thư phản kháng của
Chính Phủ Anh, Tổng Đốc Lưỡng Quảng phủ nhận trách nhiệm
viện lý do“Hoàng Sa không liên hệ
gì đến Trung Quốc”.
Trước những sự thật lịch
sử hiển nhiên như vậy Bắc Kinh vẫn mạo nhận rằng Trung Quốc đã
chiếm
Hoàng
Sa Trường Sa từ thế kỷ 15 trong Chuyến Đi
Thứ Tư của Trịnh Hòa năm 1413. Khôi hài và
lố bịch hơn nữa, mới đây họ còn quảng bá trên
hệ thống truyền hình quốc tế rằng, trong Chuyến Đi Thứ 6, Trịnh
Hòa đã vượt Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương
và Đại Tây Dương để khám phá Mỹ
Châu năm 1421, trước Christopher Columbus 71 năm (1492)
Sự tuyên truyền dối trá
này đã bị lịch sử vạch trần:
Theo cuốn Lịch Sử Trung Quốc Thời
Trung
Cổ
“từ 1405 đến 1433, phái bộ Trịnh Hòa
đã viếng thăm 37 quốc gia duyên hải tại Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương. Các địa điểm
xa
nhất
là Vịnh Ba Tư, Biển Hồng Hải về phía
tây bắc, và đông Phi Châu về phía
cực tây Ấn Độ Dương”. Vả lại, theo chính sử
Trung Quốc, Chuyến Đi Thứ Sáu của Trịnh Hòa chỉ
kéo dài 7 tháng (từ tháng
2-1421 đến tháng 9-1421). Trong chuyền đi ngắn ngủi này Trịnh
Hòa
chỉ
đi từ Phúc Kiến đến Sumatra (Nam Dương). Kể
từ đó hai sĩ quan tùy viên Yang Ching và
Hung Pao đã đứng ra điều khiển cuộc hải trình.
Nghĩa là, trong thế kỷ 15, không
có việc Trịnh Hòa khám phá Mỹ Châu
như Bắc Kinh khẳng định. Việc Columbus là người đầu
tiên khám phá Mỹ Châu là một sự
kiện lịch sử đã được nhân loại ghi nhận từ 6 thế kỷ. Vậy
mà ngày nay Trung Quốc dám sửa chữa Lịch Sử
và bóp méo Sự Thật. Huống chi việc kiểm
soát những hải đảo nhỏ bé không có thường
dân cư ngụ và không tự túc về kinh tế ở một
vùng hải phận xa xôi như Hoàng Sa Trường Sa.
Về hai chiến dịch truyền thông cho rằng Trịnh
Hòa đã khám phá Mỹ Châu năm 1421,
và đã chiếm cứ Hoàng Sa Trường Sa năm 1413,
chúng ta chỉ có thể kết luận:
Phải là người Đại Hán có đảm lược (to gan
lớn mật) mới dám lấy những chuyện hoang đường võng tưởng
làm Sự Thật Lịch Sử.
Phụ Đính: Luật Pháp
và Trật Tự tại Biển Đông Nam Á
(Văn Thư ngày 14-7-1995 của Hội Luật Gia
Việt Nam tại California Gửi Tổng Thống Phi Luật Tân Fidel Ramos)
“Nhân danh Hội Luật Gia Việt Nam tại
California, chúng tôi xin trình bầy cùng
Tổng Thống vấn đề tranh chấp tại quần đảo Trường Sa.
7 năm trước đây, năm 1988, có trận hải
chiến giữa Việt Nam và Trung Quốc tại vùng biển Trường
Sa. Trong dịp này Trung Quốc đòi chủ quyền lãnh
thổ tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
và đã chiếm cứ một số hải đảo gây nên
mâu thuẫn và tranh chấp giữa Trung Quốc với Việt Nam
và Phi Luật Tân.
Mới đây Trung Quốc còn lấn chiếm một số
cồn, đá, bãi toạ lạc tại thềm lục địa Phi Luật Tân
như Mischief Reef, Half Moon Shoal, Sabina Shoal và Jackson
Bank. Hành động này đe dọa an ninh toàn
vùng Đông Nam Á và cản trở sự tự do giao
thông tại Biển Nam Hoa.
Từ 3 năm trước, năm 1992, Trung Quốc cũng đã
xâm chiếm vùng biển tại Bãi Tứ Chính
(Vanguard Bank) mà họ gọi là Bãi Vạn An (Wanan
Bei) để tự tiện nhượng quyền khai thác dầu
khí cho Hãng Crestone. Vùng bãi này
nằm trong Thềm Lục Địa Việt Nam cách bờ biển 190 hải lý
về phía đông nam.
Phía đông Bãi Tứ Chính
là quần đảo Trường Sa, đối tượng tranh chấp giữa Trung Quốc,
Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Brunei
và Đài Loan.
Lưỡi Rồng Trung Quốc hình chữ U, chiếm 80%
Biển Nam Hoa, phía đông giáp Phi Luật Tân,
phía tây giáp Việt Nam và phía nam
giáp Mã Lai, Brunei và Nam Dương, điểm xa nhất
cách Hoa Lục 1100 hải lý (2000km). Hành động như
vậy Trung Quốc coi Biển Nam Hoa là “nội hải” của họ cũng như Đế
Quốc La Mã ngày xưa gọi Địa Trung Hải là “Biển Của
Chúng Tôi” (Mare Nostrum).
Chiếu Điều 57 Công Ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển, các quốc gia duyên hải có đặc quyền
đánh cá tại Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải
lý.
Chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển, các quốc gia duyên hải có đặc quyền thăm
dò và khai thác dầu khí tại thềm lục địa
kéo dài từ 200 hải lý đến 350 hải lý, nếu
về mặt địa hình, đáy biển là sự tiếp nối tự
nhiên của nền lục địa (continental margin) từ đất liền ra
ngoài biển. Về mặt pháp lý các quốc gia
duyên hải đã ký kết hay tham gia Công Ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển đương nhiên được hưởng quy chế
thềm lục địa pháp lý 200 hải lý.
Chiếu Điều 77 Công Ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển các quốc gia duyên hải có chủ quyền tuyệt
đối tại thềm lục địa để thăm dò và khai thác
tài nguyên thiên nhiên. Đây là
đặc quyền chuyên hữu theo đó không ai có
quyền thăm dò và khai thác dầu khí nếu
không có sự ưng thuận minh thị của quốc gia duyên
hải. Những quyền này không tùy thuộc vào
điều kiện phải có sự chiếm cứ hay công bố minh thị.
Điều 81 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển một lần nữa xác nhận chủ quyền tuyệt đối và đặc
quyền chuyên hữu của quốc gia duyên hải trong việc tự
mình đứng ra thăm dò và khai thác dầu
khí, hay ký khế ước cộng tác với các quốc
gia đệ tam về dịch vụ này.
Chiếu nguyên tắc “các hiệp ước quốc
tế phải được tôn trọng”, Điều 26 Công Ước Vienna về
Luật Hiệp Ước (1969) quy định như sau: “Các hiệp ước quốc tế
có hiệu lực chấp hành buộc các quốc gia kết
ước phải ngay tình tuân thủ”. Ủy Ban Liên Hiệp Quốc
Về Luật Quốc Tế coi đó là “một nguyên tắc căn bản
về Luật Hiệp Ước, có lẽ là nguyên tắc quan trọng
nhất trong công pháp quốc tế”.
Chiếu nguyên tắc về giá trị thượng
tôn của Luật Quốc Tế đối với Luật Quốc Nội,
các quốc gia kết ước phải thực sự thi hành những
quyền hạn và nghĩa vụ ghi trong các hiệp ước hay
công ước quốc tế. Họ không thể viện dẫn luật quốc nội để
khước từ thi hành nghĩa vụ của họ ghi trong các hiệp ước
và công ước quốc tế mà họ đã ký kết
hay tham gia.
Đó chính là trường hợp của
Trung Quốc. Sau khi ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển năm 1982, 10 năm sau, năm 1992, Bắc Kinh ban hành Luật
Quốc Gia về Biển (Domestic Law of the Sea) xâm phạm chủ quyền
lãnh thổ tại các Thềm Lục Địa của Việt Nam và Phi
Luật Tân, cũng như tại các quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa.
Những vi phạm luật biển phải được đệ trình
Tòa Án Quốc Tế (The Hague) hay các Tòa
Án Luật Biển thiết lập do Công Ước Liên Hiệp Quốc Về
Luật Biển.
Muốn giải quyết những mâu thuẫn và
tranh chấp về thềm lục địa, về hải phận hay hải đảo, các quốc
gia đương tụng phải, trước hết, tuân hành những phương
thức ôn hòa như điều đình, hòa giải, thương
nghị hay trọng tài.
Ngoài ra Tòa Án Quốc Tế cũng
có thẩm quyền giải thích và áp dụng những
điều khoản trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
có hiệu lực chấp hành từ năm 1994.
Sự giải quyết tranh chấp bằng những phương
pháp ôn hòa như hòa giải, thương nghị, trọng
tài hay tố tụng sẽ giúp cho Đông Nam Á khỏi
biến thành một vùng tranh chấp thường xuyên như
Trung Đông. Với việc sử dụng luật pháp (pháp trị)
thay thế việc sử dụng võ lực (phi pháp), Đông Nam
Á sẽ có cơ may được hưởng một kỷ nguyên hòa
bình, ổn định, hợp tác và phồn thịnh.
Nhân dịp này chúng tôi
cũng yêu cầu các quốc gia hội viên trong Hiệp Hội
Các Quốc Gia Đông Nam Á ra quyết định đổi danh
xưng Biển Nam Hoa thành Biển Đông Nam Á. Danh
xưng Nam Hải chỉ áp dụng cho Trung Quốc. Đối với
Việt Nam, nó có tên là Đông Hải.
Đối
với
Tân Gia Ba, Nam Dương, Mã Lai và
Brunei, nó là Bắc Hải. Đối với Phi Luật Tân
nó là Biển Tây.
Hơn nữa danh xưng Biển Nam Hoa có thể bị ngộ
nhận và giải thích sai lạc là Biển của nước Trung
Hoa về phía Nam.
Hãy trả Caesar những gì của Caesar.
Hãy trả Biển Đông Nam Á
cho các Quốc Gia Đông Nam Á.
Chúng tôi xin cám ơn sự
chú tâm của Tổng Thống về vấn đề này.
Thay mặt Hội Luật Gia Việt Nam tại
California
Luật
Sư
Nguyễn
Hữu Thống, Chủ Tịch”
NGƯỜI VIỆT
HẢI-NGOẠI VÀ VẤN-ĐỀ BIỂN ĐÔNG:
CHÚNG TA ĐÃ GÓP ĐƯỢC GÌ CHO MỘT
GIẢI-PHÁP
Tâm Việt
Nếu
ta
cứ tin ở những sự gấu ó trên mạng Internet giữa
người Việt, nhất là người Việt hải-ngoại với nhau, thì
có lẽ chúng ta sẽ dễ có một cái nhìn
bi-quan về khả-năng của chúng ta đóng góp
vào việc giải-quyết những vấn-nạn của đất nước. Nhưng sự
thực có như thế không?
Dưới
đây
tôi chỉ xin lấy một vấn-đề, đó là
vấn-đề Biển Đông, để chứng minh là chúng ta
đã đóng góp không ít vào một
giải-pháp mà kết-quả rõ ràng nhất là
lời tuyên-bố của bà Ngoại-trưởng Mỹ Hillary Clinton
hôm 22/7 ở Hà-nội, rằng Biển Đông là một “lợi
ích quốc gia” của Mỹ và Mỹ muốn trông thấy những
tranh chấp ở đó được giải-quyết một cách
hòa-bình dựa trên Luật Biển của
Liên-hiệp-quốc.
Giai-đoạn đầu: Tố-cáo đối-phương
Sau
năm
75, xót xa vì sự mất miền Nam, phải nói
là đa-phần chúng ta khá tiêu-cực, nghĩa
là chỉ tìm cách đánh lại đối-phương bằng
mọi cách. Mà lúc bấy giờ, một trong những
bằng-chứng rõ ràng nhất về sự bán nước của
Hà-nội là công-hàm ngày 14/9/1956
Phạm Văn Đồng gửi cho Châu Ân-lai công-nhận sự định
nghĩa của Trung-Cộng về chủ-quyền của họ trong Biển Đông—tức
là chủ-quyền mà Trung-Cộng đòi trên hai
quần-đảo Hoàng Sa và Trường Sa—mười ngày trước
đó.
Tôi
còn
nhớ như in một cuộc hội-thảo về VN ở George
Washington University trong DC. Tại cuộc hội-thảo đó
có sự tham-dự của ông Douglas Pike và của Ngô
Vĩnh Long, lúc bấy giờ rất thân Hà-nội.
Đúng trước khi hội-thảo bắt đầu thì người của phe ta đi
dọc theo các hàng ghế, đi từ cuối phòng đi
lên, dí vào tay mọi người, kể cả các
diễn-giả, một tờ rơi chụp lại công-hàm của PV Đồng (in
trên tờ Nhân Dân ở Hà-nội nên
không thể chối cãi được), bản dịch công-hàm
và lời tố-cáo “bán nước” đi kèm theo
đó. Quá bất ngờ, Ngô Vĩnh Long chỉ biết
ú ớ còn về sau, ông Douglas Pike ra gặp tôi
nói: “Các anh đã làm quá đẹp!”
Sở dĩ chúng ta có bản phóng-ảnh
công-hàm đó là do một nữ-lưu lúc bấy
giờ làm việc ở Bộ Ngoại-giao Mỹ đã tìm ra
cái số báo Nhân Dân có in
công-hàm kia và chuyển ra cho chúng
ta. Đúng là “giặc đến nhà, đàn
bà cũng phải đánh.”
Về
sau,
chính-nghĩa của chúng ta lại được khẳng-định một
cách hùng-hồn bằng một bài báo nổi tiếng
của Frank Chin viết trên tờ Far Eastern Economic Review, cho rằng
Miền Nam đã hoàn-toàn có chính-nghĩa
khi đã dám đương đầu với hải-quân Trung-Cộng
vào tháng 1/1974 và chấp nhận cả một số người
hy-sinh để cho đất nước được trường-tồn. Có đánh
tức là ta đã có bảo vệ chủ-quyền của ta ở
Hoàng Sa và dù thua, ta vẫn giữ được quyền
đòi lại sau này.
Hai Hội-nghị Diên Hồng bảo toàn lãnh-thổ
Từ
1991
đến 1993 có nỗ lực xây dựng Tổng-liên-hội
Người Việt tự do ở hải-ngoại và giai-đoạn sau đó, 1995
đến 2000, có 4 kỳ họp của Hội-nghị Liên-kết nhằm định
nghĩa một mặt trận dân-tộc gồm cả trong lẫn ngoài chống
lại bạo-quyền CS. Cuối năm 1999, anh Lê Chí Quang,
một luật-gia trẻ ở trong nước có bài “Hãy cảnh
giác với Bắc triều” tố-cáo việc Hà-nội đã
dâng cho Bắc-kinh 720 cây số vuông đất
biên-giới. Đây là một mốc vô cùng
quan-trọng: Lần đầu tiên, tuổi trẻ trong nước nhập cuộc và
cũng là lần đầu tiên, trong nước đặt ra vấn-đề CSVN
bán đất, bán nước của tổ tiên.
Để
tiếp
tay cho lời cảnh-báo của Lê Chí Quang,
hải-ngoại đã họp hai Hội-nghị Diên Hồng bảo toàn
lãnh-thổ, cuối năm 2002 và đầu năm 2005, cả hai đều ở Nam
Cali, quy tụ các diễn-giả đến từ năm châu. Hai
hội-nghị này rất thành công bởi đến đó
thì Hà-nội đã ký thêm Hiệp-định về
Vịnh Bắc-bộ (nhượng cho Trung-Cộng hơn 11.000 cây số vuông
biển) và Hiệp-định Đánh cá thu hẹp vùng
đánh cá của ngư-dân VN. Riêng hai
hội-nghị này chứng tỏ là một người yêu nước như
Lê Chí Quang, dù phải đi tù tội, đã
làm được một việc phi thường, đó là đánh
động lương-tâm của cả dân-tộc, trong cũng như ngoài
nước, vì thế vấn-đề biên-giới và Biển Đông
cũng như đánh cá đến tận hôm nay, 20 năm sau, vẫn
còn là một vấn-đề sôi động, làm cho
nhà cầm quyền CS hết “ăn no ngủ yên” vì gặp sự
chống đối trên một quy-mô chưa từng thấy.
Những nghiên cứu của người hải-ngoại
Để
chuẩn-bị
cho cuộc tranh đấu của người hải-ngoại cũng như cho hai
hội-nghị nói trên, ở hải-ngoại đã nổi lên
phong trào nghiên cứu về những mất mát mà
Hà-nội đã “cúng” cho Bắc-kinh để mua sự yên
thân cho Đảng CSVN. Sớm sủa hơn cả là những người
như ông Trương Nhân Tuấn (tên thật Ngô Quốc
Dũng) ở Marseilles, Pháp, vì ở gần văn-khố hải-ngoại của
Pháp (Archives d’Outre-mer, tắt là AOM), nên
đã tìm về được các hiệp-định Pháp-Hoa trước
kia để viết cuốn sách gần 900 trang mang tên Biên-giới
Việt-Trung,
1885-2000;
cựu-trung-tá Hải-quân Vũ Hữu
San, dựa trên cuốn Bạch-thư 150 trang của Bộ Ngoại-giao VNCH ra
đầu năm 1975 rồi phát triển thêm thành một cuốn
sách cũng trên 300 trang, Địa-lý Biển
Đông với Trường Sa và Hoàng Sa, với cả một
Website của riêng ông;
kỹ-sư Nguyễn Đình Sài, G.S. Nguyễn Văn Canh,
L.S. Nguyễn Hữu Thống, học-giả Hồ Bạch Thảo v.v. và v.v.
Gần đây, ta cũng có bài nghiên cứu khá
giá-trị của Tiến-sĩ Vũ Quang Việt, một chuyên-gia
làm việc với Liên-hiệp-quốc ở NY.
Ở
trong
nước, nghiên cứu sớm sủa hơn cả là ông
Nguyễn Nhã, đã lấy bằng Tiến-sĩ Sử-học với luận-án
về Hoàng Sa và Trường Sa, dựa trên những
nghiên cứu mà một số học-giả đã hoàn-tất từ
năm 1974 (Đặc-khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, một
số đặc-biệt của Tập San Sử Địa), rồi đến các ông Nguyễn Q.
Thắng, Nguyễn Đình Đầu và nhiều chuyên-gia trẻ hơn
sau này. Nhưng dầu sao thì những nỗ lực này
cũng đến sau (có khi cả chục năm hay hơn) những nghiên cứu
ở hải-ngoại và nhiều khi không chi-tiết bằng, vì
còn sợ đụng chạm hay bị nhà cầm quyền cấm đoán
(như cuộc triển lãm về bản-đồ cũ của ta mà nhà
học-giả Nguyễn Đình Đầu định tổ-chức gần đây).
Kết-quả
là
Hà-nội thì ấp úng trong khi ở
hải-ngoại tiếng nói của chúng ta về mặt này
dõng dạc hơn nhiều, thẳng thắn hơn nhiều, khoa-học hơn
nhiều. (Ta chỉ cần lấy cuốn Bạch Thư của Hà-nội tung ra
năm 1979 về những lấn chiếm bất hợp pháp của Trung-Cộng, ngay từ
trong chiến-tranh Việt-Pháp, và những tuyên-bố vuốt
đuôi Bắc-kinh của Hà-nội trong những năm gần đây
thì đủ thấy chúng mâu thuẫn như thế nào.)
Hai hội-thảo về Biển Đông ở Temple University
Dưới
áp-lực
của quần-chúng trong nước (biểu tình
của thanh-niên, sinh-viên, học-sinh vào tháng
12/2007 ở Hà-nội và Sài-gòn, rồi
thanh-niên sinh-viên phản-đối rước đuốc
Ô-lem-píc, tức Thế-vận-hội, qua Sài-gòn
tháng 4/2009, website Boxitvietnam, v.v.), Hà-nội
đã phải cho tổ-chức một hội-nghị về Hoàng Sa-Trường Sa
vào cuối năm ngoái ở Sài-gòn để cho
xì hơi bớt. Nhưng khi các học-giả VN định thừa
thắng xông lên tổ-chức một hội-nghị tương-tự vào
mùa Xuân năm nay (2010) ở Paris thì Trung-Cộng
làm áp-lực và hội-nghị quốc-tế kia đã phải
dẹp. Không được nói ở Paris, ông Nguyễn
Nhã đã sang Mỹ và trường Temple University
đã vội vã tổ-chức một hội-nghị thu hẹp về vấn-đề Biển
Đông. Hơi đáng tiếc là ông Nguyễn
Nhã nhân dịp này lại đưa ra một lập-trường
quá gần với nhà cầm quyền ở VN nên không
thuyết phục. Chỉ có Tiến-sĩ Vũ Quang Việt là
có bài thuyết-trình khá cặn kẽ,
nghiên cứu chuyên sâu nhưng lập-luận của ông
cũng có một số điểm người ta không đồng-ý.
Mới
đây
hơn nữa, nghĩa là chỉ trong vòng có
3 tháng, từ ngày 29 đến 31/7, Temple lại tổ-chức một
hội-nghị thứ hai về Biển Đông. Lại một hội-nghị thu hẹp
và cũng mấy khuôn mặt ấy, tuy Ngô Vĩnh Long
thì đã đổi ý 180 độ, không còn
hoàn-toàn thân Hà-nội nữa mà xem ra
rất chống TC, còn các học-giả ở trong nước được mời
thì đã có người bị chặn vào phút
chót, không đi được. Chỉ có một mình
ông Hồ Bạch Thảo là có bài trình bầy
chứng minh tất cả những điều láo khoét của Bắc-kinh khi
viện vào “văn-kiện lịch-sử” của TQ.
Mấy nỗ lực vận-động của người Việt quốc gia
Bỏ
ra
ngoài những cuộc vận-động nối kết trong-ngoài như
vụ rải truyền-đơn vào Tết Canh Dần rồi gần ngày 30/4,
phong trào viết “HS.TS.VN” trên toàn-quốc vẫn đang
diễn ra trong lúc này, người Việt hải-ngoại cũng
không ngồi yên. Từ mấy năm nay, một vài
tổ-chức hải-ngoại, trong đó có Nghị-hội, chính-phủ
VNCH (do cựu-Thủ-tướng Nguyễn Bá Cẩn cầm đầu trước khi ông
mất vào năm ngoái), một vài đảng hải-ngoại, vẫn
rất quan-tâm về việc đi tìm một giải-pháp cho
vấn-đề Biển Đông trước đe dọa của Trung-Cộng.
Từ
tháng
4/2009, chẳng hạn, đại diện của Nghị-hội, BPSOS,
và VVA (Voice of Vietnamese Americans), đã gặp
Thượng-nghị-sĩ Jim Webb (của TB Virginia) để nhấn mạnh với ông
quan-tâm rất sâu sắc của cộng-đồng VN hải-ngoại đối với
vấn-đề Biển Đông và mong ông cũng như
chính-quyền Mỹ lên tiếng. Sau đó, trong một
bài điều trần vào tháng 7/2009 (có đăng lại
trên Website của Sứ-quán Mỹ ở Hà-nội), ông
Webb đã rất thẳng thắn chi-tiết-hóa những mối lo âu
và quan-tâm của Mỹ về vấn-đề Biển Đông.
Tuy-nhiên, đây mới chỉ là một tiếng nói đơn
độc (dù như ông Webb có chân trong Ủy-ban
Ngoại-giao Thượng-viện và chuyên lo về
chính-sách của Mỹ ở Á-châu) và chưa
thể nói được là ông đại diện cho chính-quyền
Obama, chẳng hạn.
Tháng
7/2009,
ông Đại-sứ Mỹ Michalak về Mỹ để gặp
bà Ngoại-trưởng Hillary Clinton. Nhân dịp
này, ông có gặp gỡ một số nhân-vật trong
cộng-đồng VN đại diện cho một số tổ-chức. Đại diện của Nghị-hội
có hỏi thẳng ông về chính-sách của Mỹ đối
với Biển Đông và mối đe doạ chiến-lược của
Trung-Cộng. Ông Michalak đã nhắc lại lập-trường của
Mỹ vào thời-điểm đó: Mỹ không thể “take sides”
trong vấn-đề Biển Đông vì “nếu đã đi với VN, chẳng
hạn, thì ngày mai, Phi-luật-tân kêu gọi
chúng tôi, chúng tôi lại phải đi với họ, rồi
các nước khác nữa v.v.” Vì vậy nên,
ông nói, chúng tôi khuyến khích một
giải-pháp khu-vực, cho toàn vùng, như vậy Mỹ dễ
có thể đứng sau được một giải-pháp liên-kết.
Phải
đợi
đến cuối tháng 11/2009, bà Clinton sang họp với
ASEAN mới tuyên-bố là “America is back” (“Mỹ đã trở
lại với Á-đông”) và thông-báo
là Mỹ sẽ mở một văn-phòng phối-hợp
chính-sách của Mỹ ở Jakarta, Nam-dương. Rồi
ông Robert Gates, tổng-trưởng Quốc-phòng Mỹ, cũng
tuyên-bố ở Hội-nghị An-ninh vùng là Mỹ sẽ
làm việc với những đối-tác trong vùng cũng như
Đô-đốc Mike Mullen, tổng-tham-mưu-trưởng Liên-quân
Hoa-kỳ cũng nói tương-tự. Trước những khẳng-định như vậy,
tháng 3 năm nay (2010), Trung-Cộng nâng lên một cấp
việc đòi chủ-quyền của họ trên Biển Đông: Bắc-kinh
gọi Biển Đông là một “lợi ích cốt lõi”
(“core interest”) của Trung-Cộng ngang hàng với Tây-tạng
và Đài-loan, nghĩa là coi đó như là
một vấn-đề nội-bộ của Trung-Công.
Cuộc vận-động hành-lang vào cuối tháng 6
Trong
khung-cảnh
đó, từ tháng 12/2009, nhân dịp
Mạng Lưới Nhân Quyền sang tổ-chức việc trao Giải Thưởng
Nhân Quyền cho nhà văn Trần Khải Thanh Thủy và
Mục-sư Nguyễn Công Chính vào ngày 10/12
(Ngày Quốc-tế Nhân-quyền), người của Nghị-hội (ông
Nguyễn Ngọc Bích và bà Jackie Bông Wright)
cũng đi vận-động chung với phái-đoàn của Mạng Lưới
trên Quốc-hội. Lần này, hai phái-đoàn
chia nhau ra gặp bốn văn-phòng Thượng-nghị-sĩ (Barbara Boxer,
John McCain, Sam Brownback, và Jim Webb) và bảy
văn-phòng Dân-biểu (Chris Smith, Ed Royce, Loretta
Sanchez, Zoe Lofgren, Frank Wolf, Joseph Cao và Mike
Honda). Dù mục-đích chính của mấy cuộc gặp
gỡ này là để nói về vấn-đề nhân-quyền song
một số đại diện cũng đã nêu ra vấn-đề Biển Đông để
yêu-cầu các vị Dân-biểu và Nghị-sĩ tiếp tay
giúp giải-quyết vấn-đề này.
Sau
đó,
trong hai ngày 28 và 29 tháng
6/2010, một đại diện của Nghị-hội và một phái-đoàn
của người Mỹ gốc Việt lại đi vận-động ở Quốc-hội Hoa-kỳ để nhằm đưa ra
một vài giải-pháp cho vấn-đề tranh chấp Biển
Đông. Phái-đoàn đã đi thăm cả thảy
là sáu văn-phòng Hạ-viện, một văn-phòng
Thượng-nghị-sĩ và Ủy-ban Ngoại-giao Thượng-viện. Đó
là văn-phòng các Dân-biểu Ed Royce, Mike
Honda, Chris Smith, Loretta Sanchez, Joseph Cao, Frank Wolf;
văn-phòng của Thượng-nghị-sĩ Sam Brownback và Ủy-ban
Ngoại-giao Thượng-viện.
Trong
tất
cả các văn-phòng này, người của Nghị-hội
trình bầy về một giải-pháp hiện do Hiệp-hội Quốc-tế
Nghiên cứu về Biển Đông-Nam-Á chủ-trương.
Đó là: (1) Kêu gọi quốc-tế đồng-ý cho việc
gọi Biển Đông/Nam-hải (hay còn gọi là
Nam-Trung-hoa, South China Sea) một cách thống nhất là
Biển Đông-Nam-Á (Southeast Asia Sea*), như vậy sẽ dễ
có sự đồng-thuận của tất cả các nước trong vùng;
(2) tổ-chức một hội-nghị quốc-tế, chủ-yếu là giữa các
học-giả VN với nhau, để đạt đến một sự đồng-thuận căn-bản về một
giải-pháp cho Biển Đông; và (3) tổ-chức một
hội-nghị quốc-tế thực-sự sau đó, có thể là ở
Đông-Nam-Á hay Nhật-bản, để nhắm đạt tới một sự đồng-thuận
rộng lớn hơn trên thế-giới nhằm ngăn chặn (bằng những đường lối
hòa-bình) sự lấn lướt của bá-quyền Trung-quốc
tìm cách khống-chế nguyên cả biển Nam-hải.
Sau
khi
nghe xong đề nghị này, hai nhân-viên chủ
chốt trong Ủy-ban Ngoại-giao Thượng-viện đã tỏ ra rất vui
mừng. Họ nói: “Quý-vị biết không?
Các khách Đông-Nam-Á đến gặp chúng
tôi, từ đại diện của Thái-lan đến Singapore đến
Phi-luật-tân, ai cũng đều muốn Hoa-kỳ lên tiếng đứng về
phía họ. Song chuyện này, chúng tôi
không thể làm được. Có được một
giải-pháp toàn vùng như Quý-vị đang đưa ra
thì Hoa-kỳ mới có thể sẵn sàng ủng-hộ được.”
Một giải-pháp táo bạo tuy vẫn
hòa-bình
Sau
đó,
Luật-sư Lâm Chấn Thọ từ Canada sang với
phái-đoàn của CP Việt Nam Cộng Hoà đã
trình bầy một giải-pháp táo bạo hơn nữa, đó
là phục-hoạt Hoà-đàm Ba-lê để giải-quyết
vấn-đề Biển Đông. Và đây là lập-luận
của ông:
Làm
sao
giải-quyết vấn-đề Biển Đông nhìn từ
quan-điểm Hà-nội? Hà-nội có những lựa chọn
nào?
Chọn
con
đường chiến-tranh chăng? Vô ích vì
không thể thắng được!
Còn
những
con đường hòa-bình thì:
1/
Đòi
lại chủ-quyền trên hai quần-đảo Hoàng
Sa và Trường Sa: Bắc-kinh sẽ đưa vào mũi Hà-nội
công-hàm của Phạm Văn Đồng và tố Hà-nội chữ
“bất tín.”
2/
Vả,
với sự thắt ngày càng chặt vòng
kim-cô trên đầu ban lãnh-đạo Đảng CSVN ở
Hà-nội thì không ai trong đó có thể
cục cựa được. Trung-Cộng đã nắm gần hết các
nhân-sự cầm đầu Đảng CSVN.
3/
Đặt
vấn-đề ở Hội-đồng Bảo an LHQ chăng? Hà-nội
đã có cơ-hội này năm ngoái khi được
làm Chủ-tịch luân-lưu của Hội-đồng trong một
thời-gian. Song sở dĩ Hà-nội đã không
làm được điều này là vì có đưa ra
thì Bắc-kinh cũng có quyền phủ-quyết (veto), nên sẽ
mất mặt mà không được việc gì.
4/
Đưa
Bắc-kinh ra Toà Án Quốc-tế La Haye
chăng? Cũng không thể thực-hiện được nốt vì muốn thế
thì hai bên tranh chấp, tức TC và CSVN, đều phải
chấp nhận ngay từ đầu việc Toà án này đứng ra
làm trọng-tài trong việc này. Mà chắc
chắn là Bắc-kinh sẽ không chấp nhận tham-gia trong vụ kiện.
Vậy
đứng
từ quan-điểm Hà-nội thì hoàn-toàn
bế tắc, không có lối thoát.
Vậy
thì
còn giải-pháp nào khác
không? Theo sự trình bầy của L.S. Lâm Chấn Thọ
thì vẫn còn, đó là tái-nhóm
Hoà-đàm Ba-lê. Dựa vào các
khoản nào? Đó là dựa vào Định-ước
Quốc-tế về Hoà-đàm Ba-lê mà tên trong
tiếng Anh là “Act of the International Conference on
Viet-Nam.” Văn-kiện này có hiệu-lực như một
hiệp-ước quốc-tế vì có sự ký tên của 9 quốc
gia trên thế-giới vào ngày 2 tháng 3 năm
1973 với sự chứng-kiến của ông Tổng-thư-ký LHQ, đảm bảo
việc thực-thi Hiệp-định Ba-lê. Điều 2 của văn-kiện
này chứng-nhận là Hiệp-định Ba-lê tôn-trọng
“những quyền dân-tộc căn-bản của người dân Việt, tức sự
độc-lập, chủ-quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh-thổ của Việt-Nam, cũng như quyền dân-tộc tự-quyết của
người dân miền Nam Việt-Nam.” Điều 4 của Định-ước cũng nhắc
lại là tất cả các quốc gia ký tên, tức
là 9 nước trên và ngoài ra còn
có cả Hà-nội (tức VNDCCH) và Sài-gòn
(tức VNCH) nữa, cũng phải “nghiêm-chỉnh tôn-trọng”
các điều nói trên, và “tránh
làm bất cứ hành-động nào không ăn khớp với
những điều khoản” trên.
Nếu
có
sự vi-phạm (như Trung-cộng xâm-chiến Hoàng
Sa vào tháng 1/1974 hay Hà-nội tung quân
vào đánh miền Nam năm sau và từ đó, chưa
bao giờ có tổ-chức một cuộc bầu cử thực-sự tự do để người
dân miền Nam có được quyền “dân-tộc tự-quyết”)
thì cách giải-quyết, theo Điều 7 của cùng
Định-ước, là:
(1) Chỉ cần Mỹ
và VNCS đồng-ý kêu nhóm họp lại
Hoà-đàm Ba-lê; hoặc, nếu chuyện đó
không thành thì
(2) Sáu trong
số các quốc gia ký kết (trên 12) có thể
đồng-ý yêu-cầu tái-nhóm
Hoà-đàm thì bắt buộc cuộc hoà-đàm
phải nhóm trở lại để xem ai phải trái ra sao.
Theo một nguồn tin,
hiện khả-năng kêu gọi 3 hay 4 quốc-gia trong số 12 quốc-gia
ký tên là có thể thực-hiện được. Như
vậy, không nhất thiết cần phải Mỹ và Hà-nội
đồng-ý ta vẫn có thể kêu gọi tái nhóm
được nếu ta biết cách vận-động thêm đôi ba nước
khác nữa.
Thế còn
tư-cách của VNCH như một quốc-gia thì sao?
Không phải là khi CS miền Bắc vào là
đã xóa cả sự hiện diện của VNCH hay sao? Điều
này chưa chắc vì đó là một cuộc
xâm-lăng bằng vũ-lực hoàn-toàn như Đức
Quốc-xã đã chiếm một số quốc gia ở Âu-châu
trong Thế-chiến II. Vì thế mà Điều 73 của
Hiến-chương LHQ công-nhận những chính-phủ lưu-vong, nghĩa
là những chính-phủ hợp hiến hợp pháp, được
dân bầu lên nhưng không còn lãnh-thổ
vì bị ức-hiếp bởi sức mạnh quân-sự của một nước
khác. Đó là trường-hợp các
chính-phủ lưu-vong của Ba-lan trong Thế-chiến II, đặt ở
Luân-đôn; chính-phủ của bà Aung San Suu Kyi ở
Miến-điện (thắng 80% số phiếu năm 1989); chính-phủ lưu-vong
Tây-tạng dưới sự hướng-dẫn và chỉ-đạo của Đức Đạt Lai La
Ma; và thậm chí cả chính-phủ De Gaulle trong
Thế-chiến II, cũng có trụ-sở ở Luân-đôn.
Chấp nhận
giải-pháp về Biển Đông như L.S. Lâm Chấn Thọ
trình bầy là đi tìm một giải-pháp
hòa-bình cho tranh chấp ở Biển Đông; buộc Bắc-kinh
phải ngồi vào bàn hội-nghị, vì họ không
có quyền “veto” trong chuyện này (nếu họ không đến
thì họ càng thua); cũng như buộc Hà-nội phải
tôn-trọng quyền “dân-tộc tự-quyết” của người dân miền
Nam chọn chế-độ cho họ. Vả, chấp nhận giải-pháp này
là chấp nhận VNCH là nước có chủ-quyền trên
quần-đảo Hoàng Sa và một phần quần-đảo Trường Sa,
đúng như các hiệp-định Genève và Paris
công-nhận cho nước VN dưới vĩ-tuyến 17. Tóm lại, sẽ
tháo gỡ được cái ô-nhục của công-hàm
Phạm Văn Đồng vì lúc đó Hà-nội nhận vơ,
không có quyền quyết-định thay cho miền Nam về một
lãnh-thổ không thuộc dưới quyền cai quản của Hà-nội.
Tâm Việt
_____________________
* Quan-niệm đặt tên lại cho Biển
Đông của Việt-nam (đích-thực đối với Phi-luật-tân,
thì là “Biển Tây” hoặc đối với Nam-dương, Brunei,
Mã-lai-á thì phải là “Biển Bắc”) là
“Biển Đông-Nam-Á” đối với quốc-tế không phải
là độc-quyền của riêng ai. Chị Nhã Trân
hiện đang chuyển đi một cái “Petition online” kêu gọi
chuyện này và hiện đã có trên 6.000
người vào ký tên đồng-ý. Ở Mỹ,
các vị như G.S. Phạm Cao Dương, Tiến-sĩ Vũ Quang Việt, G.S.
Lê Xuân Khoa, và ở VN một người như G.S. Đinh Kim
Phúc ở Hà-nội cũng đồng-ý. Nói
tóm lại, đây là một ý-tưởng được mọi người
đồng-thuận một cách rất dễ dàng và rộng
rãi. Trong những lần trao đổi mà tôi
đã có với các học-giả, nhà ngoại-giao Phi,
Nam-dương, Singapore, họ cũng nghĩ đây là một
ý-kiến rất hay. Như vậy, quốc-gia nào chung quanh
biển này cũng sẽ thấy là mình có phần ở
trong đó.
ASEAN
VỚI
TRIỂN
VỌNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG
HOÀNG VIỆT
1. GIỚI THIỆU VỀ BIỂN ĐÔNG
Biển
Đông là một biển nửa kín và là một
trong những khu vực chiến lược quan trọng bậc nhất trên thế giới.
Vùng biển này trải rộng từ khoảng vĩ tuyến 30
Nam tới vĩ tuyến 230 Bắc và được bờ biển của
các nước Trung Quốc (bao gồm cả đảo Đài Loan), Việt Nam,
Campuchia, Thái lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei,
Philippines bao bọc xung quanh. Với diện tích bề mặt khoảng
1.148.500 hải lý vuông (tương đương 3.939.245 km2),
biển
Đông
là một trong những biển lớn nhất thế giới.
Hình
1:
Toàn
bộ khu vực biển Đông
Nguồn
:
South
China
Sea-Reference
Map-Us CIA;
available from
http://community.middlebury.edu/~scs/maps/South%20China%20Sea-reference%20map-
US%20CIA.jpg.
Khu
vực biển Đông bao gồm những tuyến đường hàng hải nhộn nhịp
bậc nhất của thế giới, nối khu vực Đông Bắc Á và
Tây Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương và Trung
Đông. Trung bình một năm có khoảng hơn 41.000 lượt
tàu biển qua lại khu vực này. Các tàu chở dầu đi qua eo
biển Malacca (nằm ở cuối phía Tây Nam của biển Đông)
nhiều gấp ba lần so với lượng tàu chở dầu đi qua kênh
đào Suez, và nhiều gấp năm lần so với lượng tàu
qua kênh đào Panama. Hơn 80% lượng dầu khí nhập khẩu
của Nhật từ Trung Đông, Brunei, Malaysia, Indonesia phải đi ngang
vùng biển này.Vùng biển này còn
là khu vực cung cấp nguồn hải sản quan trọng cho các đội
tàu đánh cá của Nhật Bản, Trung Quốc, Đài
Loan, Việt Nam, Campuchia, Indonesia, Malaysia, Brunei, Singapore
và Thái Lan.
Ngoài
việc
đây
là con đường hàng hải quan trọng
thì biển Đông cũng là một khu vực giàu
tài nguyên gồm cả nguồn hải sản và tiềm năng dầu
khí. Các chuyên gia Trung Quốc ước tính
là khu vực này chứa khoảng 225 tỷ barrels dầu mỏ
và khí đốt thiên nhiên.
Hiện
nay cả Brunei, Malaysia và Việt Nam cùng là những
quốc gia xuất khẩu dầu khí, còn Trung Quốc từ năm 1993
đã trở thành một trong những quốc gia nhập khẩu dầu
khí lớn nhất trên thế giới. Hiện nay, trung bình
mỗi ngày Trung Quốc tiêu thụ khoảng 7,85 triệu barrels dầu
mỏ. Dự đoán tới 2010 Trung Quốc sẽ
tiêu thụ khoảng 10 đến 12 triệu barrels dầu mỗi ngày,
trong số đó, Trung Quốc phải nhập khẩu trên 53 %. Cho tới
tháng 5 năm 2008, Trung Quốc đã trở thành
nhà nhập khẩu dầu mỏ lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau
Nhật Bản. Hiện nay, Trung Quốc mua 46% lượng dầu nhập khẩu của họ từ
Trung Đông, 32% từ châu Phi và 5% từ Đông
Á. Trên 80% lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc phải đi qua
eo biển Mallaca. Với công nghệ khai
thác dầu khí như hiện nay, với những tiềm năng rất lớn về
dầu khí trên các thềm lục địa (continental shelf)
và các khu vực biển khác thì biển
Đông sẽ thực sự là một khu vực chiến lược quan trọng đối
với bất cứ quốc gia nào trong khu vực và đặc biệt quan
trọng đối với Trung Quốc, một quốc gia đầy tham vọng muốn gây ảnh
hưởng đến toàn thế giới. Thậm chí, nếu các
yêu sách của Trung Quốc trên vùng biển
này được các nước khác chấp nhận thì “quyền
tài
phán
của Trung Quốc sẽ được kéo dài ra
đại dương 1000 hải lý từ đất liền, tương đương diện tích
Địa Trung Hải, và họ sẽ chế ngự được vùng biển trung
tâm của khu vực Đông Nam Á” . Sự hiện diện của hải
quân Trung Quốc tại khu vực này sẽ đe dọa đến không
chỉ Philippines hay Việt Nam, mà còn đe dọa cả Brunei,
Indonesia, Malaysia nữa. Thêm nữa, kiểm soát được khu vực
biển chiến lược này, còn đe dọa đến cả an ninh của Nhật
Bản, Hoa Kỳ hay bất cứ cường quốc nào nếu đi qua khu vực
này.
Mặc
dù Hải quân Trung Quốc chưa thực sự là mạnh, Hải
quân Trung Quốc chưa thể thống trị biển Đông, nhưng họ
không dấu giếm tham vọng đó. Hiện nay Trung Quốc vẫn chưa
có tàu sân bay nào, nhưng họ đã
có kế hoạch xây dựng hai tàu sân bay trong
thời gian sắp tới. Tháng 2 năm 2009, Trung Quốc đã gửi
một số tàu chiến tới vịnh Aden, Trung Quốc cũng đã xây
dựng một căn cứ tàu ngầm hạt nhân trên đảo Hải Nam.
Trung Quốc cũng công khai bộc lộ ý định triển khai theo
học thuyết Mahan, với ý định biến Trung Quốc thành một
cường quốc biển, từ đó có thể thống trị thế giới. Và trong ý đồ đó,
biển Đông có một vị trí chiến lược hết sức quan
trọng. Với tham vọng vươn ra đại dương, Trung Quốc đã
hình dung ra hai chuỗi đảo chính, trong đó biển
Đông nằm trong chuỗi đảo số 1, như là cửa ngõ để
Trung Quốc có thể vươn ra chuỗi đảo số 2, dần dần thống trị
Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, từ đó
có thể thỏa mãn giấc mộng siêu cường.
Hình
2:
Chuỗi đảo thứ nhất và chuỗi đảo thứ hai trong chiến lược vươn ra
đại dương của Trung Quốc.
Nguồn:
Annual
report to congress, Military
Power
of
the People’s Republic of China, 2009, Office
of the Secretary of Defense, Department of Defence, United of States of
America.
2.
CÁC
YÊU
SÁCH CHỒNG LẤN TRÊN BIỂN ĐÔNG
Các
tranh
chấp
trên biển Đông đã ảnh hưởng đến một loạt
các quan hệ song phương giữa các quốc gia trong khu vực
và nó cũng gây căng thẳng cho mối quan hệ giữa Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) đối với khối
ASEAN.
Hiện
nay, ngoài quần đảo Hoàng Sa (Paracel Archipelago) đang
là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc (bao
gồm cả Đài Loan), quần đảo này đã bị Trung Quốc
dùng vũ lực chiếm giữ từ năm 1974, thì quần đảo Trường Sa
(Spratly Archipelago) cùng là đối tượng tranh chấp của
Brunei, Trung quốc (bao gồm cả Đài Loan), Malaysia, Philippines
và Việt Nam. Các tranh chấp này bị chi phối rất
nhiều bởi các yếu tố kinh tế, luật pháp, ngoại giao chiến
lược và các lợi ích địa - chính trị
khác nhau cùng đan xen.
Cuộc
tranh chấp Biển Đông diễn ra trong bối cảnh của Hội nghị
Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc lần thứ III (UNCLOS
III). Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc được thông
qua ngày 30 tháng 4 năm 1982 và bắt đầu có
hiệu lực vào ngày 16 tháng 11 năm 1994. Cho đến
nay, tất cả các quốc gia trong khối ASEAN và Trung Quốc
đã trở thành thành viên của Công ước
này.
Công
ước
này
đã quy định về thẩm quyền pháp lý
đối với các vùng biển của các quốc gia ven biển.
Theo đó, các quy chế pháp lý đối với
các vùng biển được Công ước quy định như
vùng nội thủy (internal water), vùng nước quần đảo
(archipelagic water), lãnh hải (territorial sea), vùng
tiếp giáp lãnh hải (contiguos zone), vùng đặc
quyền kinh tế (exclusive economic zone), thềm lục địa (continental
shelves) và biển cả (high seas). Theo quy định tại Công
ước này thì lãnh thổ của các quốc gia ven
biển (coastal states) có thể mở rộng lãnh hải tới 12 hải
lý tính từ đường cơ sở (base line), vùng tiếp
giáp lãnh hải kéo dài 24 hải lý
tính từ đường cơ sở. Và như vậy, quyền chủ quyền của
các quốc gia ven biển tại vùng đặc quyền kinh tế
không chỉ được kéo dài 200 hải lý
tính từ đường cơ sở đối với việc thăm dò và khai
thác tài nguyên biển (bao gồm cả các
tài nguyên sinh vật và các tài
nguyên không sinh vật), mà theo Công
ước, thềm lục địa của các quốc gia ven biển còn có
thể kéo dài tới 350 hải lý tính từ đường cơ
sở. Quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển đối với thềm lục
địa được giới hạn ở việc thăm dò và khai thác
các tài nguyên không sinh vật.
Từ
đó, đã dẫn đến những tranh cãi là hầu hết
các đảo thuộc quần đảo Trường Sa có thể có những
vùng biển riêng theo các quy định của Công
ước hay không? Điều (1)121 của Công ước Luật biển (UNCLOS)
xác định rằng “một đảo là một vùng đất tự
nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên
vùng đất này vẫn ở trên mặt nước”. Một đảo phải
có những điều kiện tự nhiên tối thiểu để đảm bảo cho đời
sống của con người. “Những đảo đá nào không
thích hợp cho con người đến ở hoặc một đời sống kinh tế
riêng, thì không có vùng đặc quyền về
kinh tế và thềm lục địa”. Các đảo đá nào
mà không thích hợp cho con người tới ở, hoặc
là đảo nhân tạo thì chỉ có thể có
lãnh hải 12 hải lý và 500 mét cho
vùng an toàn mà thôi. Như vậy, hầu hết
các đảo đá thuộc quần đảo Trường Sa đều chỉ có
lãnh hải 12 hải lý mà thôi.
Các
yêu
sách
của các quốc gia liên quan trong
cuộc tranh chấp Biển Đông có thể được chia thành
hai loại. Loại thứ nhất là các yêu sách về
chủ quyền các đảo trong hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Loại thứ hai là sự kéo dài
các quyền của các quốc gia ven biển được diễn giải
dưới các quy định của Công ước Luật biển năm 1982.
Quan
điểm của Trung Quốc cho rằng Biển Đông là biển đặc quyền
của Trung Quốc và họ yêu sách chủ quyền đối với gần
80% Biển Đông thông qua “đường lưỡi bò”. Yêu sách của họ dựa
trên thuyết khám phá và chiếm hữu
lãnh thổ. Sau khi phê chuẩn Công ước (UNCLOS)
vào tháng 5 năm 1996, Trung Quốc đã tuyên bố
một đường cơ sở thẳng (straight base line) xung quanh quần đảo
Hoàng Sa, mặc dù theo Công ước, chỉ những quốc gia
quần đảo mới có thể thực hiện đường cơ sở thẳng như vậy,
và trong khu vực chỉ có Indonesia và Philippines
mới là quốc gia quần đảo.
Dựa
trên các luận điểm pháp lý tương tự như
Trung Quốc , Đài Loan cũng yêu sách chủ quyền của
họ giống như Trung Quốc đang yêu sách. Từ năm 1956,
Đài Loan đã chiếm giữ đảo Ba Bình (Itu Aba) – đảo
lớn nhất trong quần đảo Trường Sa. Trung Quốc tỏ thái độ hỗ trợ
Đài Loan trong cuộc tranh chấp này.
Các
yêu
sách
của Việt Nam
(bao gồm cả yêu sách của
chính quyền Việt Nam Cộng hòa) chủ yếu dựa trên sự
khám phá và chiếm hữu lãnh thổ.
Các
thành
viên
sáng lập ASEAN có liên quan đến tranh chấp
này chủ yếu đưa ra yêu sách dựa trên thuyết
kéo dài thềm lục địa hơn là các yêu
sách về chủ quyền dựa trên các bằng chứng lịch sử. Philippines yêu
sách hầu hết các đảo thuộc quần đảo Trường Sa (ngoại trừ
đảo Trường Sa) và cho rằng khu vực này là Kalayan
(vùng đất tự do theo tiếng Philippines). Chính thức
tuyên bố yêu sách năm 1971, năm 1978 một đạo luật
của Tổng thống Philippines đã tuyên bố vùng Kalayan
này là một phần thuộc lãnh thổ Philippines. Philippines cũng đã tuyên bố
vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Sau đó
ít lâu, năm 1979, Malaysia tuyên bố quần đảo Trường
Sa là lãnh thổ của họ dựa trên sự kéo
dài của thềm lục địa. Brunei tuyên bố
thiết lập vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của họ
kéo dài tới phía nam của quần đảo Trường Sa, bao
gồm bãi đá ngầm Louisa. Indonesia không
liên quan đến tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng vùng mỏ khí
Natuna của Indonesia lại nằm trong yêu sách chủ quyền biển
với “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.
3.
CÁC
XUNG
ĐỘT VŨ TRANG VÀ TÌNH TRẠNG STATUS
QUO TRÊN BIỂN ĐÔNG
Với
sự lớn mạnh và bộc lộ những tham vọng chi phối khu vực
này của Hải quân Trung Quốc, đã đặt khối ASEAN
trước những thử thách to lớn. Tuy nhiên, ngoại trừ Philippines và Việt
Nam, các nước ASEAN khác đều chưa cảm thấy sự đe dọa trực
tiếp từ các hành động của Trung Quốc đến an ninh của nước
mình. Dường như các quốc gia đang để mặc
cho diễn biến cuộc tranh chấp theo hướng giữ nguyên hiện trạng
(status quo) vì ai cũng có những toan tính
riêng. Trung Quốc và các nước ASEAN đã
thương lượng trong nhiều năm để đi đến một Bộ luật về ứng xử trên
biển Đông (a Code of conduct for the South China Sea) tuy
nhiên vẫn còn tồn tại rất nhiều trở ngại. Bắc kinh tỏ ra
không muốn bị ràng buộc bởi một cam kết pháp
lý đa phương mà trong đó giới hạn tham vọng của họ
trong tranh chấp tại quần đảo Trường Sa thông qua các cuộc
đối thoại. Thêm nữa, tình trạng chia rẽ của ASEAN vẫn
luôn diễn ra, cụ thể là quan điểm khác biệt giữa
một bên là Malaysia và bên kia là
Philippines và Việt Nam trong việc đưa ra Bộ luật ứng xử tại
biển Đông.
Trung
Quốc
đã
luôn biết sử dụng ưu thế của sức mạnh quân
sự của mình để đặt chân lên các vị trí
cần thiết trên trên biển Đông. Vào
tháng 1 năm 1974, Trung Quốc đã thành công
trong việc dùng lực lượng quân sự để đánh bật
các lực lượng quân sự của Việt Nam Cộng hòa đang
chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa, và họ đã nhanh
chóng kiểm soát quần đảo này. Hành động
quân sự này là một phần của sự căng thẳng Xô
– Trung nhưng cuối cùng kết thúc vẫn là sự gia
tăng ảnh hưởng của Trung Quốc tại biển Đông. Trung Quốc vẫn chưa
có sự hiện diện của họ ở bất cứ đảo, đá nào ở
Trường Sa cho đến năm 1988. Trung Quốc đã yêu sách
toàn bộ quần đảo Trường Sa, cho nên họ đã gấp
rút phải có mặt ở Trường Sa trên một số đảo
đá, qua biện pháp vũ lực. Hầu hết các quốc gia
yêu sách đã duy trì các lực lượng của
họ trên một số đảo đá tại Trường Sa. Sau một cuộc đụng độ
trên biển với Việt Nam vào ngày 14 tháng 3
năm 1988, Trung Quốc đã thành công với việc đặt sự
hiện diện của họ trên một số đảo đá ở Trường Sa. Những
xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam lúc đó đã
không thu hút được sự chú ý của các
nước thành viên ASEAN, bởi vì họ đang tập trung
vào cuộc xung đột ở Campuchia. Và thêm nữa, Trung
Quốc đã không gây hấn với bất cứ một thành
viên nào của ASEAN lúc đó.
Sau
khi cuộc xung đột ở Campuchia (Campuchia Conflict) được giải quyết với
Hiệp định Paris
được
ký
vào tháng 10 năm 1991, lúc
này các tranh chấp trên biển Đông lại trở
nên thu hút nhiều sự quan tâm hơn. Tháng 2
năm 1992, Trung Quốc đã thông qua Luật về lãnh hải
và vùng tiếp giáp lãnh hải, theo đó
Trung Quốc đã nhắc lại các yêu sách của họ
trên biển Đông, và cho rằng họ có quyền sử
dụng sức mạnh quân sự để bảo vệ các đảo (bao gồm cả quần
đảo Trường Sa) và các vùng nước xung quanh
các đảo đó. Đạo luật này của Trung Quốc
đã ngang nhiên thách thức tới các biện
pháp giải quyết tranh chấp hòa bình đã được
nêu trong Hiến chương LHQ, và đó cũng là sự
khiêu khích quân sự trực tiếp đối với khối ASEAN.
Vào
ngày
8
tháng 2 năm 1995, Philippines đã
phát hiện ra sự xâm nhập của lực lượng quân sự Trung
Quốc trên bãi Vành Khăn (Mischief Reef), mà
Philippines cho là thuộc khu vực Kalayaan, một bộ phận
lãnh thổ của Philippines. Và xung đột giữa hai bên
đã nổ ra, đây có lẽ là lần đầu tiên
Trung Quốc trực tiếp xung đột với một thành viên ASEAN về
vấn đề lãnh thổ biển.
Sự
kiện bãi Vành Khăn được diễn ra trong một bối cảnh đặc
biệt, lúc này các lực lượng quân sự Mỹ vừa
rút khỏi hai căn cứ quân sự ở Philippines là Subic
và Clark năm 1992, để biển Đông ở vào trong
tình trạng “chân không quyền lực”, đây
là cơ hội để Trung Quốc tiếp tục khẳng định sự hiện diện về
quân sự của mình trên Trường Sa, tiếp theo sau sự
kiện 1988. Sau khi Tổng thống Philippines Fidel Ramos cực lực lên
án hành động xâm chiếm của Trung Quốc, Manila
đã phản ứng lại hành động xâm chiếm của Trung Quốc
bằng việc tìm kiếm một sự hỗ trợ đa phương và đưa ra biện
pháp trả đũa bằng cách phá hủy các dấu mốc
của Trung Quốc trên bãi Vành Khăn, rồi bắt một số
ngư dân của Trung Quốc vào tháng 3 năm 1995. Cùng lúc đó, Philippines tuyên bố
một kế hoạch hiện đại hóa quân sự. Sau đó, Trung
Quốc và Philippines đã cùng nhau ký một
thỏa thuận song phương, thỏa thuận này không cho
phép sử dụng sức mạnh quân sự trong giải quyết tranh chấp
và kêu gọi đưa ra các biện pháp hòa
bình theo các quy định trong Công ước Luật biển.
Kể
từ sau sự kiện bãi Vành Khăn, chính sách
đối ngoại của Trung Quốc dường như sau khi thực hiện “những việc
đã rồi” (status quo) thì tỏ ra tôn trọng quy phạm
tiêu chuẩn quốc tế hơn là đưa ra các biện
pháp chống đối lại trật tự quốc tế. Một học giả cho rằng: “chính
sách
đối
ngoại của Bắc Kinh rất khôn ngoan và sắc
sảo, luôn tìm kiếm sự ủng hộ của toàn khu vực”. Quan điểm này đã được chứng
minh bằng các hành động của họ trên biển Đông
cũng như họ đã tìm cách mở rộng sự có mặt
của họ trên bãi Vành Khăn. Thậm chí với việc
họ đã xây dựng bãi Vành Khăn thành
một căn cứ kiên cố hơn vào năm 1998, thì
chính sách của Bắc Kinh đối với biển Đông đã
được tiếp tục phát triển hơn trong những năm gần đây trong
việc chia rẽ các nước ASEAN. Sự sẵn lòng giúp đỡ
về kinh tế của Trung Quốc đối với các nước ASEAN để tìm
sự ủng hộ thay thế cho các quan hệ căng thẳng giữa Trung Quốc
với Nhật Bản và cũng liên quan tới việc quay trở lại
các căn cứ quân sự trên khu vực Đông Nam
Á của Mỹ, sau sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001.
Trong
khi
các
quốc gia tranh chấp tăng cường việc sử dụng lực lượng
quân sự để kiểm soát các đảo đá (reefs),
điều đó đã dẫn tới các va chạm thường xuyên
diễn ra. Tình trạng căng thẳng giữa Malaysia và Philippines, Malaysia
và Việt Nam, và giữa Việt Nam và Philippines.
Tháng 3 năm 1999, Malaysia chiếm giữ đá Thám Hiểm
(Navigator Reef), bị cả Việt Nam, Malaysia và Brunei cùng
lên án, còn quan hệ giữa Malaysia và
Philippines trở nên hết sức căng thẳng. Tháng 8 năm 2002,
quân đội Việt Nam đồn trú trên một số đảo đá
ở Trường Sa đã bắn đạn pháo để cảnh cáo máy
bay quân sự của Philippines hoạt động trên bầu trời của
vùng biển này. Bên cạnh các biện
pháp quân sự, các bên tranh chấp còn
gia tăng các biện pháp phi quân sự để giúp
tạo thêm ưu thế cho các yêu sách của họ.
Vào tháng 5 năm 2004, Việt Nam đã bắt đầu
xây dựng một đường băng trên đảo Trường Sa lớn (Big
Spratly) với mục đích đưa du khách ra tham quan khu vực
này. Trung Quốc đã kịch liệt phản đối hành động
này và lên tiếng yêu cầu Việt Nam phải
tuân thủ các cam kết trong Tuyên bố về các
quy tắc ứng xử trên biển Đông.
Hầu
hết các đảo đá thuộc Trường Sa đều rất nhỏ để có
thể xây dựng các căn cứ quân sự và thực hiện
các hoạt động quân sự trên đó. Hiện nay,
Trung Quốc vẫn chưa có đủ những điều kiện cần thiết để kiểm
soát toàn bộ quần đảo Trường Sa bằng những biện
pháp quân sự. Tuy nhiên, hiện nay hải quân
Trung Quốc đã được hiện đại hóa và mạnh hơn bất kỳ
hải quân của nước nào trong khu vực.
Sự
lớn mạnh cũng như các hành động quân sự của Trung
Quốc tại Trường Sa đã làm các quốc gia tranh chấp
lo ngại, đặc biệt là Philippines và Việt Nam. Việt Nam
đã lĩnh hội sâu sắc mối quan hệ đối kháng giữa Việt
Nam và Trung Quốc từ sâu xa lịch sử, mà xung đột
tại Trường Sa chỉ là một điểm nối tiếp trong một chuỗi
các sự kiện liên quan đến quan hệ lâu đời của hai
nước.
Tuy
nhiên, Việt Nam lại không đủ sức mạnh quân sự để
chống lại các hành động quân sự ngày
càng gia tăng của Trung Quốc trên biển Đông. Để
chống lại ảnh hưởng lớn mạnh của hải quân Trung Quốc trên
biển Đông, Việt Nam cần tìm kiếm sự ủng hộ từ bên
ngoài, thế nhưng, lúc này Việt Nam vẫn không
có mối liên hệ quân sự nào với Hoa Kỳ cho
dù hai bên đã thiết lập mối quan hệ chính
thức vào ngày 11 tháng 7 năm 1995. Thêm nữa,
Hoa Kỳ tỏ thái độ rõ ràng là họ sẽ
không can dự vào tranh chấp biển Đông.
Trong
sự
kiện
bãi Vành Khăn, cũng cho thấy sự yếu thế của
Philippines trong cuộc tranh chấp do không có lực lượng
quân sự đủ mạnh. Thêm nữa, Philippines đã
không lôi kéo được Hoa Kỳ vào tranh chấp
này, ngoại trừ một tuyên bố về việc duy trì quyền
tự do lưu thông cho các tuyến hàng hải quốc tế. Hoa
Kỳ còn nhắc Philippines là tranh chấp này nằm
ngoài phạm vi mà Hiệp ước Quân sự giữa Philippines
và Hoa Kỳ ký ngày 30 tháng 8 năm 1951. Hoa Kỳ không muốn can dự sâu
vào tranh chấp này bởi vì không muốn
gây tổn hại đến mối quan hệ giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc. Trong
hoàn cảnh đó, Philippines đã chấp thuận ký
kết Hiệp ước thăm viếng quân sự với Hoa Kỳ vào
tháng 2 năm 1998 để có thể nâng
cao mức độ răn đe về sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ đối với Trung
Quốc.
Cả
Philippines và Việt Nam đều không thể dựa vào ASEAN
như một chỗ dựa về an ninh truyền thống được. Tổ chức này
không thể đưa ra những hỗ trợ nào đối với những hoạt động
quân sự trên biển Đông. ASEAN không
có bất kỳ các thỏa thuận quân sự nào cũng
như không có khả năng để xây dựng các lực
lượng quân sự liên kết, vì vậy các
thành viên ASEAN đành chấp nhận đối đầu với một mối
đe dọa thường trực. Tất cả các thành viên ASEAN đều
lo ngại về ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc,
nhưng giữa họ với Trung Quốc có nhiều mối liên hệ
ràng buộc lẫn nhau từ chủng tộc, kinh tế và cả các
quan hệ đối ngoại. Thêm nữa, các nước ASEAN cảm thấy họ
không có lợi ích gì khi đối đầu về mặt
quân sự trên biển Đông với Trung Quốc. Như vậy “ASEAN
không
có
khả năng triển khai các hoạt động
quân sự bởi vì không có đội quân thường
trực nào của khối, cũng như không có thành
viên nào sẵn sàng liên kết thành một
liên minh quân sự”.
4.
Ý
TƯỞNG
VỀ MỘT BỘ LUẬT ỨNG XỬ TRÊN BIỂN ĐÔNG
Sự
kiện bãi Vành Khăn đã khiến ASEAN lo ngại
và đòi hỏi ASEAN phải hành động ngay. Philippines
và Việt Nam với sự yếu kém về tiềm năng quân sự,
đặc biệt là hải quân, đã phải tìm kiếm một
sự hỗ trợ khác. Họ không thể dựa vào ASEAN như
là một khối quân sự hoặc một liên minh quân
sự, nhưng họ đã tranh thủ ASEAN thông qua biện pháp
ngoại giao, thể hiện qua các cuộc thương lượng đa phương, từ
đó có thể đưa ra một Bộ luật về ứng xử trên biển
Đông, giúp duy trì vị trí của họ trên
biển Đông trước một đối thủ mạnh hơn họ. Cho tới trước sự kiện
năm 1995 này, ASEAN vẫn chưa có một tuyên bố
công khai nào liên quan đến các thành
viên khác ngoài khối về vấn đề biển Đông,
nhưng ASEAN hy vọng Trung Quốc sẽ cùng ASEAN chấp thuận một Bộ
luật về ứng xử trên biển Đông từ đó có thể
kìm chế Trung Quốc trong việc sử dụng sức mạnh quân sự để
giải quyết các tranh chấp biển này.
Một
cuộc đối thoại đa phương về giải quyết tranh chấp biển giữa Trung Quốc
và ASEAN được thiết lập lần đầu tiên thông qua một
Hội thảo mang tên “Kiểm soát xung đột tiềm tàng ở
biển Đông” (Managing Potential Conflicts in the South China Sea).
Hội thảo này được tiến hành tại Indonesia với sự bảo trợ
tài chính của Canada, Hội thảo đã tập trung
vào việc xây dựng lòng tin giữa các
bên trước khi giải quyết tranh chấp này. Hội thảo
đã tránh đụng chạm đến vấn đề chủ quyền và tập
trung vào việc cùng hợp tác. Các cuộc hội
thảo diễn ra trong suốt thập kỷ 90 của thế kỷ XX đã luôn
khuyến khích thực hiện các cuộc đối thoại đa phương để
kiểm soát các xung đột cũng như sử dụng các biện
pháp hòa bình để giải quyết xung đột. Tháng
1 năm 1990, một hội thảo nhỏ đã diễn ra tại Bali để làm tiền đề cho
một cuộc gặp gỡ sơ bộ giữa sáu nước thành viên
ASEAN. Hội thảo tiếp theo được tổ chức vào tháng 7 năm
1991 tại Bandung bao gồm các thành viên ASEAN
và cả Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam và
Lào. Trong bài diễn văn khai mạc, Ngoại trưởng Indonesia
Ali Alatas đã tuyên bố: “quan điểm của chúng
tôi là tiếp tục tìm kiếm một khuôn khổ hợp
tác chung thay cho các xung đột tiềm tàng,
mà trong đó tất cả các bên tham gia đều
có lợi”. Tuy vậy, hội thảo đã kết
thúc với kết quả không như mong đợi.
Tháng
7
năm
1992, các Ngoại trưởng của các nước ASEAN đã
cùng nhau ký Tuyên bố biển Đông (Declaration
on the South China Sea) tại Manila – thủ đô Philippines, nối tiếp
ý tưởng của Hội thảo Bandung trước đó. Tuyên bố
Manila chính là sự thể hiện thái độ một
cách công khai đầu tiên của ASEAN, tuy nhiên,
Tuyên bố này không nhằm vào vấn đề giải quyết
chủ quyền mà tập trung vào chính sách ngoại
giao phòng ngừa (self – restrain), các biện pháp
giải quyết các tranh chấp bằng phương pháp hòa
bình, không sử dụng vũ lực. Tất cả các quy định
này đều dựa trên những quy phạm và nguyên tắc
cơ bản được đề cập trong Hiệp ước thân thiện và hợp
tác ASEAN năm 1976. Đây chính là tiền
thân của ý tưởng về một bộ luật ứng xử trên biển
Đông chủ yếu dựa trên phòng ngừa các xung đột
xảy ra hơn là giải quyết các xung đột. Cho dù vẫn
còn tồn tại những yêu sách chồng lấn khác
biệt nhau, nhưng các quốc gia thành viên vẫn
cùng nhau chia sẻ quan điểm là duy trì sự ổn định
trong khu vực và tránh đối đầu với Trung Quốc.
Tuy
nhiên, thành công của Tuyên bố Manila bị giảm
bớt rất nhiều bởi thiếu sự ủng hộ từ các quốc gia trực tiếp
liên quan. Trong khi Việt Nam sẵn sàng ủng hộ thì
Trung Quốc kiên quyết không thừa nhận Tuyên bố Manila
và không chấp nhận các nguyên tắc trong
Tuyên bố này. Bắc kinh luôn nhắc rằng họ muốn
các cuộc gặp gỡ song phương hơn là một giải pháp
đa phương cho cuộc tranh chấp biển Đông. Còn Hoa Kỳ
thì không tỏ vẻ gì là ủng hộ cho Tuyên
bố và luôn giữ vai trò trung lập, không để bị
lôi kéo vào tranh chấp.
Tại
Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF) gặp gỡ lần thứ nhất
vào tháng 7 năm 1994, Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ
Tham (Qian Qichen) đã nhắc lại quyết tâm hòa
bình loại bỏ biện pháp sử dụng sức mạnh để giải quyết
tranh chấp của Bắc kinh. Tuy nhiên, Trung Quốc lại từ chối
tranh luận về vấn đề chủ quyền trong một diễn đàn đa phương.
Trung Quốc muốn hướng tới việc sẽ đóng vai trò chi phối
trong những cuộc đối thoại với các quốc gia tham gia tranh chấp
thông qua những cuộc đàm phán song phương. Trải qua
các cuộc thỏa thuận đầy trắc trở như vậy, ý tưởng về bộ
luật ứng xử trên biển Đông ngày càng được
tiến triển. Trước cuộc gặp của Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN
lần 2 diễn ra vào tháng 8 năm 1995, Ngoại trưởng Trung
Quốc Tiền Kỳ Tham tỏ ra nhượng bộ đối với các thành
viên ASEAN. Ông ta tuyên bố rằng Trung Quốc đã
chuẩn bị cho một cuộc gặp gỡ đa phương về vấn đề quần đảo Trường Sa
thay vì tổ chức các cuộc đối thoại song phương, và
ông ta cũng chấp nhận việc dựa theo Công ước Luật biển năm
1982 để làm cơ sở cho các thương lượng. Việc nhượng bộ này
của Trung Quốc là kết quả của việc đoàn kết giữa
các thành viên ASEAN trước sự kiện bãi
Vành Khăn cũng như các quan hệ xấu đi giữa Trung Quốc với
Hoa Kỳ và Nhật Bản. Nhưng nó cũng không làm
thay đổi mục tiêu của Trung Quốc đối với biển Đông, điều
này thể hiện ở chỗ Bắc Kinh vẫn luôn từ chối giải quyết
vấn đề chủ quyền lãnh thổ biển, và liên tục lặp lại
các yêu sách về lãnh thổ chiếm gần trọn khu
vực biển Đông.
Trong
cuộc
gặp
gỡ thượng đỉnh ASEAN vào tháng 11 năm 1999,
Philippines, với sự ủng hộ của Việt Nam, đã trình
bày ra một bản dự thảo cho bộ luật ứng xử trên biển
Đông. Đây chính các quy định dựa trên
ý tưởng về các thỏa thuận nhằm kiểm soát
hòa bình các tranh chấp thông qua việc ngăn
ngừa các tình huống xấu. Cụ thể, nó nhằm
vào việc ngăn ngừa các hành động chiếm đóng
của các bên tranh chấp và duy trì sự hiện
diện quân sự trên các đảo nhỏ không có
người ở. Dự thảo này có vẻ khả thi hơn là
Tuyên bố năm 1992. Nó cố gắng bỏ qua việc khẳng định
các nguyên tắc như là những điều kiện tiên
quyết, và cung cấp một khuôn khổ hợp tác
phát triển chung cho khu vực quần đảo Trường Sa. Đề xuất của
Philippines đã bị Trung Quốc và Malaysia phản đối. Malaysia cho đến những năm 1990 của thế
kỷ XX vẫn còn chỉ trích các hành động của
Trung Quốc ở Trường Sa nhưng lập trường đối ngoại trong vấn đề biển
Đông của họ đã dần thay đổi theo năm tháng
và trở nên gần gũi với quan điểm của Trung Quốc. Malaysia
cũng từ chối việc giải quyết vấn đề chủ quyền, Malaysia dường như
thích việc thương lượng song phương với Trung Quốc hơn là
ràng buộc pháp lý vào một bộ luật của khu
vực hay là một một dàn xếp đến từ bên ngoài.
Trong hội nghị thượng đỉnh ASEAN năm 1999, vị chủ tọa của hội nghị
đã nói rằng “các lãnh đạo của các
quốc gia thành viên cùng với chính phủ của
họ sẽ gửi một bức Công hàm đến các Ngoại trưởng một
bản sơ thảo của bộ luật, các ý kiến đóng
góp cũng sẽ được tiếp nhận để cho bộ luật nhận được sự ủng hộ
rộng rãi”.
Malaysia
đã
đề
xuất một ý tưởng về giải quyết vấn đề quần đảo
Trường Sa tại cuộc gặp gỡ của các Ngoại trưởng ASEAN tổ chức
vào tháng 7 năm 2002 tại Brunei. Tuy nhiên,
đây chỉ là một văn bản không có tính
ràng buộc pháp lý, thậm chí còn thất
bại trong việc đề cập đến tên gọi Trường Sa theo tiếng Anh
(Spratlys). Theo văn bản này, các tuyên bố của
các bên tham gia được xác định một cách mập
mờ, trong khi theo tinh thần bộ luật là các tuyên
bố phải được các bên tham gia công bố công
khai. Hầu hết các thành viên ASEAN đã từ
chối ủng hộ đề xuất này của Malaysia, riêng Philippines
và Việt Nam thì muốn có một văn bản mang
tính ràng buộc pháp lý đối với các
bên tham gia tranh chấp biển Đông. Không đủ khả năng
để quyết định vấn đề, các Ngoại trưởng đã đưa ra
thông cáo chung rằng quyết định của họ đưa ra trong vấn đề
này là các thành viên cùng với
Trung Quốc đưa ra một Tuyên bố về quy tắc ứng xử trên biển
Đông.
Các
Ngoại
trưởng
các nước ASEAN và Thứ trưởng ngoại giao
Trung Quốc Vương Nghị (Wang Yi) cuối cùng đã cùng
nhau ký kết Tuyên bố chung về các quy tắc ứng xử
trên biển Đông bên lề cuộc gặp thượng đỉnh ASEAN diễn
ra vào tháng 11 năm 2002 tại Phnom Penh, Cambodia.
Tuyên bố này được đưa ra với ý định ngăn ngừa sự
căng thẳng của các tranh chấp biển và nhằm giảm thiểu khả
năng xảy ra các xung đột quân sự trên vùng
biển tranh chấp này. Các thành viên cam kết
tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương Liên
Hợp Quốc, Công ước luật biển, Hiệp ước thân thiện và
hợp tác ASEAN năm 1976, và năm nguyên tắc
cùng tồn tại hòa bình. Một lần nữa các
thành viên tham gia nhắc lại cam kết tôn trọng “quyền
tự
do
hàng hải và tự do thực hiện các chuyến bay
trên bầu trời của biển Đông”. Họ đã đồng ý với nhau việc
giải quyết các tranh chấp biển bằng biện pháp hòa
bình “không sử dụng sự đe dọa hay các
hành động vũ lực mà thông qua các cuộc trao
đổi thân thiện và các cuộc thương lượng giữa
các quốc gia có chủ quyền trực tiếp liên quan,
phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế”. Các thành
viên đã trịnh trọng cam kết thực hiện nguyên tắc
phòng ngừa để có thể dập tắt các tranh chấp, gia
tăng các nỗ lực “nhằm xây dựng lòng tin
và các cơ chế đối thoại giữa các bên
liên quan”.
Như
vậy, việc ký kết Tuyên bố chung về quy tắc ứng xử
trên biển Đông giữa các bên liên quan
năm 2002 (DOC) là bước đầu tiên cho một khuôn mẫu
áp dụng cho việc giảm thiểu các căng thẳng đối với những
tranh chấp liên quan đến Trường Sa. Tiến trình ngoại giao
đã được bắt đầu rất nhanh sau sự kiện Trung Quốc đổ bộ lên
bãi Vành Khăn. Tuyên bố (DOC) cho thấy mong muốn
của các bên liên quan trong tranh chấp Trường Sa
là sử dụng các biện pháp hòa bình để
giải quyết các bất đồng. Nó đưa ra cảnh báo về
việc sử dụng vũ lực trên biển Đông và gửi một
tín hiệu rằng các bên liên quan sẵn
sàng hợp tác với nhau trong việc cùng nhau giải
quyết vấn đề này. Nó góp phần làm giảm
thiểu các xung đột giữa các bên liên quan.
Tuyên bố này “xác nhận một cách dứt
khoát rằng sự hiện diện của Trung Quốc ở biển Đông sẽ
không gây nguy hại cho nền hòa bình của khu
vực”. Điều đó cho thấy, mặc dù
với tính chất quan trọng là cam kết đa phương mở đường
cho việc hợp tác trong khu vực tranh chấp, nhưng Tuyên bố
này không được coi là một bước tiến quan trọng cho
việc kiểm soát các xung đột và cung cấp các
giải pháp. Nó không giúp ngăn chặn
các va chạm hay các nguồn hiện hữu của xung đột, như việc
bắt giữ các ngư dân bởi các lực lượng hải
quân của các nước khác vẫn luôn diễn ra, hay
như việc tiếp tục bành trướng các thế lực quân sự
trên các đảo nhỏ. Hay nói như Tonesson, Tuyên
bố này “không thiết lập một cơ chế ràng buộc
pháp lý các bên tham gia như một bộ luật,
mà nó chỉ đơn giản là một tuyên bố
chính trị”.
Sự
thất bại của việc đưa ra một bộ luật là do tất cả các
bên liên quan. Trong đó, Trung Quốc luôn nhắc
đi nhắc lại rằng chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông
là không thể tranh cãi. Trung Quốc luôn
không muốn bị ràng buộc đối với một bộ luật có
tính chất đa phương quy định về cách ứng xử trên
biển Đông. Hơn nữa, bộ luật này giới hạn các vấn đề
chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa bằng cách đưa vào
khuôn khổ thông qua các cuộc đối thoại hơn là
giải quyết vấn đề chủ quyền. Chưa kể tới việc lập trường các
bên trong ASEAN cũng không đồng nhất. Sự đoàn kết
giữa các quốc gia trong khối ASEAN vẫn còn thiếu vắng, cụ
thể là Malaysia luôn đưa ra một lập trường riêng
biệt, không tương đồng với lập trường của Việt Nam và
Philippines. Các quốc gia tham gia trong tranh chấp biển
Đông là thành viên của khối ASEAN chưa sẵn
sàng gác lại những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ
trong tranh chấp để cùng nhau đi đến một giải pháp
mà tất cả các bên cùng tham gia hợp
tác. Cuối cùng, sự hợp tác trên biển
Đông bị cản trở bởi sự không tin tưởng lẫn nhau ngay cả
giữa các bên tranh chấp là thành viên
ASEAN. Các bất đồng giữa các thành viên
ASEAN vẫn luôn tồn tại, vì thế vẫn khó mà đi
đến việc xây dựng một bộ luật về hành xử trên biển
Đông được.
5.
KẾT
LUẬN
Các
tranh
chấp
trên biển Đông vẫn còn ở trạng
thái để mặc cho nó tồn tại (status quo). Các biện
pháp ngoại giao nhằm mục đích kiểm soát các
xung đột, hay các giải pháp đưa ra cũng bị giới hạn rất
nhiều. Tuyên bố biển Đông năm 1992 chỉ giới hạn được trong
phạm vi các thành viên trong khối ASEAN, còn
Tuyên bố về các quy tắc ứng xử trên biển Đông
năm 2002 dựa trên lập trường đa phương nhằm giải quyết xung đột
bằng những phương pháp hòa bình, tuy vậy, trong
khi vẫn chờ đợi để giải quyết một cách trực tiếp các
tranh chấp thì Tuyên bố năm 2002 vẫn chỉ giới hạn như
là một thỏa thuận chính trị. Mặc dù việc sử dụng
vũ lực của Trung Quốc cũng như các bên tham gia tranh chấp
khác nhằm kiểm soát các đảo không người ở
vẫn tiếp tục diễn ra, thì trên biển Đông đến nay vẫn
chỉ có thể duy trì các biện pháp mang
tính chính trị hơn là quân sự. Cho đến nay
Trung Quốc vẫn thành công trong việc chia rẽ và đe
dọa về mặt quân sự đối với các thành viên
ASEAN. Trong cuộc họp hội nghị
thượng đỉnh ASEAN tại Huahin (Thailand) tháng 10 năm 2009,
các quốc gia ASEAN vẫn đồng ý tiếp tục việc đàm
phán song phương với Trung Quốc trong tranh chấp biển Đông.
Tuy
nhiên, đã có thêm một số tia hy vọng cho sự
ra đời của bộ luật ứng xử biển Đông, đặc biệt với sự lên
tiếng của Ngoại trưởng Hoa Kỳ ngày 23/07/2010 tại Hà Nội:
“Hoa Kỳ
hỗ trợ quá trình cộng tác ngoại giao của tất cả
các bên tranh chấp để giải quyết các tranh chấp
lãnh thổ khác nhau mà không cần cưỡng chế.
Chúng tôi phản đối việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng
vũ lực của bất kỳ nước tranh chấp nào”… “Hoa Kỳ ủng hộ Tuyên
bố về quy tắc ứng xử của các bên trên Biển
Đông của ASEAN - Trung Quốc năm 2002. Chúng tôi
khuyến khích các bên tiến tới một sự thoả
thuận đầy đủ về Bộ luật ứng xử. Hoa Kỳ chuẩn bị tạo điều
kiện cho các sáng kiến và các biện
pháp xây dựng lòng tin phù hợp với
tuyên bố”.
Trước
đó ít ngày, Indonesia đã có
công hàm phản đối chính thức trước các
yêu sách vô lý của Trung Quốc trên biển
Đông.
Có
lẽ,
với
lập trường tích cực như vậy của Hoa Kỳ, có thể
tạo những động lực lớn cho việc hình thành Bộ luật ứng xử
trên biển Đông.
Trong
thời
gian
tới, một cuộc xung đột vũ trang lớn dẫn đến tình trạng
đối đầu giữa Trung Quốc và ASEAN khó có thể xảy
ra, thế nhưng những va chạm quân sự vẫn luôn có thể
xuất hiện. Trong tương lai xa hơn, các tranh chấp trên
biển Đông có thể trở thành mối đe dọa quân sự
nghiêm trọng đối với cả Trung Quốc, ASEAN và các
quốc gia khác có liên quan nếu các bên
cứ tiếp tục chạy đua trang bị sức mạnh quân sự. Trong bối cảnh
giá dầu mỏ trên thị trường thế giới luôn tăng, đặc
biệt ở những năm gần đây, thì môi trường chiến lược
ở biển Đông còn có thể có những diễn biến
mới hết sức phức tạp, khó lường. Môi trường chiến lược
biển Đông có thể tốt hơn hoặc xấu hơn tùy thuộc
vào các điều kiện địa chính trị trên thế
giới và trong khu vực, đặc biệt môi trường này sẽ
tùy thuộc rất lớn vào mối quan hệ giữa Trung Quốc với
khối ASEAN. Có nhiều lý do để chúng ta có
thể lạc quan hơn khi xem xét lại những xung đột cũng như
các biện pháp giải quyết trước đây.
Có
lẽ
trong
tương lai gần, các quốc gia tham gia trong tranh chấp
biển Đông vẫn chưa thể giải quyết được vấn đề chủ quyền, vốn
là vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm khi chủ quyền đối
với các bên là thiêng liêng và
hết sức quan trọng. Tuy nhiên, chúng ta có thể
trông chờ vào việc các bên liên quan
có thể đưa ra một giải pháp có tính chất
dung hòa là tất cả các bên cùng nhau
hợp tác khai thác và phát triển chung
trên những vùng biển tranh chấp này.
Hoàng
Việt
Christopher C. Joyner, Toward a Spratly Resource Development Authority:
Procursor Agreements and Confidence Building Measures, ed. Myron H.
Norquist and John Norton Moroe, Security Flashpoints: Oil, Islands, Sea
Access and Military Confrontation (1997).
Scott Snyder, Brad Glosserman and Ralph A. Cossa, “Confidence
Building
Measures
in the SCS”, (2001), No.2, Issue and Insights, at
10.
Mark J. Valencia, John M. Van Dyke, and Noel A.
Ludwig, Sharing the resouces of the South China Sea,
Martinus Nijhoff Publishers, 1997, p. 30
Ministry Of Foreign Affairs, Socialist Republic Of
Vietnam, The Hoang sa (Paracel) and Truong sa (Spratly)
Archipelagoes and international law, Hanoi, 1988.
Daniel Dzurek, The Spatly
Islands Dispute: Who’s on first?, International Boundary Reseach
Unit, Maritime Brief, Volume 2, Number 1, p. 39
Chin Yoon Chin, Potential for conflict in the
Spratly islands, Naval Postgraduate School, Monterey California,
2003, p. 53
Wu Shicun, Ren Huaifeng, More than a
Declaration: A Commentary on the Background and the Significance of the
Declaration on the Conduct of the Parties in the South China Sea,
Chinese Journal of International Law, 2003, 311.