
Năm Thứ
4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net

VẤN
ÐỀ TÀI
LIỆU NGHIÊN CỨU VIỆT SỬ

Nguyên
Vũ Vũ Ngự Chiêu
Mục Lục
Phần
I :
Sách Sử Từ
Thời Trung Cổ
Trở Về Trước
Phần
II
: Việc
Nghiên Cứu
Thời Cận Đại
(1800-1975)
Phần
III
:
Nghiên Cứu
Thời Hiện Đại
Phần
Phụ Bản :
Các
Thánh Lệnh
Phân Chia Thế
Giới
|
Ðầu
Xuân Kỷ Sửu (25/1/2009) tôi khởi đầu việc hiệu
đính
phần tư liệu lịch sử Việt từ đời Ngô (938-965)
tới đời Nguyễn
(1802-1945). Ðây có lẽ là lần hiệu đính
cuối cùng, và khá tốn thì giờ vì
việc chuyển đổi từ lịch Ta qua lịch Tây.
Mặc dù
đã hoàn tất việc sơ thảo ít năm trước, suốt
năm
qua, tôi chú trọng vào thời hiện đại, nhất
là khía cạnh pháp luật hơn sử học.
Một trong
những
bài viết cần hiệu đính là bài “Tài
Liệu Nghiên Cứu Sử” đã in trong Ngàn Năm Soi
Mặt
năm 2002. Chuyến du khảo Việt Nam từ tháng
11/2004 tới
tháng 5/2005, với học bổng Fulbright của Bộ
Ngoại Giao Mỹ,
giúp thu thập thêm nhiều tài liệu quí,
có cơ hội làm việc tại các văn khố và thư
viện Việt Nam, du lịch từ Nam chí Bắc, tiếp
xúc nhiều học
giả và nhà nghiên cứu trong nước khiến nhiều
chi
tiết cần được cập nhật.
Là người
nghiên cứu chuyên nghiệp, với tôi, chỉ có sự
thực lịch sử mới quan trọng. Tôi không ngả
theo, chiều
chuộng một thế lực hay cá nhân nào, mà những
điều đã và sẽ viết chỉ là sản phẩm của hơn 30
năm
nghiên cứu, với hy vọng những thế hệ mai sau
nhìn
rõ chân diện dân tộc mình, hầu rút ra
bài học hữu ích cho bản thân, cũng như những
dự
tính phục vụ đất nước, nhân loại.
Tôi
không hề có tham vọng chính trị hay một mục
đích nào khác hơn làm tròn
trách nhiệm một người học sử. Hơn 2000 năm
trước, Trang Chu từng
viết: Ngọn gió thổi qua rừng núi, hang động,
phát
ra muôn vạn âm thanh khác nhau; thế nhân
thường chỉ nhận hiểu được những tiếng vang
trầm bổng, dị biệt ấy;
ít ai tìm hiểu đến cái uyên nguyên của
gió. Ðời sống nhân loại cũng vậy. Chúng ta chỉ
thường được chứng kiến những màn ảo thuật
trước mắt, ít
ai tận tường những mưu mẹo, bàn định phía sau
hậu trường.
Việt Nam
không là một đại cường, nhưng cũng là một quốc
gia
không nhỏ, thiết lập được vị thế đáng nể trọng
tại
Ðông Nam Á và trên thế giới. Khả năng tự
sinh tồn và ngày một phát triển, hùng mạnh
hơn là công lao, xương máu của biết bao thế
hệ.
Không hiểu biết tường tận lịch sử dân tộc, đất
nước
mình mới nẩy sinh những tinh thần chia rẽ,
hướng ngoại, hay
nuôi dưỡng tham vọng độc tôn–thuận
ta
thì
sống,
nghịch
ta
thì
diệt–của luật kẻ mạnh
đã có hàng chục ngàn năm lịch sử với những
cơn điên rồ tanh máu.
Ở những
năm đầu
một thiên niên mới không thể dấu diếm niềm ao
ước của
tôi về sự phục hưng của tinh thần yêu chuộng
sử văn trong
giới trẻ, và một chương trình giáo khoa mà
sử học là một trong những tín chỉ bắt buộc cho
các
sinh viên đại học.
Ngoài
ra, cũng mong giới đồng nghiệp trong nước khởi
đầu–hoặc tiếp tục–chương
trình sử dụng DNA để sớm giải quyết vấn đề
nguồn gốc dân
tộc Việt. Chấm dứt tìng trạng “dĩ nghi truyền
nghi” trong quốc
sử về những tiếng “Hùng” hay “Lạc,”tránh được
cảnh những
người hồ đồ, thiếu kiến thức hăm hở “khỉ
sự”xưng tội rằng tổ tiên
mình là người Tàu!
Khi từ
Việt Nam
trở lại Mỹ, tôi đã có dự định tìm tài
trợ cho kế họch này, nhưng sức khoẻ đột ngột
suy yếu,
đành bỏ dở cùng nhiều dự tính khác.
Houston, 1/2/2009
Người
học
sử
Việt
nào
cũng
bị
đối
mặt
nhiều trở ngại nhức đầu.
Nào là vấn đề tên nước, tên dân, nguồn
gốc dân tộc. Nào là vấn đề ngày
tháng, niên đại. Nào là những âm mưu
hiểm độc của ngoại cường dưới chiêu bài khai
hóa,
tự do, dân chủ, trộn lẫn với tham
vọng quyền
lực, lợi danh của các phe nhóm bản xứ, với
bảng hiệu đấu
tranh giành độc lập, giải phóng, v.. v...
Căn
nguyên chính của chứng nhức đầu kinh niên
trên
là vấn đề tư liệu, hay thiếu
tư liệu.
Mặc dù các sử quan
Việt cho
rằng nước cổ Việt xuất hiện từ năm 2879
Trước tây lịch [TTL],
mãi tới thế kỷ XIII, nước ta mới có bộ quốc
sử đầu
tiên, tức Ðại Việt Sử Lược của Bảng
Nhãn
Lê Văn Hưu (1272). Hơn một thế kỷ sau tới bộ
Việt sử cương mục
(1386-1427) của Hồ Tông Thốc, hoàn thành vào
cuối đời Trần (1225-1400). Nhưng hai bộ sử
này bị thất lạc trong
thời gian nhà Minh chiếm đóng nước ta
(1407-1427).
Vào đầu triều [Hậu] Lê, Phan Phu Tiên soạn Sử
Ký
Tục Biên (1455). Rồi dưới thời Lê
Thánh Tông (1460-1497), Ngô Sĩ Liên
hoàn tất bộ Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư
(1479), gồm 2 phần: Ngoại kỷ (5 tập) và Bản
Kỷ (10 tập).
Các đời sau tiếp tục viết thêm (tục biên):
Vũ Quỳnh (Ðại
Việt
thông
giám), Lê Tung (Ðại Việt
thông giám tổng luận, 1514), Phạm Công
Trứ (Ðại
Việt
Sử
Ký
Toàn
Thư
Bản
Kỷ, Tục Biên,
1665), Lê Hi và Nguyễn Quí Ðức (Bản Kỷ,
Tục
Biên, 1697), Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn
Du, Ninh
Tốn, Nguyễn Sá (Quốc sử tục biên), Nguyễn
Nghiễm (Việt
sử
bị
lãm),
Lê
Quí
Ðôn
(Ðại Việt
thông sử, hay Lê triều thông sử,
30
quyển; và Quốc triều tục biên, 8
quyển).
Ngoài ra, còn các bộ Trung hưng thực lục
(1289?) của Trần Nhân Tông; Lam sơn thực
lục
(1431-1432) của Lê Thái Tổ; Thiên nam
minh
giám của họ Trịnh; [Lê triều] Trung
hưng thực lục
của Lê Tương Dực (1504-1509), hay các sách
tư của
họ Ngô, Lịch triều tạp kỷ của họ Cao
[có lẽ
là Ngô Cao Lãng] tại Ái châu [Thanh
Hoa] và con là Siển Trai (Emile Gaspardone,
BEFEO, số 34
(1934), tr. 1-167 tại 75) v.. v...
Tóm lại, quốc sử
Việt mới chỉ xuất
hiện từ thời Trung cổ. Và vì các điều kiện
chính trị, chiến tranh, ý thức hệ (Khổng
giáo),
thiếu phương tiện bảo quản (giấy rách nát,
mọt hoặc mối
ăn, chiến tranh), không những sách của Lê
Văn Hưu
và Hồ Tông Thốc bị thất lạc, tuyệt bản, ngay
đến bộ sử của
Ngô Sĩ Liên cũng không còn nguyên vẹn.
Nó đã bị sửa chữa, hiệu đính qua các lần
sao chép, tục biên, v.. v... Bộ quốc sử cũ
nhất mà
chúng ta được đọc là bản in vào khoảng cuối
thế kỷ
XVII.
Năm 1798, vua Quang
Toản nhà Tây
Sơn (1778-1802) cũng cho lệnh sử quan Bắc
thành chép sử.
Vì bộ Ðại Việt Sử Ký cũ nhất bị
thất lạc, sử
quan phải chép lại từ đời Hồng Bàng tới thập
nhị sứ
quân làm Ngoại kỷ, và mở đầu Bản kỷ bằng
Ðinh
Tiên Hoàng cho tới ngày bị Minh chiếm đóng
[1407], gồm 17 quyển. Ngô Thì Nhiệm có lẽ
chịu
trách nhiệm sửa chữa và khắc bản.
Ðến đời vua Tự Ðức
(1848-1883), quốc
sử quán nhà Nguyễn hoàn tất bộ Khâm
Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục,
nhưng
chỉ khắc bản năm 1884 (đời Kiến Phước,
1883-1884). Ngoài ra,
còn hai bộ Ðại Nam Thực Lục, từ chúa
Nguyễn
Hoàng (1558-1613) đến vua Ðồng Khánh
(1885-1889),
và Ðại
Nam Liệt
Truyện.
Tất cả các bộ sử
này đều
gây nhiều vấn nạn.
Từ thời Pháp thuộc
đến nay, vấn đề
biên soạn sử tiến bộ hơn, nhưng vẫn chưa có
những
nghiên cứu thực sự giá trị. Số người được
huấn luyện
chuyên nghiệp ngành sử học quá ít. Ða số
những người nghiên cứu hoặc viết sử đều là
nhà
mô phạm, hoặc coi sử như một thứ giải trí
thanh cao. Bởi
thế, các tác phẩm giá trị nhất đều do học
giả
ngoại quốc hay học giả Việt ở hải ngoại soạn
thảo. Một trong những
lý do chính vẫn là thiếu sử liệu. Ngoài ra,
còn những áp lực chính trị giai đoạn của chế
độ
cầm quyền, các tổ chức, phe phái có thế lực
khiến
sử gia không dám chép hết sự thực; hay thiếu
phương
tiện vật chất để hoàn thành các tác phẩm
tốt, v.. v... Nhiều bộ “sử” chỉ thuần là tài
liệu chiến
tranh chính trị hoặc truyền giáo. Ða số tác
giả, và từ đó người học sử đời sau, dễ bị
lạc vào
mê hồn trận của các hệ thống tuyên truyền
cực kỳ
tinh vi của nhiều phe phái, xà cừ mà tưởng
lầm
thành bạc.
Bài viết này chỉ
chú
trọng vào vấn đề tài liệu sử. Vấn đề phương
pháp
sử và triết lý sử sẽ dành cho một dịp khác.
I.
SÁCH
SỬ
TỪ
THỜI
TRUNG
CỔ TRỞ VỀ TRƯỚC:
Nhiều người tin
rằng với bốn ngàn năm
văn hiến, dân Việt rất yêu thích lịch sử.
Niềm tin
này không được phản ảnh qua số sách sử hoàn
thành hay việc bảo tồn các sử liệu. Tổng số
sách
sử còn được lưu truyền vỏn vẹn mươi tựa, vậy
mà hầu hết
đã tuyệt bản. Các sách sử chúng ta được đọc
ngày nay chỉ khắc bản và ấn hành từ cuối thế
kỷ
XVII. Sách sử cũng thường chỉ tàng trữ tại
Bí
các (rồi Nội các) hay sử quán (Hàn
lâm viện) của các triều đình, rất ít khi lọt
ra ngoài. Một số gia đình nổi danh văn học
và
làm quan to, như họ Ngô ở Hà Ðông, mới
tồn trữ được những bản tóm lược hay thông sử
trong
thiên hạ. Chiến tranh với Chiêm Thành, Trung
Quốc,
và những cuộc nội chiến cũng đóng góp một
phần
vào việc tàn phá số sách sử cổ thời vốn
chẳng dồi dào này. Khí hậu ẩm thấp nhiệt
đới, phẩm
chất giấy và bản khắc xấu, mối mọt là yếu tố
quan trọng
khác. Ngoài ra, còn những loại tội ác văn
hóa như các tân trào tiêu hủy
sách vở của các chế độ bại trận (tài liệu
nhà Lý, nhà Mạc, nhà Tây Sơn, v..
v...).
Mãi tới thế kỷ
XVIII và XIX mới
có hai học giả bỏ công ghi chép lại những
sách sử đã ấn hành. Ðó là Bảng
Nhãn Lê Quí Ðôn (1726-1784) [Ðại
Việt thông sử, Nghệ văn chí; bản Việt
ngữ Hà
Nội, 1978, tr. 98-113], và
Phan
Huy
Chú
(1782-1840)
[Lịch triều hiến chương loại
chí, Văn tịch chí; bản Việt ngữ Hà Nội
1992,
3:68-77]. Qua hai bộ bách khoa trên, hậu thế
mới có
được ý niệm tổng quan về các tựa sách đã
xuất hiện. Người có công đầu trong việc giới
thiệu
sách sử Việt với Tây phương là các học giả
Pháp vào đầu thế kỷ XX, đặc biệt là Emile
Gaspardone. (“Bibliographie annamite” [Thư
mục An-Nam]; BEFEO, 34
(1934), tr. 1-167)
Ðại cương,
các sử quan Việt đều chỉ bắt chước sử quan
Trung Quốc để
biên soạn quốc sử. Mặc dù có những nỗ lực Việt
hóa tư liệu Trung Quốc, nhưng vì thiếu
sử liệu địa
phương, lại bị gò bó trong “thánh Triết”
Khổng học, và ràng buộc bằng miếng đỉnh
chung cùng
danh lợi, những bộ quốc sử Việt còn lưu
truyền không chỉ
thiếu sót mà đôi chỗ còn thiếu độ khả
tín.
A. MÔ HÌNH
TRUNG QUỐC:
Theo Bảng Nhãn Lê
Quí
Ðôn, nguồn gốc của phương pháp sử Trung Quốc
là
hai bộ Kinh Thư (được gọi tâng lên
là Thượng
thư), và Xuân
Thu.
Kinh Thư chép mỗi việc riêng
biệt, từ đầu
đến cuối, nên còn gọi là “kỷ truyện.”
Kinh Thư có nhiều bản khác
nhau. Theo
lời
truyền
tụng,
Khổng
Khâu
(hay
Khưu,
K'ung
Ch'iu, 551-479 TTL)
soạn một bản. Lại có nhiều người bình giải,
sửa chữa theo
ý mình. Khổng Khâu tự là Trọng Ni, người
nước Lỗ (Lu), thuộc địa phận tỉnh Sơn Ðông,
Trung Quốc,
ngày nay. Thường được tôn xưng là Khổng tử,
chí thánh hay Vạn thế sư biểu [ông thày vạn
năm]. Theo truyền thuyết, ngoài Kinh
Thư, Khổng
Khâu còn soạn sách Xuân Thu,
chú giải Kinh Dịch, v.. v.... (Có
người
cho rằng Khổng Khâu chẳng soạn được bộ sách
nào cả)
Muốn hiểu thêm Kinh Thư, người thông
thạo ngoại ngữ
nên đọc thêm Bernhard Karlgren, The Book
of Documents (Stockholm:
1950);
Saraphin
Couvreur, Chou King: Les annales de la
Chine (Paris:
1950); hay Clae Waltham, Shu Ching: Book
of History (Chicago:
1971).
Xuân Thu (tức sử nước Lỗ),
vẫn theo lời truyền thuyết,
do Khổng Khâu soạn theo lối “biên niên.”
Xuân Thu được coi như nguồn
gốc sử học Trung Hoa. Bộ Xuân
Thu có ba bản chú giải: một
của Tả Khâu Minh (Tso Ch'iu-ming, cùng thời
với Khổng
Khâu), gọi là Tả Thị Xuân Thu hay Tả
truyện (có thuyết cho là của Tả Khưu,
đời Tấn); một
do Công Dương Cao (Kung Yang-kao, cuối đời
Chu), thường gọi
là Công Dương Truyện, và một của Cốc
Lương
Xích (Ku Liang-ch'ih, đời Hán), tức Cốc
Lương truyện.
Chính bản của Khổng Khâu và ba bản diễn
nghĩa chỉ
được truyền khẩu, ai muốn hiểu sao cũng
được. Vì sợ va chạm với
người quyền thế, sách bị dấu kín, chưa ai
được thấy
nguyên bản. Nhưng môn đệ Khổng Khâu (như
Mạnh Kha)
thích ca ngợi Xuân Thu “là việc của
Thiên tử,” hay “Khổng tử viết xong Xuân Thu
mà rồi
loạn thần, tặc tử sợ.” (Xuân Thu Tam
Truyện [Hoàng
Khôi 1969], I:11) Chu Hy tán thêm: “Sách
Xuân Thu căn cứ vào đương thời đại loạn,
thánh
nhân cứ thực sự chép ra. Còn như được hỏng,
phải
trái, đã có hậu thế luận bàn.” (Ibid.,
I:31) Nói cách khác, Xuân Thu
cùng ba bản diễn nghĩa là một tổng hợp kiến
thức nhiều
đời; chẳng ai rõ chữ nào của Khổng Khâu, câu
nào của người khác. Mãi tới thời nhà
Hán (206 TTL-8 STL, 25-220), Ðổng Trọng Thư
mới khởi dạy
sách Xuân Thu. Từ đó, Xuân Thu
còn tam sao thất bản hơn nữa.
Xuân Thu cùng ba bản giải
thích của họ
Tả, họ Công, họ Cốc đã được dịch qua tiếng
Việt, gọi chung
là Xuân Thu Tam Truyện (bản dịch
Hoàng
Khôi, 3 tập, Sài Gòn: 1969). Những
câu
ngắn
ngủi
như “ẩn công, Nguyên niên,
Xuân vương chính nguyệt; tam nguyệt, công
cập
Châu Nghi Phủ minh vu miệt” [ẩn công,
Năm đầu,
mùa Xuân tháng Giêng [vua nhà Chu
lên ngôi] vương; Tháng Ba, [Lỗ] Công
[và] Châu Nghi Phủ thề ở đất Miệt], v.. v...
thật tối tăm,
khó hiểu với người đọc. Dù giống như thể ghi
niên
biểu sơ lược sau này–theo theo kiểu một
chuỗi keywords
[chữ chính] chắp nối với nhau, và không ai
hiểu
được ý nghĩa nếu không đọc thêm những lời
bình giải. Nhượng Tống sử dụng những tiếng
nặng nề như “băm
nhau” để đánh giá Xuân Thu,
nhưng nhận
xét này hơi quá đáng. Nội dung hay kỹ thuật
Xuân Thu chẳng có gì đáng
kể, nhưng tính chất cổ thời và giá trị lịch
sử
là điều không ai có thể phủ nhận–một tác
phẩm với hơn hai ngàn năm tuổi đời mà nội
dung
ngày một nhiều chi tiết hơn, tổng hợp quan
niệm sử và
chính trị của các nho gia Trung Quốc.
Shih chi [Sử Ký]
của
Sima Qian [Ssu-ma Ch'ien, Tư Mã
Thiên,] (145-86 TTL), đời Hán–một trong 21
bộ
“chính sử” của Trung Quốc trước thế
kỷ XVII–cũng là
khuôn vàng, thước ngọc của sử quan Việt.
Sách
này chép theo lối kỷ truyện. Sau Sử Ký,
sử
quan và văn gia Việt rất ưa chuộng các sách
Tsu-chih
t'ung-chien
[Tư
Trị
Thông
Giám] của Tư Mã Quang
(1019-1086), và Thông Giám Cương Mục
của
Zhu Xi [Chu Hy, 1130-1200; còn được biết như
Chu Tử, Trúc
Ðình, hay Tử Dương (Chỉ nên tìm ra ý
định [intentions] của tiên Thánh khi
đọc kinh
sách)]. Hai sách này cũng theo thể biên
niên. (Lê Quí Ðôn, Ðại Việt
Thông Sử, bản dịch Ngô Thế Long &
Văn Tân
[Hà Nội: 1978], tr. 19-20).
Các sử quan Việt
thiên về phương
pháp “biên niên,” nhưng đôi lúc cũng
linh động áp dụng lối “kỷ truyện.” Bộ Ðại
Việt Sử Lược
của Lê Văn Hưu–soạn từ cuối đời Trần Thái
Tông
(1226-1258) tới năm Nhâm Thân (1272) đời
Trần Thánh
Tông (1258-1278) mới hoàn tất, gồm 30 quyển,
từ đời Triệu
Võ Vương (207-137 TTL) tới Lý Chiêu Hoàng
(1226)–chép theo lối biên niên như Thông
Giám Cương Mục của Chu Hy. Nhưng thỉnh
thoảng có lời
bình giống như Sử Ký của Tư Mã
Thiên (kỷ truyện). (Theo Lê Tắc, Lê Văn Hưu
sửa
sách Việt Chí của Trần Tấn; ANCL,
1961:237)
Ðại Việt Sử Ký
Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên–dựa trên
các bộ Ðại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu
(1272), Ðại Việt Sử Ký Tục Biên của
Phan Phu
Tiên (1455) và Dư Ðịa Chí của Nguyễn
Trãi (1435)–vẫn theo cách biên niên, nhưng
thêm vào các mục, loại (tị sự), “chê, khen,
phân biệt người hay kẻ dở” theo kiểu Xuân
Thu của
Khổng Khâu và Sử Ký của Tư Mã
Thiên.(“ Biểu dâng sách;” Toàn Thư [Giu
1967], I:20)
Phan
Phu Tiên
sinh quán tại làng Vẽ (Ðông Ngạc), huyện Từ
Liêm, Bắc Ninh. Ông có công sửa lại bộ Việt
sử
cũ (không chép tháng), từ Trần Thái
Tông (1226-1258) tới năm 1427.([KÐ]VSTGCM,
18:29,
I:970)
Nguyễn
Trãi
(1383-1442) là khai quốc công thần của nhà
Hậu
Lê; lưu lại hậu thế một sự nghiệp văn học
đáng kể, đặc
biệt là bộ Ức Trai Tập.
Như đã lược
nhắc, bộ Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư còn
lưu truyền hiện nay không phải là nguyên bản
của
Ngô Sĩ Liên, mà đã được hiệu đính, sao
chép lại nhiều lần.
Những người viết
tục
biên có:
(1)
Ðầu thế kỷ XVI,
Vũ Quỳnh viết Ðại Việt thông giám, hay
Việt
giám
thông
khảo. Chép từ đời Hồng Bàng
tới Thập nhị sứ quân (966) làm Ngoại kỷ. Bản
kỷ khởi
từ
Ðinh
Tiên
Hoàng
(968-979)
tới
năm
đầu
[Hậu]
Lê Thái Tổ (1428).(“ Phàm Lệ,” Toàn
thư [Giu 1967], tr. 21)
(2)
Lê Tung
[Dương Bang Bản, 1452-?] viết Ðại Việt
thông giám
tổng luận, hay Việt giám thông
khảo tổng luận
(1514), tóm tắt bộ sử của Vũ Quỳnh cho vua
Lê Tương Dực
(1510-1516) đọc. (Toàn Thư [Giu
1967], I:39; KÐVSTGCM,
q.26, tờ 11A)
(3)
Ðầu đời
Lê Huyền Tông (1662-1672), Phạm Công Trứ
(1600-1675)
soạn Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư Bản Kỷ, Tục
Biên (1665), gồm 23 quyển. Chép từ
thời Hồng
Bàng tới Lê Thái Tổ, y theo sách Ngô
Sĩ Liên và Vũ Quỳnh. Riêng phần Bản Kỷ,
Tục
Biên–từ Lê Lợi tới Lê Cung Hoàng
(1522-1527), tức quyển 11-15, và từ Lê Trang
Tông
(1533-1548) tới Lê Thần Tông (1619-1643,
1649-1662)–dựa
theo Thực lục. (Phan Huy Chú, (Hà
Nội: 1992),
3:71; Gaspardone, BEFEO, số 34 (1934), tr.
59). Ðây là
bộ sử đầu tiên được khắc bản, ấn hành. (Phan
Huy
Chú, (Hà Nội: 1992), 3:72) Tuy nhiên, bản
khắc mới
chỉ hoàn tất được 5, 6 phần mười.
(4)
Trong thời Lê
Hy Tông (1680-1705), Lê Hi (1648-1703) và
Nguyễn
Quí Ðức, soạn Sử ký Tục biên,
chép tiếp đến cuối đời Lê Gia Tông
(1662-1675). Gồm
5 tập Ngoại kỷ và 19 tập Bản kỷ Tục Biên
(1697). Ðược
khắc bản, ấn hành. Ðây là bộ sử còn lưu
truyền đến hiện nay. (Xem bản dịch Cao Huy
Giu [Hà Nội: NXB Khoa
Học, 1967]; Ðào Duy Anh “hiệu đính, chú giải
và khảo chứng.”)
(5)
Ðời Lê
Hiển Tông (1740-1786), Ngô Thì Sĩ
(1726-1780), Phạm
Nguyễn Du, Ninh Tốn, Nguyễn Sá soạn Quốc
sử tục biên. Gồm
6
quyển,
chép
từ
Lê
Hy
Tông
(1675-1705)
tới Lê
Ý Tông (1735-1740). (Phan Huy Chú, 1992,
3:73)
(6)
Nguyễn Nghiễm
(1708-1775) soạn Việt sử bị lãm. Gồm
7 quyển.
(7)
Năm 1775, Nguyễn
Hoản [Hoàn?] (1713-1792), Lê Quí Ðôn, Vũ
Miên (1718-1788), v.. v... được lệnh soạn Quốc
triều tục
biên, 8 quyển, từ Lê Trang Tông
(1533-1548) tới
Lê Gia Tông (1671-1675). Bổ sung chỗ thiếu
của sử cũ. [Theo
KÐVSTGCM, chép thêm từ đời Lê Hy Tông
(1676-1705) tới Lê Ý Tông (1735-1740). (CM.
q.44, tờ
26)?].
(8)
Ðến đời
Tây Sơn, năm 1798 Quang Toản cho lệnh viết
lại sử. Vì bộ Ðại
Việt
Sử
ký bị mất, Ngô Thì Nhiệm (1746-1803?)
thu góp tài liệu cũ viết từ đời Hồng Bàng
đến thập
nhị sứ quân (968) làm Ngoại kỷ, gồm 7 tập,
và từ
Ðinh Tiên Hoàng (968-980) tới năm Lê Lợi
giải
phóng Ðại Việt khỏi ách đô hộ của nhà
Minh (1427) làm Bản kỷ, gồm 10 tập; tổng
cộng 17 tập. Năm 1800,
bản gỗ khắc xong, vua Quang Toản cho in với
tựa Ðại Việt Sử
ký tiền biên. (Gaspardone 1934:65,
73-74; bản dịch của
Viện Hán Nôm Hà Nội năm 1997)
Hiện
nay, có hai
bản dịch Việt ngữ của Ðại Việt Sử Ký
Toàn Thư: Một
của
Nhượng
Tống
(chỉ
có
Ngoại
kỷ),
một
của Cao Huy Giu (trọn bộ,
1967, dựa theo bản Lê Hi [1697])
Các tác
giả Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương
Mục
(1856 khởi viết, 1859 hoàn tất, hiệu đính từ
1871 tới
1878, in năm 1884) tự nhận đã theo phương
pháp mà
bảy thế kỷ trước Chu Hy dùng để viết cuốn Thông
Giám
Cương Mục. Sử kiện được thuật theo lối
biên
niên, trước hết tóm lược dữ kiện chính trong
vài hàng (cương), rồi diễn giải rõ
ràng chi tiết hơn (mục). Tuy nhiên,
cách
trình bày dữ kiện thì lại theo lối sách Xuân
Thu của Khổng Khâu.
Bộ Ðại Nam Thực
Lục của quốc sử
nhà Nguyễn thì, cũng giống như Ðại Thanh
Thực Lục,
theo phương pháp biên niên sử. (Xem, chẳng
hạn, Ta
Ch’ing
Jen
Tsung
Yue
huang
ti
tu
lu [Ðại Thanh Gia Khánh
Huệ Hoàng đế thực lục] (Taipei: 1964)
B.
GÁNH NẶNG
“THÁNH GIÁO”:
Thứ hai, sợi giây
xuyên suốt
các nhận định (“đao bút”) trong các bộ quốc
sử
nhà Lê và Nguyễn nói trên là
tinh thần Khổng học như thiên mệnh,
chính thống, tam
cương, ngũ thường, v.. v... vay mượn
từ phương Bắc. Chỉ cần đọc
“Phàm Lệ” của các sử quan trong bộ Ðại
Việt Sử
Ký Toàn Thư, người ta thấy tinh thần
đao bút
Khổng giáo quá hiển lộ. Chính vì thế
cách sắp xếp các triều đại thiếu tinh thần
khoa học,
đôi khi vô lý: Như trên thực tế, quân
Minh chiếm đóng Ðại Việt suốt 20 năm, sử chỉ
chép
có 4 năm; những năm còn lại chia cho các vua
Hậu
Trần và thời kỳ kháng chiến của Lê Lợi để
bảo tồn
“quốc thống!” (Toàn Thư [Giu 1967],
I:24) Hay con
Lê Ðại Hành là Lê Trung Tông vừa
lên ngôi được 3 ngày đã bị em là
Lê Long Ðĩnh giết, nhưng sử quan chỉ cho
Ngọa Triều lên
ngôi 8 tháng sau “để định tội Ngọa triều
cướp ngôi
giết anh.” (Ibid., I:23) Lời
“Bàn” hay “cẩn án” của các sử quan sau mỗi
sự kiện cũng dựa
theo nghi lễ và đạo đức Khổng giáo. Ðinh
Tiên
Hoàng (968-979), chẳng hạn, dù được coi như
nối
dòng chính thống của Hùng Vương (2879-255
TTL), bị
chê trách đã lập đến năm hoàng hậu, vi phạm
nguyên tắc “tam cương” của Khổng giáo, nên
mất đi
“thiên mệnh.” (Toàn Thư [Giu 1967],
I:45-6, 55) Bộ Khâm Ðịnh Việt Sử
Thông Giám Cương Mục còn thêm lời “phê”
của Tự Ðức (1848-1883). Những lời phê này
được viết
cao hơn văn bản (gọi là viết đề lên).
Dù
phản ảnh nhân sinh quan và vũ trụ quan của
vua vào
thế kỷ XIX, nhưng những lời phê trên không
thoát khỏi khuôn khổ “chính giáo.”
Các tác nhân lịch sử bị đặt lên chiếc giường
“thánh giáo” ấy, thừa thì chặt bớt đi, ngắn
kéo dài ra cho vừa với khuôn mẫu triết lý
chính trị Nho giáo. Ðó là chưa kể đến
sự thù hằn và lòng ghen tài với những người
như Lê Quí Ðôn.
Lối viết sử kiểu
nhị nguyên này
đưa đến lối trình bày và nhận xét nhiều khi
quá đơn, giản. Mọi tác nhân bị căng ra giữa
hai đối
cực chính và ngụy. Ki-tô
giáo, chẳng hạn, bị lên án là “tả đạo.”
Các nhà truyền giáo và giáo mục,
giáo dân bản xứ bị lên án là “ngụy”
(giặc), “phiến gian thụ đảng” (tụ
tập phe đảng làm
loạn), “nam nữ hỗn loạn, hạnh kiểm như
cầm thú” v..
v.... Ngay đến triều đại lập nhiều chiến
công nhất trong lịch sử
cận đại Việt như nhà Tây Sơn (1778-1802)
cũng bị lên
án là “ngụy,” với những cách diễn tả như
“tiếm
hiệu,” “tiếm ngôi,” “xâm phạm ... nước
An-Nam” (khi
tiến quân vào Nam truy diệt dòng giõi
chúa Nguyễn, hay ra Bắc phò Lê, diệt
Trịnh), v.. v...
[Xem
bài
về
nhà
Tây
Sơn]
Lịch sử trở thành
tài liệu
tuyên truyền, nhồi sọ “thánh giáo”–có thể
gọi chung là tài liệu truyền giáo–hơn tấm
gương
soi mặt ngàn đời, để có thể từ đó rút ra
những bài học hữu dụng cho tương lai mà các
sử
quan mong muốn. (Tổng luận của Lê Tung
[1514], Toàn Thư
[Giu 1967], I:39)
C.
THIẾU SỬ LIỆU:
Tư liệu sử dụng
để viết
các bộ quốc sử Việt phần lớn dựa theo chính
sử và
dã sử Trung Hoa, được tăng bổ hay chế biến
lại theo quan điểm
“quốc thống.”
Vì mãi tới thế kỷ
thứ X, nước
Việt mới giành được quyền tự chủ, việc tìm
lại quốc tổ
quả thực nhiều vấn nạn. Năm thế kỷ sau, Ngô
Sĩ Liên mới
chọn Hùng Vương làm quốc tổ, và lấy Ngô
Quyền (939-944) làm đầu mối phục hưng quốc
thống của Hùng
Vương. Vũ Quỳnh đồng ý Hùng Vương là quốc
tổ,
nhưng lại khởi viết bản kỷ Ðại Việt
thông giám
từ Ðinh Tiên Hoàng (968-979). (“Phàm Lệ,”
Toàn thư [Giu], tr. 21) Sử
quan
các
triều
kế
tiếp
đều
đồng
ý
chọn Ðinh
Tiên Hoàng để mở đầu phần chính biên.
Công trình tái dựng
nguồn
quốc thống ngược lên tới nhà Hồng Bàng và
Hùng Vương là một công trình cực kỳ
khó khăn và phức tạp.
1. Các sử quan
và văn nhân Trung Quốc, kể cả Khổng Khâu–do
giới hạn
kiến thức về thiên văn, địa lý, cùng tự tôn
chủng tộc của thời đại họ–chỉ thấy Trung
Quốc như tâm điểm của
một vũ trụ hình vuông, các dân tộc hay sắc
dân khác ở ngoài cái khung hình
vuông ấy là “mọi rợ.”
Khổng Khâu sử dụng
tới bốn tiếng Bắc địch,
Nam man, Tây Nhung, Ðông di
để
gọi các dân tộc “mọi rợ” lân bang. (Seraphin
Couvreur, Li Ki: Mémoires sur les
bienseances et les
cérémonies, 2 tập (Paris: 1913),
I:295) Chẳng hiểu
dựa theo tài liệu nào, Khổng Khâu còn
phán [văn] rằng các dân “Nam man”
nằm ngủ
“chân, đầu lộn ngược” (để chân người này lên
đầu người kia). Văn gia Trung Quốc thì hoang
tưởng ra những
truyện đại loại như “Quỉ Môn Quan” mà Mã
Viện từng
dựng bia khi chiến thắng quân Hai Bà Trưng
trở về.
[Yo
chih (Nhạc Sử) đời
Tống (960-1279), trong cuốn Thái Bình
Hoàn vũ
ký, viết: Ðời Tần muốn tới đất Giao
Chỉ phải qua Quỉ
Môn Quan; mười người qua, chín người không
trở lại.
(Dẫn trong Lê Quí Ðôn, Vân
Ðài Luận Ngữ [1772], bản dịch Phạm Vũ,
Lê Hiền
(Sài Gòn: 1972), tr. 145)]
Mãi đến hạ bán thế
kỷ XVIII,
Lê Quí Ðôn còn phải phản đối việc quan
chức nhà Thanh gọi sứ đoàn Việt là “mọi” [di
nam,
di mục], nên nhà Thanh mới đồng ý đổi
thành “An Nam cống
sứ.” (Lê Quí
Ðôn, VÐLN, tr. 9) Nhưng nhà Thanh vẫn giữ
nguyên tên “Trấn Nam Quan” cho cửa
ải ở phương Nam,
trong khi các văn gia Việt gọi nó bằng tiếng
“ải Nam
Quan” hay “ải Nam Giao.” Và, dù từ năm
1804 vua Gia
Khánh nhà Thanh đã đổi quốc hiệu nước ta
thành “Việt Nam,” nhưng sách sử giáo
khoa
Trung Quốc vẫn ghi “An-Nam,” một
thuộc quốc của “thiên
triều.” (Xem “An Nam chinh vũ ký” của Ngụy
Nguyên (1842))
Cho
đến thế kỷ XIX, XX
người Trung Quốc vẫn chưa sạch lòng cao ngạo
chủng tộc
này. Họ thường gọi người Tây phương là “Bạch
quỉ” hay rợ Tây (Tây di).
Những bạch quỉ hay
Tây di này chỉ ỷ vào vũ lực hùng mạnh, ăn
hiếp một dân tộc văn minh duy nhất trên thế
giới, biểu lộ
qua việc cho quân sĩ xếp hàng dài theo biên
giới Nga, tụt quần, chổng mông. Bởi thế,
nhan nhản trong sử
sách những lập luận như “Hán Vũ đế tru
Lữ Gia khai
cửu quận, thiết thứ sử dĩ trấn chi, tỉ
Trung Quốc nhân tạp cư kỳ
gian, sảo sử học thư, thô tri ngôn ngữ, sứ
dịch vãng
lai, quan kiến Lễ hóa...” [Hán Vũ Ðế
giết Lữ Gia,
mở 9 quận, đặt thứ sử để trấn áp, đưa dân
Trung Quốc tới ở
chung, giúp mở mang việc học, biết tiếng
Trung Hoa một
cách thô vụng, sứ đoàn đi lại, cho thổ dân
biết được lễ nghĩa, phong hóa]. (KÐVSTGCM,
Tiền Biên
(Sài Gòn: 1970), III:6A). Chẳng khác gì
Charles de Gaulle, vào năm 1945, vẫn khăng
khăng Pháp “đã
mở
cửa
cho
dân
Annamite
vào
thế
giới
văn minh,”
và quyết mang súng đạn, xe tăng xin mượn của
Bri-tên và Mỹ để đưa “con tàu lạc bến
Ðông Dương” trở lại “vòng khai hóa.”
2. Nỗi khổ tâm
của các sử quan Việt không chỉ giới hạn
trong việc chống
lại lối nhìn tiên thiên “mọi rợ” của sử quan
và văn thi gia Trung Quốc để viết lại về tổ
tiên
mình [tương tự như lối diễn tả ước lệ chậm
tiến, thế giới
thứ ba, hay các nước đang mở mang
hiện nay]. Họ
còn phải tự trói trong khuôn khổ những
“thánh ngôn” của Khổng Khâu và đệ tử
mà họ đã bị nhồi sọ từ thuở để chỏm là thần
thánh, vĩ đại, bậc thày hàng vạn đời [khoảng
100,000 năm] của nhân loại.
[Khổng
Khâu là người đưa ra
lý thuyết trái đất vuông, trời tròn,
và chỉ khoảng 2,000 năm sau ngày ông ta
chết,
thuyết trên đã bị phá sản.
Sau
này, khi các nhà
truyền giáo Tây phương như Malteo Ricci (Lợi
Mã
Ðậu), Ferdinandus Verbiest (Nam Hoài Nhân,
tác
giả Khôn dư đồ thuyết), Guileo Aleni
(Ngải Nho Lược), v..
v.. bàn và viết về đất tròn, biển tròn tại
triều nhà Minh, Lê Quí Ðôn vẫn tìm
được cách ngụy biện rằng “tiên nho” đã biết
truyện
trời tròn, đất tròn qua thuyết “Hỗn thiên”
rồi!
(VÐLN, 1972:60, 77, 78, 177-82)]
Và, nếu tin được
Lê Tắc, đã có lần vua Trung Quốc hỏi một sứ
giả
Việt là phải chăng ở quận Nhật Nam, mặt trời
mọc từ hướng Bắc!
3. Nỗi nhức đầu
khác của các sử quan như Lê Văn Hưu hay Phan
Phu
Tiên, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, v.. v... là hầu
hết chính sử Trung Quốc cung cấp rất ít dữ
kiện về nước
Việt. Ngay trong số dữ kiện hiếm hoi được
ghi lại thì
không chỉ sai lạc, mà còn đứng trên quan
điểm
một thượng quốc hay thiên triều đối với một
thuộc quốc.
a. Không hoặc
rất ít dữ kiện:
(1) Kinh Thư,
chẳng hạn, chẳng nói gì về cổ Việt. Xuân
Thu của
Khổng
Khâu
chỉ
nói
về
nước
Lỗ.
Sự im lặng này
có thể vì hai bộ Kinh Thư và Xuân
Thu đã chịu cảnh tam sao thất bản sau
hàng thế kỷ
chiến tranh. Ðó là chưa kể ngọn lửa phần thư
của Tần
Thủy Hoàng (221-207 TTL) và Sở Bá Vương Hạng
Vũ
[Hang Yu] (hỏa thiêu thành Hàm Dương [Hien
yang]
năm 206 TTL). Mãi tới thời nhà Tiền hay Tây
Hán (206 TTL-8STL), mới có những nỗ lực truy
tìm
cổ thư.
[Nhiều sách
Việt từ thời Pháp thuộc sử dụng thuật ngữ
“trước” và “sau
Công Nguyên”để chuyển dịch những tiếng
“trước Jesus”[B.C.]
và”sau Jesus [AD]. Jesus, theo những biên
khảo khả
tín, không sinh vào năm thứ 1 Tây
lịch]
Chi tiết cổ nhất về
nước Việt trong kinh
sách Trung Quốc là việc sứ Việt Thường tới
cống chim trĩ
trắng thời Chu Thành Vương (1115-1079 TTL)
của nhà
Tây Chu (1122-771 TTL). Chuyện này được Phúc
Thắng
ghi trong Thượng thư đại truyện (đầu
đời nhà
Hán). Rồi được lập lại trong Sử Ký
của Tư
Mã Thiên, và Hậu Hán Thư (Nam Man
Truyện, q. 116).
Tân Mão [1110
TTL, năm Chu
Thành vương thứ 6]: Phía nam Giao Chỉ có
họ Việt
Thường, sau ba lần thông dịch, đến cống
chim trĩ trắng.” (dẫn trong Cương
Mục, TB [Sài
Gòn: 1965], II:29-31. ANCL của Lê
Tắc ghi là
chín lần thông ngôn; q. 1, tr. 16
(Hán
ngữ), tr. 23 (Việt ngữ); Toàn Thư
[Giu 1967],
I:313chú 5. [Cũng nhắc năm này, Tư Mã Thiên
chép Hùng Huy vương đến cống chim trĩ
trắng].
Các học giả
ngày nay nghĩ rằng chi tiết trên liên quan
đến sự
chế tạo ra kim chỉ nam hay địa bàn hơn nói
về nước Việt
Thường. Nhưng năm 1804, trong chiếu sắc
phong Nguyễn Chủng (vua Gia
Long) làm Việt Nam Quốc Vương, Gia Khánh và
triều
thần nhà Thanh vẫn nhắc đến nước Việt
Thường, để tỏ sự
lâu đời của mối bang giao Hoa-Việt. Trong bộ
Ðại Nam Nhất
Thống Chí của nhà Nguyễn, tên Việt
Thường được
gán ghép cho rất nhiều địa danh, mà chẳng
bận
tâm chứng minh.
Từ đời Ðường
(618-917), các văn
gia Trung Quốc mới bàn nhiều về cổ Việt.
Khổng An Quốc, khi
chú thích Kinh Thư, diễn giải “Nam
Giao” trong
thiên Ðế điển thành “Giao Chỉ.” Qua đời Tống
(960-1279), Thái [Sái] Trầm cũng lập lại
luận cứ “Nam
Giao” là “Giao Chỉ” trong Thư Kinh Tập
Truyện. (CM,TB
(Sài Gòn), 1965, II:27).
Thiên
Nghiêu điển của kinh Thư chép: “Vua Nghiêu
lại sai
Hy Thúc đến ở Nam Giao tại phương Nam, sắp
đặt theo thời tiết ở
phương Nam, kính cẩn ghi bóng mặt trời
ngày hạ
chí, là ngày dài nhất [trong một năm]
và xem sao Ðại hỏa để định cho đúng tiết
trọng hạ
[tháng 5 âm lịch]. Lúc đó dân cư tản
mác, chim và thú thưa lông [vì
nóng nực].
Cũng dưới thời nhà
Tống, Cheng Ch'iao
(Trịnh Tiều, 1104-1162) thượng-cổ-hóa hơn
nữa mối liên hệ
giữa Trung Hoa với cổ Việt. Trong cuốn Thông
chí
[T'ung chih] (in lại trong Thập
Thông [Shih-t'ung]
(Shanghai: Commercial Press, 1935), Trịnh Tiều cho sứ
Việt Thường qua thông
hiếu từ năm Mậu Thân [2352 TTL], tức năm thứ
năm đời vua
Ðường Nghiêu (2357-2258 TTL). Vật tiến cống
là một con
rùa thần [Ðường
Nghiêu Mậu thân ngũ tải, Việt thường thị
lai triều hiến
thần qui]. Trên lưng
con rùa này còn có chữ khoa đẩu ghi việc
trời đất mới mở trở về sau. Nghiêu sai người
chép lại, gọi
là “quy lịch” (lịch rùa). (Cương Mục,
Tiền Biên
(Sài Gòn: 1965), II:28-9)
Cuối đời nhà
Tống và đầu đời Nguyên (1279-1368), Kim Lý
Tường
(1232-1303) cũng lập lại chuyện cúng rùa
thần trên
khi dùng Kinh Thư để viết Thông Giám
Tiền
Biên tức phần Tiền Biên cho cuốn Tư
trị Thông
Giám của Tư Mã Quang đã nhắc ở trên.
(2) Bộ Sử Ký
của Tư Mã
Thiên đời Hán chẳng nói gì nhiều về cổ Việt.
Không hề nhắc chuyện nhà Hồng Bàng hay Thục
vương.
[Burton Watson, Records of the Grand
Historian of China, from the
Shih chi of Ssu-ma Ch'ien, 2 vols (New
York: 1961). Sẽ dẫn: Tư
Mã Thiên (Watson)].
Khi viết về Ngô
Khởi và Triệu Ðà, Mã Thiên chỉ mơ hồ
nhắc đến Bách Việt [Pai Yueh] ở phía
Nam
sông Dương tử.
[Sở
Ðiện vương sai
Ngô Khởi đánh dẹp đất Bách Việt ở phương
Nam. (Toàn
Thư [Giu 1967], I:313chú 4)]
Nhà
Tần lại sai
Úy Ðà, Ðồ Thư đem quân Lâu thuyền
xuống Nam đánh đất Bách Việt, sai Giám Lộc
đào cừ chở lương để vào sâu đất Việt. Người
Việt bỏ
trốn. Quân Tần trì cứu lâu ngày. Lương thực
bị tuyệt và thiếu. Người Việt ra đánh. Quân
Tần đại
bại. (Toàn Thư [Giu 1967],
I:315chú 27)
Tư Mã Thiên còn
nhắc đến
sứ Việt Thường cống chim trĩ trắng vào
khoảng năm 1110 TTL, dưới
thời Chu Thành Vương như đã nhắc ở trên.
Vào thế kỷ thứ II,
khi chú giải Sử Ký (q. 31), Ứng Thiệu nói về
tục vẽ mình
của người Việt: “Vì ở
trong nước nên người ta cạo tóc xâm mình
để
cho giống với giao long nên không bị giao
long hại nữa.” (Toàn Thư
[Giu],
I:314chú 15)
Sáu thế kỷ sau, Tư
Mã Trinh,
trong Sử ký sách ẩn (chú giải Sử
Ký của Tư Mã Thiên) mới nhắc đến cổ
Việt với
nhiều chi tiết hơn, dựa theo một đoạn trong
Quảng Châu
Ký của Ðào [Văn Hàm]. [Xem đoạn dưới]
(3) Hán Thư
[Han shu] của Pan Ku [Ban Cố, 32-92]
và những người
khác, gồm 100 truyện, không nói đến
cổ Việt.
(a).
Tiền
Hán Thư [Hsin Han shu, Annals of the
Former Han, 206 TTL- 8
STL)] của Ban Cố chỉ nhắc đến Giao
Châu trong “Mã
Viện truyện.”
[Chúng
tôi
tham khảo bản Hán ngữ trong bản dịch Anh ngữ
của H. H. Dubs, The
History
of
the
Former
Han
Dynasty
by
Pan
Ku, 3 vols (Baltimore:
1938. 1944, 1955)]
(b).
Hậu Hán
Thư [Hou Han shu] của Fan Yeh (Phạm
Việp, 398-446), có Nam
Man
truyện nói về sứ Việt Thường cống
chim trĩ trắng dưới
thời Chu Thành Vương đã lược nhắc. (CM, TB
(Sài
Gòn:1965), I:17n1. Don Luce dịch qua Mỹ ngữ)
Ngoài ra,
còn những truyện [cung văn] về danh tướng và
quan chức
Bảo hộ như Phục Ba Tướng Quân Lộ Bác Ðức, Mã
Viện, Tích Quang, Nhâm Diên, v.. v....
Sự im lặng về cổ
Việt
này, ít nữa, có thể do một hay nhiều trong
những
nguyên nhân sau:
(a) Dân cổ Việt,
tức tổ tiên chúng ta, chưa hề tiến tới trình
độ
thành lập một quốc gia; hoặc,
(b) Các văn gia
Trung Quốc kiến thức hạn hẹp, không hề biết
đến những nước
lân bang; và/hoặc,
(c) Trong nỗ lực
đồng
hóa dân Việt, sử quan và văn gia Trung Quốc
cố
tình tảng lờ sự hiện diện của nước cổ Việt,
mà chỉ
thích bàn về công ơn khai hóa của các
vua quan Trung Quốc; và/hoặc
(d) Do thiếu
phương
tiện bảo quản, sao đi chép lại phần lớn do
trí nhớ, người
sao chép chỉ giữ lại những gì mình ưa
thích, nên các tư liệu bị mất mát.
b. Sai lạc về chi
tiết:
Các chi tiết về
cổ Việt, như đã lược nhắc, chỉ bắt đầu xuất
hiện từ đời
nhà Ðường (618-917), nhà Tống (962-1274) trở
đi.
Có lẽ vì nước Việt đã giành được quyền tự
chủ, nên sử quan và văn gia Trung Quốc chú ý
hơn về xứ thuộc địa Giao Châu, Giao Chỉ,
Tĩnh Hải quân rồi
An Nam Ðô hộ, Trấn Nam Ðô hộ cũ ở phương
Nam. Hoặc,
sự hiểu biết về các nước lân bang đã phong
phú hơn.
Trong số các
tác phẩm giai đoạn này, đáng kể nhất có:
(1) Thái Bình
Ngự
Lãm [T'ai-p'ing yu-lan] do Li Fang [Lý
Phương]
(925-996) và nhiều người khác biên soạn, gồm
1,000
truyện. In lại trong thời gian 1807-1812,
dùng bản khắc cũ.
[Có hai chữ Thái Bình vì soạn xong
vào niên hiệu Thái bình hưng quốc (976-983),
triều Tống Thái Tông (976-997)].
(2) Thái Bình
Quảng
Ký của Lý Phỏng [Phương?] (Lê Quí
Ðôn, VÐLN, tr. 46-7)
(3) Thái Bình
Hoàn
vũ ký của Yo chih [Nhạc Sử] đời Tống
(960-1279). Gồm 200
quyển, nhưng nay chỉ còn 193 quyển. Mất các
quyển 113 tới
119. Sách chuyên về địa lý cổ.
Dùng chi tiết “Hùng
vương,
hùng hầu, hùng tướng, hùng dân, hùng
điền trong Nam Việt Chí của Thẩm
Hoài Viễn (thế
kỷ V).
Ðất Giao Chỉ rất
màu mỡ, người ta
di dân đến ở, chính họ là người đầu tiên
khai
khẩn đất này. Ðất đen và xổi, hơi xông
lên mùi hùng. Vì vậy người ta gọi ruộng
đó là hùng điền, dân đó là
hùng dân.
Phong châu là quận
Thừa
hóa, nước Văn Lang xưa.
Quỉ Môn Quan: Ðời
Tần muốn tới đất
Giao Chỉ phải qua Quỉ Môn Quan; mười người
qua, chín người
không trở lại. Mã Viện lập bia tại đây. (Lê
Quí Ðôn, Vân Ðài Luận Ngữ,
bản dịch Phạm Vũ, Lê Hiền, tr. 145)
(4) Thông
chí của Trịnh Tiều (1104-1162):
Theo
Kinh Thư, “Vua
Nghiêu sai Hy Thúc sang Nam Giao lo việc làm
ruộng
mùa Hè ở phương Nam.” Nam Giao tức Giao Chỉ.
Năm
Mậu Thân, năm
thứ năm đời vua Nghiêu, họ Việt Thường vào
cống con
rùa thần, trên lưng có chữ khoa đẩu ghi việc
trời
đất mới mở trở về sau. Vua Nghiêu sai người
chép lại, gọi
là “quy lịch” (lịch rùa). (Cương Mục [Sài
Gòn], 1965, II:28-9)
(5). Thông
Giám Tiền Biên của Kim Lý Tường
(1232-1303):
Năm Mậu Thân, năm
thứ năm đời vua
Nghiêu, họ Việt Thường vào cống con rùa
thần. [Ðường
Nghiêu
Mậu
thân
ngũ
tải,
Việt
thường
thị
lai triều hiến
thần qui]
c.
Giọng điệu trịch
thượng:
Sử liệu Trung
Quốc về
Việt Nam luôn mang giọng trịch thượng của
thiên quốc đối
với chư hầu. Trung Quốc tự hào là mặt trời
soi
sáng tứ phương; ân sủng vua Trung Quốc tắm
gội vua quan
Việt và các chư hầu khác.
Mỗi lần xuất quân
xâm lăng
Ðại Việt, Trung Quốc đều tự xưng là “chinh
phạt,”
hầu đưa vua quan và quốc dân Việt trở về
vòng
giáo hóa. Hễ thua trận rút về thì đổ tội
cho thời tiết khó chịu, đau ốm, vua nước
Việt xin tha tội.
Thí dụ tiêu biểu nhất là đoạn viết về cuộc
xâm lăng Ðại Việt năm 1077 dưới thời Lý Nhân
Tông (1072-1128) trong Tống sử Cương Mục
mà
chính anh em Trình Di, Trình
Hiệu
phải cải chính trong Nhị Trình di thư.(
Lê
Quí Ðôn, VÐLN, tr. 174-175)
Triệu
Quang Nghĩa (Tống
Thái Tông, 976-997, em Triệu Khuông Dẫn) sai
Vương
Vũ Xứng viết cho Lê Hoàn vào tháng 9-10/980:
“Trung quốc
đối với các nước mọi
rợ như mình với tứ chi, khi vận động co
ruỗi là
tùy tâm, cho nên nói bậc đế vương là
trái tim. Một người có chân hay tay đau,
mạch
máu không thông, thì phải uống thuốc để
trị
lành bệnh. Nếu uống thuốc không hết thì
dùng
châm cứu vào chỗ đau. Không phải không
biết
rằng thuốc uống thì đắng miệng, châm cứu
thì tổn
hại ngoài da, nhưng thiệt hại chỉ ít thôi
mà
nhiều ích lợi hơn... .
Chức vi đế vương
như ông thày
chữa bệnh, trông thấy mọi rợ nào có chứng
đau,
thì tìm thuốc chữa.... Cho nên luyện đơn
thuốc nhơn
nghĩa, sửa soạn cái kim và mũi đá đạo đức,
chữa
bệnh nơi gần cho thật mạnh, rồi điều trị
cả chín châu, bốn
biển, chẳng còn đau ốm gì. [Cư đế vương
chi vị, thị di
địch chi bệnh... Ư thị, luyện nhơn nghĩa
chi dược nhĩ, tu đạo đức chi
châm biêm, đại liêu vu cận, nhi dũ cửu
châu tứ
hải, ký khương khả ninh]
[Xứ Giao Châu so
với Trung Hoa chỉ như
ngón tay, nhưng thánh nhân vẫn phải chữa].
Vì thế cần mở
lòng ngu tối của
ngươi để được thấm nhuần thánh giáo.” Vì
lòng nhân từ trùm muôn nước, phải chữa trị
cho [Giao Châu] khỏi đau, sớm thấm nhuần
thánh
giáo, bỏ thói “cắt tóc ngắn,” “uống nước
bằng lỗ
mũi,” “nói líu lo như chim.”
Nếu theo thì tha
tội, nghịch lại
thì ta đánh [hướng hóa ngã kỳ xá,
nghịch mạng ngã kỳ phạt]. (Thư Vương Vũ Xương
gửi Lê Hoàn
[980]; ANCL, q. 5, 1961:115-116
[trích Tống Sử];
ÐVSKTT, 1967, I:162-163.
Người đưa thư
là Lư Ða Tốn [CM, CB I:16, (Huế), 1998,
I:250-251]
Việc phong tước
hiệu
cho vua Việt cũng phản ảnh thái độ trịch
thượng cường quốc.
Thoạt tiên, vua Trung Quốc chỉ phong cho vua
Việt chức Tiết
độ sứ, Tiết chế. Sau đó mới phong làm
quận vương,
hay Nam Bình vương. Mãi tới năm 1164
[hoặc 1175,
nếu muốn], vua Tống mới phong cho Lý Anh
Tông (1138-1175)
chức An Nam Quốc Vương, tức nhìn
nhận An Nam [Ðại
Việt] là một nước chư hầu, mà không phải một
phủ
hay quận nữa.
Mặc dù trong nước
các vua Việt
tự xưng làm vua, đặt các chức vương, hầu,
khanh, tướng,
với vua Trung Quốc, ít nữa trên lý thuyết,
vua Việt
đã chỉ “tiếm đặt” các chức trên. Vì,
với triều đình Trung Quốc, vua Việt đã tự
nhận làm
thuộc quốc vương, và dân Việt chỉ là một thứ
“phục
di,
nhuộm
răng,
xâm
mình.” Thập niên 1720,
nhà Thanh dựng một bia đá phân chia ranh
giới, với
hai chữ An Nam. (Xem bia “Trùng tu Trấn nam
quan [1725]”
và “Ði tuần biên ải An Nam” [1746] trong Lê
Quí Ðôn, VÐLN, tr. 160-165) Năm
1804,
nhà Thanh đổi quốc hiệu nước ta thành Việt
Nam,
nhưng sách sử Trung Quốc vẫn giữ thói quen
gọi nước Việt
là Giao Chỉ, Giao Châu, Trấn Nam, hay
An Nam
(tức miền Nam đã được bình định).
Tưởng nên ghi thêm
là qua
văn thư của vua quan Việt gửi triều đình
Trung Quốc, người đời
sau không khỏi ngậm ngùi cho thái độ khúm
núm quá mức của các nho gia Việt. Dù lối
diễn tả của họ chỉ gồm những sáo ngữ ước lệ
trích dẫn từ
các kinh điển Khổng giáo, nhưng những sáo
ngữ
này tự hạ mình quá đáng, ví việc vua
Việt thờ kính vua Trung Hoa như con với cha,
“khúm
núm” “run sợ” tâu trình, v.. v... Ngay đến
thời
Quang Trung, Càn Long vẫn còn muốn “Nguyễn
Quang
Bình” sớm qua Bắc Kinh làm lễ “bảo tất,”
tức
ôm đầu gối vua Thanh nhân dịp thượng thọ bát
tuần
(80 tuổi) hầu bày tỏ lòng trung hiếu! (Xem Ðại
Việt
Quốc Thư, cả hai miền Nam và Bắc đều
đã chuyển
ngữ qua tiếng Việt mới).
Ðáng ghi nhận là
người
chê trách Lê Quí Ðôn nặng lời nhất,
tức “Hán Văn Ðế” ở Thuận Hóa, vào lúc
cuối đời còn xin phụ thuộc vào nhà Thanh!
(ÐNTLCB, IV, 35:89-91; Sogny, 1943:124-125)
Ngày
11/2/1882,
Ðường Ðình Canh tới Huế, cùng Mã Phục
Bôn [Bân]. Tự Ðức không tiếp, sợ
Pháp nghi kị. Cho Nguyễn Văn Tường và Trần
Thúc
Nhẫn tiếp. Canh mật báo với Tường kế hoạch
đánh Bắc Kỳ
của Pháp, dưới chiêu bài đuổi Lưu Vĩnh Phúc,
mà Tăng Kỷ Trạch đã trình về Yên Kinh.
Tự
Ðức sai Tường
yêu cầu nhà Thanh can thiệp. Ðề nghị làm
thuộc
quốc của nhà Thanh, đặt đại diện ở Yên Kinh
và
Quảng Ðông. Xin nhờ tàu Thanh đưa người Việt
đi
các nước Anh, Nga, Phổ, Pháp, Mỹ, Áo, Nhật
Bản xem
xét và học. [Theo tài liệu Trung Hoa: (1)
Cho
Ðại Nam cử một đại sứ đặc mệnh toàn quyền ở
Yên Kinh,
và gửi một số quan chức qua tập sự ở Tổng lý
nha
môn; (2) cho Ðại Nam cử nhân viên qua
Bri-tên và Pháp, làm việc tại sứ quán
Trung Hoa, để khẳng định quan hệ truyền
thống giữa hai nước; (3) Cho
Lưu Vĩnh Phúc tới Quảng Châu để tiếp tế súng
đạn,
quân nhu. Tháng 3/1882, Ðình Canh viết
báo cáo gửi Lý Hồng Chương, nhưng Tổng lí
nha môn không trả lời; Thọ, 1995:268).
Tự
Ðức cũng viết
thư cho Lý Hồng Chương, Trương Thụ Thanh. (ÐNTLCB,
IV, 35:89-91) Vua
Thanh trả lời: “Khả, sỉ bắc phong tái
biên” [Nous
prendrons des mesures dès l’arrivée du vent
du nord.”]
Ngày 24/11/1882, Rheinart đã có được bản sao
thư
trả lời của vua Thanh. (Sogny, 1943:124-125)
Những
người đả kích Lê
Tắc và tập An Nam Chí Lược [ANCL]
chưa tham khảo,
hay tảng lờ các chi tiết này.
Những tựa
sách sau của Trung
Quốc chưa được dịch qua Việt ngữ:
(1) [Lưu] Tống
thư [Sung shu, hay
History of the (Liu) Sung Dynasty (420-479)]
của Shen Yueh (Thẩm Ước,
441-513), gồm 100 truyện [chuan], bản in
Po-na.
(2) Lương Thư
[Liang shu, hay Annals
of the Liang Dynasty, 502-57] của Yao
Ssu-lien (d. 637). Chuơng 54
nói về Nam Hải. Sách dẫn nhiều tài liệu về
Fu-nan
[Phù Nam].
(3) Tấn thư,
của Phòng Huyền
Linh (578-648). Gồm 130 cuốn.
Tôn Thịnh cũng viết
bộ Tấn
Xuân Thu, tức Tấn Dương Thu.
(4) Tùy Thư
[Sui-shu, hay
Annals of the Sui Dynasty, 581-618], của Wei
Cheng (581-643), đặc biệt
là chương 82 về Malaya.
(5) Ðường thư
[T'ang shu]:
(a)
Cựu Ðường
thư [Chiu T'ang shu, hay Old Annals of
the T'ang Dynasty, 618-917],
của Liu Hsu (Lưu Hú, 897-946) và những người
khác.
Sách
này gồm 200 quyển,
có phần nói về những nước miền Ðông Nam
Á, như Kha lạc [Ko-lo], P'an P'an, Tan Tan,
Lạc Việt [Lo yueh],
Khả cô lạc [Ko-ku lo], Chieh-ch'a và Xích
Thổ
[Ch'ih t'u].
(b)
Tân
Ðường thư [Hsin T'ang shu, hay New
Annals of the T'ang
Dynasty], của Ou-yang Hsiu (Âu Dương Tu,
1007-1072), Sung ch'i
(Tống Kỳ, 998-1061), và những người khác.
Phần
lớn chép
lại Cựu Ðường Thư, và bổ túc thêm.
Gồm
225 tập, làm vào năm 1060.
(6) Tư trị
Thông Giám
của Tư Mã Quang. Chép từ thời Chiến Quốc
(403-221 TTL)
tới đầu đời Ngũ Ðại (907-960).
Cuốn
Thông
Giám này theo thể biên niên. Chu Hy dựa
trên bộ Tư trị Thông Giám của Tư Mã Quang
viết lại theo lối sách Xuân Thu, và đặt tên
là Thông Giám Cương Mục (cương = nét
chính của biến cố; mục= giải thích chi
tiết), gồm 294
chuan [truyện hay chương], với lời bình của
Hu San-hsing (Hồ Tam
Trinh, 1230-1302).
(7). Nguyên sử:
Do Tống Liêm đòi
Minh soạn.
Những tư liệu về Ðại Việt rất sơ lược. Ðặc
biệt là những
cuộc xâm lăng Ðại Việt.
(8). Minh sử:
Gồm 336 cuốn, do
Vương Hồng Tự hoàn
tất dưới thời Thanh Khang Hy. Những tư liệu
về Ðại Việt rất sơ
lược. Kể cả cuộc xâm lăng và chiếm đóng Ðại
Việt từ 1407 tới 1427.
(9). Thanh sử:
Những tư liệu về
Ðại Việt rất sơ lược.
Ðặc biệt là cuộc xâm lăng Ðại Việt năm
1788-1789.
D.
DÃ Sử
TRUNG QUốC:
Vì thiếu tư
liệu, sử quan Việt phải đi tìm dã sử Trung
Quốc như nguồn
tài liệu phụ. Những cuốn sách được nhắc nhở
nhiều nhất
có:
1. Hoài Nam
Tử và/hay Hoài Nam Hồng liệt giải
của
Hoài Nam Vương Lưu An đời Hán.
Theo Lê Tắc (truyện
“Việt vương
thành” trong mục “Cổ tích”), năm 135 TTL,
Lưu An
(Hoài Nam Vương) viết biểu lên vua Hán như
sau:
Ðất [Nam] Việt ở
ngoài địa phương
Trung Quốc, dân họ đều cắt tóc vẽ mình,
không
thể dùng pháp độ của nước mặc mũ áo mà cai
trị.... Nam Việt không có thành quách,
làng xóm, chỉ ở trong khe suối, hang đá và
vườn tre, từ xưa tập luyện thủy chiến; đất
đai ở sâu xa, tối tăm
mà nhiều khe suối rất hiểm, sông núi cách
trở gay go, cây cối rậm rạp, lui tới khó
khăn không
kể xiết. Mới trông qua như tuồng là dễ, mà
muốn tới
thì khó khăn. (Tắc,
ANCL,
107)
Theo Lê
Quí Ðôn, ở một đoạn khác, Lưu An còn
viết:
Khí núi sinh
nhiều con trai;
khí đầm sinh nhiều con gái; khí nước sinh
nhiều
người câm; khí gió sinh nhiều người điếc;
khí rừng sinh nhiều người yếu ớt; khí cây
sinh
nhiều người còng;. . .
. (Lê Quí Ðôn, VÐLN, tr. 41)
2. Giao châu
ngoại vực ký: Nhắc đến Lạc
điền, Lạc vương, Lạc hầu,
Lạc
tướng.
Hồi xưa, chưa
có quận huyện, thì Lạc điền tùy theo thủy
triều
lên xuống mà cày cấy. Người cày ruộng ấy
là Lạc dân, người cai quản dân ấy là Lạc
vương, người phó là Lạc tướng, đều có ấn
bằng đồng
và giải sắc xanh làm huy hiệu. [Vua nước Thục
thường sai con đem ba vạn binh
đi chinh phục các Lạc tướng. Nhân đó giữ đất
Lạc
mà tự xưng làm An Dương Vương. Triệu Ðà cử
binh sang đánh. . . .]
[Tích
vị hữu
quận huyện thời, Lạc điền tùy triều thủy
thượng hạ, khẩn kỳ điền
giả vi Lạc dân, thống kỳ dân giả vi Lạc
vương, phó
vương giả vi Lạc tướng, giai đồng ấn thanh
thọ. (Thục vương thường
khiển tử tương binh tam vạn, hàng chư Lạc,
nhân cử kỳ địa
nhi vương, tự xưng An Dương vương. Triệu
Ðà cử binh tập chi. . .)].( ANCL,
q. 1, tr. 24
(Hán
ngữ), 39 (Việt ngữ). Chữ Lạc dùng
trong sách
này có bộ “mã”].
Ðã
tuyệt
bản, dẫn trong Thủy Kinh Chú của
Lịch [Lệ?] Ðạo
Nguyên (thế kỷ III-IV hay VI?, q. 37, Diệp
Du Hà), Quảng
Châu
Ký (thế kỷ III-IV), Nam Việt Chí
của Thẩm Hoài Viễn (thế kỷ V), Sử Ký
sách ẩn
của Tư Mã Trinh (thế kỷ VIII); An Nam
Chí Lược
của Lê Tắc (thế kỷ XIV, thiên Tổng luận và
Cổ
tích, q. 1).
Theo
Henri
Maspéro, Giao châu ngoại vực ký xuất
hiện
vào thời Ðông Tấn, 303-416 [205-420?], tức
thế kỷ
III-IV.
3. Quảng
Châu
Ký: Có nhiều bản.
a.
QCK của Cố
Vi đời Tấn (205-420),
Bản
này
có trong thư mục của Học Viện Viễn Ðông Pháp
[Ecole Francaise d’Extrême-Orient, EFEO,
thường dịch là
Trường Viễn Ðông Bác Cổ].
b.
QCK của
Bùi Uyên [hay Tuyên] (thế kỷ V).
Một
sách địa
lý về Quảng Châu (sau khi tách ra khỏi Giao
Châu vào thế kỷ thứ III). Dẫn trong Cương
Mục, Tiền
Biên. Theo Trương Bửu Lâm, Bùi Uyên
không được ghi trong Trung quốc nhân danh
đại tự điển. (CM,
TB (Sài Gòn), II:63)
c.
QCK của
Ðào Văn Hàm (thế kỷ VIII?)
Ðất
Giao Chỉ
có Lạc điền, làm theo thủy triều lên xuống.
Người
ăn ruộng đó là Lạc hầu, [người ăn ở] các
huyện gọi
là Lạc tướng, có ấn đồng giải xanh, tức như
quan lệnh
ngày nay. [Con Thục vương đem binh đánh Lạc
hầu, tự xưng
là An Dương Vương, đóng đô ở huyện Phong
Khê.
Sau Nam Việt Vương Úy Ðà đánh phá An
Dương Vương, sai hai sứ điển cai trị hai
quận Giao Chỉ và Cửu
Chân, tức là Âu Lạc vậy].
[Ðào
thị
án Quảng Châu Ký vân: Giao chỉ hữu Lạc điền,
ngưỡng triều thủy thượng hạ. Nhân thực
kỳ điền danh vi Lạc
hầu, chư huyện tự danh vi Lạc tướng, đồng
ấn thanh thụ....] Léonard
Aurousseau
(1923,
trang
213,
n3),
cho
rằng
đoạn
văn này thiếu,
cần phải so sánh với Giao Châu Ngoại Vực
Ký mới
hiểu
được;
và Quảng Châu Ký có xuất
xứ từ Giao Châu Ngoại Vực Ký, hoặc
cả hai
sách là từ một nguồn tư liệu thứ ba nào đó.
Ðào thị ở đây, vẫn theo Aurousseau có thể
là Ðào Văn Hàm, tác giả một cuốn Quảng
Châu
Ký.
Dẫn
trong Sử
Ký Sách ẩn (thế kỷ VIII) của Tư Mã
Trinh.
4. Nam Việt
Chí của Thẩm Hoài Viễn (thế kỷ V).
Dẫn Giao
Châu
Ngoại
Vực
Ký nhưng lại dùng “Hùng
vương, hùng hầu, hùng tướng, hùng dân,
hùng điền”:
Ðất Giao Chỉ rất
màu mỡ, người ta
di dân đến ở, chính họ là người đầu tiên
khai
khẩn đất này. Ðất đen và xổi, hơi xông
lên mùi hùng. Vì vậy người ta gọi ruộng
đó là hùng điền, dân đó là
hùng dân.
Thái
Bình Hoàn Vũ Ký (thế kỷ X) sử dụng
tài liệu
này.[ Xem supra]
5. Giao Quảng
Ký của Hoàng Tham [Sam?]:
Giao
Chỉ có
ruộng Lạc điền. Người ăn thuế ruộng ấy gọi
là Lạc hầu.
Các huyện tự xưng là Lạc tướng. Sau con vua
Thục đem
quân đánh Lạc hầu, tự xưng là An Dương
Vương.
Ðóng đô ở Phong khê.
Ðại Việt Sử
Ký Toàn Thư, Ngoại kỷ, của Ngô Sĩ Liên
(1479) dẫn
sách này. Nhưng sửa “Lạc” thành “Hùng”.
(Toàn Thư [Nhượng Tống], tr. 70, chú
2) [CM
không nhắc đến]
6. Sử Ký
Sách ẩn (Thế kỷ thứ VIII)
của Tư Mã Trinh
(chú giải Sử Ký của Tư Mã Thiên).
Dẫn
Quảng Châu Ký.
Ðích thân Tư Mã Trinh chưa được đọc sách
này, nhưng dựa theo lời của Ðào Văn Hàm. [Xem supra]
7. Giao Châu
Ký: Có nhiều bản.
a. Giao Châu
Ký hay Giao Chỉ Ký của Tăng
Cổn (Thế kỷ
IX), một cựu quan chức ở Giao Châu.
Sách Việt Ðiện
U Linh Tập
của Lý Tế Xuyên hay trích dẫn sách
này.
Tăng Cổn còn có
cuốn Việt
Chí, chép: Giao Chỉ có lạc điền, tùy
theo nước triều lên xuống. (Lê Quí Ðôn,
VÐLN, tr. 147)
b. Giao Châu Ký
hay
Giao Châu chí của Lưu Hân Kỳ. (Lê
Quí
Ðôn,
VÐLN,
tr.
146;
Lê
Tắc,
An
Nam
Chí Lược)
c. Giao Châu Ký
của Lưu
Trừng Chỉ. (Lê Quí Ðôn, VÐLN,
tr. 145)
8. Phiên
Ngung tạp ký của Trịnh Hùng
đời Ðường.
Ðất Giao Chỉ tốt,
nhiều màu mỡ.
Xưa có vua là Hùng Vương, tướng văn là
Hùng hầu, tướng võ là Hùng tướng. (Lê
Quí Ðôn, VÐLN, tr. 147)
9. Thư Kinh Tập Truyện của
Thái
[Sái] Trầm, đời Tống (960-1279). Diễn giải
kinh Thư.
Thiên Nghiêu điển
của kinh Thư
chép: “Vua Nghiêu lại sai Hy Thúc đến ở Nam
Giao
tại phương Nam, sắp đặt theo thời tiết ở
phương Nam, kính cẩn
ghi bóng mặt trời ngày hạ chí, là
ngày dài nhất [trong một năm] và xem sao Ðại
hỏa để định cho đúng tiết trọng hạ [tháng 5
âm
lịch]. Lúc đó dân cư tản mác, chim và
thú thưa lông [vì nóng nực].
Thái [Sái] Trầm ghi
chú
“Nam Giao” là “Giao Chỉ”. (CM,TB [Sài Gòn],
1965,
II:27.
10. Lĩnh Ngoại
Ðại Ðáp của Chu Khứ Phi, đời
Tống
(960-1279): Quế
Lâm, Nam Hải, Tượng Quận là đất cũ của Bách
Việt.
[Henri Maspéro
cho rằng Tượng Quận đời
Tần nằm trong lãnh thổ Hoa Nam hiện nay]
11. Nam Trung
Chí, dẫn trong An Nam Chí
Lược của
Lê
Tắc.
12. Chư phiên
chí [Chu fan chi] của Chau
Jin-kua (Triệu Nhữ
Quát),
vào khoảng cuối nhà Tống.
Sách này ít tác
giả nhắc đến, dù có giá trị cao về hàng
hải. Triệu Nhữ Quát là dòng dõi đời thứ 8
của Tống Thái Tông. Ðáng chú ý
đặc biệt là ba chương về Giao Chỉ, Chiêm
Thành
và Chân Lạp. Chúng tôi sử dụng bản dịch Anh
ngữ của Friedrich Hirth & W. W. Rockhill
(1911).
13. Lĩnh Nam Di
Thư của
Âu
Ðại
Nhâm [Ngũ Sùng Diệu?] (nhà
Minh, 1368-1644). Dẫn trong Khâm
Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục (Sài
Gòn)
(II:47).
Nói
về một người
Việt tên Sử Lộc chở lương thực cho Ðồ Thư
đánh chiếm
cổ Việt. [Theo Trương Bửu Lâm, Từ Hải chép
rằng tác
giả Lĩnh Nam di thư là Ngũ Sùng
Diệu, không
phải Âu Ðại Nhâm. (Ibid., II:47,chú 1)].
14. An Nam
Chí Nguyên của Cao Hùng Trưng (thế kỷ
XVII):
Ðất Giao Chỉ lúc
chưa chia ra quận
huyện, có Lạc điền, tùy nước triều lên xuống
[mà làm ruộng]; những người khai khẩn ruộng
ấy gọi
là Lạc dân, người cai trị dân ấy gọi là Lạc
vương, những người phụ tá gọi là Lạc tướng,
đều có
ấn bằng đồng và dây xanh. Gọi là nước Văn
Lang, lấy
việc thuần hậu chất phác làm phong tục, dùng
dây thắt nút để cai trị, truyền mười tám
đời. (CM,
TB [Sài-gòn 1965], I:16-7)
E.
VẤN
ÐỀ
NGÔN
NGỮ:
Khó khăn thứ tư là
vấn đề
ngôn ngữ. Cho tới đời Khải Ðịnh (1916-1925),
văn tự
chính yếu trong nước ta là Hán ngữ (hoặc,
đúng hơn, Việt Hán hay chữ Nho). Mãi tới năm
1918,
triều đình Huế mới chấm dứt lối thi cử dùng
Hán tự
chọn quan lại. Bởi thế, muốn tìm hiểu về
lịch sử Việt trước thời
Pháp thuộc cần thông thạo Hán ngữ.
Từ thập niên 1860,
một số tác
giả Pháp đã khởi xướng việc viết lại lịch sử
Việt bằng
Pháp ngữ. Nhờ
vậy, những tên tuổi như Théophile Legrand de
la Liraye,
Elician Luro, Henri Maspéro, Léonard
Aurousseau, v.. v...
trở thành những tên tuổi lớn. Một tác giả
Việt,
Petrus Key Trương Vĩnh Ký, cũng soạn xong
hai cuốn Cours
d’histoire annamite [Bài Giảng Lịch Sử
An-na-mit]
(1875-1879) dùng cho các trường tiểu học ở
Nam Kỳ.
Ngoài ra, còn những biên khảo về nhân chủng
học, ngôn ngữ học, khảo cổ học, v.. v... khá
giá
trị của Etienne Aymonier, Paul Pelliot,
Léopold-Michel
Cadière, v.. v.... Tuy nhiên, các tác phẩm
Pháp ngữ này chỉ có những giá trị nhất định
của thời đại “gánh nặng của người da trắng.”
Kho sử liệu bằng
Hán tự của nước Việt hầu như bị lãng quên
trong một
thời gian dài.
Mãi đến
thập niên
1920, sau khi người Pháp đã dùng chữ viết
dựa theo
mẫu tự Latin làm quốc ngữ thay chữ Nho và
chữ Nôm
được hơn một thập niên, mới có phong trào
nghiên cứu sử và phiên dịch sách cũ từ
Hán ngữ hay chữ Nôm qua chữ Việt mới. Trong
số những người
có đóng góp giá trị phải kể học giả Trần
Trọng Kim (tác giả bộ thông sử Việt Nam
Sử Lược),
Nguyễn Văn Tố (qua loạt bài so sánh giữa sử
ta với sử
Tàu và bộ Lịch sử đạo Thiên chúa),
Ðào Duy Anh (Việt Nam Văn Hóa Sử Cương),
Hoa
Bằng Hoàng Thúc Trâm (viết về vua Quang
Trung, sau
thuộc nhóm dịch giả [Khâm Ðịnh] Việt Sử
Thông Giám Cương Mục, v.. v...), Hoàng
Xuân Hãn (La Sơn Phu Tử, Lý Thường Kiệt,
và một số tư liệu giá trị khác như bản dịch
tư
liệu của Lê Quýnh, Ngụy Nguyên, v.. v...).
Tuy
nhiên, phần đông chỉ tự học, không được huấn
luyện
chuyên môn về phương pháp cũng như triết lý
sử, nên ít sách sử Việt trước năm 1954 đạt
được
tiêu chuẩn quốc tế.
Từ
sau năm 1954, cả hai chế
độ Bắc và Nam Việt Nam đều có kế hoạch
chuyển ngữ tư liệu
viết bằng Hán ngữ như An Nam Chí Lược
của
Lê Tắc, Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư
của
Ngô Sĩ Liên et al [và những người khác]; Ðại
Việt
Thông
Sử,
Phủ
Biên
Tạp
Lục,
Vân
Ðài
Luận
Ngữ của Lê Quí Ðôn; Khâm
Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Ðại
Nam Thực
Lục, v.. v... Lối làm việc của các
dịch giả miền Nam
có vẻ khả tín hơn miền Bắc, vì các bản
dịch
phần lớn gồm ba phần nguyên bản chữ Hán,
phiên
âm, và diễn nghĩa, giúp người đọc có thể
so
sánh bản dịch với nguyên bản. (Ðồng thời
còn
là dụng cụ giúp những người muốn học Hán
ngữ trau
dồi kiến thức) Những công trình này giúp
người nghiên cứu không rành Hán ngữ, hay
không có dịp tham khảo các bản trên, những
dữ
kiện bác bỏ dần các biên khảo đầy tư tâm
của
các tác giả thuộc địa Pháp và cộng sự
viên bản xứ.
Nhưng
chẳng phải không
có trở ngại. Nhiều dịch giả đã phiên dịch cả
quan
điểm của mình, tảng lờ nguyên tác. Trong khi
dịch
bộ Ðại Việt Sử Ký [Ngoại Kỷ] Toàn Thư,
chẳng
hạn Nhượng Tống dịch chữ Mị nương
[công chúa đời
Hùng Vương] thành Mệ Nàng. Khi dịch
An
Nam Chí Lược [ANCL] của Lê Tắc, Trần
Kính
Hòa dịch chữ “man” thành “Mường.”
Trong
bài Nam Việt hành của Chu Chi Tài, ông
Hòa dịch hai câu: “Thái dịch trì nội
hồng phù dung, Tự lân trích tại man yên
trung”
thành “Ao Thái dịch phù dung một đóa, Chốn
khói Mường đầy đọa tấm thân” (ANCL, tr. 189
[Việt ngữ]). Trong bài Thơ cảm đề tại
đền
thờ Phục Ba [Mã Viện?], ông Hòa dịch “Man
binh
tị Uất Lâm” thành “Rừng Uất đuổi
binh Mường”
(tr. 259). Trần
Kính Hòa cũng dịch “bách tính”
thành “nhơn dân” Ðôi chỗ, có lẽ
để làm vui lòng độc giả người Việt hoặc
một thẩm quyền
nào đó, ông Hòa đã dịch chữ “yêu
đảng” ở đoạn nói về Bà Trưng thành “giành độc
lập.” Trong các
bản dịch bộ Khâm
Ðịnh
Việt
Sử
Thông
Giám
Cương
Mục và Ðại
Nam Thực Lục hay Ðại Nam Chính
Biên Liệt Truyện
do Hà Nội thực hiện thỉnh thoảng có những
thuật ngữ như
“nô lệ” hay “nhân dân” không hề có trong
nguyên bản. Ðào Duy Anh, khi chú giải bộ Ðại
Việt
Sử
Ký
Toàn
Thư,
đã sửa chữa ngay
vào nguyên bản, thay vì để vào cước
chú. (Toàn Thư [Giu 1967], I:318chú 318)
Ngoài ra,
còn một số
sai lầm đáng tiếc khác trong khi chuyển ngữ
(như “Lục
bát y” thay vì “Lục thù y”
trong
truyện Ðoàn Thượng; “kị binh” thay
vì “kỳ
binh” trong bản dịch Việt Ðiện U
Linh Tập của Lý
Tế Xuyên do Lê Hữu Mục ấn hành năm 1961).
Chưa hết.
Chữ Việt trong
quốc hiệu Ðại Cồ Việt, Ðại Việt, hay
Việt Nam có
nghĩa
gì?
Sách
sử
Trung
Quốc
dùng
đến
hai chữ Việt
[Yueh] khác nhau. Những chữ Xích Quỉ
trong quốc
hiệu Xích Quỉ thời Hồng Bàng, Văn [wen]
và
Lang [ hay ] trong quốc hiệu Văn
Lang, Giao [
] và Chỉ [ hay ] trong tên xứ Giao
Chỉ, Hùng
[ ] trong Hùng vương, Lạc [ hay ]
khi nói về Lạc
vương, Lạc tướng, Lạc dân, đều có thể tạo
nên những
cuộc tranh luận kiểu sẩm sờ voi. Hiển nhiên,
đây chỉ
là những tên Hán ngữ, không thể
là tiếng Cổ Việt (mà chúng ta
không,
hoặc chưa, biết).
Vậy các
tên trên
là do người Trung Quốc đặt cho cổ Việt, hay
văn gia Trung Quốc
hoặc Việt đã Hán hóa tên cổ Việt bằng
cách chuyển âm hay chuyển nghĩa? Thêm nữa,
ngôn ngữ của bất cứ một dân tộc nào cũng đổi
thay
không ngừng qua các con triều văn hóa, kinh
tế,
chính trị. Chỉ một tiếng “Cồ”
trong quốc hiệu “Ðại
Cồ
Việt,” chẳng hạn, đã tốn nhiều giấy
mực tranh cãi.
Những tên nước, tên dân nêu trên
còn lưu lại được bao nhiêu phần trăm ý nghĩa
thuở
cổ thời? Ðây là những vấn nạn khó tìm
đáp án. Lê Quí Ðôn hữu lý
khi bày tỏ sự nghi hoặc của ông về địa danh,
chức tước
thời cổ Việt, mà theo ông, có lẽ các hậu nho
đã thêm thắt vào. (Ðôn, VÐLN,
1972:167, 169)
Bởi
thế, những tác giả
Pháp như cựu Linh mục Legrand de la
Liraye, hay Giáo sư
Elucian Luro trong thế kỷ XIX, và rồi
những Henri Maspéro
vào đầu thế kỷ XX đã giới thiệu những
nghĩa xấu nhất của
các từ trên, mà hầu hết các tác giả
đương thời khó thể bài bác (như Giao
Chỉ
là đặc tính hai ngón chân cái
nghiêng cong vào nhau của người cổ
Việt; Văn Lang
là do chữ Dạ Lang mà ra, với chữ Lang
bộ khuyển [
]; v.. v...). Vì, sách Lễ Ký đã
nhắc đến chuyện hai ngón chân cái giao
nhau,
sách Ðịa Dư chí cũng chép tương
tự.
Ngay đến Lê Quí Ðôn, người đã đọc
và nhớ rất nhiều kinh điển Trung Quốc,
cũng khó thể khẳng
định người cổ Việt có đứng với tư thế hai
ngón chân
cái giao nhau hay chăng. (Lê Quí
Ðôn,
VÐLN, tr. 148)
Trong khi
đó, các
tác giả Việt tha hồ tìm cách giải thích
những tiếng trên theo ý riêng mình, trong
khung trời kiến thức thường rất ít thâm sâu
về
các bộ môn khoa học áp dụng cho ngành thượng
cổ sử.
F. TÀI
LIỆU TƯ NHÂN:
Ngoài
quốc sử và
dã sử Trung Quốc, còn có những biểu, tấu,
hành hay thơ văn cảm khái của các sứ giả
Trung
Quốc từng qua phương Nam, hay những quan
chức Bảo hộ ở Giao Châu,
v.. v...
Chính qua
những loại văn
chương, thơ phú thư lại thường rất hoang
tưởng [exotic]
này chúng ta mới biết được những đặc thù,
đặc sản
của cổ Việt, dưới cặp mắt của người cổ Trung
Quốc. Nào là
Giao chỉ với nghĩa hai ngón chân cái nghiêng
cong vào nhau của người cổ Việt; tục xâm
mình,
đã nhắc đến trong Lễ Ký, và câu thơ
của Liễu Tư Hậu “Cộng lai Bách Việt văn
thân địa;”
nghĩa là, cùng đi tới đất Bách Việt là xứ
người vẽ mình. (Lê Tắc, ANCL, q. 1, tr. 45
[Việt ngữ], 30
[Hán ngữ]). Tinh
tinh
ở
đất
Nghệ
An,
[cẩu hình, nhân diện, tại sơn cốc
trung, hành vô thường lộ, bách bối vi
quần;
nhân dĩ tửu tinh thảo lý số thập tương
liên kết, tri
vu lộ gian, tinh tinh kiến chi, tức tri kỳ
nhân tiên tổ
tánh danh, . . ..”;
(ANCL, q. 15, tr.
250)] Hay cảnh Thái hậu Cù
Thị, vợ Triệu Minh Vương (124-113 TTL) và mẹ
Ai Vương (113-112
TTL), buồn bã gõ trống đồng ở đất Nam Việt [Cẩm
tán
cao trương, kích đồng cổ], nên vừa
gặp người tình
cũ là đã âm mưu xin nhập Nam Việt vào cương
thổ nhà Hán. (ANCL, q. 17, tr. 189
[Việt ngữ]) Trụ đồng do Mã Viện dựng
lên sau khi đánh bại được Hai Bà Trưng
(40-43),
tái chiếm nước ta, với lời răn đe, “Ðồng trụ
triết, Giao Chỉ
diệt” (Trụ đồng gẫy đổ, xứ Giao Chỉ sẽ bị
diệt); khí hậu ở Ðại Việt độc
hại đến độ diều hâu đang bay trên trời bỗng
rơi xuống đầm
lầy [hạ lạo thượng vụ, độc khí huân
chưng, ngưỡng thị
phi diên, thiếp thiếp trụy thủy chung].
Ðó là chưa
nói đến thái độ tự tôn chủng tộc của các văn
gia như Ðỗ Phủ, Tô Ðông Pha, v.. v... qua
những lời
ca tụng “công đức” Mã Viện ở Giao Châu.( ANCL,
q. 1, tr. 24-25 [Hán ngữ],
39-41 [Việt ngữ])
Trong
số những người ra
công sưu tập các tư liệu này, ở tiền bán
thế
kỷ XIV, có một người Việt từng làm quan
dưới triều
nhà Trần (1226-1400), sau đầu hàng nhà
Nguyên, hai ba lần dẫn đường cho quân Mông
Cổ qua
xâm lược nước ta. Ðó là Lê Tắc [Trắc?],
tác giả An Nam Chí Lược (1333?) đã
nhắc
và dẫn trên. Thập niên 1930, khi một nhà
xuất
bản ở Thượng Hải in lại tập ANCL, có người
gay gắt chê
trách nội dung ANCL và lên án Lê Tắc
là phản quốc. Nhưng những cái mũ chính trị
trên chẳng giúp gì cho việc đánh giá
sử liệu chứa trong ANCL.
Thực ra,
tác phẩm của
Lê Tắc–chắc chắn đã bị “chấm câu,” sửa chữa,
hiệu
đính nhiều lần dưới tay các văn gia Trung
Quốc trước khi
được một nhà xuất bản Nhật ấn hành (xem phần
cuối
sách, q. 19)–phản ảnh trung thực quan điểm
của văn gia Trung
Quốc về Việt Nam: Những mắt nhìn từ đỉnh trụ
đồng Mã Viện
và đầu ngọn thương, mũi kích, lưng ngựa hay
mũi chiến
thuyền của một cường quốc đối với lân bang
nhược tiểu. (Sử
dụng những tài liệu
này cũng nhức đầu như những nhà nghiên cứu
hiện nay
phải đối mặt những tác phẩm hoang tưởng
của các
tác giả Tây phương về bản thân họ hay các
nhà truyền giáo Ki-tô và công chức
thuộc địa Pháp như Pierre Retord, Paul
Puginier, Francis
Garnier, Paul Bert, v.. v...)
Các
chiếu, hịch của vua quan
Trung Quốc từ đời nhà Hán đến nhà Nguyên
trích in trong An Nam Chí Lược còn
cho
thấy bản chất giả nhân, giả nghĩa của vua
quan các triều
đại quân chủ, phong kiến Trung Quốc. Ngạn
ngữ Việt có
câu già nắn, rắn buông. Hễ gặp cơ hội là vua
quan Trung Quốc đánh chiếm đất nước ta, phân
chia
làm quận huyện, cắt đặt người cai trị. Nhưng
sách sử, văn
thư thì lúc nào cũng trang trọng những lời
nhân nghĩa như khai hóa, phụ thuộc, phên
dậu,
nước nhỏ phụng thờ nước lớn để che đậy
dã tâm luật
kẻ mạnh (kiểu Ðặng Tiểu Bình tuyên bố
tại Tokyo
vào đầu năm 1979 là sẽ “dạy Việt Nam” một
bài học,
rồi Giang Trạch Dân bắt Ðỗ Mười và Lê Khả
Phiêu phải cắt đất đổi hòa bình vào
ngày 30/12/2000).
Mùa Xuân
năm 1960,
các học giả Việt ở miền Nam từng bị một phen
nhức đầu tương tự
vì một tác giả Ðài Loan. Do lời yêu cầu
của Bộ trưởng Văn Hóa Trương Công Cừu trong
một chuyến đi
thăm Ðài Bắc–là đã đến lúc sửa lại
sách giáo khoa lịch sử hầu cải thiện và
phát huy liên hệ giữa hai nước–ngày
26/1/1960,
Tưởng Quân Chương đáp ứng bằng một bài trên
tờ Trung Ương Nhật Báo ở Ðài Bắc.
Nhật
báo Tự Do tại Sài Gòn cho người dịch
lại
để rộng đường dư luận. Ông Chương–chẳng hiểu
vì muốn mỉa
mai ông Cừu, hay vì kiến thức nông cạn–dạy
ông
Cừu (và trí thức Việt) dăm bài học phổ thông
sử Ðài Loan như: các vua Việt phần đông gốc
từ
miền Hoa Nam; các triều đại phong kiến Trung
Quốc chẳng hề
xâm lăng nước Việt, mà chỉ ra tay trượng
nghĩa, cứu
giúp con cháu những dòng họ bị lật đổ hay
cướp
ngôi; năm 40, hai bà Trưng nổi dạy không do
tinh
thần độc lập mà chỉ vì muốn báo thù
riêng, lại toan xâm phạm thiên quốc nên mới
bị
Mã Viện mang quân qua đánh bắt; năm 1788,
Tôn
Sĩ Nghị chỉ mang có “8,000 quân” đưa Lê Mẫn
Ðế
(Chiêu Thống, 1786-1789) về nước, trong khi
“Nguyễn Văn Nhạc”
(sic) sử dụng tới “100,000 quân” nên Nghị bị
đại bại; người
Pháp muốn chia rẽ hai dân tộc Trung Quốc và
Việt
Nam, nên đã khuyến khích tinh thần bài Hoa
và sửa đổi lịch sử, v.. v... Nhiều tác giả
Việt, kể cả
các ông Nguyễn Hiến Lê-Nguyễn Ngu Í,
và Lê Phục Thiện, chuyên viên Hán ngữ
của Viện Khảo Cổ Sài Gòn, đã mượn tờ bán
nguyệt san Bách Khoa trả lời ông
Chương.
Quí vị này nêu ra được một số lỗi lầm của
ông
Chương, nhưng phần lớn chỉ là tiểu tiết như
không phải
“8,000” mà tới “200,000” quân Thanh đã xâm
chiếm Việt Nam, vua Quang Trung Nguyễn Huệ
mà không phải
Nguyễn Văn Nhạc đã đánh trận Kỷ Dậu (1789),
v.. v...
Kiến thức
sử học của Tưởng
Quân Chương, tưởng cần nhấn mạnh, quá nông
cạn.
Trong giới sử gia về Ðông Nam Á nói chung,
Việt
Nam nói riêng, rất ít người biết đến ông
Chương cùng các biên khảo của ông ta.
Bài viết về lịch sử Việt Nam của ông Chương
cũng chẳng
có gì mới lạ, ngoài những lập luận hàm hồ
đầy rẫy trong các tập sử phổ thông Ðài Loan
(dành cho các lớp tiểu học, trung học). Sự
thiếu hiểu
biết của ông Chương, và chứng bệnh hàm hồ
tương
lân với sự thiếu hiểu biết ấy, đã được các
tác giả Việt nêu ra trên tờ Bách Khoa
ngay trong năm 1960.
Nhưng một
trong những nhược điểm
lớn của ông Chương chưa ai nêu lên là phương
pháp sử. Khi đặt bút viết rằng hầu hết các
vua
Việt đều có nguồn gốc từ các tỉnh phía Nam
Trung
Quốc, ông Chương đã lẫn lộn và mù lạc,
không phân biệt nổi giữa Trung Quốc, với
biên giới
chính trị năm 1960, và các tiểu quốc với
những nền
văn hóa cổ Việt phía Nam sông Dương Tử
khoảng hai
ngàn
năm
trước. Tổ tiên một số vua quan Việt
(như
nhà Trần) có thể từ vùng Lưỡng Quảng, Quế
Châu hay Vân Nam, nhưng cách đây khoảng
2,000 năm, đó không phải là lãnh thổ
chính trị Trung Quốc. Các vùng đất này
chỉ bị nhà Tần (221-206 TTL), nhà Hán (206
TTL-220
STL) chiếm đóng bằng vũ lực, rồi dần dần sát
nhập
vào biên cương chính trị Trung Quốc. Ngay
đến cuối
thế kỷ XX, qua bao nỗ lực Hán-hóa
phương Nam,
các chính phủ Trung Quốc vẫn chưa đồng hóa
nổi tất
cả những sắc dân Lolo (Vân Nam), Mân Việt,
Ðiền
Việt, v.. v... Trong đời sống thường nhật,
các sắc dân
trên vẫn sử dụng tiếng nói riêng, có sinh
hoạt văn hóa khác biệt với các tỉnh ở phía
Bắc sông Dương Tử [văn hóa lúa mì]. Ngay đến
thổ dân Ðài Loan, nơi Tưởng Giới Thạch xâm
chiếm
năm 1949, cũng không phải gốc người Hán, và
không muốn bị coi là một tỉnh của Trung
Quốc. Nói
chi những xứ Nội Mông, Mãn Châu, hay Tây
Tạng
(Tibet) mà Trung Cộng đang nỗ lực đồng hóa.
Hơn
nữa, chỉ cần có
một kiến thức sơ đẳng về di truyền học và
hội nhập văn
hóa (acculturation) thôi,
ông Chương hẳn
sẽ không đủ can đảm viết xuống câu gốc người
Hoa Nam (thực
tế, ông Chương liệt kê từng tỉnh hiện thuộc
về Hoa Nam).
Ví thử một vị tổ của dòng họ nào đó
có từ miền Lưỡng Quảng di cư xuống phía Nam,
chỉ ba bốn
đời sau, dòng dõi đương nhiên trở thành
người Việt. Tại Bắc Việt, trước năm 1945,
gia phả thường chỉ
chép ngược lên tới đời thứ 9. Từ đời thứ 10,
quê
hương của tổ tiên ở xứ nào đi nữa cũng không
kể. Hơn
nữa, liên hệ giữa cổ Việt cùng Mân Việt,
Ðiền
Việt còn mở rộng cho những cuộc tra cứu
trong tương lai. Giả
thuyết về một hạt nhân văn hóa [cultural
core]
miền Nam (bao gồm các nước Việt, trải rộng
tới miền
Ðông Thái Lan hiện nay) không chỉ thuần
là một giả thuyết.
Nhược
điểm khác của
ông Chương là việc dùng sử liệu. Dường như
ông Chương không mấy chú ý đến tài
liệu khảo cổ. Nếu nghiên cứu kỹ các tài
liệu khảo
cổ khai quật tại vùng Lưỡng Quảng hay Thái
Lan mới
đây, và được huấn luyện kỹ lưỡng về phương
pháp sử
học hoặc cổ sử học, hẳn ông Chương đã
không cẩu thả
hạ bút viết các vua Việt vốn gốc người
Trung Quốc. (Một số nhà
khảo cổ học hiện nay
còn lý luận rằng cuộc giao lưu văn hóa
giữa hạt
nhân Hoàng Hà và phía Nam đi theo
chiều từ Nam lên Bắc mạnh hơn từ Bắc
xuống Nam như nhiều người
lầm tưởng).
Sự yếu
kém của ông
Chương trong việc sử dụng tài liệu còn bộc
lộ trong đoạn
bàn về cuộc xâm lược nước Nam của Tôn Sĩ
Nghị.
Ông Chương có lẽ chỉ dựa vào tư liệu phổ
thông Trung Qưốc, hơn so sánh và
lượng
giá nhiều nguồn tài liệu khác nhau. Ông
Chương khăng khăng cho rằng Nghị chỉ mang
theo 8,000 quân
vào Thăng Long mà chẳng trưng dẫn được sử
liệu nào
khả tín (như Châu bản nhà Thanh, Ðại
Thanh
thực lục đời Càn Long, biểu, tấu của
Tôn Sĩ Nghị
và Phúc Khang An, v.. v...)– một đòi hỏi cơ
bản
của người viết sử. Ðiều này chứng tỏ dù được
Linh mục
Raymond de Jaegher, Tổng Ðại diện Hội Thái
Bình Dương
Tự Do tại Viễn Ðông, cấp học bổng The Asia
Foundation để
nghiên cứu sách giáo khoa ở Nam Việt Nam, có
lẽ ông Chương không phải là sử gia chuyên
nghiệp. Tôi chưa được tham khảo các châu bản
nhà Thanh, nhưng từng đọc một số tài liệu
thời nhà
Thanh tiết lộ rằng Tôn Sĩ Nghị mang cả quân
thủy, bộ (biền
binh) bốn tỉnh Hoa Nam xâm phạm Ðại Việt vào
mùa Ðông Mậu Thân (1788-1789) [dưới danh
nghĩa
giúp Lê Mẫn Ðế chiếm lại ngai vàng]. Ngay
đến
Ngụy Nguyên, một người Thanh, tác giả An Nam
Chinh Vũ
Ký năm 1842, cho rằng Nghị mang khoảng 2 vạn
(20,000) quân
Thanh thuộc 4 tỉnh Hoa Nam sang xâm lăng
(chinh phạt) Ðại
Việt (An Nam), nhưng đánh tiếng là “phò Lê.”
[Xem
“Vấn đề nghiên cứu nhà Tây Sơn”]
Ông
Chương cũng tảng
lờ, hoặc không biết đến, tài liệu Việt và
Tây
phương. Các sử gia chuyên nghiệp thường
phải đối chiếu
các nguồn tài liệu khác nhau trước khi đi
đến một
kết luận sử học. Nếu chưa được tham khảo
các tài liệu
Tây phương thì phải có sự thận trọng tối
thiểu
là cần lưu ý độc giả của ông rằng những
lập luận
của mình chỉ có tính cách tạm thời, trong
khi chờ đợi những tư liệu còn thiếu sót
được bạch
hóa. Ngay cả khi tìm được các tư liệu gốc
(như thủ
bút, thư từ của các tác nhân lịch sử) cũng
phải phân giải ý nghĩa các tài liệu
trên trong bối cảnh chung mà tác nhân đang
sống và sinh hoạt. [Xem
bài Petrus Key]
Về vấn đề
người Pháp sửa lại
lịch sử bang giao giữa Trung Quốc và Việt
Nam, ông Chương
chỉ dựa theo “cảm nhận” hoặc thứ kiến thức
nhồi sọ lúc thiếu
thời (tức trút bỏ mọi tội lỗi cho bọn Tây
di; cũng giống
như dân Arab hiện nay trút mọi tội lỗi lên
đầu đạo
Ki-tô và người Tây phương về tình trạng
nghèo đói, phân hóa, chậm tiến, tham nhũng
và xa cách dần Allah) hơn nghiên cứu một
cách nghiêm túc. Chẳng hiểu ông Chương
đã được đọc các tài liệu về Tạm ước
Bourée-Lý Hồng Chương (chia Bắc kỳ mỏ
cho
nhà Thanh, và Pháp lấy Bắc kỳ gạo);
hay,
đường dẫn đến Hòa ước Thiên Tân (11/5/1884
&
9/6/1885) chưa? Nếu chưa đọc, chưa nghiên
cứu tường tận,
mà đã viết thì sợ rằng ông Chương thiếu sự
lương thiện trí thức. Nếu đọc rồi mà vẫn bẻ
cong lịch sử
thì ông Chương phạm tội ngụy tạo lịch sử,
một thứ tội
ác tinh thần. (Thế
gian
này
không
thiếu
những
người
thích
lập
danh
đường tắt bằng trò ngụy tạo lịch sử; bất
kể quốc tịch, tôn
giáo, tuổi tác, học vấn) Nói cách
khác,
kiến thức sử học của ông Chương về Việt Nam
không những
khiếm khuyết, mà còn sơ đẳng, lỗi thời.
[Ðáng
buồn
là
phần
nào
do
hậu
quả
của
sự thiếu lương thiện
trí thức hoặc tội ác tinh thần của ông
Chương,
vài người Việt đã “khải thắng,” “khỉ sự”
(nguyên
văn) rằng tổ tiên là người “Tàu” [Trung
Quốc].
(Nguyễn Phương, Việt Nam Thời Khai Sinh,
1965). Vài
người khác có lẽ cũng đã ảnh hưởng trên cựu
giáo mục Nguyễn Phương là nhà khảo cổ học
Olov R.
T. Janse, cùng các học giả Bảo hộ Léonard
Aurousseau, Henri Maspéro].
G. TÀI
LIỆU VIỆT:
Ngoài tài
liệu Trung
Quốc, sử quan Việt cũng sử dụng một số tư
liệu trong nước.
Có 2
loại: truyền thuyết (cổ
tích, tiểu sử các thần hoàng và văn miếu)
và dã sử hay tác phẩm của các văn gia.
1.
Truyền thuyết:
Truyền
thuyết được sử dụng
nhiều nhất cho phần Huyền sử hay Thượng cổ
sử, tức từ thuở sơ khai tới
thời Hùng Vương và Thục Phán. Truyền
thuyết
gây nhiều tranh luận sôi nổi là truyện Lộc
Tục lấy
Âu Cơ, sinh ra một bọc 100 trứng (đồng
bào), nở ra trăm
con trong phần “Ngoại Kỷ” của bộ Ðại Việt Sử Ký
Toàn Thư.
Cả Ngô Sĩ
Liên
và Ngô Thời Sĩ, trong Việt sử tiêu án,
đã nhận hiểu sự “quái dị” của đoạn huyền sử
trên,
nhưng vẫn chép lại vì thiếu sử liệu, hoặc vì
tin
rằng vĩ nhân thời tiền sử “khác với người
thường.”
Ngoài ra, Ngô Sĩ Liên còn dẫn truyện Liễu
Nghị của Trung Quốc làm ấn chứng về liên hệ
“đời đời
làm thông gia với nhau đã lâu” giữa Ðộng
Ðình Quân và Kinh Xuyên hầu biện hộ cho
cuộc nhân duyên giữa Kinh Dương Vương Lộc
Tục, con
cháu Thần Nông thị, và Thần Long, con gái
Ðộng Ðình Quân, rồi sinh ra Lạc Long Quân.(
Toàn Thư [Giu 1967], tr. 59-60) Nhưng vua
Tự Ðức chỉ cho
chép từ đời Hùng Vương vào phần Tiền Biên
của bộ Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám
Cương
Mục, và dĩ nghi truyền nghi
truyện trăm trứng, trăm
con giữa Lạc Long Quân với Âu Cơ, vì nó
quái dị, chẳng khác gì những ma trâu, thần
rắn của huyền sử Trung Quốc trong Sơn
Hải Kinh, Lã Thị
Xuân Thu, hay Hoài Nam Tử
(như Thần
Nông mặt người, mình trâu; vua Vũ đi trị
thủy, lấy
người con gái họ Ðỗ Sơn làm vợ, bốn ngày sau
thì sinh ra Khải; Ðỗ Sơn thấy Vũ hóa thân
làm gấu, xấu hổ hóa đá, Vũ đòi lại con,
đá bỗng nứt ra cho Khải trở lại trần thế với
cha).
Xin lược
kê một số truyện ma
trâu, thần rắn khác của cổ sử Trung Quốc:
Bàn Cổ:
Vua thứ nhất của
Trung Hoa. Tương
truyền, Bàn Cổ đã dựng nên Trời Ðất, rồi đến
Tam Hoàng là Thiên Hoàng, Ðịa
Hoàng, Nhân Hoàng (?)
Mẹ Phục
[Bào] Hi [2852-2739
TTL] đi tắm
sông, đạp vào dấu chân người khổng lồ mà
mang
thai ông quốc tổ của Trung Hoa này.( Thông Giám tập
lãm, I:1; dẫn trong CM,TB, II:15n2)
Mẹ Kim Thiên
[Thiếu Hạo, 2597-2512 TTL] là Loa Tổ
cảm nhiễm ánh sao ở bờ sông Hoa chữ mà mang
thai.
Mẹ Cao Dương
[Xuyên hay Chuyên
Húc, 2513-2435 TTL] cảm
sao
Dao
mà
sinh
ra
vua
(kiểu Mẹ Ðồng Trinh).
Khánh Ðô, vợ Ðế
Cốc, giao cảm với con Rồng đỏ mà thụ
thai
Ðế Nghiêu [Yao ti. 2356-2258 TTL].
Khương Nguyên dẵm phải dấu chân
người to lớn
mà có thai, sinh ra Hậu Tắc, làm quan đại
nông đời vua Nghiêu (2356-2258 TTL), được
phong ở đất Thai
(nay là huyện Vũ công tỉnh Thiểm Tây), tức
là
thủy tổ nhà Chu (Chou hay Zhou, 1122-255
TTL). (Shih
Chi, XIII, tờ 7b) [Lại có sách ghi
tích
này liên hệ đến vua Phục Hi].
Những sự tích Mẹ
Ðồng Trinh sinh con (có tác giả gọi là The
Virgin
Birth) này đầy rẫy trong sử sách Trung
Quốc.
Qua thế kỷ XX những
người chỉ trích,
như Nhượng Tống, cho rằng Ngô Sĩ Liên đã
mang thần
thoại Mường vào sử Việt để làm vừa lòng Lê
Lợi, vốn xuất thân từ xứ Mường (Lam Sơn).
Nhiều người đồng
ý rằng truyện 100 trứng, 100 con giống như,
nếu không phải
lấy từ, truyền thuyết “Mo đẻ đất, đẻ nước”
của người Mường. (Nguyễn
Linh, “Về sự tồn tại của nước Văn Lang;”
NCLS [Hà Nội], số 112
(7/1968), tr. 19-32). Mới đây, có tác giả
còn cho rằng truyện 100 trứng, trăm con
giống như truyền thuyết Cẩu
chủa
chang
vừa của người Tày.
Lại có người cho
rằng Ngô Sĩ
Liên đã dựa theo Lĩnh Nam Chích Quái (1377?)
của
Trần
Thế
Pháp,
do
Vũ
Quỳnh
hiệu
đính
(1492). Như
truyện Hồng Bàng thị, Phù Ðổng thiên vương
(Uy
Vũ miếu), Chử Ðồng Tử, v.. v... Ngoài ra,
Ngô Sĩ
Liên có thể lấy thêm một số chi tiết trong Việt
Ðiện
U Linh (ca 1329) của Lý Tế Xuyên, ghi
chép về các vị thần miếu, thần sông, thần
đất, v..
v.... (Xem thêm Gaspardone, “Bibliographie
annamite;” BEFEO, số
34 (1934), tr. 126-30)
Hiển nhiên sử
quan Ngô Sĩ Liên đã mang truyền thuyết vào
phần Ngoại Kỷ của quốc sử. Ðây không hẳn là
một
lầm lỗi đủ để bị chỉ trích là “khỉ sư.”
Truyền thuyết hay
huyền thoại được coi như sử truyền khẩu [oral
history],
không thể gạt bỏ vội vã mà nên được
nghiên cứu và lượng giá. Truyền khẩu sử còn
rất quan trọng với một dân tộc không có sử
thành văn như cổ Việt.
[Ngay
đến cuối thế kỷ
XX, đầu thế kỷ XXI, quốc sử Việt Nam vẫn
chưa gột hết được tính
chất huyền thoại. Những thành phần trung
gian bản xứ hợp
tác với Pháp, tiếp tay quân viễn chinh Pháp
chiếm đóng Việt Nam từ năm 1858 tới năm
1945–kể cả tập
đoàn thông ngôn Petrus Key, Nguyễn Trường
Tộ,
Ngô Ðình Khả, Nguyễn Hữu Bài, v.. v...– được
ngợi ca, cung văn không tiếc lời. Hồ Chí
Minh cũng được
phong thánh với đủ loại thần rắn, ma trâu
như “cha
là một nhà nho yêu nước, không cam tâm
phục vụ giặc Pháp;” từ năm 15, 16, Hồ đã bỏ
học để đấu
tranh chống Pháp; rồi đi tìm đường cứu nước
từ cảng
Sài Gòn bằng nghề phụ bồi tàu; tự mình
tìm đến đất Nga; trọn đời không lấy vợ, sống
độc
thân, để phục vụ cách mạng, v.. v... Ngày
nay,
thì ai cũng rõ Phớ bảng Nguyễn Sanh Huy, cha
Hồ
Chí Minh (tên thực Nguyễn Sinh Côn), từng
làm
tri huyện đất Bình Khê, năm 1910 đánh chết
người
trong một cơn say nên bị cách chức, rồi lưu
lạc vào
Nam Kỳ; năm 1911, vừa tới Marseille, cậu
Nguyễn Tất Thành (Hồ
Chí Minh) vội vã làm đơn xin vào trường
Thuộc Ðịa Pháp (Ecole coloniale), hay đường
... kách
mệnh là một chuỗi những năm tháng hoạt
động
tình báo cho Nga, Anh, Trung Quốc, Mỹ, v..
v... (Xem
Chính Ðạo, Hồ Chí Minh, 1892-1969: Con
người
& huyền thoại, 3 tập) Nhà văn
Dương Hùng Cường,
qua truyện phiếm “Nếu Chàng Trương Chi đẹp
trai,” đã
có dịp luận thêm về những huyền thoại lấy
thân
mình cản pháo ở Ðiện Biên Phủ, v.. v....
(Xem Tướng
Về
Hưu [Houton, Văn Hóa: 1991]) Về đường
vợ con thì
nào là người vợ gốc Hoa năm 1927, nào là
“Fan Lan” Nguyễn Thị Vịnh, Ðỗ Thị Lạc. [Rồi
mới đây
còn có tin đồn con hoang của bà Nông Thị
Zếnh cũng là sản phẩm cách mạng của tư tưởng
Hồ
Chí Minh. Năm 2001, tôi đã đề nghị nên
dùng “lối thử nghiệm DNA” để biết rõ trắng
đen, nhưng
chắc Hà Nội chẳng bao giờ thực hiện. Ðáng lẽ
ông Nông Ðức Mạnh nên âm thầm làm
thử nghiệm DNA để biết rõ sự thực, hơn lối
trả lời lưng chừng
“chúng ta ai cũng là con cháu Bác Hồ.”
Ít lâu sau, ông Nông Ðức Mạnh khai cha họ
Nông, mẹ họ Hoàng. Ðó là chưa kể những
chiến công “vĩ đại” của Võ Giáp (tức Ðại
tướng
Võ Nguyên Giáp), nhưng chỉ có trên
danh nghĩa; việc bày mưu, định kế, cung cấp
tin tình
báo, vũ khí, đại pháo, tiếp vận và chỉ huy
đều trong tay cố vấn Trung Cộng dưới quyền
chỉ huy của những Trần Canh
(Chiến dịch biên giới, 9-10/1950), Vi Quốc
Thanh (Ðiện
Biên Phủ, 1953-1954, v.. v..)]
2. Dã sử:
Dã sử là
một nguồn tài liệu quan trọng. Dù là dã sử,
các tác phẩm trên có giá trị
khá cao, vì đa số tác giả đều văn hay, chữ
tốt,
hoặc thuộc những gia đình có truyền thống
văn học.
Dùng cho giai đoạn
tiền-độc-lập,
còn
các
sách
biên
soạn
từ
thời
nhà
Lý
(1009-1226), nhà Trần (1226-1400). Từ giai
đoạn
nhà Hậu Lê (1428-1527) trở về sau, tức thời
Trung Cổ,
có Dư địa chí và Ức Trai Thi Tập
của Nguyễn Trãi; Ðại Việt thông sử,
hay
Lê triều thông sử của Lê Quí
Ðôn [30 quyển, từ Lê Lợi (1418) tới Lê Cung
Hoàng (1522-1527); nhưng hiện chỉ còn đời Lê
Thái Tổ. Ðặc biệt, có nhiều chi tiết về nhà
Mạc (1527-1592)]. Học giả Lê Quí Ðôn cũng
còn các bộ Vân Ðài Luận Ngữ
và Phủ Biên Tạp Lục rất giá trị,
phản ảnh
kiến thức nho gia vào hạ bán thế kỷ XVIII,
cùng
những sử liệu về nhà Tây Sơn. Ngoài ra, còn
Việt
Sử
Tiêu
án của Ngô Thì Sĩ; Hoàng
Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia Văn
Phái; Ðăng
Khoa
Lục của Nguyễn Hoan; Ðăng khoa bị
khảo của Phan
Huy Ôn; Ô Châu Cận lục của Dương Văn
An; Cao
Bằng
Lục của Phan Lê Phiên, Lịch triều
tạp kỷ
của họ Cao [Ngô Cao Lãng] tại Ái châu [Thanh
Hoa] và con là Siển Trai (Gaspardone,
(1934), tr. 1-167
at 75)], v.. v....
Ðời nhà Nguyễn thì
có Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của
Phan Huy
Chú, Quốc Sử Di Biên của Phan Thúc
Trực,
v.. v... Thời Pháp thuộc (1858-1945) thì có
rất
nhiều tài liệu dã sử. Các tên tuổi quen
thuộc có Petrus Key, Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh,
Ngô Ðức Kế, Phạm Quỳnh, v.. v...
H.
TƯ
LIỆU
KHẢO
CỔ:
Từ đầu thế kỷ
XX, việc nghiên cứu sử
học Việt Nam được thêm một nguồn tư liệu
mới. Ðó
là tài liệu khảo cổ học. Loại tài liệu
này
khiến vào đầu năm 1979, có người đã hân
hoan
viết trên báo Nhân Dân (Hà
Nội): “Lật đất lên, bốn ngàn năm lịch
sử.”
Trước hết, phải
nhấn
mạnh, tài liệu khảo cổ học, hay những di
tích khảo cổ,
cực kỳ quan trọng trong việc tái dựng dĩ
vãng; nhất
là giai đoạn huyền sử. Một xã hội nào cũng
trải
qua những hưng phế, dời đổi, do tai ương
thiên nhiên như
bão, lụt, hỏa hoạn, động đất, hay chiến
tranh tàn
phá. Chỉ nguyên việc nước biển gia tăng trên
dưới
100 mét từ trước đến nay, cơn hồng thủy vào
khoảng năm
4,000 TTL, hay việc bồi đắp các đầm lầy, cửa
biển bằng
phù sa, chưa nói đến việc con người dời núi,
xẻ
sông khiến xã hội và cư dân không ngừng
biến đổi. Ngành khảo cổ bởi thế giúp người
nghiên
cứu dựng lại được phần nào đời sống tiền
nhân, qua những
di tích về nhà cửa, thành quách, đồ
dùng, dụng cụ cày cấy ruộng vườn, vũ khí,
hay tế
lễ.
Công trình
khảo cổ tại Việt Nam chỉ khởi đầu từ cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Chúng ta ai nấy đều đã nghe về trống đồng
Ðông
Sơn, Hòa Bình, hay những di tích tại Ốc Eo,
Sa
Huỳnh (Quảng Ngãi), v.. v...
1. Sơ lược về
thuyết tiến hóa:
Ngày nay, ai cũng
đã rõ
trái đất của chúng ta nằm trong thái dương
hệ (tức
một chùm những hành tinh xoay quanh một định
tinh
là mặt trời). Thái dương hệ này chỉ là một
trong hàng triệu hệ khác trong vũ trụ, mà đa
số
các nhà khoa học cho rằng đã tạo lập từ 15
tỉ
tới 10 tỉ năm trước.
Trên trái
đất của chúng ta, theo những nhà dân tộc học
chủ
trương thuyết tiến hóa, có 2 loại người tiền
sử: Homo
sapiens và Homo sapiens sapiens.
a. Homo
sapiens xuất
hiện khoảng 7-5,000,000
TTL.
Tại Phi Châu,
có 3 loại người tiền sử:
(1)
Australopithecus: 4-3,000,000
TTL,
tuyệt
chủng.
(2) Homo habilis: 2,500,000 TTL, sống
thành từng bầy,
hái lượm thực phẩm, chia nhau ăn.
(3) Homo erectus: 1,750,000 BC, bắt
đầu tràn qua
Âu và Ấ châu. Biết dùng lửa, và
ngôn ngữ sơ khai.
b. Homo
sapiens sapiens [xuất
hiện
giữa 500,000-50,000 TTL]:
giống
loài
người
hiện
nay.
Dấu vết của người
tiền
sử là các dụng cụ sinh hoạt thường ngày, chỗ
cư
trú như ngọn cây, hang động, nhà cửa, thực
phẩm
và tế tự (nghi lễ, tôn giáo). Người ta đã
khám phá ra các di tích chỗ ở lợp gỗ của
người tiền sử ở Nice, Pháp, vào khoảng
400,000 TTL. Tới
khoảng 200,000-30,000 TTL có loại người
Neanderthal ở Châu
Âu, Phi châu, Trung Ðông và Trung
Á, với các dụng cụ như đồ đập (vồ, búa).
Ngoài ra, còn có người Peking (Bắc Kinh)
xuất hiện
vào khoảng 500,000 TTL với các di tích tế
lễ. Bởi
thế, trong cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
các nhà khảo
cổ và dân tộc học Tây phương bắt đầu đi tìm
dấu tích người tiền sử tại Á châu nói chung,
và Việt Nam nói riêng.
Cách làm
việc của họ dựa theo những mẫu (mô thức) xã
hội,
phân loại, và định tuổi thông dụng ở Tây
phương. Thí dụ như trước năm 10,000 TTL,
người tiền sử đã
biết dùng đồ đá, gọi là đồ đá cổ. Từ 10,000
tới 6,000 TTL, các dụng cụ thuộc về thời đá
giữa. Từ
6,000 tới 3,000 TTL là thời kỳ đá mới, khi
người tiền sử
biết chế biến, mài đẽo đá thành các dụng cụ
tinh vi, chuyên biệt cho việc mưu sinh hàng
ngày
(có người gọi là cuộc cách mạng đồ đá,
đánh dấu thời điểm con người bắt đầu chinh
phục để làm
chủ thiên nhiên và môi sinh). Từ khoảng năm
4,000 TTL, tại vài nơi dân cư đã biết sử
dụng đồ
đồng. Sau đó, từ khoảng năm 2,000 TTL có nơi
đã
chế tạo đồ dùng bằng sắt.
Do khác biệt về
kinh nghiệm sống, kiến thức và môi sinh,
niên đại
của các thời kỳ đá, đồng và sắt thay đổi
tùy theo vùng được khảo cứu. Các nhà khảo
cổ áp dụng hai lối phân tích: xếp hạng và
nghiên cứu từng dụng cụ, và nghiên cứu, so
sánh toàn thể các dụng cụ trên tại mỗi “di
chỉ cư trú” (tức một khu vực như thôn, xã
hay nghĩa
địa, v.. v...).
2. Thời đại đồ
đá:
Tại Việt Nam, thời
đại đồ đá cổ
còn di tích trên 10,000 năm TTL Người ta tìm
thấy ở núi Ðọ số lượng khá lớn lưỡi rìu sơ
kỳ (cleavers
hay
hachereaux) đồ đá cũ. Tuy nhiên, bị
hoài
nghi vì thật khó định tuổi những dụng cụ
bằng đá
quá cổ (do ảnh hưởng của thời tiết và thời
gian, thường
gọi là weathering). Ngoài ra, chưa
tìm
được đồ dùng thời đá cổ trung kỳ và hậu kỳ.
(P. I.
Boriskokii, “Viet Nam in Primevial Time;” Soviet
Anthropology and
Archeology (Moscow), Vols. 7, 8 &
9 (1968-1970; “Bình
luận ý kiến của Per-Sfrensen [Sorensen] về
địa điểm sơ kỳ
đá cũ Núi Ðọ;” Khảo Cổ Học [Hà Nội],
(1981), số 4, tr. 11-4).
Tại làng Sơn Vi,
huyện Lâm Thao,
tỉnh Vĩnh Phú, phát hiện một số dụng cụ đồ
đá.
(Phạm Văn Kỉnh, “Văn hoá Sơn Vi”)
Tại Việt Nam, có
khá nhiều di
tích thời Ðồ đá mới sơ kỳ (Early Neolithic
Period,
6,000-3,000 TTL), tức đồ đá mài (song song
với việc trồng
trọt và nuôi gia súc tại các vị trí
cố định).
Dấu tích thời “Ðồ
đá mới”
(xuất hiện vào khoảng 5,000 TTL) tìm thấy ở
Hòa
Bình và lưu vực sông Hoàng Hà
[Huanghe]. Dụng cụ đồ đá mới xuất hiện nhiều
nhất tại Bắc Sơn
(6095( 60 B.P.) và Quỳnh Văn (4730 ( 75
B.P.). (R. B. Smith
và W. Watson, Early South East Asia,
(New York: Oxford
Univ. Press, 1979), tr. 120). Ðó là công cụ
hình hạnh nhân, hình dĩa của dân sống trong
hang động. Mặc dù có trình độ chế biến cao,
vẫn
là đồ đá lớn (megalith), không có đồ đá
nhỏ như
ở Âu châu (ngoại trừ Indonesia). [Giả
thuyết: Phải chăng
vì người tiền cổ dùng tre, nứa?] Có dấu hiệu
trồng
trọt, nhưng chắc chỉ trồng củ.
Ðồ đá mới [hậu kỳ]
[Late Neolithic
Period] được phát hiện tại Quỳnh Văn năm
1963 (khác với
rìu Bắc Sơn). Cư dân có thể đã biết trồng
trọt. Chế tạo các đồ gốm thô [Mansuy cho
rằng người
Indonesian du nhập vào].
Ðồ đá mới, hậu kỳ,
thấy ở
Phùng Nguyên (xã Kinh kệ, huyện Lâm thao,
tỉnh Phú Thọ). (Lan & Kỉnh 1968, tr. 36)
Theo Phạm Văn Kỉnh,
trong thời tiền kỳ
đá mới người Việt bắt đầu trồng những loại
củ (tuber plants)
và có thể lúa dại (wild rice). Vào thời hậu
kỳ đá mới bắt đầu có trồng trọt, như tại
Quỳnh Văn, nhưng
căn bản vẫn là săn bắn và hái, lượm trái
cây. (“Vài ý kiến về một số vấn đề khảo cổ
học
trong quyển Kinh tế thời nguyên thủy ở Việt
Nam;” NCLS, số 136
(1/1971), tr. 45-52, 64).
3. Thời đại đồ
đồng:
Từ khoảng năm 4,000
TTL, dân Sumnerian
dùng những bảng đất sét để vẽ những hình
(hoa văn)
tại Mesopotamia, thung lũng sông
Tigris-Euphrates (Trung
Ðông hiện nay). Dân Sumnerian sống tại các
thành phố lớn như Eridu, Uruk, Nippur, Kish,
và Lagash.
Tổ chức quanh các đền thờ với các giáo sĩ.
Ðồng ruộng được tưới bón bằng hệ thống dẫn
thủy nhập điền.
Ðã biết dùng thuyền buồm, xe có bánh.
Tại cổ Việt, thời
đại đồ đồng phát
triển chậm hơn vùng Trung Ðông (hiện nay).
Theo
Hà Văn Tấn, thời đại đồ đồng gắn liền với
văn hoá
Phùng Nguyên (Kinh kệ/Lâm thao/Vĩnh Phú,
1480-1280 TTL), khai quật năm 1959-1960. Sau
đó một số di
tích khác ở Vĩnh phú (Gò Mun [1215-975
TTL], Ðồng Dậu [1220-1020 TTL]) và Hà Tây.
Ngoài gần 70 trống loại Heger I, người ta
còn tìm
thấy hai lưỡi cuốc có vai [shouldered hoe]
bằng đồng tại
Bú Trăn, khoảng 17 cây số Tây Bắc Vinh.
(Smith
và Watson, Early South East Asia,
1979, tr. 126, 127,
128, 129, 130, 131, 133). Sau định lại niên
đại vào khoảng
2,000-1,500 TTL (hậu kỳ thời đá mới), xếp
thành “thời
đồng thau.” (Lê Văn Lan cho rằng đó là cuối
thời
đá mới, đầu thời đồng thau. Tuy nhiên, nên
nhớ nhược
tiểu, chậm tiến, định niên đại rất phức tạp)
Việc trồng trọt
và nuôi gia súc mới phát triển qua việc
phát hiện những lưỡi cày bằng đồng.
[Xem
thêm
Lê Văn Lan, “Tài liệu khảo cổ học và việc
nghiên cứu thời đại các vua Hùng;” NCLS
(Hà-nội), Bộ 124, số 7 (7/1969), tr. 52-79;
Lê Văn Lan,
“Về tục hỏa táng ở thời đại của các vua
Hùng;”
NCLS, số 132 (5-6/1970), tr. 74-80; Lê Văn
Lan và Phạm Văn
Kỉnh, “Di tích khảo cổ trên đất Phong châu,
địa
bàn gốc của các vua Hùng;” NCLS, Bộ 107, số
2
(2/1968), tr. 34-46].
Ðồng thau: làng Thọ Xuân, thị
xã
Việt Trì; Gò Mun, Thanh Ðình, Phú Hậu
(Phú Thọ); Phượng Cách (Hà Tây); Văn
Ðiển (Hà Nội). Ða số là di chỉ cư trú
(Phùng Nguyên, An Ðạo, Yên Tàng, Văn
Ðiển).
Các
di chỉ đều
nằm trên đồi hoặc gò cao (vùng trung du)
[lưu
ý: mực nước tăng lên sau đại hồng thủy]
4.
Thời
đại đồ sắt:
Từ khoảng 2,000
TTL, các xã hội
tân tiến bắt đầu dùng đồ sắt. Tại cổ Việt,
theo Hà
Văn Tấn, đồ sắt tìm thấy ở Ðông Sơn (C-14
định tuổi
vào khoảng từ 350 tới 285 TTL) và gò Chiên
Vậy ở Hà Sơn Bình (khoảng 400 TTL). (Smith
và
Watson, Early South East Asia, 1979,
tr. 131). Lưỡi cuốc sắt [iron hoe] có lẽ nhập
cảng từ phía Bắc. Nếu tin được sử Trung
Quốc, một nguyên
cớ đưa đến việc Triệu Ðà tự lập làm vua là
Lữ
Thái hậu không chịu bán đồ sắt cho Nam Việt.
[Xem thêm Diệp Ðình
Hoa, “Sơ
kỳ thời đại đồ sắt ở nước ta và vấn đề Hùng
Vương-An
Dương Vương;” NCLS (4/1969)].
Những di tích khảo
cổ khai quật được
tại Việt Nam, Hoa Nam, và đặc biệt là Thái
Lan
(Non Nok Tha), vào những năm 1960 và đầu
thập niên
1970 (Smith và Watson, Early South East
Asia, 1979)–song
song
với
sự
tiến
bộ
của
các
kỹ
thuật định tuổi di vật bằng
Radiocarbon (C-14 phóng xạ), phương pháp tỉ
đối
Flour/Uranium/Nitrogen, hay các vòng tuổi
của
cây–khiến đảo lộn từ rễ gốc nhiều lối phân
tích từ
trước tới nay (như người Việt là Tàu lai
(Olov R.T.
Janse, Archeological Research in
Indochina, 3 vols [Cambridge:
1947]), hay di cư từ Trung quốc xuống
(Léonard Aurousseau đề
xướng; Ðào Duy Anh chế biến thêm với những
hình
khắc trên trống đồng, v.. v...); hoặc các
dụng cụ được chế
biến, nhất là kim loại, chỉ được nhập cảng
từ ngoài
vào (diffusionism). Người ta bắt đầu phác
họa những
thuyết về một chủng dân thật lớn ở Ðông Nam
Á,
đã có mặt tại vùng này từ trước ngày
mặt nước biển dâng cao từ 80 tới 120 thước
như hiện nay. Như một
hệ luận, thuyết di dân (như các dân tộc ở
Ðông Nam Á đã di cư từ Himalaya tới, hay
ngược
lại) bắt đầu bị thách thức và người ta đưa
ra thuyết tiến
hóa tại chỗ [local evolution].
Theo
thuyết này,
dân Bách Việt [Yueh] có những nhóm đã
sống đời người thuyền [boat people], cắt tóc
ngắn và vẽ
mình. Phần đông những nhóm Bách Việt tại
vùng nam sông Dương Tử dần dần bị dân Hán
đồng hóa, nhưng một nhóm dân Việt tại vùng
châu thổ sông Hồng và sông Mã
thoát nạn mà lập nên dân tộc Việt Nam hiện
nay. Tuy nhiên, điều ấy không có nghĩa dân
Việt (Hồng Hà) là một sắc dân thuần chủng,
mà đã có sự pha trộn với nhiều giống khác,
kể cả người [ở cổ] Trung quốc. (William
Meacham, “The Archeology of
Hongkong;” Archeology, 33:4 (7-8/
1980), tr. 16-23; “Local
Revolution and Continuity in the Neo-lithic
of South China: A
Non-Nuclear Approach;” Current
Anthropology, 18 (1977), tr.
419-40. Xem thêm Karl L. Hutterer, “An
Evolutionary Approach to
the Southeast Asian Cultural Sequence;” Current
Anthropology,
17:2 (June 1976), tr. 221-42).
Các di
tích khảo cổ tìm được cũng giúp đặt lại vấn
đề
niên biểu của nhà Hồng Bàng cùng các
vua Hùng. Người ta đề nghị rằng các vua Hùng
xuất
hiện đâu đó giữa thời khoảng 1,500 tới 600
TTL.
Tuy nhiên, sử
dụng tài liệu khảo cổ không dễ. Mục tiêu
hoặc khuynh
hướng chính trị của các nhà khảo cổ chi phối
nặng
nề các giả thuyết về giai đoạn tiền sử. Nên
không
có gì ngạc nhiên khi thấy thuyết di dân
và nhập cảng thống trị các nghiên cứu trước
Thế
chiến thứ hai, trong khi thuyết tiến hóa tại
chỗ chỉ bắt đầu
thăng tiến sau ngày các thuộc địa cũ giành
được
độc lập.
Các di
tích khảo cổ cũng chỉ là những dữ kiện chết;
không
có dẫn giải hay phê bình. Thật khó để suy
đoán nguồn gốc thực sự (ai sáng chế) của các
di
tích khảo cổ, nói chi thể chế chính trị hay
sự
hình thành quốc gia [state formation].
Vấn đề sinh hoạt
tinh thần cũng gây
nhiều bàn cãi. Một đề tài gây nhiều tranh
luận nhất là vấn đề tô-tem hay vật
tổ. (Emile Durkheim, Les
formes
élémentaires de la vie religieuse
[Những hình
thái sơ đẳng của sinh hoạt tôn gíáo]). Victor
Goloubew dựa theo
hình vẽ [hoa văn] trên trống đồng Ngọc Lũ ra
sức chứng
minh rằng vật tổ của người Việt là “chim hậu
điểu.”
(“L'âge du bronze au Tonkin et dans le Nord
Annam;” BEFEO, XXIX
[1930], tr. 28) Ðào
Duy
Anh
thì
nghĩ
rằng
“tô-tem”
(vật
tổ)
của người Việt
là chim Lạc ở
miền Giang Nam. (Cổ sử Việt Nam
[Hà-nội: 1956], tr.86;
dẫn trong Văn Tân 1959:15, 18)
Xem những
hình thuyền chạm trổ trên thân trống đồng
Ngọc lũ,
người ta lại thấy rõ ràng đó là thuyền đi
biển có cột buồm và bánh lái mũi. Những
điểm ấy khiến chúng ta thấy rằng những
người đúc trống
ấy–người Lạc Việt–tất đã từng vượt biển.
Những chim Hậu điểu ấy,
người ta thấy khắc trên trống đồng ấy, tức
là người Lạc
Việt. Tìm ý nghĩa chữ [Lạc, ] hay [Lạc, ]
là họ,
tức tên thị tộc của người Lạc Việt, chúng
ta thấy chữ ấy
chỉ một loài Hậu điểu ở vùng Giang Nam. Xã
hội học
cho chúng ta biết rằng các thị tộc ở xã
hội
nguyên thủy thường lấy tên các vật tổ mà
đặt
tên. Như thế thì chữ Lạc chính là tên
vật tổ, tức loài chim hậu điểu mà chúng ta
thấy
hình dung trên trống đồng Ngọc lũ.”
Văn Tân
bài bác
lập luận này; thay bằng “rồng rắn”, “một
loài bò
sát,” (như cá sấu = giao long), sau chuyển
thành
“rồng” kiểu Trung Hoa. (tr. 24-5) Hà
Văn Tấn, qua bài “Ý
kiến trao đổi: trở lại vấn đề tô-tem của
người Việt” cho rằng
tô-tem vừa có chim Lạc, vừa có giao long.
Chim Lạc
khắc trên đầu thuyền để trấn áp gió. Giao
long
là cá sấu (trên búa Ðông sơn nữa). (NCLS,
tr. 66-79)
Cuộc
bàn cãi,
dĩ nhiên, sẽ chẳng bao giờ dứt.
Nhờ
kỹ thuật định tuổi
các di tích khảo cổ ngày một tân tiến,
nhiều
lập luận có vẻ khoa học của tiền bán thế
kỷ XX (như đo sọ
người) trở thành lỗi thời. Ngày nay, các
nhà khảo cứu bắt đầu sử dụng phương pháp
trắc nghiệm DNA
(một hợp chất nucleic acid [gồm purines,
pyrimidines, carbo-hydrates,
và phosphoric acid] chuyên chở đặc
tính di
truyền của tế bào) với mức chính xác rất
cao.
Nhưng một
số người, vì
tín ngưỡng hoặc vì thành kiến, vẫn phủ nhận
thuyết
tiến hóa và các nghiên cứu khảo cổ học. Tin
tưởng vào thuyết sáng tạo của Thượng đế (God
hay Allah),
cùng những cảnh giới gọi là thiên đường và
địa ngục (mà Giáo hoàng John Paul II đã phủ
nhận), đa số giáo mục và giáo dân với
lòng cuồng tín Trung Cổ cực lực chống lại
những điều
mà họ mỉa mai là từ vượn lên người, hay duy
vật.
Trước viễn ảnh của khám phá mới về cloning
[tái tạo], đang có khuynh hướng tân-Gallilei
[neo-Gallileism] và tân Tòa dị
giáo
[neo-Inquisition] để ngăn chặn bước
tiến của khoa học.
I. TƯ LIỆU
TÂY PHƯƠNG:
Từ thế kỷ
XVI, ngoài tư liệu
Trung Quốc và quốc sử quán Việt, người
nghiên cứu
có thêm hai nguồn tư liệu khác. Ðó
là thư từ và báo cáo của các
giáo sĩ, cùng những tay phiêu lưu mạo hiểm,
kể cả
thương gia Arab.
1. Giống
như quốc sử quán
Việt, hay tư liệu Trung Quốc, các tư liệu
Tây phương
không khách quan như những người tôn sùng
phương Tây ngộ nhận.
a. Các
nhà truyền giáo, chẳng hạn, chỉ nhìn đất
nước
và dân tộc Việt dưới mắt nhìn đầy tư tâm của
sứ mệnh truyền giáo. Trang bị bằng các Thánh
lệnh (Bulls)
cho phép các đoàn thám hiểm và
truyền giáo chiếm đoạt bất cứ vùng đất và
hải đảo
nào chưa thuộc quyền sở hữu của các vua chúa
Ki-tô, tịch thu tài sản và bắt làm nô
lệ bất cứ kẻ vô thần hay ngoại đạo [infidels],
ác
quỉ [evil-doers] nào không chịu nhìn
nhận
và tôn thờ Thượng đế Ki-tô, giấc mơ của các
nhà truyền giáo chỉ có việc giương cao cây
thập tự trên các nóc giáo đường bản xứ. [Xem
Phụ Bản Phân Chia Thế
Giới]
Những báo
cáo về
trung ương, thư từ trao đổi giữa các giáo sĩ
với nhau,
hoặc gửi đến các giới chức thẩm quyền thuộc
địa cho thấy
rõ sự thiếu khách quan này.
2. Những
con buôn và
các tay phiêu lưu Tây phương cũng vậy. Tư
liệu của
họ thường chỉ là những mắt nhìn hời hợt từ
các boong
tàu, pha trộn chút hơi hướng phiêu lưu mạo
hiểm.
Hoặc những lời cổ võ về sự giàu có, vàng
bạc đầy đường, cất dấu dưới biển của các nhà
cầm quyền
bản xứ. Những câu chuyện hoang tưởng về thế
giới của những giống
người da tím, một mắt mọc giữa trán, cùng
những
cung điện nguy nga đầy châu báu, những con
lộ cúi
xuống nhặt được vàng một thời dấy gợi bao
giấc mơ phiêu
lưu mạo hiểm của tuổi trẻ lục địa Âu châu.
Marco Polo với
những ngôi nhà Nhật có mái lợp bằng bạc; hay
các thương gia Arab với những kho vàng cất
dấu dưới biển
của các sultan [tiểu vương] Malay là
một
thí dụ khác.
[Theo
Marco Polo, Polo tới Trung
Hoa vào đời Hốt Tất Liệt (Qublai Khan hay
Thành
Cát Tư Hãn, 1260-1294), ở lại đây 17 năm.
Polo được
Hốt Tất Liệt cho chu du khắp vương quốc, rồi
bổ nhiệm làm Tổng
đốc Yangzhou (Dương Châu). Về
nước,
viết
cuốn Description of the World [Những
Kỳ quan của thế
giới] trong tù. Tự nhận được Hốt Tất Liệt cử
làm sứ giả
gặp Giáo hoàng Ki-tô ở Roma.
Một học giả Mỹ cho
rằng Polo đã bịa
đặt, chưa bao giờ đặt chân tới Trung Quốc,
và tác
phẩm của Polo chỉ tổng hợp những huyền thoại
nghe được tại Persia (Ba
Tư). (Frances Wood, Did Marco Polo Go to
China? [Boulder,
Colorado: Westview Press, 1996], 154 trang)
Theo Wood, Polo không
nói lên được những đặc thù của Trung Quốc
vào thời gian này: Vạn Lý Trường Thành,
súng bắn đá và thành Tương Dương, những
món đồ sứ của thế kỷ XIII, tục ưa ăn ngon
của người Hoa, đặc sản
của Suzhu (Tô Châu), v.. v... Wood ví Polo
như một
thứ Herodotus (480-425 TTL), “người chưa
từng đặt chân tới
những địa danh mà ông ta mô tả và trộn lẫn
giữa sự kiện với chuyện hoang đường.” (tr.
150)
3. Từ thế kỷ
XVII-XVIII, các tư liệu
Tây phương còn có thêm chút hương hoa
của sứ mệnh khai hóa, hay “gánh nặng của
người da trắng.”
Bởi thế cuộc xâm lăng và chiếm đóng
Philippines
[Phi Luật Tân] từ năm 1578 của người Espania
hay “An Nam” của
Pháp từ năm 1858 chỉ nhằm mục đích “mở
cửa cho người
bản xứ vào thế giới văn minh.” Nên
chẳng có
gì ngạc nhiên, khi thấy sau ngày Philippines
độc
lập, tại nơi từng dựng tượng tôn thờ nhà
thám hiểm
Ferdinand Magellan–thuyền trưởng Âu châu đầu
tiên
muốn đi vòng quanh thế giới–dân bản xứ đã
dựng một
bảng đồng, với lời ghi chú: “Ðây là nơi,
ngày 27/4/1521, Lapulapu và chiến hữu đã
đánh đuổi những tên xâm lược Espania, giết
chết
tên cầm đầu Ferdinand Magellan. Như thế,
Lalupalu trở
thành người Filipino đầu tiên đã đẩy lui
sự
xâm lược của Âu châu.” (Steinberg ed.,
In
Search of Southeast Asia, tr. XI)
Tại Việt Nam, hàng
triệu người phải hy
sinh mạng sống hay bị phế tật, hàng chục
ngàn làng
mạc, ruộng nương bị tàn phá mới chấm dứt
được giai đoạn “khai
hóa” của Pháp. Nhưng người Việt rất độ
lượng. Người
ta vẫn tạc tượng thờ hay đặt tên đường phố
để tưởng nhớ những
Alexandre de Rhodes, v.. v... (Trong
tương
lai,
có
thể
có
tượng
Puginier,
Gauthier,
Lefèbvre,
Lê Hoan, Nguyễn Thân, Hoàng Cao
Khải, Petrus Key, v.. v...?)
Houston 1/2/2009
|
II. VIỆC
NGHIÊN CỨU THỜI CẬN ÐẠI (1800-1975):
Giai đoạn trước 1975, việc
nghiên cứu
sử học đã có nhiều nguồn tư liệu hơn để làm việc.
Tài liệu đáng tin cậy nhất, dĩ nhiên, là
tài liệu văn khố. Nhiều nhà nghiên cứu sử học
chuyên nghiệp đã sử dụng tài liệu văn khố
Pháp, Mỹ và Liên Sô. Mới đây, văn khố
Hội truyền giáo Hải ngoại cũng đã mở rộng, sau nhiều
thập
niên “cho người chết ngủ yên.” Ngoài ra, người ta
có thể sử dụng các báo chí đương thời xuất
bản tại Ðông Dương, Nga, Trung Quốc, Nhật, hay Hong
Kong. Một
số hồi ký bằng Hán ngữ, Pháp ngữ, Anh ngữ
và Việt ngữ cũng có thể sử dụng.
A. TÀI
LIỆU VĂN KHỐ:
Văn khố có nhiều loại.
Chính
yếu và quan trọng nhất là những tài liệu do
chính quyền thu thập và soạn thảo, được lưu trữ và
bảo quản để tiện theo dõi sự thi hành các
chính sách hoặc kế hoạch hoạt động thuộc mọi
ngành. Ðây là những tài liệu cực kỳ quan
trọng cho các nhà nghiên cứu. Mỗi cơ quan
chính phủ đều có một văn khố. Những tổ chức, hội
đoàn có cấu trúc chặt chẽ như Hội Truyền
Giáo, nghiệp đoàn hàng hải, v.. v... cũng
có văn khố riêng. Mỗi nhân vật tên tuổi cũng
vậy. Mặc dù các viên chức hành chính
hay quân sự, hay các tác nhân có thẩm
quyền, vì những lý do dễ hiểu, đôi khi chủ quan,
hoặc vì áp lực thư lại, có thể không viết
hết sự thực, nhưng những kẽ hở này có thể loại bỏ
hoặc bổ
túc bằng các tài liệu khác, theo phương
pháp tỉ đối (tức so sánh) và tổng hợp.
Ngoài ra, còn những thủ
bút của các tác nhân lịch sử mà
tính chất khả tín khó ai có thể bài
bác. Hai lá thư xin nhập học trường Thuộc Ðịa của
Nguyễn Tất Thành năm 1911, hay thư Giám mục Ngô
Ðình Thục gửi Toàn quyền Jean Decoux ngày
21/8/1944 van xin Decoux nghĩ đến công lao hãn mã
của Ngô Ðình Khả và họ Ngô mà nhẹ
tay với Ngô Ðình Diệm, Khôi, Nhu, v.. v.. chỉ
là vài thí dụ cụ thể. Toàn bộ báo
cáo của Giám mục Paul Puginier gửi các viên
chức thuộc địa Ðông Dương tại Văn khố Hội Truyền
giáo
Hải ngoại Pháp là một thí dụ khác. Bởi thế,
với những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, tư liệu văn
khố được xếp loại ưu tiên và khả tín hàng
đầu.
Văn khố Việt không được bảo
quản cẩn
thận. Bởi thế không những một số “Châu Bản” nhà
Nguyễn bị mục nát dần, mà ngay tư liệu của các chế
độ Quốc Gia Việt Nam, Việt Nam Cộng Hòa cũng chịu
chung số phận.
Những tư liệu của Ðảng CSVN, dĩ nhiên, chưa và
có thể không bao giờ được giải mật. Thí dụ như
những điện tín và văn thư giữa Bắc Kinh và
Tuyên Quang-Thái Nguyên trong các chiến dịch
Biên Giới (9-10/1950) hay Ðiện Biên Phủ (1953-1954)
vẫn
là tài liệu quốc cấm–và, sau hơn nửa thế kỷ,
các nhà nghiên cứu mới chỉ có được những
“hồi ký” của Trần Canh, Võ Nguyên Giáp, hay
La Quí Ba, v.. v... Ðó là chưa nói đến
những mật điện và tài liệu về những chuyến đi Nga
1950,
1952, 1954 của Hồ Chí Minh.
Mới đây đã có nỗ lực gửi
các chuyên viên Việt ra ngoại quốc học tập
thêm về kỹ thuật bảo quản và tổ chức văn khố. Hy
vọng sẽ
có những tiến triển tốt đẹp hơn. Ngoài ra, theo một
học
giả Nga, Anatoli Sokolov, văn khố Ðảng Cộng Sản Việt
Nam làm
được nhiều microfilm tư liệu tàng trữ tại
các văn
khố Nga và Pháp.
Do tình huống đặc biệt của
Việt Nam, nơi nhiều siêu cường đã có mặt,
tùy theo giai đoạn người ta có thể nghiên cứu
thêm ở các văn khố Pháp, Mỹ, Bri-tên, Nga
và Trung Quốc. Trong giai đoạn trước 1945, nguồn tư
liệu quan
trọng là văn khố Pháp, Nga, Trung Quốc, và
Bri-tên.
Giai
đoạn từ 1945 tới 1975 cũng vậy. Quan
trọng nhất vẫn là tài liệu văn khố Pháp, Mỹ, Nga,
Trung Quốc và Bri-tên. Tuy nhiên, một số tư liệu
trong giai đoạn này vẫn chưa giải mật. Cho đến năm
2001, chẳng
hạn, văn khố Mỹ mới chỉ mở tới năm 1971. Mặc dù
mỗi năm đều
có thêm tư liệu giải mật, nhưng có những tài
liệu vẫn chưa được tham khảo. Thí dụ như tư liệu
về cuộc đảo
chính 1963 tại Thư viện John F. Kennedy chưa mở
hết, đặc biệt
là các công điện và báo cáo
của Henry Cabot Lodge. Thư viện Gerald Ford đã
giải mật một số
hồ sơ về cuộc sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa–như báo
cáo của Tướng Frederick Weyand ngày 9/4/1975, một
số
công điện của chiến dịch Frequent
Wind—nhưng trên đại thể chưa đủ để dựng lại
một bức tranh toàn diện. Văn khố Pháp thì nhiều
tài liệu trong giai đoạn 1945-1954 phải chờ tới
năm 2009-2010
hoặc có thể lâu hơn mới được tham khảo. Tài liệu
Bộ
Ngoại Giao cũng mới mở đến năm 1964. Tư liệu về
Trần Ðình
Lan chỉ giải mật năm 2029! Tài liệu Nga và Trung
Cộng,
vì được xếp hạng là liên quan đến an ninh quốc
gia,
hầu như không mở ra cho các học giả ngoại quốc.
Tại Mỹ,
ngoài các Văn khố Quốc
Gia, Văn khố các Bộ và nha sở, Văn khố các binh
chủng, còn văn khố tại các thư viện Tổng thống Mỹ.
Ðây là nơi tập trung các tư liệu có yếu
tố quyết định cho chính sách ngoại giao cũng như
nội trị
của mỗi Tổng thống. Muốn có được một bộ sử chính
xác về chiến tranh Việt Nam, không thể không
làm việc tại các văn khố này; đặc biệt là
các thư viện Dwight D. Eisenhower, John F.
Kennedy, Lyndon B.
Johnson, Richard Nixon, Gerald Ford và Jimmy
Carter. Cho tới
nay, tôi thường làm việc tại Văn khố Lyndon B.
Johnson,
trong khuôn viên Ðại học Texas ở Austin, Texas.
Hầu như
mỗi năm đều ghé qua một lần. Ðược tham khảo và
làm phóng ảnh khá nhiều tư liệu đã từng
công bố trong các tập Mậu
Thân 68: Thắng hay Bại? (in lần thứ
hai) và 55
Ngày & 55 Ðêm: Cuộc sụp đổ của Việt Nam Cộng
Hòa (in lần thứ 5)
dưới bút hiệu Chính Ðạo.
Toàn bộ những tư liệu văn khố trên sẽ được phổ
biến đầy đủ
hơn trong tập Việt
Nam Niên Biểu I-D: 1964-1968, và
nhất là bộ The
Vietnam War, 1945-1975: Lost or Won? [Chiến Tranh
Việt Nam, 1945-1975:
Bại Hay Thắng?] bằng Anh ngữ, hoàn tất đã
lâu, nhưng còn cần những hiệu đính nho nhỏ về chi
tiết mỗi khi có tư liệu mới giải mật.
Bất cứ ai muốn tái tạo lịch
sử cận đại Việt một cách tương đối trung thực không
thể
không làm việc tại Thư viện LBJ. Theo sự hiểu biết của
tôi, chỉ riêng cựu Ðại tá Phạm Văn Liễu, chẳng
hạn, đã có hàng chục tư liệu chưa được bạch
hóa. Có lẽ chính ông Liễu cũng chẳng
rõ lý do khiến ông bị cách chức Tổng
Giám Ðốc Cảnh Sát Quốc Gia vào ngày
8/4/1966 (dù mãi tới ngày 21/4/1966 mới được
công bố): Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia đã buộc tội
ông Liễu tiếp tay cho cuộc tranh đấu miền Trung của
Phật
Giáo và Lực Lượng Tranh Thủ Tự Do (3-6/1966) vì
một công điện ký tên giả mà ông Liễu
chẳng bao giờ nhận được. Lãnh tụ “Baby Turks” Nguyễn
Ngọc Loan
đã chết, nhưng Tướng Nguyễn Cao Kỳ, cựu Chủ tịch Ủy
Ban
Hành Pháp Trung Ương (1965-1967), có thể giải
thích thêm việc này.
Trường hợp hai Tướng Huỳnh Văn Cao
và Tôn Thất Ðính cũng vậy. Tướng Cao
không bị chỉ định mà tình nguyện ra Ðà
Nẵng thay Tướng Ðính làm Tư lệnh Quân
đoàn I. Tướng Ðính thì có những lời
tuyên bố khiến ông phải hối hận, sau này.
Riêng Thượng Tọa Thích Trí Quang, giống như
tôi đã trình bày trong tập Tôn
Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967,
là nạn nhân của chính ông. Người Mỹ hiểu rằng
Thượng Tọa Trí Quang không là Cộng Sản, và
cái mũ Cộng Sản đã bị những người Ki-tô cuồng
tín–nhất là tàn dư Cần Lao-Nhân Vị
của Ngô Ðình Nhu-Ngô Ðình
Cẩn–và ngay cả các cán bộ Cộng Sản, chụp lên
đầu ông. Thượng Tọa Trí Quang, qua những tin tình
báo nhận được ở Tòa Bạch Cung, có tới ba loại
người thù: Cộng Sản, Ki-tô cuồng tín hiếu chiến
kiểu Trung Cổ, và phe kiêu binh, đại diện bằng những
Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan,
Nguyễn Bảo Trị. Khi
chính phủ Johnson, qua đề nghị của nhóm Edward
Lansdale
và Bill Colby, quyết định cho giới Ki-tô trở lại thống
trị
chính trường miền Nam từ năm 1967-1968, ngày tàn
giấc mộng kê vàng “quốc sư” của Thượng Tọa Trí
Quang bắt đầu. Ngay đến Linh mục Hoàng Quỳnh, người
chủ trương
hòa đồng tôn giáo để chống Cộng, cũng bị
nhóm Ðại Ðoàn Kết của Nguyễn Gia Hiến
loại bỏ vì “đã già, mềm yếu với Phật giáo,”
không còn xứng đáng cầm đầu các ủy ban
“hành động” Ki-tô. Tướng Nguyễn Bảo Trị và Ủy
viên Thanh niên Võ Long Triều cũng tự nhận đã
ra công vận động giáo dân Ki-tô Hố Nai
và Phú Nhuận xuống đường đương đầu với Phật giáo,
ngăn chặn không cho Phật giáo thống trị các cơ quan
dân cử và chính quyền. Niềm tin tôn
giáo đã bị những kẻ tham vọng khai thác làm
con đường tiến thân cho riêng họ. Những ai thích tin
tưởng ở “thánh chiến” nên ghé văn khố LBJL ở Austin
một lần, tìm đọc vài hộp tư liệu của Hội Ðồng An Ninh
Quốc Gia Mỹ [National Security Files (NSF), Vietnam
Country File]. Từ
những nhân vật như Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Văn
Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Văn Ðôn, v.. v... tới các
tác nhân hạng hai, hạng ba như Bùi Diễm, Trần Văn
Ân, Tôn Thất Thiện, Ðặng Ðức Khôi, v.. v...
đều có dấu vết trong kho Tư liệu Hội Ðồng An Ninh Quốc
Gia
Mỹ dưới thời chính phủ Johnson. Phía sau sân khấu
chính trị miền Nam, tại các tư dinh hay công sở Mỹ,
các “lãnh tụ” Việt không cao lớn và uy quyền
như họ muốn chúng ta phải tin. Bởi thế, mới có hai
thành ngữ thời đại: sự “dốt nát hào nhoáng
“ (the shining ignorance) và sự “lừa dối sặc
rỡ” (the
colorful lies).
Ðặc biệt có giá trị
là những công điện trao đổi giữa Sài Gòn
và Oat-shinh-tân trong giai đoạn 1964-1968. Một
trong
những tài liệu đáng chú ý là “sự
hiểu ngầm” của Hà Nội trước khi Tổng thống Johnson
tuyên
bố ngừng oanh tạc Bắc Việt ngày 1/11/1968. Những báo
cáo của Tướng Lansdale về các nhân vật Việt Nam
cũng khiến cười ra nước mắt. Khó tin, nhưng có thực:
Nhiều “lãnh tụ” đã lập công danh, kiếm tài
lợi qua những “party” buổi tối hay giấc ngủ thiếp lả
trên salon
tư dinh Tướng Lansdale, với những “sứ mệnh” đủ loại.
Nào
là Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc, nào là
đoàn thanh niên, hay trại hè thiện chí.
“Lãnh tụ thanh niên”, chẳng hạn, từng giao nạp hồ sơ
bốn
học sinh tình nguyện cứu trợ nạn nhân chiến tranh
cho cơ
quan an ninh vì tình nghi họ là Cộng Sản. Nhưng
ác độc nhất là việc diễn giải tấm biểu ngữ cứu trợ
nạn
nhân chiến tranh của Phật giáo là “có khuynh
hướng thân Cộng.” Cũng may, sau đó người Mỹ quyết
định bỏ
rơi miền Nam Việt Nam, bằng không chẳng hiểu chuyện
gì xảy
ra với những “lãnh tụ
... cổng hậu tư dinh quan tướng tình báo ngoại
quốc
này!”
Các “lãnh tụ” miền
Nam, như Bùi Diễm, trong hồi ký In the Jaws of
History, Trần Văn Ðôn, trong Our Endless
War, và
Nguyễn
Cao
Kỳ
trong Twenty Years and Twenty Days chẳng thấy
đá động gì đến những chi tiết phía sau hậu trường,
chỉ thấy khoe mình tài, mình giỏi, mình
quân tử. Việc quá nhỏ để nhớ hay nhắc đến trong hồi
ký chăng?
Huỳnh Văn Lang, trong hồi ký Nhân Chứng
Một Chế Ðộ (3 tập), và Y sĩ
Ðặng Văn Sung, qua buổi phỏng vấn riêng của tôi năm
1997, ít tháng trước ngày ông từ trần, tự
chứng tỏ lương thiện hơn nhiều người đồng thời. Cả hai
đều thú
nhận hợp tác chặt chẽ với cơ quan tình báo Mỹ.
Và không như nhiều người đóng vai ngụy quân
tử, chụp mũ cho người khác là “CIA” hay “Xịa.”
Lật dở những trang tài liệu
quản thủ kỹ lưỡng, khác hẳn với những hồ sơ dầy bụi
thời gian
của văn khố Pháp, hơn một lần tôi thoáng nhớ đến
những chữ “Moise”, “Jacobs” và “giải phóng” trong thư
“Petrus Key” gửi “Grand Chef” Jauréguiberry vào cuối
tháng 3/1859 (do một linh mục ở Vĩnh Long chuyển) để
thúc
dục “những sứ giả của Thiên Chúa [Ki-tô]” này
xâm lăng Ðại Nam cho nhanh; hay, ba chữ “bol de
riz”
(bát cơm) bảo hộ Pháp của dòng họ Ngô
mà Ngô Ðình Khôi đã nhờ Ngô
Ðình Nhu chuyển lời cho Tổng Giám Ðốc Cảnh
Sát Paul Arnoux vào tháng 8/1944 trong các
văn khố Pháp. (Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối
nhà Nguyễn, tập III)
Cơ trí, ắt cơ tâm.
Những “lãnh tụ” của hạ bán thế kỷ 20 có vẻ
khôn ngoan và thông minh hơn những người của thế hệ
trước. Những tấm lòng yêu nước ... Pháp và
Mỹ mới (ít nữa thì trên đầu môi chót
lưỡi) chẳng hiểu nên nhớ hay quên? Ðây mới
là những “bí ẩn” lịch sử mà người ta cố che đậy,
dấu diếm, chẳng khác gì người Cộng Sản cố tình
tô lục chuốt hồng cho Hồ Chí Minh ... suốt đoạn đường
“cứu
nước” và “yêu nước” ... chủ nghĩa xã hội!
Sự khác biệt
giữa
người học sử chuyên nghiệp và những người thích
“bí ẩn” là người học sử cố gắng xuyên suốt những dữ
kiện chính xác thành một diễn giải lịch sử khoa
học, khách quan tối đa; những người thích công bố
“bí ẩn” thường mang tư tâm “xây dựng kỳ đài”
hay “đào mộ” nào đó. “Bí ẩn” bởi
thế thường chỉ là những câu chuyện bên tách
cà-phê, ly ruợu mạnh, hoặc bàn mạt chược, chiếu
xóc đĩa, chắn cạ nhằm xuyên tạc, mạ lÿ kẻ thù,
xưng tụng, bái lạy chủ cũ bằng thứ lý luận “rẻ
rách ... sinh chuột con.” (Ðáng buồn hơn nữa là dăm
ba người có đôi chút học thức chuyên đi ăn
cắp công trình nghiên cứu của người khác–nhất
là những tài liệu do tôi phát hiện tại
các văn khố–in vào “sách” của họ, rồi cao giọng
chỉ trích–nhưng chỉ phơi bày rõ ràng hơn sự
ngu dốt và điêu ngoa hào nhoáng của
loài tinh tinh tân thời).
Ðáng tiếc là văn khố LBJL
vẫn chưa giải mật một số hồ sơ. Như tài liệu về buổi
gặp mặt
giữa Tổng thống Johnson và Giáo Hoàng Paul VI
ngày 23/12/1967. Tài liệu về vụ bà quả phụ Anna
Chennault móc nối Bùi Diễm cùng Nguyễn Văn Kiểu để
làm gió cho ứng cử viên Richard Nixon của Ðảng
Cộng Hòa trong cuộc tranh cử Tổng thống 1968 cũng
chưa có
tính cách thuyết phục, vì chỉ là những
ý kiến riêng của các nhân vật như McGeorge
Bundy, Nguyễn Cao Kỳ, Bùi Diễm, v.. v... Hai thư
viện Tổng thống
khác sẽ lôi cuốn nhiều nhà nghiên cứu trong
những năm tới là Thư viện Richard Nixon và thư viện
Gerald Ford.
B. BIÊN KHảO:
Ðặc
biệt giai đoạn cận đại có nhiều biên
khảo bằng Việt ngữ cũng như ngoại ngữ khá giá trị.
Những
học giả nổi danh về Việt Nam có David G. Marr,
Pierre Brocheux,
Nguyễn Thé Anh, v.. v... Về các học giả Việt trong
nước,
một số đã được ra ngoại quốc tu nghiệp hay khảo cứu
tại
các văn khố. Nhưng đa số biên khảo trong nước còn
bị hạn chế về tài liệu, tức thiếu những chi tiết
chính
xác về thời gian cũng như dữ kiện. Dĩ nhiên, cũng
có những biên khảo chẳng nhắm mục đích gì
khác hơn tuyên truyền, lập danh, hoặc vì đôi
chút tài lợi.
Vì trước năm 1975, hầu hết
tác giả Việt không được sử dụng tài liệu văn khố
hay tư liệu nguyên bản, nên thường có tình
trạng sao chép giây chuyền lỗi lầm của người đi trước.
Trường hợp các Thánh lệnh của Giáo hoàng
Ki-tô trong việc phân chia thế giới cho Portugal (Bồ
Ðào Nha) và Espania (Tây Ban Nha) trong thế kỷ
XV chỉ là một thí dụ nhỏ. Hay việc Pháp đưa
Ðồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải
Ðịnh, Bảo Ðại lên ngôi, v.. v... dưới “thiên
mệnh Ðại Pháp.”
Ngoài ra, vì ảnh
hưởng của chế độ Bảo hộ Pháp cũng như các thế lực bản
xứ,
các nhà nghiên cứu không được tham khảo
các tư liệu bất lợi cho mục tiêu khai hóa của người
Pháp (tức biến Việt Nam thành một nguồn cung cấp
vật
liệu thô và nhân công rẻ tiền, đồng thời cũng
là một thị trường đóng kín cho hàng
hóa Pháp, và vùng đất để rao giảng đạo
Ki-tô Vatican). Bởi vậy, hầu hết sử sách viết về
giai
đoạn này hiện đang lưu hành–ngoại trừ các bộ quốc
sử triều Nguyễn–đều ca ngợi công lao khai hóa của
người
Pháp. Vài dòng ngắn ngủi của Trương Vĩnh Ký
để kết thúc bộ Bài giảng sử An-Nam-Mít [Cours
d’histoire annamite] là một thí dụ tiêu biểu.[ Xem bài Petrus
Key].
Bởi thế, người ta thấy xuất
hiện những loại
văn sử không những chỉ sai lầm về dữ kiện mà còn
méo mó nguy hiểm về lối giải thích hay lập luận
(vì tác giả thuộc giới trung gian bản xứ, hoặc vì
không dám làm mất lòng các quan chức
bảo hộ cùng những nhà truyền giáo và
giáo dân nặng mang tinh thần Trung cổ, nếu không
phải với chủ đích cung văn những tác nhân
trên). Ngay đến vài sử gia cũng tìm cách
tránh đối diện những sự thực gai góc về phong trào
trào thực dân Ki-tô/vật bản từ thế kỷ XVI tới thế kỷ
XX. Bất cứ ai dám công bố những sự thực lịch sử do
mình dày công sưu tầm thì lập tức bị vu
cáo có dụng tâm “nói xấu” cá
nhân này, tôn giáo nọ, hay “sai lầm.”
Nên chẳng có gì ngạc nhiên khi thấy những
người như Petrus Key (Trương Vĩnh Ký) hay các công
thần của chế độ Bảo hộ Pháp và con cháu họ (như
Ngô Ðình Khả, Ngô Ðình Thục) thanh
thản và mạnh bạo gọi những người chống lại chế độ
Bảo hộ
Pháp là “rebelles” (giặc hay phiến loạn).
Giống
như sáu trăm năm trước, Lê Tắc đã dùng những
thuật ngữ “bản nghịch” (những tên phản loạn)
hay “yêu
đảng” để gọi hai Bà Trưng, Bà Triệu Ẩu, hay Lý
Bí, Dương Thanh, v.. v...
C. BÁO
CHÍ:
Các tài liệu
báo chí cũng khá phong phú. Từ cuối thế kỷ
XIX, báo chí đã lưu hành ở Việt Nam, đặc
biệt là Nam Kỳ thuộc Pháp (Cochinchine). Những tựa
báo quan trọng có Courrier Saigonais và Gia
Ðịnh
Báo. Ngoài ra, còn các
báo tư nhân như L’Avenir du Tonkin. Người
nghiên cứu cũng nên tham khảo các báo
Pháp ngữ tại chính quốc (Pháp) và Trung Hoa
(như tờ Gazette de Peking).
Qua thế kỷ XX, báo
chí được chuyên nghiệp hóa ở cả ba miền. Người
nghiên cứu ít nhất phải tham khảo các tờ báo
chính như Trung Bắc Tân văn, Nam Phong, Thanh
Nghị,
Tri Tân ở miền Bắc; Tiếng Dân ở miền
Trung;
cùng các báo La tribune indigène, La
tribune indochinoise, Nam Kỳ Lục Tỉnh, v.. v...
ở miền Nam. Tuy
nhiên, sử dụng các tài liệu này cần cực kỳ
thận trọng. Nghề báo tại một nước bị Pháp xâm chiếm
như Việt Nam khó thể nói đã trưởng thành
và có được Ðệ tứ quyền. Ðó là chưa
kể những dụng tâm chính trị của các chủ báo.
Nên so sánh với các tài liệu văn khố của
các cơ quan an ninh thuộc địa Pháp để hiểu thêm về
chính sách truyền thông của người Pháp. Học
giả David Marr là người đã sử dụng khá nhiều tư
liệu báo chí.
D. HỒI
KÝ:
Hồi ký là một kho
tài liệu khá có giá trị. Hầu hết các
viên chức cao cấp Pháp đều viết về những sinh hoạt của
họ
tại Ðông Dương. Tác nhân Việt thì rất
ít người viết hồi ký. Mở đầu phong trào này
là hai cuốn nói về chuyến đi sứ Pháp và
Espania của Phan Thanh Giản và Phạm Phú Thứ (1864).
Rồi
đến Chuyến đi Bắc Kỳ năm 1876 của Petrus
Trương Vĩnh Ký, Ði Tây của Phạm Quỳnh. Phạm
Duy Khiêm cũng
có hai tập hồi ký nói về cuộc phiêu lưu sang
Pháp làm thông ngôn cho lính thợ [ONS].
Hai cuộc chiến 1945-1954 và
1959-1975 sản xuất khá dồi dào hồi ký. Ða số
nhân vật ngoại quốc (Nhật, Trung Quốc, Pháp, Mỹ, v..
v...)
đều viết hồi ký. Nhiều tác nhân Việt cũng có
hồi ký, đặc biệt là phe Cộng Sản.
Dĩ nhiên, hồi ký không
hoặc chưa là lịch sử. Chỉ là lời chứng trước tòa
án lương tâm và dân tộc. Hồi ký
Nguyễn Xuân Chữ (1996), hay Một Cơn Gió
Bụi của
Trần
Trọng
Kim
(1969)
là
những
thí
dụ. Tác
nhân lịch sử có thể sai lầm, trong khi kể lại các
sự việc hay lý luận, nhưng đó là những điều
khó tránh. Ða số dùng hồi ký để biện
minh tâm trạng mình như Linh mục Cao Văn Luận, qua
cuốn Bên
Dòng
Lịch
sử (Sài Gòn: 1984) hay ông
Ðỗ Mậu với hai tập Việt Nam Máu Lửa Quê Hương
Tôi (tái bản năm lần, từ 1987 tới 1993) và Tâm
Thư (tái bản một lần).
Huỳnh Văn Lang, qua 5 tập
hồi ký về
đá gà, đi săn, và hoạt động chính trị cũng
rọi sáng vài ba sự thực lịch sử về chính phủ
Ngô Ðình Diệm (1954-1963) và tâm trạng
người trí thức Ki-tô miền Nam trong cuộc đảng tranh
sắt
máu 1945-1975. Những hồi ký khác của Tướng Nguyễn
Chánh Thi, Trần Văn Ðôn, Nguyễn Cao Kỳ, Tôn Thất
Ðính, Huỳnh Văn Cao, Lý Tòng Bá, v..
v... có những giá trị nhất định nào đó.
Ngay đến cựu Hoàng Bảo Ðại cũng có một hồi ký
do hai người Pháp viết, Le Dragon d’Annam
(Paris: Plon,
1980). Hồi ký này đã được viết lại bằng Việt ngữ,
nhưng nội dung chẳng mấy giá trị, nếu không phải
chứa đựng
nhiều tư liệu sai lầm. Và mục đích in hồi ký của
Cựu Hoàng chỉ vì nhu cầu tài chính.
Trong số các hồi ký,
tập Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi và Tâm
Thư của Tướng Ðỗ Mậu là một hiện
tượng. Tập VNMLQHT được in lại nhiều lần ở hải ngoại.
Ngay nhà
xuất bản Công An của CSVN cũng sửa chữa, cắt xén in
lại
trong nước. Tại hải ngoại, vì vạch trần những sự thực
không đẹp của chế độ Ngô Ðình Diệm và
hàng lãnh đạo Ki-tô, ông Mậu đã bị đả
kích một cách tàn nhẫn và thô tục
suốt nhiều năm.
Cá nhân tôi cũng bị
lôi cuốn vào chốn “giang hồ gió tanh mưa
máu.” Có kẻ tung tin tôi đã tiếp tay hoặc
giúp Tướng Mậu hoàn tất cuốn Tâm Thư của
ông, dù chính tôi chưa hề biết mặt ông
Mậu, và cũng không hề quen biết ở trong nước. Tôi
đã giữ thái độ im lặng, vì chửi bới, vu cáo
trên các tờ báo chợ là một thông lệ
hơn biệt lệ ở hải ngoại. Tôi cũng quá bận rộn, không
có thì giờ. Hơn nữa, theo tôi, sự thực chỉ
là sự thực. Những lời chửi bới, vu cáo “rất chợ
búa” Tướng Mậu, hay những người có can đảm công bố
sự thực về gia đình Ngô Ðình Khả-Ngô
Ðình Diệm (như ông bà Nguyễn Mạnh Quang)
cùng những tập đoàn “trung gian bản xứ” khác chắc
chắn không thể làm đẹp hơn cho họ. Và chắc chắn
không thể làm giảm giá trị của những sự thực
đã được công bố. Chẳng
ai
có
thể
gói
lửa
bằng
giấy.
Riêng những hồi ký
của
các tác nhân Cộng Sản cũng không hoàn
toàn vô giá trị như một số người muốn chúng
ta phải tin và tuân lệnh. Các hồi ký của
Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà,
Lê [Trịnh?] Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái, Trần Ðộ,
Phạm Khắc Hoè, Lê Tùng Sơn, Nguyễn Văn Trấn,
Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Thị Thập, Lê Văn Hiến,
Hoàng Văn Hoan–hay hồi ký của những người ngoài
đảng như Vũ Ðình Hoè, v.. v...– đều có chỗ dụng
của
chúng, nếu biết loại bỏ những khía cạnh tuyên
truyền quá lộ liễu. Với chế độ Cộng Sản, không cần
sự thực. Chỉ cần những mảnh vụn sự thực phục vụ
cho mục tiêu
chính trị giai đoạn. Ngay đến những tài liệu tự
ca
ngợi mình của Hồ Chí Minh, như Những mẩu chuyện về
đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (ký tên Trần Dân
Tiên), hay Vừa đi đường vừa kể chuyện (ký
tên T.L.) ít nữa cũng cho người đọc thấy cách vận
chuyển của hệ thống tuyên truyền Cộng Sản.
Tôi nhớ đến tiếng “Vẹm”
mà dân chúng miền Bắc đã từng sử dụng để gọi
tổ chức Việt Minh. Không chỉ có những lời dối trá
hào nhoáng, mà còn có những
lưõi mã tấu sỉn máu để bắt mọi người phải coi
những lời dối trá đó là khuôn vàng
thước ngọc, phải sủng kính như Thánh kinh.
Với cương vị chủ bút nhà
Xuất
bản và Phát hành Văn Hóa, tôi
đã cùng ông Nguyễn Xuân Phác thực hiện
một số cước chú cho bản thảo hồi ký còn dở dang
của cụ Nguyễn Xuân Chữ, và góp ý với tất cả
những tác giả từng muốn nhờ chúng tôi xuất bản hay
phát hành. Tôi cũng từng chia xẻ cho một số
tác giả tư liệu văn khố thu thập được trong các
chuyến du
khảo, với hy vọng giúp người viết cũng như người đọc
thấy được
những sự thật không thể chối cãi của một số tác
nhân lịch sử bấy lâu được tô hồng chuốt lục cho
những
mục tiêu chính trị giai đoạn nào đó. Tham
vọng nhỏ bé của tôi là trả sự thực cho lịch sử.
Vì chỉ có sự thực lịch sử mới giúp người Việt
thoát được những cơn giông bão triền miên của
thế cờ chiến lưọc quốc tế, cùng những tham vọng
ngoại cường.
Cá nhân tôi không hề có tham vọng
chính trị, trước cũng như sau năm 1975.
Những điều cần làm, đã,
đang,
và sẽ làm, chỉ hướng về một tương lai tốt đẹp hơn
cho đất
nước và dân tộc nói riêng, cũng như sự cảm
thông của nhân loại nói chung.
III.
NGHIÊN CỨU THỜI HIỆN ÐẠI
Việc nghiên cứu thời hiện
đại, tức từ
1975 tới nay, vô cùng khó khăn. Các tư liệu
thường rất hạn chế, phần lớn dựa theo tin tức tình
báo
và ngoại giao cùng báo chí.
Tuy nhiên, đôi khi, người
nghiên cứu có được những tài liệu cực kỳ quí
báu. Cuộc xâm phạm Việt Nam của Hồng quân Trung Quốc
năm 1979, và cuộc chiếm đóng Kampuchea của Cộng Sản
Việt
Nam từ 1978 tới 1989 giúp người nghiên cứu nhiều tư
liệu
về liên hệ giữa Trung Cộng, Việt Nam và Kampuchea.
Trong
số những chi tiết đáng kể có việc Quân ủy Trung
Cộng cùng các Tướng Trần Canh, Vi Quốc Thanh, v..
v...
đã thực sự chỉ huy các trận đánh Cao Bằng-Lạng Sơn
(1950) hay chiến dịch Ðiện Biên Phủ (1954); Chu Ân
Lai
ép buộc Hồ Chí Minh phải chấp nhận tạm thời chia
đôi Việt Nam theo vĩ tuyến 17 tại Hội nghị Geneva
(7/1954); hay,
tháng 9 năm 1958, Hồ Chí Minh đã sai Phạm Văn
Ðồng viết thư cho Chu Ân Lai, nhìn nhận lãnh
hải do Bắc Kinh công bố để có quân viện đánh
chiếm miền Nam.[ Xem Phụ Bản]
Nhưng cho tới năm 2009 này,
các
sử quan Cộng Sản hay “xã hội chủ nghĩa” vẫn nhất
định nhắm mắt
lại mà ca ngợi công ơn vĩ đại của những Karl Marx,
Lenin,
Stalin, Mao Trạch Ðông, Chu Ân Lai, hay Hồ Chí
Minh. Các sử quan và văn nghệ sĩ trong nước từng
được
Trường Chinh Ðặng Xuân Khu nhiều hơn một lần dạy bảo
rằng văn
chương, thơ phú hay sử học phải bám sát và
phục vụ mục tiêu chính trị giai đoạn của Ðảng Cộng
Sản
Việt Nam. Bất cứ ai không nhìn thấy được sự vĩ đại
của
Liên Sô, Trung Quốc, hay tư tưởng Hồ Chí Minh (khi
cần
thiết) đều bị xếp hạng là kẻ thù của “nhân
dân,” phản động, và ngay cả Việt Gian. Bởi thế, sử
sách Việt Nam bị ô nhiễm bởi những lời xưng tụng
Stalin
như cha già của Hồ Chí Minh, hay ông nội của thanh
thiếu niên Việt trong thập niên 1950. Thứ “tinh thần
Hồ
Chí Minh” này có đáng nuôi dưỡng,
phát huy để soi sáng cho quốc dân Việt trong thế kỷ
21 hay chăng?
Chưa một ai, nhưng chắc
chắn sẽ có
người, làm một cuộc so sánh những văn thư ngoại giao
thời
Việt Nam phong kiến với thư từ trao đổi giữa Ðảng
Cộng Sản Việt Nam
và Liên Sô hay Trung Cộng.
Một triết gia Tây phương
từng viết:
“Không ai có thể tắm hai lần trong cùng một
dòng nước.” Nhưng
cổ
nhân
cũng
dạy
rằng:
“Ði
hỏi
già,
về nhà hỏi
trẻ.” Ðại họa của thế nhân thường do không chịu học
hỏi
những bài học lịch sử. Ai nấy đều muốn quên đi những
chuyện buồn dĩ vãng, gìn giữ những niềm vui, nỗi
sướng cũ
như một túi hành trang. Ðáng sợ hơn nữa
là có nghĩ rằng mình đã “biết hết rồi!”
những điều mà họ thực sự chẳng biết gì cả. Như huyền
thoại người Mỹ đưa quân vào miền Nam để muốn độc
chiếm
quân cảng Cam Ranh, hay đào xới chất Uranium. Sự
thực, từ
những năm 1945-1946, Hồ Chí Minh nhiều hơn một lần
“van
nài” người Mỹ nhận hải cảng Cam Ranh, nhưng chính
phủ
Harry Truman (1945-1953) từ chối. [Xem Chính Ðạo,
Việt Nam
Niên Biểu, tập I-A & B] Cho tới đầu thế kỷ
XXI, người Mỹ
vẫn rất hững hờ trước lời mời gọi khai thác cảng Cam
Ranh. Và, chưa một nhà khoa học
Việt
nào phát hiện mỏ Uranium ở Ðông Dương–ngoại trừ
một quặng non ở Pia Ouac, do một chuyên viên “người
Việt
mới” gốc Nhật phát hiện trong giai đoạn 1947-1948. Mỏ
Uranium
này còn nằm trong lãnh thổ Việt, hay
đã cắt nhượng cho Trung Cộng?
Với một dân tộc như dân tộc
Việt–một dân tộc kiêu hùng bảo vệ sự sinh tồn của
mình bằng máu và nước mắt từ nhiều ngàn năm
qua–bài học dĩ vãng luôn luôn là tấm
gương soi mặt ngàn năm. Nhờ vậy, dù không so
sánh được với các cường quốc, tổ tiên ta đã
để lại cho con cháu một giải giang sơn gấm vóc làm
vốn liếng. Tàn phá những tư liệu lịch sử, hay không
bảo quản đúng mức các kiến trúc cổ thời,
các kho văn khố, là tội ác văn hóa
khó tha thứ. Nói chi việc nổi lửa thiêu đốt văn
hóa phẩm của miền Nam Việt Nam. Ðào xới các di
tích khảo cổ đem bán làm đồng vụn, sắt vụn.
Vì một chút tài lợi cỏn con mà ngụy tạo
lịch sử, trắng đổi làm đen.
Một dân tộc thiếu sự lương
thiện
trí thức hẳn khó thoát cảnh nô lệ ngoại bang.
Houston, 11/2000-1/2/2009
Phụ
Bản:
Các Thánh
Lệnh Phân Chia Thế Giới
Các giáo hoàng đầu
tiên của thời Phục Hưng [Renaissance] dùng thần
quyền để
phân chia những vùng đất “mọi rợ” mà Portugal
và Espania bắt đầu đi xâm chiếm ở duyên hải
Tây Phi Châu (1416) hay “lục địa đã mất” Mỹ
châu (thập niên 1480-1490).
Ðó là các
Thánh lệnh (bulls): Dudum cum ad nos (1436)
và Rex
Regum (1443) của Eugene IV (1431-1439,
1439-1447 [antipope Felix V
(1439-1447]); Divino amore communiti (1452)
và Romanus
Pontifex (8/1/1454) của Nicholas V
(1447-1455), Inter caetera
(1456) của Callistus III (1455-1458), Aeterni
Regis (1481) của
Sixtus IV (1471-1484); và nhất là những Thánh lệnh
(Papal bulls) của Alexander VI (1492-1503) trong hai
năm 1493-1494, như Inter caetera ngày
3-4/5/1493, Eximiae
devotionis ngày 3/5/1493, và Dudum
siquidem
ngày 23[26?]/ 9/1493. (Inter caetera ngày
4/5/1493
in trong Corpus của Luật tòa thánh Ki-tô,
tức the Catholic canon law). (Luis N.
Rivera, A Violent
Evangelism: The Political and Religious Conquest
of the Americas
[Chính sách truyền đạo bằng bạo lực: Cuộc chinh phục
chính trị và tôn giáo châu Mỹ]
(Louisville, Kentucky: Westminster/John Knox Press,
1992), tr. 24-5,
28-9; H. Vander Linden, “Alexander VI and the
Demarcation of the
Maritime and Colonial Domains of Spain and Portugal,
1493-1494”
[Alexander VI và sự phân chia lãnh hải và
thuộc địa giữa Es-pa-ni-a và Pooc-tiu-gơn,
1493-1494]; American
Historical
Review
[AHR], Vol. XXII, No. 1 (Oct 1916), pp. 1-20;
John Fiske, The Discovery of America, 2
vols (Boston:
Houghton, Mifflin & Co., 1892), I:324-6, 454-68;
Phụ bản B,
II:580-93).
[Bartolemi?] Las Casas,
trong cuốn Historia
de
las
Indias, nói đến việc năm 1442, sau khi
Antonio
Goncalves mang vàng và nô lệ từ Rio del Oro (Phi
châu) về Portugal, triều đình Portugal và
Hoàng tử Henry the Navigator xin Giáo
hoàng “Martin V” ban cho một thánh lệnh độc quyền
chiếm
hữu đất đai và nô lệ, và sau đó các
Giáo hoàng Eugene IV, Nicholas V, Calixto IV đều
tái xác nhận. (I:185) Thực ra Las Casas bị lầm lẫn
đôi chút, vì Martin V (1417-1431) đã chết
trước đó 11 năm, và chính Eugene IV ban
Thánh lệnh buôn nô lệ. (Fiske 1892, I:325n1) Nhiều
tác giả đã sao lại lỗi kỹ thuật của Las Casas.
Thánh lệnh ngày 8/1/1454,
ban
cho vua Portuguese tất cả những lãnh thổ khám phá
ra “trong vùng đại dương tới những vùng phía Nam
và Ðông” mà các vua theo đạo Ki-tô
chưa hề tìm thấy hay sở hữu. (Alguns Documentos
do Archivo
Nacional da Torre do Tombo [Lisbon: 1892], tr.
15-6; dẫn trong
Linden 1916, tr. 12)
Thánh lệnh ngày 21/6/1481
của
Sixtus IV lập lại những lệnh kể trên, và phê chuẩn
hòa ước Alcacovas năm 1479 giữa Espania và Portugal.
(Linden 1916, tr. 12n28)
Thánh lệnh của các giáo
hoàng ban cho vua Ki-tô người Portuguese những
“quyền” sau
tại các vùng đất chiếm đóng được ở Africa: (1) chủ
quyền lãnh thổ tại những vùng mới khám phá
hoặc chiếm đóng; (2) quyền được giáo hội ban phép
lành; (3) quyền thu thuế [tithes] tại những vùng đất mới;
(4) quyền
truyền giảng đạo Ki-tô; và (5) quyền bắt thổ dân
làm nô lệ nếu “không trở lại đạo.” (Morales Padron
1979, 16; dẫn trong Rivera 1992:28).
Ngoại trừ điều khoản bắt
thổ dân
làm nô lệ trong các thánh lệnh trên,
nội dung của bốn thánh lệnh mà Alexander VI ban
phát (grant and donation in perpetuity) cho Espania
cũng tương
tự. (Leturia 1959:I:153-204, dẫn trong Rivera
1992:29).
Theo
Manzano (1948,
8-28), Thánh lệnh trong hai ngày 3-4/5/1493 và
[26?]/ 9/1493 như sau:
Thánh
lệnh thứ
nhất (Inter caetera ngày 3/5/1893) ban phát
những
vùng đất mới khám phá cho Espania;
thánh
lệnh thứ
hai phân chia vùng quyền hạn (jurisdictions) giữa
hai vua
Espania và Portugal để tránh tranh chấp (Inter
caetera
ngày 4/5/1893); và,
thánh
lệnh thứ
ba (Dudum siquidem ngày [26]/9/1493). nới
rộng
vùng đất ban phát tới Ðông An (Oriental
Indies), mục tiêu đích thực của phong trào
thám hiểm và khám phá (tức hạn chế Portugal
tại những vùng đã chiếm được trước năm 1492).
Do yêu
cầu của
vua Ferdinand V và Isabella của Espania, Alexander
VI còn
ban hành một thánh lệnh khác, Eximiae
devotionis đề ngày 3/5/1493 [chỉ gửi đi vào
tháng 7/1493 (Register 879:234)], nhấn mạnh
hơn cả hai
thánh lệnh Inter caetera ngày 3-4/5/1493
[đã được gửi đi từ tháng 4 (Register 775:42 verso)
và tháng 6/1493 (Register 777:192 verso)],
và tổng hợp nội dung của hai Thánh lệnh trên.
Khi vua
John của
Portugal chống lại bốn Thánh lệnh trên, thương
thuyết giữa
hai nước bắt đầu từ ngày 18/8/1493. Ngày 7/6/1494,
Espania và Portugal ký Hiệp ước Tordesillas, sửa lại
đường phân chia thế giới. Espania đồng ý nhượng cho
Portugal xứ Brazil (Brê-ziêu); tức đường ranh giới
thế giới
dời về hướng Tây thêm 10 kinh độ (từ khoảng 36.30
Tây
tới 46.30 Tây, tương đương với 270 hải lý), cách bờ
Tây quần đảo Cape Verde khoảng 370 hải lý]. Giáo
hoàng Julius II (1503-1513) chấp thuận hiệp ước này
bằng
Thánh lệnh Ea quae năm 1506.
Bốn
thánh lệnh của Alexander VI—Inter caetera “
(3-4/5/1493), Eximiae devotionis
(3/5/1493), và Dudum
siquidem ([26?]/ 9/1493)—được in lại trong
nhiều tác phẩm
Espania, như Marin Fernandez de Navarrete, Colección
de los
viages y descubrimientos que hicieron por mar
los espanoles, desde
fines del s. XV, 2 tập (Buenos
Aires:
Editorial Guarania, 1945), 2:34-49, 467-468, và Casas 1965
(2:1277-1290). Bản
dịch tiếng Mỹ có thể tìm
thấy trong Fiske, 1892, Appendix B; và Frances G.
Davenport, European
Treaties
Bearing
on
the
History
of
the
United
States and Its
Dependencies to 1648, 4 vols. (Washington:
Carnegie Institution,
1917) (1:64-70, 84-100, 107-11).
Mặc dù
vài tư liệu đã bị gọi một cách sai lầm là “bulls”
(Thánh lệnh hay Thánh luật), như Manuel Gimenez
Fernandez
nhận định (1944, xiii), chúng tôi dùng chữ
“Thánh lệnh” như thường dùng (thay vì sắc chỉ,
vì thuật ngữ này không sát nghĩa).
Có
3
khuynh
hướng
diễn
giải
về
vai
trò
của Giáo Hoàng
và Giáo Hội:
(a)
Giáo hoàng chỉ là trọng tài trong cuộc
tranh chấp Espania-Portugual; (b) Giáo Hoàng là
chánh án tối cao giải quyết sự tranh chấp giữa
Espania
và Portugal; và (c) Giáo hoàng chẳng
có quyền lực gì, chỉ chấp nhận một thực tế. (Linden
1916:2-3).
Manuel
Gimenez
Fernandez (1944), người nghiên cứu về thư từ của
Giáo
hoàng—trong cách diễn tả khá khác thường so
với các sử gia Ki-tô Vatican người Espania—cho rằng
có cuộc trao đổi (simoniacal
exchange)
giữa Alexander VI
và Fernando [Ferdinand] V, để có được những cuộc
hôn nhân đầy lợi lộc cho các con ông ta (his
sacrilegious
sons), đặc biệt là gã vô lại (the bastard) Juan de Borgia, Quận công
xứ Gandia
(lấy Maria Enriquez, em họ Ferdinand V). Tác giả
nhận định: “Như
vậy, Inter caetera ngày 3/5 chỉ là bước đầu
của
liên hệ gia đình giữa các vua Aragon và con
hoang của Alejandro Borgia [Thus the Inter
caetera of May 3 is,
then, but the first stage of the kinship between the
monarchs of Aragon
and the favorite sacrilegious son of Alejandro
Borgia].” (Gimenez
Ferniindez 1944, 86-7)
Sau Alexander VI, Ki-tô
giáo
được Espania và các quốc vương Ki-tô khác sử
dụng như ý thức hệ nòng cốt của chính sách
thực dân, tức tiếp nối tinh thần “thập tự quân” mới:
Di
chúc của Nữ hoàng Isabel (1504), Luật Burgos (1512),
Yêu sách [Requerimiento] (1513), Tân Luật [Leyes Nuevas] (1542), cuộc tranh luận tại
Valladolid
(1550-1551), các sắc lệnh về những xứ và thành phố
mới khám phá dưới thời Felipe II (1573), và cuối
cùng Bộ Luật về thổ dân [Compilation of the Laws
of the Indies] năm 1680 dưới triều Carlos II.
Thánh
lệnh của
Alexander VI trở thành căn bản “pháp lý” của những
cuộc chinh phục Mỹ và á châu trong thế kỷ XVI-XVII.
Năm 1530, chẳng hạn, vua Joao III viết cho Ðại sứ
Pháp:
Tất cả những chuyến du hành
thám hiểm trên biển và trên đất liền đều
có cơ sở pháp lý [tức quyền sở hữu], căn cứ
vào Thánh lệnh mà các Thánh Cha
đã ban phát từ xưa . . . . dựa trên những
pháp lý vững chắc, và vì thế [những
vùng đất khám phá được] là tài sản
hợp pháp của Ta và ngôi vua vương quốc [Espania],
[chúng] đang yên ổn nằm trong quyền sở hữu của Ta;
không ai có thể xâm phạm chúng trong lẽ phải
và công lý. (Zavala (1971, 348) ]
Một số quốc gia Au châu
không
tán thành và không nhìn nhận những
Thánh lệnh này. Năm 1540, vua Francis I của Pháp
mỉa mai: “Ta sẽ rất hân hoan nếu thấy trong lời
chứng của Adam
có câu loại Ta khỏi một phần chia chác thế giới.”
(Leturia 1959, 1:280). Jean Francois Marmontel, một
nhà
bách khoa tự điển Pháp, cáo buộc Thánh lệnh
của Alexander VI là “tội ác lớn nhất trong số các
tội ác của nhà Borgia.” (Hoffner 1957, 268)
Nữ hoàng
Elizabeth I của Bri-tên cũng không dấu bất mãn, nhấn
mạnh rằng
“Ta
không thể tin
rằng dân bản xứ là sở hữu hợp pháp của Espania, do
Thánh luật của một giáo hoàng ở Rome, mà Ta
không nhìn nhận quyền hạn về vấn đề này, và
lại càng không tin hơn nữa rằng ông ta có thể
ràng buộc các vua không thuần phục ông ta.”
(Zorraqufn Becu 1975, 587)
1497:
Vasco de Gama
vượt qua Mũi Hảo Vọng.
1506:
Francisco de
Almeida thăm Sri Lanka (tức Ceylon hay Tích Lan),
sau sát
nhập xứ này vào đế quốc Portugal.
1508:
Người Portuguese, Sequeira, tới Sumatra.
1510:
Portugal chiếm Goa.
1511:
Alfonso de Albuquerque (Portugal) chiếm Malacca
(trên bán
đảo Malaysia), một trung tâm truyền giảng đạo
Islam và
thương mại ở Viễn Ðông (1400-1511). Từ
đây,
Albuquerque cử sứ đoàn qua Ayuthia (Xiêm) và
Molucca (trong quần đảo Spice). Pháo đài Malacca
trở
thành trung tâm thù nghịch của các tiểu
vương Islam lân cận. Cuộc chiến tranh chống
Portugal kéo
dài tới năm 1587, do vua Acheh [Achin], trên đảo
Sumatra
(Indonesia ngày nay) lãnh đạo.
Thương gia
Islam dời xuống Brunei (Borneo), chọn nơi đây làm
trung
tâm truyền giáo. Một cuộc thánh chiến mới diễn ra
khốc liệt tại vùng đất của hồ tiêu, dầu, và nhất
là vàng.
1517:
Fernam de
Andrade tới Quảng Châu, Nam Trung Hoa. (Fiske
1892, II:183)
1521:
Ferdenand
Magellan, trong ước muốn đi vòng quanh thế giới
bằng tàu
buồm, đã phát hiện ra quần đảo “San Lazaro” (tức
Philippines ngày nay). 27/4/1521: Lapulapu, chúa
đảo
Mactan, giết Magellan. 6/9/1521: Tàu Victoria về
tới San Lucar
de Barrameda (Espania), hoàn tất chuyến đi vòng
quanh thế
giới.
1524:
Ruy Lopez de
Villabodos cùng với 5 tàu và 370 thủy thủ từ
Mexico vượt biển trở lại Philippines. Một giáo sĩ
dòng
Augustin, Andres de Urdaneta, cũng chỉ huy một
chiến hạm.
1529:
Hòa ước
Saragossa giữa Portugal và Espania: Phía Ðông Molucca 17 độ là thuộc
Portugal.
1533:
Theo
sách Dã Lục, Y-nê-xu [Ignatio hay Ignace] giảng
đạo
Gia-tô tại xã Ninh Cường, Quần Anh, và Trà
Lũ huyện Giao Thủy [Nam Dịnh]. (Theo L. Cadière, Gaspard
da Santa
Cruz tới Dàng Trong năm 1550).
1549
[1540?]: Ignace
de Loyola thành lập dòng Jesuite (Jesus hay Tên)
tại Espania.
1550
[1555?]: Theo
Marcos Gispert [Giopert?], giáo sĩ Gasparde Santa
da Cruz tới Ðại
Việt.
1555:
Người
Portuguese lập nghiệp ở Macao (Ấo Môn).
- Gasparde Santa da Cruz,
một giáo sĩ
Dominican Portugal, đến Lovek (Chân Lạp).
1563: 900 người
Portuguese lập nghiệp,
và hàng vạn người sinh sống tại hải cảng Macao. Từ
ngày này, người Portuguese dùng Macao làm
địa bàn buôn bán với cả Ðàng
Ngoài (Tonqueen) và Ðàng Trong (Kauchin Chine,
hay Cochinchine).
1564:
Miguel Lopez
de Legaspi (?-1572) lại mang một đoàn chiến thuyền
từ Mexico tới
chiếm đóng Philippines. 4/1565: Lopez de Legaspi
chiếm Cebu, lập
khu định cư đầu tiên.
1568 [Mậu Thìn]: Người
Espania chiếm
Manila, và từ tháng 5/1571 lấy Manila làm thủ
đô của Philippines. Các “friars” trở thành
nhà cai trị (và được vua Espania trả lương) tại
các vùng nông thôn.
1578:
Sebastian bị
giết ở Morocco.
-
Pedro d'Alfaro,
dòng Francisco [Phanxicô], lập tu viện ở
Philippines
và Macao. 1580: Vua Espania, Philip II, gồm chiếm
đế quốc
Portugal. Từ ngày này, Manila và Macao là
hai trung tâm truyền giáo lớn nhất.
1580:
- Luis de
Fonseca, người Portuguese, và Grégoire de la
Motte, người
Pháp, thuộc giáo hội Malacca, đến Quảng Nam(?)
truyền
đạo. Ðuợc ít lâu bị Nguyễn Hoàng trục xuất.
Fonseca bị giết; de la Motte bị thương nặng, rồi
chết.
1581:
Từ Macao, Linh
mục Giovanni-Battista de Pesaro, gốc Italia, liên
lạc với Mạc Mậu
Hợp, xin qua giảng đạo. 1584: Bortholoméo Ruiz
thuộc đoàn
truyền giáo của d'Oropesa, gốc Espania, từ Manila
đến Thăng Long
gặp Mạc Mậu Hợp. Mang theo một phụ nữ
thông dịch
viên. Khi tàu Portuguese bỏ đi, chỉ có Ruiz ở lại.
Giảng đạo bằng hình ảnh. Năm 1585, khi Ruiz rời
Ðàng
Ngoài, chỉ rửa tội được một em bé sắp chết. (Hồng Lam & Cadière,
1944:102-3)
1/5/1583:
Linh mục
Diego d'Oropesa, cùng Bortholoméo Ruiz, Pedro
Ortiz,
Francisco de Montila, và 4 phụ tá, dòng Francisco,
từ Manila qua Ðại Việt. (Romanet du
Caillaud 1915, tr. 34)
1583-1584
[1570?]: Lopo Cordoso và Joan Madeira tới
Lovek. Vua
Satha muốn nhờ Malacca chống vua Ayuthia (Xiêm) là
Phra
Naret.
1588: Hạm
đội Espania bị thảm bại. Bri-tên, Pháp và Dutch
bắt
đầu giành giật thuộc địa của Portugal và Espania.
Dutch
đặc biệt chú ý đến á châu. Chiếm Jawa
và Sumatra (Indonesia ngày nay).
1591: Theo
Ordonez de Zevallos
(Zeballos), trong cuốn Histoiria Y Viage del Monde
[Lịch sử cuộc du
hành thế giới], ông ta từng giảng đạo ở triều Hậu
Lê, rửa tội cho công chúa Flora Maria [Mai Hoa]?,
nhiếp chính đại thần của một ông vua mới 7 tuổi,
nên
bị trục xuất vào Ðàng
Trong.
Tại
đây,
rửa
tội
cho
Nguyễn
Hoàng
(sic!). (Romanet
du Caillaud 1915, tr. 83-144). Theo Borri, đây là
chuyện
bịa đặt. (Hồng Lam & Cadière, 1944:100-1)
1592: Nhật:
Tokugawa thiết lập hệ
thống tập trung việc thương mại với các nước Ấ
Châu, gọi
là “Red Seals.”
1593: Blas
Ruiz de Hernan Gonzales và Gregorio Vargas Machuca
từ Manila tới
Chân Lạp.
1596:
Diégo Adverte, thuộc dòng Dominican Espania, tới Ðại Việt.
(Gosselin, 89)
- Người
Dutch [công ty Vereenigte Oost-Indische Compagnie,
hay VOC] tới
Jawa.
1602:
Sir James
Lancaster thiết lập sở buôn English East India
Company tại
Bantam, phía Tây Jawa.
1607:
Dutch chiếm
quần đảo Moluccas.
1614
[Giáp Dần]: Jean de la Croix, người Portuguese,
lập lò
đúc súng ở Thuận Hoá. (Maybon &
Russier, Notion
d'histoire d'Annam).
18/1/1615:
Hai linh mục dòng Tên gốc Italia, Francesco Buzomi
và Diego Carvalho, cùng Antonio Diaz (Portuguese)
và 2 người Nhật (Paul & Joseph) từ Macao tới
Faifo. (Huồn 1965, I:46) Carvalho ở
khu phố Nhật một năm rồi sang Nhật, chết ở đây
(1624). Buzomi
hoạt động ở vùng Cửa Hàn (cho tới năm 1639; (Khiêm
1959:46)
1617:
Chúa Sãi trục xuất Buzomi và Pina. Hai người
lén lút ở lại, lập thêm được họ đạo Nước Mặn ở phủ
Hoài Nhân (Qui Nhân).
1618 [Mậu
Ngọ]: Chúa Sãi cho phép giảng đạo lại. Giám
mục
Macao
gửi
thêm
Pedro
Marquez
và
Christoforo
Borri,
cùng
một thuyền buôn nhiều hàng hoá tới
“Cacchian” [Quảng Nam] và Faifo (Hội An).
(Pinkerton
1811:IX:795-97; Lamb 1970:21). Theo Borri, thị
trấn Faifo khá
lớn; chia làm hai khu vực người Hoa và người Nhật.
(Cochin-China
[London:1633];
reprinted in 1970 by Da Capo
Press, NY, tr. I-3)
1620
[Canh
Thân]: Chiến tranh Bắc-Nam khởi sự.
2/1623: Dutch đánh phá sở
buôn English East India Company tại Amboyna,
Moluccas.1654
[Giáp Ngọ]: Dưới áp lực của chúa Nguyễn, người
Dutch phải bỏ Faifo, tập trung ở Phố Hiến. (Lamb
1970:26)
12/1624:
Thêm
5 cố đạo tới Ðàng Trong. Trong số
này có
lẽ có Alexandre de Rhodes (1593-1660), 3 giáo sĩ
Portuguese, 1 Italia, và 1 Nhật (Michel Marchi).
1645:
Portugal chiếm Brazil của Dutch.
2/8/1650:
Rhodes tuyên bố với Bộ truyền giáo Roma là cần
ít nhất 300 giáo sĩ để cai quản 300,000 giáo
dân, và mỗi năm tăng lên 15,000 người. Innocent
X
(1644-1655)
đồng
ý,
cử
Rhodes
làm
Giám
mục
Ðại
Việt, nhưng Rhodes từ chối.
Sau đó Rhodes qua Pháp, tìm người đi Ðại Việt. Chết
ở Iran
ngày 5/11/1660. (Huồn 1965, I:129)
1659:
Giáo hoàng Alexandre VII (1655-1667) cử Francois
Pallu
(1626-1684) và Pierre de la Motte-Lambert
(1627-1693) làm
đại diện giáo triều Vatican tại Trung Hoa và vùng
lân cận, một bước cơ bản cho việc thiết lập Hội
truyền
giáo hải ngoại Pháp vào năm 1663.
1659
[Tháng 9 Kỷ Hợi]: Sau cuộc làm loạn ở Cao Mại của
tín đồ Ki-tô, Trịnh Tạc cấm đạo. Cho lệnh
Onofrio
Borgès, người Switzerland, phải triệu tập các cố
đạo về
Hà Nội, rồi trục xuất lên Macao, ngoại trừ Borgès
và Tissanier, một cố đạo gốc Pháp. (Huồn 1965,
I:123).
1663:
Trịnh Tạc cấm đạo.
1715:
Clement XI (1700-1721) cấm giáo dân dự lễ cúng
Khổng tử và thờ kính ông bà tổ tiên,
vì đó là dị đoan. 1742: Benedict XIV (1740-1758)
ra sắc dụ Ex quo Singulari, lập lại giáo lệnh của
Clement XI
tuyệt cấm giáo dân dự vào lễ cúng Khổng tử
và thờ kính ông bà tổ tiên, vì
đó là dị đoan. [1939: Pius XII (1939-1958) ra dụ
Summi
Pontificus, cho phép tham dự những lễ nghi kể
trên. (Huồn
1965, I:319) 1962: Công đồng II đồng ý. Nhưng chỉ
áp dụng tại Việt Nam từ 1974]
Houston,
11/2000-1/2/2009
Nguyên
Vũ Vũ Ngự Chiêu
Nguồn: http://www.chuyenluan.net
Giới
Thiệu Sử Gia Nguyên Vũ Vũ Ngự
Chiêu

Tiến Sĩ Vũ Ngự
Chiêu
(ảnh của
PBase.com)
Chính
Đạo là một
trong hai bút danh của Vũ Ngự
Chiêu.
Bút danh kia là Nguyên
Vũ, rất nổi tiếng ở Miền Nam
trước năm 1975. Trước 1975, Vũ Ngự Chiêu
phục vụ trong binh
chủng Pháo Binh Dù, QLVNCH, và đã có
hơn 20 tác phẩm xuất bản. Sau khi ra hải
ngoại, ông vừa
tiếp tục cầm bút vừa đeo đuổi việc học. Tốt
nghiệp Tiến Sĩ Sử
tại Đại Học Wisconsin-Madison năm 1984, sau
khi cùng gia
đình di chuyển về Houston, ông là Giám Đốc
nhà xuất bản Văn Hóa và tốt nghiệp Tiến Sĩ
Luật
tại Đại Học Houston năm 1999.
Những
tác
phẩm
của
Vũ
Ngự
Chiêu
xuất
hiện
trước năm 1975
dưới bút danh Nguyên Vũ gồm có Đời
Pháo Thủ (bút ký), Những Cái Chết Vô
Danh (tập truyện), Trở Về Từ Cõi Chết
(truyện), Vòng Tay
Lửa (trường thiên), Thềm Địa Ngục (truyện),
Đêm Hưu Chiến
(truyện), Sau Bảy Năm Ở Lính (bút ký), Đêm
Da Vàng (trường thiên), v.v. Tại hải
ngoại, Vũ Ngự
Chiêu đã in thêm các tập Xuân buồn
thảm: Cuộc Sụp Đổ của Nam Việt Nam (bút ký),
Trận Chiến
Chưa Tàn (truyện), Giặc Cờ Đỏ (trường thiên),
cùng
hai tâm bút Paris: Xuân 1996, và Ngàn
Năm Soi Mặt.
Về
nghiên
cứu
sử
học,
ông
đã
in
ba
tác phẩm
bằng tiếng Anh dưới tên thực, và 10 biên khảo
bằng
Việt ngữ với bút danh Chính Đạo. Biên khảo duy
nhất
bằng Việt ngữ ký tên thực của ông là bộ
Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, 1883-1945, gồm ba
tập. Những
tác phẩm ký tên Chính Đạo thường được viết
cho độc giả không chuyên môn, dễ đọc hơn,
không
quá khô khan như các biên khảo đúng
yêu sách bác học.
Ông
vừa
xuất
bản
tác
phẩm
mới
nhất
với
tựa đề Cuộc
Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975, tập I, gồm
5 phần: Sơ lược
tiểu sử Tổng thống Jean Baptiste Ngô Đình Diệm
(1897-1963); Từ Điện Biên Phủ tới Geneva; Cuộc
truất phế Bảo Đại;
Mùa Phật Đản đẫm máu (1963); và “Phiến Cộng”
trong
Dinh Gia Long.
Sau
năm
1975
ở
hải
ngoại,
có
những
dòng
thác ngụy
tạo ngụy biện nhằm vặn méo sử kiện để chạy tội
và biện
minh cho sự vô minh của mình, Vũ Ngự Chiêu đã
dần dần xuất hiện như một nhà sử học
khai sáng
và can trường. Giá trị tinh thần của người trí
thức không chỉ là tôn trọng sự thật mà
còn nói lên sự thật và chấp nhận hậu quả của
quyết định can trường đó. Đó là một sự đổi đời
tâm linh có ý nghĩa đã hình
thành nơi Vũ Ngự Chiêu. Huyền thoại và huyễn
mị
lịch sử đã làm cho người Việt xa nhau, chỉ có
sự
thật mới làm cho người Việt gần lại với nhau,
trong tình
dân tộc, nghĩa đồng bào. Những tác phẩm mới
của Vũ
Ngự Chiêu là một đóng góp sáng
giá và có ý nghĩa trong chiều hướng
đó.
Trích Từ : http://www.chuyenluan.net
|

Trang mạng Việt Nam Văn
Hiến
Trang Vấn Đề Tài Liệu Nghiên Cứu
Lịch Sử
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến
những biên khảo, sáng tác và ý kiến
của quý vị và các bạn nhằm mục
đích
bảo tồn di sản văn hóa và phục hồi nền an lạc
& tự chủ của Việt tộc.
|