IV. GIÁ TRỊ
NHÂN CHỦ TRONG VÒNG CON GIÁP
Vòng
con
giáp là chi?
Thưa
là
vòng 60 năm mà nhiều nơi xưa đã
dùng để ghi niên kỷ, nó căn cứ trên đường
Hoàng Đạo của sao Mộc tinh (Jupiter) cứ 60 năm thì đi hết
một vòng chung quanh mặt trời. Lối này đã xuất
hiện rất sớm bên Sumer cách đây cả 5, 6 ngàn
năm, nhưng rồi nó đã chết dần vì rất bất tiện: chỉ
gồm 60 năm đang lúc lịch sử gồm nhiều ngàn năm. Bởivậy
những nền văn hóa lớn đã tìm cách thay thế
thí dụ Roma lấy năm lập thành Roma làm khởi điểm.
Tuy vậy đó còn là khởi điểm tư riêng
nên vẫn chưa ổn. Cho đến khi người ta nhận năm đấng Christ ra đời
làm kỷ nguyên thì mới trở nên phổ cập
và chôn táng hẳn vòng 60 năm, ngoại trừ
bên Viễn Đông vì ít giao thông với
Tây Au nên mới nhận công nguyên chừng hơn trăm
năm nay. Thế là vòng 60 năm không còn
liên hệ chi tới đời sống thường ngày mà chỉ
còn là vấn đề cho các nhà khảo
cổ.
Nhưng
bên
Viễn Đông thì ngoài việc khảo cổ,
vòng con giáp còn có một liên hệ
nào đó, nên tuy đã nhận công lịch hơn
trăm năm nay rồi mà bây giờ vẫn cứ nhắc đến tên năm
theo con giáp: hiện nay chúng ta đang sống năm Kỷ
Mùi (79) và đang sửa soạn đón Tết năm Canh
Thân (80), điều này tuy có thể giải nghĩa bằng
liên hệ với bói toán, với những điều tin tưởng của
tử vi, nhưng cũng chưa hẳn đủ, đằng sau còn ẩn tàng một
cái gì đó. Hỏi đó là cái
chi?
Đây
là
câu hỏi chưa được đặt ra mà lý do đơn sơ
là chưa ai có thể trả lời, vì phải đi theo lối cơ
cấu như Việt nho mới tìm ra một ít manh mối. Vậy điều
khác biệt đầu tiên là nơi phát nguyên
của hai vòng khác nhau: một do Mộc tinh, một do Kinh Dịch
với hệ quả quan trọng là vòng Mộc tinh kh6ng có
triết. Nó chỉ là một vòng suông, chung nhi
phục thuỷ. Còn vòng con giáp thì
không chỉ có ý là đầu giáp cuối,
mà còn là giáp cả hai vòng một trật.
Hai
vòng
đó khác nhau: một vuông một
tròn,
Vuông chỉ đất với 12 con vật địa chi
là
Tí –
chuột
7.
Ngọ - ngựa
Sửu –
trâu
8.
Mùi - dê
Dần –
hùm
9.
Thân – khỉ
Mão –
mèo
10.
Dậu – gà
Thìn –
rồng
11.
Tuất – chó
Tị
–
rắn
12.
Hợi – lợn
Tròn
là
trời với 10 thiên can là:
Giáp
6.
Kỷ
At
7.
Canh
Bính
8.
Tân
Đinh
9.
Nhâm
Mậu
10.
Quý
Hình
2B:
12 CON VẬT ĐỊA CHI
Để
định
tính vòng trong với vòng ngoài, ta
hãy dùng câu sách Kinh Dịch trong hệ từ
rằng:
Tại
thiên
thành tượng
Tại
địa
thành hình
Tại
địa
đã hiện ra hình tích cụ thể như 12 con vật
rõ ràng ai cũng thấy được. Còn tại thiên mới
là cái tượng như một ý niệm tiên thiên
chưa hiện ra hình tích cụ thể vì vậy tuy 10
thiên can có chỉ ngũ hành, nhưng mới là đợt
tượng đợt trong, chưa có hình tích cụ thể
nên không gọi tên được đành dùng những
tên trừu tượng là: Giáp, At, Bính, Đinh v.v…
Hai vòng hình và tượng đó giao nhau
làm thành triết lý. Như vậy triết lý nọ nằm
trong nét song trùng cơ bản tức tròn
vuông.
Tròn
vuông
dù khác nhau đến ngược chiều mà vẫn đi
đôi, lâu lâu lại giáp với nhau (vòng
con giáp). Ai đã học triết lâu dài có
thể nhận ra đó là điều quý vô biên.
Triết học duy lý chính vì thiếu con giáp
mà gây nên muôn tai họa cho con người,
vì thiếu nó thì hết là lưỡng thê (hai
đợt sống: một thuộc thân xác, một tâm linh)
mà chỉ còn là Duy, thí dụ Duy vật vô
thần. Heidegger gọi đó là việc duy lý đã
đánh mất nét gấp đôi (the twofoldness, le pli en
deux) vì thế văn hóa này đã gây
nên đầy tang thương khổ não. Do vậy ta mới hiểu tại sao
triết lý Việt nho đã cực kỳ nhấn mạnh đến nét gấp
đôi nọ, và đem thiên can địa chi xếp thành cơ
cấu như sau:
Hình
3:
CON GIÁP GIAO THOA
Vòng
đó
đã nói lên sự “giao chỉ” của hai chiều
tròn vuông, tuy khác nhau như vậy mà vẫn
quấn lấy nhau cách khắng khít. Sự khắng khít
này được biểu lộ không những ở đợt âm dương
mà cả đến đợt ngũ hành theo cơ cấu 5-6 (nhân gấp
đôi thành 10-12) ẩn trong những câu như:
Đêm 5 canh, ngày 6
khắc
Ngũ phúc, lục cực
Thành Hà Nội 5 cửa nàng
ơi
Con
song
Lục đầu 6 khúc nước chảy xuôi một giòng…
Đấy
là
những câu hàm tàng nền triết lý
song trùng của Việt tộc. Và đây là điểm
khác biệt đầu tiên với vòng 60 năm của Mộc tinh,
nhưng vì quá lớn lao nên khó nhận
ra.
Sau
đây
là điểm tuy thuộc triết lý nhưng đã hiện
hình vào vòng các con vật, nên dễ
nhận hơn, tuy vậy muốn thấy được cách đích đáng,
cần phải đối chiếu với bằng 12 con vật của Tây Au là:
Bạch
dương
7.
Kim ngưu
Song
tử
8.
Cự giải
Sư
tử
9.
Sử nữ
Thiên
xứng
10.
Thiên yết
Nhân
mã
11.
Mai yết
Bảo
bình
12.
Song ngư
Hình
4:
HOÀNG ĐẠO
Đem
hai
bảng Đông Tây đối chiếu, ta sẽ nhận ra một điều nổi bật
là bảng hoàng đạo thì xa lạ trừu tượng. Trừu tượng
như Song nữ, Bảo bình, Thiên xứng; hoặc xa cách như
Song ngư, Kim ngưu, Cự giải… Ngược lại bên Đông vừa cụ thể
như rắn, hùm, chuột, hoặc gần gũi như mèo, chó,
gà. Phải nói trong 12 con thì đến 8 con đã
thuần hóa sống liền bên người; vật rừng chỉ có
chuột, hùm, rắn, khỉ tức 1/3 tổng số. Trong hoàng đạo chỉ
có dê (mai yết) là đã thuần hóa
còn toàn thú rừng. Rõ ràng là
tang chứng không có nền triết lý nằm ngầm vì
không thấy ảnh hưởng nào vào vạn vật, vào
môi sinh nên con người bị vật hóa tức không
có địa vị đặc biệt cho mình. Tuy Song tử và Sử nữ
là người nhưng cũng chỉ chiếm một cung như các con vật
khác vậy thôi. Đó quả là hình ảnh
triết học cổ điển đầy những vấn đề trừu tượng thí dụ vấn đề Hữu
Thể (bàn về sự Có xét như là có) vấn
đề sự Hữu của ý niệm. Sự phân biệt giữa tồn hữu
(existence) và bản tính (essence) toàn những vấn
đề hóc búa xa xôi khiến cho nhiều người học triết
xong cảm thấy khô cạn cả tâm hồn.
Ngược
lại
triết Việt nho thì đầy ứ tình tứ và thiết thực
vào tận thân tâm mà ta có thể thấy
biểu thị trong những con vật địa chi. Con nào cũng phải phục vụ
người hết mình kể cả những con thú rừng, trước là
chúng được chọn ít không đủ đa số lấn át vật
nhà, chỉ có 4 con đại diện cho 4 phương là chuột,
hùm, rắn, khỉ. Hùm phụng sự người bằng cách ở cung
của con người khi sinh ra, đó là Dần.
Thiên khai ư tí
Địa tịch ư sửu
Nhân
sinh
ư dần
Con
người
phải là Nhân chủ nên vật được chọn để đặt
vào cung ngoại ô (1) con người phải là con vật mạnh
nhất, đó là hùm (Dần). Cũng vì Dần ở cung
người nên được gọi bằng ông, ông ba mươi. Chữ ba chỉ
cung thứ ba. Con rắn thì phụng sự người bằng cách
nào? Thưa bằng cách nhắc nhở hàng năm phải tĩnh
tâm, tức rắn lâu lâu lột da nên chi con người
phải cô lột bỏ lốt người cũ mặc lốt mới đặng ngày
ngày đổi mới, canh tân đức tính “nhật tân chi
vị thịnh đức”. Còn khỉ có tính thắc mắc hay đặt
vấn đề nên chỉ óc thông minh, tìm kiếm,
sáng tạo, vì vậy đựơc chọn. Các con thú
nhà thì hỏi nói, con nào con nấy cũng phục
vụ Người hết mình, khi sống đã vậy mà cả khi chết,
thí dụ chó lục chết còn trối lại cho chủ một chầu
mộc tồn. Chỉ còn có chột thì hơi khó nghĩ,
đối với người thì hay làm hại, đã vậy sao lại được
đặt vào cung Trời. “Thiên sinh ư Tí”, trời bao la
cao cả lẽ ra phải tìm một con nào to nhất thí dụ
con voi hay cá voi và lúc ấy thay vì
nói Tí Sửu Dần thì phải nói Voi Sửu Dần mới
đúng chứ tại sao lại đưa chuột vào cung của
Thiên?
Thưa
lý
luận kiểu trên là lý luận theo cung
cách duy vật sử quan lấy lượng làm nền. Ngược lại với
“tâm linh sử quan” của Việt nho lấy phẩm làm trọng
thì càng nhỏ càng hay, nhỏ cho đến vô
hình thì mới là thần, là linh, là
thiêng. Đó là lý do tại sao ở cung của
Thiên lại đặt chuột là vật nhỏ nhất trong 12 con. Cũng
vì lý do trọng phẩm đó mà cái đức
con người được biểu tượng bằng con rồng vì rồng là vật
vô hình theo nghĩa chẳng ai thực thấy. Các rồng ta
thấy chỉ là hình vẽ, chứ rồng thực có ai thấy
đâu, khi bay lên trời, lúc chui xuống đất để trật
“long mạch” ra cho những ai thích phú quý chỗ
mà chôn cha mẹ!
Vậy
hình
ảnh rồng là con giao long vật biểu của Lạc Việt
phương Nam có cộng với con rắn là vật biểu của Việt tộc
phương Bắc gọi là long xà. Vì là long
nên có 4 chân, nhưng có thêm sự
đóng góp của rắn nên mình con rồng
dài ra. Rắn đóng góp có vậy, còn
chính bản thân không dịch hóa nên phải
ở lại nguyên hình rắn và cư ngụ tại vòng địa
chi. Điều ấy có nghĩa cùng là Việt cả, nhưng Việt
phía Nam tiến mạnh hơn phía Bắc trong nấc thang
Nhân chủ. Cũng vì vậy mà cung Mão Tàu
cho là thỏ, còn Việt cho là mèo. Mèo
gần với người hơn vì vừa cùng họ dần (hổ) lại sống trong
nhà với người, tính tình độc lập bất cần ai,
lâu lâu đưa ra một cái lườm dài thượt khiến
nhiều người không thích mèo. Đó là
ngộ nhận, chứ mèo noi theo đức tự cường tự lực của hùm
nên gần người hơn, còn thỏ rút rát,
vì thế nói mèo thay thỏ là tỏ ra bảng Việt
còn nhân chủ hơn cả bảng của Tàu. Nên ghi
nhận là mèo cũng được tế như hùm, chứ thỏ
thì không (Kinh Lễ, chương IX, tiếtII, câu 10).
Tàu Việt khác nhau có điểm Mão, còn
thì y như nhau gọi chung là bảng Việt nho.
Điểm
then
chốt làm cho bảng địa chi của Việt nho giàu
tính chất Nhân chủ là hai chữ “Mậu Kỷ” đặt ở trung
cung, đó là hình ảnh Nhân Hoàng ngự ở
giữa để ra lệnh cho vạn vật chung quanh. Mậu có nghĩa là
làm cho tốt tươi, làm cho phát triển, còn
Kỷ là đại ngã tâm linh. Hai chữ Mậu Kỷ nói
lên việc quan trọng hơn cả của con người là phải
phát triển cái phần đại ngã tâm linh ngay
nơi mình khiến cho mình ngày thêm tươi thắm:
Nhật tân chi vị thịnh đức.
Chính
vì
con người “ngự giữa hai vòng” như vậy nên
đã không vong thân mà còn gây
được ảnh hưởng quyết liệt vào các con thú
bên ngoài, nói lên rõ giá trị
của con người linh thiêng hơn vạn vật (nhân linh ư vạn
vật). Đấy chính là tinh thần của dân tộc “trọng
nghĩa khinh tài” khác xa một trời một vực với dy vật sử
quan y cứ trên “vật bản” (choisisme) đánh giá người
theo mức độ cao thấp của sản xuất vật thể: sản xuất nhiều là
người cao.
Tóm
lại
ngoài giá trị lịch sử thì vòng con
giáp của Việt nho còn là một chứng tích
hùng hồn về Nhân chủ tính. Thay vì bị mất
hút trong đám sự vật, thú vật thì ở
đây con người ngự giữa như một ông vua để thuần phục hết
mọi loài vật. Đó là bí quyết sống lâu
của vòng con giáp Việt nho. Nó sống lâu
vì đầy giá trị nhân bản, nhân chủ. Xin
nói thêm rằng lối tính tuổi theo con giáp
chính là một phương tiện giáo khoa nhằm nhắn nhủ
mỗi người rằng mình có mang trong tâm hồn chiều
kích linh thiêng thuộc trời mà sứ mạng của
mình là phải tài bồi phát triển cái
phần thiên tính đó để mỗi ngày mỗi leo cao
trên nấc thang Nhân chủ, đấng xứng danh là
“Nhân linh ư vạn vật”.
TÁI
BÚT
Bài
này
không giây vào vấn đề nguồn gốc là
Tàu có nhận vòng con giáp hay chăng? Tuy
nhiên không nghịch với ý kiến cho rằng Tàu
có nhận của Sumer-Babylon như ông René Berthelot
chủ trương đi nữa (La pensée de l’Asie et l’astrobiologie.
Paris: 1972 p.105). Chính ông cũng nói chỉ nhận như
sản phẩm văn minh vòng ngoài tức vòng 60, rồi sau
Tàu thêm yếu tố văn hóa vào tức vòng
trong “thiên can” thành ra vòng 60 trở nên
một sản phẩm kép bởi (10*6) + (12*5) = 60 tức mang đậm ảnh hưởng
ngũ hành để trở nên một lâu đài triết
lý vĩ đại. Nhân tiện cũng có thể nói về
các dữ kiện khác thuộc thiên văn, lịch sử là
có thể mượn của Sumer Babylon nhưng đã được tẩm nhuận đầy
triết lý.
V. TRỐNG ĐỒNG MỘT CHIẾC
HOA QUỲ VĨ ĐẠI
Sau
nhiều
năm ngắm nhìn mặt trống tôi nghĩ là đã
nắm được then chốt của Trống: rất cao xa tuyệt diệu. Tuy vậy ý
nghĩa vòng hoa văn ngoài cùng gồm 18 đôi
chim vẫn chưa chịu xuất hiện. Bỗng ngày kia nhớ lại câu
Kinh Thi bài “Thổ Tứ” (bài thứ 7) tả người đi săn thỏ đặt
lưới vào con đường ngã chín (dị vu trung quỷ) một
tia sáng bỗng vụt lên trong đầu. A! đây rồi, mười
tám đôi chim kia là biểu thị cho hai hoa quỳ
kép 2*9 = 18 và 2*18 = 36 hay nói kiểu
khác: bốn chỉ tứ quý mà quý cũng như quỳ
đều quy hướng về nội tâm (quỳ giả quy dã) mà
Tâm là Trời. Trời chỉ bằng số 36 là vậy. Như thế
trống đồng còn là quốc bảo có mãi tự đời
ông cụ ông kỵ đã xuất hiện với con số 18. Đời
ông kỵ là Bàn Cổ đã phải khổ nhọc 18.000 năm
mới rèn ra được vũ trụ. Khi ông chết, xác ông
hóa ra chấy rận. Các vua sau đều cai trị 18.000 năm, phải
tranh đấu để biến những con chấy rận Bàn Cổ thành con
người văn minh (Civ I. 642). Việc đó truyền xuống đời các
ông cụ là 18 đời Hùng Vương và miêu
duệ các ngài, đại diện do Thánh Dóng cưỡi
ngựa cao 18 thước. Đó là ý nghĩa con số 18, số
đó là thành số 2*9. Mà số 9 chỉ hoa
quỳ.
Hoa
quỳ
buộc liền với số 9, vì là hoa tiêu biểu
tháng 9 nên cũng chuyển sang nghĩa “con đường thông
chín nẻo cửu đạt chi đạo, a place from which 9 ways proceed
(Legge, The She Kinh p.14). Con số 9 này là lão
dương, nó ở đợt cùng cực nên cũng được dùng
để chỉ nền minh triết Việt dưới nhiều tên khác như:
Cửu Thiên Huyền Nữ: Mysterious female
(déese) of nine heavens.
Người Cổ Việt gọi đó là Cửu
Lạc, người Mường gọi là phép “chí rò” (9
rùa).
Sau
Nho
công thức hóa thành Lạc thư và Hồng phạm
Cửu trù.
Tất
cả
đều mang số 9. điều đó nói lên rằng nền minh
triết này được tổ chức theo cơ cấu với các huyền số
mà số khởi đầu là 2 được biểu thị bằng mặt trống chia ra
hai vòng bán nguyệt, vì thế mới có hai cặp
hoa quỳ, mỗi bên một cặp. Nhìn kỹ mặt trống sẽ nhận ra bộ
số này (đã đựơc phân tích kỹ trong hai quyển
Kinh Hùng và Sứ Điệp). Ơ đây chỉ nói tới đặc
tính của hoa quỳ là hướng dương như phong dao hát:
Hoa
quỳ
chăm chăm hướng về thái dương.
Hướng
dương
được tộc Việt chỉ bằng tục tả nhậm theo nghĩa bao quát
là sinistrogyre tức hướng đi ngược kim đồng hồ chỉ Trời.
Trái với “hữu nhậm” dextrogyre hướng Đất. Hai hướng này
rất quan trọng được dùng để phân biệt tộc Việt với
Tàu như Kinh Tư nói “Tứ Di tả nhậm: các Di (tức
các tộc Việt) đều cài áo bên trái
hàm ý coi trọng hướng tả tức hướng Trời. Ta thấy
các vòng vũ trên mặt trống đều tiến theo hướng tả
nhậm tức hướng dương (hướng trời) nên nói được Trống Đồng
chính là một đóa hoa quỳ vĩ đại: hoa quỳ hướng
dương, các vòng vũ đều hướng dương. Đó là
ý nghĩa mà sau Nho công thức hóa
thành hai tiếng “thuận thiên” nghĩa là sống theo
trời, hay nói cho rành rẽ hơn là sống theo mệnh
lệnh trời, sống theo thiên mệnh, mà theo nguyên nho
thì thiên mệnh không là mệnh trời của
nhà vua nhưng chính là bản tính con người,
mỗi con người.
Thiên mệnh chi vị tính
Xuất tính chi vị đạo
(Thiên
mệnh
gọi là Tính người,
Tuân
theo
Tính gọi là Đạo. Trung Dung câu 1)
Cho
nên
nói “thuận Thiên” hay “xuất Tính”
chính là diễn tả ra bằng lời cái ý nghĩa
của các vòng vũ theo hướng “tả nhậm”
Đó
là
nét đặc trưng thứ nhất của nền minh triết Việt được
xây trên bản tính con người chứ không
trên chi khác bên ngoài con người. Bản
tính đó được quan niệm cách rất cụ thể là
những mệnh lệnh của Thiên (Thiên mệnh) nghĩa là
những nhu yếu thâm sâu nơi con người, làm cho con
người cảm thấy như những lệnh truyền trọng đại, cần phải tuân
theo những mệnh lệnh có ba là trí, nhân,
dũng; nhưng rồi chi tiết hóa thành 9 gọi là Cửu
Lạc hay Cửu Trù, và sự tuân theo Cửu Lạc nọ gọi
là Đạo. Đạo không là chi khác hơn là
vâng theo các mệnh lệnh thâm sâu kia.
Vì
là
những lệnh truyền sâu thẳm, nên nhiều khi bị giả
mạo bằng những lệnh truyền ngoại vi, như những lệnh truyền ra do
bái vật hay ý hệ. Vì thế phương pháp quan
trọng là phải để lòng trống vắng, không cho những
tiếng của bái vật hay ý hệ khua vang làm át
đi mệnh lệnh của Trời (Tính mệnh), không để tâm hồn
bị lèn đầy những tư tưởng dị đoan, những định kiến trái
với tính con người, hoặc những lệnh truyền tuy thuộc vòng
ngoài chỉ cần một giai đoạn nhưng vì có đã
lâu đời nên được thần thánh hóa, được nội
tâm hóa, được coi như bất di bất dịch, nên chắn mất
đường không cho tâm nghe được tiếng thiên mệnh
chính truyền, thế là đi dần vào con đường tha
hóa. Vì vậy điều quan trọng là phải để lòng
trống vắng.
Tiên
tổ
Việt đã ghi tạc điều đó bằng cái tên
Trống đặt cho di vật quý trọng nhất của nước, đáng gọi
là quốc bảo. Đó là tên kỳ lạ! Trống
có nghĩa là gì. Thưa trứơc hết là Trống
có nghĩa tiêu cực là để tâm hồn trống trơn
hầu nghe được tiếng không lời “thinh ư vô thanh”, tức
là thiên mệnh. Vì thiên mệnh phát xuất
từ bản tính tự tiềm năng không cần đến ngôn từ,
nên gọi là “thính ư vô thanh” vì Trời
đâu có nói “thiênhà ngôn tai”.
Bởi thế sau Nho công thức hóa thành câu
“vô thanh vô xú”. Còn nghĩa tích cực
là Thiên mà đại biểu là vầng thái
dương ở giữa mặt trống, các vòng vũ tả nhậm là
hướng đi về thái dương, hướng về Trời. Đó là Đạo,
đã được Nho công thức hóa thành câu
“xuất Tính chi vị Đạo” đi theo Tính (thiên mệnh)
là Đạo. Như vậy đạo Việt được biểu lộ trong vầng Thái
Dương tròn xoe, ngự giữa mặt trống làm chốn hướng về cho
các vòng vũ. Chữ Đạo viết với bộ xước là đi, hướng
về đầu cội rễ muôn loài chính là một lối
công thức hóa nội dung trống đồng vậy.
Nhiều
nhà
nghiên cứu đã thấy rằng các hoa văn
trên mặt trống đều được tổ chức theo một diễn đề thống nhất
nào đó nhưng chưa ai tìm ra, tôi không
ngần ngại cho đó là hoa quỳ. Phải, chính hoa quỳ
đã thống nhất các hoa văn trên mặt Trống
vì:
Vòng
ngoài
18 đôi chim là hai cặp hoa quỳ (chữ hai cũng
nói lên các vòng song trùng nằm
tràn ngập trong trống).
Các
đường
vũ tiến theo đường tả nhẩm tức cũng là hướng về
thái dương.
Còn
thái
dương ở giữa mặt trống.
Quả
thực
không diễn đề nào biểu lộ sức bao quát
toàn mặt trống, lại còn thấu nhập qua các
vòng, cho đến tận trung tâm bằng hoa quỳ, nên
nói được hoa quỳ là diễn đề thống nhất hết thảy
các hoa văn trên mặt trống, cũng như nói được mặt
trống chính là hai cặp hoa quỳ nở rộ.
Đó
là
lối diễn tả theo cơ cấu tức là dùng hình
ảnh đồ sộ và huyền thoại. Tôi vừa nói đến hoa quỳ
và con số 18 hay 36. Xin nói thêm về các số
của triết Việt, đó là số 9 chỉ hoa quỳ (cũng gọi
là số lão dương, cùng ý nghĩa hoa quỳ
là hoa hướng dương). Số 9 có căn là số 3 (3*3=9)
mà ý nghĩa là Đạo, còn số 9 là
nghĩa. Tức số 3 chỉ đạo lý uyên nguyên được
trình bày cách phổ quát, còn số 9
chỉ sự hiện thực Đạo đó vào từng trường hợp lúc ấy
nó phải tuỳ thời tuỳ nơi mà thích nghi, nghi
là nghĩa (Nghĩa giả nghi dã: nên nói đến
nghĩa là có ý nói đến đạo được thực thi
vào đời. Hai số này được biểu diễn bằng các huyền
thoại và huyền sử sau:
Trước
hết
là đạo Ba được gọi là Nữ Thần Mộc (Goddess Tree) cũng
có tên là Cửu Thiên Huyền Nữ (Mysterious
Female of nine Heavens) ta thấy 3, 9 đi liền.
Rồi
tới
huyền sử là Hùng Vương thứ 3 truyền ngôi cho
Công Tử 9 vì đã làm được cặp bánh
vuông tròn.
Ong
Hạ
Vũ lập ra nhà vua đầu tiên của Tàu cũng đi theo
đạo 3-9 của Nữ Thần Mộc nên sách nói Vua lấy vợ
Việt (quê ở Đồ Sơn tên cũ của Cối Kê nước Dương Việt)
nên công lớn của Vua là đúc được chín
đỉnh có ba chân (không hiểu tại sao sách Civ
I.737 lại viết three nine legend: 3 đỉnh 9 chân! Có lẽ Nữ
Thần Mộc khiến viết 3 trước 9 chăng). Đạo này truyền đến Tần
Thuỷ Hoàng thì mất, huyền thoại nói là
nhà Tần làm mất một đỉnh còn 8, 8 là số
âm số đất: số du mục võ biền đánh mất sự huyền diệu
của nguyên lý mẹ là Cửu Thiên Huyền Nữ.
Trong
các
huyền số thì trung tâm là cặp số 2-3
thành ra 5 mà Kinh Dịch gọi là số nền tảng (tham
thiên lưỡng địa nhi ỷ số) sự quan trọng được diễn tả bằng số 5
(hiểu là 2 cộng 3) là số ngũ hành mà đặc
trưng huyền bí của nó là số 5 chỉ hành Thổ,
trung ương, có tính cách thống nhất toàn
bộ. Nói huyền bí vì nó là
hành trống không (không mùa, không
hướng) do đó ngũ hành chính là sự lược đồ
hóa mặt trống, được trình bày theo vòng
khắc: tức đi theo tay trái là vòng tâm
tình, nên gọi là Nư Thần Mộc. Hành Mộc số 3.
Số 3 gặt hái được số 5 hành Thổ tức là nguồn mọi
ơn lành. Nói khác trống là con đường đi từ
sở (to have) đến năng (to be) từ có tới không, nhưng
không ở đây lại là Diệu Hữu mà sự diễn tả
trừu tượng là ngũ hoàng cực, còn cụ thể là
hình ảnh những con người đang hân hoan ca múa
trên mặt trống đồng Ngọc Lữ. Điều đó được huyền sử viết
gói gọn vào hai chữ Nghệ An.
Hình
5:
VÒNG KHẮC
Hai
chữ
Nghệ An lấy từ huyền sử nước Việt, quyển Hùng Vương Sự
Tích Ngọc Phả Cổ Truyền chép rằng: “Vua Kinh Dương Vương
vâng ngọc chỉ phụng mệnh trời về núi Nam Miên Sơn
lập đô ở phía Nam Hoan Châu thuộc Nghệ An xứ.”
Câu trên giải theo ý chính thực (không
bóng bảy) là tổ tiên Việt tộc (mang tên
là vua hai châu Kinh và Dương) “vâng ngọc chỉ
phụng mệnh trời” đó là xuất tính: tức sống theo
thiên mệnh (thiên mệnh chi vị Tính, xuất Tính
chi vị Đạo) nên đạt được sự an lạc, hoan hỉ, hạnh phúc.
Như ta thấy rõ trên mặt Trống đoàn vũ ai cũng an
vui, sảng khoái tỏ ra hạnh phúc tràn ngập cả vật
lẫn người.
Câu
huyền
sử trên còn một chữ cần được giải rộng đó
là chữ nghệ trong Nghệ An. Nghệ đây là nghệ thuật
tức là phương thức diễn tả vô biên bằng hữu hạn.
Nói rộng là nghệ thuật dùng những phương tiện
hình thể để biểu lộ tinh thần cũng gọi là hồn tức
cái gì không thấy được. Định nghĩa nghệ thuật như
vậy ta thấy liền sự trái khoáy trong sự vụ là diễn
tả vô biên bằng hữu hạn. Hữu hạn thuộc hữu, vô
biên thuộc vô đi với nhau sao được, quả là diệu vợi.
Vậy mới cần đến nghệ thuật. Nếu biểu thị những cái hữu
hình bằng những cái hữu hình khác
thì là khoa học. Đàng này lại diễn ta
cái vô hình bằng cái hữu! Khó
vô cùng, làm sao thấy mặt cái vô để
diễn tả. Đó là nhiệm vụ của mỹ thuật. Mỹ thuật có
cao mấy mà không thấy mặt cái vô (gọi
là hồn) thì mỹ thuật phụng sự cho cái chi?
Đến
đây
nảy ra nét đặc trưng thứ hai của Việt lý
là muốn thấy cái mặt của cái không có
mặt thì phải đi ngược chiều (kim đồng hồ) tức từ cái sở
(to have) phải đi tới cái năng (to be). Nói cụ thể
là con đường thiêng liêng Việt ở tại đi từ những
cái hữu ích đến cái viễn dụng, từ to tới nhỏ:
càng nhỏ càng gần tinh thần, nhỏ cùng cực
là chính tinh thần, mà đã là tinh
thần thì lại bao trùm khắp hết. Dịch nói “thần
vô phương” là thần không ở nơi nào, tức
là đâu đâu cũng ở. Và đó là
thiên, thiên nhỏ đến độ “vô thanh vô xú”
nhưng lại có sức bao trùm khắp vạn vật. Nho công
thức hóa tất cả tiến trình trên bằng câu
“chí trung hòa”: có đi vào đến cùng
cực mới đạt được hòa cùng cực, do đó đạt thống
nhất cùng cực. Trống đồng diễn tả tiến trình đó
bằng những tam giác gốc (chỉ hậu quả do sự đi vào
cùng cực), vì tam giác gốc tiếp cận với
thiên vốn là cùng cực nên tỏa ra ngoài
cũng bao trùm hơn hết, biểu lộ bằng hai vòng vô số
tam giác nhỏ ở ngoài cùng đứng đối đầu nhau giăng
ra cùng khắp mặt trong: đó tức là thống nhất,
là quy hướng tất cả vào một mối, hậu quả là an
vui, an lạc, an hành, an cư lạc nghiệp. Đó thực là
một nghệ thuật siêu phàm vì khởi từ sự đi ngược với
thường tình, nhưng hậu quả thâu đạt được lại quá cỡ
thường tình trông đợi. Vậy không phải là
siêu tuyệt sao. Vì thế Kinh Dương Vương quả đáng
tên là Nghệ Tổ tức nghệ sĩ thượng thặng, Nghệ Giả viết
hoa.
Cần
nói
thêm ít lời về chữ an (sau chữ nghệ). Chữ an
đây là hoa trái đầu mùa nó sẽ kết ra
quả đủ thứ như an vui, an lạc, an hòa… Sách Trung Dung
công thức hóa tinh thần Trống Đồng vào
câu:
Chí trung hòa
Thiên địa vi yên
Vạn
vật
dục yên
Đi
vào
đến chí trung sẽ đạt được chí hòa,
mà chí hòa cũng là chí an. Thế
nào là chí hòa. Thưa là đặt trời đất
vào đúng vị trí. Hỏi thế nào là
đúng vị trí? Xem vào Trống Đồng sẽ nhận được
câu trả lời: đó là Thiên, Nhân, Địa,
sắp xếp này khéo léo vô kể vì
nó làm cho con người được an nhiên tự tại. Điều
này họa hiếm lắm: thường thì không được như vậy
mà chỉ có duy tâm là các lối xếp duy
có trời hoặc duy vật duy có đất, trong cả hai trường hợp
con người bị đè bẹp, bị tha hóa như đã bàn
dài trong quyển Sứ Điệp.
Tiên
nho
có nói: “Đại nhân giả ứng vận mà sinh,
kẻ đại ách ứng kiếp mà sinh, ứng vận mà sinh
làm cho thiên hạ được an vui thịnh trị, kẻ ứng kiếp
mà sinh làm loạn thiên hạ” đem lại khổ luỵ
tràn lan. Đại nhân ứng vận mà sinh biết xếp đặt vị
trí cho Thiên Địa phụng sự con người. Còn ứng kiếp
là kẻ đi theo một chiều duy vật chỉ có làm hại con
người vô kể.
Đó
là
đại để cái nhìn bao quát đặt trên
triết Việt như được chiếu giãi trên mặt Trống Đồng. Thật
là man mác hết lớp nọ đến lớp kia nên trong tựa đề
một sách tôi dùng hai chữ trùng
trùng. Nhưng không may nền triết đó đã bị
chôn vùi từ lâu và nay còn sót
lại được ít nét cũng đang ngáp thở làm
tôi nhớ tới hai chữ vời trông để nói lên sự
tiếc thương vô cùng với niềm hy vọng làm phục hoạt
nền minh triết ơn ích nọ. “Vời trông an Việt trùng
trùng” là tên một tập sẽ xuất hiện trong triết Việt
(sau đổi lại là An Vi Phong Thái).
|
VI. TRIẾT LÝ TẢ
NHẬM
Tả nhậm có nghĩa là cái
áo bên tả. Đó là tục lệ của Viêm Việt
như đã được ghi nhận trong sử ký và cả trong trống
đồng với các vòng vũ tiến theo lối tả nhậm tức ngược kim
đồng hồ (bài này tuy không thuộc quyển Sứ Điệp
Trống Đồng nhưng đã được viết nhân khi nhìn
các vòng vũ trên mặt trống đồng). Tại sao tục lệ
đó được ghi trên mặt trống cũng như trong các điển
chương như Lạc Thư và Kinh Dịc. Thưa là vì
nó hàm ngụ cả một nét tết vì mà
bài này sẽ bàn qua. Nó liên hệ tới
triết lý mà sứ mạng là phải bênh vực phe tả
(tả đản) nên triết gia phải là người theo phe tả như
câu nói “chiếc xe lư tả để đón hiền nhân”.
Như thế chứng tỏ có một nguyên lý nằm ngầm
mà những gì vừa kể lại (tả nhậm, tả đản, lư tả) chỉ
là biểu hiệu của nó. Vậy điều quan trọng đối với người
nghiên cứu triết chính là tìm ra cái
nằm ngầm kia: càng có thể chắc tâm như thế
vì tả nhậm là một nét đặc trưng của cả một khối
văn hóa Viêm Việt.
Tuy rằng cũng tìm ra được đôi
nơi có một hai nét tả nhậm như nói dân Turc
và dân Sumer nhưng nó chỉ xuất hiện như một yếu tố
lẻ loi, phần mớ, ngẫu hữu mà không có tính
cách trường cửu và đứng trong cơ cấu, nên cũng
không chòi vai trò quyết định tính chất văn
hóa như trong nền văn hóa Viêm Việt.
Cũng cần nói rằng đây là
một ví dụ cụ thể nói lên lý do, tại sao
nhiều người cho triết lý là lẩn thẩn vì chú
tâm vào những cái vớ vẩn: tay phải hay tay
trái, tay tả hay tay hữu… có người nào
ngoài phố đặt câu hỏi như vậy bao giờ đâu. Xin thưa
ngay rằng hơn nhau ấy cũng nhờ những cái không đâu
đó. Và trong ngàn người đọc triết chỉ một
vài người thấu vào được tinh hoa của triết cũng vì
đó. Thực ra thì nó không vớ vẩn mà
chính là Tế Vi, nên sai một li, đi một dặm. Chỉ
có chữ tả nhậm mà nó dài cả hàng dặm
với biết bao nét đặc trưng, thí dụ tinh thần nghĩa hiệp
dám phù suy phù yểu là những đức
tính đi liền với tục tả nhậm. Đành rằng khắp trong
loài người đâu đâu cũng tìm ra óc
đó, thí dụ nghĩa hiệp bên Tây Au thời Trung
cổ, nhưng nó không đặt nền tảng trên tả nhậm,
mà do lương tri nên có thể nói nền tảng của
hiệp sĩ là sức mạnh. Chính tên gọi nói
lên điều đó: chevalier, cavalier, cabelero đều do cheval
là ngựa nên chính ra phải dịch chữ chevalier
là kỵ sĩ, le knight mới đúng (Civ XI.284). Trái
lại ở Việt nho thì rõ ràng là nó đặt
trên tay tả và tả nhậm là một dấu nói
lên sự tài bồi vun tưới bên tả đến độ hệ thống
hóa thành cơ sở tinh thần. Nhờ đó mà
nó đi thật xa đi đến chỗ chí cực là xây đắp
nổi nền Nhân chủ. Nói là chí cực vì
Nhân chủ là cứu cánh của triết lý. Triết
lý chỉ đạt thân khi nó thiết lập được Nhân
chủ. Và đó là thành quả của Việt nho như
đã bàn nơi khác. Nhờ việc hệ thống hóa tả
nhậm mà tất cả mọi yếu tố văn hóa khác có
liên hệ với nhau. Đó là điều tế vi cần phải để
tâm suy nghĩ mới nhận ra được. Cho nên chúng ta sẽ
lần lượt nghiên cứu về tả nhậm mà trước hết là
nguồn gốc của tục lệ đó.
1. Nguồn gốc
Nguồn gốc lịch sử văn hóa của
Viêm Việt có tự lúc nào không
rõ, nhưng biết chắc là có trước khi Trung Hoa trở
thành một dân tộc, nên Việt đã có tục
tả nhậm trường kỳ và phổ cập lâu trước. Ngược lại ở
nguyên thuỷ, người Tàu lại vẫn trọng bên hữu. Đến
sau dần mới trọng bên tả (xem Việt Lý Tố Nguyên
bài Chiêu Mục) tuy nhiên không dứt
khoát đồng đều, nên danh từ tả có lúc mang
ý nghĩa hèn kém, thí dụ khi nói “tả
đạo” thì tả chỉ cái đạo hèn kém sai lầm.
Như vậy thì càng chứng tỏ nguồn gốc Viêm Việt chủ
nhân của tục lệ đó.
Bây giờ muốn tìm hiểu sâu
hơn vì lý do nào lại đặt ra tục tả nhậm thì
có thể do việc mặt trời mọc từ Đông sang Tây theo
kim đồng hồ. Còn đất trái lại cho cảm giác đi
ngược kim đồng hồ mà theo lối xếp của Ngũ hành là
từ tả qua hữu. Mà vì văn hóa Bách Việt đề
cao mẹ và gắn liền với đất, nên tên đất với
tên mẹ là một, như Au Lạc với mẹ Au Cơ. Vì thế
mà lấy bên tả làm bên thuận. Nên tả
nhậm trở nên dấu biệt trưng của đại gia đình Viêm
Việt từ Tứ Xuyên, Đông Di, Kinh Sở xuống đến các đảo
NamThái Bình Dương chứ không lẻ loi mà nằm
trong một cơ cấu, nên rõ rệt là sản phẩm văn
hóa bản địa. Bây giờ ta hãy đi tìm ý
nghĩa.
2. Ý nghĩa
Vậy vấn đề đầu tiên đặt ra là
tại sao lại quan trọng tay tả? Có thể đưa ra nhiều lý do.
Trước hết là bởi nó Yếu hơn tay hữu nên cần
bênh vực và đó là lý do mạnh nhất.
Vì loài người ai mà không có
lòng trắc ẩn, phù suy; nếu tình cờ ta gặp 2 đứa
trẻ đánh nhau thì hầu hết ai cũng thấy cần bênh vực
đứa yếu. Vậy tả nhậm hiểu theo lối phù suy (tả đản) là do
đức tính cao thượng trên.
Thứ đến bên tả chỉ Phẩm đối lại
bên hữu chỉ Lượng. Vì phẩm không cần sức mạnh
nên nếu chọn một trong hai tay để chỉ phẩm thì đương
nhiên đó là taytả, rõ rệt như tả sử
chép lời, hữu sử chép việc. Lời là cái
gì vô hình nên trao cho bên tả.
Thứ ba nó chỉ tâm tình
là cái gì yếu mềm không cứng mạnh như tay
mặt. Lại ở về phía trái tim nên càng tiện
chỉ tâm tình là cái vô hình hay
đúng hơn có mà như không, không
mà lại có.
Đó là mốt số lý do
có thể đưa ra và nói được rằng lý do để
nhận hơn cả là lý do thứ nhất, rồi càng tiến
thì càng trở nên tế vi nhất là lý do
thứ ba bảo tay trái ở phía trái tim nên
là chủ tâm linh. Tuy nhiên có thể chấp nhận
cả vì chúng ăn khớp với nhau. Thí dụ tả nhậm
là phù yếu thì đàn bà yếu hơn
đàn ông, nhưng đứng về trực thị tâm linh thì
lại nhạy cảm hơn. Vì vậy có thể chấp nhận cả ba lý
do trên cũng như các lý do khác liên
hệ có thể đưa ra.
3. Triết lý
Bây giờ xem đến nền móng triết
lý thì cần xét 2 điểm Cứ Lý và Cứ Sự
(de jure, de facto).
a. Cứ Lý
Hay tiên thiên tức hỏi có
nên chăng? Thưa nên vì nó yếu mới cần
phù trợ. Tay hữu hay những cái gì đã mạnh
sẵn mà lại phù trợ thì vô ích
vì nó không cần mà lại còn di hại
vì nó lấn bên yếu gây nên cái
bệnh một chiều. Vì thế tả nhậm nói lên bước tiến
cuối cùng của triết lý. Nói là cuối
cùng vì con người khi mới thoát ra khỏi thú
tính chưa dễ gì theo lý ngay được. Trước hết
vì sinh sống giữa muôn khó khăn phải khắc phục:
nào thú dữ, cảnh thiên nhiên, thời tiết khắc
nghiệt v.v… rồi phải chinh phục chính mình. Mỗi bước tiến
là đạt một đợt văn hóa cao hơn.
Bước đầu tiên là thuần phục
thú dữ: từ chỗ bị thú dữ làm hại đến chỗ bắt
nó phục mình; có thú đưa về nuôi
trong nhà như chó, ngựa… Con nào không thuần
phục được thì ít ra trị bằng săn bắt. Thời đó
huyền sử bên ta kêu là Phục Hy, xảy đến sau thời săn
bắt.
Bước thứ hai thuần phục thảo mộc: lúa
mạ, rau cỏ, cây trái, ta sẽ gọi đợt này là
Thần Nông tức bước vào thời bằng thời công nghệ hiện
nay.
Rồi sẽ đưa tới bứơc sau nữa là kỹ nghệ
của con người phong lưu (homo ludens). Nhưng trước đó phải đi
được bước sau cùng là bước thuần phục chính con
người.
Đây là bước khó khăn nhất
vì nhiều lý do: trước hết vì con người không
nhận ra sự cần thiết, bởi quên rằng mình cũng tự
thú tính đi ra nên cũng phải tranh mồi, dũng mạnh
hiếp yếu, lấy tàn bạo làm tiêu chuẩn để đo lường
giá trị: có giá trị nhiều là được việc
nhiều, mà được việc có nghĩa là được ăn. Đây
là lối nhìn của cấp thấp nhất cần phải vượt mới tiến
được, tuy nhiên rất khó vì nó đã quen
thuộc hàng triệu năm.
Thứ đến vì nhu cầu ăn uống vẫn
còn y nguyên mà của nuôi lại thiếu theo hệ số
gia tăng của người. Cho nên chỉ khi nào con người
có thể tạo được cảnh phồn thịnh cùng khắp: tìm
đâu cũng dễ dàng có cái ăn thì
lúc ấy mới dễ dàng vượt qua giai đoạn cá lớn nuốt
cá bé. Điều ấy cho đến nay chưa đâu đạt được.
Lý do thứ ba thuộc về cái hướng
chinh phục: hai bước trước đều hướng ngoại cả vì đối tượng thuần
phục đều ở ngoài mình, đến đợt thứ ba thì đối
tượng ở ngay trong mình, là chính mình.
Vì thế phải đổi hướng, phải chĩa mũi dùi chinh phục
vào mình.
Điều đó đi ngược lại với tập
quán hướng ngoại đã kéo dài nhiều triệu năm
trước, chưa dễ gì đổi ngay được. Chính vì thế
mà việc thuần hóa người tiến rất chậm, hậu quả là
giống nguy hiểm nhất co con người lại chính là con người:
chính người mới độc ác với người hơn bất cứ thú
vật nào. Vì thế bứơc tiến hóa này cam go
hơn các bước trên.
Muốn thuần phục được người thì phải
chia ra rất nhiều nấc: mà nấc đầu tiên là phải biết
đề cao phẩm trên lượng, vì phẩm là cái
gì tế vi không căn cứ trên sức mạnh như lượng.
Thứ đến là đi sâu vào cội
rễ gây nên việc đề cao phẩm đó là cái
biết. Cái biết có nhiều lối, một thuộc lượng thì
cần Nhiều, một thuộc phẩm lại cần Ít. Vậy muốn tiến tới phẩm
thì cần đi từ đa tạp trở về đơn thuần, càng đơn thuần
càng thành tựu. Đơn thuần cùng cực là vượt
hình hài để đạt tâm linh. Tâm linh
chính là cái cùng cực, vì nó
siêu hình, siêu tượng khác hẳn với cái
biết lý trí vòng ngoài bám
sát hiện tượng: càng nhiều càng hay, vì đối
tượng nào cũng hữu hạn. Trái lại tâm linh
thì đi vào, mà luật trung tâm là
vào càng sâu thì sức bao quát
càng lớn; vào cùng cực thì sức bao
quát cùng cực nên gọi là “chu tri” mà
bao lâu chưa khắc phục được thì tất cả chỉ là
vòng ngoài: chỉ nắm được từng góc, từng
khúc nên Việt nho kêu là “khúc sĩ”.
Khi bám riết một khúc, một góc nào
đó thì là ứ trệ lại vòng ngoài.
Mà ở lại vòng ngoài thì không thấu
đến căn bổn của con người bao gồm cả vòng trong, vì thế
không đạt toàn thể làm sao thuần phục nổi con
người. Luân lý, tôn giáo hỏng là tại
chỗ đó. Trên đã nói rằng tả nhậm ám
chỉ lối biết vòng trong, thuộc tâm linh nên mới đi
hướng tố nguyên: tức ngược chiều để về đến gốc. Bây giờ ta
lại đi lối hậu cứ để minh chứng lối quyết đoán trên.
b. Cứ sự
Xét về vũ trụ thì đó
là âm dương và ta thấy liền sự xếp đặt đi theo lối
tả nhậm là âm trước dương. Đọc sơ qua sẽ không
chú ý tới âm vang của thứ tự đó. Nhưng đối
với cơ cấu thì vị trí của một yếu tố rất quan trọng, nhất
là những yếu tố nền tảng như âm dương, vì
chúng làm nên gương mẫu cho các cặp
đôi khác sau này, kể cả cặp tả hữu cũng chỉ
là biểu tượng cho cặp đôi gốc nọ mà
thôi.
Vậy nền tảng hơn cả, đến nỗi mang tính
chất vũ trụ thì là cặp đôi Trời–Người. Ai
trên ai dưới: người hay trời? Lý đương nhiên
là trời hơn người mọi đàng, vì có đã
lâu đời hơn, mạnh mẽ vô biên. Chưa kể đến trời, mới
chỉ mấy cái lặt vặt của trời như nước, lửa, bão, băng
tuyết đã đủ tiêu diệt con người. Vì thế mọi nền
triết lý đều xây trên thiên nhiên (hoặc
địa cũng thế) để con người làm dân của trời hay của đất.
Hợp lý quá đi rồi ai mà cãi được.
Riêng có dân tả nhậm
thì khác, lại đề cao con người. Sao lại kỳ cục vậy? Người
là chi mà dám sánh với trời cùng
đất? Thưa là vì nó yếu xìu, yếu quá
chỉ bấm nhẹ ngón tay vào cò súng là
rồi đời cái thằng người yếu như bún. Vì thế
mà cần phong nó lên làm vua.
Hỏi: ích chi?
Thưa: ít nhất là nó khỏi
làm dân: dân trời hay dân đất.
Hỏi: sao mà sợ làm dân
vậy chớ?
Thưa: làm dân có nghĩa
là làm nô lệ. Đây là cái phiền
thứ nhất. Cái phiền thứ hai là dân bên
này muốn bắt dân bên kia về cùng phe:
thí dụ dân đất muốn bắt dân trời cùng về
làm dân đất. Người Việt ngoài Bắc là
dân đất muốn bắt người trong Nam làm dân đất
luôn thể. Đánh nhau chí choé hơn 20 năm nay
cũng chỉ vì có thế. Cho nên phe Tả Nhậm xin tha hết
để cho con người làm chủ lấy mình, tiết kiệm được biết
bao là xương máu.
Không chịu làm dân đất
mà cũng từ chối làm dân trời, vậy rồi tụi bay
làm dân nào?
Thưa: làm dân của nhân
ạ!
Nghĩa là chi?
Thưa: nghĩa là làm chủ,
kêu bằng Nhân chủ. Xin đừng đổ quạu vì trời đất vẫn
được nhìn nhận là vua như thường, nhưng cho người
cùng làm vua với. “Xin trời che đất chở” để cho con người
thong thả.
A! tụi này kiêu ngạo thật!
Thưa kiêu ngạo hay không chưa cần
biết. Chỉ biết đây là quan niệm duy nhất đã miễn
chết cho biết bao người theo nó, cũng như tạo được hạnh
phúc cho con người hơn bất cứ triết lý nào
xây trên trời hay trên đất. Nhưng ít được nhận
ra, vì nó là nền triết lý bị chống đối,
miệt thị nhiều nhất là do kẻ có máu chuyên
chế, luôn luôn rình chực tước đoạt, bắn giết,
nô lệ hóa con người, càng nhiều càng hay
nên ghét cay ghét độc thứ triết lý
bênh vực con người. Đại để đó là lý do tại
sao lại tả nhậm. Tả nhậm là phù yếu mà trước hết
là phù con người, vì người yếu như cây
sậy.
Thế là có thể kết luận: thứ tự
nằm trong vũ trụ cũng theo tả nhậm là âm trước dương,
thì đến thứ tự giữa trời và người cũng đặt người trước
trời. Và thứ tự này sẽ là nền móng cho
các mối liên hệ hàng ngang trong xã hội
mà ta cần bàn lướt qua.
4. Cõi nhân sinh
Trong cõi nhân sinh có
bao nhiêu mối liên hệ và mối nào ở
trên? Nếu hữu nhậm thì chỉ có một liên hệ duy
nhất xây trên sức mạnh gọi là chủ nô,
chính mối liên hệ này đã lấn át mọi
liên hệ khác đến nỗi khỏi cần đặt câu hỏi thứ hai
là câu chỉ đặt ra trong miền tả nhậm, vì nơi ấy
có nhiều mối liên hệ thường gọi là ngũ luân.
Bởi thế mới cần hỏi luân nào đặt trước? Nếu là
Hán nho theo nguyên lý hữu nhậm thì sẽ
là quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu. Nhưng
theo tả nhậm bên Việt nho thì ai cũng nhận thấy phu phụ
yếu hơn quân thần nên phải đặt liên hệ phu phụ trước.
Lại hỏi phu trước phụ chăng? Thưa rằng phụ yếu hơn phu nên đặt
phụ trước phu thành ra thứ tự ngũ luân Việt là vợ
chồng, cha con, vua tôi, anh em, bàn bè (có
nói trong Kinh Hùng). Việt nho đã dùng chữ
thê thay cho phụ vì thê bao hàm ý bằng
nhau: “phu thê Đại tướng” nên có lễ tương bái
trong nghi thức thành hôn: khi hai vợ chồng sắp
mình lạy nhau, tức nếu vợ lạy chồng thì chồng cũng lạy
vợ. Điều đó chỉ xảy ra trong xã hội tả nhậm, chứ với
xã hội hữu nhậm thì vợ chỉ là thứ tài sản
của chồng, bị đàn áp khinh bỉ đến nỗi bên Au
Châu có thời tranh luận xem đàn bà có
linh hồn chăng. Hữu nhậm nhi dĩ hĩ!
Bây giờ xét vài ba
liên hệ chưa kể vào số ngũ luân trên và
trước hết là trẻ già. Ở đây sẽ không hỏi
già hơn trẻ chăng, vì ai cũng cho già là
hơn, nhưng đó là xã giao, cần xem xã hội
có tôn trọng tuổi già hay không vì
có tôn trọng mới là nội dung của sự tôn
kính kia, nên mới kể là tuân theo tả nhậm tức
coi già hơn trẻ vì xét về yếu giữa trẻ già,
thì rõ rệt già yếu hơn, nhưng xét về phẩm
về kinh nghiệm thì già hơn nên đáng
kính hơn. Nho kêu lạ Trọng Xỉ. Xỉ đây có
nghĩa đen là răng, nghĩa bóng là tuổi già.
Tuổi già được kính trọng và biểu lộ bằng nhiều lối
mà tục ngữ tóm vào câu “kính
lão đắc thọ”. Nếu xem sơ sái thì đâu chẳng
kính tuổi già, nhưng xét thấu triệt thì sự
kính kia chỉ do lương tri mà không do triết, khi do
triết thì nó phải đi với thể chế, thí dụ
không căn cứ trên tài sản nhưng trên tuổi
tác mà được vào hội đồng kỳ mục. Vậy điều
này chỉ xảy ra trong các xã hội tả nhậm.
Còn các xã hội hữu nhậm như La Hy thì
dùng lượng số tài sản để định giai cấp cao thấp chứ chẳng
ai kể đến tuối tác.
Ngoài ra cũng còn một số
liên hệ nữa cũng có thể giải nghĩa theo tả nhậm như:
Làng nước: phép vua thua lệ
làng, vì làng yếu hơn vua.
Nhà nước: hiểu thảo trước trung
quân, vì nhà yếu hơn nước.
Dân vi quý, quân vi khinh:
cũng theo lẽ là dân yếu hơn vua.
Bà con cô bác: đặt
nổi đàn bà và cô trước bác.
Tất cả những thứ tự, vị trí đó
đều nằm trong mối liên hệ tả nhậm và hệ quả thâm
sâu của nó là duy trì được lưỡng nhất
tính như đã bàn rộng trong Việt Lý Tố
Nguyên. Bởi nhờ được đủ thứ nâng đỡ nên bên yếu
cơ thể góp mặt với bên mạnh để làm nên đối
cực cần thiết cho chữ Tương hay Lưỡng nhất tính do hai chỉ giao
thoa, tránh được nạn một chiều, là cái vừa
giáng xuống đầu người Việt.
5. Liên hệ giữa tả nhậm
và nho giáo
Đó là mối liên hệ
thâm sâu đến nỗi phải gọi là đồng tính. Để
hiểu rõ điều đó chúng ta hãy quan
sát từ tên tuổi qua nội dung đến phần số.
Trước hết tên gọi thì phải
nói ngay rằng cả hai là một: nếu tả nhậm bênh phe
Yếu, thì nho cũng phù Nhu nên chính
tên nho là Nhu, có nghĩa là yếu nhược. Cả tả
nhậm lẫn nho nói lên tôn chỉ của mình
là nhận trách nhiệm bênh vực kẻ yếu. Sở dĩ nhu cũng
là nhân vì trong tam tài thì
nhân yếu hơn cả, nên nhu đạo lấy việc bênh vực con
người làm trách nhiệm. Bởi vậy nền tảng nhu giáo
là nhân giáo, nhân theo nghĩa đạo lý
xây trên con người. Tìm cứu cánh con người
ngay nơi con người.
Nội dung cũng lại thấy nho đi theo tả nhậm
với chủ trương “dĩ nhu thắng cương, dĩ nhược thắng cường”, rồi
luôn đặt văn trên võ, tức đặt tinh thần trên
vật chất. Nhất là câu của Khổng Tử trong Trung Dung 10:
“khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo. Nam phương chi
cường dã, quân tử cư chi” thì chính
là nói đến chỗ phát xuất của đức hùng, đức
dũng dám đứng về phe yếu, phe tả nhậm và từ đấy
thì dân Việt thêm phần nhu để thành ra Việt
nho. Khổng Tử có lần ví mình với Lão
Bành là người Kinh Sở, huyền sử nói ông sinh
ra từ hông tả mẹ, có nghĩa ông thuộc văn hóa
tả nhậm. Vậy nói “quân tử cư chi” thì chính
là nói lên chỗ quân tử phải đồng quê
với, đó là tả nhậm chứ không với phe hữu. Cho
nên xét về nội dung đạo lý thì cả hai chỉ
là một: nói nho giáo hay nói tả nhậm cũng
là một nội dung. Những yếu tố coi chồng như chúa, coi vợ
như tôi rõ ràng thuộc du mục đề cao sức mạnh
đã được đưa vào sau (xem Tinh Hoa Ngũ Điển, trang 11
nhưng nếu đọc toàn sách đều nói lên
nét tả nhậm).
Bây giờ bàn tới Vận Hệ để coi
Việt Đạo và Nhu Đạo có cùng chung một dòng
máu chăng thì phải thưa ngay là có. Ta biết
rằng phù nhu là một lập trường đòi hỏi phải
có hùng tâm dũng chí cùng cực
vì đó là một lập trường gian nguy mà lại
không có ngoại viện do trời hay đất như thiên đạo
hay địa đạo, vì đây là nhân đạo là tự
lực tự cường, là “trung lập nhi bất ỷ”. Đã không
có viện trợ lại còn biết bao gian nguy rình rập
phát xuất từ phía cường cương luôn luôn
tìm cách uy hiếp những cái nhu nhược: nên ai
dám đứng ra phù nhu là dễ dàng rứơc lấy họa
vào thân. Thí dụ các chính quyền
chuyên chế bao giờ cũng muốn nhân gian khiêm nhu
ngoan nguỳ, thế mà có ngừơi dám giảng cái
đạo tự cường, tự lực, tự trọng “trung lập nhi bất ỷ”… thì
khó lòng được thiện cảm của nhà cầm quyền. Muốn
thấy điều đó ta hãy nhìn khái quát
trên dòng lịch sử Trung Quốc và chúng ta
thấy rõ mỗi lần có chính quyền từ phía
Tây Bắc quê hương củahữu nhậm tràn vào
thì nho giáo bị đàn áp. Cần ôn lại sơ
qua vì đó cũng chính la SỨ MỆNH CỦA VIỆT NHO, CỦA
TẢ NHẬM TRƯỚC HỮU NHẬM LÀ HÁN NHO.
Lần đầu tiên là khi Hoàng
Đế đánh Si Vưu. Si Vưu là tù trưởng các
dân tả nhậm nên cùng với nhu đạo là một,
còn Hoàng Đế hữu nhậm theo về thiên đạo nên
đề cao quyền quý, bởi vậy khi thắng được Si Vưu rồi thì
xảy ra hiện tượng: “dĩ cường lăng nhược” như được ghi trong sách
Trang Tử (trang 470 trưng theo bản của Wieger). Đó là lấy
hữu đè tả, lấy mạnh đè yếu, lấy quý quyền
đàn áp lê dân gọi là Cửu Lê hay
Tam Miêu cũng thế (Danses 250) trong đó có nhu sĩ.
Vì thế ma 2nhu sĩ phải trải qua bao đời chiến đấu cuối
cùng mới bước vào chỗ tôn quý “sĩ
thành quý dã” (Trang Tử tr.474). Như thế
cái quý của sĩ khôgn do dòng máu
quý tộc, mà do tranh đấu cam go, do giá trị nội
tại, tự lực tự cường mà có.
Chính vì giá trị nội tại
này mà một nhóm tả nhậm ghi được thành
tích vĩ đại ở đợt hai: đó là Dục Hùng được
mời làm thầy dạy Võ Vương nhà Chu. Nhà Chu
từ phía Tây Bắc tràn vào cướp chính
quyền nhà Thương và đã đưa lối cai trị rập
khuôn của du mục là chủ nô vào, thí dụ
quý tộc nhà Chu thì ở trong thành,
còn dân chúng thì ở vòng
ngoài. Đề cao tù trưởng tận mây: nếu ở Perse xưa
các thần dân phải bái gối cúi đầu hôn
chân vua, thì nhà Chu cũng bắt chước thế: sứ giả
đến chầu phải quỳ lạy ngoài sân, không được xem mặt
vua cũng như không đựơc nói. Thế nhưng đó chỉ
là một thứ quyền lực dựa trên sức mạnh nên sẽ bị văn
hóa tả nhậm chinh phục lần và mau lẹ, vì đến đời
Võ Vương thì đã nhận Dục Hùng làm
thầy và phong cho đất Kinh Man, nơi có tục tả nhậm, sau
này đến đời Chiến Quốc, nước Sở vẫn còn coi bên tả
là chính. Nhiều người lấy họ Tả như Tả Khâu Minh
viết truyện Xuân Thu, với tinh thần đề cao dân với
câu nói: “Đạo là trung với dân” hoặc
câu “Dân là chủ của thần”… Và đó mới
là điều chắc chắn. Còn về những chuyện gia phả của Dục
Hùng được móc nối với Chuyên Húc với
Hoàng Đế thì đã bị nhiều học giả phanh phui ra
là chuyện mạo nhận, đặt ra để dễ giao thiệp với Trung Hoa hoặc
để tôn dòng dõi của mình.
Điều chắc chắn là Võ Vương học
được với Dục Hùng bài học Tả nhậm, nên văn
hóa Phương Nam đã thắng: Khổng Tử đã ví
mình với Lão Bành, và tuyên dương đức
cường của Phương Nam ở tại “Khoan Nhu” tức xây trên tả
nhậm. Thế nhưng thắng rồi để bị chịu những đợt tấn công mới,
nên Việt nho suy sụp trong thời Chiến Quốc và nước
Tàu dần dần rời vào tay của phe hữu nhậm. Nhà
Hán tuy xuất thân từ tả nhậm của Viêm Việt nên
cũng có chỗ kêu là Viêm Hán, vì
đã nhờ thế lực của dân tả nhậm mà bước lên
chính quyền nhưng rồi thì ăn cháo đái
bát; đái thật: Hán Cao Tổ đã đái
lên mũ nho gia. Mãi sau thấy không bỏ nho được mới
cho lập thư viện Thạch Cừ để xuyên tạc nho giáo (xem Cửa
Khổng, bài 3). Nhưng rồi nho đã trỗi dậy để đến lần thứ
tư là Mông Cổ thì bị xếp hàng dưới con đĩ:
công, dĩ, sĩ, khất. Tưởng xuống đến thế là cùng,
không dè đến lần thứ năm bị cộng sản đàn áp
và kết án là cái học ăn cứt: “Khổng
Khâu nghiết phấn chi học” (tri thức thua một đống
phân).
Đến đây tôi sững sờ nhận ra
không ngờ có câu tiên tri xa đến thế. Xin nhớ
lại tả nhậm trấn Đông Nam với biểu hiệu lông vũ, còn
hữu nhậm trấn Tây Bắc với biểu hiệu lông mao. Mấy người
Tàu rứơc cộng sản vào nứơc Trung Hoa như Li Ta Chao, Trần
Độc Tứ xuất thân từ miền Bắc (Hà Bắc, Tứ Xuyên). Rồi
Mao thì dùng ngay tự danh tính là Mao,
còn nơi xuất quân là Diên An tức phía
Tây Bắc, y như Mông Cổ xưa kia, trước nữa là
nhà Chu, trên cùng là Hoàng Đế đều
phát xuất tự phía Tây Bắc. Nhiều học giả đã
ghi nhận sự giống nhau giữa tâm trạng người Nga và
tâm trạng người Tàu mạn Bắc (xem Soul of China, Amaurry de
Riencourt p.210). Rõ rệt Tây Bắc là quê hương
của hữu nhậm luôn luôn tìm cách đè bẹp
Đông Nam tả nhậm. Các cuộc nổi loạn mang tính chất
xã hội như Khăn Vàng, Xích Mi, qua Vương
Mãng, Vương An Thạch cho tới giặc Thái Bình đều
mang tính chất phò đại chúng của phía
Đông Nam.
Ở trên là mấy thí dụ mẫu,
chứng tỏ hữu nhậm luôn luôn trấn áp tả nhậm tức lấy
cương hiếp nhu, lấy cường bức nhược, nói lên quá
rõ những pha giao chiến giữa phẩmvà lượng mà cuối
cùng là giữa con người một bên và
thiên địa bên kia được đại diện bằng những chính
quyền chuyên chế, và mỗi khi phe tả nhậm thất thế
thì cũng chính là sự bại vong của con người
và nền triết lý nhân chủ bị chà đạp
giày xéo.
6. Sứ mạng của Hùng Thị
May thay trong lịch sử nhân loại
không thiếu những tâm hồn quảng đại dám đứng về phe
yếu, trong đó có họ Hùng Thị của Lạc Việt. Ngay cả
việc lấy hiệu Hùng Vương đã nói lên ý
hướng đứng về phe tả nhậm, vì muốn tả nhậm thì
hùng là đức tính cần thiết hơn hết, phải có
can trường dũng cảm phi thường mới dám đứng về phe yếu và
nhờ đó đã bảo vệ được nét Lưỡng Nhất trong văn
hóa: tức yếu vẫn còn đủ sức giao thoa với mạnh, và
vì thế đã có những tên như Dao hay Giao Chỉ
bao hàm sự giao thoa đó. Trên thế giới không
đâu có nội dung giao thoa này cả mặc dầu thiện
chí có thừa, nhưng thiện chí mới chỉ thuộc lương
tri (vòng ngoài) ít khi đủ sức gây ảnh hưởng
vào định chế, vì thế đâu đâu trên
hoàn vũ cũng thường thấy kẻ có thì cho thêm,
kẻ không có thì lấy đi chút ít phần
nó đang có. Riêng ở xứ Việt nho sớm có được
định chế: bớt của người có, bù đắp người không:
“tổn hữu du, bổ bất túc”. Tại sao lại hiếm cái điều
quân phân như vậy, là vì muốn làm được
như thế thì thiện chí không chưa đủ, mà cần
phải có một nền triết lý lưỡng nhất tính.
Mà để có lưỡng nhất tính thì phải có
tả nhậm là định chế bênh vực phe yếu để nó giao
thoa với mạnh đặng làm nên chữ Tương. Điều đó Lạc
Việt đã có ngay từ đầu lịch sử nên gọi là
Dao, Nam Giao. Huyền thoại nói Nam Giao có từ đời
Vô Hoài (nghĩa là có từ lúc
nào không ai nhớ nữa: immemorial) chỉ biết thuộc
dòng dõi Thần Nông, tức chỉ có tinh thần
nông nghiệp mới đề cao tả nhậm, và do đó phe yếu
mới được nâng đỡ và tồn tại. Như thế là nét
đặc trưng nọ có ngay từ đầu và được bảo trì cho
đến ngày nay, thì mới bị tràn ngập bởi văn
hóa Thái Tây chói chang huy hoàng,
nên hầu hết con cháu Giao Chỉ thần phục chạy theo
và cả một nửa nước không những đi theo phe hữu nhậm nhưng
còn dùng võ lực để chinh phục nốt miền Nam nơi con
giữ được chút tả nhậm, khiến cho biết bao người Việt Nam
đâm ra chán nản trứơc sứ mạng phù yếu của
mình, vì thấy sức mạnh bên kia quá lớn lao.
Tuy nhiên cần phải suy nghĩ lại. Nếu chúng ta mà
chủ bại, thì chính văn hóa tả nhậm chủ bại. Điều
đó không chỉ có nghĩa là văn hóa
Đông nam thua văn hóa Tây Bắc, mà
chính là sự trầm diệt của con người.
Riêng với nước nhà thì
đó là một chấm hết dòng lịch sử tranh đấu cho con
người đã kéo dài từ năm ngàn năm rồi
và sao đó khó còn có thể tìm
ra người dẫn đầu trận tuyến tả nhậm. Bên các phe tự do
thì thiện chí có thừa, nhưng thiếu triết
lý. Và nếu có ngày gặp may, nảy nòi
ra một triết gia tả nhậm thì cũng bị lấn át do bao tiếng
om sòm của cảnh cá đối bằng đầu không sao trổi
lên được. Vì thế đối những người lúc này
còn nghi nan chưa quyết đứng về phe tả nhậm tôi xin tặng
câu truyện cổ sau (rút từ Vân Đài Loại
Ngữ):
“Xưa có người tên là Dư
Bất Đình ở Ngô Hưng thấy có người đang nhốt con
rùa trong cái giỏ bên đường liền mua rồi thả xuống
khe. Sau Dư làm việc có công, Vua phong làm
Dư Bất Đình Hầu. Dư đúc ấn mà hình con
rùa nơi mũi ấn cứ nghiêng về phía tả, phải
đúc lại lần nữa, cho đến lần thứ ba cũng quay bên tả như
trước. Du liền giác ngộ dùng ngay ấn đó mà
không đúc lại nữa.”
Tôi kể lại câu chuyện này
vì nó mang một sứ điệp gửi đến cho chúng ta,
miêu duệ của dòng tả nhậm rằng không nên đổi
hướng đi mà cần kiên trì bảo vệ kẻ yếu, bảo vệ con
người chống lại những thế lực phi nhân. Là vì con
người vẫn còn đó, càng ngày càng cần
được bảo vệ hơn bao giờ hết.
VII. NÉT CONG
DUYÊN DÁNG CỦA VIỆT TỘC
Năm 1976 UNESCO tổ chức tại Thái Lan
một cuộc hội thảo về khảo cổ miền Đông Nam Á. Trong những
vấn đề đưa ra có khoản bàn về những dáng
hình và mô típ được tạo nên trong quan
hệ với ý nghĩa nghệ thuật của người chế tác di vật với
câu hỏi đâu là nét đặc trưng của Đông
Nam Á?
Hội nghị chủ trương năm điểm, trong đó
hai điểm liên hệ tới nước ta. Một làkhuyến nghị nên
hợp sức với Hội Đồng Quốc Tế triết học và khoa học xã hội
để thành lập một nhóm các nhà khảo cổ của
Đông Á và Đông Nam Á. Hai là
xin UNESCO lập viện khảo cổ chung cho Đông Á và
Đông Nam Á.
Vào lối 1978-1979 tôi có
đọc trong báo Times một bài của học giả nào
đó đang làm việc trong văn hóa Liên Hiệp
Quốc còn nói lại vụ này, tiếc rằng trong cảnh tị
nạn tài liệu tản mát hết chẳng còn biết
ngày tháng tên tuổi liên hệ tới các
điều ghi trên đây. Nhưng về ý chính và
mục tiêu nêu lên thì đại khái là
nhấn mạnh sự cần thiết phải có triết tham dự vì giả sử
có lập được viện khảo cổ theo đề nghị cũng khó đạt được
kết quả mong muốn, nếu thiếu sự tham dự của ngành triết nhất
là triết Việt nho, vì sự khám phá chỉ sẽ
hạn cục vào đợt mỹ thuật, thí dụ về kiểu cách,
dáng điệu, các loại hoa văn cùng là
niên đại của hiện vật hoặc những liên hệ với các
ngành văn hóa khác…
Bấy nhiêu điều tuy rất thú vị
và cần thiết nhưng chưa vượt khỏi biên cương của những
cái hữu hình để thấu vào hồn linh văn hóa,
chưa nói lên được tại sao nét nọ kia là đặc
trưng của miền ấy? Nếu thưa tại họ yêu thích như vậy
thì xin hỏi tại sao lại yêu thích như thế?
Thí dụ tại sao Tàu ưa thích hồi văn, tại sao
các nét cong của Tàu nhỏ hơn nét cong của
Việt. Tại sao trên các kiến trúc của Chăm có
nhiều đường cong trên cửa sổ hơn bên Angkor Vat. Tại sao
những đường nét của Việt lại bé nhỏ thanh thoát.
Và nếu tinh tế thêm một độ thì sẽ đặt câu hỏi
những nét thanh tú kia cũng như nét cong nọ
có là những nét quan trọng hơn hết của Việt tộc
chăng? Nếu có thì tại sao? Đó là những
câu hỏi thoạt xem coi như lẩn thẩn do những người vô
công rỗi nghệ nặn trán đặt ra chứ thường tình chẳng
ai nghĩ tới. Cái đó đúng: văn hóa bao giờ
cũng phải có giờ rảnh rang. Nhưng giả sử có giờ rảnh rang
liệu có đặt những câu hỏi trên chăng. Và nếu
có đặt ra được, liệu có trả lời nổi chăng, nhất là
khi không thấy ơn ích đâu cả.
Nhưng nếu bạn tìm về nguồn gốc
dân tộc, đang tìm đâu là nét đặc trưng
của Việt Nam để thành lập quốc học thì sẽ thấy đó
là những câu hỏi quan trọng ít ra ở chỗ
chúng có thể cung ứng chứng từ cho các lời quyết
đoán rằng Việt Nam có bốn ngàn năm văn hiến.
Chính trong chiều hường đó mà hôm nay
tôi bàn về nét cong và quyết rằng nét
cong và thanh tú chính là những nét
đặc trưng hơn hết của Việt nho, và đó là
nét quý hóa vô biên: chính
vì thiếu nó mà triết học Tây Au đã sa
vào những lỗi lầm chí tử khiến 25 thế kỷ triết học
đã qua đi hầu như vô ích, phải làm lại
toàn triệt.
Ngược lại vì có được nét
cong nọ mà triết Việt Nho còn đang được nhân loại
đặc biệt chú ý cho mãi tới nay vì nó
tiêu biểu cho một đức tính, một khả năng là
đã móc nối vào được với nền minh triết, tức
đã gây đựơc nhiều hạnh phúc cho con người trong
những điều kiện kinh tế hết sức eo hẹp. Tinh hoa minh triết nằm trong
hai chữ uyển chuyển mà Nho kêu là quyền biến hoặc
vắn tắt là quyền được đặt trên cùng, sau ba bước:
1/ học, 2/ hành, 3/ lập, 4/ quyền. Bước một là Học
đã ít người bứơc vào nổi. Thế mà đến bước
hai là Hành còn ít nữa. Thế rồi hành
lung tung thì nhiều, chứ hành có lập trường
thì hiếm, thế mà trong số hiếm hoi đó lâu
lâu mới nảy ra đựơc một hai người đạt được bứơc Quyền. Quyền
là chi mà lại họa hiếm và được tôn
quý như thế? Thưa đó là biểu hiệu của sự
hòa hợp cùng tột, là hậu quả cua sự đúc lại
hai hình vuông cộng với hình tròn xoe được
nghệ thuật biểu thị bằng nét cong.
Xin nhắc lại trong bài Đúc
Người tôi đã bàn đến sự quan trọng của việc
đúc: đúc trống, đúc gươm, đúc đỉnh… với
ý nghĩa sâu xa là đúc người. Người là
chi mà phải đúc? Thưa Người là sự giao hội của hai
nét đất trời, nói theo cơ cấu là tròn
vuông hay ngang dọc. Ai cũng thấy ngay đó là việc
diệu vợi đúc sao được, vì là hai dạng thức
khác nhau: đã tròn thì thôi
vuông, đã 4 góc thì thôi tròn.
Đúng lắm, vậy mà tất cả đạo làm người lại nằm
trong chỗ đúc đó, nếu đúc sai thì
không ra người. Nói khác Người là vật lưỡng
thê: vừa có hình thể thù lù có
góc cạnh, nhưng đồng thời lại có tinh thần bao la
không mốc giới. Biết sống là biết pha hai thứ trái
chiều kia cho đúng liều lượng. Liều lượng nói bao la trừu
tượng là 2-3 nôm na nói là “vài ba”.
Kinh Dịch nói là “tham luỡng” hay nói rộng
là “tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số”. Xin nói ngy đạo
làm người trở nên hiếm hoi, các triết đã
thất bại trong việc đúc này.
Hình 5 BIS: NÉT CONG
Khánh ở Huế tượng trưng cho nét
cong Việt
Thường thì các triết gia chỉ
mải bàn về những chuyện trời đất cho đó là cao cả,
mà cao cả thật cao như trời, rộng như đất. Vậy mà lại
là những vấn đề tương đối dễ: vì chúng chỉ
có một chiều: đã cao là cao, đã thấp
là thấp, đã vật là duy vật, đã tâm
là duy tâm, tha hồ mà múa bút chứ
nói đến chuyện vuông mà lại tròn, có
mà lại như không, không mà lại như có…
thì đành xếp bút. Thế là triết lý
trật đường. Nếu đi đúng nẻo thì phải bàn về con
người, về cứu cánh, về hạnh phúc con người, hết mọi con
người. Bởi vì con người là thành tích
chói chang hơn hết của trời đất gặp nhau, giao hội. Việt Nam
kêu là giao chỉ, là chỉ trời chỉ đất giao thoa,
khoa vi thể nay kêu là thời không liên tục
(time-space continuum). Thực ra muôn vật đều là công
hiệu của thời không giao hội, của đất trời gặp gỡ, nhưng nơi con
người là một tác nhân, một “tạo hóa” tức
cái gì cũng phải làm lấy. Sự pha độ này
được hiện thực trong cụ thể bằng chữ quyền, bằng sự uyển chuyển giữa
hai bờ đối cực được biểu thị bằng tròn vuông. Sự thống
nhất tròn vuông với nhau được biểu thị bằng nét
cong lượn. Cho nên nét cong lượn là hình vẽ
của chữ quyền, là sản phẩm của lò tạo hóa, của
thời không, của trời đất giao chỉ.
Phải nhận thức sâu sắc về nền
móng vạn vật và con người như hai chỉ trời đất giao thoa
mới nhận ra đựơc giá trị của vật biểu tiên rồng đi
đôi, hoặc tiến thêm một bước nữa là bánh trời
bánh đất (bánh dầy tròn chỉ số 3 (số pi),
bánh vuông chỉ 4 phương đất). Đấy là biểu tượng
mà nội dung hay hệ quả là văn hóa Việt toàn
nói về con người, về những gì liên quan tới con
người: ăn làm, yêu thương, giao tế, buồn vui, hạnh
phúc… chứ không có bàn về sự hữu, về sự hư
vô như trong triết lý Au An xưa kia. Trong các điều
liên quan đến con người thì có một khoản được đặc
biệt chú ý đó là tình duyên.
Mở bất cứ quyền ca dao nào cũng thấy liền đó là
những câu tình duyên, yêu thương, gửi gắm
ngày cũng như đêm:
Đêm qua và bốn lần mơ
Chiêm bao thì thấy dậy rờ
thì không.
Chi vậy? Thưa là sốt sắng tích
cực trong việc đúc đó. Đúc chi? Thưa là
đúc người, nó sẽ mở đầu cho hết các cuộc
đúc khác, mà tổng quát hơn hết là
trời đất, Kinh Dịch kêu bằng hai danh từ nặng về tác động
là “kiền khôn”. Kiền khôn là nói cụ
thể hơn về hai cột cái của cổng chào mà quan
khách nào cũng như muôn vật đều phải đi qua:
“âm dương tương thôi nhi sinh biến hóa”. Thế rồi bỏ
kinh sách để quay ra nhìn vào những điều quan
trọng ta cũng thấy hai đàng đi đôi: như đền tế Thiên
thì nền phải vuông, mái phải tròn. Xe vua đi
thì thùng (xe) cuông, mui tròn. Người
quân tử phải đi giầy vuông đội mũ tròn…
Trên đây dầu sao mới là
những hình ảnh tuy rõ ràng nhưng còn đang ở
thế sửa soạn đúc mà chưa đúc thực sự, nên
tròn còn là tròn, vuông còn
là vuông. Khi đúc rồi thì hậu quả phải
là một hình thái mới. Vậy hình thái
đó là chi?
Thưa là nét cong
đó.
Như vậy cong là một hình thức
xuất hiện do sự đúc tròn với vuông vào một,
vì thề trong cổ nghệ Việt người ta thường gặp những đường cong
lớn bao trùm hiện vật nên suy đoán ra được
đó là sự nhập thể lẫm liệt của nền triết lý
thái hòa tức hòa trời cùng đất: hòa
tròn với vuông mà trở nên nhu nhuyễn (Trung
Quốc dùng hai tiếng đó để dịch chữ mandala cũng có
tròn vuông).
Vậy mà nét cong lớn lao nọ lại
là của Việt tộc. Câu này rất lơ mơ nên cần
phải minh chứng, vì khi đi vào nghệ thuật thì
đâu cũng có nét cong hết chứ có riêng
gì Việt tộc đâu. Nhưng nếu nhìn kỹ thì những
nét cong kia là hậu quả của óc thẩm mỹ mà
không là hệ quả của triết. Cả hai đều do trực giác
lành mạnh, nhưng ở nghệ thuật thì nó bàng
bạc, còn ở triết thì nó trở nên ý
thức nên đi vào nền tảng và xuất hiện cả vào
những cái khó làm. Rõ rệt hơn hết là
mái nhà cong.
Hình 5 TER: NHÀ CONG
NHÀ NGỌC LỮ: chi tiết thuyền cong
(trống Ngọc Lữ)
NHÀ HOÀNG HẠ
NHÀ QUẢNG XƯƠNG
Đó là nét cong lớn
và khó hiện thực, nhất là khi nhà
làm bằng tre, vậy mà vẫn cố làm cho mái
nhà uốn lên, cho dao đầu cong vắt thì không
còn là nét cong cầu âu, nhưng là một
sự tính toán, một sự tìm cầu, để gửi gắm một
ý nghĩ nào đó mà theo bầu môi sinh
tinh thần thì đó phải là ý nghĩa của trời
đất giao hội.
Thuyền cong trong Hoàng Hạ.
Chi tiết đầu thuyền cong (trống Ngọc
Lữ)
Ngoài mái nhà thì
đến thuyền cong, đó cũng là nét cong lớn bao
trùm toàn thể sự vật. Sau đến các phủ việt
thì lưỡi đều cong, vì đó là đồ dùng
trong những việc tế tự, tức là rất trọng đại linh thiêng.
Khi róc xác ông Cổn người ta dùng dao
Côn Ngô, có chỗ nói Câu Ngô để
chỉ sự cong. Chúng ta rất có lý để suy đoán
rằng những lưỡi rìu xoè (cong lượn) gặp được ở Đông
Sơn làm nên nét đặc trưng của nó có
liên hệ với những giao cong này, nếu không phải
là chính nó gọi là phủ việt, vì
nó hàm ngụ số 2-3, 2 giao long giao tay, 3 người (hoặc
vật) ở dưới.
Hình 6 BIS: LƯỠI RÌU XOÈ
Ở ĐÔNG SƠN
Lưỡi rìu xoè ở Đông Sơn,
trên 2 giao long giao tay, dưới hình 3 người hoặc 3 con
thú.
Khi bắn con cú người ta cũng
dùng tên cong. Vì cú là chim bất hiếu
ăn thịt mẹ, nên ý sâu xa là giống chống con
người cần phải diệt nó bằng vũ khí đã mang đậm
tính người là tên cong. Đọc những truyện như vậy ta
thấy liền sự vô lý vì tên cong bắn sao được.
Còn rót thịt thì dao nào đâu
có quan trọng. Vậy mà đây lại quan trọng hóa
bằng gọi tên dao là Côn Ngô vì
hình dáng dao là Câu Ngô tức là
cong, thì ta biết nó hàm ngụ một cái
gì đó. Y như làm thẳng bớt tốn công hơn
nhiều, vậy tại sao lại làm mái cong, cong đầu dao,
thì phải hiểu tiền nhân muốn gởi gắm vào đó
một ý nghĩa nào đây. Nếu ta lấy toàn khối
văn hóa làm chân trời để có tiêu điểm
thì sẽ quy định được đó là hậu quả của việc
đúc tròn vào vuông: tròn vuông
nằm trong thể lưỡng hợp mà trong nghệ thuật là nét
cong lượn, tức là hậu quả cuộc linh phối giữa những gì
có cùng với cái vô biên tức giữa những
phương tiện có chất thể chỉ bằng những hình có
góc cạnh với hồn linh biểu thị bằng cái không
có góc cạnh tức là tròn. Vì
tròn nên dễ động cũng như không hiện hình,
không thể xem thấy nên là linh thiêng. Những
đặc tính đó (năng động và vô hình)
chỉ trỏ cái gì linh thiêng và khi nó
nhuần thấm xác thể (chỉ bằng vuông) thì làm
cho xác thể trở nên nhẹ nhàng và linh
thiêng hơn (tiêu biểu bằng sự làm cùn những
góc cạnh) kết quả là hình cong lượn mà
tiêu biểu lớn lao là đường cong giữa âm và
dương trong thái cực viên đồ.
Đó là thứ vẽ lại “quá
trình” hình thành của nét cong lượn. Vậy
đó là nét đặc trưng của nghệ thuật Đông Nam
Á. Ong Laurence Binyon nhận xét “khi tiến về phía
Tây ta thấy khuynh hướng đặt nặng trên cái gì
đặc, chắc, vững. Còn tiến sang Tàu và Đông
Nam Á thì khuynh hướng đặt trên sự trôi chảy,
lượn sóng, nhẹ như không khí (the spirit of man in
asian asrt, Dover N.Y 1963, p.82). Chỗ khác ông nhận
xét sự nổi vượt của họa Đông Á là hoà
hợp với thiên nhiên và đầy năng động tính như
không muốn ở lại trần gian (Id p.27). Đó là
nét đặc trưng của văn hóa Đông Nam Á
mà Việt Nam là thủ chỉ. Vậy là đã đủ bằng
chứng cũng như nền tảng để kết luận rằng nét cong lớn là
của Việt tộc, hay nói là của Việt nho cũng được; nhưng
phía Tàu vì chứa nhiều chất du mục, nên
nét cong thường xuất hiện nhỏ, bằng những đường tỉa tót,
không hẳn vươn lên địa vị chủ đạo như bên Việt.
Nhìn vào khảo cổ ta nhận thấy
điều này: chỉ đến những trống đồng muộn về sau mới dùng
hồi vãn cùng nhiều đồ án hình học gẫy
khúc, còn trước thì chuyên dùng những
đường cong lớn: ngay từ thời Phùng Nguyên phong
cách diễn đạt đã tỏ ra ưa dùng những đường cong
lớn lao lấy hiện vật, hoặc những hoa tiết tạo nên bằng những
đường cong hầu như không mấy khi kết thành hàng
dọc. Các nồi niêu phần lớn phình bụng mà
đáy tròn có thể nằm trong liên hệ
này.
Đến giai đoạn Đông Sơn là giai
đoạn có thể coi như đỉnh cao chót vót thì
thấy các đường cong lớn tập hợp lại và chạy quanh mặt
trống, thân trống, và nhất là thuyền cong cả con
chứ không phải từng phần nhỏ. Rồi tới mái nhà cong,
cong ngay từ lúc Tàu chưa có mái nhà
cong thì ở Việt tộc đã cong rồi. Cái đình
xưa (dân Bana kêu là rong) bao giờ cũng có
dao đầu cong vút. Những hình người múa trong thể
nhún nhẩy đó là một thứ cong sinh động. Sau
này ta thấy hài các bà đi cũng cong
mũi.
Đây là chỗ tiện để nhận
xét về sự liên hệ giữa nét cong với nguyên
lý mẹ. Nơi nào có đường cong lớn là dấu
còn nhiều nguyên lý mẹ được coi như hồn
thiêng để tẩm nhuận những cái quá gẫy khúc
đến trở nên bớt gay gắt. Các bà ưa nét cong,
cũng như thân hình có nhiều đường cong hơn.
Đó là dấu chỉ linh hồn các bà có sức
thẩm thấu xác thân hơn. Nói đàn ông
thiên về vuông nhiều nên thua các bà về
sự cân đối và hòa hợp (là nền của sự đẹp).
Văn hóa Việt tộc giàu nguyên lý mẹ nên
ưa nét cong. Đây là chỗ cần bàn đến luật
Giao chỉ theo đó đàn ông trong là dương
nhưng ngoài lại là âm, nên có
dáng dấp vuông gẫy góc, còn đàn
bà trong là âm nhưng ngoài lại là
dương nên giàu nét cong lượn, đẹp hơn đàn
ông. Luật này được biểu lộ trong hình Phục Hy Nữ Oa
trong thế giao thoa thì ông lại cầm cái củ
(vuông) bà cầm cái quy (tròn).
Thoạt coi tưởng là sai vì Phục
Hy là dương tượng trời lã ra phải cầm cái quy
tròn, để cái củ vuông cho bà (âm) chứ.
Đó là ta quên luật Giao chỉ. Đàn ông
mê đàn bà (hoặc ngược lại) vì chỗ quên
này: thấy đàn bà đầy dương nên mê như
điếu đổ. Chả là đàn ông cốt dương nhưng sơn bằng
âm, nên lòng mê dương, thấy các
bà tráng men dương nên mê nhưng đem về cọ
xát quá mạnh làm bong hết men dương, trật lại
còn có âm, mới chán thấy mồ. Muốn
tránh tai họa nọ cần phải luyện đúc để lúc hết nạc
vạc đến xương thì xương không còn là
âm nữa mà là âm đức cũng gọi là
cái nết: có sức đánh chết cái đẹp.
Nhà uyên tâm Karl Jung đã hé
nhìn ra luật Giao chỉ này khi tuyên bố linh hồn
đàn bà có giống đực (gọi là animus)
còn linh hồn đàn ông có giống cái
(anima). Ong dùng hai chữ anima animus là hồn này
vì tiếng Au Tây thiếu từ nên phải dùng chữ
hồn, chính ra không phải là hồn mà là
vía: vía đàn ông giống cái (anima),
vía đàn bà là dương giống đực
(animus).
Nếu ta chỉ dương bằng linh hồn, còn
âm bằng thể xác thì linh hồn đàn bà
xuất lộ nhiều hơnnơi thể xác (tinh anh phát tiết ra
ngoài). Theo triết gia Ortega Y Gasset thì chính
đàn bà đã thiết lập ra nền văn hóa hướng
vào việc chăm sóc xác thân: khởi đầu
là sự trang sức thân hình, kế tới là sự sạch
sẽ, tăng thêm bằng tinh chất của hoa hương, rồi kết hậu bằng
phép lịch sự với những động ứng và điệu bộ vi tế.
Chính cái xác thân đựơc tẩm nhuyễn đậm chất
linh hồn nọ là nền tảng làm nên sự duyên
dáng cũng như giàu sức lôi cuốn đối với đàn
ông. Người ta nhận ra rằng những họa đồ hình học là
dấu chỉ đã đi vào lý trí, thiên trọng
về đàn ông rất nhiều, tức là yếu tố dẫn vào
văn minh thành thị, có óc du mục chuyên chế,
vì thế những nghệ thuật ưa đồ án hình học
kéo dài và gẫy khúc thường đi với chế độ
chuyên chế và thành thị y như hình
vuông vậy: nó nói lên cái chi
gãy gọn, thiếu sự uyển chuyển duyên dáng. Văn minh
đực rựa của du mục ưa lý luận tranh biện.
Văn hóa Đông Á ưa nghệ
thuật (thay vì logic thì học Kinh Thi) đề cao lễ nhượng,
coi tục lệ hơn cả luật tắc. Một trong những lý do Mạnh Tử bị coi
kém hơn Khổng Tử vì tính ông “khuê
giác” (bắt góc, ưa bẻ bác) tức ít
nguyên lý mẹ hơn Khổng Tử. Rất đáng hện nhóm
vẽ mẫu nào đó gần đây chịu ảnh hưởng của mini jupe
cứng cỏi đã cắt ngắn cái áo dài của
các bà các cô Việt Nam, coi nó cũn
cỡn thế nào ấy, mất đi biết bao làn sóng kiều diễm
linh độngcủa cái áo dài xưa lúc chưa bị ảnh
hưởng cái váy ngắn của Au Mỹ.
Hình 7: THƯỚT THA
Ao dài cụt ngủn làm sao tạo
được nét cong tha thướt diễm ảo này?
Ơ chỗ này ta có thể nhận
xét mấy tiêu biểu của Việt có phần thâm thiết
hơn của Nho: đó là áp dụng vuông tròn
vào việc ăn như bánh dầy bánh chưng. Điều
này hàm ngụ hai ý nghĩa: thứ nhất việc đúc
tuy nói về sự vật mà chính ra là nói
về người. Người phải làm thế nào để cho hai chữ trời đất
giao thoa nơi mình đúng liều lượng Giao chỉ (3-2) mới
thực là con người chân nhân.
Thứ đến sự đúc biểu thị bằng sự ăn, sự
tiêu hóa, tức vuông tròn phải được tiêu
hóa biến thể mới làm ra nét thưa ba. Vì vậy
ngoài bánh dầy bánh chưng thì còn
có truyện Trầu Không nói lên sự đúc
một cách sinh động: cây cau chỉ trời, đá vôi
chỉ đất, cây trầu quấn lấy cả hai, vậy đã là nối
kết, nay lại được người nhai ra hòa lại, hóa nên
một thực thể mới là màu đỏ tươi như máu, ý
nghĩa của sự đúc thâm thiết biết bao. Cho nên
tiên tổ đã dùng miếng trầu làm đầu câu
truyện đúc ra con người. Thật là chí lý.
Đến đây ta có thể đưa ra hai nhận xét một
riêng một chung. Riênglà giữa Việt với Nho
thì ta thấy Việt đi sâu hơn như vừa nhận xét về
việc ăn, uống, ở. Vì vậy mà ta thấy Việt ưa những hoa văn
có đường cong lớn, cũng như hiện thực mái nhà
cong, thuyền cong trước người Tàu. Tàu cũng ưa đường cong
nhưng như đã nói thường là đường cong nhỏ
bé. Về nhà trong Kinh Lễ có câu (608)
“phá ngung nhi ngõa hợp: phá góc để
hòa hợp như ngói” (lợp nhà). Chưa hiểu tác
giả câu nói muốn ám chỉ hình tượng
nào, nhưng cứ xem chung thì đoán được đó
là những sự hợp nhỏ bé y như một mái nhà
gồm rất nhiều ngói vậy. Việt làm cong cả một mái
nhà còn Tàu chỉ hòa hợp nhiều ngói
trong mái nhà. Đó là nhận xét
riêng.
Còn nhận xét chung là
đường cong không chỉ do lương tri hay khiếu thẩm mỹ, mà
chính là biểu tượng của một nền triết lý
thái hòa giữa tròn vuông, một nền triết
hàm hồ thượng thặng. Lúc trước khi Đông Tây
mới tiếp cận nhau thì Tây Au đã đánh
giá rất lầm khi muốn kéo văn hóa Việt Nho
vào một duy nào đó. Thí dụ bảo Việt Nho
là vô thần, phe khác cho là hữu thần. Sự
thực thì Việt Nho không hữu không vô,
mà thuộc loại cong tức là tham dự vào cả hai, cả
có lẫn không.
Không mà lại
có.
Hữu nhược vô, thực nhược hư.
Bảo Việt Nho là duy nào cũng
sai: không duy tâm cũng không duy vật nhưng trong vật
có tâm, trong tâm có vật, “âm trung hữu
dương căn, dương trung hữu âm căn”. Đó là triết
hòa trời với đất, hòa vuông với tròn, gọi
kiểu khác là giao chỉ: hai chỉ trời đất giao nhau. Ap
dụng vào thực tế đó là triết lý ưa chuộng
hòa giải, lấy chín bỏ làm mười, tránh tuyệt
đối hóa, tránh quan trọng hóa quá
đáng một sự kiện, một biến cố, coi mọi sự trong thể biến động,
nay còn mai mất, nên tránh lối sống khắc nghị, giữ
tâm hồn thanh thản, tránh những lo âu phiền muộn:
được thua cũng chỉ coi là gặp thời hay thất thời, tránh
xa giai cấp, càng tránh xa hơn nữa giai cấp đấu tranh,
thay vào là lễ nhượng kính tôn: lấy
cách sống như chơi làm lý tưởng, uyển chuyển trong
thái độ, uyển chuyển trong tâm hồn. Đây cũng
là lý do tại sao tiền nhân ưa thơ, vì thơ
là lôi nói làm cho sự vật mất góc
cạnh, trở nên chập chờn, biến thực ra mộng, mộng ra thực:
âm u dạt dào như những bức tranh thuỷ mạc diễn tả
cùngmột tâm trạng: sự vật đã không có
góc cạnh lại còn thường phủ lên bằng đám
mây cong lượn. Tranh ấy cũng như óc sính thơ đều
nằm trong ảnh hưởng của nét cong giao chỉ nọ.
Xin thêm ít lời về sự thanh
thoát: những đường chỉ nhỏ nét chạy dài có
khi vòng bao cả sự vật là do luật tả nhậm hay luật
chí trung hòa. Càng vào thì
càng nhỏ, nhưng sức bao quát lại càng to. Cho
nên nét thanh thoát là hệ luận của
nét cong, nét cong thành bởi sự cong tròn
nuốt nét vuông mà thành cong lượn. Muốn nuốt
được nét vuông thì nét cong tròn phải
đi vào, phải nhỏ lại… tức hiện thực nguyên lý
có chí trung thì mới chí hòa.
Và đó cũng là con đường để hiện thực được
nét cong lượn cũng như nét thanh tú cách
đúng tinh thần.
Nhân loại đang đi tìm một triết
lý thái hòa nghĩa là không
tròn không vuông để có thể hòa đựơc
tinh thần với vật chất, đông với tây, đạo học với khoa học…
và hiện chưa tìm ra. Vậy xin giới thiệu cho tới nay mới
có Việt nho là loại triết lý thứ ba đó,
nó không hữu vi mà cũng chẳng vô vi, nhưng
là an vi với đường cong bao la như vũ trụ: bao trùm lấy
mọi cái góc cạnh. Đó là nền triết cần thiết
cho thời đại mới khi chân trời của mọi tri thức đều mở rộng. Nhớ
lại thuyết tương đối đã minh chứng sự vô dụng của
toán học hình học cũ trong cái vũ trụ quan mở rộng
này, chỉ vì nó thiếu nét cong bao la: theo
hình học cũ thì hai đường chạy song song chẳng bao giờ
gặp nhau. Đó là nói nhỏ chứ nói to ra vũ
trụ hay chỉ trên địa cầu, hai chỉ cùng chạy lên bắc
cực thì sức mấy mà không gặp nhau. Cũng vậy triết
học cổ điển Tây Au xây trên những ý niệm sự
vật bé nhỏ không thể hòa hợp nhưng nếu đặt
nó vào cái vòng bao la vũ trụ thì
chúng sẽ hòa hợp được hết, nghĩa là chúng
được chứa đựng trong cái vòng thái hòa,
cũng gọi là vũ trụ chi tâm.
Chính vì thế, nên triết
Việt nho nhằm lấy tâm vũ trụ làm lý tưởng tâm
hồn, tâm hồn phải mở ra bao la như vũ trụ để có thể
nói ‘ngô tâm thiện thị vũ trụ’ thì sẽ
nói được “vũ trụ nội mạc phi phản sự” trong vũ trụ không
việc gì không phải là nghĩa vụ của tôi. Cho
nên nói được nét cong Việt tộc có thể
dùng làm tiêu biểu cho việc kiến tạo nền triết
hòahợp mà nhân loại đang mong tìm.
VIII. HIỆT CỦ HAY
LÀ LỐI XỬ THẾ CỦA NGƯỜI XƯA
Hiệt Củ:
hai
chữ lấy trong sách Đại học, có nghĩa là
dùng tâm mà đo người khác. Chữ “Hiệt” viết
như chữ Khiết (cùng chữ mà âm khác)
có nghĩa là tâm trong sạch lọc khỏi những ý
niệm bái vật, lấy cái tâm đó mà đo
người thì cũng như nói yêu người bằng mình,
nhưng hai chữ hiệt củ có hơi hưởng cơ cấu (do chữ đo đạc) nghĩa
như sau: ý đó cũng được diễn tả trong câu
sau:
“Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”. Điều
mình không muốn ai làm cho mình thì
đừng làm cho ai.
Trên đây là một câu
nói lên đạo xử thế rất phổ thông, nhưng thường được
coi như của riêng Việt nho vì có tên
là hiệt củ với lối trình bày gọn ghẽ và
nhất là tiêu cực của nó.
Tuy nhiên đến nay thì nó
cùng với Việt nho đã trở nên lu mờ, nhiều người
không còn dám động tới, hơn thế nữa nhà
“cách mạng” vĩ đại của Tàu là Mao Trạch Đông
đã đưa ra nguyên lý ngược lại là “điều
mình không muốn ai làm cho mình thì
hãy làm cho người khác”. Nhắc đến Mao chẳng qua
vì Mao đã nhại câu cách ngôn
trên, chứ có cộng sản nào mà không thi
hành như vậy đâu. Tệ hơn nữa trên thế giới
ngoài cộng sản, còn biết bao người cũng thi hành
theo đó, nếu không vì vô tình
thì ít ra vì không có tiêu
chuẩn nào khác hướng dẫn, và rồi thấy làm
như vậy cũng chẳng sao. Nói khác bất kể tới tiêu
chuẩn hiệt củ mà rồi thấy đời cũng xuôi: cũng tiền
tài sanh vọng đầy đủ. Cần chi phải hiệt củ, hay nói chung
thì chẳng còn mấy ai thấy tiêu chuẩn hiệt củ
là quan trọng. Vì thế bài này sẽ bàn
đến điểm đó.
Chúng ta đã bàn luận nơi
khác về mục tiêu cuộc sống này là phải sống
sao cho no tròn, sao cho phát triển hết mọi khả năng
có thể được, cũng như đáp ứng được những nhu yếu, những
khát vọng sâu thẳm nhất của con người, và khi đạt
được thì dấu hiệu là sung sướng, an vui, nói gọn
là hạnh phúc. Hạnh phúc cao hay thấp là
phát triển được nhiều hay ít khả năng, đáp ứng
được nhiều hay ít nhu yếu cao thấp. Như vậy kết luận được rằng
cứu cánh cuộc đời này là đạt hạnh phúc, y
như khi ta trồng một cụm hoa hay một cây trái ta mong cho
cây ra nhiều hoa trái hết cỡ có thể vậy. Hóa
công với con người cũng thế, nên đã là người
thì phải là người hết cỡ, mà dấu hiệu là
được hạnh phúc, cho nên ta chắc tâm rằng hạnh
phúc là một tiêu chuẩn giá trị: nói
rộng ra là cái gì làm cho ta vui
thích, giúp ta có cuộc đời thoải mái
thì đấylà điều hợp cho tiêu chuẩn trên,
nói kiểu thông thường đó là điều phải lẽ,
hợp đạo: khi ta cư xử với lân nhân mà ít nhất
là không làm cho lân nhân bị khó
chịu thì đấy là bước đầu tiên. Ta không vặn
ti vi ồn ào làm phá vỡ bầu khí an tịnh của
lân nhân, không hội họp ăn nói bô
bô mãi tới muộn giờ làm ngăn trở việc ngủ
nghê của lân nhân thế là “đúng
đạo”.
Đừng ngại hạ chữ đạo xuống đến những
phép lịch sự như vậy: vì đạo cũng như đời sống làm
nên bởi những cái nho nhỏ như vậy đó: cái
sẩy làm nảy cai ung. Biết bao cuộc hạnh phúc tan vỡ, bao
cuộc đời khổ luỵ truy căn ra cũng chỉ vì những cái nhỏ
mọn làm nên. Vậy không làm cho ai khó
chịu phải là bước đầu tiên, có giữ được mới
không vô tình làm sứt mẻ hạnh phúc của
tha nhân.
Bứơc thứ hai tích cực hơn liên
hệ tới những người bó buộc ta phải có sự tiếp xúc
cụ thể hơn, như thân nhân hay lân nhân
vì vậy khó hơn nhiều vì con người rất khác
nhau ở sở thích, cái tôi ưa đã vị tất
là cái anh thích, do đó có
muôn vàn lối cư xử. Nhưng nhiều tới đâu ta cũng
có thể quy ra hai loại lớn: một là nhân nghĩa hai
là chủ nô. Cả hai đều căn cứ trên quan niệm về con
người, một coi người như sự vật, còn một coi người như một thực
thể riêng biệt, linh thiêng hơn vạn vật. Về quan niệm người
như sự vật thì thực ra không có ai chủ trương
rõ ràng như vậy, nhưng do cách đối đãi ta
có thể rút ra hệ luận. Thí dụ lối chủ nô
phát nguyên từ quan niệm coi trọng sự vật, không
dám nói là hơn con người, nhưng trong thực tế
thì như vậy, quan niệm đó đã kết tinh vào
câu nói của cộng sản là hạ tầng kinh tế chỉ huy
thượng tầng văn hóa. Thực tế là xưa kia các
xã hội La Hy căn cứ trên tài sản để đánh
giá người: có tiền đền trăm ngàn thì được
quyền bỏ phiếu, không trăm ngàn nào thì
không được bỏ phiếu nào. Đó là quan niệm căn
cứ trên sức mạnh, do đó chính sức mạnh đã
trở nên tôn chỉ của cuộc sống. Hội sống đi theo lối đấu
tranh để sinh tồn, trong đó kẻ được thì chiếm đoạt
nên có của và làm chủ, kẻ thua bị tước đoạt
phải làm nô. Nô không là người
mà chỉ là sự vật, chủ muốn giết hay bán đi đều tuỳ
ý như bán một đồ vật. Vì vậy tuy không
nói rõ ra nhưng hậu quả là thế tục coi con người
như sự vật. Và xin nói ngay là chính quan
niệm này đã chỉ huy các xã hội cổ xưa
và đổ khuôn mọi liên hệ của con người vào mối
liên hệ duy nhất là chủ nô.
Ngày nay liên hệ này
không hiện hình rõ rệt nhưng nội chất vẫn
còn, vì thế triết hiện đại gọi là “I-that”:
tôi với cái đó, “Je et cela”. Tất cả mọi người chỉ
là cái “that” cái “cela” tuỳ quyền tôi quản
lý. Khỏi nói thì ai cũng thấy cộng sản nắm giải
quán quân trong việc thể hiện tương quan I-that
này, biến các xã hội nó cướp đoạt được
thành các nhà tù vĩ đại khốn khổ khôn
lường. Tất cả bấy nhiêu khổ luỵ đã xa hay gần khởi nguồn
từ quan niệm người như con vật, hay sự vật…
Ngoài quan niệm người như sự vật
thì có quan niệm người như người, mới nghe như nói
quẩn, nhưng khi đã biết quan niệm người như sự vật thì
mới thấy sự đặc biệt của quan niệm ngừơi như người vì lối giao
liên của nó căn cứ trên nhân nghĩa đặt nền
trên hai yếu tố: trứơc hết là định nghĩa con người
trên nhân, Việt nho nói “nhân giả nhân
dã” chính đức nhân làm nên người.
Nhân là gì? Thưa là cái mà khi
người nào có thì tỏ ra nhân tình,
nhân hậu, nhân ái, nhân nhượng… Còn
nghĩa là gì? Sách Trung Dung định nghĩa là
“nghi”: “nghĩa giả nghi dã”. Chữ nghĩa do chữ nghi, mà
nghi tối hậu là thuận theo trời cùng đất. Theo đó
nói “thiên địa lưỡng nghi”. Theo nghĩa thông thường
là thích nghi: thích nghi với tình người:
nó tuỳ hoàn cảnh mà khác nhau. Hoàn
cảnh đó khi nói cách tổng quát và
với con người thì có 5 vị trí: 1/ vợ chồng, 2/ cha
con, 3/ vua tôi 4/ anh em, 5/ bằng hữu.
Đấy là nền tảng, còn khi pha
trộn vào nhau cùng với thời gian không gian
thì làm nên vô số trường hợp không thể
nói hết, và lúc ấy cần đưa ra một nguyên
lý thực tiễn để giúp đỡ đó là hiệt củ,
dùng thước vuông mà đo: square measuring,
nói đến vuông là nói đến cái
gì có mốc giới, cụ thể, có một không hai
trong lúc đó, nên chỉ có người trong cuộc
có quyền quyết định, thày dạy hay sách vở
không thể thay thế được, vì thế phải lấy bụng ta suy ra
bụng người. Đó là câu nói bình
dân diễn tả đạo hiệt củ: điều mình không muốn ai
làm cho mình thì đừng làm cho ai. Đó
là khuôn vàng thước ngọc.
Nhiều người cho đó chưa là cao
vì còn tiêu cực. Tất nhiên rồi, nếu
nói trong lý thuyết thì chưa đủ cao thật. Muốn cao
phải nói kiểu tích cực là điều tôi muốn
người khác làm cho tôi thì tôi phải
làm cho người khác thế mới tích cực, mới cao trội
hẳn lên. Tuy nhiên đây là nói lý
thuyết còn trong thực tế thì khó vô
cùng. Thí dụ tôi muốn người giàu san sẻ cho
tôi ít tài sản, thì tôi cũng san sẻ
cho người khác. Nhưng cho ai? Bao nhiêu?…. nó
kéo theo vô số vấn đề ghen tị (người có kẻ
không) kẻ nhiều người ít, rắc rối vô kể. Vậy
mà chưa hẳn trầm trọng cho bằng rất có thể phạm đến tự do
tha nhân. Vì không phải bất cứ cái gì
mình thích mà người khác thích, anh
thích hot dog mà tôi đâu có
thích, nay anh bắt tôi ăn, tôi không chịu, anh
giằn tôi ra nhét vào thì đâu có
làm cho tôi sướng. Đó chỉ là thí dụ
để chỉ sự áp đặt mà lối yêu tích cực cơ thể
dẫn tới, như ta thấy trong chế độ cộng sản.
Đừng ai nghĩ rằng cộng sản không
yêu người mà phải nói rằng cộng sản đã nảy
sinh do lòng yêu người rất tích cực, họ bất
bình vì thấy người bị tước đoạt, nên muốn chấm dứt
nạn người bóc lột người, thế mà cuối cùng cộng sản
đã trở nên những kẻ bóc lột người khác đến
tận cùng, tước đoạt không những tài sản mà
luôn cả ý nghĩ, cảm tình, những tình tự tư
riêng thuộc bạn bè, anh em, cha mẹ. Ay chỉ vì họ
đã yêu theo lối tích cực: họ giằn người ta ra để
lèn vào những điều họ thích: vô thần,
vô gia tộc, vô quốc gia. Vậy có nghĩa là lối
yêu tích cực rất dễ đốc ra quan niệm về người như sự vật
tức yêu kiểu chiếm đoạt, coi lân nhân như một đối vật
mà mình cần chiếm lấy để làm ra của mình,
tức bắt kết mọi người khác phải đồng nhất mình cả trong
niềm tin lẫn tình cảm, ý nghĩ, đường đi nước
bước.
Đó chính là lý do
tại sao Việt nho rất dè dặt không dám trình
bày “hiệt củ” theo cung cách tích cực. Sách
Trung Dung (13) nhắc lời Khổng Tử rằng:
Quân tử chi đạo tử, Khâu vị
năng nhất yên:
Sở cầu hồ tử dĩ sự phụ, vi năng
dã.
Sơ cầu hồ thân dĩ sự quân, vị
năng dã
Sở cầu hồ đễ dĩ sư huynh, vị năng
dã
Sở cầu bằng hữu dĩ tiên thi chi, vị
năng dã
Đạo quân tử có 4 điều mà
Khâu này chưa làm nổi một:
Phụng sự cha như tôi mong cho tôi
phụng sự tôi, điều đó tôi chưa đạt.
Phụng sự vua như tôi mong đại thần
phụng sự tôi, điều đó tôi chưa đạt.
Phụng sự anh tôi như tôi mong em
tôi phụng sự tôi, điều đó tôi chưa
đạt.
Cư xử với bạn hữu tôi như tôi
muốn bạn tôi cư xử với tôi, điều đó tôi chưa
đạt.
Tôi chỉ cố gắng hiện thực những đức
thường thường: cẩn trọng những lời nói thông thường. Trong
mấy khoản đó nếu có điều nào không đủ
thì không dám không cố gắng, nếu có
điều nào thái quá thì không
dám không tận lực, sao cho lời theo việc, việc theo lời.
Đó không phải là dấu chí thành của
quân tử sao.
Điểm khác thứ hai của lối nhân
nghĩa là nhấn mạnh trên tình người mà bỏ nhẹ
lý sự. Theo câu phương châm triết lý An vi:
lý là lý sự mà tình là
tình người. Đó là câu nói đặc biệt
vì người duy lý thì đi theo quan niệm sự vật về
người nên không trọng tình. Cần phải đi lối
tình mới trông hiểu được người vì con người
làm bằng 1 lý 9 tình. Muốn đạt tâm con người
thì phải đi theo lối tình, Việt Nam quen nói
tâm tình là vì vậy. Không có
lối nào phát triển tình cảm tự nhiên, trong
trắng bằng tình cảm gia đình vì đây
là những tình cảm tự nhiên cao thượng, khi
đã thấm nhuần những tình cảm đó thì dễ
dàng xử với mọi người đúng hiệt củ, tức gây hạnh
phúc cho người. Chữ hiệt củ Mỹ dịch là square measuring
thì mới dịch có nghĩa đen. Chính chữ hiệt cũng
là chữ khiết, là làm cho trong trắng cái
thước đo, mà thước đo ở đây là bụng: suy bụng ta ra
bụng người, nếu bụng ta tốt thì sẽ cư xử với người tốt, tốt bụng
hơn hết thì không đâu bằng sự đối xử với nhau giữa
những người ruột thịt. Vì vậy lấy tình nhà
làmmẫu cho tình nước, gọi vua quan là phụ mẫu chi
dân chính là thế: muốn cho vua quan yêu
cái dân yêu, ghét cái dân
ghét. Và khi vua quan đặt mình làm
dân, và không muốn người cai trị làm cho
mình những điều chi thì đừng làm cho dân
những điều đó. Mọi mối liên hệ khác cũng rập
khuôn như vậy. Đó gọi là hiệt.
IX. Ở ĐỜI
Thiên Nga hay Hồng Bàng
là họ Thuỷ tổ nước ta. Trứơc kia tôi chỉ được nghe qua
huyền thoại không cảm thấy mấy rung động, nhưng từ ngày
tôi nhận ra nó liên hệ mật thiết với khảo cổ
thì hai chữ Hồng Bàng bỗng trở nên óng
ánh chói chang gây cảm xúc rung rinh
tràn ngập, đã vậy còn mang theo cả hào
quang cảu khách quan tính rất khoa học. Xin trình
bày ít điểm sau đây:
Khảo cổ nói ở đây là
trống đồng Ngọc Lữ mà trên mặt có hai hình
chim lớn đậu rợp nóc nhà sàn. Nếu chỉ xem
có trống thì không mấy ý nghĩa, nhưng
móc nối vào truyện Hồng Bàng thì giá
trị tự nhiên bật nổi hẳn lên. Trước kia Hồng Bàng
chỉ là một hình ảnh tượng trưng, nhưng nay nhờ trống đồng
tôi thấy trực thị được hình ảnh về Hồng Bàng
mà tiền nhân đã ấp ủ và tạc ra hình
để lưu lại cho con cháu. Tôi thấy có một cái
gì vững chắc dùng được làm bàn nhún
có tính chất khách quan khoa học khiến cho cuộc
ngoi ngược về nguồn (tố nguyên) trở nên đầy hứng
thú.
Thoạt đi vào huyền sử nước nhà
ta liền nhận ra mình đang bước vào bầu trời tràn
ngập những chim là chim. Trong khi quan sát ta thấy cả
hai loại đáng chú ý: một là chim trĩ hai
là con Hồng Hộc. Tôi nói loại mà không
nói thứ vì thứ là phạm vi điểu học, hay cả khảo
cổ, ở triết chỉ cần biết loại chim là đủ. Vậy trĩ là loại
nổi hơn hết, lông được dùng để múa, để trang sức
áo quần. Xưa áo các bà đều thêu
hình chim trĩ, lông nó kêu là địch
là vũ, nên áo đó kêu là địch y,
vũ y… Vậy loại này thuộc về Việt rõ ràng như
câu sách Kinh Thư nói Châu Từ cống lông
trĩ ngũ sắc. Châu Từ là đất thuộc châu Dương của Di
Việt cũng gọi là Hoài Di. Theo sách Quảng
Đông Tân Nghĩa nói “tuỳ dương Việt trĩ”: con trĩ của
Việt đi theo hướng mặt trời mà hình ảnh còn
tràn ngập trong trống đồng đi theo vòng ngược kim đồng
hồ. Còn trong nghệ thuật là con phượng. Phuợng bao giờ
cũng vẽ theo hình trĩ, nên có thể coi Phượng
là Trĩ. Sau Phượng Trĩ thì đến Hồng Hộc đứng tên
cho Hồng Bàng thị của nước Văn Lang tức là tị tổ của ta
đã nhận Hồng Hộc làm quốc điểu. Hồng Hộc là chim
nước, con lớn gọi là Hồng, con nhỏ gọi là Hộc, cả hai
thuộc loại chi chủ đề của Đông Nam Á. Hai chứng
tích trên cho thấy huyền sử nước ta gắn bó với cả
hai loại chim ngay từ đầu, từ lúc thờ mặt trời ghi lại bằng con
“Việt Trĩ đi theo hướng mặt trời”, cho tới lúc chuyển sang thờ
trời với chim nước mà Hồng Hộc dẫn đầu. Thiết nghĩ không
những Tàu mà cả các chi Việt khác cũng
không đâu có được sự gắn bó với chim như vậy.
Có thể coi con Việt Trĩ là giai đoạn tổ tiên ta
còn đang nằm trong khối Viêm Việt lúc còn
thờ mặt nhật chưa tách ra thành một dân tộc
riêng. Đó là điều chỉ xảy đến với nước Văn Lang
được thiết lập vào giai đoạn thờ trời (xem sự phân biệt
thờ trời và mặt trời ở Sứ Điệp). Như vậy là ta có
một điểm tựa nào đó rồi để xác định lối Ở Đới được
gói ghém trong hai chữ Hồng Bàng.
Vậy Hồng Bàng là nhà
chim tức cha ông ta lấy “điểu tục” làm lối ở đời của
dòng tộc, của Hồng Bàng thị. Điều đó tối quan
trọng vì việc “làm người” một cách siêu
việt, Nho giáo quen gọi việc học làm người là
xây nhà và việc thành nhân là
vào được Nhà (nhập ư thái thất). Vậy sự bước được
vào thâm cung của nhà chính là hiện
thực được đầy đủ tính bản nhiên con người đại ngã
tâm linh. Đây là ý tưởng rất sâu trong
triết đã manh nha từ đời Hồng Bàng, thời nhận chim nước
làm vật biểu và cố sống theo cung cách của chim
là bay bổng. Sau này gọi nước là Việt thì
vẫn còn giữ liện hệ với ý tưởng ban sơ này,
vì việt có nghĩa là siêu việt, là bay
lên cao như chim Hồng chim Hộc. Đó gọi là sống theo
lối chim mà nho kêu là “điểu tục”, tổ tiên
xưa đã bày tỏ “điểu tục” bằng nhiều cách, nhưng
cách cụ thể hơn hết là lối ở nhà sàn,
vì nhà sàn giống với tổ chim hơn bất cứ kiểu
nhà nào khác: chim làm tổ trên
cây thì cái sàn cũng ở lưng chừng
nhà.
Chỗ này phải ghi lại truyền thuyết
nói rằng ông Hữu Sào làm nhà
trên cây, nên gọi bằng tên đó, vì
sào là tổ, Hữu Sào là người “có tổ”.
Hình ảnh này hợp cho nhà sàn hơn hết,
nên suy đoán được ông Hữu Sào chẳng qua
là tên tiên thiên đặt ra để ghi việc
sáng nghĩ ra nhà sàn, hay đúng hơn ghi việc
gán nghĩa cho nhà sàn: một hình ảnh cụ thể
hóa ý niệm người là trung gian giữa trời
cùng đất. Trời chỉ bằng nó nhà có chim đậu
trên, Đất chỉ bằng nền nhà, Người ở giữa gọi được
là nơi giao chỉ (giao thoa của chỉ trời chỉ đất). Đó
là hình ảnh tiến bộ cho thuyết Tam tài
thiên, địa, nhân. Chính lối ở quy định bản
tính con người, mà tính thì biểu lộ bằng
tên, nên ta gọi cha ông là tiên
nhân tức nói lên lối ở đời của cha ông như
tiên. Tiên đi với chim, nên gắn hai tiếng vào
nhau thành ra tiên tổ có nghĩa là muốn
nên tiên thì phải ở ăn cách thanh
thoát, mà cụ thể chỉ bằng nhà sàn
làm cho người ở trên giống như chim ở tổ. Con cháu
đã ghi bài học đó bằng gọi tiền nhân của
mình là tiên tổ, là tổ phụ. Lâu đời
quá không còn để ý đến chữ tổ có
nghĩa là nhà chim trước khi chỉ các bậc tiên
nhân: cao, tằng, cố, tổ. Chứ ban đầu theo ý nghĩa sơ
nguyên thì mấy tiếng đó (nhà sàn,
tiên tổ) mang đầy ý nghĩa rung rinh thắm thiết: lối ở
nhà sàn quy định tính con người biểu thị bằng
tên (là tiên, là tổ, là hữu
sào) là như vậy.
Bây giờ xin hỏi thêm lối ở
đó có ảnh hưởng đến vấn đề ăn mặc chăng. Thưa có
đó là tiên tổ ta đã hóa trang chim:
áo, xiêm, mũ tất cả đều làm bằng lông chim,
như ta thấy hình ảnh trong trống đồng những người trang sức bằng
lôn chim và đang cầm khiên, mộc, giáo,
phách để múa (đã nói cặn kẽ trong quyển Sứ
Điệp). Nên nhớ đời xưa tục múa bằng lông chim rất
phổ biến, đến đời vua Thuấn, vua Vũ cũng còn múa kiểu
đó. Cả trường Bích Ung nhà Chu cũng còn
múa như vậy, thì đủ biết cái nét đặc trưng
nọ rộng và xưa biết bao: hễ đâu có múa
lông chim là đấy có “Hồng Bàng chút
giọt máu đào”, có Xích Quỷ, có Văn
Lang. Không ngờ chỉ một cái tên, một câu tục
ngữ lại trở nên chìa khóa vững chắc cho cuộc
thám hiểm vào nền văn hóa nước nhà đến như
vậy. Ay là nhờ trống đồng đã ghi lại chói chang
hình ảnh cái nhà chim, với cuộc ca vũ của những
người đã hóa trang chim. Nó mở chân trời cho
ta bước đi vững vào khu rừng già của huyền thoại Trung
Hoa cổ đại để biết đích xác hơn những chi tộc thuộc về
ta, cũng như chứng thực Nho giáo đã bắt nguồn tự Việt
vậy.
Trước hết về chim, với Tàu xét
như vật biểu thị không thấy dấu nào rõ như Hồng
Bàng. Tàu chỉ có mờ mờ về chim cú xem ra
là vật tổ của Hoàng Đế, còn không có
một lâu đài rực rỡ đầy chim như trống đồng. Chỉ về sau
có chim chu tước hay hỏa tước đời Chu nhưng chắc chắn là
mượn con “tuy dương Việt trĩ” của ta, như khoa khảo cổ nhận thấy loại
chim đó (quen gọi là chim nhà Hán cũng gặp
ở Bornéo) thì biết là mượn của Viêm Việt. Về
chim nước thì rõ ràng là của ta. Các
nhà nghiên cứu đều ghi nhận chủ đề chim nước là của
Đông Nam Á. Tàu chỉ có cá vậy
là duy thuỷ. Phải gọi là chim nước mới là âm
dương giao chỉ (bay được trên trời mà vẫn sống được dưới
nước).
Còn nhà của Tàu
thì có vừa muộn về sau, vừa không vươn lên
đến độ triết lý Tam tài. Nói muộn vì
mãi đến thế kỷ 13 tr.c.n, thủy tổ nhà Chu là
ông Đản Phụ còn phải ở hang. Kinh Thi phần Đại Nhã
bài Miên (237) nói: “Cổ công Đản phụ,
đào phúc đào huyệt, vị hữu gia thất”: ông Cổ
Công Đản Phụ còn ở lò nung gốm và
hàng, chứ chưa có nhà. Đào phúc
là lò nung gốm, còn đào huyệt là
hang khoét vào đất để ở. Do tính chất đất (loes)
hoang thổ miền Thiểm tây có thể làm như vậy.
Các nhà nghiên cứu đoán rằng chính
loại hang này đã gợi ra lối chữ viết chỉ nhà gọi
là gia, kép bởi bộ miên là nhà
và thỉ là heo: vì lúc ấy người Tàu
cũng như Au Châu trung cổ còn nuôi súc vật
chung trong một nơi với người. Xem thế đủ biết khi nho nói về
lối ở (cư) về nhà (thái thất) về tính con người…
thì đều khởi nguồn tự văn hóa Việt được phân
tích như sau:
Trong Nho có hai tiếng để chỉ
nhà liên hệ đến vấn đề này một là gia hai
là thất. Gia là cái gì vòng
ngoài chỉ con trai, chỉ thói tục (nhập gia tuỳ tục),
còn thất chỉ con gái, chỉ cái gì thâm
sâu như bản tính con người, nên câu
“vào được nhà: nhập ư thất” phải hiểu là nguời khi
đã đạt thân, tức hiện thực được nhân tính.
Chữ thất giống với nhà sàn ở chỗ có ba bộ
miên, công, thổ (thực ra bộ phận giữa không
rõ, nhiều học giả cho là chữ công biến thể). Như
vậydạng tự chữ thất thuận lợi để chở theo ý nghĩa Tam tài
cũng như nhà sàn. Trong Kinh Thi (bài Si
Hiêu) chim cũng gọi nhà của nó là thất, như
vậy lại thêm một liên hệ nữa chỉ Hồng Bàng là
nhà chim.
Sau nhà thì đến việc ở. Nho
giáo cũng đặt vào đó sự quan trọng rất mực. Trong
lễ gia quan là lễ khai mạc cuộc đời tự lập của con người, cha
nói với con khi được nhận mũ phải biết ở chỗ rộng lờn trong
thiên hạ tức biết hiện thực đại đạo:
Cư thiên hạ chi quảng cư
Hành thiên hạ chi đại
đạo
Chư cư được các học giả đồng
hóa với chữ tâm chí, tức để chí vào
đâu gọi là ở đó, còn chữ hành đi với
thân theo như Mạnh Tử phân biệt:
Cư chi ư tâm giả
Hành chi như nhân
giả.
Nghĩa là khi nói ở đời
thì phải hiểu về cái tâm tức về cái chỗ của
mình để lòng vào. Vậy đâu là chỗ con
người phải để lòng vào. Nói khác cái
gì làm nên con người? Cái ăn hay cái
ở? Đây là chỗ rất lộn xộn, chúng ta thường nghe
người nay nói: anh ăn cái gì, anh là
cái ấy: “you are what you eat”. Còn Việt nho xưa lại
nói:
Vô nghĩa vô lễ hà dĩ vi
nhân: không lễ không nghĩa lấy gì để
làm người tức cái làm cho người ra người
không phải là cái ăn mà là cái
ở, ở sao cho có nghĩa có lễ. Thiếu lễ nghĩa thì
không có gì để làm người. Giữa những
câu nói trái ngược đó chúng ta cần
phân tích để tìm câu đáp ổn thỏa.
Ai cũng thấy rằng trong con người có
hai loại nhu yếu một là ích dụng như ăn, ở, đi, lại… hai
là loại phí ích dụng như các loại
tình tự, cư xử, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín,
liêm xỉ… Vậy trong hai loại đó, loại nàolàm
nên conngười. Duy vật chủ trương là loại một, ngày
nay gọi là kinh tế. Đôi khi có dùng
tên khác như xã hội, nhưng xã hội lại do
kinh tế chỉ huy nên người vẫn là người kinh tế “homo
economicus”. Trái lại tâm linh sử quan đặt căn tính
con người trên những đức tính phi ích dụng:
có thể tóm vào chữ nhân. Vậy nói
“nhân giả nhân dã” là khước từ vai chủ động
trong con người không phải là kinh tế mà là
tình người. Chính chữ nhân mới làm nên
con người chứ không phải cái anh ăn vào miệng.
Nói vậy không có nghĩa là không
chú ý đến ăn. Bài sau sẽ cho thấy ăn còn
được tổ tiên chú ý hơn các nơi: nhưng
nói cho cùng tâm trí con người chưa cần lưu
ý đến cái ăn thì đã có dạ dầy nhắc
nhở, điều đó giống với các con vật khác cũng thế,
nên đây không phải là cái làm
nên con người, phải tìm ở chỗ khác: ở chỗ
tình người. Đấy là điểm một.
Điểm hai là trong các mối
tình người có hai loại là tích cực như
yêu thương quảng đại và tiêu cực như hận thù,
oán ghét, ta hỏi loại nào thuộc bản tính
con người. Việt Nho cho là loại tích cực tức cái
làm nên bản chất con người là những đức tính
cao cả những mối tình quảng đại, yêu thương, nhân
nhượng… chứ không phải những khuynh hướng ngược lại như căm
thù, nham hiểm, độc địa… Chính theo định nghĩa tiên
thiên trên mà Mạnh Tử đã cho tính con
người là tốt. Tuân Tử đã chống đối cho tính
con người là ác. Nhiều người như Cáo Tử
không biết bên nào phải nên chủ trương
tính con người trung hòa không tốt không xấu,
tuỳ uốn nắn mà ra tốt hay xấu mà thôi. Chủ trương
như Cáo Tử là lối ba phải thường nghiệm không đi
tới triệt để, nên cũng không tìm ra được tiêu
chuẩn để phán quyết thế nào là tốt thế nào
là xấu.
Vì vậy cần đi xa hơn đến chỗ triệt
cùng và lúc ấy ta nhận được điểm giàn
hòa giữa Mạnh và Tuân. Tuân Tử cho là
xấu vì căn cứ trên hậu thiên, trên hiện
tình con người thì quả là xấu có đầy. Kant
cũng nói theo hướng Tuân Tử rằng con người làm bằng
một thứ gỗ quá cong vẹo không trông làm
nên được cái gì tốt. Mạnh Tử theo thuyết
này, nhưng không triệt để nên ông còn
trừ ra mấy thánh nhân như Nghiêu, Thuấn, nhưng học
giả Legge đã chối luôn cả trường hợp ngoại lệ nọ, cho
là không thể có dù chỉ một người trọn vẹn
tốt. Legge có thể coi như đại diện quan niệm hậu thiên của
Tây Au cho rằng con người vì mắc nguyên tội,
nên dẫu tiên thiên có tốt nhưng không
còn phương thế tự nhiên nào lấy lại được trạng
thái “nhân chi sơ” đó nữa. Quan niệm của Mạnh Tử
vì đặt trên căn bản triết lý nhân chủ
nên cho là có thể lấy lại được. Theo đó ta
cần xét tới lập trường của Mạnh và Tuân.
Vì chúng ta đang đi tìm
một định nghĩa con người tuy có lấy thực tiễn làm trọng
nhưng lại không bỏ qua tính chất lý tưởng nên
cần đặt vấn đề như sau: xét trong con người hiện tại xấu
có tốt có = có cả lòng muốn yêu
người, yêu hết mọi người, thích quảng đại, bao dung,
nhân nhượng, nhưng đồng thời cũng có khuynh hướng
ác độc, căm thù, báo oán, gian
tham…
Cả hai khuynh hướng nguợc chiều đó đều
hiện diện trong con người, nên Việt nho cho người là nơi
quỷ thần hội tụ. Con người vừa là thần vừa là quỷ.
Và trong thực tế, chủ nhân của con người có
lúc là thần có lúc là quỷ, tuỳ
ý chí con người quyết định. Vậy xin hỏi cứ tiên
thiên mà xét thì chủ nên là
thần hay quỷ. Nếu là thần thì tức là bản
tính con người chính là những đức tính
nhân ái, bao dung, quảng đại, và đó
là chủ trương Việt nho khi nói “nhân giả nhân
dã”. Vậy ta hãy xét xem câu trên
có đúng chăng. Để thấy điều đó nênx em trong
con người ý hướng mạnh nhất là gì: ghét hay
yêu? Có thể nói đó là yêu, ai
cũng muốn mọi người được hạnh phúc sung sướng, mà cụ thể
là muốn mọi người được tự do, no ấm… Đó là điều
rất rõ, khi xét các triết thuyết, các đạo
lý, các đảng chính trị cũng như các phong
trào bao giờ cũng thấy xây trên ý hướng
yêu thương, đến nỗi như cộng sản hễ thở ra là phải
nói đến căm thù, phá hoại, nhưng cũng chỉ coi
đó là bước tuy cần thiết để dẫn tới giải phóng con
người khỏi nạn bóc lột, khỏi nạn vong thân, nếu vậy
thì dự phóng căn bản cũng là yêu thương,
cũng là tốt!
Như thế cần phải tìm bản tính
con người trong phía yêu thương quảng đại, công
bằng, kính trọng tha nhân. Mạnh Tử đã minh họa bằng
những ý hướng vô vị lợi trong con người mà
ông gọi là tứ đoan: 4 cái khởi đâu:
Một là lòng chẳng nỡ đối với
người khác.
Hai là lòng hổ thẹn khi lầm
lỗi.
Ba là lòng từ
nhượng.
Bốn là biết phải biết trái
(II.6)
Đó là những mối tình
chớm nở một cách đột nhiên ai cũng có. Nó
có tính cách vô vị lợi, thí dụ khi
thấy đứa trẻ gần rơi xuống giếng tự nhiên ai cũng muốn cứu
không cầu cái chi như sự ghi ơn của mẹ cha đứa nhỏ. Những
tình cảm đó rất tự nhiên ở đâu và bao
giờ cũng có như vậy, nên kết luận được đó là
bản tính con người, tức là nó đã có
trước khi con người đựơc dạy dỗ như vậy, cũng như trải qua cuộc đời đầy
nham hiểm độc ác mà những mối tình kia dẫu bị
chà đạp có khi tắt hẳn ở một số người nhưng nói
chung thì nó không bị tiêu diệt, vẫn
còn tìm cách vươn lên, vươn lên được
nhiều hay ít là tuỳ hoàn cảnh mà nho gọi
là mệnh.
Mệnh là những gì hạn chế khả
thể hiện thực của ta: nó đi cả với những đức tính vươn
lên như nhân nghĩa, quảng đại… nó không cho ta
hiện thực những đức tính đó một cách đầy đủ như
ý muốn: mệnh cũng đi với những điều xác thân ta ham
muốn như những thèm khát nhục thể cũng đều thuộc
thiên tính (thực, sắc, thiên tính dã)
và đấy là trường hoạt động đã dành cho mọi
người. Con nười phải làm thế nào để vượt qua những mệnh,
những trở ngại kia. Phải phân biệt thứ nào căn bổn, thứ
nào tuỳ phụ để biết đặt quan trọng trúng chỗ. Nếu đặt
đúng để phát triển cái phần chính cốt
làm nên con người thì sẽ là đại nhân,
ngược lại là tiểu nhân. Việt nho gọi đó là
tu tâm, tâm cần được nuôi dưỡng bằng những mối
tình yêu thương, quảng đại, bao dung, nhân
ái. Những mối tình cao cả quảng đại đó là
những món ăn tinh thần nuôi dưỡng cái tâm
cái chí, nếu nuôi được đều đặn thì nó
sẽ lớn lên dần cho tới độ to bằng với vũ trụ, lúc ấy gọi
là “vũ trụ chi tâm”, vì tâm mình to
lớn đủ để bao dung khắp vũ trụ. Nguyễn Công Trứ nói “vũ
trụ nội mạc phi phận sự” = không gì trong vũ trụ mà
không là việc của tôi. Đấy là phần tâm
cũng gọi là chí, còn phần hiện thực bằng
tác động thì được đại diện bằng cái gọi là
khí. Khí phải đựơc nuôi dưỡng bằng những việc
công minh chính trực, những nghĩa cử bất vụ lợi. Được
nuôi như thế lại không bị hại nó sẽ lớn lên
dần để trở thành kh1i hạo nhiên đầy khắp trong khoảng trời
đất “kỳ vi khí dã, chí đại chí cương, dĩ
trược dưỡng chi vô hại, tắc tắc hồ thiên địa chi gian” Mạnh
II 2
Với chí khí lớn lao như vậy
thì gọi là Đại Ngã Tâm Linh hay cái
bản tính tiên thiên của con người. Đó
là lập trường của Việt nho, nó trung dung ở chỗ
không gảy bỏ tính ác khỏi con người, cho rằng con
người có cả ác, nói bóng là
có cả quỷ cả thần, nhưng thần phải làm chủ; nói
theo cơ cấu “vài ba” thì quỷ 2 thần 3, 2 là thực
và sắc, còn 3 là tâm (chữ tâm kia mới
bằng ba chữ tài) với những mối tình cao thượng.
Chính cái này mới làm nên con người.
Sở dĩ người ta ít thấy được vì bị hai nhu yếu dưới (thực
và sắc) choán hầu hết năng lực. Nhưng nếu đáp ứng
được hai nhu yếu kia rồi, thì người ta liền nghĩ đến điểm ba
và dễ dàng nhận ra thiếu nó thì người
không ra người. Như vậy thần chỉ vượt hơn quỷ một điểm, nên
chỉ là chủ tương đối, có thể bị lấn át, và
đấy là chỗ dành cho sự đóng góp của con
người, nêu con người đóng góp hữu hiệu thì
thần là chủ, con người sẽ có tính thiện, tất cả
mọi người đều có thể trở nên thiện. Đó là
quan niệm của Việt nho, trung dung tránh hai thái cực
là cùng cực tốt hay cùng cực xấu. Vì vậy
Việt nho không đặt Đạo ở rất cao xa vượt hẳn con người, nhưng đặt
vào những mối nhân luân thường ngày,
nói là Đạo của Nghiêu Thuấn tức hai vị được coi
là thánh thì cũng chỉ tóm vào hai
chữ hiếu đễ mà thôi. “Nghiêu Thuấn chi đạo hiếu đễ
nhi dĩ hĩ”. Đó là đại lược quan niệm về con người đặt vừa
tầm sức con người để có thể hiện thực.
Sau khi đã nghiên cứu hết mọi
nền triết lý, tôi đoan quyết rằng không phải bất kỳ
nhà nào cũng có thể đưa ra một hướng đi, một hướng
ở đời. Phải, không phải nhà nào, không phải
house nào kể cả White House mà phải là Việt House
mới có thể cung ứng cho con người một nơi ở xứng hợp với bản
tính con người: nhiều nơi con người hoặc còn nằm trong
bậc bái vật thì làm chi có “nhà”
hiểu là thái thất ba tầng. Nhiều nơi khác như Au
Mỹ lại đang luẩn quẩn ở vùng ý hệ nên cũng thiếu
nhà luôn; cùng lắm có gia, chưa có
thất nên kể là thiếu nhà. Chứng cớ là tiếng
homeless được nói vang lừng trong sách triết. Ngừơi Việt
chịu bỏ công ra học hỏi trở lại về nguồn gốc văn hóa nước
nhà để nhận thức trở lại giá trị cái nhà
Việt thì sẽ khỏi phải thanh phiền vì nạn “thiếu
nhà” mà chỉ cần dồn hết tâm lực vào việc
trùng tu ngôi nhà Hồng Bàng thái thất
và cố gắng vào ở (cư chi) cho tới ngày đạt hạnh
phúc là vào đặng trong nhà Hồng Bàng
mà Nho gọi là “Nhập ư thất” còn Việt gọi là
“Vũ hóa” trở nên có cánh, trở nên con
Bạch Hạc vỗ đôi cánh thiên nga bay tuốt lên
cõi Thiên Tiên Đại Vũ Trụ.
X. ĂN: PHƯƠNG THỨC SẢN
XUẤT Á CHÂU TRONG NƯỚC VĂN LANG
Một trong những điều đã làm
K.Marx vang lừng danh tiếng kéo được vô số trí thức
tận tình ủng hộ đó là việc “khám
phá” ra rằng con người cần phải có cơm ăn áo mặc
nhà ở… trước khi nghĩ đến chính trị, tôn
giáo, nghệ thuật. Chính vấn đề ăn mặc gọi bằng tên
tổng quát là kinh tế nó chỉ huy thượng tầng kiến
trúc văn hóa… Lịch sử loài người toàn
là truyện tranh ăn nên thượng tầng văn hóa của
nô lệ thường dân, nói khác là văn
hóa của người bị trị, bị đàn áp do văn hóa
của kẻ thống tri… Đại để đó là những nhận xét
đã được Engels gọi là khám phá vĩ đại,
chính nó đã gây ảnh hưởng quyết liệt
trên hoàn cầu, thúc đẩy mọi người hướng trọn
vào việc sản xuất đầy đủ những nhu yếu về ăn mặc… Chính
vì thế ta thấy Việt cộng lúc nào cũng nói
đến sản xuất. Đang đêm đột nhập Lâm Đồng cũng hỏi linh mục
ở đấy bác có sản xuất chăng. Đủ biết hai chữ sản xuất
đã ám chúng đến mức độ nào. Đó
là hậu quả của một cuộc “khám phá” do Karl
Marx.
Người Việt Nam đọc đến đây không
khỏi bỡ ngỡ đặt câu hỏi tại sao một việc quá thông
thường lại gây nên được hiệu lực lớn lao như kia. Có
gì lạ đâu: bên ta dù em bé chăn
trâu không đi học cũng thường nghêu ngao câu
tục ngữ “có thực mới vực được đạo” tại sao câu nói
của K.Marx xét về nội dung không khác lại được đề
cao như một khám phá vĩ đại và đã gây
ảnh hưởng lớn lao đến thế. Để thấy điều đó cần phải nhớ lại
môi sinh văn hóa Tây Au là duy tâm nơi
mà triết lý là một ý hệ tức xây
trên những ý niệm trừu tượng xa thực tế như vấn đề ăn mặc,
vì vậy sự nhận xét của K.Marx quả là một
“khám phá mới lạ”, mới lạ với bầu khí duy
tâm của Tây Au trước kia. Đấy là điểm
một.
Điểm hai là hạ tầng kinh tế chỉ huy
thượng tầng văn hóa cũng có thực nữa: vì
xét tới cơ cấu mới thấy văn hóa Tây Au xây
trọn vẹn trên lợi hành, trên sự đấu tranh giai cấp
và văn hóa của chủ đã thắng văn hóa của
nô, tức những nền triết lý chính thức được nhận
vào chương trình học tập hàn lâm: Plato,
Aristotle, Kant… toàn vô tình vào phe
chuyên chế để đè bẹp tự do nhân phẩm con người (điều
này mới nghe tưởng như trái ngược nhưng sự thực là
thế, xin xem phân tích trong quyển Sứ Điệp Trống Đồng)
vì vậy phải công nhận K.Marx đã nói rất
đúng, nhưng chỉ đúng cho Tây Au và cũng chỉ
có đến đấy, còn về phương pháp đề ra là duy
vật sử quan, duy vật biện chứng với nền thống trị của vô sản
chuyên chính cũng lại sai lầm trầm trọng như giải
pháp duy tâm, để khỏi nói là gây tai
họa bi thảm hơn nhiều: nghĩa là dân chúng vẫn khốn
khổ vì miếng ăn, mặc dầu đảng và nhà nước
đã giết hại hàng trăm triệu người để thiết lập đường lối
mới nhằm tạo cơm áo cho mọi người. Hãy lấy thí dụ
cụ thể về nước ta khi Việt cộng đã tiêu diệt cả triệu
người để thiết lập triết lý lao động vinh quang mà
toàn dân nước hiện đang đói như chưa từng khi
nào có trong lịch sử, thì đúng là sự
sai lầm của cộng sản rất trầm trọng.
Xưa kia nếu đói có thể đổ cho
sự thiếu chăm nom của chính quyền. Ngược lại ngày nay
chính quyền lo đêm lo ngày bắt dân làm
việc không còn giờ nghỉ, vậy mà lại đói khổ
hơn thì đủ biết sai lầm không nằm trong sự thiếu đường
hướng mà nằm chính ngay trong đường hướng. Đấy là
hậu qủa của triết lý một chiều duy vật. Việt cộng đổ cho đủ thứ:
Mỹ, nguỵ, thiên tai… nhưng các nước cộng sản khác
kể cả nước đầu xỏ là Nga cũng chỉ cao hơn Việt cộng, chứ so với
các nước tự do thì mức sống còn thấp kém
hơn rất nhiều.
Xin hỏi đâu là căn do của sự vụ
trái ngược nọ: tức từ khi khám phá ra sự quan
trọng của việc ăn uống và chú tâm tới thì
dân lại đói dài? Thưa là tại triết
lý. Xưa kia đói là do triết lý duy
tâm không lo cho dân còn nay là duy vật
lại chỉ lo có miếng ăn: bề ngoài chống nhau như nứơc với
lửa, nhưng cả hai cùng nằm trong một bình diện, nên
hậu quả nay với duy vật cũng vẫn đấu tranh giai cấp, còn mở rộng
thêm ra khắp vũ hoàn, thì hậu quả tất nhiên
vẫn là chủ nô, chỉ đổi có cái tên: chủ
thành kẻ thống trị còn nô là người bị trị.
Người bị trị tuy không còn bị gọi là nô nhưng
tình cảnh bi đát hơn nhiều vì không những
đói cơm đói gạo, mà còn đói tai mắt,
đói chân tay, đói tình cảm, đói
ý chí, đói sáng tạo v.v…
K.Marx không sống đủ dài để thấy
hết sự sai lầm của mình nhưng đã có lúc mở
tầm mắt xa hơn, để thấy rằng Á Châu không hẳn
đúng với cái khuôn của mình đã đề ra
là hạ tầng chỉ huy thượng tầng, nên đã đặt ra vấn
đề phương thức sản xuất Á Châu, với ngầm ý
là lịch sử loài người có thể đi lối khác
với lối giai cấp đấu tranh mà có lẽ Á Châu
là một thí dụ. Tuy nhiên K.Marx đặt ra vấn đề nhưng
không tìm ra giải đáp nên sau bỏ qua.
Có hai lý do bất lực. Một thuộc chủ quan là vấn đề
tâm lý: nếu nhìn rõ ra được phương thức sản
xuất Á Châu thì khám phá của K.Marx
hết là “khám phá” mà chỉ còn
là sự thực quá quen thuộc của Á Châu
đã có từ nhiều ngàn năm lịch sử trước rồi,
không để lại chi cho K.Marx khám phá nữa. Thứ đến
sự thực nọ sẽ đánh đổ hệ thống tư tưởng duy vật sử quan, nghĩa
là trong nhân loại có những nơi không theo
duy vật cũng như duy tâm, thế mà tài sản lại được
phân chia đồng đều hơn. Nếu vậy thì còn gì
là chủ thuyết duy vật sử quan. Huống chi đối với cộng sản
thì đảng tính phải vượt trên sử tính:
nói cho dễ hiểu là khi nghiên cứu lịch sử, văn
công phải chú ý uốn nắn sự kiện theo chỉ thị của
đảng hơn là theo ánh sáng khách quan của sự
kiện.
Về phần khách quan cũng không
có gì trợ giúp cho cộng sản thấy được phương thức
sản xuất Á Châu như thế nào. Trước hết vì
cho tới nay chưa ai thấy nó ra sao: không nói chi
đến các văn nô cộng sản bị trói buộc do đảng
tính, thì chỉ có thể thấy một hai lối trung ương
tập quyền ở một vài nơi rồi mở rộng đại ra cho cả Á
Châu. Đấy là phía cộng sản, còn phía
các học giả tự do cũng lờ mờ nốt, hầu như chẳng ai ít ra
trong phạm vi triết thấy được cách sáng tỏ, thế mà
có thể thấy được sự khác biệt giữa Á Au, mới
đáp được câu hỏi đâu là nét đặc trưng
của phương thức Á Châu.
Sau này thấy nền kinh tế Xô Viết
vẫn không đủ khả năng nuôi dân, Staline trở lại vấn
đề và cho rằng phương thức sản xuất Á Châu ở tại
tập trung sản xuất theo kế hoạch và sự kiểm soát của
chính quyền. Thế rồi đem áp dụng vào nông
nghiệp của Nga: kết quả vẫn không đủ ăn và nhất là
phẩm quá kém, thóc gạo thì mốc, khoai sắn
thì thối mục. Có phải tại phương thức Á Châu
đâu, đó chẳng qua là lối nhìn của cộng sản
và một số học giả Tây Au. Hoặc là chữ Á
Châu quá rộng nghĩa bao cả An Độ và Cận Đông.
Nếu nói gọn vào Trung Quốc và nhất là Việt
Nam thì phương thức đó trái ngược hẳn lại
cái nhìn của Staline.
Vậy sau đây là tóm lược
phương thức đó: như được hiện thực trong nước Việt cổ đại gọi
là Văn Lang. Sở dĩ chúng tôi nói tới Văn
Lang hơn là Trung Quốc là vì về vấn đề này
Văn Lang chính truyền hơn, đang khi Trung Quốc phần nào
đã bỉ bẻ quặt theo du mục bắc phương, nên giống Tây
Au nhiều hơn.
Vậy phương thức sản xuất Á Châu
trong nứơc Văn Lang ở tại bốn chữ tự do bình sản. Vì tự
do nên không có chế độ nô lệ. Còn
bình sản là ai cũng được tham dự tài sản quốc gia
theo định chế định kỳ quân cấp lại ruộng đất. Vì vậy
không có tư bản với vô sản. Nhưng đó mới
là hai hậu quả bên ngoài, còn gốc rể của
nó là chi? Chắc chắn không phải duy tâm sử
quan, cũng không phải duy vật sử quan mà là một vũ
trụ quan khác. Ta hãy đặt cho nó tên
là tâm linh sử quan. Theo nghĩa thông thường “chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài” hoặc nói vắn tắt
“có thực mới vực được đạo”: thực là ăn trở nên điều
kiện tiên quyết để hiện thực đạo. Tuy vậy theo Việt nho
thì đạo mới là phần chính, phần cốt cán của
con người, phần làm nên con người. Còn tài
sản, hay nói đơn sơ là vấn đề ở ăn tuy rất cần nhưng
đó chỉ là điều kiện mặc dầu là điều kiện bất khả
vô, nhưng mới là phần ngoài: phần chính bản
tính con người phải là tâm linh.
Tâm là chính cốt đến nỗi
thiếu nó con người không thể giải quyết vấn đề ăn mặc. Như
được chứng tỏ trong thế giới duy vật cộng sản nay, cũng như thế giới
duy tâm của Tây Au xưa, cả hai nơi chỉ chừng 20% dân
là chủ, là có ăn, còn 80% là
nô không có ăn, mà chỉ được nuôi sống
như người ta duy trì những con vật để nó kéo cầy,
chứ có được vươn lên đến những tầng cao đâu. Ta
có thể cảm nghiệm ngay trong mình điều đó: chỉ khi
hết bị dằn vặt về vấn đề sinh sống ta mới nghĩ đến được những vấn đề
cao thượng thụôc văn hóa. Nhưng nếu nghĩ đến văn
hóa đúng cách thì nó lại giúp
rất nhiều vào việc mưu sinh. Nói vậy có nghĩa con
người là một toàn thể không thể cắt lấy một phần
mà lo cho được, không thể cắt rời việc ăn mặc ra khỏi vấn
đề văn hóa tinh thần để lo cho chu đáo hơn, trái
lại nó sẽ tệ hại hơn rất nhiều. Muôn cho con người
có ăn thỉ phải lo đồng đều cả ăn mặc cả tinh thần, nói
theo triết lý là lo cho cả ý, tình,
chí. Chỉ lo một ý sẽ dẫn đến tai họa.
Xin mở dấu ngoặc để nói về trường hợp
Mao Trạch Đông đã đựơc tiếng là có óc
sáng tạo mà không mù quáng theo
K.Marx. Vậy tất cả sự “sáng tạo” của Mao là biết tựa
vào nông dân Á Châu mà theo
K.Marx chỉ còn có một vai trò lịch sử là
chết đi để làm phân bón cho cây cộng sản. Mao
đã làm trái hẳn lại điều đó. Tuy
nhiên Mao thành công không do cái
nhìn của triết mà là hậu quả của lương tri: sau
khi Mao đã theo lối hướn dẫn của Staline dựa trên thợ
thuyền rồi thất bại tam tứ thứ mới quay về với nông dân.
Vì vậy với sự quay về đó Mao đã không dọi
được tia sáng nào vào vấn đề sản xuất Á
Châu cả.
Biết đại để như thế rồi bây giờ ta
hãy liếc nhìn cách Việt cộng tìm lối
đáp cho vấn đề phương thức sản xuất Á Châu. Ta thấy
chúng rất hăm hở về đề tài này, vì
là đề tài đã được bàn tới rất nhiều trong
thế giới cộng sản, và vẫn chưa tìm ra đáp số
nên nếu Việt cộng tìm ra được lời đáp đúng
thì lúc ấy chúng sẽ có một đóng
góp ngoạn mục cho vấn đề nóng bỏng kia và lẽ ra
chúng phải tìm ra được. Là vì phương thức
đó đã hình hiện lên trong nước Văn Lang một
cách chói chang, cũng như được bảo lưu qua bao thế hệ của
Việt tộc cho tới tận đầu thế kỷ 20 này. Chỉ cần trút bỏ
“đảng tính” tức trú bỏ thành kiến do Marx, Staline
đã lèn vào đầu óc để xét lịch sử một
cách khách quan sẽ thấy phương thức Á Châu,
hay ít ra phương thức đó đã hiện thực ở Việt Nam
ra sao.
Muốn biết đặc tính của một phương thức
sản xuất thì cần xem dấu biểu lộ ra ngoài rõ hơn
cả, đó là vấn đề có giai cấp hay không
có giai cấp. Nếu có giai cấp thì tức là
có kẻ bóc lột và người bị bóc lột.
Đó là liên hệ chủ nô. Hỏi rằng ở Việt Nam cổ
đại là nước Văn Lang có nô lệ chăng, có giai
cấp chăng? Đây là chỗ lúng túng của Việt
cộng nên chưa đưa ra được câu đáp khoa
học.
Để trả lời câu hỏi này, cần
trước hết phải phân loại giai cấp, để tránh tình
trạng tiền đề nói về một sự kiện, đến tiểu đề hay kết luận nhảy
sang sự kiện khác dưới cùng một danh hiệu. Theo đó
ta thấy có đến bốn loại giai cấp:
Giai cấp giàu nghè quý
tiện
Giai cấp cai trị và dân
gian
Giai cấp kẻ thống trị và người bị
trị
Giai cấp chủ nô
Thứ đến phải định nghĩa thế nào
là giai cấp mình muốn nói tới. Phải tránh
hẳn lối nói khơi khơi thiếu định nghĩa, rồi sau thấy không
ổn thì thêm đầy những chữ nhưng vô duyên
vào để sửa lại. Thí dụ Văn Lang có giai cấp nhưng
chưa sâu sắc! Thế nào là sâu sắc, cần quy
định mới là nghiên cứu theo phương pháp khoa
học.
Vì thế để chữ lại, chúng ta cần
định nghĩa sơ qua thế nào là giai cấp. Theo mạch văn của
cộng sản thì trên hết phải hiểu là giai cấp chủ
nô, vì cộng sản là thuyết thoát thai từ thực
thể Au Châu quê hương của giai cấp chủ nô. Vậy để
có giai cấp chủ nô thì trước hết phải là một
định chế nghĩa là có pháp luật theo đó
nô lệ không có quyền tạo mãi tài sản,
không có quyền là người nữa, vì bị coi như
đồ vật, chủ có quyền đem bán hay huỷ hoại đi. Giả sử một
nô lệ bỗng nhiên trở nên giàu có, hoặc
tài giỏi như triết gia Epictete cũng vẫn không được
là người tự do vì hàng rào pháp luật
ngăn cản.
Thứ đến tỉ lệ nô lệ phải lớn, ít
ra quá bán số dân vì đó là
định chế nhà nước. La Hy xưa số nô lệ thường là 80%
lên xuống tuỳ thời và nơi, nhưng rõ ràng
là vượt quá bán.
Đem hai điều đó áp dụng cho Văn
Lang đều không có, nơi đây chỉ có sự kiện
nô lệ mà không có chế độ nô lệ.
Vì không có chế độ nên số phận khá hơn
rất nhiều, như được chủ tin dùng, cùng đi đánh
giặc với chủ, nhiều khi còn được gả con và cất nhắc như
An Tiêm là một mẫu đề. Vì vậy nên gọi
là nô tỳ hay tên gì khác và
tổng số tất quá vài ba phần trăm dân số.
Còn giai cấp giàu nghèo
chỉ là giai cấp thông thường, không là định
chế và không bao giờ hay ở đâu tránh được,
nó gắn liền với con người vốn khác nhau về may rủi
và tài cán, nên dù ở xã hội
nguyên thuỷ cũng có giàu nghèo nếu
không giữa cá nhân thì giữa các thị
tộc bộ lạc, rồi nữa nếu có bao giờ cộng sản thực hiện nổi
xã hội không giai cấp đi nữa thì vẫn cứ có
nguời nghèo kẻ giàu, chưa nói trong dân
chúng mà nói ngay giữa cán bộ với nhau. Vậy
giai cấp giàu nghèo không là một phạm
trù khoa học, không nên đem ra dùng khơi khơi
được. Tư bản thì khác vì nó nằm trong
xã hội Au Tây căn cứ trên giai cấp chủ nô mất
rồi, nên có thể dùng như phạm trù định
tính. Còn giàu nghèo bên ta
không thuộc loại đó.
Về giai cấp thống trị cũng không
có bên ta. Để đáng tên là giai cấp
thống trị không những phải có toàn quyền mà
còn có tôn giáo và văn hóa
riêng cho giai cấp đó được dùng để đè bẹp
văn hóa đại chúng. Bên ta trái lại chỉ
có một nềnv ăn hóa duy nhất của toàn dân, do
dân sáng tác và duy trì, đó
là những tục ngữ, ca dao, những truyện kể: vua tôi cũng ca
múa như nhau, cũng thờ gia tiên, quốc tổ như nhau. văn
chương bác học cũng múc chất liệu từ nguồn suối chung
đó, nên vẫn bám sát đời sống đại
chúng, không làm gì có văn hóa
riêng cho giai cấp thống trị, vì không có
giai cấp thống trị, mà chỉ có giai cấp cai trị, là
điều cũng tự nhiên: hễ đã có tổ hợp là phải
có nhà cai trị tức phải có người ứng tác,
điều hợp, ra mệnh lệnh… Vậy với xã hội Văn Lang thì
đó là Lạc Hùng, Lạc Tướng. Không thể gọi Lạc
Hùng Lạc Tướng là thống trị, vì họ rất gần
dân, họ giống với quan lang trên Mường khi uống rượu
thì lang phải đối đãi dân tử tế, khi dân cần
vay mượn thì phải cho dân vay, y như khi lang túng
thiếu phải vay dân vậy. Lang Liêu là con Hùng
Vương cũng túng nghèo như ai, nếu thật thống trị
đâu có thế. Tất nhiên không thiếu lạm dụng
nhưng đó vừa là trường hợp ngoại lệ, vừa đến một chừng
mực nào thôi.
Chỉ có một điểm kèm ngày
nay là cha truyền con nối, nhưng đời bấy giờ chưa tiến bổ đủ,
hoặc vì người xưa muốn tránh việc cướp chính quyền
gây xáo trộn đời sống. Tóm lại không
có giai cấp nên không có việc dân
oán hờn nhà cai trị, chứng cớ là trải qua nhiều
ngàn năm Hùng Vương vẫn được tôn thờ; mới lên
sổ sơ sơ đã có tới hơn bốn trăm đền điện ghi nhớ
Hùng Vương, vợ con tướng tá. Những nhà
nghiên cứu cộng sản coi bộ như quên mất chữ cai trị, chỗ
nào cũng thấy viết thống trị, cả đến chũ phục trong câu
“Hùng Vương dĩ huyền thuật phục chư bộ lạc” cũng phải thêm
tiếng thống phục vào mới yên mà lẽ ra phải dịch chữ
thần phục mới đúng với mạch văn.
Sở dĩ nhiều người (1) muốn Văn Lang có
giai cấp là vì họ đã dính chặt mắt
vào bộ tiền đề của K.Marx, Engels cho rằng mâu thuẫn giai
cấp là điều kiện thiết yếu để cho nhà nước xuất hiện.
Nhưng ai cũng thấy đó chỉ là sự kiện của Tây Au,
cùng lắm thì là luật tắc của những nước miền Lưỡng
Hà chứ không phải là luật phổ quát tức nhiều
nơi không cần giai cấp mà bộ tộc cũng có thể bước
lên nhà nước đựơc vì còn nhiều công
tác khác thí dụ những việc công như đê
điều, chống xâm lăng, xử kiện, đều đòi chính quyền
trung ương mạnh.
(1) Nói nhiều người vì cũng
có những học giả chủ trương Văn Lang không có
nô lệ. Tuy nhiên vì khả năng luận lý
và tinh thần chính xác khoa học không đủ sắc
bén nên không đưa ra được lý chứng mạnh mẽ để
thuyết phục đối phương. Tuy về các phương diện nghiên cứu
khác thì lề lối khoa học đựơc thi hành một
cách nghiêm chỉnh, nhưng về mặt suy luận thì tất cả
còn ở đợt ý kiến, vài người mấp mí đợt tư
tưởng còn vươn tới đợt triết gia thì tuyệt nhiên
chưa thấy bóng dáng.
Theo những điều trên đây
thì phải kết luận thế này là phương thức sản xuất
Á Châu ở tại bình sản và tự do. Bình
sản là ruộng để làm của chung làng xã rồi
cứ định kỳ quân cấp cho dân, như vậy là xã
hội không lấy tư sản làm căn bản, càng không
tuyệt đối hóa quyền tư hữu. Nếu có ít chút
tư điền thì đó chỉ là sự lạm dụng, sự áp
đặt do phong kiến về sau, không phải là nền tảng
lúc đầu và cũng không lấn át nổi chế độ
bình sản: tức ruộng đất chung bên ta vẫn chiếm phần đa số
ít ra tới thế kỷ 19.
Do đấy không có chủ nô
vì ai cũng tự do, ai cũng có tài sản cũng như
có quyền ăn nói: hễ đến tuổi thì được vào
hội đồng kỳ mục.
Vậy nếu cần một ngữ thuật chỉ thị tìn
trạng đặc trưng nọ thì đó là tâm linh sử
quan bao gồm cả trời và đất mà nho đã công
thức hóa thành câu: “thiên địa vị yên
vạn vật dục yên”. Trời đất đặt cho đúng vị trí
thì vạn vật sẽ được nuôi dưỡng. Điều đó Việt nho
đã đặt đúng theo thuyết tam tài thiên, địa,
nhân, cả ba đều là vua, người cũng là
vua.
Vua thực sự có địa vị. Địa vị
đó rất cao cả tức đứng giữa trời cùng đất, nên
có quyền thực sự: quyền trên vận hệ mình,
trên thân xác mình cũng như tâm
tình ý chí của mình, không ai được
xâm phạm tới. Khác với duy tâm nghĩ về con người như
một thứ hồn ma bay lâng lâng trên không
khí không cần phải nghĩ đến ăn uống, như vậy người
đâu có vị yên, đất cũng không có vị
yên. Lại cũng khác với duy vật chỉ nghĩ đến có
miếng ăn, còn bao nhiêu tình cảm tâm linh bỏ
hết như vậy đâu người có vị yên, trời cũng đâu
có vị yên, làm sao vạn vật dục yên cho
được.
Chỉ có vị yên là khi
nói đến con người như một vua trong ba vua. Đã là
vua phải có chủ quyền nào đó về tài sản.
Nó là bứơc đầu bảo đảm cho bước sau như tự do, nhân
phẩm, cũng như các động ứng phát huy các đức
tính làm nên con người toàn vẹn. Con người
toàn vẹn phải có cả quyền phát triển mọi khả năng
của mình thí dụ đức tính tiên liệu sao cho
miếng đất mình cấy cầy kết quả tốt đẹp. Nội một việc tiên
liệu đó đòi óc sáng kiến, điều động, dự trữ
dài hạn ngắn hạn, chứ không như người trong công
xã chỉ là một nô lệ bảo làm gì biết
làm việc ấy lúc ấy, mà không còn biết
gì đến ngày mại, hay toàn thể vấn đề ra sao.
Làm thế nào cho ruộng tốt, cấy giống lúa
nào, thời gian nào, tích trữ ra sao cho khỏi mối
mọt… Cả ngàn đều phải tự liệu… Chính những lo liệu ấy
làm nên những bứơc chân đi trên con đường kiện
toàn nhân tính.
Đó là những điểm then chốt
mà sự chối bỏ chỉ gây tai họa. Các nứơc cộng sản
đàn anh đã mở mắt dần. Khrushchev đã phải
bãi bỏ luật cưỡng ép bán nông sản cho
nhà nước; các nước Đông Au đã phế bỏ hầu
trọn lối canh tác cộng đồng. Trung cộng cũng phải bỏ dần
các công xã. Đó là những bước đi lần
về với phương thức sản xuất Á Châu. Tuy nhiên
đó chỉ là từng mảng phụ bên ngoài do kinh
nghiệm đau thương bó buộc phải sửa đổi, nên chưa đạt hậu
quả tốt đẹp. Muốn đạt sự tốt đẹp thì phải đổi triết lý:
từ duy vật sử quan đổi ra tâm linh sử quan, phải coi trọng con
người, mỗi con người với những nhu yếu thâm sâu của
nó mà nhu yếu đầu tiên là ẩm thực nhưng nhu
yếu cuối cùng lại là ăn lời tâm linh. Có vậy
mới mong lâu dài.
XI. MẶC
Đính nhân lý nghĩa: đội
lấy nhân dẵm lên nghĩa.
Đó có thể là câu
nói tóm triết lý về cách ăn mặc, trang sức
của tiền nhân. “Đính nhân là đội lấy
nhân”, nói kiểu khác đầu đội trời. Còn
câu chân đạp đất được thay bằng “lý nghĩa”, “dẵm lấy
nghĩa” tức đi theo nghĩa, mà “nghĩa” chỉ đạo lý
(nhân) được áp dụng vào từng trường hợp. Nhân
là đạo lý, còn nghĩa là đứng trước trường
hợp cụ thể thì phải áp dụng ra sao.
Muốn xét về ý nghĩa cái
Mặc của tiền nhân phải trở ngược lại thời văn minh. Xâm
mình là bước tiến đầu tiên để trẽ ra khỏi giai đoạn
“vật tổ”, “ăn Thánh” hay lối “thông dự nhiệm tích”
(communion sacramentelle) tức thời kỳ thờ vật tổ thì người ta ăn
thịt con vật được thờ để được tham dự linh lực của Thần vật ấy.
Đó là bước tiến thứ nhất ở tại bỏ ăn Vật tổ để mặc Vật
tổ: thờ con nào thì mang sắc phục con vật ấy, thí
dụ dân miền Altai (Thiên Sơn) thờ nai chà thì
xâm mình nai chà. Có thể một số tiên
tổ rất xa xưa của ta cũng ở vào giai đoạn này, đó
là giai đoạn thờ mặt trờ. Về phía các bà
lá mặc áo lông trĩ. Nhớ trĩ là chim mặt
trời, nên cũng gọi là Chu tước = con tước đỏ: đỏ mặt trời,
quẻ li.
Nhưng đến giai đoạn thờ Trời thì
các bà lại mang áo lông ngỗng (ngỗng trời
cũng gọi là Thiên Nga) đó là bộ áo
tiên. Còn các ông không có da
rồng để may áo, thì vẽ hình rồng trên
mình. Cũng trong đợt này nên kể đến tục xâm
trán (điều đề). Đây cũng còn là giai đoạn
mặc Vật tổ (trong đó có tục xâm mình) nhưng
cao hơn một độ vì dùng đến hình vẽ, tức là
tiến thêm một bước trong việc trừu tượng hóa, nhất
là có một số bộ lạc xâm trán với màu
xanh đỏ gọi là “xích văn lực tự”: xích là
đỏ, lục là xanh, nghĩa là văn đỏ chữ xanh. Đây lại
là bước tiến nữa lên đến đợt cơ cấu ngũ hành, trong
đó xanh chỉ đông, đỏ chỉ nam, tức hàm ngụ triết
lý của ta là đông (số 3) và nam (số 2) cộng
thành số 5, tức là ngũ hành với cái triết
lý thâm sâu của nó. Chính ở chỗ
này mà người ta thấy sự hiểu lầm được ghi lại trong
sách Lĩnh Nam Trích Quái: là xâm
mình long giao để khỏi bị giao long làm hại khi xuống
sông bắt cá. Đó là tán phỏng chừng
không có gốc rễ. Sự lầm này khởi đầu có lẽ
do một tác giả người Tàu là Cố Dã
Vương.
Xin nói thêm về chim trĩ. Chữ
Nho kêu là Địch. Địch là thứ trĩ có
đuôi dài, lông ngũ sắc. Ngũ sắc Nho xưa kêu
là hạ. Đôi khi đặt chữ Lạc trước thành Lạc Địch
thì nghĩa là chim trĩ của Lạc Việt (Leg III tr.105). Hoặc
câu nói thông thường của Việt Nho là “Lạc
Địch tập kỳ tả dực”, con chim trĩ của Lạc Việt thu cánh
bên trái lại. Hoặc câu “tuỳ dương Việt trĩ”, con trĩ
của Việ đi theo hướng của mặt trời. Trưng tới ba câu Nho để ghi
nhận bốn điểm sau:
Trĩ là chim của Lạc Việt.
Trĩ đi theo hướng của mặt trời.
Nó xếp cánh bên
trái lại.
Lông nó có ngũ sắc.
Cả bốn điều cần thiết để nhận ra di sản của
Việt tộc gồm chim trĩ có lông ngũ sắc (tức ngũ hành
đi theo hướng tả nhậm).
Đoán được chính ở vào
xuýt xoát giai đoạn này mà ta có thể
đặt để ý nghĩa cho nón chóp hình tam
giác, mà hình tam giác là một trong
những tiêu biểu lớn của nhân loại để chỉ thần minh hoặc chỉ
mặ trời (thay mặt thần minh) đối với giầy vuông chỉ đất hay
bánh dầy bánh chưng. Khi nói đầu đội trời
chân đạp đất thì có thể hiểu vào việc
này.
Hài cong của các bà xưa
là muốn cộng hai hình tròn (tam giác) với
hình vuông vào thành một nét cong.
Cũng trong chiều hướng này, ta có thể nghĩ đến các
thứ nón hoặc khăn của dân ta: khăn chữ nhất hoặckhăn chữ
nhân v.v… đều nằm trong ý hướng hiện thực lý tưởng
là “Thánh nhân thể đạo”= thánh nhân
phải biết mặc lấy đạo vào mình. Quần, áo, khăn,
nón hiện thực sự mặc tiêu biểu để giúp tâm
hồn mặc được đức tính thiệt. Đến giai đoạn biết dệt vải để may
quần áo thì giữ đạo lý vào kiểu áo
năm thân hoặc 5 cái cúc: xấp đặt theo số vài
ba là số cúc trên ngực 2 dưới hông 3:
làm nên ngũ hành. Ta thấy nhờ bộ số vài ba
mà đạo có thể “khảm vào” rất nhiều vật dụng thường
nhật như vậy.
Bây giờ còn việc cái
cúc áo thì cài bên nào? Việc
tộc cài bên tả gọi là tả nhậm (tư Di tả nhậm).
Còn Hoa tộc cài bên hữu xin hãy gọi
là “hữu nhậm”. Nhân tiện nên ghi vào
đây là những chim nào quen xếp cánh
bên tả như chim Lạc Địch, Tất Phương, Uyên Ương thì
nên hiểu đó là những chim của Việt tộc. Về sau văn
minh Tàu lấn át nên bắt người mình phải “hữu
nhậm” như Tàu. Mình yếu đành chịu vậy chớ biết sao
nhưng cố tìm cách gỡ gạc chút ít là
dùng vạt áo bên tả đặt lên vạt áo
bên hữu. Đó là một gỡ gạc gọi được là quan
trọng vì nó có tính cách triết
lý, tức bên tả là âm đi trước bên hữu
là dương theo thứ tự Việt là “âm dương: tả
đè lên hữu”.
Nhiều nơi cũng đắp vạt tả lên vạt hữu,
nhưng xét đồng văn thì đó chỉ là một sự
tình cờ do thuận tiện hay óc thẩm mỹ chứ không do
triết, thí dụ thì người Tây phương đến Tàu,
người Tàu thấy họ cài như vậy thì chê
là trái cựa.
Bài Mặc này tuy ngắn nhưng cũng
có thể coi như thí dụ rất chính xác của bộ
số vài ba (làm nên ngũ hành) nó
giúp ta rất nhiều trong việc tìm về nguồn. Việc ăn mặc
của dân ta tuy chẳng có hình thể nhiều nhưng nhờ
có bộ số đó mà ta theo dõi đựơc quá
trình hình thành và biến thể trong việc ăn
mặc của tiền nhân xưa các khá xác
định.
Đáng lẽ đây phải nói đến
bài “Nghê Thường Vũ yY Khúc”, vì đó
là đỉnh chót vót của triết lý ăn mặc, nhưng
vì đã nói đến hai nơi một trong Trống Đồng chương
V và hai ở bài Từ Việt Mễ tới Việt Thường. Vậy xin gửi
tới hai nơi đó để chấm hết bài.
XII. NÓI:
TÍNH THẾ SIÊU LINH CỦA TIẾNG VIỆT
Tiếng nói là một phát
minh rất sớm của con người. Có thể vì đó mà
Hy Lạp nói “đầu trước hết có lời”. Vì sớm sủa
nên rất quan trọng nó mang theo những đức tính của
nền văn hóa mà nó chuyên chở. Bởi vậy
nghiên cứu tiếng nói của một dân chính
là xử dụng một chìa khóa đa năng mở vào
nhiều kho tàng ẩn náu của nền văn hóa ấy,
thí dụ nhạc tính trong tiếng Việt tạo nên do
âm, thanh, vần, nhịp và đủ đề tài không những
cho ngữ học là điết tất nhiên, mà luôn cho
văn chương và cả tư tưởng nữa.
Hôm nay, chúng tôi thử
bàn về điểm cuối cùng, tức về liên hệ giữa cơ cấu
tiếng Việt và Việt lý xem hai đàng ăn chịu với
nhau đến đâu.
Trong các cơ năng hiển hiện của con
người, tiếng nói bày tỏ tính thể con người nhiều
hơn hết. Con người được định nghĩa là nơi giao hội của đức trời
đức đất, tiếng nói cũng vậy nó đứng giữa vật chất
và tinh thần, vì thế nó chỉ còn có
thanh âm mà thanh âm là cái đã
thoát khỏi hình hài khí chất, nó
là nhịp cầu nối thể chất ở đợt tinh vi cùng cực (thanh
âm) với cái vô hình là ý niệm
và tư tưởng. Chính do chỗ đó mà ta
có thể xét xem ngôn ngữ của một dân có
tinh thần nhiều hay ít.
Hãy nhớ lại câu định nghĩa Thần
trong Kinh Dịch là Thần vô phương. Thần không ở nơi
nào nhất định, thế có nghĩa là Thần có
tính cách uyển chuyển, biến động và thấu triệt…
Vật nào càng giàu thể tính năng động
và thẩm thấu thì càng giàu siêu linh
tinh thần. Theo tiêu chuẩn đó ta có thể chia tiếng
nói của loài người ra hai loại: một loại đi theo cơ cấu,
một loại vâng theo ngữ luật. Theo cơ cấu thì uyển chuyển
và giàu khả năng thẩm thấu. Theo ngữ luật thì bị
ràng buộc bằng cả một hệ thống mẹo luật gọi là ngữ luật
gồm động tự, danh từ, quán từ (article), giống, số, cách,
thì v.v… hợp tác nhau đóng khung câu
nói xuống theo một cấu trúc ngữ pháp nghiêm
nhặt cột chặt các tiếng vào một ý nghĩa
không thể hoán vị, hễ hoán vị là trật ngữ
luật và trở nên vô nghĩa. Có thể nói
chung đó là các tiếng Au Tây.
Loại hai đi theo cơ cấu thì
không có những thứ như trên, không thì,
không cách, không số, không quán tự,
trạng tự hoặc nếu có thì cũng đứng rời không ảnh
hưởng nhau để dễ bề hoán vị mà cơo cấu chỉ định đặng mang
theo ý nghĩa khác nhau tuỳ theo vị trí. Thí
dụ “vào được” khác với “được vào”. Đó
là tiếng Tàu và tiếng Việt. Ong Burton Watson (1)
nhận xét rằng ngữ luật tiếng Tàu rất đơn giản chỉ gồm
có thực tự và hư tự (full words and empty words) (chi,
hồ, giả, dã). Hư tự thường dùng như quán tự để
nốikết hoặc giải nghĩa, nhưng cũng thường bỏ luôn. Phương chi
tiếng Việt với cơ cấu rõ hơn và hư tự giàu
hơn.
(1) Early Chinese Literature, Columbia Univ,
Press N.Y.1962 p.146-170.
Về cơ cấu chỉ việc xem thí dụ
với 5 tiếng dưới đây: hễ hoán vị một chữ là
có ý mới.
Sao không bảo nó đến.
Nó đến sao không bảo.
Không bảo nó đến sao.
Sao bảo nó không đến.
Sao nó bảo không đến.
Không bảo sao nó đến.
Sao nó đến không bảo.
Không sao bảo nó (cứ)
đến.
Nó không đến bảo sao.
(Tôi nhớ láng máng xưa
kia đã đọc thí dụ này đâu đó,
có lẽ của L.M Lê Văn Lý thì phải và
với nhiều xếp đặt hơn)
Quả là một sự uyển chuyển và
năng động vô địch chứng tỏ trình độ cao cấp mà Việt
ngữ đạt được trong việc đi đến cơ cấu. Lấy về đàng số mà
nó thì cơ cấu thượng thặng phải gồm ba bộ số: 2, 3
và 5.
Số 2 nói lên tính chất
năng động căn bản. Muốn động phải có hai hạn từ: động bao
hàm sự di chuyển từ A đến B, bứơc chuyển động cùng cực
là từ vô tới hữu, tứ có tới không, nên
số 2 nền tảng phải là từ có tới không.
Số 3 nói lên nhân chủ
tính. Vì nhân chủ nên đứng ở giữa,
không hề lệ thuộc vào hai thái cực nhưng độc lập
như một chủ nhân ông. Số 2 là số căn bản có
đấy trong trời đất giữa sáng tối, đất trời, đực cái, cứng
mềm… Thế nhưng duy trì đựơc số 2 trong văn hóa phải
có một nền nhân chủ mới đủ mạnh để duy trì,
và sự duy trì được biểu lộ bằng số 3, nên số 3
là số nhân chủ, là số chỉ đựơc đề cao trong văn
hóa có nhân chủ tính. Chứ như trong duy vật
hay duy tâm thì không có số 3 vì con
người thuộc vào một trong hai bên, vào trời hay
đất, duy vật hay duy tâm, và chỉ có một tức
nguyên lý đồng nhất được đề cao rất mực. Còn số 3
bị gảy bỏ. Pháp gọi là tiers exclu = triệt tam. Tertrium
non datur.
Số 5 là số ngũ hành
thành bởi 2+3 cũng gọi là “vài ba” hay “tham
lưỡng” tức nói lên tác động cùng cực của con
người. Muốn làm được tác động cùng cực thì
phải là con người nhân chủ (số 3) còn tác
động cùng cực là nhảy từ có tới không, phải
hiểu là cõi không u linh đầy tràn diệu hữu
gọi là tâm linh. Chính vì thế mà để
tóm tắt thì quan nói số 5 là số tâm
linh, hay là số thẩm thấu cùng cực. Tóm lại sự
uyển chuyển (do cơ cấu) nói lên sự thẩm thấu cùng
cực, thẩm thấu biểu lộ tình chất tâm linh (số 5).
Tâm linh biểu lộ bằng số 2 (từ có đến không)
và tính chất nhân chủ số 3. Đó là
tóm lược tinh tuý của bộ cơ cấu “vài ba tham
lưỡng”. Có bộ cơ cấu đã được chi tiết hóa như vậy
rồi bây giờ chúng ta thử đi vào phân
tích tiếng Việt.
Số 2
Số 2 quan trọng như nền tảng được bàn
trong bài Nét song trùng (Kinh Hùng).
Đây là nền tảng tối quan trọng nên văn hóa
nào thiếu nó thì sẽ gieo tai họa. Hiện nước ta
đang phải rên xiết dưới ách độc tài chuyên
chế phi nhân của cộng sản thì cũng vì cộng sản
thiếu nét song trùng. Bởi cộng sản là duy vật. Tại
họa nằm trong chữ duy. Chữ ấy nói lên sự thiếu nét
song trùng một cách công khai lộ liễu, nên sự
hiểm độc, đi đến thái thậm. Chính cái độ
thái thậm nọ làm cho nhân loại giật mình mới
nhìn nhận ra căn nguyên tai hại, chứ trong thực tế
thì văn hóa Tây Au đã đánh mất
nét song trùng từ khuya. Heidegger kêu là
đánh mất nét gấp đôi (the twofoldness).
Chính sự đánh mất này là nguyên uỷ
sâu xa tại sao văn hóa Tây Au trải qua 25 thế kỷ
không sao kiến tạo nổi một nền triết lý hòa giải,
như chúng tôi đã mình chứng điều đó
trong quyển sách mang tựa đề như trên và đề nghị ra
một nền triết lý hòa giải đặt nền trên Việt
lý (rất tiếc bản thảo quyển này đã bị mất
vào dịp tị nạn năm 75) là vì cuối cùng
chúng tôi khám phá ra trong triết Việt
có nét song trùng nọ, nó hiện hình
vào cùng khắp những gì quan trọng như vật biểu
là tiên rồng, cai trị nước đựơc biểu thị bằng bánh
trời bánh đất, quê nước được kêu là
sông núi v.v… cái gì cũng đi cặp đôi
như thế.
Vậy sự đi cặp đôi nọ cũng thấy nhan
nhản trong tiếng Việt một tiếng nói gọi là độc âm,
nhưng lại ưa đi đôi theo lối nhị âm một cách
tràn ngập: chợ búa, chăn màn, giờn phản,
làm lụng, ngổn ngang, hồ hởi, lè phè… (Theo
môn Việt Nghĩa Lý (1) thì ban đầu tiếng ta đi
đôi. Về sau chịu ảnh hưởng Tàu nên mới đi vào
hướng một).
(1) Mỗi khi nói tới Việt Ngữ Lý
là tôi quy chiếu tới cụ Mai Ngọc Liệu người đã mở
ra một trường phái riêng về ngữ lý học đặc biệt
Việt Nam. Tôi đã được đọc một vài bài thấy
các khám phá của cụ có nền tảng
nghiêm túc. Xin chờ đọc cụ Mai Liệu để biết thêm về
ngữ lý của ta.
Thường thì không mấy người
để ý đến lối đi cặp đôi đó vì tiếng
nào trên thế giới chẳng có, thí dụ blanket,
table thiếu chi. Nhưng khi nhìn lại liền nhận ra đó
là tiếng đa âm nên cần cả hai âm mới đủ nghĩa,
nói mar không đủ, phải thêm ket vào mới
có nghĩa là chợ. Còn tiếng Việt nói chợ
là đủ, âm búa không cần cho ý nghĩa,
thêm vào có thể coi là thừa, là hư
tự, có người cho là vô ích. Kỳ thực
thì nó không còn nằm trên cấp vô
ích với hữu ích, nhưng đã vươn vào
vòng trong. Trong bộ triết lý An vi tôi hay
dùng chữ vòng trong thay cho siêu hình,
là vì vòng trong tàng ẩn ngay trong sự vật,
khác siêu hình đi luôn vào cõi
ý niệm, kêu là lý giới như của Plato.
Còn “vòng trong” là cái gì vẫn nằm
trong sự vật làm nên cái hồn, cái ý
nhị của sự thể và như thế là diễn tả nét song
trùng cách thẩm thấu, nên ta còn nhận thấy
tính chất thẩm thấu đó ngay trong chữ cặp đôi được
bày tỏ bằng nhiều lối.
- Liên hệ ý nghĩa như nâng
lên, hạ xuống, mở ra, đóng vào, chợ búa, tập
tễnh mon men…
- Liên về lân cận, về liên
tưởng như chăn màn, bát đĩa, giường chiếu, mâm
bàn, nồi niêu, xoong chảo, viết lách, nói
năng, ăn ở, điệu bộ…
- Có khi bằng nguyên âm
như ngâm nga, ngân nga, nết na (nguyên âm N),
lập loè (L), đủng đỉnh (Đ), kêu ka (K)…
- Có khi bằng chủ âm như lỉnh
kỉnh (ỉnh), khoác lác (ác), lảo đảo
(ảo)…
- Có trường hợp đặc biệt về chủ
âm iếc như học hiếc, thi thiếc, làm quan làm kiếc,
láo liếc, ho hiếc, ốm iếc, phải đi xin eo phe eo phiếc,
phút tem phút tiếc…
Trên đây chỉ kể sơ qua một
cách ngẫu hữu (cách hệ thống dành lại cho ngữ
lý học) vừa đủ để chứng tỏ đó là một sáng
tạo không phải là vô ích như có người
tưởng, mà là tối quan trọng để diễn đạt nét song
trùng của Việt Lý, hai mà một, một mà hai.
Số 3
Bây giờ xin hỏi hậu quả nét song
trùng là chi? Xin thưa đó là số 3 chỉ nền
Nhân chủ tức một nền nhân sinh quan hùng
tráng cùng cực đến độ trời cao đất thấp mà cũng
có thể nắm giữ cùng một trật để làm nên
“cõi người ta” ở giữa trời cùng đất. Nếu là thứ
nhân sinh quan yếu hèn thụ động thì chỉ nắm nổi một
bên: đánh mất nét song trùng và trở
nên một chiều kích, một duy nào đó:
vì chọn một bỏ một, chọn lý bỏ tình là duy
lý, chọn trời bỏ đất là duy tâm, chọn tư sản bỏ
vô sản là tư bản, chọn vô sản bỏ tư bản là
cộng sản…
Cứ thế mà giằng co chống đối, đấu
tranh, đựơc bên nọ mất bên kia, nên gieo tai họa cho
con người vốn là một vật lưỡng thê (sống ở hai cấp
bậc).
Văn hóa con người chia ra được hai
loại lớn một bên có nhân sinh quan hùng mạnh
thì sẽ nhân bản hóa vũ trụ còn bên
có nhân sinh quan yếu ớt thụ động thì tất sẽ bị vật
hóa, như triết học bàn về con người theo cung cách
bàn về sự vật tức đứng cùng một bộ định đề và
nguyên lý của sự vật nên người bị vật hóa, Mỹ
kêu là “man reified”, như đã được nhắc tới trong
tiếng người homme do tiếng humus là đất bùn: cả hai tiếng
cùng một gốc đất. Sau đây là mấy thí dụ nền
tảng.
Tây Âu gọi trời là the
sky, đất là the earth, còn Việt Nam thì kêu
là Ông Trời, Ông Địa. Thế là ta đã
thấy khuynh hướng nhân bản hóa vạn vật ló dạng
trong chữ ông đặt cho trời cho đất. Hãy đi đến vài
thiên thể lớn nhất là mặt trời mặt trăng, hai chữ mặt
nói lên bóng dáng con người chiếu dọi tới
trong chữ mặt: mặt trời, còn mặt trăng không những
là mặt trăng mà còn có cả cưới xin nữa tức
nhân bản hóa trọn vẹn.
Trẻ con hát: “Ông trăng
mà lấy bà trời”.
Câu này chở theo bầu khí
sơ nguyên của thời mẫu hệ lúc mặt trăng còn nắm
chính quyền kêu là ông trăng, về sau đến thời
phụ hệ thì ông trăng trở nên bà nguyệt. Như
vậy kể có phần mất mát nên dân gian an ủi
bằng cách rút tuổi đi và kêu là
cô Hằng, đã vậy còn yêu cô ra
rĩ.
Tôi yêu cô Hằng
Đêm xưa xuống trần
Mình ơi tình ơi.
Nhưng thôi yêu em anh để trong
lòng để anh xét tới các vật khác. Vậy khi
xét tới cách kêu tên các vật ta thấy
sự khác biệt lơn giữa Tây ngữ và Việt ngữ. Ta
thì kêu là cái là con, cái
bàn, cái bút, cái nhà… con
gà, con cá, con trâu. Tây thì lại
chú ý đến đực cái trừu tượng: le monde, la table
v.v… sự khác biệt này nói lên nhiều
nét đặc biệt, mà điểm đầu tiên là tiếng
Âu Tây quá ứơc định, thí dụ nói la
table giống cái thì căn cứ vào chi mà bảo
cái với đực.
Thứ đến là vụ giống cái
thì tiếng Pháp phải thêm “e câm” (e muet).
Nếu theo cụ thể thì e câm phải cho vào giống đực.
Các bà nói nhiều thì e nói chứ sao e
câm? Hay là có ý bảo các bà
phải “câm đi” theo cung cách duy dương độc chiếm,
đàn áp đàn bà?
Ngựơc lại tiếng Việt thì có nền
tảng đàng hoàng vì căn cứ trên sự sống hiện
và sống ẩn. Sống hiện kêu là con: con gà,
con vị, con chim… sống ẩn kêu là cái: cái
nhà, cái bút, cái ban. Đây mới
là nét xét vòng ngoài chứ
vòng trong còn lắm điều hay kinh khủng.
Trước hết nên nhớ chữ cái xưa
kia có nghĩa là mẹ như câu con dại thì
cái mang (tội). Như vậy hai tiếng con cái nói
lên mối tình thắm thiết nhất trong loài người được
đem dùng cho sự vật. Đó là tang chứng không
những nhân bản hóa vạn vật mà còn đem đặt
vào đó mối liên hệ bao là và
sâu thẳm nhất, nên vạn vật được ràng buộc với nhau
như một thân thể, mà nho kêu là “thiên
địa vạn vật nhất thể”. Chính quan niệm nhất thể này
gây nên môi sinh tinh thần công thể (espirit
communautaire) mênh mông không những bao trùm
nhân loại không phân biệt chủ nô, mà
còn tỏa ra khắp vũ trụ đến nỗi Nguyễn Công Trứ đã
nói được “vũ trụ nội mạc phi nhân sự” = trong vũ trụ
không có chi không phải là phận sự của ta.
Nó khác biết bao với cá nhân chủ nghĩa, mọi
cái rời rạc xa lạ như Alber Camus đã nói đâu
đó rằng: tôi cảm thấy tôi xa lạ với vũ trụ, với
Thượng Đế, với tha nhân và hỡi ôi với chính
tôi nữa.
Điểm hai nó dính dáng
đến lịch sử, lúc mẫu hệ nhường quyền cho phụ hệ. Ơ thời mẫu hệ
thì cái chỉ vật sống hiện như câu:
Cái cò cái hạc
cái nông
Sao mày nhổ lúa ruộng
ông hỡi cò?
Nhưng đổi sang phụ hệ thì cái
lui vào hậu trường để chỉ những gì có cái
sống ẩn tàng. Huyền sử nước ta chỉ thời quá độ bằng
truyện 50 con theo mẹ lên núi lập ra nứơc Văn Lang
và chia nhau cai trị thay mẹ. Còn mẹ rút
vào trong nắm lấy cái “cồng bà” với chức nội tướng
và từ đấy thì vật sống ngầm kêu là
cái: cái bút, cái chén, cái
nhà, còn vật sống hiện thì kêu là con
“con cò bay lả bay la”
Trên đây chỉ là cái
nhìn thoáng của triết, vừa đủ để đặt ra nhiều vấn đề
bàn luận để gây sinh động trong lãnh vực văn
hóa, cũng như để nhận ra mối liên hệ giữa tư tưởng
và ngôn ngữ: cả hai cùng một nét song
trùng y hệt. Nếu tư tưởng là tiên rồng, sông
núi, đất trời, mẹ cha… thì ngôn ngữ cũng
thích đi cặp đôi: chăn chiếu, ngân nga, lê
phê, ve vãn. Nếu tư tưởng là nhân chủ
thì tiếng nói cũng thế, từ ông trời, qua cô
hằng cho đến cái cò, con tôm, cái nồi,
cái chảo đều mang ấn tích con người. Đó là
hai bước song trùng và nhân chủ hay là nhịp
vài ba 2-3 hoặc tham lưỡng = 3-2.
Số 5
Bây giờ xin bàn đến số 5 hay
hành ngũ, nó bao trùm tiếng ta bằng 5 dấu huyền,
sắc, nặng, hỏi, ngã. Tại sao tiếng ta lại được tràn hợp
bởi số 5. Ý nghĩa sâu xa nằm ẩn trong hai chữ hành
ngũ. Hành là hành động vì đây
là đợt cơ cấu nên phải nói tới hành căn để,
vậy hành đó là bước vào cung ngũ mà
theo cơ cấu là “hành vô hành”, “địa vô
địa” tức là An vi = theo nghĩa không còn đối tượng,
đi đến chỗ “vô thanh vô xú”. Cái bứơc quan
trọng đó Kinh Dịch kêu là “thiệp đại xuyên”
sang qua sông lớn, nhà Phật kêu là
“đáo bỉ ngạn” vì thế cần thuyến bát nhã,
mà trong trống đồng là thuyền rồng là thứ “thuyền
tình bể ái” cùng cực để nối trời với đất.
Vì thế xa xưa trống Linh Cổ có 6 mặt và có
cái cả 8 mặt. 8 mặt chỉ trời (8 gió của Kinh Dịch) 6 mặt
chỉ đất (lục phương). (1)
(1) Thứ trống này gọi là Linh
Cổ được nói đến trong sách Mục Thiên Tử truyện,
chương 5. Linh Cổ có 6 mặt nhưng cũng đựơc trình
bày như trống kép 3 (6 mặt) và được dùng để
tế thần đất (nhờ Thổ Bá có ba con mắt). Còn trống
8 mặt cũng gọi là trống sấm để tế trời. Lẽ ra 6 trời 8 đất hay 3
trời 4 đất chứ sao lại 8 trời 6 đất. Thưa ở đây theo luật Giao
chỉ là theo dụng mà không theo thể (thể viên
dụng phương, thể âm dụng dương) 3 trời dương nhưng dụng 4
vuông. 4 đất âm nhưng dụng dương. Vì luật giao chỉ
đó mà Phục Hy dương lại cầm cái củ vuông,
bà Nữ Oa âm lại bồng cái quy tròn (diễn
nôm là ông giò miếng chả, bà giả miếng
nem, nem Thủ Đức gói khá tròn!). Còn nhiều
rắc rối khác nên không lạ con cháu mất trọn
ý thức về bộ cơ cấu uy linh của mình. Chúng
tôi đạt cố tìm lại dấu vết trong hai quyển Kinh
Hùng Khải Triết và Sứ Điệp Trống Đồng.
Nhưng xin hỏi 6-8 liên hệ với ngũ
hành chỗ nào? Thưa đó là liên hề ngầm
có đầy trong các số cơ cấu là loại số cũng đầy
uyển chuyển linh động. Vậy 6-8 cũng là 3-4 (cặp đôi)
mà 3-4 cũng chính là 3-2 mà 3-2 là
số 5, số 5 kép bởi 3 trời 2 đất. Hai đất cũng có thể
là 4 đất, hai số có thể dùng thay nhau: 2 hay 4
cũng được. Nói 3 + 2 (vài ba) hay 3-4 cũng là một.
Nhà Phật nói “tam tế tứ đại” = 3 cái tế vi chỉ
trời, chỉ cái gì vô hình siêu linh, tứ
đại là 4 cái thô đại chỉ đất. Đó là
liên hệ ngầm giữa 6-8 (ra 3-4) với ngũ hành. Ngũ
hành thành bởi 3-2. 3 chỉ nhân chủ, 2 chỉ bứơc
lưỡng hành: hành trong cõi hiện tượng lẫn
hành trong cõi vô hình: có vậy mới ra
lưỡng thê = amphibious gồm cả cái sống của phàm
ngã lẫn siêu ngã. Ta thấy tính chất
ghê sợ của hành ngũ cũng biệu thị bằng số vài ba,
3+4 hay 6+8 sâu xa dường nào, thẩm thấu tới tận trời
cùng đất. Có ngày chúng ta sẽ tham luận về
tính chất thiên biến vạn hóa của hình
thái song trùng kép này.
Hôm nay chỉ xin áp dụng bộ số
vài ba vào ngữ lý. Ta biết song trùng
là nhịp đầu, nhân chủ là nhị kép một,
vài ba là nhịp kép hai. Ta đã thấy tiếng
Việt phản chiếu hai nhịp đầu (song trùng và nhân
chủ). Bây giờ đến nhịp vài ba nó cũng phản chiếu
cách kỳ diệu trong thể thơ lục bát (6 là 3 cặp, 8
là 4 cặp). Hãy mở truyện Kiều ra đọc những câu lục
bát tuyệt vời:
Trăm năm / trong cõi / người
ta.
Chữ tài / chữ mênh / khéo
là / ghét nhau.
(đánh dấu phân để thấy câu
đầu có 3 cặp, câu sau có 4 cặp)
Cơ cấu nói bằng số vài ba hay
nói bằng hình tròn vuông giao hợp, hoặc cụ
thể cùng cực là làm hai chiếc bánh dầy
bánh chưng, hoặc muốn sổ nho thì “thiên viên
địa phương” đều cũng một cơ cấu. Vậy cơ cấu đã hiện thân
cách kỳ diệu vào ngôn ngữ qua thể thơ lục
bát trong cách gieo “yêu vận” tức câu
trên không gieo vận vào cuối câu mà lại
gieo vào lưng vào lòng câu sau:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo
là ghét nhau.
Vậy mới là tình thâm chứ!
Đọc lên như thầm bảo “yêu em anh để trong lòng
(trong là) mà không để ngoài da đâu!
Em đừng có ngại! Thật là bất ngờ, thảo nào thể lục
bát được nhìn nhận là thể thơ độc nhất nói
lên đức tính An vi ở chỗ gieo toàn vần bằng: dấu
hiệu của an lạc siêu linh.
Xem ra thể thơ này cũng có
trong nhiều chi của đại chủng Việt vì thấy hiện diện trong nhiều
chi khác và có thể ngờ là đã đựơc
phản chiếu vào trống đồng Ngọc Lữ nơi vòng hoa văn giữa
gồm 14 con chim chia hai bè: một bè 6, bè kia 8.
Phải chăng chúng đang ngâm thơ lục bát. Ít
ra lục bát đang manh nha? Vì thế mà chúng
có thái độ siêu thoát trần tục để đi về miền
thái cực linh thiêng. Dầu sao mặc lòng, tức dầu 6-8
con chim có phản chiếu lối thơ lục bát hay không,
nhưng không ai chối cãi rằng đó là thể thơ
đặc trưng của Việt tộc, gói ghém cả hai bộ số 2 và
3 cũng như cơ cấu kép vài ba. Có thể lối đó
đã manh nha từ buổi bình minh với nhịp trống quân
khai quốc. Câu sáu có thể chỉ bè nam (3 cặp
từ) câu 8 bè nữ (4 cặp từ) tức là đã từ
lâu đời lắm. Chính vì vậy mà lòng ta
nao nao ngây ngất khi đọc những câu lục bát trong
Kiều nhất là khi gặp những chư đi đôi như nao nao, nho
nhỏ, sè sè… Mỗi cặp đôi xuất hiện như nhịp cầu 2
mối: một mối bắc bên có mối kia cắm vào hư
không làm cho ta như chạm vào cõi u linh
bát ngát.
Nao nao dòng nước uốn
quanh.
Nhịp cầu nho nhỏ dưới ghềnh bắc
ngang.
Sè sè nắm đất bên
đường.
Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Xem thế đủ biết tiếng ta thuộc loại
ngôn ngữ đầy tràn nhân chủ tính cũng như
tâm linh tính tức nghiêng về nghệ thuật và
triết lý: đề cao cái tổng quát trên
cái tư riêng, tránh rõ rệt, ưa âm u
nên dùng rất nhiều hư tự.
Ngược với tiếng của Au Mỹ có
tính cách khoa học ưa khúc chiết khi đến độ
không cần, thí dụ bắt cả mọi cái phải là đực
hay cái, số nhiều, ít phân biệt chi li. Ta
nói “ba cái hoa này đó”, chỉ một chữ ba đủ
chơi vai trò số nhiều, các từ khác không bị
phiền hà chi cả. Mỹ thì “these three flowers are red”.
Đã có three rồi còn bắt these flowers cũng phải
thêm chữ s, this phải đổi ra these, verb phải đổi ngôi
và số is ra are. Tiếng Pháp còn phải đổi đỏ ra đỏs
(rouges). Đó là một thí dụ về sự tôn thờ
ý niệm mà tiếng nói là dấu hiệu. So với
tiếng Việt thì vừa thừa mà lại thiếu, thừa vì
đã có 2 chữ s, verb còn phải đổi ra số nhiều;
thiếu vì chữ ba không đủ bao quát toàn bộ,
đấy là điểm một, còn điểm nữa là cú
pháp mạch lạc mà cơ cấu yếu: ta nói ăn được, được
ăn… chỉ cần đổi vị trí của từ. Còn Mỹ phải dùng
hai verb can và may. Đấy là lý do ngữ luật trở
nên bề bộn và đựơc quan trọng hóa rất mực. Ở La Hy
xưa trẻ mới khai tâm phải học ngữ luật chứ không học về
luân lý, sử ký.
Tiếng ta trái lại rất đơn sơ nên
có sức hàm súc nhiều. Trong quyển Man and People
ông Ortega Y Grasset nhận xét rằng tiếng Tàu
giàu nhất thế giới về khả năng hàm súc
(comprehension) do cơ cấu mạnh với sự dùng nhiều hư tự,
vì hư tự chơi vai trò âm u với toàn
bích. Ta có thể nói về tiếng Việt như vậy
mà còn hơn nữa vì về hư tự thì tiếng Việt
giàu hơn tiếng Tàu. Hư tự của ta là những chữ
kép vào không cần thiết thí dụ nói
chợ, nết, ngân đủ rồi không thêm chợ búa, nết
na, ngân nga như ta quen dùng: đó chỉ là hư
tự không cần mà lại cần: không cần cho nghĩa từng
chữ nhưng lại rất cần để móc nối với âm u toàn thể.
Đó là nét biểu lộ nhiều tính chất triết
lý của dân tộc chủ nhân trống đồng, trống là
hư, là không, hư không làm nền tảng cho triết
Việt do thế mà ngôn ngữ của ta tràn ngập hư tự tức
là tiếng đầy triết lý nhân sinh vậy.
Có lẽ đây là lý do
của một kinh nghiệm bản thân tôi. Số là nhiều người
đọc sách tôi mà không hiểu, có người
đề nghị cần sửa đổi dăm ba từ ngữ thí dụ không nên
viết “cần suy nghĩ lại”, “đã bàn rồi”, “xin nhắc lại”
mà nên viết cần chúng ta suy nghĩ lại, chúng
tôi đã bàn rồi, chúng tôi xin nhắc
lại… Tôi bằng lòng sửa lại vì với tôi từ ngữ
chẳng qua chỉ là để hiểu đạo, nói chúng ta cần suy
nghĩ lại là đặt nổi chủ từ như Tây Au cũng chẳng sao, y
như hiện nay trong việc viết tên ta phải đặt cá nhân
trước dòng họ, thay vì Lý Ông Trọng
thì phải viết Trọng Lý Ong, thôi thì
vào xứ cá nhân ta cũng phải đành đi một
đường cá nhân vậy. Nhưng nhượng bộ rồi tôi cứ
cảmthấy một cái gì ray rứt tạm gọi là khổ
tâm như phải đi xa khỏi việc coi trọng gia tộc hơn bản
thân, coi trọng lối giương mặt cá nhân (tôi,
chúng tôi) hơn là ẩn náu để nhường chỗ cho
đạo lý… nhưng gặp thời thế thế thì phải thế. Phải thế
nhưng vẫn suy đi nghĩ lại về khía cạnh triết lý của tiếng
Việt và ghi lại một ít trong bài này để mở
chân trời cho những suy nghĩ về sau.
XIII. LÀM
Không còn chi vinh dự hơn khi
nghĩ đến rằng tiên tổ chúng ta đã thiết lập được
một nền triết lý tác hành. Tuy nhiên
đó là mối vinh dụ ít ai ngờ, cần phải được
phân tích thấu đáo mới thấy được.
Trứơc hết xin hỏi rằng thế nào
là triết lý tác hành. Đây là
câu hỏi đầy khả năng soisáng, được gơi ra do phương
pháp tỉ giáo, tức là triết lý hiện đại đang
cố thiết lập một nền triết làm bằng động tự như Heidegger cố
chứng minh rằng là một hình thức sa đọa của To Be. To Be
là một động tự, To Be (verb) sau đã đốc ra danh từ being.
Nếu triết xây trên verb To Be thì là triết
ngon, ngược lại xây trên danh từ being là triết
hỏng. Vì being là một vật thể (entity) mà
không là động tự To Be như thưở sơ nguyên nữa.
Đây là những vấn đề người ngoài thấy như vô
tích, kỳ thực thì thế giới chỉ huy do những vấn đề tế vi
nọ, nơi mà “sai một li đi một dặm”. Con người phải chịu trận với
một dặm là những ác quả của cái sai lầm một li,
nhưng vì bé quá (một li) nên không
thấy. Thế nhưng nếu dùng sự so sánh một dặm hậu quả
thì có thể nhìn ra sự quan trọng của một li,
và lúc ấy sẽ hiểu tại sao dựng nên được một triết
lý bằng động tự, bằng tác hành là một vinh
dự tối cao. Tại sao triết gia thượng thặng của Tây Au hiện nay
được nổi tiếng chỉ vì khám phá ra sự vụ động tự
“To Be” đọa ra “Being”, tức triết lý tác hành ban
sơ đọa ra triết lý ý niệm nằm lì bất
động.
Vấn đề nằm trong tâm lý con
người mà Việt nho nói là “nhân tâm duy
nguy” = tâm con người rất tế vi dễ nghiêng lật nên
đầy nguy hiểm, vì nó là khởi điểm cho những sự
nghiêng lệch ở những chỗ chẳng ai ngờ đến. Để soi sáng sự
nghiêng lệch này xin lấy một thí dụ trong câu
“tôi dọc sách” gồm ba hạn từ: tôi, đọc, sách,
có ai ngờ rằng chỗ quan trọng hơn hết là chữ đọc,
là động từ, là verb, nếu không xây trên
động tự mà xây trên năng là tôi, hay
trên sở là sách thì đêu là bước
tiến lên đầu mối nghiêng lật. Xưa nay các nền triết
đều nằm trong chỗ nghiêng về tôi, hoặc về sách. Về
tôi là duy tâm, về sách là duy vật:
đây là đợt một li.
Hãy đi xuống một độ nữa là
thứơc (còn lâu mới đến một dặm) thì ta sẽ thấy
loài người như Descartes xây triết trên câu
“tôi suy tư, vậy có tôi”. Câu ấy nói
lên cái bệnh duy tâm nghiêng hẳn sang
phía bên chủ tri (subject) là “tôi suy tư”,
nghiêng đến nỗi không còn tin là có
đối tượng nữa, những người đi đường mà ông xem thấy
ông không dám chắc là có, cuối
cùng ông phải nại đến uy quyền Chúa phán
rằng phải yêu người ta, thế là đích rồi, nhất định
có người ta, vì có người ta mới yêu được
chứ. Nhưng đó là tin người ta, nên không lập
lại được quân bình giữa chủ tri nên gọi là
nhị nguyên: hai bên li lìa không tìm ra
được mối liên hệ giữa chủ tri (tôi) và đối tượng
(sách), vấn đề đành bỏ dở.
Về sau Malebranche đưa ra thuyết hòa
hợp tiền chế harmonie preetablie để cứu vãn tình thế: đại
để là Chúa dựng nên một linh hồn (tôi suy tư)
và một thân xác song song với nhau. Tôi muốn
đọc sách và xác thân tôi, mắt
tôi đọc sách. Hai việc đó: tôi muốn đọc
sách và chính việc đọc sách không
liên hệ chi với nhau, nhưng nhờ sự hòahợp tiền chế
nên lúc tôi muốn đọc thì cũng chính
là lúc cái máy xác thân chạy
đến chỗ đọc.
Đó là một thí dục
cùng cực của sự chi li, vớ vẩn của triết có thể đem rốt
nhà thương điên. Thế nhưng xưa nay chỉ có chửi
triết chứ ai dámnghĩ đến đưa các triết gia vào
nhà thương điên. Thực ra có cho tiền cũng
không ai dám làm, vì rằng các
chính quyền tự xưa tới nay cứ bắt người học triết phải học như
thế, nếu có rốt thì phải rốt mấy ông nắm
chính quyền trước đã, rồi mới đến các người
khác, nghĩa là tất cả mọi người. Bởi vì mọi người
đều chịu ảnh hưởng của những thứ triết đó, của Plato đặt căn cớ
trên lý giới (duy tâm), của Aristotle đặt trên
ý niệm bản thể sự vật (duy vật). Các triết gia sau tuy
có phá phác, có thử thách đủ mặt
nhưng không sao rút chân ra khỏi hai hạn từ
đó mà triết đông goi là năng (subject) sở
(objet). Vì thế mà xã hội Tây Au đầy những
sự chia rẽ tự nền tảng: vô thần chống hữu thần, chủ chống
nô và ngược lại, rồi tư bản vô sản, chủ nhân
thợ thuyền, bà chống ông… Không một mối liên
hệ nào là vắng bóng sự chống đối. Lâu
ngày một số trí giả hé nhìn ra đôi
chút lỗi tại đâu nhưng phải đợi đến đủ một dặm tam
vô với đủ thứ để giả bạo tàn ngu xuẩn bần tiện của cộng
sản thì bà con mới thấm mùi sự sai một li.
Và từ đấy mới mọc lên nào triết lý
tác hành, nào là triết lý lao động,
ngày lễ lao động, lao động vinh quang…
Thành công chăng? Thưa
không vì đó mới là nói về làm
chứ đã làm đâu, hay có làm nhưng đặt
căn bản trên “duy vật” thì vẫn là bánh xe
cũ: tức cũng xây trên một duy nào đó
mà không trên tác động tinh tuyền. Vì
chỉ có tác động tinh tuyền (an vi) mới đặt mối liên
hệ cơ bản. Có nối được năng sở mới thống nhất, có thống
nhất mới có sinh động, có sinh động mới có tinh
thần. Thế có nghĩa là con người phải tìm sao cho
ra một triết lý tác hành cao quý
nọ.
Điều đó chỉ có thể tìm
trong những loại triết kiểu thuyết tam tài của Việt nho.
Vì tài là tác, nó chỉ trỏ lối
Tác Hành viết hoa, tức không phải là
tác thường mà là Tác cùng cực. Việt
nho nói bằng huyền số 3, Đao Ba, Tam tài. Đấy là
lý do của thuyết tam tài, chữ tài viết theo điệu
tác (hành), nôm na gọi là “tài gảy”
bến thể của chữ thủ là tay (cơ quan để làm). Chính
nhờ thuyết tam tài mà triết lý Việt nho đã
không bị bệnh duy nào: không duy tâm,
không duy vật, không duy lý, không duy
tình v.v… Trái lại có một mối thống nhất lẫm liệt
bao trùm cùng khắp, không còn chỉ là
nối kết những cái nhỏ bé mà là nối kết
toàn cả vũ trụ. Do đó có một sự sinh động
đáng tên là triết lý nhân sinh
và đạt tới bậc tinh thần cao độ nhất với câu “thần
vô phương”, nghĩa là thần không ở hẳn đâu,
nhưng đâu cũng ở, nghĩa là thẩm thấu cùng
cực.
Những điểm trên đã bàn
dài nơi khác, ở đây chỉ cần nhắc sơ qua như thế để
soi đường cho cuộc tìm về cảnh giới tổ tiên xưa, để xem
các ngài đã đạt đến đâu. Muốn thấy ý
hướng của các ngài thì một trong các phương
tiện hiệu nghiệm hơn hết là suy tư về những danh hiệu nước, danh
hiệu người, vì đấy là những kết tinh của lý tưởng
được ấp ủ, đựơc lưu truyền từ đời nọ đến đời kia, nênlà
những căn cứ bền bỉ. Vậy thuỷ tổ tối sơ của đại tộc ta là Tam
Hoàng gồm Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, cả ba danh hiệu đều
nói lên cái gì bao la và cùng
cực. Điều đó được bày tỏ bởi chữ tam trong Tam
Hoàng. Tam là Tam Tài: Trời, Đất, Người, cả ba
làm nên một thân thể: “thiên địa vạn vật nhất
thể”, không mảy may chia lìa chống đối:nhất thứ khi con
người lại là cái tâm của vũ trụ (vũ trụ chi
tâm). Như vậy khi đã đạt Tam Hoàng là
đã bao trùm hết mọi đối tượng bé nhỏ, chỉ
còn lại những động từ nằm ẩn trong chữ tài. Tài
là power, là sức mạnh, một sức mạnh tinh tuyền tự
phát ra tác động không cần bất cứ cái chi
mảy đông nên đó là việc cao nhất, bao
trùm hơn cả nên cũng đi vào cùng cực hơn
hết, đến chỗ “hư tâm” tức là tinh thần cùng
cực.
Trong tập này đã mở đầu bằng
5chương về bốn việc căn bản Ở, Ăn, Mặc, Nói, Làm. Đọc
bài nào rồi ta cũng sẽ thấy nó dẫn đến cái
cùng cực, cái gì bao la vô
hình.
Ở dẫn tới thái thất: cho con người Đại
Ngã ở trong vũ trụ, “cư chi quảng cư”.
Ăn dẫn tới Việt tỉnh vớt lên nước cam
tuyền bất tận.
Mặc dẫn tới thể đạo:mặc đạo vào
thân.
Nói dẫn đến hư tự để hòa tan
với vô biên.
Làm dẫn đến An vi: làm
là làm không lệ thuộc đối tượng.
Tất cả 5 chương đều chứng minh nền triết
lý tác hành có tầm bao la cũng như thẩm
thấu đến cùng triệt.
Như vậy là tạm xong chữ Tam
Hoàng, bây giờ bàn đến ba nhân vật hay
đúng hơn ba mẫu mực tối sơ làm nên bộ Tam
Hoàng đó là Phục Hy, Nữ Oa,Thần Nông. Ơ
đây ta cũng thấy liền đó là những động tác
căn bản. Phục Hy là thuần phục súc vật, còn Hi
là nuôi dưỡng cúng tế. Đó là hai chữ
nói lên giai đoạn từ bỏ săn bắn tức ăn sẵn để tự tay
mình làm ra bằng thuần phục súc vật và
gây nuôi ngay trong nhà. Thần Nông cũng thế
nói lên giai đoạn từ bỏ hái lượm lang thang để bứơc
vào nông nghiệp với lối sống định cư tự tay làm ra
thức ăn. Nữ Oa là sự tàng trữ chứa đựng
nóilên sự làm nhà để thâu đựng.
Đó mới là nghĩa đen vòng ngoài, còn
nghĩa bóng thì Tam tài tức tác động cao
nhất.
Phục Hy chỉ thiên sinh
Thần Nông chỉ địa dưỡng
Nữ Oa chỉ nhân hòa.
Đó là những tác động bao
trùm hơn cả, cũng có nghĩa là đáo để, triệt
cùng đều đã xuất hiện với bộ ba của Việt tộc.
Sau này Nho giáo đã
công thức bộ ba trên thành thuyết Tam tài:
Thiên, Địa, Nhân đặt con người ngang hàng
cùng trời, đất mà nhà cách mạng Trần Cao
Vân đã diễn tả một cách oai nghiêm
rằng:
Ta cùng Trời Đất ba ngôi
sánh,
Trời Đất ta đây đủ hóa
công.
Nhưng học giả như James Legge cho đấy
là những ý tưởng ngông cuồng càn giở dại
dột. Nhưng ta trả lời đó là tại J.Legge đứng ở quan niệm
triết học bản thể mà xét con người cùng một vị
trí như trời. Đó là sai, hay đúng hơn
đó là hiểu theo nghĩa đen câu nói
bóng bảy. Muốn hiểu cho đúng tinh thầnViệt nho thì
phải hiểu về phương diện tác động có tính
cách chiến thuật chiến lược tức phải quan niệm về trời đất thế
nào cho hợp triết lý tác hành, sao cho con
người duy trì và phát triển được khả năng
tác động của mình, mình vẫn hăng hái say
sưa làm việc. Đó là điều quan trọng.
Đã là triết lý
nhân sinh thì chỉ nên xét tới những
tác động liên can đến mình. Tuân Tử ví
với quan niệm về hòn đá cạnh đường, người đi ban
đêm tưởng là hổ thì rụng rời chân tay
tê liệt cả thân mình, mất khả năng chịu đựng, nhưng
nếu xem đó chỉ là tảng đá thì khả năng đi
đứng vui hưởng còn giữ y nguyên. Về trời cũng vậy, trời
vô hình nên mỗi nơi mỗi đời có những quan
niệm về trời khác nhau, mỗi nền triết lý đạo lý
đưa ra một quan niệm thuận với chủ trương của mình. Theo
đó triết lý nhân chủ tác động không
thể chọn quan niệm về trời quá toàn quyền đến độ coi con
người là sự vật hoàn toàn bất lực chỉ còn
phải vâng theo cách tối mặt. Với Việt nho quan niệm người
như thế là xúc phạm đến trời. Trời là đấng
thông minh vô cùng, quyền phép vô
biên mà đến lúc dựng nên con người yếu
xèo hoàn toàn thụ động không dám
có một sáng kiến nào… thì không hổ
mặt Thượng Đế sao. Ca dao ta nói: con hơn cha là
nhà có phúc. Con người cũng là con trời,
dám nói đến hơn nhưng cũng phải giống Thượng Đế phần
nào, con nhà tông không giống lông cũng
giống cánh chứ lị. Nếu Thượng Đế là đấng toàn năng
thì con người cũng phải là giống đầy năng lực đầy khả
năng tác hành tự chủ.
Vậy cho nên quan niệm quá hạ
thấp con người chính là quan niệm xỉ nhục trời, nó
sẽ dẫn đến thuyết định mệnh, bóc lột con người hết thảy,
không còn chút tự do nào. Vậy hỏi tại sao
quan niệm thấy kém đó lại được duy trì xuyên
qua Au Tây cổ đại? Ngừơi ta nhận ra rằng quan niệm này
đựơc các nhà chuyên chế ưa thích vì
nó rèn luyện tâm trí con người để suy phục
quyền bính và nếu nhà cầm quyền lại thành
công trong việc tự đồng hóa mình với trời như
thuyết vua thần, thì sự đàn áp chuyên chế đi
đến cùng cực, khiến con người bị vong thân mất hết chủ
quyền và khả năng tác động.
Đó là lý do thầm
kín đã gây nên thuyết vô thần chối bỏ
thần minh để cho con người ngóc đầu lên để được tự do, tự
làm lấy lịch sử. Do đó con người coi trời bằng vung.
Nhưng đó là quan niệm không tưởng trái với
thực tại. Trời che cùng khắp sao dám coi là vung.
Trời là gì cao cả bao la vây bọc quanh mình
từng giây từng phút chối đi đâu có được.
Vì vậy mà Au Tây cứ lúng túng trong
hai thái cực nọ: trời là tất cả, con người không
làm chi được; hoặc con người là tất cả: không
có trời. Nhưng cả hai đều có hại cho khả năng làm
việc của con người. Cụ thể là không thiết lập nổi một nền
triết lý tác hành. Muốn giàn hòa hai
thái cực đó nên dùng thuyết Tam tài
là đặt con người lên cùng hàng Tài,
tức Tác, tức là bất cứ tác động nào
liên quan đến con người thì con người cùng
đóng góp vào đó “một phần ba” (xin hiểu co
giãn kiểu tam tài). Ngay việc lên thiên
đàng xuống hỏa ngục thì chính con người phải
có phần đóng góp quyết liệt chứ nếu cho là
tại trời cả như Calvin chủ trương thì ra ông trời
là đầu mối sự bất công sao? Việc lớn lao như vậy mà
con người không có phần, huống chi việc
khác.
Đấy là lý do của thuyết Tam
tài, và đây là lý do tại sao Việt nho
có ý nghĩa đặt tên người là thánh
ngang với trời (Tề Thiên Đại Thánh) khác hẳn
ông trời Tây Au, thấy con người bất tuân thì
làm sét đánh cái rẹt. Ong trời Đông
phương thì không, nhiều khi con người làm bậy
ông chỉ nhìn rồi khóc, chứ tuyệt không can
thiệp sợ phạm vào tác quyền của nó, cái
quyền tự tạo tự thành chứ không được ỷ lại. Phong dao ta
có câu:
Hoàng Thiên ngự tại thiên
đàng
Thấy con uống rượu hai hàng lệ
rơi
Tưởng rằng con uống con chơi
Ai dè con uống con rơi xuống
xình.
Tôi nghĩ trời cũng phải thích
thú câu trên, bởi vì quyền phép
vô biên của trời thì quá chói chang,
sức mấy mà hạ giá nổi, cần chi cảnh cáo. Trời
quá đủ thông minh để hiểu rằng: tụi nó quá
kính nệ mình là cái chắc có
nói ngông chút cốt chẳng qua là chiến lược
tâm lý thôi, tức là mạnh miệng một
chút cốt để bảo toàn nội lực, nuôi dưỡng được
tác phong của con người hùng, sẵn sàng nắm lấy
phần tích cực dành cho con người trong mọi việc
liên hệ đến nó, để
“Có trời mà cũng
có ta” và
“Tận nhân lực nhi quy thiên
số”.
Có quy thuận theo thiên số theo
vận mạng chứ, nhưng trước hết phải làm cho đầy đủ đã
những gì con người có thể làm, làm tận
nhân lực. Chính nhờ chiến thuật đó mà
triếtlý Việt nho đã đạt thành tích hầu
không một triết lý nào làm được: là
đã cứu gỡ con người ra khỏi mọi trông nô lệ của tai
dị rồi đặt con người lên địa vị chủ nhân, gọi vắn tắt
là nhân chủ.
Đấy là lý do sâu xa giải
nghĩa hiện tượng dân chủ rất sớm của nước ta xưa là đề cao
kinh nghiệm thực lực bên trên quyền bính, coi trọng
uy tín hơn uy quyền, đề cao những sáng tạo những
thành tích như xa xưa là ông Hữu Sào
người sáng nghĩ ra nhà sàn, Toại Nhân,
Viêm Đế là người biết dùng lửa, Hữu Miêu
người biết gieo mạ, rồi đến một lượt các bà: Bà
Đà trồng cây xây núi, Bà Dâu
phát minh ra việc nuôi tằm bằng lá dâu,
Bà Nành nghĩ ra việc trồng đỗ nành, Bà
Giàn biết làm giàn dưa. Trong Nam có đầy
tên các bà: Bà Điểm, Bà Hom,
Bà Quẹo… Tóm lại không phải thuộc dòng tộc
vua quan mới được lưu danh mà tất cả ai ai dầu là thường
dân miễn có tác động sáng tạo là được
lưu danh hậu thế.
Về điểm này có thể nói
Việt còn giữ đựơc tinh tuyền hơn Tàu, bên
Tàu còn có những kiểu nói chỉ dân
nước là người nhà Chu, người nhà Hán, người
nhà Đường… (Chu nhân, Hán nhân, Đường
nhân) chứ bên Việt Nam thì không. Có lẽ
vì vậy mà danh hiệu nước ta có những tên hay
một cách tuyệt với như Văn Lang, Giao Chỉ, và nhất
là Việt, cả Việt Mễ lẫn Việt Tẩu. Tóm lại triết bằng động
tự với nghĩa là nhấn trên tác hành hơn
là trên bản thể của sự vật, hoặc trên quyền
bính vì quyền bính cụng là một vật thể
ngoài con người. Quả là một nền triết thấu triệt vậy.
BẠT CHO NĂM BÀI TRÊN
Sau bằng ấy bài (Ở, An, Mặc,
Nói, Làm) chúng ta đã có một số
ý niệm về Hồng Bàng Cảnh Trí” tức là một
thực thể luôn luôn hướng về siêu việt được biểu lộ
ngay trong tên Hồng Bàng là giống chim bay cực cao
nên cũng có tên là ngỗng trời hoặc
thiên nga tức nói lên rằng đời sống thật của con
người phải thành bởi phần siêu linh để con người thực
là vật lưỡng thê: có hai đời sống một của tiểu
ngã ở phàm trần một của đại ngã tâm linh
trên cõi siêu việt. Nói theo triết là
triết phải có thêm nguyên lý mẹ là
điều có tràn ngập trong nước Văn Lang nơi mà
các bà thường mang đồ mặc bằng lông ngỗng (chim
hồng hộc) để chỉ sẵn sàng bay lên. Đó là tục
phổ thông ở thời xưa mà ta còn thấy dấu vết trong
truyện Mỵ Châu trên đường chạy trốn đã trải
lông ngỗng cho Trọng Thuỷ biết đường tìm tòi, hoặc
áo các bà có thêu chim trĩ gọi
là địch y v.v…
Có lẽ chính vì
tính chất lung linh bay bổng này mà lãnh
địa cổ Việt đã có thời tỏa từ các dao Thái
Bình xuyên qua Việt Nam lên cùng khắp nước
Tàu. Để biểu hiện tính chất siêu linh của cảnh vực
nọ chúng ta đã xét qua năm hành trang căn
bổn của con người Việt tộc là ăn, ở, mặc, nói, làm
và ta đã thấy các điểm đó đều mang nặng
tính chất siêu hình tiêu biểu bằng đôi
cánh thiên nga luôn luôn bám sát
những tác động căn bản của tiên tổ như ở, ăn, mặc,
nói, làm.
An là một thứ bình sản tức một
lối phân chia tài sản làm cho con người có
mà như không để vừa được độc lập kinh tế, vừa để tâm
hồn khỏi dính bén bụi trần. Trong trống đồng hình
giã gạo bằng chày có lông chim biểu thị điều
đó.
Mặc bằng lông chim hoặc vẽ hình
rồng để sẵn sàng bay bổng.
Nói theo cơ cấu đầy biến ảo thanh
thoát tiêu biểu bằng hư tự: không hư mà hư,
để nối liền cảnh vực với cõi hư linh đầy ảo diệu. Nhiều học giả
Tây Au nhận xét tiếng Việt nghe như chim hót.
Câu đó có thể mang theo ý rất
cao.
Làm theo lối an vi không để
mình bị trói buộc vào đối tượng, không chịu
làm tôi cho mục tiêu, nhưng vươn lên đến
tác động tinh tuyền: tác động không cần động lực
bên ngoài thúc đẩy, lên đến chỗ không
lấy hậu quả để luận anh hùng, vì cốt cán của anh
hùng là an vi, tự lực, tự thành như Thánh
Dóng: làm tận lực để rồi siêu thoát như
thiên nga bay về trời.
Đó là nền triết lý cao
cả mà lại trình bày bằng nghệ thuật (ca vũ). Nền
triết đó mà hiện thực được sẽ đưa lại an vui, hoan lạc
cho con người.
XIV. AN VI LUẬN
1. Thế nào là An vi:
Nhiều người hiểu an vi là thanh
nhàn không phải làm gì, khỏi bận tâm
đi kiếm tiền kiếm của: thế gọi là an vi. Nếu an vi là vậy
thì cần chi đến triết lý chỉ việc gõ cửa mấy
ông nhà giàu bự là đủ. Có người lại
nghĩ rằng an vi là không nóng giận, cả không
vui mừng nữa; sống bình thản trước mọi cảnh đời: éo le
cũng như đắc ý, không dây mình vào
việc chi, đời sao mặc đời… Nếu an vi là thế thì có
khác chi mấy kẻ ù lì, việc chi phải đặt ra triết
lý an vi. Ngược lại triết lý an vi cần:
Cho những người dấn thân vào
đời
Cho những người phải chiến đấu
Cho những ai gặp bước gian truân
Cho những ai gặp cảnh bần hàn
Cho những ai muốn cải tạo xã hội…
Như thế thì an vi không
có nghĩa là hưởng nhàn mà là
làm việc hăng say mà vẫn thanh thản. An vi cũng
không phải là vô cầu, nhưng cầu mà như
không: không cầu mà cầu; nhắm thành quả
mà quan trọng không đặt ở thành quả, nên
không lấy thành quả để luận anh hùng. Bởi vậy với
người đời đó là thứ triết lý rắc rối ỡm ờ, nhưng
với ngừơi thấu hiểu thì lại nhận ra thứ triết lý vi diệu
rất khó đạt được. Tuy nhiên nếu hiểu trúng, đặt nền
tảng cho ổn thì hy vọng đạt được không phải là diệu
vợi. Bởi vậy sau đây chúng ta sẽ bàn đến ít
điểm cần cho sự hiểu triết lý an vi mong có thể hiện thực
được vào bản thân cũng như đời sống xã hội.
2. Trước hết cần đặt vị
trí cho an vi
An vi nằm đâu đó giữa hữu vi
và vô vi, hay đúng hơn bên trên hoặc
bao quanh lấy cả hữu vi lẫn vô vi. Chữ an có nghĩa
thông thường là “yêu hòa giải không
tranh chấp” (hiếu hòa bất tranh viết an). Nghĩa đó
đúng nhưng chỉ ở vòng ngoài trong lối sống thường
nhật, chưa phải là nghĩa siêu hình của chư an vi.
Muốn hiểu được An vi cần phải hiểu đến tận gốc rễ, mà cho được
thế cần phải hiểu thế nào là Hữu vi và Vô vi
và cái cạm bẫy đầy nguy cơ nấp sau hai triết thuyết
đó. Vậy hữu vi là Có Làm. Có
làm thì phải rồi tại sao lại bảo là chứa chấp nguy
hiểm. Thưa rằng, cái đó rất tế vi nên không
dễ nhìn ra được, cần phải phân tích thấu
triệt.
Ta quen hỏi bạn đang làm gì
đấy? Và câu thưa sẽ là tôi đang uốn cảnh hay
ngắm hoa, đọc sách, biên thư… Bạn có thể thưa cả
hàng ngàn câu, nhưng khi phân tích ra
thì câu nào cũng có một động tự (uốn…)
và một đối tượng (cảnh…). Ngay trong câu hỏi làm
gì cũng đã có đối tượng rồi: nằm trong chữ
gì? Gì là đối tượng của làm. Vậy mà
cạm bẫy trong chữ gì, nghĩa là nằm trong đối tượng.
Cái hại là đối tượng sẽ thu hút hết nghị lực của
con người, khiến cho trong hành động tác nhân sẽ
trút hết tinh anh vào đối tượng. Người thường không
thấy nguy cơ đâu cả, nhưng hiền triết nhận ra đó là
đầu mối của nạn vong thân, nó ở chỗ bắt con ngừơi đầu tư
trọn vẹn tâm thần ý chí vào đối tượng của
việc làm, khiến cho dần dần đối tượng trở nên chủ
và sẽ đối tượng hóa luôn con người (objectiver
l’homme) mà nghĩa thông thường là “nhân
hóa vật”: người hóa ra như vật, nghĩa là người cư
xử và động ứng theo cung cách vật thể. Điều đó sẽ
dẫn tới chỗ người xử với người như với vật (chosifier).
Từ đấy bất cứ cái chi dầu là
linh thiêng nhất cũng quan niệm theo lối sự vật tức có
hình thể. Thí dụ như siêu hình cũng bị quan
niệm kiểu những vật hữu hình, tức như cái gì đứng
bên ngoài mình, kiểu một đối tượng, nghĩa là
cái tượng hình đứng đối diện với mình, mình
phải đi tới nó để chống lại hoặc chiếm hữu lấy: avoir. Đó
là hậu quả đầu tiên làm tiên tan mất
cái linh thiêng vị tế trong tâm hồn mình
mà chính nó mới là bản gốc của người,
vì thế gọi là vong bản. Từ đó sẽ dẫn đến nhiều
ác quả mà trước hết là sự đề cao những tác
hành có đối tượng bên ngoài mình
và thế là dẫn tới lợi hành: làm hoàn
toàn vì lợi. Mà lợi đi với địa (thiên đợi,
địa lợi) tức là đi với cái gì bé nhỏ,
có cục hạn như mọi sự vật: vì thế lợi hành
là con đường thẳng đưa ngừơi ta đến duy vật. Một khi đã
duy vật thì sẽ coi là vô giá trị mọi việc
gì không có lợi, không sản xuất ra cái
gì cầm nắm được và như vậy sẽ đi đến chỗ phế bỏ mọi việc
tinh thần, tâm linh. Hậu quả việc đó là cột chặt
con người vào đất, khiến nó bị tước đoạt hết những khả
thể thanh thoát bay bổng, như thấy rõ trong lối
hành xử của người cộng sản: chỉ gọi là làm việc
khi có sản xuất ra cái chi cụ thể. Đó là
tai họa lớn lao hơn hết trong kiếp người.
Vì thế có một thái độ đi
ngược lại là không làm: vô vi. Ở đây
không nói đến chữ vô vi của Lão Tử (đã
bàn rồi trong Định Hướng Văn Học) nhưng có ý
nói vô vi là không làm gì,
vì coi sự làm chứa đầy cạm bẫy giam hãm con người
lại, không cho tung cánh bay cao. Nói theo kiểu
triết An Độ là hễ làm thì có quả mà
có quả là có giây trói buộc do luật
khắt khe nhân quả không cho con người giải thoát.
Vậy tốt hơn hết là đừng có làm: vô vi. Nhưng
vô vi cũng đặt ra đầy khó khăn như không làm
thì sống sao đây? Muốn sống thì phải có
làm, mà có làm thì lại bị
trói buộc. Đàng nào cũng chết.
Đại để đó là gọng kìm
nan giải đặt ra trứơc những lương tâm bén nhậy cao độ để
thấy nguy hại trong cái hữu vi, nên chạy úa sang
vô vi, vì chưa đủ tinh anh để đặt một lối thoát
khác. Và lối đó chính là an vi được
đề ra để hòa giải khó khăn gặp trên hai con đường
hữu vi và vô vi.
Chủ trương của an vi là làm
nhưng không đặt trên cái có của hữu vi:
nói khác, không đặt quan trọng trên đối tượng
hay hậu quả, nhưng đặt vào tác động, và nhờ
đó tuy có làm mà vẫn không bị đối
tượng trăng trói, tức không bị lệ thuộc vào
thành quả. Nhờ đó thành tựu hay thất bại
không phá vỡ nổi tâm trạng an nhiên thư
thái của tác nhân. Đó là bí
quyết của triết lý an vi, nó nằm bên trên hữu
vi (có làm) và vô vi (không
làm). Nó vừa giống hữu vi vì có làm,
nhưng cũng giống vô vi vì không đặt trọn sinh lực
vào đối tượng (gọi khác là thành
công) nhưng phần lớn đựơc đặt vào tác nhân
hay thành nhân. Câu nói của nhà
cách mạng Nguyễn Thái Học “không thành
công thì thành nhân” là hậu quả của
triết lý an vi. Y như triết lý an vi là hiện
thân của đạo Ba, là đạo đặt trọng tâm vào con
người. Đang khi các triết lý khác, không hữu
vi thì cũng vô vi, và cả hai gặp nhau ở chỗ đặt
quan trọng vào đối tượng, tức là những mục tiêu nằm
bên ngoài con người.
Đấy là điều rất tế vi đã được
minh chứng tỉ mỉ trong cuốn Chữ Thời. Ở đây chỉ có thể
nói vắn tắt rằng nền siêu hình của các triết
học đó đều sai lầm, nói là siêu hình
mà kỳ thực là hữu hình hay ít ra hữu tượng
như thí dụ lý giới của Platon hay thế giới bản thể của
Aristotle đều là hữu hình. Cho nên sau này
Kant mới phê bình là siêu giả tạo (illusion
transcendentale), nó gieo tai hại vô biên vì
làm cho con người vong thân mà không hay
biết. Cứ tưởng để lòng trí vào siêu
hình là trở nên cao thượng, có biết
đâu rằng đó mới là siêu hình mà
chưa siêu tượng nên là lối vong thân tế vi,
chính nó giam cầm con người trong gôm cùm
của trục vật (chạy theo sự vật mà quên bản thân).
Dần dần đi đến chỗ cùng cực là chỉ biết trọng những việc
gì có công hiệu cụ thể hữu hình v.v… hoặc
chỉ biết trọng những việc có đối tượng cao cả, mà chưa
sao đạt được thái độ coi trọng việc xét là việc,
không cần đối tượng cao hay thấp, vì thế ở đây xin
nói tới khía cạnh ấy của triết an vi, đó
là:
3. Tìm hoàn bị
trong mỗi việc bất kể to nhỏ
Đó là hậu quả của siêu
hình đích thực. Ngừơi thực sự đạt siêu hình
thì không còn lệ thuộc vào những cái
hữu hình (tức đối tượng) nên không đặt quan trọng ở
đối tượng, nhưng đặt ngay ở nơi tác nhân, đặt ở
thành nhân, còn thành công chỉ được
coi như phương tiện, như những chặng trung gian mà không
là tối hậu: nên coi mỗi thành công là
khởi điểm cho chặng tiến khác… Do đó khi thành tựu
không tự mãn, khi thất bại không nản lòng.
Bởi chưng kỳ vọng là thành nhân, thành
thân, có tính cách vô biên tức
quá cao chẳng bao giờ gặp giới mốc nên không thể tự
mãn, vì trước mặt đường tiến vẫn còn rộng mở.
Có thất bại cũng chỉ là lặt vặt thuộc đối tượng,
không hỏng đến đại cuộc là thành nhân,
vì thế mà không nản.
Nói thành nhân
không có nghĩa là coi thường thành
công. Thực ra không thể thải bỏ thành công
vì thành công đã nằm trong thành
nhân như thành phần nằm trong toàn thể. Toàn
thể là nhân, vì nhân được định nghĩa
là “thiên địa chi đức” nên đương nhiên
nhân bao gồm mọi đối tượng. Vì không một đối tượng
nào dù to hay nhỏ có thể ra khỏi vòng
thiên hay địa, còn thiếu chi đâu! Đó
là một tâm trạng coi như vu vơ, mà ai đạt được lại
thấy hậu quả tràn ngập toàn thể thân tâm
mình. Vì thế hậu quả đầu tiên khi đạt tâm
trạng đó là sẽ làm rất hăng say bất cứ công
việc nào vì lúc ấy to nhỏ không được
đánh giá quan trọng như trước, bởi to nhỏ do đối tượng,
nhưng bây giờ vì không đặt nặng đối tượng, nên
việc nào cũng đáng làm với cả tâm hồn thể
xác. Người ta nói về Thượng Đế là đấng tỏ ra “rất
cao cả trong những việc hết sức bé nhỏ” (maximus in minimis)
là vì quan trọng đặt ở tác động, tức là đặt
ở tác nhân là Thượng Đế, mà vì Thượng
Đế có khả năng vô biên nên dù
làm một việc rất nhỏ, như một con muỗi thí dụ, cũng
làm đến độ cực kỳ vi tế đến độ đủ biểu lộ đựơc quyền lực
vô biên. Họa sĩ có thiên tài
không cần phải vẽ cái chi cao cả mà chỉ vẽ
vài quả táo thối như Mục Khê đã làm
cũng đủ biểu lộ thiênt ài, khỏi cần đối tượng to. Người
sao chiêm bao vậy: không cần chiêm bảo to hay nhỏ,
nhưng cần ngừơi chiêm bao phải to. Làm như thế để cho con
người nên tọ, đó là ý nghĩa sâu xa của
nền minh triết tam tài đặt con người ngang cùng trời đất
như được bàn nơi khác (Chữ Thời, Nhân Bản).
Ơ đây chỉ đề cập đến một khía
cạnh cụ thể là nền giáo dục. Giáo dục muốn đạt an
vi phải là nền giáo dục làm to con người, gọi tắt
là vi nhân.
4. Giáo dục vi nhân
Nghĩa
là
nền giáo dục trứơc hết nhằm đào luyện ra người
to, người to rồi việc mới to, việc nhỏ cũng sẽ hóa ra to, người
nhỏ thì việc to rồi cũng hóa ra nhỏ. Nói
khác, không phải hễ chương trình hay thì rồi
mọi việc sẽ hay khi thiếu người hay, nhưng nếu muốn cho mọi việc hay
thì cần trứơc hết phải có người hay. Bất cứ chính
trị, xã hội, kinh tế chi chi cũng không thoát luật
chung đó. Vậy mà giáo dục hiện nay lại hướng hết
vào đối tượng, mà bỏ bê con người, vậy là bỏ
gốc ôm ngọn. Dấu hiệu rõ nhất của sự vụ là
giáo dục hướng trọn vẹn vào lợi hành. Các
nhà giáo dục tận tâm khuyến khích
thành công: luôn luôn tập rèn cho trẻ
biết đánh giá theo thành công, đến nỗi coi
đó như cứu cánh cuộc đời. Đấy là một việc thừa để
khỏi nói là có hại. Thừa là vì
thành công thuộc tiểu ngã không cần khuyến
khích thì con người cũng đã chạy theo rồi, nhất
là khi còn bé nhỏ chưa thể thấy gì
khác hơn là thi đua. Lẽ ra giáo dục phải biết tiết
chế chiều hướng đó lại, để nuôi dưỡng lòng hướng
thượng, lòng ham muốn thành nhân, vì
đó mới là sứ mạng của nền giáo dục chân
chính tức là nuôi dưỡng (dục) cái nhân
tính (giáo) chứ không phải là giáo
dục con người để chạy theo sự vật đến độ quên mình như
nay. Con người hiện đại chỉ biết trục vật là lỗi do nơi nền
giáo dục chỉ biết đề cao thành công là
làm nhỏ tâm hồn con người lại, không còn chỗ
trống cho sự nảy nở những mối tình cao thượng vị tha. Chỉ khi
nào biết đề cao chủ thể hay tác nhân, thì
mới là vun tưới đại ngã man mác. Tổ tiên ta
được tiếng là:
Thắng không kiêu,
Bại không nản.
Chính vì đã được
tôi luyện trong nền giáo dục an vi vậy. Để chứng minh xin
trưng ra đây hai việc rất linh thiêng đã được in dấu
của nền giáo dục vi nhân như thế nào. Đó
là hai Lễ Gia Tiên và Tế Thiên. Tại sao Việt
nho đã biến việc thờ tổ tiên ra lễ gia tiên, biến
việc thờ Thượng Đế ra lễ tế thiên? Thưa vì thờ tổ
tiên là tin có linh hồn về hưởng của dâng,
rồi xin ơn này nọ, vậy là bám vào những
cái tư riêng hữu hình bé nhỏ. Điều đó
sẽ gây tai họa sâu xa vì dùng những giờ
phút trang trọng nhất để vun tưới cho lòng tham, khiến
cho những giờ phút linh thiêng nhất được dùng
vào việc tài bồi óc ham muốn. Vậy là
bó chặt thêm mãi tâm hồn vào những
cái bé nhỏ hữu hình, cho nên tiên nho
nói: “tự cầu đa phúc” là vì vậy, tự cầu
là không xin gì ngoài mình thì
rồi lòng sẽ được thả buông dần và siêu
lên đến chỗ thanh thoát an nhiên.
Vì thế mà tục thờ ông bả
đã thăng hoa thành lễ gia tiên. Nơi đây chỉ
biết tế dâng là tế dâng, không để cầu cạnh
cái chi hết, chỉ cốt dùng việc tế dâng để đi
vào tới tận thâm tâm lòng mình, đặng
hội thông cùng trời đất vạn vật hầu làm nên
nhất thể (đọc lại quyển Hồn Nước với Lễ Gia Tiên, chương II,
Phúc giả bị dã…)
Tế thiên cũng vậy. Thiên ở
đây không còn là Thượng Đế nhân
hình nữa, nhưng chỉ còn là luật trời đất huyền vi.
Người không hiểu cho là lờ mờ, nhưng với người hiểu
thì biết đây mới chính là siêu
hình: vì thiên không còn nhân
hình nữa nhưng chỉ là khởi linh quang u linh bàng
bạc cùng khắp, khiến cho tâm hồn quen thờ trong bầu
không khí man mác đó sẽ lơi dần khỏi đối
tượng bé nhỏ để bay lên thanh thoát nhẹ
nhàng theo tiết điệu uyên nguyên của vũ trụ,
tiên nho kêu đó là “đại thuận đại
hóa”. Đại thuận là thuận theo thời trời, gọi là
đại vì không gì lớn lao hơn trời đất, nên
cũnglà đại hóa tức vươn ra mênh mông như vũ
trụ “ngô tâm tức thị vũ trụ” là vậy. Vì thế
an hành, an vi được nhắm như lý tưởng tối hậu của nền
giáo dục đặt xa bên trên hai đợt cưỡng hành
và lợi hành. Cưỡng hành đặt móng trên
sự sợ hãi: sợ trời đánh thánh vật, tức chưa đi
vào đến lý trí nên là thấp nhất. Đến
lợi hành tuy đặt trên lý trí nhưng đối tượng
chỉ mới là thành công, chưa đạt tâm linh. Chỉ
còn an hành mới đặt tâm linh trọn vẹn, mới
có sức phát huy nhân phẩm, nhân cách.
Ngừơi ta sẽ dễ nhận ra điều đó khi thấy Việt nho đã
đào tạo ra được nhiều nhân sĩ hơn hết với một tâm
hồn thanh thản, cái thanh thản kiên cường không cần
chắn gió che sương nhưng dám đi giữa bụi đời xoáy
lốc mà vẫn thanh thoát tự tại.
XV. LÀNG XÃ
XÉT NHƯ CÁI BỌC MẸ ÂU CƠ
Làng xã với Kinh Hùng
và trống đồng Ngọc Lữ ba chân của cái kiềng
vàng văn hóa Việt tộc. Trống đồng như điển chương tiềm ẩn
u linh. Kinh Hùng là phát ngôn viên
bằng huyền thoại. Làng xã là chứng nhân cụ
thể sống động, là xương thịt huyết khí cho hai điển
chương cao cả nọ.
1. Làng xã là
bản tóm sống động hơn hết nền văn hóa Việt Nam
Sau nhiều năm lặn lội trong làng triết
học và văn minh xã hôi học chúng tôi
mới nhận ra câu tiêu đề trên là một chân
lý rất quan trọng cho người Việt. Vì thế hôm nay
xin mời quý vị cùng chúng tôi luận
bàn về làng xã.
Nhiều học giả Au Tây nhận xét
đó là cái gì kỳ diệu: “le village
Vietnamien est une chose merveilleuse” (P.Mus) trong đó người ta
sống hoàn toàn bình đẳng; đó quả là
một tổ chức cai trị kỳ diệu. Un organe qui est un merveilleux outil de
gouvernement. Trên đây chỉ là một vài mẫu,
còn có thể kể thêm nhiều chứng từ khác.
Tôi nhớ lại cảm tưởng bỡ ngỡ xưa khi đọc những lời như vậy:
tôi hỏi có nền tảng nào để Tây Au khen tặng
như thế hoặc những lời khen nọ có ngụ ý đồ nào
đó chứ thực sự có được như vậy chăng.
Có lẽ phần lớn người Việt cũng cảm
nghĩ như tôi ít ra trước đây vài chục năm khi
còn đọc những sách của Tự Lực Văn Đoàn chế diễu
những hủ tục trong làng xóm, hay cả những tác giả
loại Phan Kế Bính hễ mở miệng nói đến phong tục Việt Nam
thì phải chê cho bằng được mới nghe. Nguyễn Văn Vĩnh cho
cái cười người Việt là nham hiểm xấu xa v.v… Tất cả
là tại nhìn bằng cặp mắt của quan cai trị nhà nước
bảo hộ đầy nghi ngờ luôn luôn muốn hạ giá dân
bị trị. Trong vấn đề này ai phải Paul Mus, hay Tự Lực Văn
Đoàn, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Vĩnh?… Câu hỏi
đó thúc đẩy chúng tôi cất bước đi tìm
và sau ít lâu tôi nhận ra rằng sở dĩ
có hai loại phán quyết khác nhau không phải
vì ý đồ nào hết, ít ra những người vừa được
trưng dẫn, nhưng họ nói quá khác nhau chỉ
vì quan điểm và đối tượng khác nhau. Ngoại
nhân thì đã trải qua thời sùng bái
khoa học rồi, còn người minh chưa. Vì thế ngoại
nhân nhìn phong tục mình dưới khía cạnh
nhân bản với cặp mắt lạ lẫm còn ngừơi mình
nhìn với cặp mắt quen thuộc, chiếu trên những cái
làm bực mình như những hủ tục, những đàn áp
bất công đầy nhóc trong thôn xóm làm
cho nước chậm tiến hơn Tây vô vàn. Đó
là điều quá hiển nhiên nên cần nói
lên, viết ra để tìm cách cải tổ. Vậy có
chê cũng vì thiện chí, chứ không có ẩn
ý nào cả.
Nhưng đến nay chúng ta đã
lùi xa hơn về thời gian và đã biết rõ hơn
về Tây Au cũng như đã được xem hậu quả của hai nền văn
hóa về nhiều mặt thì có thể cho quan điểm
các ông Bính, Vĩnh, Tự Lực Văn Đoàn
là có hại. Đành rằng làng xã Việt
Nam có nhiều hủ tục và tham nhũng cần cải tổ, nhưng phải
phân ra đâu là cơ cấu móng nền, đâu
là những tệ lậu do sự điều hành kém. Nếu
không thì giống người ném ba con chuột chạy quanh
những bình sứ quý, chuột có thể chết nhưng
bình cũng vỡ luôn. Muốn xem cơ cấu có đáng
bảo tồn chăng chúng ta cần dùng phương pháp tỉ
giáo là so sánh làng Tàu, Tây
với làng ta. So trong cơ cấu cũng như nguồn gốc và bầu
khí. Lối nghiên cứu đó vừa hứng thú, đồng
thời giúp ta biết rõ đâu là giá trị
để duy trì, đâu là hủ tục để trừ khử.
2. Nguồn gốc
Nhiều sách nghiên cứu về Việt
Nam cho rằng làng Việt Nam cóp nhặt của Tàu,
vì thoạt xem qua thấy rất nhiều điểm giống nhau nhưng so
sánh kỹ rồi mới thấy ý kiến đó cần thải bỏ
vì những điểm giống kia cùng lắm chỉ nói lên
họ hàng văn hóa giữa ta và Tàu, chứ
không thể quyết định rằng làng Việt do làng
Tàu. Trái lại khi xem đến một số nét dị biệt phải
nhận rằng làng Việt đã có lâu trước khi tiếp
xúc với Tàu và vẫn lẩn tránh văn minh
Tàu, mà nơi lẩn tránh đó chính
là cái làng. Vậy làng Việt là một
thực thể độc lập có đã từ lâu đời mà
nét đặc trưng của nó là tự trị. Ta có thể
quả quyết như vậy theo hai nẻo quan sát. Nẻo trước liên hệ
đến những nét dị biệt với làng Tàu. Nẻo thứ hai
là quan sát tình trạng làng Việt từ thời
độc lập, cũng như khi gặp nền văn hóa thực dân.
Trước hết làng Tàu khác
với làng ta trong những điểm sau đây:
1. Thứ nhất làng Tàu mới xuất
hiện từ thế kỷ 11. Khi chính quyền trung ương không thể
làm khác; ngược lại với làng Việt chính
là hậu thân của Hồng Bàng Thị, nghĩa là
có ngay từ trong nôi của nước Việt lúc đang
hình thành (theo quyển Peuple chinois của Fayene). Điểm
này hiện đã được minh chứng do khảo cổ đã khai
quật được hàng trăm làng cổ xưa có trước khi tiếp
xúc với Tàu.
2. Bên Tàu làng
nào cũng thờ Hậu Tắc, còn làng Việt thờ Thổ Thần
hay thần làng (tr.256).
3. Hội ở chùa không ở
đình như ở bên Việt (tr.260).
4. Tư tế là ban bảo thành
mà không là hội đồng kỳ mục như bên ta
(tr.264).
5. Thờ 6 thần. Con số này xuất hiện
với du mục Tây Bắc (Danses 7.10)
Trên đây là vài
điểm trích từ một tài liệu đã cũ, được ghi ra
đây để làm khởi điểm cho một cuộc nghiên cứu
sâu rộng sau này, nó sẽ rất phiền tạp vì
trải ra nhiều nơi và nhiều thời nên vừa rộng vừa
lâu. Nhiều người từ Ba Thục đến cư ngụ nơi khác đã
nhiều thế hệ vẫn coi mình như ngụ cư tạm còn lòng
vẫn hướng về Ba Thục…
Ta nên ghi nhận rằng bên
Tàu có nhiều địa phương với nhiều luật lệ khác
nhau qua nhiều triều đại dị biệt không thể nói chung
mà đúng cho tất cả. Chỉ biết rằng có một số điểm
khác nhau như khi Mã Viện thắng hai Bà Trưng rồi
nhận thấy luật ta khác luật Tàu đến 10 điểm và sửa
đổi bắt theo Tàu. Nhưng dân chúng chỉ tuân
theo bề ngoài cho êm chuyện, còn bên trong
vẫn “phép vua thua lệ làng”, dù cuộc đô hộ
có kéo dài cả ngàn năm cũng thế.
Bây giờ quan sát sự trưởng
thành của nền tự trị xã thôn trong thời độc lập
Đinh, Lê, Lý, Trần. Quãng này sự tranh đấu
di chuyển từ nhà nước Tàu sang nhà nuớc Việt.
Vì tuy nứơc đã độc lập nhưng vương triều vẫn còn
cố bám víu vào những lề lối chuyên chế do
Tàu để lại nên chỉ chịu trả cho dân nền tự trị
xã thônt heo đà thời gian. Ban đầu tức lối đời Tiền
Lê, triều đình vẫn cư xã quan để cai tri, có
lập sổ đinh để kiểm tra dân số và sổ điền để phân
loại các hạng điền thổ. Điều này được tiếp tục dưới
đời Trần, nhưng thay vì xã quan thì đặt đại tư
xã cho làng lớn tiểu tư xã cho làng nhỏ.
Hội đồng kỳ mục chỉ giữ vai tư vấn. Như thế là nhà vua
vẫn lấn thêm vào nền tự trị xã thôn và
tất nhiên bị chống đối nên đến đời Trần Thuận Tôn
(1388-1397) đã phải bãi bỏ xã quan.
Khi nhà Minh đô hộ nước ta
đã tìm cách thay hẳn bằng cơ cấu làng
xã bên Tàu: bắt mọi gia đình phải có
một sổ gia đình gọi là hộ thiếp, chia dân
chúng thành từng lý, mỗi lý gồm một trăm
mười gia đình. Người đứng đầu gọi là lý trưởng
được cử lại hàng năm.
Đời Lê lập lại chức xã quan,
chia dân chúng theo đinh mà không theo hộ như
thế là còn chuyên chế tuy có nới tay hơn
nhà Minh: dân vẫn chưa lấy lại được nền tự trị xã
thôn. Mãi cho tới đời vua Lê Thần Tôn
và Lê Ý Tôn (1732-1740) dân
chúng mới được bầu lấy xã trưởng cho mình:
đây là điều then chốt cho nền tự trị xã thôn.
Từ đấy nền tự trị này đã được duy trì suốt qua
triều Nguyễn “quan của triều đình bổ ra chỉ đến phủ huyện
còn từ tổng trở xuống thuộc quyền tự trị của dân.
Dân tự chọn lấy người của mình mà cử ra coi việc
trong hạt” (Sử ký Trần Trọng Kim, tr.481).
Đó là quá trình
tranh thủ để duy trì nền tự trị xã thôn, nó
lớn lên theo sự loại bỏ dần ảnh hưởng Tàu và vươn
lên cùng nhịp với nền độc lập quốc gia. Chính trong
tình trạng đó mà xã thôn ta phải
đương đầu với Tây phương. Không thể nào họ
không sử đổi theo mẫu làng Pháp. Muốn thấu
đáo chúng ta nên xem qua nguồn gốc làng
Tây. Có vậy mới thấy những điều lên án triết
Tây có đủ nền tảng không những tiên
thiên lý thuyết mà cả hậu thiên thực
hiện.
3. Làng Tây
Làng Tây mới có
vào lối thế kỷ thứ 10 trở đi. Trứơc đó xã hội
Tây Au trung cổ đặt nền trên liên hệ chủ nô
trước rồi lãnh chúa nông nô sau, nhưng tựu
trung vẫn là chủ nô, tức một bên làm chủ trọn
vẹn và chỉ gồm suýt soát ¼ dân số.
Đó là những người thong dong gồm quý tộc,
giáo sĩ, quân nhân, chuyên nghiệp, những người
làm nghề tự do như thương gia, công nghệ và những
chủ điền không vướng dịch vụ đối với lãnh chúa. Số
điền chủ này không nhiều lắm, bên Anh thế kỷ XV
là 4%, bên Đức, Pháp, Ý lối gần ¼
dân. Như thế có thể nói không xa sự thực mấy
là bên chủ chỉ gồm ¼, còn lại bao
nhiêu là nô. Đã biết rằng nô lệ
không được kể là người mà chỉ là đồ vật
người ta có thể mua đi bán lại, muốn giết cũng được.
Đây là một định chế tuy cực kỳ bất công nhưng lại
quá quen thuộc nên không mấy cho là chướng,
đến nỗi cả nhiều dòng tu cũng có từng vạn nô lệ.
Thánh Venise buôn nô lệ để lấy tiền xây cất
đền thờ (Civ XI.141). Vì thế không hề có nền triết
học hay đức lý nào thực sự tìm cách giải
phóng nô lệ. Số phận nô có giảm bớt dần nhưng
là do những tiến bộ kinh tế và công nghệ mà
thôi. Nhờ kinh tế mà nô lệ dần dần trở thành
nông nô. So với nô lệ tình thế có được
cải thiện ít nhiều. Tuy nông nô chưa được làm
chủ đất, nhưng đã được lãnh chúa trao cho một
lô nhất định để gia đình khai thác, chỉ cần nộp cho
lãnh chúa tiền tô đất và một số dịch vụ.
Những dịch vụ này rất nặng thí dụ phải làm việc
không công cho lãnh chúa mỗi tuần 3 hoặc 5
ngày vào mùa vụ. Cũng có nơi khi nông
nô cưới vợ phải để vợ nằm với chúa đêm đầu (jus
primae noctis). Tục này có nơi giữ tới thế kỷ 18 như ở
Bavière. Vì thế tuy tô chỉ là 1/10 nhưng
cộng với dịch vụ liên miên thì lên tới 2/3
năng suất.
Con cái nông nô
không được đi học vì phần lớn lãnh chúa
mù chữ, nên cho con đi học là muốn tranh hơn với
chúa. Hoặc lãnh chúa có biết chữ đi nữa
nhưng cho con đi học là giảm mất người phục dịch chúa,
vì thế muốn con theo học phải nộp một thứ tô riêng
(Civ XI 266-273). Nhất là không có quyền bỏ
chúa lúc nào tuỳ ý như kiểu tá điền.
Vì nông nô đã thuộc trọn về chúa. Xem
thế nông nô cũng vẫn còn là nô,
lãnh chúa vẫn có gần đủ quyền sinh tử trên
nông nô như trước kia chủ với nô.
Để được binh lực chúa bảo vệ
các nông nô phải sống tụ tập chung quanh lâu
đài chúa, làm thành một bourg đặt dưới
quyền điều khiển của lý trưởng do chúa chỉ định.
Dân cũng chọn ra một số đại diện riêng gọi là bailli
hay prévot để giao thiệp với chúa. Số gia đình một
bourg từ năm chục đến năm trăm. Nhưng đông mấy cũng chưa
thành một công xã (commune). Đó sẽ là
việc của nhóm buốc gioa, một giai cấp mới mọc lên do sự
bành trướng của công nghệ và thương mại.
Chính giai cấp này mới là chủ của bourg được cải
tên là commune tạm dịch là thị xã.
Nói tạm vì thiếu yếu tố tinh thần không thể
là xã cũng không gọi được là công
vì bourg chỉ là của riêng một giai cấp chống lại
với hai giai cấp trên là quý tộc và
giáo sĩ, cũng như không thâu nhận các
nông nô làm thành viên. Buốc gioa tự
xưng là công dân = citoyen và tranh đấu cho
“thị xã” được thoát quyền của lãnh chúa.
Nhờ họ có nhiều tiền của nên khi thì mua chuộc, khi
thì xui nguyên giục bị cho các chúa chống
nhau. Khi khác họ bỏ tiền ra mua hiến chế tự do (charte de
liberte). Lối này rất công hiệu vì các
chúa nghèo dần theo đà đi lên của công
nghệ và do các thị xã đông lên mau lẹ
theo sự gia nhập của nhiều thôn dân. Số này
còn đông thêm nữa nhờ những dịp nghĩa binh:
nông nô nào gia nhập đạo quân đi cứu đất
thánh thì đương nhiên thoát được kiếp
nông nô vì thế số nghĩa binh rất đông đảo
làm cho thị xã lớn lên mãi đến độ lấn
át được quý tộc, nhờ đấy buốc gioa trở thành giai
cấp nắm nhiều quyền bính. Đó là phủ quyền
(ploutocratie) cai trị theo nền tảng đặt trên tài sản với
những nét sau đây:
Nắm độc quyền đánh giặc để chiếm thị
trường và nguyên liệu.
Cấm lao động lập nghiệp đoàn.
Cấm đình công.
Quyết định số lương bổng v.v…
Người nghèo không có
quyền nào hết vì quyền đầu phiếu căn cứ trên
tài sản kiểu Roma xưa: mỗi người có một hay nhiều phiếu
tuỳ có một hay nhiều trăm tiền (nên gọi là scrutin
centurique do tiếng cent = trăm).
Tóm lại thị xã đặt nền
trên tài sản hay phú quyền kiểu công thương
du mục, tức thiểu số làm ăn thịnh đạt bên cạnh, hoặc
trên lưng một đại chúng bần hàn.
Nhờ lối phân chia không đồng đều
đó lần lần buốc gioa rút tỉa quyền hành từ hai
giới quý tộc và giáo sĩ để lập ra đệ tam cấp
(tiers état). Đừng tưởng đệ tam cấp bao gồm toàn
dân mà lầm bởi người nghèo cũng như nông
nô không có quyền bỏ phiếu. Vì thế đó
chỉ là một trong ba giai cấp chứ nông nô và
dân quê không có tiếng nói, không
được kể tới. Vì thế cuộc cách mạng Pháp chỉ lợi
cho buốc gioa.
Trên đây là một số
nét đại cương (có thể xem thêm Civ III (1) từ trang
13-85) về nguồn gốc và cơ cấu của thị xã Tây Au,
mà chúng ta cần biết sơ qua như thế để khỏi đem thực thể
Tây phương trùm lên thực thể Việt Nam, vì hai
bên khác nhau cả một trời một vực. Thị xã Tây
đặt trên phú quyền được coi trọng hơn nhân quyền.
Nó là của thiểu số công thương với tinh thần “ối ai
ôi của nặng hơn người”. Vậy đem tiếng buốc gioa sang gọi thực thể
của ta là bóp méo lịch sử đến triệt cùng.
Điều này còn rõ hơn nữa khi ta nghiên cứu
đến làng Tây.
(1) Đây là tên tắt cho
quyển Story of Civilisation của Will Durant. Trưng theo bản dịch của
nhà Payot đánh số theo thứ tự xuất bản.
Giai đoạn khi hai thứ làng gặp
gỡ:
Đó là làng Tây
và làng ta, một bên xây trên chủ
nô còn bên này là nhân chủ.
Câu trên nói lên một cách chính
xác tinh thần của hai nền văn hóa hiện thực vào
hai thứ làng. Làng ta là một thực thể tự trị.
Nhiều người Pháp gọi là một thứ tiểu bang và họ
đã muốn khai thác khía cạnh đó để
giúp vào việc chia để trị, nên ban đầu họ để
xã thôn ta như cũ, hy vọng rằng óc xã
thôn quá mạnh nên người Việt thiếu tinh thần quốc
gia. Họ không ngờ rằng tuy tự trị nhưng làng lại gắn liền
với nước, nên óc quốc gia rất vững mạnh đủ để đánh
đuổi những đoàn quân xâm lăng hùng hổ như
Mông Cổ, hơn thế nữa còn là những ổ ương mầm
cách mạng chống Pháp. Cuối cùng họ nhận ra điều
đó nên đã làm đủ cách để phá
vỡ nền tự trị xã thôn. Họ hiểu được tầm quan trọng cũng
như sức chống đối sẽ quyết liệt lắm nhất là ngoài Bắc nơi
làng xã đã có lâu đời, dân
khí cao nên chưa vội động tới. Vì thế họ bắt đầu
thử cải tổ trong Nam trứơc.
Năm 1904 Pháp đưa ra hội đồng tề tuyển
lựa trong số điền chủ. Thế là yếu tố tài sản đã
xuất hiện như điều kiện kiểu thị xã tây. Thêm
vào đó là sự chọn lựa phải có chính
quyền (tỉnh) chuẩn y.
Ngoài Bắc họ phải chờ mãi tới
năm 1921 mới dám thay hội đồng kỳ mục cũ bằng hội đồng tộc biểu
mới. Điều kiện tuyển lựa phải hoặc là giàu và
không bị can án hoặc là công chức, và
tất nhiên phải được duyệt y do chánh sứ. Tuy đã
khéo léo nhưng che được những mục tiêu chính
trị là loại trừ quyền lực của những phần tử yêu nước,
những nhân sĩ có uy tín… Vì thế đã
gặp sức chống đối của dân ta hoặc bằng tẩy chay, hoặc bằng sự lan
rộng cách mạng. Chính quyền bảo hộ thấy không xong
nên năm 1927 cho khôi phục hội đồng kỳ mục bên cạnh
hội đồng tộc biểu nhưng điều kiện tuyển lựa là giàu
có thì vẫn giữ. Vì thế số người chống đối vẫn gia
tăng, mặc dầu đó là lúc người Pháp
đã ngầm phát động chiến dịch bôi lọ làng
xã (1).
(1) Nên nhớ có cả một chủ trương
tâm lý bôi đen các dân bị trị chẳng hạn
như học phái chức năng dựa vào những lý luận của
Malinowski coi dân tộc học như phương pháp tốt nhất để cai
trị các dân thuộc địa.
Một trong những quyển thành
công nhất có lẽ là De la Rizière à la
Montagne của Jean Marquet. Trong đó tác giả đả
kích những vụ bất công như kỳ hào bắt dân
làng giam giữ đánh đập… với nhiều cái hủ lậu
khác mà không một người Việt Nam nào
không muốn phá bỏ. Chính vì thế có
những người, những văn đoàn chạy cờ hiệu cho họ: quay ra chế
diễu mọi phong tục cho là hủ tục. Tuy nhiên chiến dịch chỉ
gây ảnh hưởng phần nào trên thị dân còn
đại đa số thôn dân vẫn chống đối những cải tổ của thực
dân. Vì thế đến năm 1941 thực dân đã phải
mượn tay nhà vua để cải tổ lại bằng cách bãi bỏ cả
hai hội đồng kỳ mục lẫn tộc biểu để sự thâu nhận được rộng
rãi hơn. Nhưng đó cũng chỉ là bề ngoài,
bên trong vẫn là lý trưởng được người Pháp
chỉ định nắm then chốt. Vì thế sức chống đối chỉ có gia
tăng.
Không may sự chống đối đó
đã được Việt cộng bao thầu không phải để dành lại
độc lập cho xã thôn nhưng để tiếp nối con đường của
Pháp mà còn đẩy cho đến cùng cực:
nhân viên uỷ ban hành chánh cấp xã đều
do tỉnh lựa chọn trong những người địa phương trung thành với
đảng như kiểu thực dân, nhưng còn quyết liệt đến tận
cùng tức phá vỡ không những tự trị xã
thôn mà luôn cả gia đình để con cái
chuyển tình yêu cha mẹ sang nhà nước: báo
cáo mọi cử chỉ ngôn từ mẹ cha cho chính quyền. Thế
là xong việc tinh thần văn hóa Tây Au chôn
táng văn hóa Việt dưới hình thức hai thứ
làng. Ta có thể tóm lại tiến trình
đó như sau:
Ở giai đoạn Bắc thuộc dân làng
Việt vừa phải chống ngoại xâm vừa phải chống chính quyền
ngoại xâm.
Thời độc lập phải chống chính quyền
bản quốc.
Thời thực dân vừa phải chống
chính quyền ngoại xâm vừa phải chống văn hóa ngoại
lai.
Tới Việt minh là sự toàn thắng
của văn hóa ngoại lai.
5. Phép vua thua lệ làng
Phép đi với vua, với nước, cũng gọi
là pháp, là luật.
Lệ đi với dân với làng cũng gọi
là lệ, là phong, là tục.
Nếu vậy phép vua thua lệ làng,
cũng chính là toàn quốc thua địa phương. Có
thể nào lại như thế được sao? Và nếu có thì
phải do một triết lý nào đó? Ta có thể thưa
rằng quả có thua. Đó là việc lịch sử, nó
diễn ra bằng nhiều cách. Không những trong thời Bắc thuộc
mà luôn trong thời độc lập. Thời Bắc thuộc không lạ
lắm vì nó bao hàm việc chống xâm lăng. Nhưng
cả trong thời độc lập với triều đại bản quốc cũng vẫn chống, ít
nhất là vừa đủ để bảo toàn tự trị xã thôn.
Mới nghe có vẻ lạ nhưng lúc xét lại thì dễ
hiểu. Vì vương triều dễ nghiêng theo chiều hướng
chuyên chế. Đã thế vì nhà cầm quyền chỉ học
nho mà nho lúc ấy chỉ là mạt nho nên
đã tiêm nhiễm những thói du mục hay ít nữa
mắc tự ti mặc cảm nên bắt dân làng phải tuân
theo những cái không đúng hồn nước. Thí dụ
vua Lê Thánh Tôn lập ra 24 điều hương ước thì
có khoản cấm nghề tập hát xướng, dân không
chịu theo. Ta biết câu “xướng ca vô loại” do óc
ích dụng của Mặc Địch cũng như pháp gia, nó đi
ngược với tinh thần Lạc Việt coi việc hát như hơi thở. Vậy cấm
hát xướng là phạm vào lệ tục của dân Lạc
Việt. Có thể kể vào đây tục hát trống
quân vẫn sống trong dân mặc dầu vương triều cấm
đoán. Vụ cuối cùng thú vị nhất là
cái váy bị vương triều cấm, bắt đàn bà mặc
quần như dân nhà Thanh. Dân chúng đã
phản lại bằng câu:
Sắc vua mồng tám tháng ba,
Cấm quân không đáy người
ta hãi hùng,
Không đi thì chợ không
đông,
Đi thì phải lột quần chồng sao
đang.
Vậy cứ sự quả thực phép vua có
thua lệ làng. Bây giờ chuyển sang bình diện cứ
lý (de jure) để xét có nên chăng, ta sẽ nhận
ra rằng không những nên mà còn cần thiết
vì lệ và luật tượng trưng cho hai chiều kích của
con người. Nếu nói nhân dân thì nhân
đại diện cho cái chi linh thiêng, có muốn điều
lý phải dùng lễ là cái có chiều
kích linh thiêng; còn dân cho xã hội
thì phải cai trị bằng luật (hay pháp luật cũng thế). Như
thế pháp đi với dân còn lệ đi với nhân.
Dân là con người sống trong hàng ngang xã
hội có liên hệ với chính quyền mà xưa kia
là quân vương nên được quy tụ vào việc trung
quân đến độ thành câu trung quân ái
quốc. Đó là liên hệ vòng ngoài
nên đã trở thành phổ quát, trừu tượng,
vì phép là phép nước lớn hơn gấp bội,
nên không thể kể tới cái tiết riêng biệt, cụ
thể. Còn lệ đi với nhân, nên cũng gọi là
nhân trị, hay lễ trị. Lễ với lệ cùng một tinh thần đều
công nhận chiều kích linh thiêng nơi con người
nên chữ lễ trong chữ nho được viết với bộ kỳ chỉ chiều
kích linh thiêng đó; còn lệ thì bao
gồm những lễ lạy, hội hè, tục lệ bao giờ cũng đề cao phần
vô biên nhân chủ của con người. Cái đó
nói theo triết là hàng dọc giữa trời với đất,
còn thực chất là tự do biểu lộ bằng sự đơn độc,
không phải lệ thuộc khiến cho lệ chú ý đến những
cái tư riêng, những hoàn cảnh đặc biệt của mỗi
cá nhân, vì thế sự cai trị theo lệ tục giàu
tính chất nhân bản hơn pháp.
Đó là đại để hai nét
riêng biệt, cả hai đều cần thiết cho con người, hễ nó
nghiêng về một bên thì có hai. Nếu chỉ biết
có lệ tục thì mỗi làng là mỗi nước, quốc
gia không thể mạnh được, nên cần đến luật pháp để
đem lại cho quốc gia sự đoàn kết cần thiết. Tuy nhiên nếu
độc chú có pháp luật thì là
không nhìn nhận những gì riêng tư đặc sắc của
từng cá nhân, từng nhóm cá nhân,
mà chính nó mới là cái làm
nên con người gồm cả những gì riêng tư bé nhỏ
mà nếu không kể tới thì là vật hóa
con người, tức xử với ngươi như những con thú, như sự vật phải
trị như trị nước, vì thế chữ pháp được viết với bộ thuỷ.
Nếu cai trị người như trị thuỷ thì là biến đoàn
người thành đoàn súc vật. Tần Thuỷ Hoàng đi
theo lối đó. Chữ Thuỷ trong tên ông cũng có
nghĩa ngầm là nước vì thờ hà bá.
Nhà Chu gọi các quan cai trị
là mục: “thập nhị mục” là đúng với tinh thần du
mục: cai trị người theo lối chăn vật không kể đến những
riêng tư u uẩn… nên pháp luật là cái
gì rõ ràng dứt khoát, không cần
tài ba cũng có thể làm được, nó cũng
ví như có thước trong tay con nít cũng có
thể vạch được đường thẳng tắp. Vì thế đó là lối
cai trị đầy sức quyến rũ đối với nhà cầm quyền. Vậy sự chống lại
được tham vọng của vương quyền trong việc áp đặt pháp
luật là cả một nét đặc trưng của Việt nho và
nó chỉ thành công nhờ vào những hoàn
cảnh đặc biệt, mà sâu xa hơn hết phải kể tới triết
lý tả nhậm bênh vực kẻ yếu chống lại kẻ mạnh, bênh
dân trước sức mạnh của quân, bênh lệ tục trước
pháp luật để cho lệ đi với luật. Điều vinh hiển của Việt nho
chính là đã không để cho luật diệt lệ, nhưng
lệ với luật song hành, đến nỗi thành tiếng đôi lề
luật y như những cặp đôi khác: nhân dân, vũ
trụ, làng nuớc, nhà nước vậy. Ta đọc quen đi nên
không ngờ đó là bấy nhiêu chứng tích
sự đắc thắng của nền triết lý tả nhậm. Chính nhờ
đó mà nền văn hóa nông nghiệp giữ được
nét cân đối có mẹ cùng cha, ngoài
là lý nhưng trong là tình. Ngoài
là phép nước nhưng trong là lệ làng.
Và nhờ đó mới hiểu được câu phép vua thua lệ
làng không chỉ là một tục ngữ lờ mờ nhắc lại một dĩ
vãng đã qua, nhưng chính là bản tóm
một khúc khải hoàn ca của một trận tuyến lâu đời
giữa tả nhậm và hữu nhậm, giữa bên tình bên
lý, giữa bên dân bên quân.
Và ta sẽ hiểu được tại sao Nho
giáo chân chính vốn chống lại pháp gia hay
nói đúng hơn chống lại sự lấn át của pháp
gia nhưng vẫn tôn trọng pháp luật, mà cụ thể
là vừa tôn vua vừa chống vua. Tôn vua tức là
thuợng tôn phép nước, nhưng chống vua là chống lại
sự vô đạo của vua, mà vô đạo là lấy quyền lực
để diệt lệ làng. Như vậy Việt nho là một mặt trận bảo vệ
con người, vốn ở trong tình trạng nhỏ bé yếu nhược trước
sức mạnh bạo tàn lăm le nô lệ hóa nó.
Chính nhờ lập trường kiên trì đó mà
nó vun tưới đuợc óc mẫn tiệp tỉnh thức nên phe hữu
nhậm pháp hình luôn luôn gặp sức chống đối
của nho gia. Hãy ghi lại đây một số ấn tích:
Lần đầu khi nhà Chu thịnh đạt hơn cả
thì đưa ra hình luật như được ghi lại ở thiên
Lã Hình trong Kinh Thư. Nhiều nho gia nghi ngờ rằang
đây lại là một tráo trở kinh sách, vì
Khổng Tử chủ trương lễ trị, tại sao lại đưa thiên Lã
Hình Pháp trị vào Kinh Thư (Kinh Thư, Legge
tr.588).
Lần thứ hai là khi Tử Sản cho khắc
hình luật vào đỉnh bị Thúc Hướng phản đối đại để
rằng: các đạo hình luật của ba nhà Hạ, Thương, Chu
đều ra đời vào cuối mỗi triều đại lúc đã có
loạn. Tôi nghe nói một nước mà sắp chết thì
sinh ra nhiều luật lắm: ý ấy nghiệm sẽ đúng chăng?
Lần thứ ba là lúc sách
của Lý Khôi (người nước Nguỵ, năm 400 tr.c.n) được đề cao
cùng cực đến độ được gọi là pháp kinh. Điều
đó xảy ra đời Tần, một nhà đại diện chính
tông du mục, chà đạp lên mọi giá trị tinh
thần đạo nghĩa, chỉ biết tôn thờ có pháp luật.
Chính vì thế mà bị chống đối dữ dội nhất và
để tiếng lại là nhà tàn bạo hơn hết.
Lần thứ tư là nhà Hán kế
tiếp óc thượng luật của nhà Tần nên đặt ra
nào thư viện Thạch cừ, nào 50 quan bác sĩ… nhằm
xen giặm vào kinh điển những yếu tố thượng luật để che lấp
ý hướng nền tảng của nho là bênh vực con người
trước các sức mạnh tàn bạo. Từ đấy trận tuyến kéo
dài dưới danh nghĩa vương đạo chống bá đạo, tức cũng
là một hình thức lệ làng chống phép vua
đó.
Tóm lại nho sĩ luôn luôn
tìm các ép buộc nhà cầm quyền phải
thích nghi guồng máy cai trị theo phong tục từng miền như
khẩu lệnh: “tu kì giáo bất dịch kì tục” =
chú ý vun tưới nền giáo hóa của dân,
chứ không nên thay đổi phong tục của họ. Và nhờ
đó mà Kinh Thi Quốc phong là tiếng nói của
dân được hân hạnh mở đầu Kinh Điển. Ít người nhận ra
rằng đó là một thành tích duy nhất
trên đời (xem quyển Tinh Hoa Ngũ Điển chương Kinh Thi) mà
âm vang bên Việt là câu “phép vua thua
lệ làng” tức là một lối diễn tả cực kỳ bình
dân tinh thần lễ trị. Lễ trị cũng gọi là nhân trị,
bởi vì trong lối cai trị đó chiều kích dân
không lấn át nổi nhân, nên con người
không bị vong thân và nhờ vậy mà cảm thấy
thích thú, an vui. Đó là điều đã
không có được ở các xã hội Tây phương
xưa cũng vì ở đó đâu có lệ làng
làm bầu khí nuôi dưỡng nhân, mà chỉ
có dân hàng ngang thẳng tắp, vì
6. Phép vua không thua
lệ làng
Hay đúng hơn là lệ làng
chưa có để mà thua với được.
Trứơc hết bầu khí văn hóa
Tây Au là “hữu nhậm”: óc phò mạnh được triết
học vun tưới. Nói triết học, chứ còn óc phò
nhu đâu đâu cũng có, như đã nói về
các hiệp sĩ thời trung cổ. Nói chung bất kỳ người
nào thời nào cũng không thiếu óc phò
nhu. Nhưng đó mới là vòng ngoài thuộc lương
tri mà chưa là triết, nên còn thiếu khả năng
buộc định chế phải có hai chiều:
Có tả có hữu,
Có làng có nước,
Có lề có luật.
Tây Au chỉ có pháp luật,
mà đó là nét đặc trưng của xã hội
phân chia giai cấp. Đã phân chia giai cấp thì
giai cấp trên sẽ nắm hết quyền hành tài sản
nên trở nên chủ, nô không còn được
gì nên cũng không được kể tới mà trước hết
là không ai chú trọng đến tiếng nói hay tục
lệ của nô, vì đã coi nô như sự vật thì
chỉ còn gia tăng luật pháp để thêm quyền uy cho
tù trưởng, cho giai cấp thống trị. Vì thế pháp bao
giờ cũng đi với xã hội du mục mà dấu hiệu là phụ
hệ cực đoan, cũng như triết học mang tính chất cơ khí
vì đặt nền trên sự vật nên chỉ có một chiều
từ trên xuống dưới: từ chủ tới nô.
Như vậy là ta thấy rõ giữa
triết học cơ khí và liên hệ chủ nô có
tương quan nhân quả, chính liên hệ đó
đã đổ khuôn luôn các mối liên hệ
khác bắt chúng trở nên một chiều, thí dụ
liên hệ giữa công dân và nhà nước
thì ngôn ngữ Tây phương không có danh
từ nhân dân với hai chiều ngang dọc, mà chỉ
có hàng ngang là công dân: citoyen.
Chữ này mãi về sau mới có để thay cho chữ thần
dân: sujet. Đó là một bước tiến lớn bởi xưng
mình là sujet thì nói lên sự phục
tùng cùng cực. Còn khi nói citoyen
thì đã độc lập khác vì citoyen do
cité là thị xã. Tuy nhiên đó mới chỉ
có tính chất công thương hàng ngang,
còn thiếu chiều dọc tâm linh hàng dọc. Ngược lại
khi ta nói nhân dân thì dân là
chiều ngang vâng phục phép nước, còn nhân
là chiều dọc tâm linh không vâng phục ai hết
vì nhân là vua, là chủ, là nhân
chủ tức người tự làm chủ lấy mình.
Đó là sự phân biệt nền
tảng, nhưng lại quá tế vi nên không mấy ai nhận thấy
ít ra trong các thế hệ trước, bởi vậy các nền
triết học cũng như đức lý đã vô tình đi một
đường hữu nhậm đậm đà là hùa theo kẻ mạnh:
tôn pháp diệt tục, như thấy rõ trong bộ luật của
Platon biện minh cho chế độ nô lệ tức là uy hiếp kẻ yếu
vậy. Xưa nay kẻ yếu mà được bên đỡ đến tột cùng
thì chỉ trông vào triết lý, nay triết lại
hữu nhậm: lại đi bênh che kẻ mạnh để hiếp yếu thì
không còn mộto lực lượng nào cản trở. (1)
(1) Có thể thâu thập trong
sách Platon và các nền đức lý nhiều
vô vàn những câu bênh vực con người,
bênh vực công lý nhưng đó toàn
là những câu nói của lương trin, có
tính cách cầu âu, chẳng ăn nhằm chi hết với định đề
và với nguyên lý của họ. Điều quan trọng là
phải xét trong nguyên lý, trong những định đề chứ
không trong những câu nói kiểu cầu âu nọ.
Khi văn hóa từ Hy Lạp chuyển sang Roma
là một dân tộc thiếu óc triết thì cũng
là thời ngự trị lớn lao của pháp gia, bởi vì người
Roma tuy giỏi về binh bị và cai trị nhưng rất kém về tinh
thần, kém đến độ không thiết lập nổi cho mình một
tôn giáo hay một nền triết học. Tôn giáo
thì thờ một mớ của Hy Lạp: Jupiter, Mars, Minerva (chính
là Athena), một mớ của cận đông: Demeter, Liber, Libera…
Còn triết học thì hạ thấp xuống trình độ văn
chương, thành thử tinh anh phát tiết hết ra ngoài,
kết tinh vào luật được tôn lên bậc tối cao. Khi luật
không được triết hướng dẫn nữa thì sẽ đi đến chỗ
quá đáng, làm cho người học bị tước đoạt mất quyền
sáng kiến những giải pháp hợp nơi hợp thời. Lâu rồi
họ tin luật là cái gì tuyệt đối bất di bất dịch
nằm bên ngoài con người, có uy quyền trùm
lấy vạn vật.
Ông Needham đã kể lại vụ xử
gã đực đẻ trứng phải thiêu sống ở Bazel năm 1474 lấy
lý lẽ là đực mà dám đẻ là lấn sang
bên nữ, lỗi luật quả tang (Need II 574). Chính cái
khuynh hướng thượng tôn luật pháp đó đã đẻ
ra những lối xử kiện rất rắc rối thí dụ đi kiện người phá
hoại vườn nho thì hỏng, bởi vì trong bản luật (douze
tables) không nói đến nho mà chỉ nói đến
cây. Vì những cái câu nệ nhỏ bé
đó nên mới cần biết bao nhiêu người chuyên
môn về luật. Ngay một việc định quyền lợi của công
dân đã khó vô cùng: có thứ gồm
4 quyền, có thứ chỉ một cùng hai:
- Quyền đầu phiếu (jus suffragii),
- Quyền hành nghề (jus honorum),
- Quyền kết hôn với người tự do (jus
conubii),
- Quyền buôn bán (jus
commercii)…
Giới quý tốc có cả bốn quyền,
nhiều người tự do chỉ được hưởng một hoặc hai, ba… đều phải biết để
cãi kiện… Bởi vậy phải mất nhiều công học tập.
Người muốn vào nghề trước hết phải đến
với một giáo sư để tự học cho biết đại cương. Đợt sau là
theo dõi các cuộc tranh luận của các luật sư danh
tiếng. Đợt ba đi tập sự… thế là có những chuyên
viên: pragmatici, jurisconsulti, jurisprudentes, avocatus… Học
xong còn phải biết mánh lới vì số người theo đuổi
nghề luật quá đông, nên phải dùng thủ đoạn,
thí dụ khi đi đến tòa cãi kiện phải mang theo
chồng tài liệu do tổ bố, có khi phải thuê người
mang theo, hoặc thuê người vỗ tay lúc biện hộ; làm
thế nào để tội nặng ra nhẹ. Tội giết mẹ mà tuyên bố
là nhẹ thì phải đặt bao nhiêu tiền cọc. Vì
thế óc tôn thờ luật gây nhiều vụ kiện tụng vô
vàn. Người ta cho là trong tất cả các dân
thời cổ thì người Roma ưa kiện tụng nhất. Và cũng
là nước duy trì và mở rộng nhất sự bất công
nền tảng là chế độ nô lệ. Đúng là summun
jus, summa injura (sự đòi hỏi quyền lợi cùng cực dẫn tới
bất công cùng cực). Trung bình chỉ từ 10- 20% người
là dân có tài sản còn bao nhiêu
đều vô sản, tạo nên một xã hội đầy chênh
lệch.
Khốn khổ hơn nữa là không
có triết nhân sinh, nên là một xã hội
thiếu hạnh phúc. Nguời quý tộc Roma xưa không thiếu
chi cả: ăn thì thừa mứa, trò chơi thì lớn lao như
chưa có đâu bằng, hát xướng thì kéo
dài từng tháng… Vậy mà vẫn không lấp được lỗ
trống trong tâm hồn, vẫn cảm thấy buồn tẻ xao xuyến (Civ VII
215).
Các nước Tây Au nay vì
nối tiếp óc Roma nên cũng vậy: về khoái lạc tưởng
không còn thiếu chi hết, khoa học lại tiến tới cung trăng,
vậy mà tâm hồn vẫn khắc khoải, bất an không
tìm đâu ra lối thoát: tôn giáo
thì họ cho là quá dị đoan, còn triết học
thì quá nhạt nhẽo vô vị, nên lòng
trí hoang vắng trong bầu khí hư vô = Nihilisme, nền
văn hóa chỉ sản xuất thêm những con người “xa lạ với cuộc
đời” như A.Camus đã tả rất tài tình trong quyển
“Kẻ Xa Lạ”. Xa lạ với đời, với tha nhân, với thượng đế, với vũ
trụ. Đó cũng là hậu quả của độc tôn pháp
luật. Bây giờ cần trở lại với cái bọc mẹ Au Cơ để xem hậu
quả lệ làng khi nó được sống ngang hàng với
phép nước.
7. Cái bọc trăm trứng
Trước các đợt xâm lăng của
pháp gia thì bên Tàu các nho gia
chống đối bằng sách vở, còn bên Việt thì
chống bằng cái làng mà ta có thể móc
nối với huyền sử của mẹ Au Cơ đẻ bọc trăm trứng. Hãy tìm
hiểu ý nghĩa của cái bọc đó ra sao.
Truyện kể rằng mẹ Au đẻ ra cái bọc một
trăm trứng nên sợ hãi đem vất ra đồng thế mà về sau
con nào cũng phương trưởng cả. Đọc xong ta nhận ra ngay
là câu truyện muốn đề cao tinh thần công thể
xây trên minh triết có nguyên lý mẹ (Au
Cơ). Cái bọc chỉ tinh thần bao bọc tương thân tương trợ,
nên ai ai cũng có tài sản: trăm người đều thế chứ
không phải kiểu chủ nô một người có chín
người không. Cụ thể hơn hết cho điều đó là
cái làng Việt, nơi mà dân làng cảm
thấy dễ chịu như được cái chi linh thiêng ấp ủ,
nhào nặn hoặc như bức tường ấm cúng bao bọc bênh
che. Nhất là những khi đi xa lâu ngày càng
cảmthấy sức trìu mến huyền vi đó. Vì sao?
Câu thưa nằm đâu đó trong
những nét đặc trưng sau:
Thứ nhất là nó xây
trên tình nghĩa, tức trên tình người chứ
không trên dòng máu hay tín ngưỡng như
Tây Au lúc xưa, cũng không trên phú
quyền như đã nói về thị xã, vì nó
không bao giờ đẩy người nghèo ra ngoài. Làng
Việt Nam không hề có những ỳ thị kiểu đó vì
nó được xây trên mối tình nhân bảo bao
trùm khắp hết nên giàu hay nghèo ai cũng
có tiếng nói. Vì nhân bản đó
có tính chất tâm linh nên dẫn đến nét
thứ hai là:
Lễ gia tiên và tế thần
làng. Đây là hai lễ quan trọng của dân
làng và cả hai nơi đều nhận thấy nét công
thể. Ở đợt gia tiên thì tư tế là hai bố mẹ,
đàn bà vẫn là chủ phụ. Thiếu chủ phụ lễ
không thành, nên nhiều trường hợp người chồng
đã già nếu chưa quá 70 tuổi cũng phải cưới vợ mới,
không phải chỉ để có con nữa nhưng là để có
chủ phụ đặng đồng tế. Đến đợt tế thần làng thì các
bà nhường hẳn cho các ông theo luật nam ngoại nữ
nội, nên ở đây nét công thể biểu lộ bằng lối
khác: cả hội đồng kỳ mục thay phiên nhau mà tế.
Đó là nét công thể đầu tiên.
Nét sau là đồ lễ chia hai một nửa làm nhắm cho
quan viên tại lễ, một nửa chia cho bô lão chức sắc:
một cái oản, một miếng trầu, có khi nửa quả chuối,
vì đó là đồ thừa huệ của thánh.
Còn cho toàn dân
đã có các cuộc hội hè đình
đám. Tinh thần công thể được biểu lộ hai đợt một là
toàn dân đều tham dự, hai là cả ngũ quan:
thính, thị, vị, khứu, xúc như xem trò, nghe
hát, ăn uống linh đình rồi những trò chơi như
đánh đu, bắt chạch… Khi con người ra khỏi cuộc lễ, mọi
giác quan đều được thỏa mãn cũng như mọi người đều được
tham dự nên sự vui tràn ngập.
Nét thứ ba thuộc kinh tế là
bình sản quen gọi là công điền, công thổ. Thể
chế này có ngay từ đầu chứ không phải cóp
của phép tỉnh điền hay xảy ra sau vụ Mã Viện giết hại
các tù trưởng Lạc Việt. Chính vì nó
là nền tảng nên về sau này Việt Nam vẫn giữ đựơc tỉ
lệ công điền cao hơn bên Tàu: cho đến đầu thế kỷ
ruộng công vẫn còn nhiều hơn ruộng tư. Thứ đến không
có phong kiến theo Tàu hay Tây cắt đất phong, khiến
kẻ được có mọi quyền trên nông nô, kể cả quyền
sinh tử. Bên Việt Nam có được phong cũng ít người,
lại chỉ được hưởng có một đời. Đã vậy không hề
có quyền ra luật riêng về điền trạch (1). Mà
cái nghèo bên xã hội Việt nho không
biết kỳ thị kiêng nể ai hết, nên ai ai cũng có thể
nghèo hay giàu.
Ai giàu ba họ ai khó ba đời.
(1) Xem chẳng hạn Tài sản xã
thôn Bắc Việt của Vũ Văn Hiền hoặc Xã Thôn Việt Nam
của Nguyễn Hồng Phong, Văn Sử Địa, Hà Nội.
Thế là đủ những điều kiện nền
móng cho sự an vui thoải mái. Tuy trong làng
có dư luận kiểm soát rất ngặt, nhưng nhờ hai yếu tố tự do
và bình sản, nên sự kiểm soát bằng dư luận
không làm cho con người vong thân (vì vong
thân thực sự chỉ xảy ra do hai yếu tố trên là
nô lệ và vô sản).
Thứ tư, tự do chính trị được biểu thị
bằng sự bầu bán không có kỳ thị nào về
dòng máu hay tiền của mà chỉ căn cứ trên
tuổi tác (trọng xỉ) vì tuổi biểu thị kinh nghiệm
sống.
Thứ năm, tự do văn hóa: tuyệt
nhiên không có bó buộc ai theo thuyết
nào, đạo nào. Tuy có tam giáo nhưng để tuỳ
ý mọi người. Học hành cũng vậy, không có hạn
chế nào ngoại trừ những hạn chế do cái nghèo
là nạn không riêng của ai, hay nơi nào.
Trên đây là năm ba
nét đặc trưng của cái làng Việt. Ta có thể
nói được như sau: đó là một chính thể
toàn diện bao gồm cả tôn giáo, chính trị,
văn hóa, đáp ứng cho mọi nhu yếu con người, ông
Paul Mus cho là cái gì kỳ diệu thì quả
là có đầy lý do.
Ngoài ra tất cả bấy nhiêu
khía cạnh đã đi đến trình độ cao nhất ở chỗ vượt
mọi phân chia gây ra do sự đặt nền bên ngoài
con người như dòng máu, tăng lữ. Dân làng
được miễn hai điều đó. Lễ thì chính mình tế
lấy, triết cũng chính mình tự sống, xét về
giá trị tâm linh thì không bị sự thiếu
đói. Chính điều đó giải nghĩa tại sao người Việt
Nam lại ôm lòng quyến luyến làng nước. Những người
đi phương xa lâu ngày ngóng mong được trở về trầm
mình vào bầu khí của làng dưới gốc
cây đa rủ bóng che giếng nước, hoặc con sông uốn
khúc bao quanh. Ong Legusteguy nhận xét bên Việt
Nam xưa người ta không có ý niệm giải phóng
là cái gì cả. Câu nói thật là
trúng: giải phóng ai? Toàn dân đã
là người tự do cả. Giải phóng phụ nữ ư? Thì
các bà đã là chủ phụ rồi. Không ai
chối cãi những bê bối hà lạm, nhưng đấy là
những thiếu sót thuộc thừa hành, chứ về cơ cấu đã
có đủ.
Như vậy dẫn đến sự thực này:
làng xã Việt Nam là chế độ tạo được nhiều hạnh
phúc cho con người hơn cả. Sự thực này khó chấp
nhận cho người Việt đời nay vì bị đặt bên cạnh đời sống
huy hoàng của Tây Au. Tuy nhiên nếu so sánh
qua các đời và nhất là xét về phương diện
tự do và bình sản thì câu trên vẫn
là sự thực hiển nhiên. Còn nếu xét đến tận
nguồn gốc thì làng xã bên ta bao hàm
một chiều kích mà Tây Au đã không
có ở bất cứ cấp thị xã hay quốc gia: đó là
chiều kích tâm linh.
Bên An Độ hay Tây Âu
có linh thiêng trong tôn giáo nhưng do
hàng giáo sĩ, tăng lữ nắm độc quyền, nên khi
dân chúng ác cảm với giáo sĩ (anti-clerical)
thì hết đạo. Đúng hơn đó là bước đầu sẽ dẫn
đến bước sâu: cho đạo là vô lý.
Còn triết là môn
chuyên nghiệp của các triết học gia chứ dân
không hề tham dự vào đó, vì coi đó
là cái gì nhạt nhẽo xa lạ.
Đây là điều giải nghĩa sự trống
rỗng trong tâm hồn người Tây Au thường được các
sách ngày nay đề cập tới bằng danh từ “nihilisme
occidental”, nhưng chưa mấy ai nhìn ra nguyên uỷ sâu
xa là nó phát xuất do nền văn hóa
nghiêng hẳn về pháp hình, với những tổ chức gồm
toàn những lý với sực, đẳng với phái, đầy
tình chất du mục. Vì thế khi người Việt chúng ta
nay bị hút vào quỹ đạo của nó thì cảm thấy
như bị cắt lìa khỏi những rễ sâu đâm xuống đất để
hút nhựa sống, cảm thấy lòng trống trải như mất mối
liên hệ với cái nền âm u của quê mẹ đã
nuôi dưỡng ấp ủ thực thể mình tự ngàn xưa,
nên tinh thần sa sút, vì tinh thần là
cái chi nếu không là cơ cấu lớn lao hơn mình
làm bằng muôn thế hệ kinh nghiệm tình thâm
tích luỹ nên trở thành man mác như
bào thai bao bọc lấy cá nhân mình. Nay bị
búng ra khỏi cội gốc đó, làm sao cho khỏi bơ
vơ:
Tình thương bể thắm lạ điều,
Mà hồn Tinh Vệ biết theo chốn
nào?
Có thế chúng ta mới hiểu ra
được tại sao dân làng tận tình giữ tục lệ mà
hững hờ với phép nước. Thì ra phép nước là
thứ luật chung thường do tự quyền trên áp đặt xuống. Học
luật thì lấy gốc mãi từ bên Tàu, bên
Roma xa xôi… vì thế nó trừu tượng ít hợp với
hoàn cảnh. Ngược lại lệ làng là kết tinh của nhiều
đời kinh nghiệm được tuyển chọn trong những đường lối hoạt động
đã thích nghi với những hoàn cảnh đặc thù
cũng như với tục lệ đã có từ thời sơ khai dựng nước:
chúng xuất hiện như một thứ luật tinh thần với hiệu lực mạnh mẽ
như của tôn giáo có cái chi đó
đáp ứng được khát vọng thâm sâu nhất, tư
riêng nhất của con người.
Vì thế mà ta có
lý do nhìn sự suy sụp của lệ làng trước các
làn sóng pháp hình của Tây Au cũng
chính là sự suy sụp của nhân linh, mà chỉ
còn lại dân sinh trơ trọi: một thứ hàng ngang được
kể như dụng cụ sản xuất hay tiêu thụ tức chỉ còn là
một thứ thú vật, tất nhiên cũng sẽ bị đoàn ngũ
hóa, đúng hơn là đoàn lũ hóa, xuất
nhập đều qua cửa chuồng.
XVI. TINH HOA VĂN
HÓA VIỆT
(Tóm
lược
mấy ý tưởng trong buổi nói chuyện về văn hóa
Việt tại Minneapolis ngày 3/12/1977)
Một
nền
văn hóa có thể định tính theo cảnh vực xuất
hiện của nó. Theo Đạo lý Cổ Việt có ba cảnh vực
là trời, đất, người.
Nói
Trời
là khi văn hóa đặt nền trên những tin tưởng
vào trời thí dụ xã hội An xưa phân chia
người trong xã hội làm nhiều đẳng cấp tuỳ theo người ấy
sinh ra do Brahma hay không nếu không thì là
nô lệ, còn có thì là người tự do, cao
thấp tuỳ: nếu sinh ra bởi miệng Brahma thì làm tăng lữ
giảng đạo, nếu sinh ra bởi cánh tay thì làm
quân nhân, sinh ra bởi bụng thì là tư bản
giàu có, sinh ra bởi chân thì làm thủ
đà la (sudra) nông công vi bản.
Còn
đất
thì hiểu theo nghĩa rộng là triết lý sức mạnh
như binh bị, thế lực, quyền uy hay tiền tài. Thí dụ theo
định chế centuric của La Mã đặt con người cao thấp tuỳ theo
có nhiều hay ít tiền = có nhiều trăm ngàn
thì được bỏ nhiều phiếu, không có trăm ngàn
nào thì không có quyền bỏ phiếu. Xã
hội như thế tất nhiên chia ra giai cấp, thành ra bên
chủ bên nô (master slave).
Người
là
khi văn hóa đặt nền trên con người: bất cứ ai hễ
đã sinh ra thì đều được làm người, dù
nghèo túng không sao: xã hội vì thế
không có giai cấp theo định chế. Và đấy là
nền tảng văn hóa Việt Nam.
Câu
nói
này thoạt nhìn coi như quá đáng
vì hiện nay văn hóa hầu hết các nước đều xoay
quanh con người. Tuy nhiên đó mới là xét
theo đợt lương tri (bon sens) và ý muốn hiện đại chứ chưa
phải là nền tảng. Để một nền văn hóa xứng danh là
đặt trên nền người cần phải xét qua ba đợt trắc nghiệm
chứng minh (probation) là siêu hình, triết
lý và tôn giáo. Có trải qua được ba
cuộc thử thách đó mới đích thị là nền
người. Ta hãy lần lượt duyệt qua.
TRÊN
CẤP
SIÊU HÌNH
Siêu
hình
là cấp cao nhất của trí tuệ con người. Cấp
này có thể đi theo lối huyền thoại. Huyền thoại có
hai loại, một là thần thoại hai là nhân thoại. Thần
thoại là khi trong câu truyện Thần làm chủ.
Còn nhân thoại là khi người làm chủ. Văn
hóa xây trên thần thoại là văn hóa vật
bản (chosime). Còn xây trên nhân thoại
là xây trên con người. Tinh hoa văn hóa Việt
được gói gọn trong truyện bánh dầy bánh chưng:
bánh dầy tròn chỉ trời, bánh chưng vuông chỉ
đất. Nho giáo kêu là “thiên viên địa
phương” và coi đó là hai đối cực làm
nên con người Đại Ngã Tâm Linh đứng giữa trời
cùng đất. Nên ngụ ý chính là Người
được công thức hóa trong Nho bằng câu “nhân
giả kỳ thiên địa chi đức”. Người chính là đức của
trời của đất. Hoặc nói theo Kinh Dịch thì người là
cái khí tinh tuyền của âm và dương (âm
dương chi tú khí).
Theo
định
nghĩa đó thì con người cũng kêu là Đại
Ngã tức con người bao la có tầm kích vũ trụ. Cho
nên Viêm Việt có truyện ông Bàn Cổ
không do thần minh, mà tự mình xuất hiện, rồi xếp
đặt trời đất, phân định núi sông… tức toàn
là những việc có tầm kích vũ trụ. Bà Nữ Oa
cũng thế: đội đá vá trời. Kế tới rất nhiều những
ông khổng lồ bạt núi lấp biển. Trẻ con quen
hát:
Nhất ông ném
cát
Nhì ông tát
biển
Ba ông kể sao
Bốn ông đào
sông
Năm ông trồng cây
Sáu ông xây
núi
Bảy
ông
trụ trời.
Đó
chỉ
là bài đồng diêu mà đã phản
ánh một nhân sinh quan đầy tác động tính,
cũng như đầy thế chủ động chứ không trong thế suy phục,
thì biết văn hóa Việt quả là một nhân thoại
báo hiệu một nền nhân bản hùng tráng phi
thường.
TRÊN
CẤP
TRIẾT
Ta
có
thể nói đó là một nền Nhân
Chủ.
Để
một
nền triết đáng tên nhân chủ thì con người
cần đạt được tự chủ cả hàng dọc lẫn hàng ngang.
Hàng dọc là khi con người không nô lệ cho
trời hay đất, theo nghĩa là không lệ thuộc vào
những tin tưởng kiểu đẳng cấp bên An Độ xưa được quy định theo
niềm tin mà không theo bản tính con người cụ thể;
cũng không nô lệ cho tài sản thí dụ nước
nào quy định rằng ai có tài sản là người
thong dong, không tài sản là nô lệ thì
đó là nô lệ cho đất. Trái lại con người theo
Việt nho luôn giữ được độc lập; giữ được quyền làm chủ,
nó bóng là làm vua làm hoàng:
Nếu
trời
là vua, Đất là vua, thì Người cũng là
vua. Đó là thuyết Tam Hoàng mà sau Nho
công thức hóa thành thuyết Tam
tài.
Xét
về
hàng ngang thì mọi con dân trong nước bất cứ
giàu nghèo đều được hưởng tự do, không có
chế độ nô lệ, tuy sự kiện nô lệ có nhưng chế độ
thì không. Ngoài ra lại có chế độ
bình sản theo nghĩa ai cũng có quyền tham dự vào
tài sản chung của làng nước như ta thấy phần nào
còn thi hành trong các làng xã của
ta. Trái với chế độ tư sản tuyệt đối bên Au Tây hay
An Độ kẻ có người không. Nó sẽ dẫn đến tư bản để
rồi cuối cùng gây ra cộng sản. Như vậy cộng sản là
con hoang của tư bản. Tư bản phát sinh do quyền tư sản tuyệt
đối. Xin lấy một thí dụ thiết thực vào hoàn cảnh
nứơc ta dưới thời Pháp thuộc. Nước Pháp theo chế độ tư
sản tuyệt đối nên một người có thì đến chín
sẽ không. Trái lại bên ta vì theo chế độ
bình sản nên tài sản được định kỳ quân cấp.
Tuy chế độ này sau đã sứt mẻ nhiều vì ảnh hưởng
Tàu, nhưng vào năm 1940 còn giữ được lối 26% ruộng
công. Đang khi Nam Kỳ vì là thuộc địa Pháp
chỉ còn giữ được 2.5%, tức dẫn tới bờ vô sản. Rõ
ràng nứơc ta không có vô sản, mãi tới
thời nay mới có ít chút là do văn
hóa ngoại lai. Vì thế nói được là Việt Nam
không có vô sản, ngoại trừ ba nơi nằm dưới
ách Pháp là Hồng Gay, Cotonkin và Bạc
Liêu (Cotonkin chỉ nhóm thợ Bắc Kỳ làm cho xưởng
dệt của Pháp).
TÔN
GIÁO
Tôn
giáo
chính của Việt Nam là Gia Tiên
và Quốc Tổ. Gia Tiên cho cấp gia đình còn
Quốc Tổ dành cho quốc gia thờ trời và những vị anh
hùng có công với dân với nước, xét
thấu đáo thì cả hai đều là thờ nhân
tính theo nghĩa nếu trời đáng thờ, đất đáng thờ
thì người cũng đáng thờ. Cho nên nói được
đó là tôn giáo Việt Nam. Còn một số
tín ngưỡng khác Đạo Tiên hoặc Đạo Quốc Nội thờ tứ
bất tử là thần Tản Viên, Thánh Dóng, Chử
Đồng Tử, Liễu Hạnh nhưng xét cho cùng đó đều
là những dị bản của đạo thờ người, nhưng được bí truyền
vì những lề thói riêng biệt mà thôi,
chứ thực không khác về bản tính. Cả đến Tam
giáo cũng lấy con người làm đích điểm để phụng sự,
tuy đôi khi không còn tinh tuyền như trong Đạo Gia
Tiên và Quốc Tổ.
KIỆN
CHỨNG
(CONFIRMATION)
Trên
đây
là ba khía cạnh nền tảng chứng tỏ văn
hóa Việt xây trên con người, cả ba phương diện
gây thành bầu môi sinh tinh thần khiến cho
cái chi cũng mang màu sắc nhân chủ: từ ca dao,
thói tục, định chế đến văn chương: tất cả đều xoay quanh con
người. Xin kể vài thí dụ:
Trước
hết
là tính ngông của người Việt. Đây
không chỉ là thứ ngông thường mà là
ngông tới mức tối hậu tức đối với trời đất quỷ thần, thí
dụ câu:
Bắc thang lên hỏi ông
Trời
Bắt
bà
Nguyệt Lão đánh mười cẳng tay.
Như
thế
có nghĩa coi trời cũng vừa phải theo điệu nếu người
là ông thì trời cũng chỉ là ông,
“ông trời”: Người với Trời là ông ngang nhau,
nên ta quen nói “có trời mà cũng có
ta”, hoặc câu “thiện căn ở tại lòng ta”.
VĂN
HỌC
Sau
đây
xin trưng bài vịnh “Tam Tài” do nhà
cách mạng Trần Cao Vân gồm Trời, Đất, Ta trong hết
các câu:
Trời, Đất sinh Ta có ý
không?
Chưa sinh Trời Đất có Ta trong
Ta cùng Trời Đất ba ngôi
sánh.
Trời Đất in Ta một chữ đồng
Đất nứt, Ta ra, Trời chuyển động.
Ta thay Trời mở Đất mênh
mông
Trời che, Đất chở, Ta thong thả.
Trời,
Đất,
Ta đây đủ hóa công.
Trong
bất
cứ câu nào con người (chỉ bằng Ta) cũng chơi vai
trò chủ động ngang cùng Trời Đất. Nhất là
câu cuối: Trời, Đất, Ta đây đủ hóa công. Nếu
Trời, Đất là hóa công thì Người cũng
là một hóa công tức óc tự sáng tạo
được đề cao hơn hết. Nói khác cái đáng đề
cao nhất trong con người là tự tác, tự động, trái
với ỷ lại. Ơ tỉnh Phú Thọ có đền thờ ba vị kêu
là:
Uyên Công
Mẫn Công
Đạt
Công
Tức
là
hết sức đề cao hành tác của con người. Nếu căn
bản văn hóa Việt là con người thì tinh hoa của
nó chính là sự tác hành của con
người.
Đại
để
đó là kết quả của bốn đợt minh chứng và kiện
chứng: tất cả đều bày tỏ rằng Việt Đạo đã đủ điểm để “đỗ”
trong cả bốn kỳ thi sát hạch. Ít nền văn hóa
nào có thể biểu lộ nhân chủ tính rõ
nét trải qua bốn đợt trắc nghiệm như thế: từ siêu
hình, triết lý, tôn giáo tới môi sinh
tinh thần đều đỗ và đỗ cao. Tiếc rằng về sau sa đọa cũng như
Hán Nho nên để cho những tục kiêng cữ có
tính cách tại dị về phong thuỷ che lấp mất cái
nền, cái tinh hoa nhân bản nọ.
KẾT
LUẬN
Văn
hóa
Việt quả có một nền tảng vừa quý hóa
vừa vững bền. Quý hóa vì khi nhìn bao
trùm các nền văn hóa trong nhân loại ta thấy
hầu hết đều đặt nền hoặc trên trời hoặc dưới đất mà
không đặt trên nhân bản như văn hóa ta. Nếu
như họ cứ đứng ở đó thì không nói làm
chi, đàng này họ lại đang cố gắng tiến dần về nhân
bản. Biết bao Đạo giáo xưa kia rất thanh giáo, khắc khổ,
ngày nay cũng trở nên gần con người: cũng sống bình
thường, bớt chú ý đến khắc phục hãm xác
mà chuyển sang làm phát triển con người
toàn diện. Do đó ta biết nền văn hóa phải
là nhân bản mới đáng quý trọng, mới tỏ ra
là một tiêu chuẩn trung thực vững bền. Tức không cần
thay đổi nền móng nữa.
Nhìn
vào
các nền văn hóa khác tuy không
thiếu giá trị nhân bản như coi trọng nhân phẩm con
người, kính nể lẫn nhau… nhưng có thể nói
đó là do lương tri thông thường (bon sens) cũng như
do hậu quả của kinh tế phồn thịnh làm cho sự lao tác bớt
nặng nhọc vất vả, nên gây được sự coi trọng phẩm giá
con người, mà chưa do sự đổi nền triết. Còn nếu căn cứ
trên chính nền thì như cộng sản đó, coi con
người như một dụng cụ sản xuất. Cho nên nếu phải nói theo
lý luận chặt chẽ của triết thì cộng sản chính
là hậu quả đương nhiên của nền văn hóa y cứ
trên Địa của Tây phương. Tây phương chống cộng
vì lương tri, chứ trong bản chất văn hóa thì
không khác cộng sản: cũng đưa bóc lột lên
thành định chế.
Dầu
sao
thì mỗi lần tiến bước cũng phải có đổi một ít:
từ trời hay đất đổi sang người. Những sự thay đổi này sẽ
kéo theo sự sụp đổ biết bao giá trị cổ truyền. Ngược lại
văn hóa Việt khỏi cần phải thay đổi nền móng mà
chỉ cần trau chuốt gạn lọc, tại bởi vì nền tảng đã
là con người rồi. Chính trong chỗ đó mà
chúng ta tìm thấy lý do đáng bảo tồn văn
hóa Việt, cũng như hy vọng nó có thể đóng
góp vào bản hòa ca của các nền văn
hóa khác. Hơn thế điều đó lại rất khẩn cấp.
Vì thế giới tự do hiện đang trải qua cơn khủng hoảng trầm trọng
do sự thiếu một nền văn hóa trung thực, đó là
lý do sâu xa khiến phe quốc gia đã thua trận
bên Việt Nam. Nay chúng ta muốn cứu quốc, kiến quốc, hay
chỉ duy trì hồn nước thì tất phải nghĩ đến việc trước hết
là kiến tạo một nền văn hóa trung thực với con
người.
Trong
việc
đó chúng ta may mắn đã có được một nền
tảng vững chắc, nên việc phải làm chỉ còn là
đào bới lên để trung tu lại. Đó là mục
tiêu của triết lý Việt Nho.
XVII. BA VỤ TRỘM
RÙA
Rùa đây là đạo người thành bởi đạo trời, đạo đất.
Xuyên
qua cả huyền sử lẫn lịch sử, nước ta đã xảy ra ba vụ
ăn trộm rùa và cả ba lần đều gây ra đau thương cho
quê hương đất nước. Vì vậy hôm nay, chúng ta
bàn về ba vụ đó mong tài bồi cho đạo người
ngày thêm vững mạnh để bảo vệ con người.
Con người được Việt nho quan niệm như sự tổng
hợp đức trời với đức đất. Khi hai chỉ trời đất giao thoa đúng
liều lượng thì đó là con người chân
nhân. Tiền nhân đã dùng rùa làm
biểu hiệu người vì nó có lưng tròn tượng
trưng trời, mình vuông tượng đất. Do biểu hiệu như thế,
nên kể nó vao một trong tứ linh là: Lân, Li,
Quy, Phượng.
Quy đặt ở giữa Li và Phượng
chính là cơ cấu hóa biểu tượng Tiên Rồng:
tiên là chim (phượng); rồng là li (rồng biển) sinh
ra con là quy, nên quy chính là hình
ảnh người. Người Việt là con của mẹ tiên, cha rồng
nên rùa cũng được coi như bản tóm lược đạo
lý của Việt tộc.
Vì nền đạo lý này xuất
hiện rất sớm mãi ở thời tiền ngôn, tiền niệm tức thời chưa
có văn tự cũng như chưa có lý thuyết, nên
đạo lý được gửi vào những huyền thoại. Về sau con
cháu mất ý thức nên gọi là truyện hoang
đường. Vì muốn trả lại cho các truyện kể trên
ý nghĩa thâm sâu của nó nên tôi
gọi là huyền sử. Như vậy huyền sử chính là sử
trình của đạo người nhưng được ghi lại bằng những nét u
linh huyền ảo. Bởi đó là điều đã xuất hiện rất sớm
ngay từ thời hồng hoang. Vì xuất hiện rất sớm nên cũng rất
căn bản quan trọng. Hễ người giữ được thì hạnh phúc
mà lỗi đạo thì khổ luỵ. Chính vì thế
nên sử trình của đạo người gắn liền với sử mệnh của Việt
tộc tức Việt tộc thịnh hay suy là tuỳ thuộc vào mức độ
giữ được đạo người nhiều hay ít. Sau đây là mấy
truyện huyền sử nói lên những cuộc hưng vong đó.
Truyện đầu tiên ghi lại trong
sách Liệt Tử kể về một vụ ăn trộm rùa như sau:
Ở phía Đông trong Bột Hải
có một vực thẳm không đáy, gần đó nổi
lên 5 đảo tên là Đại Dư, Viên Kiều, Phương Hồ,
Doanh Châu và Bồng Lai. Mỗi đảo cao 3 vạn đặm, rộng 9
ngàn lý, các đảo cách nhau 7 vạn dặm.
Nhà cửa trên đảo làm bằng vàng ngọc; chim
muông thân thiện với người, cây cối tốt tươi, hoa
thơm, quả ngọt, ăn vào làm cho không già,
không chết. Vì vậy mà sống trên đảo
toàn là thánh, mỗi ngày bay qua lại thăm
nhau nhiều lần. Chỉ phiền là các đảo cứ trôi nổi
theo nước thuỷ triều. Thượng Đế sợ một ngày kia các đảo
sẽ trôi sang Tây, nên truyền cho thần Trung Cương
liệu lý. Thần này sai khiến những con rùa khổng lồ
đội đảo trên lưng, cứ mỗi đảo là 3 con, 5 đảo thành
15 rùa, nhờ vậy mà các đảo trở nên vững như
bàn thạch. Không may ngày kia có người khổng
lồ tên Long Bá từ biển Bắc đến câu mất 6 con đưa về
lấy mu rùa dùng vào việc bói toán.
Thế là hai đảo Đại Dư và Viên Kiều trở nên
bồng bềnh, dạt trôi về biển Bắc rồi chìm mất. Chỉ
còn lại có 3 đảo Phương Hồ, Doanh Châu và
Bồng Lai.
Trên đây quả là một trang
huyền sử. Bột Hải hay Việt Hải cũng thế. Có thời nhiều chi Việt
tộc cư ngụ trên sông Bộc nên Bách Việt cũng
có tên là Bách Bộc. Còn những con số
toàn là huyền số quen thuộc của Việt tộc: số 3 chỉ đạo
Ba, số 9 là “cửu thiên huyền nữ” (nguyên lý
Mẹ), số 15 là 3*5=15 bộ nước Văn Lang. Dân Văn Lang
là những người giữ được Đạo đó nên sung sướng như
tiên thánh; thức ăn đầy đủ, đối với nhau bằng tình
ái, trong nước không có cảnh chủ nô với đấu
tranh giai cấp. Thần Trung Cương là những cương vị của đạo Trung
Dung tức đạo người, đạo trời, đạo đất hợp lại mà thành,
nó bóng là mỗi đảo được chở bởi 3 con rùa,
không cho trôi lên mạn Bắc hay sang Tây
vì đó là hai miền trái đạo Trung Dung. Bắc
số 1, Tây số 4, cả hai là những số chỉ sự thái
quá (bộ số giữa là 2-3) nên là miền chưa
vượt được bái vật (bói rùa) hoặc ý hệ (ăn
trộm, tức chinh phục).
Long Bá là Bá Đạo ưa
dùng số chẵn, số 6 (trong 6 con rùa bị câu)
là số duy vật. “Con sông Lục đầu nước chảy xuôi một
dòng” tức là duy nào đó, (duy vật hay duy
tâm đều là nứơc chảy xuôi một chiều cả), nên
cũng làm chìm mất Đại Đạo. Còn lại được 3 đảo: một
đại biểu đức đất là Phương Hồ (hồ vuông), một đại
biểu đức trời là Doanh Châu (doanh là tròn
đầy ngầm chỉ số 3 trời), Bồng Lai là cộng hai đảo kia lại
mà thành nên rất đầy đủ. Ta quen nói “Bồng
lai tiên cảnh” là do tích này. Đó
là hình ảnh xa xôi diễn tả cùng một ý
như bánh dầy, bánh chưng tức đạo làm người. Hễ giữ
được thì đạt hạnh phúc gọi là được “thiên
sinh địa dưỡng: vạn vật dục yên” (mọi vật đều được hưởng nhờ).
Ngựơc lại là trầm luân khổ luỵ như được chứng minh bằng
hai truyện trộm rùa sau:
Truyện trộm rùa thứ hai là
Trọng Thuỷ mà ai trong chúng ta cũng đã biết
là nó đã gây ảnh hưởng quyết liệt vào
nước ta. Trọng Thuỷ cũng từ phương Bắc như Long Bá, đánh
lừa Mỵ Châu là tiêu biểu nguyên lý Mẹ
(lúa mễ: mỵ hay mễ là một) nên nước Văn Lang bị tan
tành, văn hóa Việt tộc bị Hán nho che
phủ.
Lần trộm thứ ba xảy ra khi Hegel lấy hứng từ
Kinh Dịch để đưa ra biện chứng pháp. Tuy không có
chỗ nào Hegel nói là mình đã lấy
hứng từ Kinh Dịch, nhưng người ta có quyền suy đoán như
thế do hai lẽ sau: trước hết là Kinh Dịch đã được
Leibnitz (1646-1716) giới thiệu với Au Châu trước Hegel
(1770-1831). Hai là những đề luận chính của Hegel đều
tương tự với luận đề Kinh Dịch, như dùng biện chứng động thay
vì danh lý cứng đọng: dialectic thay vì logic.
Đồng thời thuyết phiếm thần tương tự với thuyết “thiên địa vạn
vật đồng nhất thể”… Tôi nói tương tự mà không
nói y hệt, vì nếu Hegel cũng như Cộng sản múc được
chính đạo của Dịch Lý thì đã là đại
phúc cho con người rồi, nhưng đàng này chỉ lấy
được có cái vỏ. Học giả Armaury de Riencourt gọi Hegel
là con hoang Á Châu (xem The soul of China, Harper:
Colophon Book, 1964, từ trang 166).
Theo dịch pháp thì mọi sự biến
động đều tự nội giữa hai đối cực âm dương, nói bằng biểu
tượng là giữa trời cùng đất mà trung đạo là
con người. Khi nào người đánh mất một cực thì cũng
là mất ý thức về sự biến động tự nội như trường hợp triết
học Tây Au chỉ là một chiều hoặc duy vật hay duy tâm
nên là triết học im lìm làm bằng những
ý niệm cứng đọng. Mãi cho tới Hegel mới nhận ra sự sai
lầm đó, nên đánh đổ danh lý, tức là
lý luận căn cứ trên những ý niệm im lìm để
đưa ra biện chứng pháp thay vào. Biện chứng có hai
điều mới đối với logic cũ, một là nó động, hai là
sự động nằm ngay trong nội tại sự vật. Sự vật nào cũng biến động
do đó mang trong mình yếu tố mâu thuẫn. Hegel gọi
là quyết đề và phản đề, khi giải hòa đựơc quyết đề
và phản đề thì có tổng đề. Rồi tổng đề lại trở
nên quyết đề mới hàm chứa phản đề mới và cả hai lại
hòa giải trong tổng đề mới nữa. Sự vật cứ thế mà tiến
mãi cho tới tinh thần tuyệt đối.
Karl Marx đã học được biện chứng với
Hegel. Nhưng Marx chê Hegel là sai lầm vì đặt biện
chứng trong ý niệmmà lẽ ra phải đặt trong sự vậ, trong
nhân sự, vì chính vật chất quyết định tinh thần, tư
tưởng chỉ là phản ảnh của sự vật. Chính sự vật là
đầu mối mọi tư tưởng. Tư tưởng tiến theo biện chứng là vì
sự vật tiến theo biện chứng như thấy được trong các đợt kinh tế:
kinh tế đời phong kiến bị phá vỡ do buốc gioa. Buốc gioa bị
phá vỡ do tư bản, rồi tư bản sẽ bị phá vỡ do phản đề của
nó là vô sản.
Hiên tư bản đang mang trong mình
mâu thuẫn sắc bén là giới vô sản của thợ
thuyền vì sự sản xuất có tính cách
công cộng do vô sản làm ra, thế mà quyền sở
hữu lại nằm trong tay mấy chủ nhân tư bản. Đó là
mâu thuẫn nội tại nên thế nào rồi tư bản cũng sụp đổ
theo luật duy vật biện chứng mà tiến trình xảy ra đại
khái như sau: giới thợ thuyền càng ngày
càng đi đến chỗ nghèo khổ cùng cực nên
càng đoàn kết lại mạnh, càng được tổ chức chặt chẽ
có kỷ luật, đang khi giới chủ nhân càng ngày
càng trở nên thiểu số thì càng không
đủ sức điều hành guồng máy sản xuất… thế là sụp
đổ. Chính giới tư bản với máy móc ngày
càng tinh vi đang tự đào lỗ chôn mình để
nhường lại quyền hành cho giới thợ, cho giới vô sản, từ
đó sẽ hiện thực đựơc chính sách “tam vô, nhị
các”. Tam vô là không tôn giáo,
không quốc gia, không gia đình, còn nhị
các là ai cũng sẽ làm tận khả năng của minh
và tiêu dùng theo sự cần dùng, nhờ đó
sẽ chấm dứt cái nạn “kẻ ăn không hết, người đào
không ra”. Đó là những lời hứa hẹn đầy sức quyến rũ
đựơc truyền bá mạnh giữa lòng thế kỷ 19. Nhưng đến nay
thì ai cũng đã thấy những dự đoán của Karl Marx
đều xảy ra trái ngược hẳn lại.
Thứ nhất: thợ thuyền không
càng ngày càng nghèo cực mà
trái lại đời sống càng ngày càng lên
cao, có nơi lên tới 20 lần so với thời Karl Marx.
Thứ hai: tư bản đã không sụp
đổ mà lại ngày thêm lành mạnh do những cải
cách mới như thuế luỹ tiến và chế độ an sinh nhằm
phân phối lợi tức quốc gia cho mọi người được hưởng.
Thứ ba: thuộc địa không còn
là nơi kéo dài cuộc sống tư bản thêm
lâu như Lenine nói, trái lại các nước tư bản
đã nhả hết thuộc địa, đang khi Nga chiếm thêm đất đai
còn rộng hơn các thuộc địa cũ của tư bản.
Tất cả những dự đoán trật đó
bày tỏ sự sai lầm căn bản nằm trong biện chứng pháp
là duy tâm hoặc duy vật. Biện chứng là sự động giữa
hai hạn từ, nay bỏ một thì còn đâu là động
nữa, vì chỉ có biện chứng khi có sự biến động,
nhưng hễ nơi nào cộng sản cướp được chính quyền là
tuyệt đối cấm đoán thay đổi, cấm đoán mâu thuẫn với
chính quyền. Thế là diệt mất căn do của sự tiến bộ, tức
cũng là diệt mất biện chứng. Ta thấy rõ điều đó
trong tính chất độc hữu và bất tương dung của cộng sản.
Chúng khai trừ đối lập: không chịu nhận bất cứ ý
kiến nào trái ngược lại với hệ tư tưởng của
chúng.
Điều này đã xuất hiện ngay từ
Karl Marx. Marx đã dùng những lời thô bị tục tằn để
mạt sát đối phương, thí dụ Proudhon, một nhà
xã hội học nổi tiếng của Pháp cùng thời với Marx,
đựơc Marx hết sức ân cần mời mọc nhiều phen để cùng cộng
tác. Proudhon đã trả lời đại để:
“Chúng ta nên tìm hết
cách để cộng tác với nhau đặng tìm ra luật
xã hội, tìm ra con đường tác động của những luật
lệ đó, nhưng không bao giờ chúng ta được đưa ra
những lý thuyết độc đoán. Tôi hoan nghênh
ý kiến phải đưa ra ánh sáng mọi ý nghĩ dị
đồng. Chúng ta hãy tỏ ra là những nhà học
thức sâu xa với lòng bao dung rộng rãi. Đừng bao
giờ trở nên những nhà lãnh đạo cho một sự bất tương
dung mới. Chúng ta hãy hoan nghênh và khuyến
khích hết mọi lời phản đối. Hãy lên án hết
mọi sự khai trừ, mọi huyền thuyết. Đừng bao giờ coi một vấn đề như
đã đóng hẳn, hãy bắt đầu lại nếu cần, cả với sự tự
mỉa mai chính mình. Trên điều kiện ấy, tôi sẽ
thích thú có chân trong hội của ngài,
ngược lại thì không”.
Để trả lời Marx đã viết quyển “Sự
nghèo khổ của Triết lý” chọi lại quyển “Triết lý
về sự nghèo khổ” của Proudhon. Chủ trương của Karl Marx
đã là mầm gieo ra những ác quả của bất tương dung
không những trong chính trị, kinh tế mà luôn
trong tư tưởng, lời nói cũng như cảm tình: tình
nhà, tình nước, tình người, đều bị chống đối đến
cùng cực. Mao Trạch Đông đã học được trọn vẹn
bài học vô phúc đó trong quyển sách
quan trọng của y nhan đề “Mâu Thuẫn” theo nghĩa lấy mâu
đâm thuẫn, tức là chỉ có đối kháng, thiếu
mất vòng trong tâm linh của Kinh Dịch, nên hai hạn
từ tâm và vật mất đất hội thông hòa hợp, chỉ
còn cách chọn một bỏ một, y như duy niệm ngày xưa.
Thế là các Long Bá mới này (Hegel, Marx,
Mao, Hồ) đã làm chìm mất nền đạo lý
nhân sinh của con người Đông phương đầy an vui, để
gây nên cảnh đau thương muôn trùng mà
người Việt đang cảm thấm thía tận tâm can tì phế.
Trong cảnh nước mất nhà tan, toàn dân phải từ bỏ
đời sống an vui để đi vào cảnh sống thiếu thốn đến cùng
cực không những về thể xác mà cả tinh thần cũng bị
dày vò vì nạn khủng bố rình rập lo
âu, đang khi xemvề tương lai không thấy một tia sáng
nào hết.
Việt nho đã tóm tính
chất các lối cai trị vào câu sau:
Nhân giả an
nhân
Trí giả lợi
nhân
Uý giả cưỡng
nhân
“Nhân giả an nhân” là khi
giữ được đạo Nhân hoàn toàn thì như trong 5
đảo ở biển Bột Hải, của nuôi có đầy trong tầm tay,
nói bóng là chim muông thân thiện với
người, hoa trái đầy trên cây, người ăn không
già, tức không bị lo âu làm cho tổn thọ.
Đó là cảnh “nhân giả an nhân”, người giữ được
đạo Nhân thì làm cho dân nước an
vui.
“Trí giả lợi nhân” thì
như Trọng Thuỷ tuy làm lợi đựơc cho phe mình nhưng lại
gây hại cho bên Văn Lang, nước tan mà tình
nhà cũng vỡ, cha đành tâm giết chính con
mình.
“Uý giả cưỡng nhân” là
các tên chuyên chế, đàn áp con người
toàn triệt, nên bị người oán ghét căm
thù chỉ mong lật đổ. Chính cái lòng
oán ghét của toàn dân làm cho những
kẻ thống trị đâm ra nghi ngờ sợ bị lật đổ, vì vậy
chúng lập ra đủ phương thế để kiểm soát không những
trong phạm vi công cộng mà còn xâm nhập
vào gia đình, vào cả đời sống tư riêng
làm tan biến trọn vẹn cảnh an nhiên thư thái, chỉ
còn lại một bầu không khí nồng nực làm bằng
lo âu sợ sệt.
Mấy điều trên chứng tỏ rằng những trang
huyền sử của ta chứa đựng những chân lý bất hủ, đời
nào cũng thực, cái thực thiết thân đến nỗi hễ ly
lìa thì lâm vào những cảnh đau thương thống
khổ. Như vậy nói truyện cổ mà hóa kim, nói
chuyện xưa mà hóa nay, đủ biết sự học về đạo lý,
về đạo làm người là điều phải được coi trọng vào
bực nhất trong đời vậy.
Từ bài học đau thương vừa rồi,
chúng ta cần rút ra một kết luận là phải
làm thế nào cho chút đạo lý mà người
Việt tỵ nạn còn giữ được không bị mất cắp nốt, trái
lại được nuôi dưỡng cho ngày thêm to lớn để mai sau
về ràng buộc lấy nước Việt Nam, không cho trồi sang
Tây Bắc, đặng gây an vui hạnh phúc cho toàn
dân.
Bài học xưa đã để lại:
đó là biến rùa thành sách
rùa, biến quy thành quy thư, tức phải đem các tinh
thần văn hóa còn mập mờ để làm sáng tỏ
và truyền bá đến hết mọi người tỵ nạn khắp nơi.
Làm được như vậy thì rùa sẽ không bị ăn trộm
lần nữa mà còn được lớn lên để cho 15 bộ nứơc Văn
Lang nhất định sẽ hưng phục.
XVIII. THỜI VÀNG
SON KHẢ DĨ CỦA NHÂN LOẠI
Có một hoàng kim thời đại
chăng? Câu hỏi trên nếu hướng về dĩ vãng thì
chỉ là vấn đề khảo cổ không có chỗ đứng trong triết
lý an vi. Nhưng câu hỏi không chỉ có hướng về
dĩ vãng mà còn hướng về tương lai và xuất
hiện như những dự phóng căn bản của các nhà
chính trị, trong đó có những dự phóng rất
tai hại cũng như những dự phóng ơn ích. Xét theo
hướng đó vấn đề bỗng mang tính chất thời thượng cần phải
một lần đưa ra thảo luận.
Ta hãy khởi đầu bằng xét xem
trong dĩ vãng quả có một thời đại vàng son như lưu
truyền nhân loại đều nói tới và xưa kia ai cũng tin
tưởng như vậy. Đến nay niềm tin đó bị một số người bác
bỏ, cho rằng trong tình trạng ăn lông ở lỗ, con người
là nạn nhân của thú dữ: hùm, beo,
mãng xà, bão lụt, tuyết băng, nóng
cháy da thịt… Tất cả những sự khắt khe của thiên
nhiên đó khiến đời sống trở nên hết sức cơ cực
làm sao có được hoàng kim.
Có thể trả lời rằng nói vậy
là mới chú ý tới khía cạnh khách
quan vật thể, chưa phải là lối đạo dứt khoát, vì
thế hoàng kim thời đại cứ còn sống hoài trong tin
tưởng của rất đông, vì đời sống không chỉ gồm yếu tố
duy vật, căn cứ trọn vẹn trên tiện nghi vật chất mà
còn bao hàm tâm trạng, đặt trên phầm chất,
trên lối giao du giữa người với nhau. thí dụ sống trong
yêu thương tương trợ không tranh chấp, với một cơ chế
xã hội dễ dàng đáp ứng những nhu yếu căn bản con
người lúc xưa còn ít và đơn giản. Hiểu theo
khía cạnh tinh thần đó thì có hoàng
kim thời đại, tuy không cách toàn bích cho
hết mọi nơi, cùng một lúc, nhưng tuỳ thời tuỳ nơi,
và ngay đời ta nếu chính quyền tạo ra đủ điều kiện
thì thờivàng son vẫn có được như
thường.
Vậy cần hỏi thế nào là
hoàng kim thời đại? Muốn nhìn ra khuôn mặt trung
thực của “hoàng kim thời đại” việc nên làm trước
hết có tính cách tiêu cực là lược bỏ
mọi nét huyền thoại thường bám theo, thí dụ
lúa thóc không phải gieo gặt cứ đến mùa
chúng tự rũ nhau về xếp hàng cho người dẫn vào
kho… Các súc vật sống thân thiện với người, người
không bệnh nạn, sống già rồi lột da trẻ lại như rắn v.v…
Đó toàn là những thêu dệt quá
đáng không bao giờ có, nó chỉ biến thời đại
hoàng kim thành một huyền thoại hoang đường. Vậy phải
tìm một thứ hoàng kim không những khả dĩ, và
cứ sự đã có, và nay muốn lập lại thì phải
theo những điều nào.
Nếu ta coi những truyện hoang đường về
hoàng kim thời đại chỉ là lối văn tả cảnh phong
nhiêu trong thời săn hái có thực trong một số nơi
do tình trạng người còn thưa, hoa trái cũng như
súc vật còn nhiều, không cần tranh dành,
nên đáp ứng được hầu khắp vấn đề sinh sống lúc ấy
còn thô sơ. Đàng khác vì người
còn thưa nên để đựơc quý trọng ít ra như
tác nhân làm ra của. Người xưa quen nói một
con một của: điều đó có thực trong thời nông nghiệp
người ít, đất đai để khai phá còn nhiều, ít
có xảy ra vụ người bóc lột người thì thời
hoàng kim tương đối tất nhiên có. Nhưng rồi thời
này sẽ teo lại dần ở những lúc và nơi khác
nhau mà tình trạng chung có thể tóm tắt như
sau.
Khi người đông lên mãi,
thức ăn bớt đi theo đà thì nảy sinh hai giải đáp
một là du mục hai là nông nghiệp. Trong hai lối
này thì nông nghiệp có nhiều cơ may để nối
tiếp phần nào tinh thần hoàng kim vì cần
hòa bình kéo dài, cần tổ chức gia
đình vững mới khai thác được ruộng đất v.v… Ngược lại du
mục vì năng phải đổi đồng cỏ nên hay sinh nạn tranh
giành, thế là cần võ lực. Đã nói đến
võ lực thì cần số đông, càng đông
càng mạnh nhưng để đám đông mạnh hết cỡ thì
cần kỷ luật, kiểm soát khắt khe, thế là có dịp
làm nảy sinh sự đề cao quyền lực và người nắm giữ quyền
lực.
Đó là những yếu tố dẫn đến văn
minh theo nghĩa chuyên biệt khác với văn hóa của
nông nhiệp. Phát minh quan trọng nhất của văn minh
là khám phá ra khả thể khai thác tha
nhân như một dụng cụ sản xuất. Do đấy mà có nạn
người bóc lột người mà hình thái
cùng cực là đế quốc chuyên chế. Như vậy du mục với
văn minh cùng một khuynh hướng nó đã chôn
táng hoàng kim thời đại với một cơ chế xã hội
lý làm bằng kiểm soát, đề cao nhà cầm quyền
đến tận mây xanh với quyền lực mênh mông đặt
trên vô biên.
Nông nghiệp đề cao tài năng,
hiền đức thì văn minh đề cao lời nói lý luận.
Nói theo triết là đề cao nguyên lý cha: bỏ
nhẹ tình nhà để xây xã hội trên
pháp hình, trên giai cấp, lấy đấu tranh làm
tôn chỉ v.v… Tóm lại đó là khuynh hướng đi
ngược hẳn lại với tinh thần nông nghiệp. Chính đà
tiến của văn minh này đã lần lượt giết chết mọi nền văn
hóa nông nghiệp lớn, chỉ còn sót lại
có nền văn hóa Việt nho là còn sống ngoi
ngóp bên Tàu đượcmột nửa còn bênViệt
có thể đến hai phần ba như ta thấy hình ảnh trên
mặt trồng Ngọc Lữ, và sau này còn tiếp tục tức
Việt Nam là một xã hội đầy tình người vắng
bóng định chế giai cấp, nên thể chế không xây
trên sự người bóc lột người; văn hóa của nước
xây trên sự trọng nghĩa khinh tài, lấy tương
thân tương trợ làm tôn chỉ (1). Nói gọn
là có tự do và bình sản, tức có hai
cột trụ của hoàng kim rồi đó. Như vậy nếu chúng ta
nghiên cứu cơ chế xã hội với những thói tục chung
cũng như hiểu hoàng kim cách co giãn thì
nói được là nhất định có hoàng kim thời
đại: càng lui về xa xưa càng có nhiều; nhưng rồi
nó chết lụi dần chỉ còn sót lại trong một số nơi
bé nhỏ hẻo lánh thí dụ trên núi rừng
hoặc các đảo nhỏ giữa trùng dương bát
ngát.
(1) Xin nhớ là nói về thể
chế mà không nói về cá nhân. Về
cá nhân thì nạn người bóc lột người
đâu cũng có.
Nhiều nhà xã hội học đã
tìm nghiên cứu thì nhận thấy sự thể giống câu
sách nho: “nhân chi sơ t ính bản thiện”, tức người
tiền sử tốt hơn hẳn người văn minh. Trong cuộc nghiên cứu
sâu rộng của mấy nhà nhân chủng học (1) thì
thấy trong số 31 bộ lạc được nghiên cứu chỉ có 8 bộ lạc
(Astec, Dobu, Ganda…) kể là dữ từ trong cơ chế xã hội.
Còn lại 23 thì tốt đến gần ¾. Trong đó
có 9 bộ lạc như Zuni, Pueblo Indian, Arapesh, Bathonga, Eskimos…
tốt hầu như cả thể chế lẫn cá nhân. Còn 14
thì không tốt bằng nhưng cũng chỉ là cá
nhân còn cơ chế không xây trên
đàn áp, bóc lột.
Cần nhận xét rằng chưa biết những bộ
lạc gọi là ác đã ác tự lúc
nào, từ lúc đầu chưa hẳn ác như vậy căn cứ
trên số chiến tranh xảy ra ở Au Châu từ thế kỷ 16 đến nay
(2) ta có thể suy đoán rằng càng tiến vào
văn minh con người càng trở nên ác độc hơn.
Lý do gần có thể kiểm soát được đó
là tại của nuôi không thêm nhiều kịp với
đà gia tăng của dân số. Đấy là về mặt vật chất,
còn mặt tinh thần là do lòng tham của con người
mà khi thiếu một đạo lý ám hợp để
kìmhãm thì nó sẽ trở nên vô
đáy; trở thành tai họa còn lớn hơn sự ít
của. Vậy mà lòng tham cũng lớn mạnh với đà người
khôn của khó. Từ lúc người không còn
thể để nhiều thì giờ tâm trí vào việc
phát triển nhu yếu chính là cảm quan được
giá trị cao cả con người biểu lộ qua “thể diện” thì lịch
sử loài người quả thực trở nên cuộc đấu tranh liên
tục để sinh tồn, không còn đâu nữa cảnh an
bình thư thái cũng như ít chuyên về việc
tài bồi đức tính làm nên con người.
Thế là chôn táng
hoàng kim thời đại… (3)
(1) Thí dụ Ruth Benedict (1934)
nghiên cứu về các bộ lạc Zuni, Dobu, Kwakiutl; Margaret
Mead (1961) về 13 bộ lạc như Arapesh, Greenland, Eskimos, Manu,
Iroquois, Maori v.v…; G.P Murdoch (1934) về 15 bộ lạc khác như
Tasmamians, Samoans, Ainus, Eskimos, Hopi, Astecs, Incas, Witotos,
Hotentos…
(2) Thế kỷ 16: 87 trận
Thế
kỷ 17: 237 trận
Thế
kỷ 18: 791 trận
Thế
kỷ 19: 651 trận
gần nửa thể kỷ 20 (1900-1940) 892
trận.
(3) Những suy đoán này cũng hợp
với lối phân chia tiến trình hình thành văn
hóa làm ba giai đoạn đã nói nơi khác
là: 1/ Thời đặt nền với những ý tưởng sáng tạo.
Bên ta đó là thời Hoàng Việt cũng là
Hoàng kim thời đại. 2/ Thời sau là nguyên nho đổ
khuôn thời Hoàng Việt, bớt hiện thực để tỏa ra lời
nói sách vở. 3/ Thời ba là Hán nho để triết
hết đạo lý còn giữ được có cái vỏ nho, cũng
là hủ nho.
Những điều suy luận trên đây
có thể kiện chứng bằng vài nhận xét thực tế. Thực
tế đầu tiên là nứơc Việt trước đây: so sánh
ba miền Bắc, Trung, Nam thì trong Nam còn gần
hoàng kim hơn ngoài Bắc và nhất là Trung.
Tại sao cùng là nước Việt, cùng một nền văn
hóa mà trong Nam con người vui tính rộng
rãi, xuề xòa, trọng khách hơn… thưa vì điều
kiện sinh sống dễ dàng hơn xa, ruộng đất nhiều mà người
ít.
Thí dụ tân thời là Au Mỹ:
cũng là một giống người, một nền văn hóa mà sao
người Mỹ tốt hơn người Au Châu xưa, người Mỹ nay tốt hơn người Mỹ
lúc mới tới lập nghiệp. Lúc ấy họ giết người bản thổ như
ngoé, họ bắt người da đen làm nô lệ. Nay thì
chế độ nô lệ không còn, người bản thổ đã được
đối xử tốt hơn xưa, người nghèo đã được thể chế an sinh
giúp đỡ cho có một cuộc sống xứng hợp con người.
Đó là tại kinh tế phồn thịnh hơn xưa cả chục
lần.
Cũng nói đựơc như thế về nhiều nước
bên Au Châu. Thời kỳ khởi thuỷ kỹ nghệ phải gọi là
thời sắt: làm việc một tuần từ 70 đến 80 giờ, trẻ con từ 5, 6
tuổi đã phải đi kiếm việc thế mà chỉ được có đồng
lương chết đói, sống trong những xóm nhà lục sụp.
Nhưng nay thì mực sống đã cao hơn cả chục lần. Đó
cũng là nhờ kinh tế tiến mạnh. Như vậy có thể nói
nhờ kinh tế phồn thịnh mà Au Mỹ đang lập lại được hoàng
kim thời mới. Nó sẽ cao hơn hoàng kim tiền sử về tiện
nghi vật chất, cũng như sự bảo đảm về an sinh. Chỉ còn ước mong
làm sao cho tình trạng đó tốt đẹp hơn và mở
rộng ra cho toàn thể nhân loại, trên các nước
kém mở mang. Đó là hướng tiến sẽ gặp đầy
khó khăn, tuy nhiên không phải là không
thể hiện thực, mặc dầu phải có thời gian và óc
sáng tạo.
Nhiều người khó tính cho rằng
nói vậy là quá. Đời sống Au Mỹ nay còn đầy
những khuyết điểm trầm trọng sao gọi được là Hoàng Kim.
Tôi nghĩ rằng nếu không chấp nhận thuyết tương đối
không gọi đây là Hoàng Kim thì chẳng
bao giờ danh từ ấyđược dùng đến. Thiết nghĩ đời sống như Mỹ hiện
nay đã là hoàng kim: về đàng vật chất
có xa lộ, có xe hơi hai người một cái, có
tivi, tủ lạnh… còn nứơc uống chỉ cần giơ một ngón tay đẩy
lên là có, đẩy sang là nóng liền, sẽ
còn tiến nhiều những không thêm cho đời sống được
nhiều lắm nữa.
Về mặt xã hội có chế độ an sinh
người nghèo được rất nhiều giúp đỡ: an sinh cho tiền,
food stamp giúp thêm thực phẩm, cơ quan địa ốc giúp
bớt tiền nhà, y tế cho medical… không thể chối cãi
được rằng còn nhiều bê bối trong những thể chế này
nhưng cũng không thiếu thử thách và cố gắng để cải
thiện cho thêm tốt đẹp hơn và quả thực có mấy việc
nền móng cần phải làm liền như sẽ bàn sau. Nhưng
điều cần nhấn mạnh là bản chất con người nếu là tương
đối, mọi sự tốt xấu cũng không thể thoát khỏi luật tương
đối. Về bất cứ phương diện nào mà đạt tới 70-80%
đã là cao lắm. Nếu ngừơi Mỹ có được 75% tốt, lịch
sự, không kỳ thị thì phải gọi là tốt rồi, nếu phải
đợi tới “một trăm phần trăm” thì chẳng bao giờ có,
vì đó là một tuyệt đối vượt tầm tay với của
loài người. Muốn đạt tới không những là mơ mộng
mà còn có hại.
Cần nhận chân như vậy để đề
phòng những thứ hoàng kim tuyệt đối thường được đề ra
trong đó phải kể tới “thiên đàng cộng sản”. Theo
lý thuyết quả là hoàng kim, nhưng khi thực hiện ở
đâu thì nơi ấy trở thành hỏa ngục và điều ấy
đã được thử đi thử lại ở nhiều nơi nhiều thời: hết Nga đến
Đông Au, hết Tàu thì đến Cao Ly, Việt, Lào…
đâu đâu con người cũng phải chạy có cờ: số người gặp
may mà thoát khỏi cái “thiên đàng”
tính đến nay là 16 triệu; còn những người phải ở
lại thì không ngớt rên xiết. Vậy mà
còn biết bao người chưa nhận ra. Điều kỳ lạ đáng sợ hơn
hết là không những các nước hậu tiến ít học,
mà chính các nước tân tiến học thức ngập
răng vẫn cứ còn người tin vào hoàng kim của cộng
sản. Bực hơn hết là những thứ to đầu như những Sartre, Merleau
Ponty, Marcuse… được gọi là triết gia mà vẫn tin
vào giải pháp cộng sản gần trọn đời. Cần làm thế
nào để Au Mỹ nhận chân được sự nguy hiểm của cộng sản. Cần
làm thế nào cho sự nhận thức thấu tới những nhà
cầm quyền để họ đưa ra những giải pháp hữu hiệu chặn ngăn cộng
sản. Vì thực ra chỉ cần một cái búng là
ngăn chặn nổi, nhưng trình độ nhận thức quá thấp
nên không hiện thực được. (như đã trình
bày trong Hoa Kỳ với chiến lược toàn cầu)
Để giúp vào việc nhận thức cũng
như cải thiện hoàng kim hiện đại cần trước hết phải có
một nền triết lý nhân sinh ám hợp cho tâm
trạng hiện nay. Một nền triết lý có thể giúp
vào việc xây dựng thời vàng son mới, một nền triết
lý phải hợp cho mọi thời mọi nơi, vậy đó là điều
Tây Au còn thiếu. Những việc cải thiện đời sống thợ thuyền
cũng như thuộc an sinh mới là do lương tri tức do thúc
bách bên ngoài, chứ chưa do triết lý,
nên sự cải thiện vừa chưa ổn đáng vừa còn để lại
những yếu tố có hại như sự tôn thờ tiền, sự phi nhân
trong mối giao liên con người, nền giáo dục chuyên
môn đến độ khiến cho tình người khô cạn. Đó
là những hệ quả ác độc lưu lại do những nền triết học
xưa. Đó không là triết lý nhân sinh
mà chỉ là những triết học về ý niệm cứng ngắc,
đã không làm ơn mà còn giúp
vào việc đàn áp con người, nên nay đã
mất thế giá. Còn triết mới thì chưa thấy một
khuôn mặt nào xứng đáng. Những tên tuổi như
Sartre, Merleau Ponty đã tận tình ủng hộ cộng sản
thì làm sao gọi được là có minh triết.
Heidegger mới có cái xương mà chưa có sức
sống. Người ta đang chờ đợi một thiên tài nào
đó sẽ bơm lửa của Kierkergaard vào bộ xương khô của
Heidegger thì sẽ có nền triết mới cho con người
ngày nay, nhưng thiên tài đó chưa xuất hiện,
nên thế giới tự do chưa có một nền triết để hóa
giải cộng sản. Đấy là một thiếu sót trầm trọng. Là
vì lối thoát chính không phải ở phía
vật chất suông, nếu biết chia đều thì tình trạng
chưa đến nỗi tệ. Vậy lối thoát chính phải tìm về
phía tinh thần. Nhưng cho tới nay thì quả là thất
vọng vì tinh thầan do các nền văn hóa lớn đề ra
lại làm bằng vật chất (như đã chứng minh trong Sứ Điệp)
thành ra không thỏa mãn được sự đói
khát cái vô biên trong con người.
Trong khi chờ đợ tôi đề nghị nền triết
lý an vi xây dựng trên quan niệm trống rồng (trống
đồng) tức quan niệm về tinh thần đúng cách, thứ thần
có khả năng nuôi dưỡng tâm hồn thực sự. Điều
đó đựơc chứng tỏ xuyên qua nguồn gốc Việt nho của
nó: một nền triết đã tuyên bố rằng: “bất hoạn bần
nhi hoạn bất quân” = không sợ ít của mà sợ
chia không đều. Làm thế nào để có thể chia
đều. Thưa chỉ làm được khi những nhà cai trị thấm nhuần
triết lý an vi. Nếu không thì lòng tham của
họ sẽ còn vô đáy, và sẽ nhờ cơ hội nắm
chính quyền mà vơ vét. Kiểu này hoặc kiểu
kia, nhưng kiểu nào cũng hại. Dù nó thu được
ít nhưng lòng tham đó đã che khuất lấp con
mắt thứ ba nên không thể sáng kiến ra được những
đường hướng dẫn đưa nứơc đến chỗ thịnh đạt ơn ích thực sự cho
con người, cho nên sự ăn lạm của chung có khi chỉ bằng
một, nhưng đường hướng của họ gây tai hại gấp trăm ngàn
lần. Có những người cầm quyền coi như rất thanh liêm kiểu
Hồ Chí Minh chẳng hạn, thoạt nhìn tưởng như không
có bụng tham mà thực đó là thứ tham đẩy đến
tột cùng, tức không còn thêm tham của nữa,
mà tham chính cái làm ra của tức là
chính con người, nên chiếm đoạt mọi người trong nước, cả
trong thân xác lẫn linh hồn, cả ý, tình,
chí không bỏ sót một thứ gì chỉ cốt sao
xây được một xã hội có dáng vẻ huy
hoàng để lưu danh sử sách, còn dân nước
có chết bao nhiêu không đáng kể. Với những
thứ tham lam độc địa đó không thể nào nghĩ ra được
đường lối làm cho xã hội đạt hạnh phúc được.
Nói tổng quát: duy vật chính là kẻ
phá trọn di sản hoàng kim thời đại.
Bởi vậy muốn lập lại thời đại hoàng
kim tức làm cho xã hội hạnh phúc thì điều
quan trọng hơn hết là giáo dục phải được đặt trên
một nền triết xây trọn vẹn trên đạo làm người, một
đạo lưỡng thê toàn triệt. Ai đã đọc triết lý
toàn cầu rồi trở lại Việt lý sẽ nhận ra liền: Triết
Tây bàn những vấn đề cao cả nhưng trừu tượng đặt
mãi trên trời hay tận dưới đất, còn Việt nho
thì tha thiết đến việc nên người, luyện tập những đức
tính, những tâm tình cao thượng, bồi dưỡng
nhân luân, đề cao những gương lễ, nghĩa, kính nể
nhau, nhường nhịn nhau như vua Nghiêu nhường ngôi cho vua
Thuấn. Vua Thuấn nhường cho ông Vũ v.v… Đó là những
lối đề cao đức tính của Hoàng kim thời đại coi trọng đức
độ đến nỗi vua xin làm bạn với nhà hiền triết mà
hiền triết không chịu (xem Mạnh Tử V.30).
Xin nói ngay trong thực tế không
được như vậy, nhưng chính nhờ việc nhấn mạnh đến đức độ
mà những xã hội Việt nho đã giữ được phần
nào hoàng kim thời đại mặc dầu điều kiện vật chất rất eo
hẹp. Ai đã có dịp sống ở miền đồng ruộng nhất là
trong Nam cũng cảm thấy những nét của hoàng kim:
ít có tranh dành, trộm đạo. Trái lại
là hiếu khách, làm ít, chơi nhiều.
Tôi quen một gia đình có 6 sào (cao) dừa),
mỗi ngày làm việc vài ba tiếng còn
toàn nhậu, chơi cờ, với ba câu vọng cổ hoặc nằm đưa
võng đọc truyện hoặc đi chùa đền… Tôi thấy đời như
vậy cũng đáng sống rồi, một làng gồm toàn những
nhà như vậy lại không đáng tên là
hoàng kim sao, nhất là khi đem so với làng
xã Tây Au xưa đầy nhóc nô lệ, hoặc nông
nô, chứ đâu có toàn người tự do như xã
hội Việt Nam cổ đại.
Có người sẽ vấn nạn rằng nếu cứ thế
thì làm sao tiến bộ? Xin thưa rằng có ai cấm tiến
bộ đâu? Nhưng ý tứ có nhiều lối tiến. Có thứ
tiến đến chỗ làm hùng hục cả ngày tối về đi học
tập, hoặc xếp hàng cả buổi để mua mớ khoai thối thì tiến
bộ cái nỗi nào? Tính theo khả năng của con người
hiện đại cả về tinh thần lẫn vật chất thì phải nói rằng
nếu trên mặt đất này mà có được thời
vàng son thì đó là xã hội trong Nam
xưa, còn nay là Au Mỹ, Canada, Uc… hiện nay đã
là thờivang rồi. Duy trì đựơc như vậy lâu
dài là phúc. Xem về trước chỉ thấy có nhiều
chiều đi vào sa sút, chứ không có tiến xa
hơn được. Các nhà làm chính trị nên
thực tế, chớ mơ mộng hão, chớ nhảy vọt, đưa dẫn nứơc vào
chỗ khổ lúc nào không hay.
Đó là điểm mà triết
lý an vi cần nhấn mạnh để chống lại các thứ thờ tuyệt
đối: lý tưởng tuyệt đối, xã hội tuyệt đối. An vi chủ
trương vũ trụ con người không có tuyệt đối từ trong bản
chất: trong âm có dương, trong dương có âm.
Cái nọ hạn chế cái kia không làm sao
có sự trọn hảo toàn triệt. Muốn toàn vẹn chỉ
là ảo ảnh. Không thấy điều đó mà cứ cố chấp
thiết lập thiên đàng ở trần gian thì sẽ là
thiên đàng đỏ của cộng sản tức chính là hỏa
ngục.
Trong thực tế cần đặt những điều kiện nền
tảng cho một thời hoàng kim, rồi liên tục cố gắng hiện
thực những điều kiện đó. Còn trong hiện thực mà
gặt hái được 70-80% hiệu quả tốt đã là phúc
lắm. Plato cho là nói chung thì xã hội
loài người có tốt có xấu, nhưng xấu nhiều hơn tốt.
Nên hiện thực chữ tri túc: biết tự đủ mới được hưởng
tâm thức đủ. Có biết dành giờ ra để nhàn
rỗi, mới được hưởng nhàn rỗi. Nếu không thì suốt
đời lao động vinh quang mà vẫn ăn độn, ăn đói.
Đánh được miền Nam rồi mà không chịu tri túc
lại còn ròm ít Cao Miên nữa. Cao Miên
rồi Thái. Cứ thế thì cuộc sống đã không hạnh
phúc mà còn đi tàn phá chút
hạnh phúc sót lại trên mặt đất.
Cá nhân cũng vậy nếu không
biết dừng ở mức đủ nào đó thì cả đời lận đận. An
bất quá ngày ba bữa thôi mà cứ đòi
kiếm thêm, kiếm hoài. Cho nên ai cũng cần phải học
chữ tri túc. Chỉ có trong bầu khí an vi mới học
được chữ ấy. Biết tri túc là nền, còn hiện thực
thì tuỳ thời thay đổi. Nay ngồi xe hơi đi thăm bạn thì
sướng hơn người nhà quê phải lội bộ đến thăm nhau. Nhưng
người nhà quê lại được bù bằng tha hồ truyện
trò thỏa thích khi về lội bộ là tập thể thao khỏi
lo nạn sắp hàng cả giờ để mua xăng. Hoặc sáng còn
đang buồn ngủ đã phải dạy đi kịep đến sở… Mỗi cái hay
là có cái dở: đời là tương đối. Tuy
nhiên trong những cái tương đối có cái tạo
nhiều hạnh phúc có cái tạo được ít.
Cái thời vàng của cộng sản tạo được quá ít.
Cái tương đối gây hạnh phúc nhiều hơn hét
là xã hội sống theo triết lý an vi. Chưa một nền
triết nào lại sản ra được quan cảnh ghi trên mặt trống
đồng trình bày những con người hân hoan hạnh
phúc, đang ca múa như chimtrời cả nước hạnh phúc
tràn sang cả các con vật cùng múa theo. Nếu
ai hỏi bạn rằng có còn đâu giữ được hình ảnh
của hoàng kim thời đại chăng thì câu thưa khỏi cần
ngần ngại: đó là trống đồng Ngọc Lữ.
Còn một điểm nữa thuộc vật chất, cũng
gọi được là tri túc trên phương diện toàn
cầu đó là sự cần cản đà gia tăng luỹ tiến của
loài người trên mặt đất. Số người hiện nay xấp xỉ 5 tỉ.
Đó có thể gọi là con số “tối đa tốt nhất” =
maximum optimal. Cả về mặt nguyên liệu và nhất là
nhiên liêu để có thể duy trì hoặc đạt tới
thời hoàng kim: thêm vài ba tỉ người nữa thì
môi sinh thuận lợi cho sự sống cả tinh thần vật chất sẽ lâm
nguy. Theo đà tăng hiện nay chỉ cần một thế hệ (30 năm)
thì dân số đã gấp đôi như Mễ, Nam Dương, Việt
Nam, ấy là tỉ số sinh chưa hẳn cao nhất (33 so với Au Mỹ chỉ
có 15) thế mà năm 1945 Việt Nam 25 triệu nay (1980)
đã 50 triệu. Năm 2000 mấp mí một trăm triệu. Một nước
Việt nhỏ hơn California phải nuôi một trăm triệu người thì
làm sao duy trì được thời vàng son trong Nam xưa.
Lúc ấy con người phải tiêu trọn thời giờ vào việc
kiếm miếng ăn: luân lý sẽ xuống đến độ đen tối đầy tranh
dành trộm đạo. Đừng đặt quá nhiều hy vọng vào
các đất đai chưa khai phá: vì các đất tốt
đã tận dụng, chỉ còn lại những miền hoặc khô cằn,
hay ứ đọng hoặc đầy sỏi đá. Cũng đừng hy vọng quá nhiều
vào kỹ thuật vì kỹ thuật lệ thuộc vào nhiên
liệu. Nhiên liệu có cỗ giữ được mức sản xuất như nay cũng
chỉ trong vòng dăm chục năm nữa thôi, hiện đã phải
tận lực tìm thêm các túi dầu mới để thay cho
các túi đã cạn, hoặc khởi đầu cạn. Cho nên
xét cả về mặt nguyên liệu lẫn nhiên liệu thì
dân số hoàn cầu hiện nay đã là mức tối đa
tốt nhất cho hoàng kim thời đại.
Tóm lại, là có thời
vàng son không phải nói về xa xưa hay trong mộng
tưởng nhưng trong thực tế theo tầm quan sát của ta thì
đã thấy có hai nơi tương đối đã hiện thực được:
một là xã hội miền Nam xưa (cho tới quãng năm 54
bỏ những tai họa chiến tranh để chỉ nói về thể chế và
triết lý), hai là các xã hội tự do của Au
Mỹ lối từ 1945 tới nay: kể từ lúc có nghiệp đoàn,
có thuế luỹ tiến, có thể chế an sinh… tất cả nhằm chế
tài những quá đáng của tư bản, và đưa sự
tái phân phối tài sản quốc gia cho bớt chênh
lệch, cũng như gắn với công bình xã hội hơn. Thời
vàng của miền Nam Việt Nam là do công của triết
lý an vi. Thời vàng của Au Mỹ là do kinh tế phồn
thịnh. Lý tưởng của ngày mai là cộng triết
lý an vi vào với kinh tế phồn thịnh: sao cho triết khỏi
đói rách và để cho kỹ thuật có linh hồn.
Bằng tên này hay tên khác xe lửa vàng
của nhân loại phải chạy trên con đường song trùng
đó vì cả hai đã chứng tỏ hiệu nghiệm, đã
tạo được nên hạnh phúc tương đối cao nhất cho con
người.
Nếu muốn mưu cầu hạnh phúc thực sự cho
con người, nếu muốn tránh rơi vào nẻo rồ dại n hư cộng
sản thì phải lăn trên hai đường đó. Nếu Kinh Dịch
nói “tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số” thì
chúng ta sẽ nói “tham an vi, lưỡng kỹ thuật nhi ỷ số”
là hai yếu tố cần đặt làm nền móng phải là
kỹ thuật và tinh thần. Kỹ thuật hai thì tinh thần ba. Chữ
tâm kia (triết lý an vi) phải bằng ba chữ tài (kỹ
thuật). Đó chính là lấy tâm trùm
cảnh: một hướng đi vững chắc tiến vào thời Hoàng Kim.
XIX. KẾT TOÁN CHỚP
NHOÁNG VỀ THUYẾT VIỆT NHO
Thuyết Việt
nho ra đời năm 1970 đến nay (82) đã được 12 năm.
Thành quả thâu được là nó không
còn là giả thuyết nữa mà đã trở nên
chủ thuyết rồi. Vì một đàng đã tự thu gọn lại bằng
bỏ phần nguồn gốc phát khởi: tức Việt tự đâu đến, từ Bắc
xuống Nam hay từ Nam lên Bắc. Vấn đề này xét ra
không cần cho chủ thuyết Việt nho nên xin dành lại
cho cổ sử để dồn chú ý vào vấn đề chính
là Việt sinh ra Nho, nói khác nền văn hóa nông nghiệp ở miền
Đông Á và Đông Nam Á là của
Việt tộc. Chính Việt tộc đã có mặt khắp
cõi nước Tàu trước khi người Tàu xuất hiện như
là một dân tộc. Do đó tất cả những gì cao cả
nhất trong Nho đều là sản phẩm của Việt. Điều này
đã được chứng minh trong quyển Việt Lý Tố Nguyên
và 9 quyển kế tiếp nhưng tài liệu phần lớn là suy
luận từ huyền thoại và kinh điển.
Đến giai đoạn sau tính tự quyển Kinh
Hùng trở đi thì thêm tài liệu khảo cổ
và cổ nghệ thuật, phương pháp thì triệt để khai
thác cơ cấu nên xoáy vào bộ số 2, 3, 5
(vài ba tham lưỡng) nhờ đó có thể phân biệt
được rất rõ cái nào là của Tàu
cái nào là của Việt như độc giả có thể đọc
được trong Kinh Hùng và nhất là quyển Sứ Điệp
Trống Đồng nó cung ứng các ấn tín có
kèm theo bằng chứng cụ thể khách quan của khảo cổ, nhờ
vậy vấn đề nền gốc văn hóa nước nhà thoát ra khỏi
cảnh ám u trong đêm trường của thời dĩ vãng,
nên về thời đại cũng mở rộng ra hơn: trước kia trong quyển Việt
Lý chủ trương Việt nho chỉ dám bao quãng thời gian
từ nhà Thương trở lên. Đến nay dám gồm cả
nhà Thương, cả sông Hoài và thời Chiến Quốc
nữa.
Vì có đầy đủ chứng nhân
công nhận rằng nghệ thuật nhà Thương với cổ Việt là
một, hoặc nghệ thuật Chiến Quốc (cũng là nghệ thuật sông
Hoài) không khác Đông Sơn, hoặc văn
hóa nước Sở giống như Đông Sơn. Vì nhân chứng
vừa nhiều vừa có uy tín nên thuyết Việt nho
dám duỗi chân xuống tận thời Chiến Quốc mà vẫn
còn là chủ thuyết như thường. Vấn đề còn lại rất
mênh mông bát ngát đó là thu
dọn chiến trường để lên sổ thành tích. Việc thu dọn
chiến trường đó có thể quy hướng vào hai điển
chương rực rỡ là văn thao thiết và trống đồng. Đó
là hai điển chương kết tinh tất cả nền văn hóa Việt nho.
Văn Thao Thiết ở mạn Bắc chính
là bản ghi lại tiến trình của văn minh Tàu được
Việt hóa (xem lại chương Từ Hùng gấu tới Hùng chim
trong tập Hùng Việt Sử Ca): văn minh Tàu du mục biểu thị
bằng bạch hổ được biến ra hổ phù, rồi đầu bò, rồi chim
cuối cùng là rồng hay tiên long chính
là dòng máu của hồn Đại Việt đó.
Trống Đồng ở miền Nam kết tinh hồn Đại Việt
là thái hòa: trời đất người kết tinh một
cách quá rực rỡ huy hoàng, xin xem kỹ chương III
và V trong Sứ Điệp.
Về mặt tinh thần nên chú
ý tới cơ cấu ngũ hành: ngũ hành đã được
áp dụng cách ma thuật và xếp loại cách
tràn ngập nhưng được dùng như cơ cấu thì chưa,
người Tàu cũng như Việt kể cả học giả Au Mỹ nhất là
ông Granet và Needham nói rất dài về ngũ
hành cũng chưa nhận thấy. Xin chú ý điểm nọ (xem
Sứ Điệp chương VII, VIII) sẽ giúp cho nắm được một thứ
khí cụ sắc bén để tìm về nguồn Việt ra sao.
Chính bộ cơ cấu này giúp
thiết lập nên bộ triết lý an vi mà phương diện
nguồn gốc gọi là Việt nho, nhưng không là thứ Nho
thường: hủ nho hay Hán nho nhưng là Việt nho không
những hợp cảm quan thời đại mà còn đón trước bước
tiến của con người.
Kim Định
Nguồn: http://anviettoancau.net
|