Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com


VÂN MỒNG LÀ ĐÂU!

Nguyễn Thiếu Dũng


  Toàn truyện Kiều chỉ độc có một từ “vân mồng”. Từ này nằm trong đoạn Kim Trọng dò thăm tin tức Thúy Kiều được Thúc Sinh cho biết nàng đã theo Từ Hải, nhưng sau không rõ sự thể nàng ra thế nào:
“Đại quân đồn đóng cửa đông,
Về sau chẳng biết vân mồng làm sao”
Trước Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều cũng đã đưa vân mồng vào tác phẩm “Cung oán ngân khúc”:
“Ai ngờ tiếng dế ran ri-rỉ,
Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng
Vắng tanh nào thấy vân-mồng
Hơi thê-lương lạnh ngắt song phi-huỳnh”
Vân mồng không chỉ được giới quý tộc ưa dùng mà trong văn chương dân dã cũng có mặt:
Chúa nghe tâu hết vân mồng,
Nhà yên, nước trị, hanh thông an nhàn
(Hoàng Trừu)

Vân mồng được xem như là một từ cổ, tần số xuất hiện của nó rất ít, thế nhưng những thập niên cuối thế kỷ XX, từ vân mồng lại xuất hiện một cách đình đám đầy bất ngờ khi nhà thơ Bùi Giáng dùng từ này làm bút hiệu cho bản dịch tiểu thuyết “Khung cửa hẹp” (La porte étroite, 1909) của André Gide (giải Nobel văn chương 1947), gây cho độc giả một cảm giác là lạ, một hạnh ngộ, một ngẫu nhĩ trùng lai phiêu hốt, hồn xưa hòa lẫn hiện đại, hoa hồng lung linh trên sắc xanh cỏ nội, chỉ có ở Bùi Giáng, rất riêng cho Bùi Giáng. Đã thế ông còn đưa vân mồng vào thơ:

“ Người đã bỏ đường kia ở lại
Ðể đi vào đối diện hư không
Bờ thánh thót thu sau về vạn đại
Lời chào kia nức nở lạnh vân mồng”
(Lá Hoa Cồn)
.
“ Chốn nào mộng mị chiêm bao
Chốn này tỉnh táo tiêu tao vân mồng”
Đào Duy Anh giảng Vân mồng là tin tức. Lê Mạnh Liêu trong “Thúy Kiều truyện tường chú”, Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong “Thả một bè lau” đều cho vân mồng chỉ tin tức, manh mối do từ văn vọng chuyển âm qua.
Nếu nói vân mồng là tin tức thì chưa đủ, Nguyễn Gia Thiều dùng vân mồng như một từ chỉ không gian: thấy ( vắng tanh nào thấy vân mồng), tác phẩm Hoàng Trừu dùng như một từ chỉ thời gian : nghe ( Chúa nghe tâu hết vân mồng). Ta có thể nghe tin tức chứ không thể thấy, khi thấy là thấy tăm dạng. Vậy vân mồng vừa chỉ tin tức vừa chỉ tăm dạng. Bùi Giáng cũng vậy, có khi ông dùng vân mồng theo nghĩa không gian (lạnh vân mồng) có khi theo nghĩa thời gian (tiêu tao vân mồng).
Vân là mây còn mồng là sao? Vân đã rõ là mây như vậy không thể hiểu là do từ văn (nghe) chuyển âm qua, vậy mồng không thể do vọng (thấy) biến âm được.
Ta có chữ mồng để gọi mười ngày đầu tháng mồng một, mồng hai…mồng mười. Chữ mồng này cùng một dạng với chữ mồng gà ở trên đầu gà, nghĩa là che ở trên. Mồng có biến âm là mùng. Họ Nùng có thể đọc là Nồng mà cũng đọc là Nông. Vậy mùng cũng có thể đọc là mồng là mông. Mồng mười hay mùng mười, mùng gà hay mồng gà cũng nghĩa như nhau. Mông cũng có nghĩa là che chắn. Theo Khang Hy tự điển, chữ vụ 霧 là mù (sương) theo “Tập vận” đọc là mô bồng thiết = mồng (《集韻》謨蓬切,音蒙。Tập vận, mô bồng thiết, âm mông). Như vậy vân mồng chính là vân vụ, hai chữ này chỉ mây mù che khuất không thấy tăm dạng. Chữ vụ 霧, âm Mân Nam đọc là [mu 6] = mù, Quảng vận (âm trung cổ) đọc là [mung] =mùng. Người Khách gia (người Hẹ) có nơi đọc là [ wu5] có nơi đọc là [mu5].Thành ngữ có câu “vân vụ mê mông” chỉ mây mù che lấp khiến cảnh vật mơ hồ không thấy tăm dạng.
Nói cho cùng “vân mồng” là từ cổ, từ chữ vân vụ mà ra chứ không do “văn vọng” chuyển qua. Nó có nghĩa về không gian chỉ mây mù, khi có mây mù thì cảnh vật thường bị che khuất không trông thấy hình dạng, khi nhớ về ai mà không gặp được ta thường dùng từ ngữ “chẳng thấy vân mồng” để chỉ sự biệt tăm, biệt dạng của họ như bóng chim tăm cá biết đâu mà tìm.
Cùng là hơi nước bốc lên gặp lạnh đông lại thành từng đám trên không trung, ở xa thì gọi là vân, ở gần gọi là vụ. Vân là mây, vụ là mù (sa mù, mù sương).
Nói vân vụ thì phải giải nghĩa mới hiểu được, nhưng nói mây mù thì ai cũng hiểu.


Ta còn nhiều ví dụ khác:
Mong > vọng (Quảng Châu, Mân Nam), Quảng vận = müang
Múa > vũ (quảng châu = [mou5] )
Mây > vân
Mưa > vũ
Mùa > vụ
Mùi > vị
Màn > vi
Muộn > vãn
Muỗi > văn
Muôn > vạn
Những ví dụ này cho thấy có liên hệ giữa m và v, m -> v
Thông thường thì vụ được xếp vào tiếng Hán Việt, mù xếp vào tiếng thuần Việt, nhưng thực sự thì mù lại là âm cổ của vụ.
Theo lối nghĩ “ nhà trường” tiếng Việt có đến 70% tiếng Hán Việt, tiếng gì cũng cho từ Hán Việt mà ra. Đây là lối suy nghĩ sai lầm phản lại tiến trình lịch sử. Chính tiếng gọi là thuần Việt có trước rồi mới sinh ra tiếng gọi là Hán Việt.
Thời Tiền sử chủng Việt ở khắp nơi trên lãnh thổ Đông Á, từ Đông Nam Á cho đến tận Đông Bắc Á, người Hoa đến sau đánh tan dân Bách Việt ra bốn phía họ lọt vào giữa chiếm giữ Trung Nguyên, để cai trị số dân Bách Việt quá đông, lãnh thổ quá rộng họ phải học tiếng Việt, thu nhận văn hóa Việt. Họ bị dân Việt đồng hóa, mãi đến thời Đường Tống tiếng Việt vẫn là chủ thể, cho đến khi quân Nguyên tràn vào rồi ảnh hưởng của nhà Thanh dai dẳng tiếng Việt dần dần biến đổi thành tiếng Hoa như là một phương ngữ của tiếng Việt.
Hiện nay ở Trung Quốc người ta đã phục nguyên âm đọc thơ Đường theo giọng Trung cổ, giọng đó hoàn toàn giống với giọng đọc của người Việt Nam ngày nay mà khác với giọng Bắc kinh bây giờ.

Thử nghe bài thơ “Tỉnh dạ tư” của Lý Bạch trên trang Youtube.com:

Tỉnh dạ tư:
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương,
Cử đầu mong (vọng) minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.
(Cách phiên âm theo chữ la tinh của người Hoa khác người Việt nhưng đọc lên thì rất giống nhau nếu có khác thì cũng chỉ là giọng bắc khác giọng nam, hay giọng Bắc khác giọng Huế, giọng Quảng thôi)

李白 靜夜思 中古漢語朗讀(Lý Bạch Tỉnh Dạ Tư Trung CỔ Hán ngữ lãng đọc)

牀前明月光 疑是地上霜
舉頭望明月 低頭思故鄉
zriang zen mieng ngyat kuang,
ngi zjex diih zjangx sriang.
kiox du myangh mieng ngyat,
te du si koh hiang.

(http://www.youtube.com/watch?v=4xI_cJDIgr4&feature=related)

I.
“Đầu giường tắm ánh trăng
Đất trời ngờ đẩm sương
Ngẫng đầu mong trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương”

II.
“Đầu giường loang loáng ánh trăng
Đất trời cứ ngỡ sương giăng dầm dề
Ngẫng đầu mong bóng trăng về,
Cúi đầu thương nhớ chốn quê xa vời”.
(Bản dịch của Nguyễn Thiếu Dũng)

Để ý có một chỗ rất lý thú là chữ ta đọc theo Hán Việt là vọng thì thời Trung cổ đọc là mong(myangh). Hiện nay tiếng Quảng Châu, Mân Nam vẫn đọc là mong. Lúc đầu tôi dịch vọng là trông, nhưng suy lại thì chữ này không phải dịch mà để nguyên như cách đọc thời trung cổ là mong lại chính xác hơn, ở trên trăng như sương, mờ mờ mịt mịt, ở dưới mong trăng sáng để thấy rõ chốn quê mơ về (mong/vọng minh nguyệt, mong/vọng, tư cố hương).
Vậy nếu nói tiếng Hán Việt vọng cho ra tiếng Việt là mong có phải là sai không? Chữ này dân Bách Việt đều đọc là mong (Việt Nam, Quảng Châu, Mân Nam), âm này có trước âm vọng nghĩa là âm Việt có trước âm Hán Việt.
Tại sao có hiện tượng này? Âm Hán Việt cũng chỉ là âm Việt, tiếng mà ta nghe và hiểu liền được gọi là âm thuần Việt, tiếng này đúng ra phải gọi là tiếng dân dã (hay bình dân) còn tiếng Hán Việt chỉ là tiếng Việt cuả tầng lớp thượng lưu, quí tộc, tầng lớp cai trị chỉ nên gọi là tiếng quan phương (hay bác học/ thượng lưu), không phải đợi đến đời Đường ta mới học được tiếng này, mà cho đến đời Đường trên khắp lục địa Trung Hoa (bây giờ) người ta vẫn nói tiếng Việt.
Trong khi khảo sát về âm đọc của bản Cao thượng ngọc hoàng bổn hạnh tập kinh âm thích tìm được ở Linh Tiêu Quán, xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Sơn Bình, Nguyễn Tài Cẩn đã phát hiện:
a) nếu đọc bản âm thích này theo hệ thống ngữ âm ở Quảng vận thì sẽ được 93 ô đồng âm.
b) Nếu đọc theo cách đọc âm Hán Việt hiện nay thì sẽ được 110 ô đồng âm
c) Nếu đọc theo âm Trung Nguyên âm vận(TNAV) thì sẽ có 160 ô đồng âm
d) Nếu đọc theo âm Bạch thoại hiện nay thì sẽ có 173 ô đồng âm.
Rồi kết luận “ Nên nhớ rằng bản âm thích của chúng ta là một bản chủ yếu dùng phương pháp cho chữ đồng âm để giải thích cách đọc các chữ khó thì chúng ta sẽ thấy rằng những con số trên đây rất có ý nghĩa, chúng cho ta thấy rằng bản âm thích này dạy một cách đọc không phải theo âm Hán Việt đầu thời Lê Sơ mà dạy theo một cách đọc của người Hán ở Trung Quốc. Hơn thế nữa, vì khắc in vào khoảng 1434-1443 mà lại có xu thế gần Bạch Thoại hơn TNAV, vậy bản âm thích này phải dạy một cách đọc của người Hán vào thời kỳ gần nhất với lúc khắc in: tiếng Hán cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV” (Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, NXB Khoa học Xã hội, 1979, tr79).
Cách khảo sát của tác giả rất công phu, nghiêm túc và khoa học nhưng kết luận lại nghịch đảo chỉ vì ông quan niệm người Việt học tiếng Hán Việt đột xuất từ đời Đường khi bị Bắc thuộc mà không hề biết đến người Việt đã làm chủ Trung Nguyên từ mấy ngàn năm trước tiếng Việt được người Hoa sử dụng cho đến khi người Mông Cổ tràn vào mới bắt đầu tách biệt. Cả đến văn tự được gọi là Hán tự cũng đã bị gọi sai, văn tự đó chính là văn tự của người Việt, do người Việt sáng chế bị cưỡng bức gọi lệch đi.
Làm sao mà người Việt khi bị Bắc thuộc học được tiếng Hán Việt, đến khi độc lập (thế kỷ X) thì tách xa hẳn cách đọc của người Hán để trở thành một cách đọc riêng biệt của người Việt (sdd, tr.15) mà lại có xu thế gần Bạch Thoại hiện nay nếu không phải là do tiếng Việt là nền tảng sinh ra tiếng Hán thì làm thế nào hiện tượng này xảy ra.
Chữ Hán chính là chữ Việt, do người Việt sáng chế, cách đọc cũng đọc theo tiếng Việt nên đương nhiên tiền nhân chúng ta cứ ung dung mà dùng, mà nói , mà viết sách. Những di sản đó bị người Hoa tung hỏa mù thu tóm, cất dấu thì còn biết vân mồng là đâu. Hỏi sách vở của ông cha ta ở đâu sao không thấy thì ở trong khối bị gọi sai là chữ Hán chứ ở đâu. Nếu người Hoa có chữ, có tiếng riêng, có nền văn minh khả thủ thì tại sao những hoàng đế khai sinh họ lại mang cấu trúc Việt :Thần nông, đế Nghiêu, đế Thuấn…, tên đất của họ cũng thế: Thượng Hải thay vì Hải Thượng, Sơn Đông thay vì Đông Sơn, Giang Tả thay vì Tả Giang …cho đến kinh điển của họ cũng là kinh điển của người Việt : Kinh Dịch, kinh Thi …, mà đến cả người mở đầu trang sử văn học của họ cũng là người Việt: Khuất Nguyên với Sở Từ, thậm chí đến ông tổ triết học cũng là người Việt: Lão Tử với Đạo Đức Kinh (đều là người Bách Việt miền Hoa Nam, Trung Nguyên chưa có người, đấy là không muốn kể Khổng Tử người có tổ tiên là Việt nhưng lại trở giọng “Ngô tùng Chu”, họ là người Việt, tác phẩm của họ đương nhiên phải viết bằng chữ Việt), những triều đại đầu tiên của chính sử Trung Hoa cũng là triều đại của Việt, nhà Hạ từ Đại Việt lên (tên gọi vùng Ngô Việt), nhà Thương từ biển vào (Đông Di, mang theo con sò làm quốc hiệu) là hai triều đại mà vua cuối đời bị dân nguyền rủa bằng tiếng tục của người Việt: vua Kiệt (vua cặc), vua Trụ (vua đ.), các nền văn hóa khảo cổ Long Sơn, Ngưỡng Thiều, Lương Chữ…cũng là Việt thôi.

Nguyễn Thiếu Dũng

Ghi chú:
Trong bài “Đế Vương và Trung Thiên Đồ” tôi có ghi sai “giả định của Quách Mạt Nhược: Chữ Hán có nguồn gốc từ Kinh Dịch” đúng ra là “ giả định của Phạm Văn Lan: chữ Hán có nguồn gốc từ Kinh Dịch” Quách Mạt Nhược thì ngược lại chủ trương Chữ Hán ảnh hưởng đến cách cấu tạo quẻ Dịch. Xin sửa lại cho đúng. Nên nhớ Kinh Dịch là sản phẩm của người Việt, nói chữ Hán bắt nguồn từ Kinh Dịch chỉ là để che đậy sự thật Chữ Hán là chữ của người Việt. NTD

Nguồn: http://nhannamphi.com



Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang : Vân Mồng Là Đâu !
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.


Trở lên đầu trang

Trở Lại Trang Mặt