Năm Thứ 4890
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Việt Nam Máu
Lửa Quê Hương Tôi
Hoành Linh Đỗ Mậu
-
-
ẤN BẢN ĐIỆN TỬ - NĂM 2007
Đầu Xuân năm 2007, được biết Nhà
Xuất bản Văn Nghệ đă tiêu thụ hết
đợt phát hành cuối cùng của Hồi kư
Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi, và
không có ư định tái bản tác phẩm
nầy nữa trong một tương lai gần,
chúng tôi, một nhóm thân hữu của
tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu, đă liên
lạc với gia đ́nh của tác giả để
xin tái bản tác phẩm nầy dưới dạng
điện tử. Và đă được gia đ́nh tác
giả chấp thuận với một số yêu cầu
về tác quyền và biên tập.
Về nội dung, không có một thay đổi
nào trong Ấn bản Điện tử (so với
ấn bản giấy 1993) ngoại trừ thêm
một số h́nh ảnh của tác giả; và ở
Phụ Lục E, 10 Bài Đọc Thêm, chúng
tôi thêm một lá thư của tướng
Dương Văn Minh và một bài viết về
Tướng Tŕnh Minh Thế để làm sáng
tỏ một số bí ẩn lịch sử được nhắc
đến trong Hồi kư.
Về h́nh thức, có ba thay đổi trong
quá tŕnh cập nhật lại tác phẩm
nầy:
(a)*** Sửa lại các lổi chính tả và
đánh máy. Với tổng số lượng gần
750,000 từ của toàn bộ tác phẩm,
đây là một nỗ lực liên tục nhưng
chắc vẫn c̣n khiếm khuyết ngay cả
trong ấn bản điện tử nầy.
(b)** Sửa và thêm các đại danh từ
(cụ, ông, bác, anh, ...) và những
chức vụ (phó tổng thống, thiếu tá,
giáo sư, nhà văn, ...) trước tên
riêng của các nhân vật. Tùy ngữ
cảnh và bối cảnh của mỗi t́nh
huống, chúng tôi chọn đại danh
từ/chức vụ nào mà chúng tôi nghĩ
rằng phù hợp nhất. Mặt khác, có
một số nhỏ đại danh từ và chức vụ
không cần thiết, th́ chúng tôi
cũng đă quyết định bỏ đi.*
(c)*** Ba từ “Công giáo”, “Kitô
giáo” và “Thiên Chúa giáo” đă là
một vấn nạn khó tạo được sự đồng
thuận trong cách sử dụng. Do đó,
ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt,
trên nền không-thời-gian lịch sử
mà Hồi kư chủ yếu được xây dựng
(là chế độ Ngô Đ́nh Diệm), chúng
tôi quyết định thống nhất hầu hết
các từ nầy thành từ “Công giáo”
như chính những giáo hữu Việt Nam,
trong giai đọan đó cũng như kể cả
bây giờ, đă gọi Công giáo La Mă
(Roman Catholic).
Có hai lư do khiến chúng tôi lấy
quyết định tái bản tác phẩm Việt
Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi nầy của
tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu dưới
dạng điện tử:*
·******* Thứ nhất là v́ nhu cầu
t́m đọc tài liệu về chủ đề nầy
không những đă không giảm bớt mà
thậm chí c̣n gia tăng. Hơn 40 năm
sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị
lật đổ, hơn 20 năm sau khi tác
phẩm nầy ra đời, và sau hơn 20.000
ấn bản (dự đoán) được phổ biến cả
ở trong lẫn ngoài nước, giai đoạn
lịch sử 1954-1975 tại miền Nam
Việt Nam (và những nhân vật lịch
sử quan hệ đến nó) vẫn là đề tài
được nhiều người quan tâm muốn t́m
hiểu. Để xem rút ra được những bài
học ǵ cho bây giờ và mai sau trên
quê hương Việt Nam.***
*·******* Và thứ nh́ là với những
thành quả ngoạn mục của cuộc cách
mạng Tin học, tri thức không c̣n
bị phong tỏa, lại càng không trở
thành sản phẩm độc quyền của một
giai tầng nào nữa. Do đó, sản phẩm
trí tuệ cần được xuất hiện dưới
dạng điện tử để dễ dàng vượt mọi
biên giới thiên nhiên, rào cản
hành chánh và giới hạn tiền bạc,
ngơ hầu có thể bay vào không gian
cyberspace mà đến với người đọc
khắp địa cầu.
Nhóm Thân hữu của tác giả Hoành
Linh Đỗ Mậu, khi hoàn thành ấn bản
nầy, chỉ nhắm đáp ứng hai nhu cầu
nói trên. Và đóng góp phần ḿnh
vào việc thực hiện tâm nguyện của
tác giả đă được trang trải đầy ắp
trong tác phẩm nầy.
*Hoa Kỳ - Thu* 2007
Nhóm Thân hữu trách nhiệm Ấn
bản Điện tử VNMLQHT-2007
* * **
LỜI GIỚI THIỆU
ẤN BẢN THỨ BA - NĂM 1993
*
***** Tập Hồi kư chính trị Việt
Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của tác
giả Hoành Linh Đỗ Mậu được Nhà
Xuất bản Hương Quê ấn hành lần đầu
tiên vào mùa thu năm 1986 tại miền
Nam California, Hoa Kỳ.
****** Từ đó đến nay, tác phẩm này
đă được tái bản một lần (1987) và
in lại tám lần. Như vậy, bản mà
quư bạn đọc cầm trên tay hôm nay
(1993) của Nhà Xuất bản Văn Nghệ
là lần biên tập thứ ba và là lần
in lại thứ chín (Third Edition,
Ninth Printing).
****** ***************
************ Ấn bản
1986*********************** * Ấn
bản 1993
*
Đó là không kể hai ấn bản mà tác
giả hoàn toàn không biết đến quá
tŕnh h́nh thành của chúng. Bản
thứ nhất in tại Úc Châu vào khoảng
năm 1990 với một h́nh b́a khác
hẳn. Và bản thứ nh́ in tại Việt
Nam, không những khác b́a, nội
dung bị biến cải, mà ngay cả tên
sách cũng bị thay đổi. Đó là cuốn
Tâm Sự Tướng Lưu Vong do Nhà Xuất
Bản Công An Nhân Dân ấn hành 3.200
ấn bản vào năm 1991 (Số xuất bản
117/KII90 CAND). Sau khi đối chiếu
với nguyên bản, tác giả cho chúng
tôi biết rằng ấn bản này đă bị bỏ
bớt gần một phần tư nội dung, thay
đổi một số danh xưng và bớt nhiều
đoạn; nhưng nói chung, phần Sử
luận và các luận điểm chính trị
của ông, về căn bản, vẫn được giữ
lại gần nguyên vẹn.
***
* ****
**
* Ấn bản 1991*************Ấn bản
1995************ Ấn bản 2001
*
****
Lẽ dĩ nhiên, tác giả đă không biết
ǵ hết về sự ra đời của ấn bản
này, lại càng không liên lạc được
v́ hoàn cảnh lịch sử và chính trị
oái oăm của đất nước, để phản đối
việc làm vừa vi phạm tác quyền vừa
vi phạm sự trung thực toàn vẹn của
một sản phẩm trí tuệ.
Bảy năm đă trôi qua kể từ khi ấn
bản đầu tiên ra đời.
Đă có rất nhiều, quá nhiều là
khác, thảo luận và bút chiến về
tác phẩm, và nhiều khi, về từng
chủ điểm mà tác phẩm này nêu lên.
Cho đến thời điểm này, vẫn c̣n
xuất hiện trên báo chí hải ngoại
những bài viết đề cập đến tác phẩm
hoặc tác giả. Đặc biệt đă có 13
cuốn sách của những người viết
đứng từ những vị trí khác nhau,
nh́n từ những góc độ khác nhau, và
mang những tâm chất khác nhau,
nhưng tất cả đều trực tiếp hay
gián tiếp liên hệ đến tác phẩm hay
tác giả.
Trong lúc có hai người viết nêu
đích danh tác giả trên b́a sách để
“trực thoại” (Linh mục Vũ Đ́nh
Hoạt và Cựu Nghị sĩ Nguyễn Văn
Chức) th́ cũng có những cuốn đào
sâu các luận đề mà tác giả viết
chưa đủ rốt ráo (Hồ Chí Minh, Ngô
Đ́nh Diệm và Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam của ông Hồ Sĩ Khuê và Gia
Tô Thực Dân Sử Liệu của ông Chu
Văn Tŕnh). Trong lúc có người
viết lúc chống lúc thuận với tác
giả (ông Nguyễn Trân) th́ cũng có
người cung cấp thêm những dữ kiện
và luận cứ mới làm mạnh thêm những
luận điểm của tác phẩm (ông Nguyễn
Long Thành Nam, Tướng Nguyễn Chánh
Thi, Tướng Trần Văn Đôn, Đại tá
Trần Văn Kha, ông Lê Trọng Văn).
Lại có thêm ấn bản Việt ngữ (Sự
Lừa Dối Hào Nhoáng) của tác phẩm
The Bright Shining Light của Neil
Sheehan (1991) và ấn bản Pháp ngữ
Les Missionnaires et La Politique
Coloniale Francaise au Vietnam của
ông Cao Huy Thuần lần đầu tiên
được Đại học Yale xuất bản tại Hoa
Kỳ (1990)… Tất cả chỉ làm cho tác
phẩm Việt Nam Máu Lửa Quê Hương
Tôi trở thành một hiện tượng độc
đáo trong lịch sử các tác phẩm
nghiên cứu của Việt Nam. Và hơn
thế nữa, chỉ làm cho chúng ta thấy
rằng tác phẩm đă đề cập đúng những
vấn đề căn bản, có thực, và có tác
động sâu sắc đến nhiều người Việt
Nam, đến chính t́nh Việt Nam không
những chỉ trong quá khứ mà c̣n cả
trong tương lai nữa.
Trong lần tái bản này, phương pháp
luận căn bản của tập Hồi kư là
thông qua các biến cố lịch sử (mà
tác giả đă sống và/hoặc nghiên
cứu) để giải thích những lực nào
đă tác động lên sự vận hành của
lịch sử nước ta trong hơn nửa thế
kỷ vừa qua, vẫn không thay đổi.
Nói rơ hơn, bản chất cuộc chiến và
các lực lượng tham chiến trên quê
hương ta suốt mấy chục năm trời
vẫn có tính phi dân tộc. Và nguyên
lư chỉ đạo làm nền tảng sử luận
cho tác giả là đă phi dân tộc th́
thế nào cũng phản dân tộc vẫn chảy
xuyên suốt tác phẩm.
Tuy nhiên, trong lần tái bản thứ
ba này có một số thay đổi sau đây:
Về h́nh thức, số lỗi chính tả và
ấn loát (nhất là các dấu hỏi ngă)
được giảm thiểu tối đa. Một số rất
ít tên người, tên địa phương và
ngày tháng cũng đă được cập nhật
lại. Đặc biệt, so với lần trước,
ấn bản này tuy có dài thêm khoảng
15 phần trăm (nâng tổng số lên hơn
750 ngàn chữ) nhưng số trang, theo
lời yêu cầu của tác giả, lại được
rút ngắn c̣n 80 phần trăm (1089
trang) nhờ cách ḍng (interline
spacing) nhỏ hơn và cỡ chữ (text
size) nhỏ lại, hầu tiết giảm giá
thành đến mức thấp nhất.
Việc sử dụng hai nhu liệu tin học
VNI và Ventura để tŕnh bày sách
đă giúp cho ấn bản này đồng dạng
hơn, sáng sủa hơn, do đó dễ đọc
hơn các ấn bản trước.
Về nội dung, một số luận cứ và
chứng liệu lịch sử mới đă được
thêm vào, đặc biệt về quá tŕnh du
nhập Công giáo vào Việt Nam, về
những bí ẩn mới trong cuộc Cách
mạng 1-11-63, về cuộc vận động cho
Dân chủ của Phật giáo tại miền
Trung năm 1966, về vai tṛ của
Vatican trong những ngày cuối cùng
của miền Nam vào năm 1975... để
nhân đó, tác giả trả lời một số
xuyên tạc và ngộ nhận về tác phẩm.
Cũng thêm vào trong ấn bản này là
một Phụ Lục mới gồm 10 tài liệu
đọc thêm của những nhân chứng lịch
sử và một số h́nh ảnh của các
khuôn mặt quan trọng đă hiện diện
trong tác phẩm.
Nhân dịp này, tác giả có nhờ chúng
tôi chuyển lời cảm ơn đặc biệt đến
cụ Lăng Nhân Phùng Tất Đắc, cụ
Hương Thuỷ Hoàng Trọng Thược, cụ
Phùng Duy Miễn, nhà Sử học Vũ Ngự
Chiêu, Trung tướng Vĩnh Lộc, bác
sĩ Vơ Tư Nhượng và Giáo sư Phạm
Phú Xuân đă tận t́nh góp ư sửa lời
để ấn bản này được toàn vẹn hơn.
Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, khi quyết
định xuất bản và phát hành tác
phẩm này, chỉ muốn xác nhận lại
chủ trương của ḿnh: cung cấp cho
độc giả trong và ngoài nước những
tác phẩm giá trị, những công t́nh
trí tuệ có phẩm chất cao hầu đóng
góp vào gia tài Văn hoá của dân
tộc.
Ngoài ra, riêng với tác phẩm Việt
Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, sự kiện
có những tranh luận sôi nổi xung
quanh tác phẩm, và trước nhu cầu
t́m đọc nguyên bản của nhiều độc
giả đă từng đọc “ấn bản trong
nước”, chúng tôi tự thấy có bổn
phận phải nỗ lực hoàn thành việc
xuất bản và phát hành tác phẩm
này, với ước mong cống hiến cho
những đồng bào c̣n quan tâm đến
vận mệnh quê hương một cách nh́n
mới về những vấn nạn mà tổ quốc ta
đă đối trị và có thể sẽ c̣n phải
đối diện trong tương lai.
************** Hoa Kỳ, tháng 9 năm
1993
************** Nhà Xuất
Bản VĂN NGHỆ
-
*
LỜI GIỚI THIỆU
ẤN BẢN ĐIỆN TỬ - NĂM 2007
Đầu Xuân năm 2007, được biết Nhà
Xuất bản Văn Nghệ đă tiêu thụ hết
đợt phát hành cuối cùng của Hồi kư
Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi, và
không có ư định tái bản tác phẩm
nầy nữa trong một tương lai gần,
chúng tôi, một nhóm thân hữu của
tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu, đă liên
lạc với gia đ́nh của tác giả để
xin tái bản tác phẩm nầy dưới dạng
điện tử. Và đă được gia đ́nh tác
giả chấp thuận với một số yêu cầu
về tác quyền và biên tập.
Về nội dung, không có một thay đổi
nào trong Ấn bản Điện tử (so với
ấn bản giấy 1993) ngoại trừ thêm
một số h́nh ảnh của tác giả; và ở
Phụ Lục E, 10 Bài Đọc Thêm, chúng
tôi thêm một lá thư của tướng
Dương Văn Minh và một bài viết về
Tướng Tŕnh Minh Thế để làm sáng
tỏ một số bí ẩn lịch sử được nhắc
đến trong Hồi kư.
Về h́nh thức, có ba thay đổi trong
quá tŕnh cập nhật lại tác phẩm
nầy:
(a)*** Sửa lại các lổi chính tả và
đánh máy. Với tổng số lượng gần
750,000 từ của toàn bộ tác phẩm,
đây là một nỗ lực liên tục nhưng
chắc vẫn c̣n khiếm khuyết ngay cả
trong ấn bản điện tử nầy.
(b)** Sửa và thêm các đại danh từ
(cụ, ông, bác, anh, ...) và những
chức vụ (phó tổng thống, thiếu tá,
giáo sư, nhà văn, ...) trước tên
riêng của các nhân vật. Tùy ngữ
cảnh và bối cảnh của mỗi t́nh
huống, chúng tôi chọn đại danh
từ/chức vụ nào mà chúng tôi nghĩ
rằng phù hợp nhất. Mặt khác, có
một số nhỏ đại danh từ và chức vụ
không cần thiết, th́ chúng tôi
cũng đă quyết định bỏ đi.*
(c)*** Ba từ “Công giáo”, “Kitô
giáo” và “Thiên Chúa giáo” đă là
một vấn nạn khó tạo được sự đồng
thuận trong cách sử dụng. Do đó,
ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt,
trên nền không-thời-gian lịch sử
mà Hồi kư chủ yếu được xây dựng
(là chế độ Ngô Đ́nh Diệm), chúng
tôi quyết định thống nhất hầu hết
các từ nầy thành từ “Công giáo”
như chính những giáo hữu Việt Nam,
trong giai đọan đó cũng như kể cả
bây giờ, đă gọi Công giáo La Mă
(Roman Catholic).
Có hai lư do khiến chúng tôi lấy
quyết định tái bản tác phẩm Việt
Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi nầy của
tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu dưới
dạng điện tử:*
·******* Thứ nhất là v́ nhu cầu
t́m đọc tài liệu về chủ đề nầy
không những đă không giảm bớt mà
thậm chí c̣n gia tăng. Hơn 40 năm
sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị
lật đổ, hơn 20 năm sau khi tác
phẩm nầy ra đời, và sau hơn 20.000
ấn bản (dự đoán) được phổ biến cả
ở trong lẫn ngoài nước, giai đoạn
lịch sử 1954-1975 tại miền Nam
Việt Nam (và những nhân vật lịch
sử quan hệ đến nó) vẫn là đề tài
được nhiều người quan tâm muốn t́m
hiểu. Để xem rút ra được những bài
học ǵ cho bây giờ và mai sau trên
quê hương Việt Nam.***
*·******* Và thứ nh́ là với những
thành quả ngoạn mục của cuộc cách
mạng Tin học, tri thức không c̣n
bị phong tỏa, lại càng không trở
thành sản phẩm độc quyền của một
giai tầng nào nữa. Do đó, sản phẩm
trí tuệ cần được xuất hiện dưới
dạng điện tử để dễ dàng vượt mọi
biên giới thiên nhiên, rào cản
hành chánh và giới hạn tiền bạc,
ngơ hầu có thể bay vào không gian
cyberspace mà đến với người đọc
khắp địa cầu.
Nhóm Thân hữu của tác giả Hoành
Linh Đỗ Mậu, khi hoàn thành ấn bản
nầy, chỉ nhắm đáp ứng hai nhu cầu
nói trên. Và đóng góp phần ḿnh
vào việc thực hiện tâm nguyện của
tác giả đă được trang trải đầy ắp
trong tác phẩm nầy.
*Hoa Kỳ - Thu* 2007
Nhóm Thân hữu trách nhiệm Ấn
bản Điện tử VNMLQHT-2007
* * **
LỜI GIỚI THIỆU
ẤN BẢN THỨ BA - NĂM 1993
*
***** Tập Hồi kư chính trị Việt
Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của tác
giả Hoành Linh Đỗ Mậu được Nhà
Xuất bản Hương Quê ấn hành lần đầu
tiên vào mùa thu năm 1986 tại miền
Nam California, Hoa Kỳ.
****** Từ đó đến nay, tác phẩm này
đă được tái bản một lần (1987) và
in lại tám lần. Như vậy, bản mà
quư bạn đọc cầm trên tay hôm nay
(1993) của Nhà Xuất bản Văn Nghệ
là lần biên tập thứ ba và là lần
in lại thứ chín (Third Edition,
Ninth Printing).
****** ***************
************ Ấn bản
1986*********************** * Ấn
bản 1993
*
Đó là không kể hai ấn bản mà tác
giả hoàn toàn không biết đến quá
tŕnh h́nh thành của chúng. Bản
thứ nhất in tại Úc Châu vào khoảng
năm 1990 với một h́nh b́a khác
hẳn. Và bản thứ nh́ in tại Việt
Nam, không những khác b́a, nội
dung bị biến cải, mà ngay cả tên
sách cũng bị thay đổi. Đó là cuốn
Tâm Sự Tướng Lưu Vong do Nhà Xuất
Bản Công An Nhân Dân ấn hành 3.200
ấn bản vào năm 1991 (Số xuất bản
117/KII90 CAND). Sau khi đối chiếu
với nguyên bản, tác giả cho chúng
tôi biết rằng ấn bản này đă bị bỏ
bớt gần một phần tư nội dung, thay
đổi một số danh xưng và bớt nhiều
đoạn; nhưng nói chung, phần Sử
luận và các luận điểm chính trị
của ông, về căn bản, vẫn được giữ
lại gần nguyên vẹn.
***
* ****
**
* Ấn bản 1991*************Ấn bản
1995************ Ấn bản 2001
*
****
Lẽ dĩ nhiên, tác giả đă không biết
ǵ hết về sự ra đời của ấn bản
này, lại càng không liên lạc được
v́ hoàn cảnh lịch sử và chính trị
oái oăm của đất nước, để phản đối
việc làm vừa vi phạm tác quyền vừa
vi phạm sự trung thực toàn vẹn của
một sản phẩm trí tuệ.
Bảy năm đă trôi qua kể từ khi ấn
bản đầu tiên ra đời.
Đă có rất nhiều, quá nhiều là
khác, thảo luận và bút chiến về
tác phẩm, và nhiều khi, về từng
chủ điểm mà tác phẩm này nêu lên.
Cho đến thời điểm này, vẫn c̣n
xuất hiện trên báo chí hải ngoại
những bài viết đề cập đến tác phẩm
hoặc tác giả. Đặc biệt đă có 13
cuốn sách của những người viết
đứng từ những vị trí khác nhau,
nh́n từ những góc độ khác nhau, và
mang những tâm chất khác nhau,
nhưng tất cả đều trực tiếp hay
gián tiếp liên hệ đến tác phẩm hay
tác giả.
Trong lúc có hai người viết nêu
đích danh tác giả trên b́a sách để
“trực thoại” (Linh mục Vũ Đ́nh
Hoạt và Cựu Nghị sĩ Nguyễn Văn
Chức) th́ cũng có những cuốn đào
sâu các luận đề mà tác giả viết
chưa đủ rốt ráo (Hồ Chí Minh, Ngô
Đ́nh Diệm và Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam của ông Hồ Sĩ Khuê và Gia
Tô Thực Dân Sử Liệu của ông Chu
Văn Tŕnh). Trong lúc có người
viết lúc chống lúc thuận với tác
giả (ông Nguyễn Trân) th́ cũng có
người cung cấp thêm những dữ kiện
và luận cứ mới làm mạnh thêm những
luận điểm của tác phẩm (ông Nguyễn
Long Thành Nam, Tướng Nguyễn Chánh
Thi, Tướng Trần Văn Đôn, Đại tá
Trần Văn Kha, ông Lê Trọng Văn).
Lại có thêm ấn bản Việt ngữ (Sự
Lừa Dối Hào Nhoáng) của tác phẩm
The Bright Shining Light của Neil
Sheehan (1991) và ấn bản Pháp ngữ
Les Missionnaires et La Politique
Coloniale Francaise au Vietnam của
ông Cao Huy Thuần lần đầu tiên
được Đại học Yale xuất bản tại Hoa
Kỳ (1990)… Tất cả chỉ làm cho tác
phẩm Việt Nam Máu Lửa Quê Hương
Tôi trở thành một hiện tượng độc
đáo trong lịch sử các tác phẩm
nghiên cứu của Việt Nam. Và hơn
thế nữa, chỉ làm cho chúng ta thấy
rằng tác phẩm đă đề cập đúng những
vấn đề căn bản, có thực, và có tác
động sâu sắc đến nhiều người Việt
Nam, đến chính t́nh Việt Nam không
những chỉ trong quá khứ mà c̣n cả
trong tương lai nữa.
Trong lần tái bản này, phương pháp
luận căn bản của tập Hồi kư là
thông qua các biến cố lịch sử (mà
tác giả đă sống và/hoặc nghiên
cứu) để giải thích những lực nào
đă tác động lên sự vận hành của
lịch sử nước ta trong hơn nửa thế
kỷ vừa qua, vẫn không thay đổi.
Nói rơ hơn, bản chất cuộc chiến và
các lực lượng tham chiến trên quê
hương ta suốt mấy chục năm trời
vẫn có tính phi dân tộc. Và nguyên
lư chỉ đạo làm nền tảng sử luận
cho tác giả là đă phi dân tộc th́
thế nào cũng phản dân tộc vẫn chảy
xuyên suốt tác phẩm.
Tuy nhiên, trong lần tái bản thứ
ba này có một số thay đổi sau đây:
Về h́nh thức, số lỗi chính tả và
ấn loát (nhất là các dấu hỏi ngă)
được giảm thiểu tối đa. Một số rất
ít tên người, tên địa phương và
ngày tháng cũng đă được cập nhật
lại. Đặc biệt, so với lần trước,
ấn bản này tuy có dài thêm khoảng
15 phần trăm (nâng tổng số lên hơn
750 ngàn chữ) nhưng số trang, theo
lời yêu cầu của tác giả, lại được
rút ngắn c̣n 80 phần trăm (1089
trang) nhờ cách ḍng (interline
spacing) nhỏ hơn và cỡ chữ (text
size) nhỏ lại, hầu tiết giảm giá
thành đến mức thấp nhất.
Việc sử dụng hai nhu liệu tin học
VNI và Ventura để tŕnh bày sách
đă giúp cho ấn bản này đồng dạng
hơn, sáng sủa hơn, do đó dễ đọc
hơn các ấn bản trước.
Về nội dung, một số luận cứ và
chứng liệu lịch sử mới đă được
thêm vào, đặc biệt về quá tŕnh du
nhập Công giáo vào Việt Nam, về
những bí ẩn mới trong cuộc Cách
mạng 1-11-63, về cuộc vận động cho
Dân chủ của Phật giáo tại miền
Trung năm 1966, về vai tṛ của
Vatican trong những ngày cuối cùng
của miền Nam vào năm 1975... để
nhân đó, tác giả trả lời một số
xuyên tạc và ngộ nhận về tác phẩm.
Cũng thêm vào trong ấn bản này là
một Phụ Lục mới gồm 10 tài liệu
đọc thêm của những nhân chứng lịch
sử và một số h́nh ảnh của các
khuôn mặt quan trọng đă hiện diện
trong tác phẩm.
Nhân dịp này, tác giả có nhờ chúng
tôi chuyển lời cảm ơn đặc biệt đến
cụ Lăng Nhân Phùng Tất Đắc, cụ
Hương Thuỷ Hoàng Trọng Thược, cụ
Phùng Duy Miễn, nhà Sử học Vũ Ngự
Chiêu, Trung tướng Vĩnh Lộc, bác
sĩ Vơ Tư Nhượng và Giáo sư Phạm
Phú Xuân đă tận t́nh góp ư sửa lời
để ấn bản này được toàn vẹn hơn.
Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, khi quyết
định xuất bản và phát hành tác
phẩm này, chỉ muốn xác nhận lại
chủ trương của ḿnh: cung cấp cho
độc giả trong và ngoài nước những
tác phẩm giá trị, những công t́nh
trí tuệ có phẩm chất cao hầu đóng
góp vào gia tài Văn hoá của dân
tộc.
Ngoài ra, riêng với tác phẩm Việt
Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, sự kiện
có những tranh luận sôi nổi xung
quanh tác phẩm, và trước nhu cầu
t́m đọc nguyên bản của nhiều độc
giả đă từng đọc “ấn bản trong
nước”, chúng tôi tự thấy có bổn
phận phải nỗ lực hoàn thành việc
xuất bản và phát hành tác phẩm
này, với ước mong cống hiến cho
những đồng bào c̣n quan tâm đến
vận mệnh quê hương một cách nh́n
mới về những vấn nạn mà tổ quốc ta
đă đối trị và có thể sẽ c̣n phải
đối diện trong tương lai.
************** Hoa Kỳ, tháng 9 năm
1993
************** Nhà Xuất
Bản VĂN NGHỆ
VIỆT NAM Máu
Lửa Quê Hương Tôi - Hoành Linh Đỗ
Mậu (Tiếp theo)
*************************
*********** *QUẢNG B̀NH
************************* ** QUÊ
HƯƠNG ĐỊNH MỆNH
*
Trong suốt quá tŕnh lịch sử cận đại
của nước ta, trên cả ba miền đất
nước mà đặc biệt tại miền Trung, khi
nói đến cái “ḷ” cách mạng hay cái
“nôi” văn học là phải nói đến hai
tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ở phía Bắc Đèo
Ngang, và hai tỉnh Quảng Nam, Quảng
Ngăi ở phía Nam Đèo Hải Vân. Những
bậc hào kiệt tài danh đứng đầu ngọn
sóng cách mạng hoặc làm đẹp cho nền
thi văn đất nước như các cụ Phan Bội
Châu, Phan Đ́nh Phùng, Nguyễn Du,
Nguyễn Công Trứ đều xuất thân từ
vùng đất Nghệ-Tĩnh; c̣n những tên
tuổi của các cụ Phan Chu Trinh, Trần
Cao Vân, Trần Quư Cáp th́ lại vươn
lên từ vùng đất Nam-Ngăi, nơi được
mang danh là đất của “Ngũ Phụng Tề
Phi” (năm con phượng cùng bay) nhờ
kỳ thi Hội năm Mậu Tuất (1898), ba
tiến sĩ và hai phó bảng trong số
mười tám vị chiếm bảng vàng đều xuất
thân từ tỉnh Quảng Nam, cho nên vua
Thành Thái mới ban cho năm vị tân
khoa bốn chữ “Ngũ Phụng Tề Phi”
vang rền đất nước.
Nghệ-Tĩnh và Nam-Ngăi, dưới thời
Pháp thuộc, cũng chính là vùng đất
bất khuất, tiếp nối truyền thống
cách mạng chống ngoại xâm của cha
ông, vùng lên đối kháng chính quyền
bảo hộ Pháp mà điển h́nh là các cuộc
đấu tranh của Văn Thân và Cần Vương,
là phong trào chống thuế ở Nam-Ngăi,
là phong trào Sô-Viết ở Nghệ-Tĩnh.
Các ông Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng
và một số các lănh tụ khác của đảng
Cộng Sản Việt Nam, cũng xuất thân từ
ḷ luyện thép này.
Bên cạnh vóc dáng và khí thế lẫy
lừng của bốn tỉnh kể trên,
B́nh-Trị-Thiên là ba tỉnh nằm giữa
hai ngọn đèo lớn đó của miền Trung,
v́ quen nhọc nhằn chống lại thiên
nhiên hà khắc, lại vốn làm cái đ̣n
gánh chính trị oằn vai v́ sức nặng
cách mạng của bốn tỉnh tiếp giáp nên
cũng đă cưu mang trong sức sống tất
cả cái hào hùng và oan nghiệt của
lịch sử. Tỉnh Quảng B́nh, tuy là một
tỉnh nhỏ về cả hai phương diện dân
số lẫn diện tích, nhưng nhờ vậy lại
chiếm địa vị của một vùng đất quê
hương nổi tiếng địa linh nhân kiệt.
Từ đời Hùng Vương, Quảng B́nh đă là
một trong mười lăm bộ của nước Văn
Lang, có tên là Việt Thường với thủ
đô là Phong Châu[1]. V́ là tỉnh cực
Nam tiếp giáp với biên giới Chiêm
Thành nên suốt một thời gian dài
trong quá tŕnh dựng nước và mở
nước, Quảng B́nh đă là chiến địa
khốc liệt và dai dẳng, lắm phen thay
ngôi đổi chủ giữa hai dân tộc
Chiêm-Việt. Cho đến năm 1069, khi
vua Lư Thánh Tông xuất quân đánh
Chiêm Thành bắt được vua Chế Củ và
sát nhập ba châu Địa-Lư, Ma-Linh, và
Bố-Chính th́ Quảng B́nh (và phần đất
phía Bắc tỉnh Quảng Trị) mới hoàn
toàn thuộc về lănh thổ nước Việt Nam
và thuộc về chủ quyền dân tộc Việt
Nam cho đến bây giờ.*
Tuy là một tỉnh nhỏ, dù bề dài 110
cây số, và bề ngang, chỗ hẹp nhất,
chỉ vào khoảng 45 cây số, quanh năm
ách nước tai trời, lưng dựa vào
Trường Sơn huyền bí, mặt nh́n về
biển Đông thét gào, đất cày lên
không sỏi th́ đá, nhưng tạo hóa lại
đền bù cho Quảng B́nh nhiều danh lam
thắng cảnh để tô điểm cho thêm thanh
kỳ, mỹ tú mà nhiều tỉnh khác không
có. Lũy Thầy, Đèo Ngang, sông Linh
Giang, động Phong Nha… không những
là kỳ tích của thiên nhiên mà c̣n là
những địa danh ghi đậm những biến cố
hào hùng trong lịch sử nước nhà.
Đèo Ngang nằm trên một rặng núi bắt
nguồn từ dăy Trường Sơn, vươn ra
biển Nam Hải như một bức trường
thành hùng vĩ nên có lẽ v́ thế mà
rặng núi này được gọi là Hoành Sơn.
Sử chép rằng chúa Nguyễn Hoàng thời
Lê Mạt trước khi vào trấn nhậm Đàng
Trong, có cho người đến thỉnh ư cụ
Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cụ nh́n
thấy một đàn kiến đang ḅ trên ḥn
giả sơn trước sân nhà, bèn nói Hoành
sơn nhất đái vạn đại dung thân (núi
Hoành một dăy, vạn đời dung thân).
Câu chuyện thuộc về dă sử không rơ
thực hư, nhưng kể từ năm 1558, khi
chúa Trịnh cho Nguyễn Hoàng vào Nam
trấn nhậm cho đến khi nhà Nguyễn lập
quốc xưng vương vào năm 1802, rồi
kéo dài cho đến năm 1945, khi vua
Bảo Đại thoái vị trao quyền lại cho
ông Hồ Chí Minh, tổng cộng gần 400
năm kể cũng là vạn đại lắm rồi.
Cảnh vật Đèo Ngang như là nơi tao
ngộ của trời mây non nước, đất đá cỏ
cây, lại có ải-quan trơ gan cùng
ngày tháng, có Cổ Lũy pha đậm nét
rêu phong, cảnh trí vừa hùng vĩ, vừa
nên thơ dễ làm động ḷng khách du
quan mỗi khi đi qua Đèo. Vua Lê
Thánh Tôn, Bà Huyện Thanh Quan, Tản
Đà Nguyễn Khắc Hiếu… những thi hào
tên tuổi của Việt Nam dừng chân trên
đỉnh đèo, động ḷng hoài cảm trước
cảnh vật giao ḥa đă để lại những
vần thơ láng lai t́nh non nước.
Người Việt Nam không mấy ai không
biết bài thơ hoài cảm Qua Đèo
Ngang tức cảnh của Bà Huyện
Thanh Quan:
*********** Bước tới Đèo Ngang
bóng xế tà,
*********** Cỏ cây chen đá, lá
chen hoa.
*********** Lom khom dưới núi
tiều vài chú,
*********** Lác đác bên sông rợ
mấy nhà.
*********** Nhớ nước đau ḷng
con quốc-quốc,
*********** Thương nhà mỏi miệng
cái gia-gia.
*********** Dừng chân đứng lại
trời non nước,
*********** Một mảnh t́nh riêng
ta với ta.
Cách Đèo Ngang 15 cây số về phía Nam
có con sông Gianh mà ḷng sông vừa
sâu lượng nước lại vừa chảy mạnh.
Sông Gianh bắt nguồn từ núi rừng
Trường Sơn hiểm trở, bạt núi xuyên
ngàn tạo ra nhiều thác lắm ghềnh và
đổ ̣a ra biển Đông, cắt đôi đất nước
thành hai miền riêng biệt. Bề ngang
rộng lớn của ḍng sông và thế chảy
mănh liệt của ḍng nước biến sông
Gianh thành một trở lực thiên nhiên
hữu ích cho các nhà quân sự muốn tạo
ra một thế bố pḥng vững chắc vào
cái thời mà vũ khí và các phương
tiện vận tải c̣n giới hạn.
Cửa sông Gianh nước chảy xiết, khó
bắc cầu, thuyền bè qua lại khó khăn
nguy hiểm nên dân gian mới ví von:
*********** Bao giờ nước cạn
Đồng Nai,
*********** Sông Gianh bớt chảy
mới phai lời nguyền.
Tuy cửa sông Gianh hiểm trở nhưng
đây cũng lại là nơi phong cảnh hữu
t́nh, nên thơ với tiếng gió thổi
lộng qua hàng dương liễu vi vu trỗi
lên những bản nhạc du dương trầm
hùng, với những cánh buồm nâu trở về
bến cũ khi bóng xế chiều tà, với
tiếng sóng dạt dào theo con nước
thuỷ triều lên xuống. Khách lữ hành
mỏi mệt sau những chặng đường dài
trên con đường thiên lư, đến cửa
sông Gianh dừng chân nghỉ lại trong
những ngôi quán tranh của dân xóm
Thanh Hà, phía hữu ngạn sông Gianh,
nếm mùi hải vị, uống chén chè tươi,
ngắm nh́n bức tranh thiên tạo, hưởng
làn gió mát trước khi tiếp tục cuộc
hành tŕnh ngược Bắc xuôi Nam.
Rời sông Gianh, theo phương Nam mà
đi gần 30 cây số nữa, khách lữ hành
sẽ gặp Đồng Hới, tỉnh lỵ Quảng B́nh,
có Động Hải, có sông Nhật Lệ, có
cổng B́nh Quan, có cổ lũy Phú Ninh,
có những tiền đồn của Lũy Thầy,
những di tích c̣n sót lại của thời
Trịnh Nguyễn phân tranh.
Tiếp tục đi về phía Nam, băng qua
sông Nhật Lệ, khách lữ hành sẽ t́m
thấy những kiến trúc rêu phong vốn
là vết tích của Lũy Thầy, c̣n được
gọi là Trường Thành Định Bắc. Lũy
Thầy, chiến lũy vững vàng đă từng
chận đứng rất nhiều chiến dịch Nam
tiến của quân chúa Trịnh, được xây
từ năm 1629 do sáng kiến chiến lược
của vị quân sư tài ba và đầy mưu
lược của nhà Nguyễn là ông Đào Duy
Từ. Ông vốn xuất thân từ một gia
đ́nh làm nghề hát xướng, cái nghề mà
xă hội phong kiến ngày xưa thường
khinh bỉ gọi là “xướng ca vô loại”.
Thủa thiếu thời, có lúc ông phải đi
ăn xin từ làng này qua làng khác và
rất nhiều lần phải chăn trâu cho các
nhà phú hộ để đổi lấy bát cơm thừa.
Trong hoàn cảnh khốn cùng đó, tương
lai lại c̣n bị chận đứng bởi bức
thành giai cấp cổ tục, ông vẫn quyết
tâm sôi kinh nấu sử một ḿnh để trau
dồi trí đức và sau này trở thành một
bậc hiền tài mưu cao chí lớn được
chúa Nguyễn Phúc Nguyên và các quan
xem như bậc thầy.
Lũy Thầy dài ba trăm trượng, chạy từ
chân núi Đầu Mâu, phía Tây huyện Lệ
Thủy, đến cửa sông Nhật Lệ thuộc phủ
Quảng Ninh, đă là chiến lũy chận
đứng được nhiều cuộc tấn công của
quân Đàng Ngoài. V́ thế mới có lời
truyền tụng:
*********** Khôn ngoan qua cửa
sông La,
*********** Dù ai có cánh khó
qua Lũy Thầy.
Ngoài những cảnh trí non nước đă
được nhắc nhở nhiều trong sử sách
ngàn đời của dân tộc Việt, Quảng
B́nh c̣n có nhiều phong cảnh đem tự
hào cho dân chúng địa phương. Cách
tỉnh lỵ Đồng Hới 17 cây số về phía
Tây Nam, có động Phong Nha thuộc
huyện Bố Trạch, một thắng cảnh vô
cùng kỳ vĩ. Muốn vào động phải đi
bằng thuyền, phải có đuốc dẫn đường;
trong động có suối nước xanh màu
ngọc bích, có thạch nhũ nhô ra như
những bàn tay Phật, có những kiến
trúc thiên nhiên như những toà lâu
đài tráng lệ huy hoàng, lại có những
sân khấu do thợ Trời sắp đặt với
phong cảnh trang trí, đào kép múa
may thật diễm ảo thần tiên. Những
giọt nước từ nhũ đá rơi xuống suối
nằm sâu trong ḷng động tạo thành
những điệu nhạc trầm buồn và mỗi khi
nước chao động đập vào ghềnh đá th́
có tiếng âm vang như tiếng chuông
chùa. Theo dân chúng địa phương th́
những tiếng chuông chùa này chỉ ngân
lên vào đêm Rằm và đêm mồng Một âm
lịch mà thôi.
Trời trên ṿm động có những đám mây
ngũ sắc từ chóp núi Trường Sơn tụ
lại làm cho cảnh vật Phong Nha thêm
huyền ảo, thanh kỳ khiến khách du
quan tưởng ḿnh như lạc đến chốn
Bồng Lai Tiên Cảnh.
Cụ Chu Mạnh Trinh cho rằng động
Hương Sơn ở Hà Tây là Nam Thiên đệ
nhất Động, c̣n học giả Thái Văn Kiểm
(từng sống lâu năm và từng nghiên
cứu về địa lư dân t́nh tỉnh Quảng
B́nh và miền Trung) th́ lại cho rằng
Phong Nha là “Đệ Nhất Kỳ Quan” của
nước Việt Nam. Theo ông Thái Văn
Kiểm th́ ông Barton, nhà chiêm tinh
học người Anh, cho biết động Phong
Nha không kém ǵ động Padirac của
Pháp hay Cuevas del Drach ở
Mallorque của xứ Tây Ban Nha[2]. Chỉ
tiếc rằng động Phong Nha, một kỳ
quan của đất nước quê hương, mà chỉ
có người Âu Châu thăm viếng nhiều
c̣n người Việt Nam chưa mấy ai lui
tới chỉ v́ giao thông trắc trở, v́
chiến tranh cản ngăn.
Nếu động Phong Nha đă tô điểm cho
huyện Bố Trạch thành một vùng giang
sơn cẩm tú th́ núi Đầu Mâu và đầm
Hạc Hải ở Lệ Thủy và Quảng Ninh lại
là nơi tụ hội của khí thiêng sông
núi hun đúc nhân tài tỉnh Quảng
B́nh. Núi Đầu Mâu cao vút, quanh năm
mây mù bao phủ đầu non, h́nh chóp
núi nhọn như ng̣i bút, c̣n đầm Hạc
Hải h́nh thể như cái nghiên mực có
lạch riêng cho thuyền bè qua lại,
phía Đông Nam bao bọc bởi những động
cát chập chùng, phía Tây Bắc có vách
núi Trường Sơn làm thành quách. Cảnh
vật Đầu Mâu và Hạc Hải trông giống
như ng̣i bút và đĩa nghiên cho nên
tiền nhân mới gọi Đầu Mâu vi bút,
Hạc Hải vi nghiên, làm biểu tượng
cho nền văn học tỉnh Quảng B́nh.
Quanh Đầu Mâu và Hạc Hải có nhiều
động, nhiều hang thiêng liêng, thần
bí khác, đặc biệt là động Chấn Linh
được tiền nhân ca ngợi là chốn đào
nguyên hạ giới, người trần tục không
nên lui tới: Động môn vô tỏa thực,
tục khách bất tàng lai [3].
Quảng B́nh, quê hương tôi, c̣n rất
nhiều sơn kỳ, thủy tú. Có lẽ v́ tạo
hóa đặc biệt ân thưởng để đền bù cho
một vùng đất vốn không được ưu đăi
về mặt kinh tế như các vùng khác của
đất nước, lại gặp quá nhiều đau khổ
v́ ách nước tai trời, v́ chinh chiến
triền miên theo dọc chiều dài lịch
sử. Trong thời xa xưa, Quảng B́nh
liên tiếp đă là băi chiến trường của
hai quốc gia Chiêm-Việt; đến đời nhà
Lê, Quảng B́nh lại đắm ch́m trong
can qua v́ cuộc phân tranh của hai
nhà Trịnh-Nguyễn. Trong thời Pháp
thuộc, vùng Tuyên Hoá phía Tây Quảng
B́nh là chiến khu của vua Hàm Nghi,
vùng tả hữu ngạn sông Gianh trở
thành chiến địa giữa nghĩa quân Cần
vương và quân đội viễn chinh của
thực dân, giữa người Lương chống
Pháp và người Giáo theo Pháp. Thời
chiến tranh Pháp-Việt, 1945-1954,
vùng Bắc Quảng B́nh là biên giới của
hai phe lâm chiến, nhiều trận giao
phong ác liệt đă xảy ra nơi vùng
tiền tuyến của hai bên. Thời chiến
tranh Nam Bắc Quốc Cộng (1954-1975)
Quảng B́nh là tuyến đầu của quân đội
miền Bắc, được sử dụng như một căn
cứ tiền phương với nhiệm vụ t́nh
báo, tồn trữ quân nhu, quân cụ và là
xuất phát điểm của những chiến dịch
xâm nhập hay tấn công quân đội miền
Nam, nên đất và dân Quảng B́nh đă
phải hứng chịu nhiều trận mưa bom
hăi hùng, bất tận của không quân
Mỹ-Việt.
Ông bà xưa thường nói người khôn của
khó. Câu nói đó áp dụng đúng cho
trường hợp nhân dân Quảng B́nh. Dân
Quảng B́nh nghèo khó, dân Quảng B́nh
gặp tai ương triền miên, nhưng người
Quảng B́nh lại thông minh, khí
phách, can trường và nhất là dám
sống chết cho lư tưởng.
Tuy Quảng B́nh không có những nhân
vật nổi tiếng về văn học và cách
mạng như các danh sĩ Nghệ-Tĩnh và
Nam-Ngăi, nhưng số người đỗ đạt khoa
giáp lại rất nhiều, đặc biệt là tại
hai phủ Quảng Trạch và Quảng Ninh.
Quảng Trạch có bốn đại xă văn học là
SƠN (Lệ Sơn), HÀ (La Hà), CẢNH (Cảnh
Dương), THỔ (Thổ Ngọa). Quảng Ninh
có bốn đại xă là VĂN (Văn La), VƠ
(Vơ Xá), CỔ (Cổ Liễu), KIM (Kim
Nại). Tên của tám xă góp lại thành
hai vế của một câu đối là Sơn Hà
Cảnh Thổ đối với Văn Vơ Cổ Kim, đă
đem lại danh dự cho dân chúng Quảng
B́nh. Ngoài hai phủ Quảng Trạch và
Quảng Ninh, huyện Lệ Thủy cũng là
một quê hương có nhiều nhân tài khoa
hoạn, nhiều tiến sĩ, phó bảng. Sách
Đại Nam Nhất Thống Chí cho biết từ
đời nhà Lê cho đến đời nhà Nguyễn,
Quảng B́nh có rất nhiều người đỗ đạt
và làm quan phục vụ cho dân, cho
nước mà toàn là những người nổi
tiếng về khí tiết, đức độ, liêm
chính, tài năng, mưu lược. Có những
nhân vật đức độ được ca ngợi là Phật
sống, là Bồ Tát, có những nhân vật
văn vơ vẹn toàn, có những người đa
mưu túc trí được so sánh với Khổng
Minh, với Lưu Bá Ôn, những nhân tài
đời Hán, đời Minh bên Trung Quốc. Có
những người chỉ xuất thân từ hàng sĩ
tốt, nhờ tài thao lược, nhờ dũng
khí, can trường làm nên đến Đô
Thống, Quận Công. Quảng B́nh tỉnh
nhỏ, người thưa mà lại có nhiều vị
khoa giáp, tài đức, học hành toàn
vẹn được nhiều đời Vua mời vào cung
giữ chức “Phụ Đạo”, làm thầy dạy học
cho các Hoàng Tử, Hoàng Đệ như
Nguyễn Đăng Tuấn, Ngô Đ́nh Giỏi, Vũ
Xuân Cẩn, Nguyễn Hàm Ninh. Có người
như Nguyễn Tử Kính làm quân sư cho
vua Lê đánh đuổi giặc Tàu, như Lê
Trực, Nguyễn Phạm Tuân lănh đạo
nghĩa quân Cần Vương, pḥ vua Hàm
Nghi đánh Pháp. Có người như Nguyễn
Hàm Ninh (bạn tri kỷ của Cao Bá
Quát) nửa đường công danh không muốn
tiếp tục vào ḷn ra cúi, cởi áo từ
quan về nhà sống cuộc đời thanh bần.
Lại có người như tiến sĩ Phạm Phi
Diệu đỗ đạt rồi mà không màng lợi
danh, chỉ muốn sống cuộc đời ẩn dật
vui với non nước, cỏ cây chốn thôn
dă bần hàn:
*********** Bảng chiếu dương Ngô
mai bạch tuyết,
*********** Tâm lao hậu bỉ Thảo,
Huyền nhân.
Ư muốn nói là thi đỗ rồi chỉ muốn
bồi dưỡng tâm hồn cho trắng như
tuyết, cho sạch như mai, không nhọc
ḷng làm kẻ viết kinh Huyền, kinh
Thảo[4].
Đến thời cận đại, khi nền giáo dục
Tây phương theo chân quân xâm lăng
tràn vào bờ cơi để đánh bật tận gốc
rễ nền giáo dục Nho Hán và thay vào
đấy bằng một nền giáo dục gọi là Tây
học th́ Quảng B́nh, trong cơn chuyển
đổi ngặt nghèo, cũng sản xuất ra
được những nhân vật tiếng tăm lẫy
lừng như gịng họ Ngô Đ́nh chẳng
hạn, gịng họ đă có người làm đến
Tổng Đốc Thượng Thư dưới thời bảo hộ
Pháp, có người làm đến Tổng thống,
Tổng giám mục dưới thời ảnh hưởng
Mỹ. Cũng trong thời kỳ này, khi
chiến tranh bao phủ non sông và bao
nhiều người con yêu của tổ quốc đều
chọn binh nghiệp làm lẽ sống th́
Quảng B́nh cũng có người làm đến Đại
tướng hay Bộ trưởng như ông Vơ
Nguyên Giáp chẳng hạn, tạo ra những
chiến công hiển hách trong quân sử
nước nhà. Quảng B́nh cũng c̣n nằm
trong bộ phận đại quần chúng để cung
cấp cho dân tộc những nghệ sĩ biết
rung động với thiên nhiên và thời
đại, những kỹ thuật gia biết vận
dụng năng lực sáng tạo để khắc phục
khó khăn.
Lật trang sử cũ, ta thấy Quảng B́nh
quả thật là quê hương địa linh nhân
kiệt, vùng đất vốn chật hẹp, nghèo
nàn mà núi sông lại hùng vĩ, phong
cảnh lại hữu t́nh, sản xuất không
biết bao nhiêu là văn tài, vơ tướng,
hào kiệt, trượng phu, tô điểm vàng
son cho lịch sử nước nhà. Nhưng rồi
như cổ nhân đă dạy dân có vận, nước
có tuần, đến giữa thế kỷ 20, chính
những người con dân Quảng B́nh lại
là những người chủ trương gây cảnh
huynh đệ tương tàn, chiến tranh suốt
30 năm trời, quê hương núi xương
sông máu, mà tiêu biểu rơ ràng nhất
là hai nhân vật Ngô Đ́nh Diệm và Vơ
Nguyên Giáp.
Ư nghĩa lịch sử đích thực của cuộc
chiến tranh đó nh́n bằng con mắt của
50 triệu người dân Việt và đặt nó
nằm trong ḍng sinh mệnh gần 5000
năm ngút ngàn của tổ quốc Việt Nam
th́ chỉ là một cuộc chiến huynh đệ
tương tàn. V́ dù có nhân danh bất kỳ
một chủ nghĩa nào (Cộng sản hay Tư
bản), dù có biện minh bằng một
nguyên ủy nào (Giải phóng hay Tự
do), th́ rơ ràng chính máu xương của
người Việt đă đổ ra, chính người
Việt này đă giết người Việt kia
không bằng sự tỉnh táo và tự do của
một con người Việt b́nh thường mà
ước vọng về cuộc sống th́ thật là
giản dị. Người Việt đă không phát
kiến ra những hệ ư thức để mâu thuẫn
nhau, lại càng không phát minh ra
những vũ khí để tiêu diệt nhau. Đi
t́m nguồn gốc lịch sử sâu xa của
cuộc chiến Quốc Cộng là phải đi xa
hơn nữa vào chiều dài của lịch sử,
kể từ lúc ngọn gió dữ phương Tây
quái ác cuộn vào đất nước làm bật
tung cây cổ thụ văn hóa của dân tộc,
cây cổ thụ đă được vun trồng bởi
Quốc Tổ Hùng Vương, và được tưới
bằng máu của biết bao anh hùng liệt
nữ trải dài gần 5000 năm văn hiến,
và cây cổ thụ đă một thời xanh tốt
vững chăi bằng đất lành khí mát của
nền Tam giáo đồng nguyên.
Năm 1558, khi Nguyễn Hoàng được phép
anh rể là Trịnh Kiểm vào Nam trấn
nhậm, ông ra đi mang theo cái mộng
trả thù cho cha anh và cái chí mưu
bá đồ vương, anh hùng một cơi. Ông
lập nên nghiệp Chúa ở Đàng Trong, mở
mang bờ cơi đến tận Châu Đốc, Hà
Tiên, xây dựng một giang sơn riêng
biệt quyết chí đương đầu với chúa
Trịnh ở phương Bắc. Từ đó Việt Nam
bị chia đôi bằng ḍng sông Gianh của
tỉnh Quảng B́nh và dân tộc Việt Nam
phải chịu hai hệ thống cai trị. Tất
nhiên cuộc Nam Bắc phân tranh đă
phải xảy ra giữa hai họ Trịnh
Nguyễn, với hệ quả tất yếu là cuộc
nội chiến giữa Nguyễn Gia Long và
Nguyễn Tây Sơn, kéo dài cho đến năm
1802 khi Gia Long thống nhất đất
nước mới chấm dứt. Trong giai đoạn
này, từ ải Nam Quan cho đến mũi Cà
Mau, dân tộc Việt đă phải gánh chịu
cảnh cốt nhục tương tàn trên 200 năm
trời.
Gia Long chấm dứt 200 năm nội chiến
và thống nhất sơn hà phần lớn nhờ
vào sức mạnh của vũ khí Tây phương
qua sự vận động của các giáo sĩ Kitô
giáo. Cho nên nội chiến chấm dứt
rồi, sơn hà thống nhất rồi mà dân ta
vẫn chưa được hưởng thái b́nh an lạc
v́ các giáo sĩ Kitô giáo, khi đến
Việt Nam, không phải chỉ có một mục
đích rao giảng tin mừng của Thiên
Chúa mà c̣n có một mục đích xâm thực
văn hóa nữa. Mục đích xâm thực này
phù hợp hoàn toàn với mục đích chiếm
đất giành dân của chính quyền thực
dân Pháp để cấu kết với nhau trở
thành một chiêu bài mà họ gọi là “nhiệm
vụ khai hóa” (mission
civilisatrice).
Cho nên Phong kiến không tự nó đẻ ra
được Cộng sản trong trường hợp nước
ta mà chính Thực dân đă đẻ ra Cộng
sản. Và sau này, cũng chính hai sản
phẩm này của nền văn minh Tây phương
là Thực dân và Cộng sản đă thôi thúc
dân ta rơi vào cảnh huynh đệ tương
tàn.
V́ vậy, bất hạnh thay cho dân tộc
Việt, đúng 25 năm trước cuộc Nam
tiến của Nguyễn Hoàng, vào năm 1533
thời vua Lê Trang Tôn, các giáo sĩ
Kitô giáo Tây phương đă đi đường
biển lẻn vào nước ta để giảng đạo.
Nếu hoạt động của các giáo sĩ Tây
phương chỉ cốt để truyền giáo mà
thôi, như Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi
đến Hà Đông năm 580 để truyền bá đạo
Phật chẳng hạn, th́ có lẽ không có
cái hậu quả 30 năm chiến tranh Quốc
Cộng 1945-1975 sau này. Khốn nỗi họ
lợi dụng việc truyền giáo, toa rập
với các lực lượng Thực dân và Đế
quốc phương Tây, để mưu đồ thôn tính
Việt Nam. Không những họ đă làm đảo
lộn cương thường đạo lư, tập tục cổ
truyền của nền văn hóa dân tộc, mà
họ c̣n gây căm thù chia rẽ giữa
người Việt với người Việt, họ xây
dựng một đạo quân thứ 5 bản xứ làm
đội quân mai phục đưa đường dẫn lối
cho quân đội Pháp sau này. Đây không
phải là một biệt lệ cho trường hợp
Việt Nam mà là một chính sách toàn
cầu của đạo Công giáo La Mă được Toà
thánh Vatican thực hiện một cách
hiệu quả đến mức giáo hoàng John
Paul II ngày nay phải đi nhận tội và
xin lỗi ở khắp nơi từ Nam Mỹ đến Phi
Châu.
Dưới thời chúa Nguyễn Ánh, giám mục
Pigneau de Béhaine đă cùng với Hoàng
tử Cảnh, con trai đầu ḷng của
Nguyễn Ánh, đến Pháp bệ kiến vua
Louis 16 để xin viện trợ và kư hiệp
ước Versailles, hiệp ước đầu tiên
bán nước Việt Nam cho Pháp. Hiệp ước
Versailles tuy không được áp dụng,
nhưng từ đó và nhờ đó, Pigneau de
Béhaine, các giáo sĩ và các sĩ quan
hiếu động, nhiều tham vọng của Pháp
đă khai thác cơ hội để thực hiện âm
mưu thôn tính Việt Nam. Với những
mưu đồ đen tối, với những thủ đoạn
xảo quyệt, họ đă thúc đẩy được chính
phủ Pháp đem quân xâm chiếm Việt
Nam, đặt nền đô hộ gần suốt 100 năm
trời.
Trong tác phẩm nghiên cứu lịch sử
nổi tiếng Việt Nam Pháp Thuộc Sử (in
lại tại Mỹ gần đây), giáo sư Phan
Khoang đă đưa ra những sử liệu rất
rơ ràng về vai tṛ của các giáo sĩ
Kitô giáo.
“Nói về nước Pháp th́ sau cuộc chiến
tranh bảy năm, đă mất nhiều thuộc
địa, ở Ấn Độ chỉ c̣n năm nơi thương
phụ, vậy muốn khôi phục thế lực ở Á
Đông, người Pháp phải gắng kiếm thêm
đất đai ở bên này mới được.
Một giáo sĩ Pháp sẽ t́m cơ hội can
thiệp vào nước Việt Nam và đặt viên
đá đầu tiên cho cuộc xâm nhập nước
ḿnh” (trang 32).
và cũng trong cuốn Sử đó, ông đă đi
vào chi tiết rơ hơn:
“Những người đề xướng đầu tiên cuộc
chinh phục nước Nam là mấy sĩ quan
hải quân của hạm đội Pháp ở biển
Trung Quốc như các ông Cécille,
Rocquemaurel, Fourichon, Jaurès
Maison-Neuve, mấy đại diện ngoại
giao kế nhau ở Toà lănh sự Pháp ở
Macao như các ông Forth Rouen, De
Courcy, Bourboulon; các ông ấy đă
nhiều lần đề nghị với chánh phủ đem
quân can thiệp ở nước Nam.
Nhưng hoạt động hăng hái hơn cả để
làm cho chánh phủ Pháp quyết định là
các Giáo sĩ, nhất là giáo sĩ Huc,
Giám mục Retord, Giáo sĩ Libois và
Giám mục Pellerin.
Giáo sĩ Huc trước đă dâng vua
Napoléon III một kế hoạch thành lập
một công ty để lo việc chinh phục và
khai thác các xứ Cao Ly, Đà Nẵng,
Madagascar; năm 1857 lại dâng một
bức thư nhắc lại Pháp-Nam hiệp ước
1857 và sự cần thiết phải thiết lập
gấp một căn cứ ở nước Nam. Chính lá
thư ấy đă làm cho chánh phủ vua
Napoléon III quyết định đặt một ủy
ban để Nghiên Cứu vấn đề Nước Nam
(Commission de la Cochinchine),
trong ủy ban ấy, Giáo sĩ Huc đă tỏ
bày ư kiến. Sau khi dâng bức thư
kia, Giáo sĩ Huc được vua vời đến
diện yết, và Giáo sĩ đă làm cho vua
tin tưởng ở lời nói ḿnh.
Giám mục Pellerin th́ trong các năm
1851, 1855 đă xin chánh phủ Pháp
giúp đỡ các giáo sĩ, giáo đồ đương
bị bạc đăi và giết hại. Như ta đă
thấy, năm 1856, Giám mục lén đến Đà
Nẵng, gặp thuyền trưởng tàu
Capricieuse.
Nhân đó, Giám mục có dự cuộc thương
thuyết của Montigny và các quan ta,
rồi về Pháp bày tỏ trước công chúng
những cảnh tượng bi thảm mà Giáo hội
ở nước Nam đă phải trải qua. Giám
mục có ra trước Ũy ban Nước Nam,
được diện yết vua Napoléon III nhiều
lần và dâng lên vua hai tờ điều trần
dài.” (trang 115-117)
Hai tờ điều trần mở đầu cho tàu
chiến súng đạn Pháp xâm lăng nước
ta.
Tuy nhiên âm mưu xâm chiếm Việt Nam
thật ra đă có từ thời giáo sĩ
Alexandre de Rhodes kể từ khi ông ta
đến Việt Nam (1624), nghĩa là hơn
200 năm trước.
Ánh sáng của sự thật càng ngày càng
được chiếu rọi vào hồ sơ mật trong
các văn khố của Hội Truyền Giáo Hải
Ngoại Pháp và đă cho phép các sử gia
xác định âm mưu thôn tính Việt Nam
của Thiên Chúa giáo vốn có từ thời
Cố đạo Alexandre de Rhodes chứ không
phải dưới thời Pigneau de Béhaine và
Nguyễn Ánh, như một số người chưa
chịu nghiên cứu kỹ vẫn bị nhầm lẫn.
Alexandre de Rhodes đến Việt Nam năm
1624 và vĩnh viễn rời Việt Nam năm
1645. Thời gian ở Việt Nam ông viết
rất nhiều sách giúp người Âu Châu
t́m hiểu t́nh h́nh chính trị, địa
h́nh, địa vật, sông núi, sản phẩm,
tài nguyên, v.v… của xứ Việt Nam.
Ông cũng hoàn bị công tŕnh của các
Giáo sĩ Bồ Đào Nha trưóc đó, dựa vào
chữ La tinh mà chế ra chữ Quốc ngữ,
để trước hết là cho giáo dân dễ học
Kinh thánh và dễ dàng giao thiệp với
những thừa sai ngoại quốc. Nhiều lần
ông đă bị chúa Trịnh đuổi đi, nhưng
từ Áo Môn, năm 1640 ông t́m cách trở
lại Việt Nam để hoạt động cho đến
năm 1645:
Năm đó, cấp trên bảo ông trở về Âu
châu để xin viện trợ vật chất và
tuyển người truyền giáo mới. Ông đến
La Mă năm 1649 đúng lúc Toà thánh cố
tách rời việc truyền giáo tại châu Á
ra khỏi quyền hành thế tục của Bồ
Đào Nha. Ông tŕnh bày trước Hiệp
Hội Truyền Giáo “Congrégations
Propaganda Fide”, kế hoạch
thiết lập tại Việt Nam một giáo đoàn
thoát khỏi sự bảo trợ của Bồ Đào
Nha. Được Giáo hoàng hân hạnh tiếp
nhận. Vị tu sĩ ḍng Tên xứ Avignon
được lựa chọn trong mục đích đó,
Alexandre de Rhodes bèn quay về
Pháp.
Ông viết: “Tôi tin rằng Pháp, v́
là nước ngoan đạo nhất thế giới,
sẽ cung cấp cho tôi nhiều binh sĩ
để đi chinh phục toàn thể phương
Đông. Cũng như ở đó tôi sẽ có cách
có nhiều Giám mục vốn là các Cha
và các Thầy của chúng ta ở trong
nhà thờ. Tôi rời La Mă ngày
11-9-1652 với ư định đó.”
Về Paris, Alexandre de Rhodes gặp
một nhóm linh mục trẻ liền quyết tâm
biến việc đào tạo này thành sự vụ
riêng của Pháp (affaire Francaise).
Đó là thời kỳ chính trị Pháp bắt đầu
chịu ảnh hưởng sự thu hút của biển
cả. Được Hoàng hậu Pháp và một nhân
vật cao cấp ủng hộ, kế hoạch bị Bồ
Đào Nha tấn công mạnh mẽ, họ viện
dẫn sự bảo trợ hoàn toàn mà năm 1493
Giáo hoàng Alexandre Borgia đă giao
cho họ. Alexandre de Rhodes chết năm
1660 khi chưa thấy được kế hoạch của
ḿnh thực hiện, nhưng cố gắng của
ông đă thành tựu. Năm 1658 La Mă bổ
nhiệm hai vị đại diện Tông Toà người
Pháp là Francois Pallu (1626-1684)
và Lambert De la Motte (1637-1693)
đại diện trực tiếp Giáo hoàng… Lịch
Sử của Hội này (Hội Truyền Giáo Hải
Ngoại Pháp) sẽ gắn liền chặt chẽ với
lịch sử chiếm đóng của Pháp tại Việt
Nam (La Société des Missions
Etrangères fut alors créée dont
l’histoire allait être intimement
liée avec celle de l’implantation
francaise au Vietnam). (Xem Đạo
Thiên Chúa và Chủ nghĩa Thực dân tại
Việt Nam, luận án tiến sĩ của Cao
Huy Thuần, bản Việt văn trang 47,
48, bản Pháp văn trang 9, 10).
Giáo sư sử học Joseph Buttinger
trong Vietnam a Political History
(trang 63, 64) cũng có những nhận
định như của tiến sĩ Cao Huy Thuần,
được tạm dịch ra như dưới đây:
Công cuộc phát triển đạo Thiên Chúa
tại Đông Dương trở thành công tác
đặc biệt của một tổ chức Pháp được
gọi là Hội Truyền Giáo Hải Ngoại
(Society of Foreign Mission) thành
lập năm 1664 tại Paris. Tổ chức này
đi song hành với Công ty Đông Ấn
Pháp do các giáo sĩ Paris, Rouen
thành lập. Ông viết:
“Các tổ chức song hành “thương
măi-tôn giáo đó” mở một trang sử khó
quên cho nền thực dân Tây phương (A
memorable chapter in the history of
Western Colonialism) được thành lập
vào khoảng 1650. Người Pháp mở một
trung tâm thương măi Pháp Việt ở Hà
Nội nhưng những người cư ngụ trong
trung tâm đó là những giáo sĩ cải
trang thành thương nhân người Pháp.
Có vài dịch vụ trao đổi hàng hóa
nhưng mục đích chính là để che đậy
công tác bí mật nhằm tổ chức người
cải đạo (Some trade was made but it
served mainly as a cover for
clandestine proselytizing).
“…Pallu và De la Motte cố gắng tiếp
tục công việc của Rhodes đă bỏ dở
mặc dù bị các chính phủ Đàng trong
và Đàng ngoài cấm giáo sĩ ngoại quốc
xâm nhập vào Việt Nam. Họ chiến đấu
bằng sự cải trang thành thương nhân
để lo chuyện thương măi, nhưng khi
các dịch vụ thương măi bị đ́nh trệ
th́ số phận của họ lại phải tuỳ
thuộc vào sự hoạt động tôn giáo tại
Việt Nam. (“Vietnam a Political
History”, Joseph Buttinger trang 64)
Buttinger c̣n viết:
“Đặc biệt Pallu là một nhà kế hoạch
chính trị, thường đi xa hơn các chỉ
thị của cấp trên. Có thể gọi ông ta
là người sáng chế mô thức thuộc địa
trong đường lối chính trị tại Paris
với phương sách “đă rồi”
(accomplished facts). Ngoài những
công việc đă thực hiện tại Á Châu
trong khuôn khổ của Hội truyền Giáo
mới thành lập, Francois Pallu c̣n lo
việc tại Pháp, hợp tác với chính phủ
khuếch trương ảnh hưởng Pháp tại
Viễn Đông.
Như vậy chính Alexandre de Rhodes là
người đầu tiên đă âm thầm hoạt động
cho mưu đồ thực dân Pháp và lộ rơ
vào năm 1649 khi được yết kiến Giáo
Hoàng. Tuy nhiên, mưu đồ chưa thành
h́nh th́ ông đă chết, sự nghiệp thực
dân của ông ta được giáo sĩ Pallu
tiếp nối.
C̣n ông Yoshiharu Tsuboi, giáo sư
đại học Đông Kinh xuất thân từ Đại
học Paris, trong cuốn “L’Empire
Vietnamien Face à la France et à la
Chine” (trang 31-57) đă viết như
sau:
“…Sau hết người ta đă thảo luận
dài ḍng về những nguyên nhân của
sự can thiệp và xâm chiếm thuộc
địa của Pháp tại Việt Nam, tác giả
này th́ nhấn mạnh vào những nguyên
nhân chính trị, tác giả khác lại
chú ư tới những nguyên nhân kinh
tế.
Phần chúng tôi, chúng tôi muốn
tập trung sự chú ư vào những người
Pháp từng làm việc tại Việt Nam,
qua đó và căn cứ vào quá tŕnh
truyền thông những tin tức về mọi
mặt có liên quan đến Việt Nam để
đưa về Pháp. Làm thế nào để cho
nổi rơ những nguồn thông tin từng
thúc bách chính phủ Pháp phải can
thiệp vào Việt Nam và chiếm lấy
nước này làm thuộc địa (…de mettre
en évidence les sources de
renseignements qui ont déterminés
l’intervention des gouvernements
Francais au Vietnam et la
colonisation de ce pays). Rút lại,
tôi muốn đưa ra mấy yếu tố để trả
lời một câu hỏi đơn giản song quan
trọng: Tại sao không phải Anh Cát
Lợi, Ḥa Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha mà chỉ có một ḿnh nước Pháp
“gắn bó” với Việt Nam? Và mặt khác
tại sao không phải Phi Luật Tân,
Triều Tiên, Nhật Bản, Xiêm La mà
chỉ có nước Việt Nam bị Pháp gắn
bó?”
Câu trả lời của vị giáo sư Nhật Bản
là:
“Trong công cuộc “Phúc âm hóa”
nước Việt Nam có một tổ chức và
năm giáo sĩ người Pháp đă giữ một
vai tṛ quan trọng: Hội Thừa Sai
Paris và các giáo sĩ Alexandre de
Rhodes, Francois Pallu, Pigneau de
Béhaine, Francois Marie Pellerin
và Paul Francois Puginier”.
Như vậy là từ khi đến Việt Nam năm
1624, Alexandre de Rhodes đă nghiên
cứu t́nh h́nh chính trị, kinh tế,
địa dư nước Việt Nam, huấn luyện và
tổ chức những tập đoàn tín đồ Thiên
Chúa giáo bản xứ trung thành với Toà
thánh Vatican rồi trở về Âu châu năm
1645 và qua năm 1646 tŕnh bày kế
hoạch Phúc âm hóa Việt Nam với Giáo
Hoàng và tŕnh bày kế hoạch thôn
tính Việt Nam với chính phủ Pháp.
Nói tóm lại, âm mưu thôn tính Việt
Nam đă do các giáo sĩ sắp đặt từ
1649 (nếu không muốn nói là từ 1624)
chứ không phải từ khi có cuộc gặp gỡ
lịch sử giữa Nguyễn Ánh và Pigneau
de Béhaine năm 1776 (hay 1777) như
nhiều người đă vô t́nh hay cố ư bóp
méo sự thật.
Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam vốn hào
hùng bất khuất, vốn có truyền thống
chống ngoại xâm như một truyền thống
dựng nước và giữ nước, đă từng ba
lần chiến thắng quân Mông Cổ, th́
đời nào chịu làm thân nô lệ cho
ngoại bang. Do đó, từ ngày Pháp đặt
được nền đô hộ, truyền thống đề
kháng chống ngoại xâm bùng lên và
những cuộc nổi dậy chống đối đă liên
tục xảy ra từ Bắc chí Nam để thể
hiện quyết tâm đánh đuổi giặc Pháp.
Những cuộc nổi dậy lúc đầu chỉ do
người Việt lănh đạo như phong trào
Văn Thân, Cần Vương, như Việt Nam
Quang Phục Hội,… nhưng đến thượng
bán thế kỷ 20 th́ chủ nghĩa Mác-Lê
âm thầm len lỏi vào Việt Nam, cho
nên từ đó những cuộc nổi dậy chống
đế quốc Pháp lại có thêm lực lượng
của phong trào Cộng Sản quốc tế nữa.
Trước đó, trong phong trào Cần Vương
yêu nước chống Pháp (1885-1898), Nho
giáo và Phật giáo đă là hai lực
lượng yểm trợ chủ yếu. Giới tăng sĩ
liên kết với các nho sĩ trung quân
ái quốc phát động nhiều cuộc đấu
tranh chống Pháp và tay sai bản xứ.
Điển h́nh là vụ tăng sĩ Vơ Trứ liên
kết với nho sĩ Trần Cao Vân để thực
hiện cuộc khởi nghĩa ở Phú Yên
(1898) mà Pháp và bọn tay sai đă gọi
là “giặc thầy chùa”. Ở miền Bắc có
tăng sĩ Vương Quốc Chính tổ chức
“Hội Trương Chí” thiết lập một màng
lưới tổ chức trong các ngôi chùa từ
Nghệ An tới Bắc Ninh dấy động một
phong trào nhân dân chống quân đội
Pháp và chống văn hoá Pháp; ở miền
Nam, nhiều tổ chức kháng Pháp như
các tổ chức Nghĩa-Hoà, Thiên Địa
Hội, Nhân Ḥa Đường,… kết hợp ḷng
yêu nước với mẫu số chung tín ngưỡng
Phật giáo qua các cơ sở quần chúng
của Phật giáo Ḥa Hảo và Cao Đài để
liên tục chống giặc Pháp xâm lăng
[5].
Đau đớn thay, trong lúc các lực
lượng của nền Tam giáo tiếp tục hy
sinh đấu tranh cho nền Độc Lập nước
nhà th́ khối Công giáo vẫn cứ làm
tay sai cho Thực dân Pháp. Bài “Hội
hè của đồng bào Thiên Chúa giáo”
(xem tác phẩm “Hội Hè Đ́nh Đám” của
Toan Ánh và lời nhận xét của tạp chí
Ánh Sáng Dân Tộc số 2 tháng 11 năm
1989) được trích đăng vào phần Phụ
Lục cuốn sách này chứng minh một
cách hùng hồn việc người Công giáo
Việt Nam vẫn cứ ôm chặt chân người
Pháp, vẫn coi nước Pháp là Mẫu quốc
và vẫn vinh danh cố linh mục Trần
Lục (Phát Diệm), kẻ đă làm tay sai
đắc lực cho quân đội Pháp trong cuộc
xâm lăng Việt Nam, đặc biệt là đă
cùng với 5000 giáo dân giúp Pháp
triệt phá chiến khu Ba Đ́nh của anh
hùng Đinh Công Tráng.
Trong khung cảnh đất nước lúc bấy
giờ, và thể hiện rơ ràng trong đời
sống ở thôn quê cũng như ở thị
thành, ở trong chính quyền cũng như
ở ngoài quần chúng, ba luồng ư thức
đối nghịch nhau như nước với lửa,
như đêm với ngày, chi phối toàn bộ
sinh hoạt quốc gia Việt Nam là ư
thức dân tộc nhân bản của nền Tam
giáo, ư thức độc thần của Kitô giáo,
và ư thức duy vật của chủ nghĩa
Mác-Lê. Thời đô hộ, những mâu thuẫn
ư thức dưới h́nh thái văn hoá đó chỉ
xảy ra ngấm ngầm giữa ba thành phần
dân chúng nhưng chưa đến nỗi khốc
liệt v́ lực lượng Công giáo Việt Nam
vẫn c̣n nắm được ưu thế tuyệt đối
nhờ có bộ máy quyền lực của thực dân
che chở bảo vệ.
Nhưng cuộc tranh chấp của ba luồng ư
thức bổng bộc phát mănh liệt và trở
thành một cuộc sống mái tay đôi sau
Đệ Nhị Thế Chiến khi thế lực thực
dân đế quốc bắt đầu suy yếu và khi
nền móng của nền Tam Giáo bắt đầu
lung lay.
Thật vậy, trong cuộc chiến tranh
Đông Dương thứ nhất (1945-1954),
Cộng Sản kiểm soát và điều động
kháng chiến trong phong trào Việt
Minh, hô hào toàn dân chống xâm lăng
giành độc lập cho nước nhà và trở
thành một lực lượng quần chúng lớn.
C̣n thực dân Pháp th́ mượn chiêu bài
chống Cộng để che dấu âm mưu tái
chiếm Việt Nam bằng cách dựa vào một
chút chính danh của hư vị triều đ́nh
nhà Nguyễn và một chút chính nghĩa
từ hậu thuẫn của hầu hết giáo dân
Việt Nam để cũng trở thành một lực
lượng (chính quyền) lớn. Riêng Phật
giáo và những đại bộ phận khác của
dân tộc, thế không thể dựa được vào
ngoại bang, lực không kết tụ được
thành sức mạnh, đành nằm trong cảnh
trên đe dưới búa và chuyển địa bàn ư
thức và ảnh hưởng vào nông thôn với
ḷng hoài vọng về một ngày thành
công của kháng chiến Việt Nam.
Cho đến năm 1954, khi cả Việt Minh
và Pháp đều kiệt quệ trên cả hai mặt
quân sự lẫn chính trị sau trận đánh
tại ḷng chảo Điện Biên Phủ và sau
gần mười năm quần thảo, th́ Pháp
muốn cầu hoà rút khỏi Đông Dương để
giải quyết nội t́nh băng hoại của
nền Đệ Tứ Cộng Ḥa, đồng thời củng
cố vùng ảnh hưởng tại Bắc Phi; c̣n
Việt Minh th́ trước áp lực của Nga
Sô và Trung Cộng, và v́ nhu cầu ổn
định để bồi dưỡng thực lực, bèn thỏa
hiệp với nhau qua Hiệp Ước Genève.
Đất nước lại hai phần chia cách,
người dân lại hai miền ly biệt v́
hiệp ước này trao miền Bắc cho Cộng
Sản quản lư, c̣n miền Nam th́ tạm
thời vẫn thuộc quyền người quốc gia
chống Cộng trong lúc chờ đợi hai
miền tổng tuyển cử thống nhất đất
nước theo qui định của Hiệp Ước.
Trong lúc đó, Hoa Kỳ đă có chủ định
riêng, họ không kư vào bản Hiệp định
v́ đă thủ sẵn lá bài Ngô Đ́nh Diệm
do Hồng y Spellman và Công giáo quốc
tế bảo đảm, lá bài vốn đă được khai
sinh và nuôi dưỡng tại Mỹ từ cuối
năm 1950. Mỹ dùng lá bài Ngô Đ́nh
Diệm để nhảy vào miền Nam trong ư đồ
thiết lập một tiền đồn tại Đông Nam
Á hầu chặn đứng sự bành trướng của
Cộng Sản quốc tế. V́ vậy, cuộc chiến
tranh Quốc Cộng lại tái diễn trên
đất nước Việt Nam, chỉ thay đào đổi
kép cho một vở tuồng cũ mà thôi!
(Xem thêm The Life and Times of
Francis Cardinal Spellman, trang 238
đến 245)
Phần đầu của cuộc chiến tranh Đông
Dương thứ hai này là một cuộc chiến
đă được cả hai phe lâm chiến tô vẽ
cho một bản chất ư thức hệ mà một
bên là ư thức Mác-Lê duy vật, và một
bên là ư thức Kitô giáo độc thần.
Nghĩa là một bên do đảng Cộng Sản
Việt Nam với những lănh tụ Mác xít
như Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp lănh
đạo tại miền Bắc, một bên do một gia
đ́nh Công giáo của ông Ngô Đ́nh
Diệm, Tổng Giám Mục Ngô Đ́nh Thục và
đảng Cần Lao gồm hầu hết là người có
đạo Công giáo cai trị miền Nam.
Phật giáo Việt Nam, lực lượng đại đa
số trong cộng đồng quốc gia, từ sau
khi đất nước bị chia đôi, đă nhận
thức rơ vai tṛ áp đảo của Cộng Sản
trong mặt trận Việt Minh, bèn bỏ hẳn
chủ trương thân Việt Minh trước kia
như hầu hết các đảng phái quốc gia
khác. Nhưng bất hạnh cho Phật giáo,
muốn tránh vỏ dưa lại đạp phải vỏ
dừa, v́ miền Nam lại bị cai trị bởi
gia đ́nh ông Diệm và đảng Cần Lao
Công giáo, vốn chủ trương tiêu diệt
các đảng phái quốc gia, ḱ thị,
khủng bố và đàn áp các tôn giáo
trong đó có Phật giáo. Bị kẹt giữa
hai kẻ đối nghịch, Phật giáo phải
chịu đựng thống khổ nhục nhă suốt
gần 9 năm trời dưới chế độ độc tài
Công giáo trị Ngô Đ́nh Diệm. Cho đến
1963, t́nh trạng không thể chịu đựng
được nữa, lại nhân v́ ông Ngô Đ́nh
Diệm ra lệnh hạ cờ Phật giáo nhân
dịp lễ Phật Đản, Phật tử, dưới sự
lănh đạo của Giáo hội Phật giáo,
buộc phải vùng lên đấu tranh đ̣i hỏi
b́nh đẳng tôn giáo, đ̣i hỏi tự do
hành đạo như bên Công giáo, mở đầu
cho một cuộc vận động cách mạng dân
tộc. Cuộc đấu tranh của Phật giáo là
cuộc đấu tranh bất bạo động và hợp
ḷng dân nên đă mang một tầm vóc
rộng lớn v́ được sự ủng hộ của đa số
nhân dân của tất cả các tỉnh, thị
miền Nam.
Cuộc tranh chấp công khai của người
Việt Nam trước đây chỉ có hai phe
lâm trận, nay lại có thêm phe thứ ba
là Phật giáo. Cuộc tranh chấp ư thức
hệ này từ nay được lănh đạo bởi ba
lư thuyết chánh trị rơ rệt: lư
thuyết cực tả của Cộng Sản quốc tế,
lư thuyết cực hữu của Kitô giáo quốc
tế và lư thuyết trung dung của Phật
giáo dân tộc. Thật ra, nếu anh em
ông Diệm biết đặt quyền lợi tổ quốc
và dân tộc trên quyền lợi của Công
giáo La Mă, nếu ông Diệm tự coi ḿnh
mang trách nhiệm của một vị nguyên
thủ quốc gia hơn là trách nhiệm của
một tông đồ và biết tạo sự đoàn kết
giữa người quốc gia, th́ trận chiến
tranh Việt Nam đă chỉ là trận chiến
tranh giữa phe dân chủ tự do với phe
Cộng Sản độc tài, và hai tôn giáo
lớn tại Việt Nam đă có thể hài hoà
sống chung để cùng rao giảng từ bi,
bác ái. Bất hạnh cho miền Nam, gia
đ́nh ông Diệm, và do đó chế độ của
ông ta, lại là kẻ thừa kế đích thực
của ba tệ hại lớn nhất: tệ hại phong
kiến quan lại của thời Nguyễn Mạt,
tệ hại hủ nho của một nền Tống Nho
đă đến lúc suy tàn và sâu đậm nhất,
tệ hại độc tôn giáo điều của một
giáo hội Công giáo Việt Nam đang lên
đến cao điểm nhờ sự khai sinh và
nuôi dưỡng của thực dân Pháp từ hơn
100 năm và nhờ sự thừa nhận của
Thiên Chúa giáo quốc tế (Vatican và
Mỹ) như sức mạnh chống Cộng độc nhất
ở Việt Nam. Cho nên ông Diệm và gia
đ́nh của ông cũng đi con đường “Công
giáo hóa” miền Nam như các cố đạo
trước. V́ thế, hậu quả khốc liệt đă
đến với gia đ́nh ông và với miền Nam
sau này.
Như đă nói, định mệnh trớ trêu đưa
đẩy ḍng lịch sử của dân tộc đến một
giai đoạn tranh chấp giữa ba xu
hướng từ tầng chính trị bước lên
kích thước văn hóa trong suốt những
năm giao động của hai thập niên 50
và 60. Ba xu hướng này va chạm vào
nhau và nổ bùng thành những cơn lốc
chính trị và được lănh đạo bởi ba
nhân vật cùng một quê quán Quảng
B́nh. Đó là ông Vơ Nguyên Giáp quê
làng An Xá, ông Ngô Đ́nh Diệm quê
làng Đại Phong và Thượng Toạ Thích
Trí Quang quê làng Diêm Điền.
Làng An Xá cách làng Đại Phong hai
con suối nhỏ và một cánh đồng lầy
lội, c̣n làng Diêm Điền th́ nằm
chếch hẳn một bên và cách đều hai
làng này khoảng 20 cây số. Ba nhân
vật trên đây, từ đời nội tổ trở lên
chỉ là những ḍng họ khố rách áo ôm
thuộc hàng bần dân nghèo dốt. Đến
đời thân phụ ông Diệm là ông Ngô
Đ́nh Khả, nhờ theo các cha cố và
chính quyền bảo hộ Pháp mới được làm
quan. Ông Vơ Nghiễm, thân phụ ông Vơ
Nguyên Giáp chỉ vươn lên tới được
chức cửu phẩm là chức thấp nhất
trong hệ thống quan lại Nam triều,
và phụ thân của Thượng Tọa Thích Trí
Quang th́ măi vào những năm đầu của
thế kỷ 20 mới bắt đầu ăn nên làm ra.
Trong khung cảnh của một vùng đất
khốn khổ và dân t́nh nghèo đói như
tỉnh Quảng B́nh, 40 năm về trước, có
ai ngờ ba đứa bé mở mắt chào đời vào
buổi b́nh minh của thế kỷ thứ 20 lại
có thể trở nên những nhân vật lẫy
lừng làm chao nghiêng lịch sử và làm
sụt sùi dân tộc. Có ai ngờ một cậu
ấm tử sinh trưởng trong một gia đ́nh
quan lại của một chế độ phong kiến
mục nát lại trở nên Tổng thống của
một quốc gia, dù nội dung thực sự là
ǵ, th́ h́nh thức cũng là của một
chế độ Cộng Ḥa Dân Chủ kiểu Tây
phương; có ai ngờ một chú sa di đầu
tṛn áo vuông lại trở nên linh hồn
của một phong trào tôn giáo quần
chúng lớn “làm rung chuyển nước Mỹ”
với tham vọng thực hiện cuộc Tổng
Hợp Đề văn hóa để ḥa giải dân tộc;
và có ai ngờ một cậu học tṛ áo vải
chân đất ê a mấy chữ a, b, c trong
làng quê của một nước thuộc địa lại
trở nên một nhân vật quân sự lẫy
lừng, cầm chân và đánh bại được hai
bộ máy chiến tranh hiện đại của Pháp
rồi Mỹ.
Ba nhân vật tiếng tăm của đất Quảng
B́nh nghèo khó nhưng lạ lùng đó, mỗi
người có tham vọng riêng, có quyền
thế riêng, có hậu thuẫn riêng và dĩ
nhiên có chỗ đứng riêng trong chiều
dài lịch sử nước ta cũng như trong
chiều sâu của ḷng dân tộc ta. Họ có
lư do để chống đối nhau và tiêu diệt
nhau v́ chủ nghĩa, v́ lư tưởng, v́
đặc quyền, đặc lợi phe đảng hay v́
bất cứ một cái “v́” nào khác, c̣n kẻ
viết th́ cũng xuất thân từ vùng đất
cày lên sỏi đá xơ xác đó, nên h́nh
như cũng đă được định mệnh an bài để
không thể trở thành một kẻ đứng bên
ḍng lịch sử, bàng quan và lạc lơng,
mà lại bị cuốn hút vào cơn cuồng
phong của thời đại, nên đều liên hệ
với cả ba nhân vật này mà đặc biệt
là liên hệ khắng khít với ông Ngô
Đ́nh Diệm từ những ngày đầu tiên khi
c̣n là một trong những cán bộ tiên
phong và ṇng cốt của cái tổ chức
mới manh nha của ông ta. Nhưng rồi
sau suốt 22 năm trời kể từ 1942,
chia sẻ với nhau những giây phút
vinh quang và khốn khổ của bao cuộc
thăng trầm vinh nhục, trở thành
chiến hữu trung kiên và cốt cán của
tổ chức (và sau này của chế độ),
cuối cùng kẻ viết lại trở thành một
nhân vật trọng yếu trong công cuộc
lật đổ và chấm dứt chế độ của ông
Diệm vào năm 1963 để cho lư tưởng
ban đầu của ḿnh vẫn là lư tưởng keo
sơn với dân tộc, để cho chuyển ḿnh
của ḿnh gắn bó với chuyển ḿnh của
thời đại.
Ôn lại dĩ văng, và bây giờ ở vào cái
tư thế có thể nh́n lại một cách sáng
suốt và tự do hơn chuỗi biến cố của
lịch sử đất nước kể từ khi làn gió
dữ Tây phương cuộn thổi vào quê
hương trải dài thành gần trăm năm đô
hộ Pháp và hơn 30 năm chiến tranh
Quốc Cộng, lại được dịp lần giở kinh
xưa sách cũ và đàm luận cùng những
người bạn hiền thầy giỏi cùng thế
hệ, kẻ viết lại chủ quan thấy thấm
thía hơn về cái thuyết “Vô Thường”
của đạo Phật và cái thuyết “Lư Số”
của đạo Nho, để từ đó chấp nhận như
là nhân sinh quan khoáng đạt và giải
thoát của chính ḿnh.
Trong cuốn Nho Giáo, học giả Trần
Trọng Kim đă sơ giải cái Tổng Hợp Đề
cần thiết cho sự Đồng Nguyên huyền
diệu của Tam Giáo ở nước ta khi ông
viết:
Có một điều ta nên chú ư là cái tư
tưởng của Nho Giáo đời Tống có lắm
chỗ phảng phất tương đồng với Lăo
Giáo và Phật Giáo. “Số” là cái uyên
nguyên của Nho Giáo do Kinh Dịch mà
ra, mà Kinh Dịch là sách bàn về Lư
Học, chung cả bên Lăo lẫn bên Nho.
Dịch Học cho cái đầu của vũ trụ do
“Động, Tĩnh” mà biến thành Âm Dương
rồi sinh ra vạn vật, vạn vật chung
quy lại trở thành Thái Cực. Đó là
cái lư “Đồng quy nhi thù đồ, Nhất
trí nhi bách lự” của Khổng Tử đă nói
trong Hệ từ. Lư Thái Cực ấy bên Lăo
Giáo gọi là ĐẠO, bên Phật Giáo gọi
là BHUTA TATHATA danh hiệu tuy khác
nhưng cùng đồng một thể. Bởi cái lư
đồng cho nên các học thuyết ấy đều
theo một chủ nghĩa “Thiên địa vạn
vật nhất thể”. Song mỗi học thuyết
đi ra một đường là v́ cách lập giáo
và sự hành đạo khác nhau.
Ư niệm ấy lại được triển khai và lư
giải rơ ràng hơn và hiện đại hơn qua
Lê Văn Siêu trong cuốn “Việt Nam Văn
Minh Sử Cương”, qua Nguyễn Đăng Thục
trong cuốn “Tư Tưởng Việt Nam” và
qua Phạm Văn Diêu với những tài liệu
giảng huấn tại đại học Văn Khoa Sài
G̣n v.v…
Có lẽ chính cái quan niệm Vô thường
và Lư số, tuy bàng bạc và đại chúng
hơn trong dân dă, nhất là cái dân dă
tuyệt đại đa số và tuyệt đại nghèo
khổ của nước ta đă tạo nên sức mạnh
của dân tộc. Cái sức mạnh đă giúp
dân ta vẫn kiên cường trước sự tàn
bạo của thiên nhiên và của quân thù,
cái sức mạnh đă giúp dân ta khoan
dung và nhân nghĩa trước những bạc
bẽo và hận thù của đời sống.
Và có lẽ chính nhờ được nuôi dưỡng
và lớn lên trong ḍng suối văn hóa
Đông phương vốn mang tính chất Tổng
hợp và Hướng nội, kẻ viết mới cảm
nhận và thông hiểu được qua lăng
kính của hai thuyết Vô thường của
nhà Phật và Lư số của nhà Nho, những
thảm cảnh nghiệt ngă và bèo bọt về
cảnh ngộ của cụ Vơ Hiển Nguyễn Hữu
Bài, và đặc biệt của gia đ́nh ông
Ngô Đ́nh Diệm mà kẻ viết sẽ ghi lại
trong tập sách này, những nhân vật
và gia đ́nh đại vọng tộc, bỗng một
phút định mệnh, tán gia bại sản đời
đời chuốc lấy oán cừu.
Văn hóa Tây phương, mà bây giờ con
em ta đang hấp thụ, dù là Tây phương
tư bản hay Tây phương Cộng Sản, vốn
có đặc tính phân tích và hướng
ngoại, th́ khó mà cảm nhận và giải
thích được những hiện tượng nhân
sinh này, lại càng khó mà hiểu biết
và chấp nhận được quan niệm Vô
thường và Lư số của Đông phương, dù
gần đây, trước bế tắc nhân văn của
con người và bên bờ vực thẳm của một
cuộc chiến tranh hạch tâm khốc liệt,
đă có nhiều nỗ lực t́m về phương
Đông để t́m câu trả lời cho cuộc
khủng hoảng nhân văn toàn cầu.
Những nỗ lực đó không những được thể
hiện nơi các nghiên cứu của các nhà
xă hội học và triết gia Tây phương
như Paul Mus (Thousand Armed Kannon,
A Mystery Or A Problem, 1964), John
Blofeld (Bodhi Satva Of Compassion,
1978), Frederic J. Strend
(Understand Religious Man, 1969)… mà
c̣n nổi bật rơ ràng hơn nơi các nhà
khoa học tự nhiên, vốn là thành phần
rường cột và được ưu đăi của xă hội
Tây phương thuần lư và thuần kỹ
thuật. Đứa con trai út của kẻ viết,
trong thời gian học về vật lư không
gian có tặng cho kẻ viết cuốn “The
Tao of Physics” của giáo sư khoa học
gia Fritjof Capra mà kẻ viết trích
dẫn một vài đoạn sau đây để chứng
minh rằng xu hướng t́m về nguồn suối
triết học nhân bản của Đông phương
càng lúc càng mạnh mẽ nơi xă hội độc
thần, duy lư và duy vật này.
Julius Robert Oppenheimer (cha đẻ
bom nguyên tử Hoa Kỳ) tác giả cuốn
“Science and the Common
Understanding” cho rằng:
Những khái niệm tổng quát về sự hiểu
biết của con người, được biểu hiện
bằng những khám phá trong ngành vật
lư nguyên tử, không phải là những
khái niệm có bản chất xa lạ, mới mẻ
hay chưa bao giờ được nhắc đến. Ngay
cả trong nền văn hóa của chúng ta,
những khái niệm này đă từng có một
lịch sử vững vàng. Trong hệ thống tư
tưởng của Phật giáo và Ấn Độ giáo,
những khái niệm này c̣n giữ một địa
vị rường cột và quan trọng hơn nữa,
đem đến cho chúng ta một tấm gương
sáng để noi theo, một niềm khích lệ
tinh thần và sự kiện toàn của nền
triết lư Đông phương sáng suốt [6].
Werner Heisenberg (trong tác phẩm
“Physic and Phylosophy” trang 202)
cho rằng:
Một đóng góp lớn lao của Nhật Bản từ
cuối Thế chiến thứ 2 cho lư thuyết
vật lư là đă cho thấy một sự tương
quan nào đó giữa những tư tưởng
triết lư của truyền thống văn hóa
Viễn Đông và chất triết lư trong lư
thuyết vật lư tư tưởng.[7]
Niels Bohr, bác học gia Đan Mạch,
giải thưởng Nobel, (tác giả cuốn
“Atomic Physics and Human
Knowledge”) cho rằng:
Các tư tưởng gia đă đạt đến mức
thành công như Phật Thích Ca hay Lăo
Tử đă từng phải đối diện với những
khó khăn đó khi ta cố ḥa hợp hai
thế đứng (vừa là khán giả vừa là
diễn viên) của ta trong vở kịch vĩ
đại của kiếp nhân sinh. Có thế ta
mới có thể so sánh được với bài học
rút tỉa từ lư thuyết của ngành vật
lư nguyên tử.[8]
*********** Tất cả quan niệm đó đă
được Fritjof Capra, tác giả cuốn
sách, tổng kết lại trong một nhận
định chắc nịch rằng:
Với triết học phương Tây, môn luận
lư và sự suy luận đă luôn luôn là
những phương tiện chính để phát biểu
tư tưởng triết lư, kể cả theo
Bertrand Russel, những tư tưởng
thuộc lănh vực tôn giáo. Ngược lại,
đối với Đông phương huyền bí, ai
cũng vốn hiểu được rằng sự thật được
thể hiện một cách sâu xa hơn khả
năng diễn đạt của ngôn ngữ b́nh
thường: các nhà hiền triết Đông
phương đă không e ngại ǵ mà không
vượt quá sự hợp lư và những quan
niệm thông thường. Tôi nghĩ rằng đây
là lư do chính khiến cho những mẫu
mực của Đông phương đă gầy dựng được
một nền tảng triết lư kết hợp với
nền vật lư ngày nay hơn là những mẫu
mực của triết lư Tây phương.[9]
Tuy nhiên, những nghiên cứu và hiểu
biết của kẻ viết, dù đến từ kinh xưa
sách cũ, hay tích luỹ từ bạn hiền
thầy giỏi vẫn không phải là và chưa
đủ là những kiến thức xây dựng thành
quan niệm nhân sinh của kẻ viết, nếu
những kiến thức lư thuyết đó đă
không được đối chiếu với những kinh
nghiệm thực tế của chính cuộc sống
kể từ ngày người viết c̣n là một đứa
trẻ nghèo khó trong một gia đ́nh
thanh bần của đất Quảng B́nh xơ xác,
kinh qua bao lên xuống của cuộc đời
và trôi nổi trong thăng trầm của
nhân thế cho đến nay, ở vào cái tuổi
thất tuần, sống xa vời cố quận mà
hồn th́ vương vấn quê xưa.
Chính những kinh nghiệm thực tế
xương máu đó, những mồ hôi và nước
mắt, những vinh quang và tủi nhục,
những thù hận và độ lượng, những
phản trắc và nhân ái, những tà niệm
và tỉnh thức… đă là những xác tín
làm cho kẻ viết tin tưởng hơn vào
tính cách vô thường của cuộc đời và
những vận động cơ cấu của lư số cho
kiếp nhân sinh. Chính trong cái nh́n
Vô thường đó của Đạo Phật và cái
nh́n Lư số đó của Đạo Nho mà người
viết sẽ trang trải lại trên những
trang giấy sau một phần cuộc đời của
ḿnh có liên hệ với cuộc đời của ông
Ngô Đ́nh Diệm và của đất nước.
Những thiếu sót và sai lầm nếu có là
do kiến thức chưa thực thâm sâu hoặc
do kư ức bắt đầu phai nhạt chứ nhất
định không phát xuất từ thiên kiến
giáo điều hoặc cố tâm muốn bóp méo
sự thật. Những cảm xúc và nhận định
mà người đọc thấy thấp thoáng trên
những trang sách là những cảm xúc và
nhận định chủ quan và riêng tư,
nhưng có lẽ nhờ vậy mà sẽ chân thành
và trung thực.
Những thiếu sót và sai lầm, xin được
các bậc cao minh chỉ giáo và bổ
khuyết. C̣n những cảm xúc và nhận
định, nếu có đóng góp được ǵ cho
một cái nh́n lịch sử đúng đắn và
chính xác hơn về một giai đoạn truân
chuyên của dân tộc th́ xin được trao
gởi cho thế hệ Việt Nam tương lai,
thế hệ mà trên cả hai miền đất nước
cũng như bây giờ trong và ngoài
nước, những phản trắc và lừa lọc,
những gian dối và ngụy tạo đă làm
lung lay niềm tin của họ vào con
người, vào lịch sử và cả vào dân
tộc.
*
-o0o-
*
Tôi vốn quê làng Thổ Ngọa, phủ Quảng
Trạch, tỉnh Quảng B́nh, vùng có địa
danh là Ba Đồn, và đă từng được ghi
vào sử sách dân tộc v́ nơi đó đă xảy
ra nhiều trận chiến giữa quân Pháp
xâm lăng và quân Cần Vương kháng
chiến. Quê tôi nằm trên tả ngạn sông
Linh Giang, tục gọi là sông Gianh,
cách phía Nam đèo Ngang 25 cây số,
nơi mà ngay từ cuối đời Hùng Vương
cho đến thời nước nhà bị Pháp đô hộ
đă liên tiếp là vùng chiến địa. Quê
tôi vốn là vùng nước mặn đồng chua,
hàng năm thường bị tai trời ách
nước, lại bị chiến tranh liên miên
xảy ra nên quê tôi nghèo lắm. Tản Đà
Nguyễn Khắc Hiếu, nhân một chuyến
Nam du, khi ngang qua đây, thấy dân
chúng địa phương quá nghèo khổ đă
phải tỏ lời thở than:
…
*********************** Xe hơi
đă tới Đèo Ngang
*********************** Ấy qua
Hà Tĩnh đường sang Quảng B́nh
*********************** Danh sơn
gặp khách hữu t́nh
*********************** Đèo
Ngang ơi hỡi là ḿnh với ta.
…
*********************** Dừng xe
lên đỉnh ta trông
*********************** Mặt
ngoài biển nước bên trong núi
rừng.
*********************** …
*********************** Nhỏ to
mả trắng bên đường,
*********************** Xa xa mé
bể cồn vàng thấp cao.
*********************** Dọc
đường dân chúng biết bao,
*********************** Ruộng
t́nh hữu ái như rào trận mưa.
*********************** Rồng
Tiên cũng họ từ xưa,
*********************** Ba mươi
năm mới bây giờ gặp nhau.
*********************** Nhân xem
áo vải quần nâu,
*********************** Gái trai
già trẻ một màu không hai,
*********************** Văn minh
rày đă bán khai,
*********************** Mà đây
c̣n hăy như đời Hùng Vương…
*
*********** Quê tôi nghèo đến độ dân
chúng bốn mùa chỉ bận quần nâu áo
vải, và chỉ trừ những ngày Tết, Lễ,
được ăn cơm, c̣n th́ phải trộn khoai
mà ăn với mắm cà rau muống suốt năm.
Nhưng h́nh như Tạo hóa có luật thừa
trừ: đă bắt dân chúng đói nghèo, cực
khổ th́ bù lại họ có cái tiết tháo,
thông minh. Quê tôi tuy nghèo nhưng
lại là một đại xă nổi tiếng về văn
học, buổi tiền triều khoa giáp rất
đông. Làng Thổ Ngọa của tôi là một
trong tám làng của tỉnh Quảng B́nh
có nhiều người đỗ đạt, nhiều người
làm quan, và cũng nổi tiếng v́ có
nhiều vị khoa bảng làm quan nửa
chừng rồi cởi áo từ quan về làng
sống cảnh an bần lạc đạo.
Có lẽ v́ làng tôi có nhiều nhà Nho,
nhiều bậc sĩ phu vốn trọng nền Tam
Giáo cho nên dân làng tôi không một
ai cải đạo, mặc dầu phủ tôi v́ gần
với căn cứ quân sự Pháp nên có nhiều
làng theo đạo Công giáo hơn. Và có
lẽ v́ thấm nhuần sâu đậm tư tưởng
Khổng Mạnh, mang khí tiết, danh dự
kẻ sĩ cho nên đă một thời tuy ở rất
gần nhiều đồn lính Tây và bị bao vây
bởi những làng theo đạo Công giáo mà
vào những năm 1885, 1886 phần đông
dân làng tôi đều theo nghĩa quân Cần
Vương dưới quyền lănh đạo của vị anh
hùng Lê Trực. Ông đă biến làng tôi
thành một tiền đồn trực tiếp đối đầu
với quân Pháp, che chở cho chiến khu
của Vua Hàm Nghi trong rừng già
Thanh Lạng, vùng giáp giới hai tỉnh
Hà Tĩnh và Quảng B́nh.
Nội tổ của chúng tôi cũng đă từng
theo đ̣i nghiên bút, theo đường khoa
danh như hồi kư của cháu tôi là Đại
úy Đỗ Thọ, sĩ quan tùy viên của Tổng
Thống Diệm [10] đă tŕnh bày; nhưng
v́ thời thế loạn ly, ông bỏ đèn sách
mà theo việc kiếm cung và trở thành
viên tướng tiên phong cho vị lănh tụ
Cần Vương là cụ Đề Lê Trực. Nội tổ
chúng tôi bị tấn công bởi lính Pháp,
lính Đạo, có giáo sĩ Tortuyaux từ
Đồng Hới ra làm kẻ chỉ đường nên bị
thất trận, giặc Pháp giết không toàn
xác và ném thây xuống sông mất tích.
Thủ hạ của ông chạy thoát được về
báo cho gia đ́nh. Sau này con cháu
họ Đỗ chúng tôi phải lập đền thờ cho
đấng tiền nhân tiết liệt. Cũng sau
này, con cháu họ Đỗ chúng tôi phải
lập đàn cầu cơ, hỏi người hồn phách
siêu lạc, vất vưỡng phương nào để
con cháu xây bia lăng chôn “ḿnh
dâu, đầu gáo” và lập đền thờ cho
đấng tiền-nhân tiết-liệt. Khi cơ
lên, Nội tổ chúng tôi cho biết ông
đă bị mắc mưu bội phản nên bị quân
Tây sát hại. Ông đă viết trên mâm
gạo trắng một bài thơ dài, tả tâm sự
và cảnh ngộ của ḿnh, lời thơ vô
cùng ảo năo thương tâm. Con cháu
chúng tôi học thuộc ḷng để mỗi khi
cúng kỵ cùng tụng lên theo tiếng mơ
hồi chuông như tụng kinh trước bàn
thờ Phật. Bài thơ này chính là chúc
thư cách mạng đầu tiên cho tôi để
sau này lớn lên biết yêu nước, yêu
dân, và biết theo lẽ phải giữ ǵn
khí tiết:
*********************** “Phật tự
Liên Hoa nhân mạc kiến,
*********************** Tăng như
Lô thảo thế nan tầm.
*********************** Gẫm cuộc
đời thêm nhớ bạn tri âm,
*********************** Nh́n thế
sự khôn cầm cơn lệ ngọc.
*********************** Ví thuở
trước bụi hồng không lăn lóc,
*********************** Th́ có
đâu những lúc hiện thời.
*********************** Cũng vừa
may nhờ lượng Bửu Đài,
*********************** Nên mới
đặng văng lai nơi cố quận.
*********************** Nay gặp
buổi phong ḥa vũ thuận,
*********************** Xét phàm
trần trắc ẩn tiền nhân.
*********************** Vậy* mua
vui dạo ít cung đờn,
*********************** Mượn bút
ngọc phô trương sự tích:
*********************** Nhớ thuở
trước tiền triều niên lịch,
*********************** Buổi
thiếu thời chỉ thích cao ngôi,
*********************** Chốn văn
chương cửa Thánh trau giồi,
*********************** Đường vơ
bị theo đ̣i cung kiếm.
*********************** Chí
những tưởng đăng khoa bút điểm,
*********************** Trổ tài
hoa đoạt chiếm công danh,
*********************** Ai ngờ
đâu duyên phận mỏng manh,
*********************** Trong
phút chốc tan tành sự nghiệp.
*********************** Ấy cũng
bởi quá tin t́nh nghĩa hiệp,
*********************** Hóa xui
nên thân kiếp biệt ly trần.
*********************** Hận ḿnh
mang gánh nặng quân ân,
*********************** Mà khổ
nỗi nợ nần chưa báo đáp,
*********************** Th́ đă
vội gió vùi mưa dập,
*********************** Mộng
ngàn thu chôn lấp tấm hồn trung.
*********************** Kể từ
đây bốn bể vẫy vùng,
*********************** Cho thỏa
chí anh hùng khi tử tiết.
*********************** Đức
Thượng Đế đoái thương người tuấn
kiệt,
*********************** Sắc
phong cho Trung Liệt Hiển Nhơn
Thần,
*********************** Dưới
Hoành Nam đi lại kiểm tuần,
*********************** Theo
Liễu Chúa tùy thân hậu giá.
*********************** Nay gặp
hội thừa nhàn thư thả
*********************** Mượn bút
đào lược tả thành chương,
*********************** Vẫn rằng
đây “Tổ thúc Đỗ Đường”,
*********************** Đem tâm
sự phô trương tỏ rơ.
*********************** Ai là kẻ
đem ḷng ngưỡng mộ,
*********************** Xét đơn
tâm báo bổ độ tŕ,
*********************** Bằng như
ai ăn xổi ở th́,
*********************** Cũng
thây kệ thiên tri phó mặc.
*********************** Ḱa lồng
lộng trăng soi vằng vặc,
*********************** Cảnh
tuần hoàn có chắc ǵ đâu,
*********************** Xanh kia
vẫn đội trên đầu
*********************** Khuyên
đừng điên đảo mang câu tội t́nh.
*********************** Kiếp
trần ấy, kiếp phù sinh!”
*********** Theo tinh thần bài thơ
th́ ông Nội tôi v́ hy sinh cho chính
nghĩa dân tộc nên được Thượng Đế
phong sắc làm Thần và được theo Bà
Chúa Liễu Hạnh đi kiểm tuần ở vùng
phía Nam núi Hoành Sơn (Đèo Ngang).
Theo giáo sư Nguyễn Đăng Thục th́ bà
Chúa Liễu Hạnh là vị tiên chúa đại
diện cho nguyên lư “Mẫu” cũng như
Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo) đại
diện cho nguyên lư “Phụ”. Bà Chúa
Liễu Hạnh tượng trưng cho sự trong
trắng, sự khôn ngoan, hiền thảo của
người đàn bà nên được dân chúng Việt
Nam tôn thờ như Quốc Mẫu, có đền thờ
ở Ṣng Sơn (Bắc Việt) và được vua
chúa các triều đại phong sắc. Trong
dân gian có câu tháng tám giỗ Cha,
tháng ba giỗ Mẹ, Cha là Đức Thánh
Trần, Mẹ là Tiên Chúa Liễu Hạnh.[11]
V́ Nội tổ chúng tôi là một vị thần
linh nên dân làng bảo trợ cho con
cháu lập đền thờ ở quê làng để hàng
năm Xuân Thu nhị kỳ cùng đến làm lễ
cúng kỵ. Khi đất nước bị chia đôi
vào năm 1954, họ chúng tôi di cư vào
Nha Trang, lại lập đền thờ trong
khuôn viên ngôi nhà anh ruột tôi là
ông Đỗ Toàn mà nhiều bạn bè của gia
đ́nh chúng tôi ở Nha Trang đă từng
đến chiêm ngưỡng.
Nói về quân Cần Vương ở quê tôi, sử
gia Trần Trọng Kim đă viết:
Vua Hàm Nghi bấy giờ phải ẩn nấp ở
vùng huyện Tuyên Hóa có các con của
Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và
Tôn Thất Thiệp cùng với đề đốc Lê
Trực và cử nhân Nguyễn Phạm Tuân hết
sức giữ ǵn và đem quân đi đánh phá
ở mạn Quảng B́nh và Hà Tĩnh.
Tháng Giêng năm Bính Tuất (1886),
trung tá Mignot đem quân ở Bắc Kỳ
vào Nghệ An rồi chia làm hai đạo.
Một đạo do thiếu tá Pelletier theo
sông Ngàn Sâu vào mạn Tuyên Hóa, một
đạo th́ trung tá Mignot tự đem quân
đi đường quan lộ vào giữ thành Hà
Tĩnh rồi vào đóng ở sông Gianh.
Ở Huế lại sai trung tá Metzniger đem
một toán quân ra tiếp ứng các đạo.
Quân Pháp đóng ở chợ Đồn (Ba Đồn) và
ở Minh Cầm rồi trung tá Metzniger
đem ông Cố Tortuyaux đi làm hướng
đạo để lên lấy đồn Vé. Thế quân Pháp
tiến lên mạnh lắm, quân Cần Vương
chống không nổi, phải tan ra.
Quân Pháp triệu các đạo quân về chỉ
đóng giữ ở Quảng Khê (cửa sông
Gianh), ở Ṛn, ở Ba Đồn mà thôi.
Quân Cần Vương thấy quân Pháp rút đi
lại trở về đóng ở đồn cũ.
Người Pháp cũng biết là thế lực của
đảng vua Hàm Nghi chẳng được là bao
nhiêu, cốt t́m đường mà chiếm dần
địa thế, bởi vậy cho nên không dùng
đến đại binh.
Trước, đại úy Mouteaux ở Quảng B́nh
đă cùng với ông cố Tây Tortuyaux đem
quân đi đánh lấy đồn của Lê Trực ở
Thanh Thủy, nhưng quân của ông ấy
vẫn không tan, cứ đánh phá măi. Đại
úy Moutaux biết ông Lê Trực là người
có nghĩa khí cho nên đại úy vẫn có ư
trọng lắm, đưa thư dụ ông về đầu
thú. Ông Lê Trực trả lời: “Tôi v́
vua v́ nước chết sống cùng một ḷng,
không tham sống mà quên việc nghĩa.”
Từ khi quân Pháp đóng đồn Minh Cần,
ông Lê Trực ra mạn Hà Tĩnh, ông
Nguyễn Phạm Tuân về đóng phía Nam
sông Gianh, ông bị trúng đạn, sống
được mấy ngày th́ chết, quân của ông
bị vây rồi bị bắt cả.[12]
Theo phụ thân tôi và các bậc tôn
trưởng trong làng kể lại th́ sau khi
Nội tổ bị sát hại, quân Cần Vương
tan ră, lính đạo của các cố Tây và
dân các làng Công giáo kế cận như
Đơn Sa, Diên Ḥa, Diên Phúc, Hướng
Phương,… đến bao vây làng tôi, giết
hại có hàng trăm người, đốt phá đ́nh
chùa, miếu vũ. Những ai đă từng đi
qua làng tôi đều thấy dọc theo bờ
sông Gianh hàng mấy trăm nấm mồ vô
chủ, ngổn ngang như g̣ đống, đó là
những ngôi mả của dân làng chết v́
tham dự quân đội Cần Vương hay v́ bị
dân các làng theo đạo Công giáo sát
hại. Vốn sinh sống nơi vùng đất quê
nghèo, sau cuộc kháng Pháp, dân làng
tôi vốn đă nghèo khổ lại càng nghèo
khổ, gian truân hơn.
Vùng tả hữu ngạn sông Gianh là nơi
quân Pháp đă đóng nhiều đồn bót khi
họ đánh chiếm Quảng B́nh cho nên
vùng này có trên hai mươi làng theo
đạo Công giáo… Giáo phận này có cả
tiểu chủng viện ở làng Hướng Phương,
quê hương của linh mục Nguyễn
Phương, tác giả cuốn “The Parade of
American Puppet”, cuốn sách suy tôn
Tổng Thống Diệm anh minh và hằn học
mạt sát tướng lănh trong quân đội đă
lật đổ ông ta.
Thời kỳ kháng Pháp (1946-1954),
trong khi tất cả các làng khác theo
tiếng gọi non sông tham gia kháng
chiến th́ các làng theo đạo Công
giáo ở hai bên bờ sông Gianh đều rào
làng, xây cḥi canh tự nguyện thành
lập những đội Partisans để phụ lực
cho đội quân viễn chinh Pháp, biến
vùng này thành một dăy tiền đồn cho
quân Pháp an toàn đóng ở Đồng Hới,
hướng về Liên khu Tư của Việt Minh.
Linh mục Nguyễn Phương đă từng là
dân vệ trong đội quân Partisans của
làng Hướng Phương trước khi ông vào
Huế tiếp tục học hành. C̣n linh mục
Cao Văn Luận, nguyên viện trưởng
viện Đại Học Huế dưới chế độ Ngô
Đ́nh Diệm, từ Hà Nội vào ở tại vùng
này một thời gian trước khi vào Huế
xin thủ hiến Phan Văn Giáo dạy học ở
trường trung học Khải Định. Khi quân
đội Pháp rút bỏ dăy tiền đồn ở vùng
tả hữu ngạn sông Gianh th́ hầu hết
thanh niên những làng theo đạo Công
giáo cũng sợ hăi rút theo. Phần đông
những thanh niên này gia nhập vào bộ
đội Việt Binh Đoàn miền Trung rồi
trở thành quân đội quốc gia dưới chế
độ Quốc trưởng Bảo Đại. Sau này,
phần đông số binh sĩ đó được tuyển
chọn vào Lữ Đoàn Liên binh Pḥng vệ
phủ Tổng Thống, họ được ông Diệm đặc
biệt lưu tâm ưu đăi v́ họ thuộc
thành phần trung kiên nhất đối với
ông Tổng thống người Quảng B́nh mộ
đạo này.
Sống giữa thời ly loạn, mà cha chú,
bà con phần đông bị giặc Pháp cầm tù
hay sát hại, nước nhà th́ mất chủ
quyền, cha tôi, một nho sĩ nghèo nàn
chỉ c̣n biết kéo dài cuộc đời bất
đắc chí. Tôi ra đời giữa khung cảnh
đất nước đó, trong một gia cảnh
thanh bần và giữa một làng quê bùn
lầy nước đọng. Mẹ tôi v́ lao tâm lao
lực, một nắng hai sương làm lụng cực
nhọc để nuôi chồng và một đàn con
đông đảo, ḿnh mang trọng bệnh lại
thiếu tiền thuốc thang, nên bà đă từ
giă cơi đời khi tôi vừa lên bốn
tuổi, bỏ lại cha con tôi với thảm
cảnh gà trống nuôi con. Tuy nhiên,
qua mấy đời, gịng họ con cháu đều
theo đ̣i ít nhiều kinh sử, cho nên
khi tôi lên năm, cha tôi cũng cố cho
tôi theo học chữ Hán trường ông Tú
gần nhà. Cho đến khi lên chín th́
tôi được gởi lên trường Phủ học chữ
Quốc ngữ và chữ Pháp. Thời gian theo
bậc tiểu học, tôi đă không có những
phút êm đềm của tuổi học tṛ thơ ấu,
lại càng không có những mộng mơ hồn
nhiên của tuổi đến trường, mà cứ mỗi
độ hè đến là phải đi chăn trâu, ngày
nghỉ là phải ra đồng mót lúa, đào
khoai hay xuống sông ṃ tôm bắt cá
kiếm thêm miếng ăn cho gia đ́nh. Sau
khi đỗ tiểu học, tôi định bỏ ngang
sự học v́ thời bấy giờ muốn vào
trung học th́ phải vào Huế, phải tốn
tiền ăn, tiền nhà trọ, tiền sách vở
áo quần, tiền xe cộ đi về. Với gia
cảnh bần hàn mà ngay cả mỗi miếng ăn
đói, mỗi manh áo rách đều là kết quả
nhọc nhằn của mồ hôi và nước mắt của
toàn gia đ́nh, cha tôi biết lấy ǵ
để chu cấp cho tôi theo đuổi việc
học hành mà tốn kém hàng tháng cũng
phải đến 6 đồng bạc, một số tiền lớn
giá trị độ 6,7 chục ngàn thời 1970.
May mắn thay, khi tôi vừa đỗ tiểu
học th́ có bà cô họ vốn biết tính
ham học của tôi bèn từ Huế về làng,
xin cha tôi cho tôi vào Huế tiếp tục
việc học hành. Chồng cô tôi là một
ông Đề lại đă về hưu, có một ngôi
nhà vườn rộng với nhiều cây ăn trái
ở chợ Cống, con cái đă thành gia
thất và đều đi làm việc cho chính
phủ ở các tỉnh xa. Cô tôi đem tôi
về, vừa để giúp tôi tiếp tục việc
học hành, vừa có thêm đứa cháu cho
cảnh nhà bớt phần quạnh quẽ. Tôi
theo học trường trung học tư thục Hồ
Đắc Hàm, ngày nghỉ về nhà giúp cô
dượng tôi nhổ cỏ, tưới cây, quét
tước cửa nhà, vườn tược. Ở cái tuổi
15, đáng lẽ tôi đă có thể vẽ được
cho ḿnh – dù là viển vông – những
ước mơ cao xa và những hoài băo to
lớn, nhưng nh́n lại hoàn cảnh gia
đ́nh và trong bối cảnh của một quê
hương rách nát tang thương, tôi chỉ
ao ước được học hết 4 năm, lấy mảnh
bằng Thành Chung để xin vào ngạch
thư kư ṭa Sứ, ngạch trợ giáo hay
ngạch thừa phái Nam triều như ước mơ
của hầu hết thanh niên nghèo lúc bấy
giờ, không đủ điều kiện học lên tú
tài. Nhưng có lẽ vận số gịng họ nhà
tôi chưa có mả phát về văn học, nên
sắp bước vào năm thứ 4 th́ cô tôi
qua đời. Dượng tôi, phần th́ tuổi
già, phần th́ thiếu người nội trợ,
nên cho thuê ngôi nhà để đi theo con
làm y tá ở Phan Thiết, và không thể
tiếp tục làm mạnh thường quân giúp
tôi ăn học nữa, tôi đành phải dang
dở việc học hành, trả lại giấc mơ
giản dị và tội nghiệp cho nhà trường
để trở lại làng xưa.
Về đến Đồng Hới, tôi vào ty kiểm học
để nộp đơn xin một chức giáo viên sơ
học th́ được cụ Kiểm học Trần Kinh,
thân phụ của giáo sư Trần Vỹ, thâu
nhận vào làm giáo viên sơ học của
một làng trong Phủ với số lương hàng
tháng là 12 đồng do ngân sách hàng
tỉnh đài thọ.
Trong khi việc học của tôi dang dở
như vậy th́ người bạn châu quận của
tôi là anh Phan Xứng, vốn cùng tuổi
và cùng học với tôi ở trường Phủ,
lại may mắn được tiếp tục học cho
đến khi đỗ bằng Thành Chung rồi thi
vào ngạch thư kư toà Sứ. Tôi nhắc
đến anh Phan Xứng, người bạn tri kỷ
của tôi, v́ sau này, qua bao nhiêu
biến cố đổi thay của thời cuộc, anh
với tôi trở nên hai đồng chí trên
trường chính trị kể từ năm 1948, khi
chúng tôi cùng tích cực hoạt động
cho tổ chức của ông Diệm dù lúc bấy
giờ ông Diệm mới chỉ là một chính
khách trùm chăn đợi thời.
Tôi dạy học được một năm, xét thấy
nghề giáo viên trường làng với số
lương quá thấp, vừa không đủ nuôi
thân vừa không giúp được ǵ cho gia
đ́nh, nên nhân có mấy người bạn cùng
học trước kia ở trường Phủ rủ nhau
gia nhập quân đội, tôi bèn nhận lời
theo họ. Tôi thích đời quân ngũ một
phần v́ lương bổng cao hơn, tương
lai bảo đảm hơn, có thể thăng quan
tiến chức và phần khác, v́ là quân
nhân th́ sẽ biết tác chiến, có được
nhiều bạn đồng ngũ, hợp với sở thích
hiếu động của tôi. Hơn nữa, và đây
mới là điều quan trọng nhất, khi gia
nhập quân đội tôi sẽ vừa có tiền
nuôi thân lại vừa có tiền giúp đỡ
cha già mỗi ngày thêm già nua bệnh
hoạn.
Thời Pháp thuộc, bên Nam triều, có
những ngạch lính riêng như lính Lệ,
lính Giản, lính Hộ Thành, lính Khố
Vàng, c̣n bên Bảo Hộ có lính Chính
quy, tức là lính Khố Đỏ, lo việc
chống ngoại xâm và lính Bảo An tức
là lính Khố Xanh (Garde
Indochinoise) lo việc trị an trong
nước. Thật ra tôi thích đi lính Khố
Đỏ hơn v́ nghe nói đi lính ấy sẽ
được dịp xuất ngoại, sẽ được đi Tây,
biết được những chân trời xa lạ cho
thỏa chí giang hồ, nhưng v́ người
tôi ốm yếu không đủ cân lượng làm
một người lính chính quy nên tôi
đăng vào ngạch lính Khố Xanh ở cơ
Bảo An Hà Tĩnh.
Trong nhà binh thời Pháp thuộc,
những quân nhân có tŕnh độ trung
học như tôi đều làm việc ở văn
pḥng, khỏi phải làm tạp dịch nặng
nề. Đến năm thứ sáu, tôi đi học lớp
hạ sĩ quan tại cơ Lưu động Huế, nơi
đào tạo hạ sĩ quan cho toàn thể xứ
Trung kỳ. Sau năm tháng học tập, thi
măn khóa tôi đỗ đầu nên được người
Pháp giữ lại làm huấn luyện viên cho
các lớp hạ sĩ quan tiếp theo. Tôi
cùng Hồ Văn Tố (cựu Thiếu tướng Quân
đội Việt Nam Cọng Ḥa) đă dạy ở đây
mấy năm trường. Hiện nay tại hải
ngoại có rất nhiều người đă từng học
lớp hạ sĩ quan Huế do chúng tôi làm
huấn luyện viên. Dưới thời Việt Nam
Cộng Ḥa họ đă giữ những chức vụ
trọng yếu trong quân đội hay các cơ
quan chính quyền, chẳng hạn như Đại
tá Phùng Ngọc Trưng, Giám đốc nha
Quân nhu Quân Đoàn I, cựu Đại tá Lê
Khương từng là Tỉnh trưởng Quảng Nam
và Tổng Giám đốc Bảo An, ông Lê Kim
Ân từng là nhân viên cao cấp ngành
Công An Cảnh Sát Quốc Gia, vân vân…
(Ba nhân vật trên hiện ở hải ngoại).
Năm 1942, năm dạy lớp hạ sĩ quan tại
Huế, tôi vừa đúng 25 tuổi.
Nh́n lại hai mươi lăm năm của thời
kỳ đầu tiên trong cuộc đời, 25 năm
ngậm đắng nuốt cay của một đứa trẻ
mồ côi mẹ, lớn lên trong lũy tre
làng xơ xác của một làng quê xác xơ,
25 năm nền móng để xây dựng nên cốt
cách và nhân phẩm của ḿnh sau này,
tôi sung sướng và hănh diện được
sinh ra trong khung cảnh của một
nông thôn nghèo nàn, của một gia
đ́nh nho phong khí tiết. Chính những
mồ hôi nhọc nhằn đổ ra trên ruộng
lúa cằn cỗi, sau này, đă dạy cho tôi
bài học về giá trị của lao động;
chính những đêm buốt giá mà manh
chiếu không đủ để che thân, sau này,
đă dạy cho tôi bài học về chống bất
công, chống độc tài. Và cũng chính
những ân t́nh của xóm làng gia tộc
đă dạy cho tôi về nhân nghĩa, về
ḷng độ lượng và bao dung. Cho nên
những thực tại đó của cuộc đời,
những kinh nghiệm sống thật đó của
bản thân, hơn tất cả những bài học ở
trường, hơn tất cả những sách vở mà
tôi đă nghiên cứu, mới là hành trang
quư giá và thân thương nhất giúp tôi
xông pha vào đời với một lương tâm
trong suốt và với một con tim tràn
đầy nhiệt huyết.
Hai mươi lăm năm đầu tiên đó của
cuộc đời lại cũng là khoảng thời
gian mà tôi mở mắt nh́n, lắng tai
nghe kiếp sống đáy tầng của một dân
tộc bị trị. Kiếp sống mà “theo đạo
Chúa, làm cho Tây” th́ tính mạng
được an toàn và cơm áo được tươm
tất, kiếp sống mà sĩ khí không mua
được lon gạo, tiết nghĩa không đổi
được lít dầu!
Cảnh nhà khốn khổ của thời ly loạn
đă khiến tôi dang dở việc học để lăn
vào đời sớm hơn những thanh niên
khác. Nhưng dang dở việc học mà tôi
không ân hận v́ đă được mang những
nhọc nhằn của ḿnh ra phần nào báo
hiếu cho cha già; lăn vào đời sớm mà
tôi không xót xa v́ chính cuộc đời
đă tôi luyện chí khí và nhân cách
cho ḿnh vào cái thời kỳ c̣n trong
trắng nhất, c̣n chưa hệ lụy vào lư
thuyết trừu tượng và giáo điều. Cho
nên sau này, trước bao nghịch cảnh
của cuộc đời, tôi vẫn hoài niệm về
25 năm đầu tiên đó của ḿnh, tôi vẫn
hoài niệm về cha già gà trống nuôi
con, tôi vẫn hoài niệm về làng Thổ
Ngọa tiêu điều đó như là những năng
lực tuyệt vời giúp tôi vượt thoát
lên trên mọi giông băo.
Nhưng vào thời điểm của những năm
đầu của thập niên 40, những ước mơ,
những cao vọng, những rung cảm của
tôi mới chỉ là những ước mơ tầm
thường và tội nghiệp của một người
dân tội nghiệp và tầm thường. Nghĩa
là phải chiến thắng sự nghèo khổ cho
chính gia đ́nh ḿnh, c̣n những Độc
Lập, những ái Quốc, những Kháng
Chiến, những Chống Xâm Lăng… đều là
những tiếng gọi mơ hồ và xa lạ.
Tôi những tưởng cuộc đời của tôi như
thế là đă được an bài, sẽ lớn lên
trong ḷng quân đội Pháp, vô thức
làm một công cụ cho chế độ thực dân
và hài ḷng với những đảm bảo kinh
tế của một người dân bị trị cho đến
ngày nhắm mắt.
Nhưng định mệnh đă đưa đẩy ném tôi
vào những chuyển ḿnh lớn lao của
lịch sử như bao nhiêu người trai trẻ
của thế hệ đó để trong một cơ may
hiếm hoi của đời người, tôi bừng
tỉnh và theo đ̣i những hoạt động
cách mạng vào những ngày mà t́nh
h́nh thế giới đang căng thẳng mở màn
cho thế chiến thứ hai.
*
[1] Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử
lược, tr. 12, 13.
[2] Thái Văn Kiểm, Đất Việt Trời
Nam, tr. 322, 326.
[3] Nhà Xuất Bản Khoa Học, Đại Nam
Nhất Thống Chí, tr. 26.
[4] Nhà Xuất Bản Khoa Học, Đại Nam
Nhất Thống Chí, tr. 60.
[5] Lư Khôi Việt, Hai Ngàn Năm Việt
Nam và Phật Giáo, tr. 255, 256.
[6] Fritjof, Capra, The Tao of
Physics, tr. 4.
[7] Fritjof, Capra, The Tao of
Physics, tr. 4.
[8] Fritjof, Capra, The Tao of
Physics, tr. 4.
[9] Fritjof, Capra, The Tao of
Physics, tr. 33.
[10] Lê Tử Hùng, Nhật Kư Đỗ Thọ, tr.
154.
[11] Nguyễn Đăng Thục, Tư Tưởng VN,
tr. 90.
[12] Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử
lược, tr. 325, 326.
-
VÀO ĐƯỜNG ĐẤU
TRANH
*
Trong những năm đầu
tiên của đệ nhị thế
chiến, có hai biến
động xảy ra ngoài nước
Việt Nam nhưng lại đặc
biệt liên hệ chặt chẽ
đến vận mệnh nước ta
vào lúc đó. Liên hệ
chặt chẽ v́ hai biến
động này xảy ra trong
hai quốc gia và cho
hai dân tộc đă từng
xâm chiếm và đặt nền*
đô hộ trên lănh thổ
Việt Nam.
Biến cố thứ nhất xảy
ra vào ngày 19 tháng 6
năm 1940, khi gót giày
sắt của quân đội Đức
Quốc Xă giẫm nát vỉa
hè thủ đô Balê tiến
vào chiếm điện Elysée
và bắt đầu khống chế
nước Pháp bằng một chế
độ quân quản sắt đá,
chấm dứt uy thế và
quyền lực của Chính
phủ Pháp không những
trên lănh thổ Pháp
quốc mà c̣n làm suy
yếu thực lực và tinh
thần của các bộ máy
chính trị quân sự tại
các nước thuộc địa.
Biến cố thứ hai xảy ra
tại Trung Hoa vào đầu
năm 1940 khi Nhật Bản,
khởi đầu bằng cuộc đổ
bộ ở Lư Câu Kiều vào
năm 1937, điều động
đoàn quân tinh nhuệ
với những vũ khí hiện
đại đánh tan các lộ
quân của Thống chế
Tưởng Giới Thạch, tràn
xuống miền Nam Hoa,
chiếm hai tỉnh Quảng
Đông và Quảng Tây, và
chuẩn bị kế hoạch tấn
chiếm Đông Dương để
hoàn thành các mắt
xích chiến lược của kế
sách địa lư chính trị
“Đại Đông Á”.
Kết quả hỗ tương và
nhịp nhàng của hai
biến cố đó đă chấn
động t́nh h́nh chính
trị tại Việt Nam và
đẩy bộ Chỉ huy Quân sự
của Nhật Bản đến quyết
định đặt yêu sách đ̣i
chính quyền của Pháp
tại Đông Dương phải
chấm dứt giao thương
với Trung Hoa và giành
quyền thiết lập một
lực lượng kiểm soát
việc thực thi quyết
định này tại cảng Hải
Pḥng. Lúc bấy giờ
Decoux vừa mới thay
Catroux trong nhiệm vụ
Toàn quyền Đông Dương
và được Chính phủ
Pháp, trong cơn ngặt
nghèo lúng túng của
chính nội t́nh mẫu
quốc, ủy nhiệm toàn
quyền chỉ huy quân sự,
chính trị để giữ vững
bán đảo Đông Dương.
Ban đầu Decoux nhất
quyết chống đối quyết
định đó của Nhật Bản
nên ngày 22 tháng 9
năm 1940, ngày quân
Nhật từ Quảng Đông
phối hợp hỏa lực mănh
mẽ của lục quân và
đoàn quân cơ giới thần
tốc xua quân đánh tan
một số căn cứ quan
trọng tại biên giới và
tấn chiếm Lạng Sơn
(vốn là bộ Chỉ huy
trung ương của Pháp,
phụ trách tuyến pḥng
ngự Việt Bắc) và bắt
Pháp phải nhượng bộ.
Quân Nhật không những
đă ngang nhiên đóng
quân tại nhiều địa
điểm chiến thuật ở sâu
trong vùng đồng bằng
mà c̣n sử dụng đường
hỏa xa, các hải cảng,
các phi trường và mua
cao su, gạo, nhiên
liệu cùng nhiều sản
phẩm địa phương cần
thiết với giá rẻ để
cung ứng cho nhu cầu
quân nhu và vận tải
của quân đội viễn
chinh Nhật (mà đường
tiếp liệu xa chính
quốc gần 10 ngàn cây
số càng lúc càng khó
khăn). Ngược lại, Nhật
Bản tôn trọng tư cách
và quyền hành cai trị
của Pháp tại Đông
Dương cũng như tư cách
và quyền hành của vua
Bảo Đại tại Trung Kỳ.
Trong biến cố này, v́
những hứa hẹn chính
trị và yểm trợ vũ khí
của Nhật Bản, một lực
lượng Phục quốc quân
do chí sĩ Trần Trung
Lập chỉ huy đă giúp
quân đội Nhật Bản tấn
công căn cứ Lạng Sơn
và chiếm đóng thành
phố này. Đau đớn thay,
sau khi đă được Pháp
nhượng bộ, Nhật phản
bội lực lượng Việt Nam
này và trao lại toàn
bộ đơn vị phục quốc
quân cho người Pháp
như một điều kiện
trong thỏa hiệp
Nhật-Pháp. Chí sĩ Trần
Trung Lập hy sinh và
hầu hết phục quốc quân
Việt Nam kẻ bị tử
h́nh, người bị tù
chung thân, chỉ một số
ít liều ḿnh vượt
thoát được qua Trung
Hoa. [1]
Song song với việc
thiết lập những cơ sở
quân sự và nắm chặt
t́nh h́nh an ninh tại
Đông Dương, Nhật Bản
vẫn khôn ngoan duy tŕ
hệ thống hành chánh và
hư danh của bộ máy bảo
hộ Pháp để có th́ giờ
chuẩn bị cho cuộc đấu
tranh chính trị ở tầng
quần chúng qua cơ quan
phản gián Kempeitai,
qua tờ báo Tân Á xuất
bản bằng tiếng Việt
nhằm tuyên truyền
chống Pháp, đề cao chủ
nghĩa “Đông Á của
người Á Đông”, hô hào
nước Việt Nam “độc lập
trong khối thịnh vượng
Đại Đông Á”. Họ tổ
chức các lớp học Nhật
ngữ nhằm chuẩn bị một
lực lượng cán bộ hành
chánh bản xứ, họ tuyển
mộ một số thanh niên
Việt Nam vào đội Hiến
binh và thông ngôn của
họ, và đặc biệt họ
ngấm ngầm tuyên truyền
cho sự trở về tất yếu
của Kỳ Ngoại Hầu Cường
Để, lúc bấy giờ đang
lưu vong trên đất
Nhật.
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để
nguyên là cháu đích
tôn của Mỹ Đường
Nguyễn Phúc Đan mà ông
này lại vốn là trưởng
nam của Hoàng tử Cảnh.
Quyết định xuất dương
để vận động chống Pháp
của Hoàng thân Cường
Để là vừa để trả nợ
nước vừa để trả thù
nhà. Trả nợ nước là
nhiệm vụ chung của
toàn dân ta trong giai
đoạn bị ngoại thuộc
đó, dù ở giai tầng nào
trong xă hội, dù đứng
ở vị trí nào trong
ḷng dân tộc, ngoại
trừ một thiểu số được
thụ hưởng đặc quyền
đặc lợi của Pháp và
liên hệ máu thịt với
những định chế giáo
quyền và thế quyền tại
mẫu quốc. Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để là Hoàng thân
quốc thích vừa lại là
người thật tâm yêu
nước, yêu dân nên việc
ông xả thân tranh đầu
là điều hiển nhiên.
Trả thù nhà là v́ sau
khi vua Gia Long băng
hà, chi hệ thuộc Hoàng
tử Cảnh v́ đă bỏ đạo
gia tiên, nhục mạ Phật
giáo, lại c̣n bị giám
mục Pigneau de Béhaine
xúi dục theo Công giáo
La Mă qua hành động
đ̣i mẹ bôi phân lên
tượng Phật, nên không
được Hoàng phái đồng ư
cho nối nghiệp cha [2]
mà lại để cho vua Minh
Mạng, một vị vua thông
minh, cương nghị và
chống Pháp trong tinh
thần quốc gia cực đoan
nối ngôi.[3] Chi hệ
Hoàng tử Cảnh bị biếm
hạ xuống thành hàng
thứ dân và phải sống
khổ nhục cho đến năm
1848 mới được vua Tự
Đức gia ân phục hồi
lại tước vị và ban cho
một số tiền phụ cấp
nhỏ nhoi.[4]
Hoàng thân Cường Để
xuất dương qua Nhật,
cùng với cụ Phan Bội
Châu hoạt động chống
Pháp dành độc lập nhằm
quang phục đất nước và
được cụ Phan tôn làm
Minh chủ trong tổ chức
Cách Mạng Việt Nam
Quang Phục Hội do cụ
thành lập. Hai người
con trai của cụ Hoàng
thân là ông Tráng Liệt
và ông Tráng Cử ở lại
quê nhà trong cảnh
nghèo khó, không ai để
nương tựa, lại bị
người Pháp gây khó
khăn nên không tiến
thân được. Ông Tráng
Liệt sau đó được làm
thư kư công nhật ở
pḥng Văn khố ṭa Khâm
sứ Huế, c̣n ông Tráng
Cử th́ đi dạy ở một
trường tiểu học nhỏ
tại Trung phần, trong
chánh sách mua chuộc
của người Pháp.
Lúc bấy giờ, thế chiến
thứ hai đang ở cao
điểm thắng lợi của phe
Trục Đức-Ư-Nhật. Quân
đội của họ đánh tan
các lực lượng đề kháng
yếu ớt và thiếu chuẩn
bị của khối Đồng minh.
Và mặt trận Đông
Dương, v́ bộ máy Bảo
hộ bị gián đoạn với
mẫu quốc, lại bị hăm
dọa bởi lực lượng quân
sự hùng hậu của Nhật,
đă trở thành một cơ
hội thuận tiện cho
những người Việt muốn
đấu tranh để giành độc
lập cho nước nhà.
Mùa xuân năm 1941, sau
gần 30 năm biệt xứ,
ông Nguyễn Tất Thành,
tức Chín Thẩu, tức Ba,
tức Nguyễn Ái Quốc,
cải trang thành một
phóng viên Trung Hoa,
theo đường bộ vượt qua
biên giới Hoa Việt và
cùng với các ông Phạm
Văn Đồng và Vơ Nguyên
Giáp xây dựng một căn
cứ địa an toàn, thành
lập “Việt Nam Độc Lập
Đồng Minh” với chủ
trương đánh Pháp đuổi
Nhật. Tại hang Păc Pó,
ông Nguyễn Tất Thành
đổi tên thành Hồ Chí
Minh [5], chính thức
phát động cuộc chiến
tranh giải phóng dân
tộc, đồng thời bành
trướng chủ nghĩa Cộng
Sản tại Việt Nam, mở
màn cho hai cuộc chiến
tranh Đông Dương đẫm
máu sau này. Trong khi
đó th́ hầu hết các cá
nhân tổ chức thuộc phe
quốc gia lại t́m cách
hợp tác với quân đội
Nhật với hy vọng sẽ
cùng với Nhật Bản lật
đổ Pháp tại Đông Dương
để dành độc lập cho
Việt Nam, một nền độc
lập thực sự hay ngay
cả một nền độc lập
trong khối Đại Đông Á.
Lúc bấy giờ, theo
khuynh hướng này, đại
để ở miền Bắc có những
nhân vật như nhà báo
Vũ đ́nh Dy, bác sĩ
Nguyễn xuân Chữ, bác
sĩ Lê Toàn, cụ Trần
Trọng Kim, cụ Dương Bá
Trạc, hoặc như một bộ
phận đảng Đại Việt của
ông Trương Tử Anh,
đảng Dân Chính của ông
Nguyễn Tường Tam...
C̣n ở miền Nam th́ có
những cá nhân nổi bật
như nhà báo Trần Văn
Ân, ông Nguyễn Văn
Sâm, hoặc khối Cao
Đài, lực lượng Ḥa
Hảo... Riêng tại miền
Trung, Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để từ Nhật gửi
thư về Huế nhờ nhà
cách mạng Huỳnh Thúc
Kháng làm đại diện cho
Ngài để liên lạc và
thảo luận với người
Nhật, nhưng cụ Huỳnh
lấy lư do tuổi già sức
yếu để từ chối lời yêu
cầu này và cụ nhờ
người con trưởng của
Kỳ Ngoại Hầu là ông
Tráng Liệt viết thư
cho cha đề cử ông Ngô
Đ́nh Diệm thay thế Cụ.
Điều đáng lưu ư là 5
năm sau, năm 1946, cụ
Huỳnh lại nhận lời của
ông Hồ Chí Minh để đảm
nhận chức vụ Bộ trưởng
Bộ Nội vụ tại Hà Nội
mặc dù, lúc bấy giờ,
cụ tuổi già sức yếu
hơn nhiều. Có hai lư
do giải thích hai
quyết định có vẻ mâu
thuẫn này trong đời
hoạt động của cụ
Huỳnh.
Thứ nhất là cụ từ chối
lời yêu cầu của Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để v́
lập trường quốc gia
quá khích của cụ. Khác
với người bạn thân là
cụ Phan Bội Châu, cụ
Huỳnh không tin tưởng
vào sự hợp tác chân
thành của người Nhật
nói riêng và người
ngoại quốc nói chung.
Chính v́ lập trường
quá khích đó mà năm
1946, ông Hồ Chí Minh
đă thuyết phục và lôi
kéo được cụ với lá cờ
dân tộc chống xâm
lăng.
Và thứ hai là cụ không
chủ trương đấu tranh
chống Pháp cho một
nước Việt Nam theo thể
chế quân chủ lập hiến
trong tương lai như
ông Diệm mà phải là
một nước Việt Nam
không những độc lập mà
c̣n dân chủ nữa. V́
thế, giới thiệu ông
Ngô Đ́nh Diệm, một
người mà cả ba đời bề
tôi trung thành của
nhà Nguyễn, để làm đại
diện cho Kỳ Ngoại Hầu,
một người Hoàng phái
ḍng chính thống, là
một việc làm mà cụ
Huỳnh thấy vừa hợp lư
vừa thuận t́nh. Lại
vừa nói lên cái thâm
thuư của nhà Nho ở chỗ
cụ vốn đánh giá rất
thấp khả năng và đạo
đức của ông Diệm, nên
mới giới thiệu cái
gánh nặng chính trị đó
cho tổ chức của Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để, mà
cụ vốn chê là có xu
hướng vọng ngoại [6],
nếu không muốn nói là
có khả năng trở thành
một tổ chức phản động
trong cuộc cách mạng
sau này. Khi đề cập
đến quan điểm chính
trị “chống vọng ngoại”
này của một sỹ phu
thời đó, giáo sư
Nguyễn Văn Xuân đă xác
quyết trong tác phẩm
biên khảo “Phong trào
Duy Tân” rằng:
“Cụ Huỳnh Thúc Kháng
sau này không chịu
nhận hợp tác với Nhật
chắc chắn là v́ đă rút
gọn được kinh nghiệm
cũ”.[7]
(Việc này cũng để cải
chính một số luận điệu
rằng nhà cách mạng
Huỳnh Thúc Kháng đă
hợp tác với ông Diệm
lúc bấy giờ).
Sau khi nhận được thư
của Kỳ Ngoại Hầu Cường
Để gởi về đồng ư cho
ông Ngô Đ́nh Diệm làm
đại diện và lănh đạo
một phong trào thân
Nhật tại miền Trung,
ông Tráng Liệt bèn đi
với ông Nguyễn Bá Mưu
đến gặp ông Diệm một
cách bí mật và trao
thư cùng giấy ủy nhiệm
của Kỳ Ngoại Hầu Cường
Để cho ông ta. Ông
Diệm vô cùng hân hoan,
vội viết thư phúc đáp,
tỏ lời cảm tạ và hứa
sẽ hết ḷng phục mệnh
Kỳ Ngoại Hầu. Ông Diệm
lúc bấy giờ đang là
một vị quan mất hết
phẩm hàm, sống ẩn dật
tại Huế.
Ông Nguyễn Bá Mưu là
anh vợ của tôi và bạn
cùng sở với ông Tráng
Liệt và ông Vơ Như
Nguyện, lúc bấy giờ
đều làm Phán sự ở Ṭa
Khâm sứ Huế, ông Mưu
đă có cảm t́nh với
phong trào Cường Để từ
lâu v́ ông với anh em
ông Tráng Liệt đă là
những bạn thân tri kỷ
từ trước.
Với tư cách là đại
diện chính thức của tổ
chức có thế yểm trợ
quốc tế, lại được mang
tính chính thống của
ḍng họ nhà Nguyễn,
ông Diệm mới bắt đầu
dự trù những kế hoạch
chính trị có tầm vóc
toàn quốc hơn và có
nội dung đấu tranh
hơn.
Khi ông Diệm từ quan
(rồi mất hết phẩm hàm)
vào năm 1933, trong
gia đ́nh ông cũng đă
có nhiều tranh luận
sôi nổi, người theo,
kẻ chống quyết định
này. Dư luận trong
giới quan trường tại
Huế có xôn xao một dạo
rồi biến cố đó cũng
ch́m dần vào quên
lăng: người th́ khen
ông Diệm cứng rắn
chống nhà nước Bảo hộ
mà từ quan, người th́
cho rằng ông Diệm
chống nhau với Thượng
thư Phạm Quỳnh bị thua
nên uất ức mà từ chức.
Riêng ngoài quần
chúng, ngay cả tại
Huế, không mấy ai để ư
đến chuyện lên voi
xuống chó trong chốn
Triều Trung v́ họ cho
rằng Nam triều chỉ
đóng vai bù nh́n của
Pháp, việc lên hay
xuống, ở hay đi của
các vị quan lại chẳng
qua là việc tranh
giành địa vị, đua chen
lợi danh chứ không ảnh
hưởng ǵ đến chánh
sách của Pháp, lại
càng không ảnh hưởng
ǵ đến đời sống quần
chúng hay vận mệnh
quốc gia. Thật vậy, kể
từ ngày Kinh đô thất
thủ (1885) làm cho vua
Hàm Nghi bôn đào, rồi
vua Thành Thái bị
truất biếm, và nhất là
kể từ khi vị vua trẻ
tuổi Duy Tân mưu đồ
cách mạng bị thất bại
rồi cả ba vị vua Việt
Nam bị Pháp bắt đi lưu
đày, th́ người dân Huế
đâm ra bi quan. Họ
nh́n về tương lai mịt
mù với tất cả chán
chường và thất vọng.
Họ nh́n rêu phủ trên
thành quách, lau mọc
bên bờ sông, trăng tàn
trên nội điện mà cảm
thương cho vận nước
lao lung.
Hầu như tất cả người
dân xứ Huế đều thuộc
ḷng 5 câu thơ mà sau
này trở thành những
câu ḥ rất phổ biến
trong nhân gian:
Chiều chiều trước
bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu,
ai sầu, ai thảm,
Ai thương, ai cảm,
ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp
thoáng bên sông?
Đưa câu mái đẩy
chạnh ḷng nước non.
Họ mượn câu ḥ để ghi
lại một biến cố đau
buồn của lịch sử và
đồng thời cũng để kư
thác nỗi niềm tâm sự
của ḿnh. Nỗi niềm
thương tiếc một nhà
vua yêu nước mà bị
gian truân, một bậc
trung thần can trường
mà đầu rơi máu chảy,
tâm sự của một người
dân nh́n đất nước suy
vong mà chỉ biết đưa
câu mái đẩy để chạnh
ḷng nước non!
Họ lại càng trở nên
chai lỳ hơn với những
đổi thay của thời cuộc
kể từ khi vua Khải
Định hành xử như một
tên Việt gian vô trách
nhiệm, chỉ biết cúi
đầu vâng dạ người Pháp
để có cơ hội tiêu xài
phung phí công quỹ. Từ
đó về sau, người dân
Huế xem những buổi tế
lễ ở đàn Nam Giao,
những buổi thiết triều
trong Đại Nội với áo
măo xênh xang, tiền hô
hậu ủng cũng giống như
những xuất hát bộ trên
sân khấu của rạp hát
bà Tuần. Họ sống với
hiện tại nhưng ḷng
th́ chỉ hoài niệm về
quá khứ, một quá khứ
mà quê hương c̣n vắng
bóng ngoại nhân đô hộ,
c̣n có vua quan là
minh quân. V́ vậy,
việc ông Diệm từ quan
hay ông Quỳnh thắng
thế không làm xúc động
hay gây được sôi nổi
trong đời sống vốn rất
trầm mặc của họ.
Mùa xuân năm 1942, khi
những cơn sóng ngầm
bắt đầu chuyển động
trong sinh hoạt chính
trị của người Việt th́
tôi được thuyên chuyển
về Huế làm huấn luyện
viên các lớp Hạ sĩ
quan. Đối với tôi, về
Huế là về kinh đô của
quốc gia, là về với
cung đài diễm lệ của
trung tâm đất nước. V́
thuở thiếu thời chỉ
biết lũy tre làng và
đồng ruộng khô, thời
niên thiếu th́ bận học
hành, lớn lên gia nhập
quân đội chỉ biết kỷ
luật thép và hàng rào
sắt, nên khi được đổi
về Huế, tôi đă lợi
dụng dịp này để ngao
du khắp các ngơ ngách
của kinh thành.
Phong cảnh đất Thần
kinh vừa u trầm cổ
kính, vừa thơ mộng hữu
t́nh rất phù hợp với
tinh thần vốn bảo thủ
và nặng ḷng hoài cổ
của tôi. Những ngày
nghỉ lễ, tôi thường
lang thang đi bộ viếng
thăm những danh lam
thắng cảnh của kinh đô
như hồ Tịnh Tâm, chùa
Thiên Mụ, đàn Nam
Giao, cửa Ngọ Môn,
thôn Vĩ Dạ, vườn Ngự
Viên, cầu Bạch Hổ, núi
Ngự B́nh, chùa Diệu
Đế, làng Kim Long,
trường Quốc Tử Giám...
ở đâu và lúc nào, tôi
cũng t́m được những
rung cảm tuyệt vời. Từ
tiếng chuông thu không
của những buổi chiều
bảng lăng đến tiếng ḥ
năo nùng trong sương
mờ của buổi sáng sông
Hương, từ cô gái giặt
áo ở mặt nước ven sông
đến tà áo tím Đồng
Khánh của mùa thu tan
trường về, từ hàng cau
thôn Vĩ đến tiếng
thông reo đỉnh Ngự,
tất cả đều có sức thu
hút lạ lùng và đều để
lại trong tâm tưởng
tôi những h́nh ảnh
không quên. Lần băng
cầu Ḷ Rèn để đi Phú
Cam , tôi đi qua nhà
ông Diệm và thầm cảm
phục vị Thượng thư đầu
triều, tuy c̣n trẻ
tuổi mà không màng
danh lợi, dám cởi áo
từ quan trong giai
đoạn mà nhiều người
bán hết gia tài để mua
chút phẩm hàm, hoặc
dâng vợ cho giặc để
kiếm chức tri huyện.
Đời sống của tôi tại
Trung tâm Huấn luyện
Hạ sĩ quan càng ngày
càng trở nên căng
thẳng và bực bội.
Những va chạm với
những quân nhân Pháp
trong lúc điều hành
công tác giảng huấn,
những hành vi hống
hách kỳ thị của họ đối
với quân nhân Việt
Nam, những áp bức và
bất công trong đời
sống trong và ngoài
doanh trại, và nhất là
thái độ khúm núm sợ
hăi đến độ tội nghiệp
của một số đồng ngũ
người Việt Nam... như
biến thành giọt nước
cuối cùng làm tràn ly
nước của thời thơ ấu
thôn quê của tôi, mà
chết chóc, đốt phá,
hăm hiếp, tù đày do
người Pháp và tay sai
của họ gây ra đă chồng
chất bấy lâu nay.
Cho đến một hôm vào
tháng 6 năm 1942, tôi
đang dạy tác chiến cho
một trung đội khóa
sinh tại chân núi Ngự
B́nh th́ ông Trần Văn
Dĩnh (sau này là Giám
đốc Thông tin dưới
thời ông Diệm và hiện
đang sống tại Hoa
Thịnh Đốn, Hoa Kỳ [8])
và một người lạ mặt
đến thao trường xin
gặp tôi. Ông Dĩnh tự
giới thiệu tên họ của
ḿnh và người lạ mặt
(mà bây giờ tôi mới
nhớ ra tên Nguyễn Huy
Tuân), một công chức
của Chính phủ Bảo hộ.
Ông Dĩnh đặt ra một số
vấn đề thời sự để thẩm
định ḷng yêu nước và
quyết tâm dành độc lập
cho nước nhà của tôi,
rồi phân tích t́nh
h́nh chính trị thế
giới và Việt Nam cho
tôi nghe để đi đến kết
luận là chế độ bảo hộ
của Pháp tại Việt Nam
thế nào cũng phải chấm
dứt và Việt Nam thế
nào cũng được độc lập.
Tuy c̣n trẻ, nhưng ông
lư luận rất khoa học
và ông đặt vấn đề rất
đúng đắn, cách tŕnh
bày của ông, tuy rất
tổng quát, nhưng lại
phù hợp hoàn toàn với
những suy tư của tôi
từ lâu.
Trả lời thắc mắc v́
sao ông biết tôi và
dám đến để làm công
tác tuyên truyền này
th́ ông cho hay là đă
điều nghiên và thiết
lập được danh sách
những quân nhân Việt
Nam tại Huế từng chứng
tỏ có ḷng yêu nước và
dám xả thân chống
Pháp. Trước khi về,
ông khuyên tôi nên gia
nhập một tổ chức đấu
tranh để đi vào hoạt
động cách mạng và hẹn
gặp tôi vào một dịp
khác chưa định trước
được.
Ngay tối hôm đó, tôi
liền đến nhà ông
Nguyễn Bá Mưu kể rơ
lại trường hợp gặp gỡ
và nội dung buổi nói
chuyện. Nghe tôi nhắc
đến tên ông Trần Văn
Dĩnh, anh vợ tôi cười
rồi cho biết rằng tuy
chưa quen Dĩnh nhưng
ông biết Dĩnh là em
ruột ông Trần Văn
Hướng, con của cụ Tú
Trần Văn X, và cũng
như ông, cả ba cha con
đều ở trong phong trào
ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để do ông Diệm
lănh đạo. Nghe anh tôi
nói rơ, tôi mới yên
tâm v́ trong ḷng vẫn
ngại Dĩnh là nhân viên
trá h́nh của sở Mật
thám Pháp.
Mấy tuần sau, cũng tại
chân núi Ngự B́nh,
Dĩnh lại t́m đến gặp
tôi. Lần này th́ Dĩnh
cho biết thẳng là đang
làm việc cho ṭa Lănh
sự Nhật Bản tại Huế và
hoạt động rất an toàn
v́ được cơ quan Hiến
binh của Nhật (lúc bấy
giờ đóng ở trường
trung học Hồ Đắc Hàm
cũ) bảo vệ kỹ càng.
Trong lần nói chuyện
này, chúng tôi thảo
luận sâu xa hơn nhưng
rơ ràng là Dĩnh t́m
cách tác động tinh
thần yêu nước chống
Pháp của tôi mà cụ thể
là theo Nhật để đánh
đổ Pháp. Theo Dĩnh th́
thế nào Nhật cũng đảo
chánh Pháp và cả vua
Bảo Đại, để đưa Kỳ
Ngoại Hầu về nước cầm
chính quyền với ông
Diệm làm Thủ tướng
Chính phủ.
Vốn đă được nghe anh
vợ tôi phân tích t́nh
h́nh chính trị đương
thời trong chiều hướng
đó với những triển
vọng thật lạc quan,
lại đang ẩn ức v́ cứ
phải ôm những hoài băo
của ḿnh trong ḷng mà
vẫn phải làm việc
chung với người Pháp,
nay nghe Dĩnh phân
giải và thúc đẩy hoạt
động với một sách lược
cụ thể trong một tổ
chức có thật, tôi rất
xúc động và hứa sẽ
cùng hoạt động với ông
ta. Tôi liền được Dĩnh
trao cho công tác bí
mật theo dơi hoạt động
của những sĩ quan Pháp
trong đơn vị của tôi,
theo dơi số lượng vũ
khí xuất nhập kho và
t́m cách kết nạp thêm
nhiều đồng chí khác.
Sau một vài lần nữa
tiếp xúc với Dĩnh,
cuối cùng tôi được anh
vợ tôi và ông Tráng
Liệt giới thiệu tôi
vào tổ chức của ông
Ngô Đ́nh Diệm. Lúc đó
là vào mùa thu năm
1942.
Anh vợ tôi mà một số
các vị Mục sư Tin Lành
(hiện sống ở Los
Angeles) cũng như ông
Vơ Như Nguyện (hiện
đang sống tại Mỹ) đều
biết là một người tính
t́nh ngay thẳng, cương
nghị và có chí lớn. V́
nhà nghèo, nên sau khi
đỗ bằng Thành Chung,
ông bèn thi vào ngạch
Thư kư ṭa Sứ để có
phương tiện sinh sống.
Vừa mới có đứa con đầu
ḷng (sau này là cố
Chuẩn tướng Nguyễn Bá
Liên) được 15 ngày th́
vợ chết, ông rất buồn
nên t́m nguồn an ủi
trong giáo lư của đạo
Tin Lành. Thân phụ của
ông là cụ Nguyễn Bá
Dĩnh, đỗ Cử nhân và
được bổ làm Tri huyện
Yên Thành tỉnh Nghệ
An. Được mấy năm, chán
cảnh quan trường, lại
bất măn v́ triều đ́nh
bất lực trước ngoại
nhân, cụ từ quan về
làng mở trường dạy học
sống cảnh an bần lạc
đạo. Người con gái đầu
của Cụ, tức là chị
ruột của ông Nguyễn Bá
Mưu, lấy người con
trai của cụ Cử Lưu
Trọng Kiến ở huyện Bố
Trạch, vốn là thân phụ
của hai thi sỹ Lưu Kỳ
Linh và Lưu Trọng Lư,
mà người em đă đi vào
lịch sử thi văn nước
nhà với bốn câu thơ
bất hủ [9]:
Em không nghe mùa
thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ
ngác
Đạp trên lá vàng
khô...
C̣n thân phụ tôi tuy
không đỗ đạt cao nhưng
cũng có công dùi mài
kinh sử nên người
trong huyện gọi là ông
“Đầu Xứ”, c̣n chú tôi
th́ vào đến Tam Trường
mới hỏng cho nên nơi
hương đẳng đ́nh trung
cũng được liệt vào
hàng những nhà Nho
trọng vọng. V́ thế, cụ
cử Nguyễn Bá Dĩnh và
gia đ́nh tôi trở nên
bằng hữu thân thiết
trong khung cảnh của
một làng quê nghèo nàn
nhưng nề nếp. Lạ ǵ
thanh khí lẽ hằng, cụ
Cử và cha chú tôi vốn
là những môn đồ Khổng
Mạnh vào cái thời mà
văn minh Tây phương
đang công phá những
thành tŕ văn hóa và
chính trị cuối cùng
của nếp sống nho
phong, nên trở thành
bạn tâm giao tri kỷ
một cách dễ dàng, và
cũng nhờ đó mà hai nhà
mới trở thành thông
gia và tôi trở thành
em rể của ông Nguyễn
Bá Mưu.
Một mặt nhờ gịng máu
bất khuất của tổ tiên,
mặt khác nhờ tấm gương
sĩ khí của nhạc gia và
anh vợ, nhưng sâu sắc
nhất là nhờ làm việc
trực tiếp với quân đội
Pháp nên càng ngày tôi
càng thấy rơ chính
sách hà khắc và thâm
độc của người Pháp,
cũng như thái độ ḷn
cúi nhục nhă của quan
lại An Nam. Chính
những sinh họat thực
tế hàng tháng, hàng
ngày, hàng tuần đó...
chính những chứng kiến
trong công việc, trong
đời sống đó... đă nẩy
mầm và nuôi dưỡng
trong tâm hồn tôi cái
quyết tâm khước từ và
chống lại sự cai trị
của một chính quyền
ngoại nhân trên đất
nước. V́ thế khi ông
Tráng Liệt và ông Trần
Văn Dĩnh tổ chức tôi
vào phong trào của cụ
Cường Để với mục đích
tối hậu là giành lại
độc lập và chủ quyền
cho quốc gia trong tay
chính quyền Pháp th́
tôi hăng hái nhận lời
gia nhập ngay, dù ư
thức được rằng là một
quân nhân, nếu bị Pháp
khám phá ra, tôi có
thể mang tội tử h́nh
như một số quân nhân
khác trong phong trào
“Đầu độc Hà thành”,
trong vụ “Khởi nghĩa
Yên Bái”, trong vụ
“Đội Cung ở Nghệ
An”...
Lúc bấy giờ, ư thức
đấu tranh cách mạng
hay quan niệm một đảng
đấu tranh cách mạng,
đối với tôi, không
phải là nhu cầu cấp
bách nhất. Quyết định
của tôi chỉ được vận
động bằng t́nh cảm căm
thù Pháp đô hộ và chỉ
bằng t́nh cảm đó mà
thôi, nên bất kỳ một
tổ chức nào, Việt
Quốc, Tân Việt hay
ngay cả đảng Cộng Sản,
nếu đến tuyên truyền
và kết nạp, tôi cũng
sẵn sàng gia nhập
ngay.
*Thế rồi vào một đêm
mưa phùn gần cuối năm
1942, khoảng 11 giờ
khuya, ông Tráng Liệt
đến nhà tôi và rủ đi
gặp ông Ngô Đ́nh Diệm.
Chúng tôi đi dọc theo
tả ngạn sông Hương
hướng về phía Phú Cam
và dừng lại trước ngôi
nhà cổ kính, từ đường
của gia tộc Ngô Đ́nh.
Được người vào báo,
ông Diệm ra tận bậc
cấp trước cửa nhà để
đón chúng tôi. Đó là
lần đầu tiên tôi gặp
ông Diệm. Ông rất trẻ
so với tước vị và
những huyền thoại về
ông. Dù đă khuya, ông
vẫn mặc áo lương, khăn
đóng, giày hạ, ra mời
chúng tôi vào pḥng
khách chính, nơi có bộ
bàn ghế mây xưa mà chú
Phẩm, người đầy tớ
trung thành của ông,
đă dọn ra ba chén nước
chè xanh để mời khách.
Dưới ngọn đèn mờ,
trong một pḥng khách
cổ kính, trước một
nhân vật đă từng là
Thượng thư đầu triều,
đă từng cởi áo từ
quan, và bây giờ đang
thay mặt Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để cầm đầu một
tổ chức chống Pháp,
tôi có cảm tưởng như
ḿnh lạc vào một thế
giới khác, xa lạ hẳn
với thực tế sôi động
của t́nh h́nh đất
nước. Sau khi mời
chúng tôi dùng nước
chè xanh, ông Diệm bắt
đầu hỏi về gia thế và
sinh hoạt của tôi,
cũng như hỏi về đời
sống và tinh thần của
quân nhân Việt Nam
trong mối tương quan
với quân nhân Pháp.
Có lẽ nhờ đă được ông
Tráng Liệt giới thiệu
trước về hoàn cảnh và
ước vọng của tôi cũng
như có lẽ nhờ có người
anh vợ của tôi vốn đă
là thành viên trong tổ
chức, nên sau phần mở
đầu đó của câu chuyện,
ông Diệm tỏ ra tin
tưởng và thân t́nh với
tôi hơn. V́ vậy, ông
bắt đầu kể chuyện đời
ông như để trang trải
tâm sự hơn là để khoe
khoang nhằm thuyết
phục: ông nói nhiều về
giai đoạn ông làm Tri
huyện rồi Tri phủ mà
công tác chính là cùng
với các trưởng đồn
người Pháp đi thanh
sát ở làng quê, hoặc
khám phá và lùng bắt
những tổ chức Cộng sản
thời 1929-30 khi phong
trào Xô Viết Nghệ Tĩnh
bị đàn áp. Ông cũng
tŕnh bày chuyện ông
từ bỏ quan trường v́
người Pháp đă không
thực tâm khai hóa nhân
dân Việt Nam. Cuối
cùng, ông đi vào trọng
tâm của buổi nói
chuyện là khơi dậy
ḷng yêu nước, nung
nấu chí căm thù thực
dân và tay sai như Bảo
Đại và ba ông Thượng
thư đồng triều mà ông
thù ghét nhất, là Phạm
Quỳnh, Thái Văn Toản
và Hồ Đắc Khải. Ông
cũng đề cập đến cuộc
đời và con đường hoạt
động của Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để và của cụ
Phan Bội Châu để kết
thúc câu chuyện đă quá
dài.
Suốt buổi gặp gỡ, ông
Tráng Liệt và tôi nghe
nhiều hơn nói. Riêng
tôi, tuy có ư chờ ông
tŕnh bày về tổ chức
mà ông đang phụ trách
nhưng v́ ông không đề
cập đến nên tôi cũng
chưa tiện hỏi. Đêm đă
quá khuya, ông Tráng
Liệt bèn xin phép ra
về. Ông Diệm tiễn
chúng tôi ra tận cửa,
hẹn gặp lại tuần sau
và dặn kỹ không nên
vào bằng cửa chính để
tránh sự theo dơi của
mật thám Pháp mà nên
đi bằng cửa bí mật ở
vườn sau gần đường xe
lửa, lối vào chỉ có
một số đồng chí được
ông cho biết mà thôi.
Trên đường về, trong
cái rét buốt của xứ
Huế buổi trọng Đông,
tôi cảm thấy xúc động
lạ thường v́ buổi gặp
gỡ đó. Buổi gặp gỡ mà
tôi cho như là một xác
tín cá nhân về tư cách
của một đảng viên
trong một phong trào
cách mạng, có một lănh
tụ thuộc gia đ́nh vọng
tộc đă dám từ quan để
đấu tranh cho quê
hương dân tộc. Trong
cái tâm trạng mang
mang của một người từ
nay có một tổ chức để
nương dựa, có một lănh
tụ để được hướng dẫn,
có một lư tưởng để đấu
tranh, tôi vẽ ra cho
ḿnh những ước mơ sáng
tươi trong cái tươi
sáng chung của tương
lai dân tộc.
Từ đấy, hầu như mỗi
tuần lễ tôi đều đến
ngôi nhà ở Phú Cam,
vốn được xem như trụ
sở trung ương của tổ
chức, để sinh hoạt và
thảo luận cùng ông
Diệm và các đồng chí
của ông. Trong số này
có hai người cốt cán
là ông Hoàng Xuân Minh
làm Tham tá ở ṭa Khâm
sứ Huế và ông Nguyễn
Tấn Quê làm thư kư cho
sở Mật thám Trung kỳ.
Hai người này đặc biệt
được ông Diệm trọng
vọng và tin tưởng,
nhất là ông Nguyễn Tấn
Quê, tuy chỉ mới đỗ
Trung học nhưng là
người được ông Diệm
xem như mưu sỹ chính.
Sau gần nửa năm hoạt
động với ông Diệm và
các đồng chí, tôi đi
đến nhận xét rằng sinh
hoạt và phương thức tổ
chức của nhóm về mặt
nội dung lẫn cơ cấu có
vẻ là một phong trào
chính trị hơn là một
đảng cách mạng chặt
chẽ. Nhóm không có một
hệ thống tổ chức với
các cơ cấu và chức
năng rơ ràng, không có
chủ thuyết chỉ đạo
cũng như không có một
sách lược đấu tranh
với các kế hoạch giai
đoạn nhất định. Tại
các tỉnh, và đặc biệt
tại Huế, bất cứ ai
đồng ư chung chung với
chủ trương thân Nhật
và kính phục ông Diệm
th́ đều có thể gia
nhập phong trào của
ông. [10]
Nói tóm lại, ngay từ
lúc đó, tôi đă đánh
giá được bản chất của
tổ chức là một bản
chất chính trị vận
dụng chứ không phải
cách mạng đấu tranh
như các đảng khác. Tổ
chức đó được kết tinh
sau lưng uy tín của
một lănh tụ và hoạt
động theo sự biến
chuyển của t́nh thế.
Dù nhận định như vậy,
tôi vẫn quyết định hợp
tác với ông Diệm v́ lư
do t́nh cảm nhiều hơn
là v́ chọn lựa chính
trị có ư thức. Công
tác của tôi được ông
Diệm giao phó là tổ
chức một lực lượng
quân nhân Khố xanh
trong khắp các cơ binh
thuộc xứ Trung kỳ, bao
gồm từ Thanh Hóa vào
đến Phan Thiết và các
tỉnh Cao Nguyên. Về
quân nhân Khố đỏ th́
do Thiếu úy Phan Tử
Lăng đang phục vụ
trong thành Mang Cá ở
Huế phối hợp với ông
Đội khố đỏ Nguyễn Vinh
(mà sau này, khi ông
Diệm mới chấp chánh,
là Tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn Danh dự,
tiền thân của Liên
binh Pḥng vệ Tổng
Thống phủ) phụ trách
việc liên lạc và thông
tin các cơ sở quân sự
đóng tại Huế và Phú
Bài.
Đặc biệt ông Diệm giao
cho tôi thảo một kế
hoạch hoạt động chi
tiết để phối hợp với
quân đội Nhật Bản khi
nào Nhật làm cuộc đảo
chánh tấn công quân
Pháp, và một dự án dài
hạn khác về việc tái
tổ chức quân đội Bảo
An cho quốc gia sau
khi Hoàng thân Cường
Để lấy lại chính quyền
trong tay người Pháp.
Hai dự án này, nhờ sự
hội ư của hai ông
Hoàng Xuân Minh và
Nguyễn Tấn Quê, và
nhất là nhờ được sử
dụng những tài liệu
quốc pḥng của Pháp
tại Trung tâm Huấn
luyện, đă được tôi
hoàn tất đúng kỳ hạn
và tŕnh cho ông Diệm
nghiên cứu. Độ hai
tuần sau ông cho biết
là đă đọc kỹ và đồng ư
hoàn toàn.
Nhờ uy tín và vị thế
huấn luyện viên của
các khóa hạ sỹ quan,
tôi thiết lập được
liên lạc và tổ chức
một hệ thống các tổ
gồm từ 5 đến 7 người
trong suốt 20 cơ binh
của miền Trung. Những
học tṛ, những bạn bè
của tôi được tổ chức
vào phong trào Cường
Để do ông Diệm lănh
đạo, nhiều người được
các ông Vơ Như Nguyện,
Trần Văn Hướng hay
Phùng Ngọc Trưng hiện
ở hải ngoại biết rơ.
Ngoài ra, lợi dụng 15
ngày nghỉ phép thường
niên của tôi, ông Diệm
c̣n giao cho tôi công
tác đi khắp các tỉnh
Trung Kỳ để liên lạc
với các đồng chí có uy
tín và thực lực khác.
Tôi đă từng đi Thanh
Hóa liên lạc với cụ
Nguyễn Trác (là thân
phụ của kỹ sư Nguyễn
Luân và cũng là nhạc
phụ của luật sư Nghiêm
Xuân Hồng một nhân sỹ
có tinh thần cách mạng
đă từ chức Tri huyện
để hoạt động) đi Hà
Tĩnh liên lạc với ông
Trần Văn Lư đang làm
Tuần vũ tại đây, đến
Quy Nhơn gặp bác sỹ Lê
Khắc Quyến, đến Phan
Thiết gặp ông Trần
Tiêu, một người đồng
hương đang giữ chức
Kinh lịch, v.v...
Nhờ những chuyến đi
này và kinh qua những
lần tiếp xúc với các
vị đàn anh, tôi được
học hỏi nhiều thêm về
ư thức chính trị và
khả năng phân tích
t́nh h́nh. Cũng nhờ
những chuyến đi này,
tôi được biết không
những người trong giới
quan lại ủng hộ ông
Diệm, đặc biệt là cụ
án sát Phan Thúc Ngô ở
Quảng B́nh, mà c̣n có
một số trí thức tân
học, tuy không ở trong
phong trào, nhưng cũng
có cảm t́nh với ông
Diệm như bác sỹ Ung Vi
ở Phan Thiết hay kỹ sư
Đặng Phúc Thông ở Nha
Trang. (Kỹ sư Thông
sau này giữ chức Bộ
trưởng Công Chánh một
thời gian ngắn trong
Chính phủ đầu tiên của
Việt Minh)...
Ngoài hai công tác
chính này, riêng tại
Thừa Thiên, tôi cũng
đă đẩy mạnh công tác
kinh tài cho tổ chức
bằng cách tuyên truyền
và vận động một số các
thương gia giàu có
t́nh nguyện đóng góp
cho ông Diệm. Có người
đóng góp 4 đồng bạc
Đông Dương mỗi tháng,
riêng có một vị lương
y (là thân phụ của
Trung Tá Nguyễn Mễ,
hiện ở Mỹ) t́nh nguyện
đóng góp hết 6 đồng
(mỗi đồng bạc Đông
Dương vào thời đó, có
giá trị rất lớn. Một
kí gạo chỉ 25 xu).
Trong suốt thời gian
này, không bao giờ tôi
thấy ông Diệm rời khỏi
Huế cũng không bao giờ
thấy ông xuất hiện
hoạt động trong giới
chính trị công khai
hoặc bí mật. Hàng ngày
ông đi lễ nhà thờ và
buổi chiều thường mặc
áo lương đen đi lang
thang một ḿnh dọc bở
sông Phú Cam để hóng
mát. Cũng trong suốt
thời gian này (cho đến
năm 1948), dù thường
đến nhà ông Diệm tôi
cũng không hề thấy mặt
ông Ngô Đ́nh Cẩn. Tôi
gặp ông Nhu hai lần:
một lần vào năm 1943
trong dịp tang lễ của
cụ Thân Thần Tôn Thất
Hân (khi tôi dẫn trung
đội lính đi dàn chào
lúc làm lễ động quan),
và lần thứ hai, gặp cả
hai vợ chồng tại văn
pḥng Văn Khố ṭa Khâm
sứ Huế khi tôi đến
thăm ông Tráng Liệt.
Ông Tráng Liệt cho
biết cứ hai hay ba
ngày, bà Nhu lại đến
văn pḥng chồng để gặp
gỡ và nói chuyện. Bà
Nhu đến bằng xe kéo
gọng vàng do một người
đầy tớ thân tín và lực
lưỡng kéo. Xe kéo của
bà Nhu là một trong
những chiếc xe sang
nhất ở Cố Đô mà các
cậu Ấm và cô Chiêu
trong triều đ́nh nhà
Nguyễn thường dùng để
di chuyển trong thành
phố.
Về trường hợp ông Nhu,
ông Diệm thường dặn ḍ
chúng tôi: “Chú ấy
theo Tây, ham ăn sung
mặc sướng, không thiết
ǵ đến chính trị hay
cách mạng đâu, các ông
chớ nên gặp gỡ hay
thân thiết với chú ấy
làm ǵ”. Lúc đầu chúng
tôi thực sự ngạc nhiên
v́ lời dặn ḍ lạ lùng
đó, tự hỏi tại sao anh
th́ muốn làm cách mạng
mà em th́ lại hủ hóa
như vậy; nhưng từ từ
chúng tôi mới hiểu
được rằng lời dặn ḍ
đó là một trong những
biện pháp an ninh phát
xuất từ t́nh cảm gia
đ́nh mà ông Diệm chỉ
muốn một ḿnh chịu
trách nhiệm và hậu quả
về hoạt động thân Nhật
và chống Pháp của ông,
chứ không muốn làm
liên lụy cả gia đ́nh.
Hơn nữa, ông Nhu vừa
mới ở Pháp về, và cũng
vừa lập gia đ́nh với
một người vợ c̣n son
trẻ (bà Nhu sinh năm
1924) của Hà thành hoa
lệ, ông ta cần có thời
gian để củng cố địa vị
của một công chức Bảo
hộ cao cấp và củng cố
đời sống gia đ́nh mà
người vợ vốn quá tự do
tân thời, tự thấy bị
tù túng mà lại c̣n
phải ganh đua giữa một
kinh kỳ có nhiều mệnh
phụ quư phái.
Cuối năm 1943, những
hệ quả chính trị và
kinh tế của đệ nhị thế
chiến thật sự ảnh
hưởng đến hoạt động và
đời sống hàng ngày của
những người như tôi.
Giá sinh hoạt leo
thang vùn vụt, đồng
bạc Đông Dương bị mất
giá thảm hại, gạo từ
25 xu lên đến một đồng
một kư khiến lương
hàng tháng 40 đồng của
một quân nhân trung
cấp như tôi quả thật
không đủ cho tiểu gia
đ́nh tôi đủ sống. V́
vậy, và cũng v́ không
muốn vướng bận thê nhi
trong hoạt động đấu
tranh của ḿnh, tôi đă
phải bùi ngùi quyết
định cho vợ tôi và hai
đứa con trai nhỏ về
quê sống với bên
ngoại. Về quê, tuy đời
sống thanh đạm và
thiếu thốn hơn, tuy có
phải tảo tần cực khổ
một nắng hai sương
nhưng ít ra vợ con tôi
c̣n có một mảnh vườn
để trồng rau cỏ, một
hồ nước có tôm cá, một
rừng tràm có củi nứa
và nhất là có bà con
thân thuộc để có thể
đắp đổi sống qua ngày.
Buổi biệt ly, nh́n
chiếc xe đ̣ cũ kỹ chập
chùng đưa vợ con về cố
quận thân thương,
người cán bộ 26 tuổi
đời như tôi không khỏi
có một chút xao xuyến
xót xa. Được biết
quyết định đó của tôi,
ông Diệm hân hoan lắm
và khen tôi làm cách
mạng th́ phải biết hy
sinh cá nhân, phải
biết thoát ly gia đ́nh
để có nhiều th́ giờ và
năng lực cống hiến cho
đại cuộc.
Đại cuộc đó, hay nói
đúng ra là những vận
động chính trị của
nhóm ông Diệm trong
khuôn khổ cuộc tranh
chấp ảnh hưởng giữa
Nhật và Pháp tại Việt
Nam, vẫn tiếp tục
thăng trầm theo nhịp
độ thắng hay bại của
phía người Nhật. Quân
đội Nhật Bản, chiến
thắng oanh liệt trong
những năm đầu của thế
chiến, từ cuối năm
1943 trở đi, đă trở về
thế pḥng ngự thụ
động. Và tại các mặt
trận lớn ở Ấn Độ, Miến
Điện, Nam Dương...
quân Nhật hứng chịu
những thất bại quân sự
nặng nề đến nỗi phải
rút lui ra khỏi những
quốc gia bị chiếm
đóng... Đầu xuân năm
1944, chuyện phải đến
đă đến, mật thám Pháp
và Thượng thư Phạm
Quỳnh tổ chức vây bắt
ông Diệm mà nếu không
nhờ Hiến binh Nhật,
với khả năng t́nh báo
của sở gián điệp
Kempeitai, kịp thời
can thiệp để cứu thoát
trong đường tơ kẽ tóc
th́ có lẽ sinh mạng và
chính tổ chức của ông
Diệm đă không c̣n.
Nguyên tổ chức có một
đồng chí tên là Khang
làm thư kư ở sở Bưu
điện Huế, đêm đó trực
ở pḥng điện tín đến
khuya mà vẫn c̣n thấy
viên trưởng sở bưu
điện người Pháp ở lại
đích thân thảo và đánh
điện tín, ông bèn t́m
cách lén đọc được một
số công điện mà trong
đó có công điện mang
nội dung về việc bắt
ông Diệm. Ông liền
thông báo cho một anh
em có liên hệ đến bên
t́nh báo của Nhật biết
tin này. (Cũng có thể
có nhiều đường giây
khác nữa mà tôi không
được biết).
Khoảng gần 11 giờ đêm
th́ ba người Hiến binh
Nhật Bản đến nhà ông
Diệm ở Phú Cam và độ
nửa giờ sau th́ họ ra
về trước cặp mặt xoi
mói của nhân viên mật
thám Pháp đang canh
chừng nhà ông Diệm.
Măi đến quá nửa đêm,
các nhân viên mật thám
Pháp mới bố trí xông
vào nhà bắt ông Diệm
nhưng họ chỉ gặp được
bà cụ thân mẫu của
ông, người đầy tớ tên
Phẩm và một người hiến
binh Nhật Bản... Th́
ra ông Diệm, vốn người
thấp lùn, nên đă giả
trang mặc quân phục
Hiến binh trốn theo
cùng với hai người
hiến binh Nhật kia ra
đi từ lâu, làm mất
công viên chánh sở mật
thám Đông Dương là
Pierre Arnoux từ Hà
Nội vào đích thân điều
khiển công tác vây bắt
nhân vật thân Nhật Bản
quan trọng nhất tại
Trung Kỳ. Nhóm mật
thám Pháp dọa dẫm bà
cụ thân mẫu ông Diệm,
tra tấn anh Phẩm một
hồi rồi hậm hực ra về.
Hiến binh Nhật đưa ông
Diệm về tạm trú tại
ṭa Lănh sự Nhật của
ông Ishida [11] vài
tiếng đồng hồ rồi chở
ông đến thẳng trụ sở
Hiến binh tại trường
Hồ Đắc Hàm cũ để được
an toàn hơn và để
tránh những va chạm
ngoại giao có thể có
với người Pháp. Cụ
Thái Văn Châu (nguyên
Phó chủ tịch Pḥng
Thương mại Sài G̣n và
hiện tị nạn tại Pháp),
lúc bấy giờ là một
thương gia có khuynh
hướng thân Nhật và
đang được đấu thầu
cung cấp thực phẩm cho
quân đội Nhật, biết
tin nên vội vàng vào
thăm và mang một ít
đ̣n chả Huế cho ông
Diệm dùng chung với
khẩu phần đạm bạc tại
sở Hiến binh Nhật.
Theo lời cụ th́ ông
Diệm có vẻ suy tư và
nỗi lo âu lộ hẳn ra
mặt.
Được vài ngày, người
Nhật liền hộ tống ông
Diệm bằng ô tô nhà
binh vào Đà Nẵng và từ
đó chở ông bằng phi cơ
quân sự vào Sài G̣n.
Ban đầu họ để ông tạm
trú tại trụ sở trung
ương của sở Hiến binh
Nhật, sau đó họ di
chuyển ông đến văn
pḥng chính của Đại
Nam Công ty, vốn là bề
mặt ngụy trang của Bộ
chỉ huy trung ương của
ông Matsuisita, trùm
gián điệp của Nhật tại
Đông Dương. Thời ông
Diệm làm Tổng thống,
ông Matsuisita trở lại
miền Nam Việt Nam làm
ăn buôn bán và đă giúp
ông Diệm rất đắc lực
trong quan hệ ngoại
thương giữa VNCH và
Nhật Bản. Sau ngày chế
độ ông Diệm bị toàn
dân lật đổ, ông
Matsuisita bị Hội Đồng
Tướng Lănh làm khó dễ
trong vấn đề tài sản
và các thương vụ của
ông tại Sài G̣n, nhưng
v́ nghĩ t́nh xưa giữa
ông Diệm và ông ta,
tôi đă t́m cách can
thiệp và giúp đỡ.
Sau ngày ông Diệm bị
bắt hụt và được Nhật
che chở mang đi mất
vào Sài G̣n, viên
chánh sở mật thám
Trung Kỳ Perroche, vốn
cụt một tay và nổi
tiếng tàn ác, bắt đầu
nghi ngờ có nhân viên
ch́m của ông Diệm
trong sở mật thám Huế,
bèn yêu cầu với trung
ương cho biệt phái ông
Lombert, viên chánh sở
mật thám Vinh vốn
thông thạo về t́nh
h́nh đảng phái và nhân
sự Việt Nam, vào Huế
và thành lập một ủy
ban đặc nhiệm phụ
trách điều tra “vụ án
Ngô Đ́nh Diệm”. Ông
Hoàng Đồng Tiếu, (hiện
ngụ tại Portland, tiểu
bang Oregon), lúc bấy
giờ c̣n đang có cảm
t́nh với cá nhân ông
Diệm và đang làm phán
sứ tại sở mật thám
Huế, tuy có thông báo
sự kiện này cho một số
người trong tổ chức
ông Diệm biết, nhưng
cũng không tránh khỏi
t́nh trạng một số
chiến hữu lần lượt bị
sa lưới mật thám Pháp.
Trước hết là cụ Án Sát
Phan Thúc Ngô bị lột
chức và bắt giải vào
giam ở Huế, rồi đến
ông Tuần vũ Hà Tĩnh
Trần Văn Lư suưt bị
bắt nhưng nhờ có bà vợ
là bà con gần với Nam
Phương Hoàng Hậu nên
chỉ bị hạ tầng công
tác, thuyên chuyển vào
Phú Yên và vĩnh viễn
không được đề nghị
thăng thưởng. Ông Vơ
Như Nguyện và ông
Lương Duy Uỷ (sau này
làm tỉnh trưởng Phú
Yên và Vĩnh B́nh dưới
thời ông Diệm), hai
đồng chí thân thiết
nhất với tôi lúc bấy
giờ, cũng bị bắt đày
lên Dakto. Ngoài ra,
một số các đồng chí
khác tại Huế và các
tỉnh Trung Kỳ, người
th́ vào ṿng lao lư,
người th́ bị truy
lùng.
Về phía quân nhân bên
Khố đỏ chỉ có mấy
người Đội cao cấp bị
bắt giữ, c̣n bên Khố
xanh, từ Thanh Hóa vào
đến Phan Thiết, bị mật
thám Pháp bắt giữ rất
nhiều. Có người bị tra
tấn đến gẫy cả hai hàm
răng và xương quai hàm
như anh đội Lộc ở Phú
Bài, có người bị đánh
què chân như anh đội
Xự ở Quảng Trị. Đa số
các hạ sĩ quan Khố
xanh bị bắt và giam
tại các nhà lao Bái
Thượng ở Thanh Hóa,
nhà lao Lao Bảo ở
Quảng Trị hoặc tại các
nhà lao khác ở Cao
nguyên Trung phần.
Riêng phần tôi, v́ là
người lănh đạo toàn bộ
nhóm quân nhân Khố
xanh nên bị bắt giam
và tra tấn tàn bạo ở
sở mật thám Huế và
tống giam ở lao Thừa
phủ gần hai tháng,
trước khi bị đày lên
Di Linh để biệt giam
trong một nhà lao do
lính Thượng canh giữ.
Đầu năm 1945, quân đội
Nhật Bản bị phản công
và bị dồn vào thế
tuyệt vọng tại các mặt
trận Trung Hoa cũng
như trên các tuyến
pḥng vệ Đông Nam Á.
Trong khi đó, trên
chiến trường Âu Châu,
sau cuộc đổ bộ ngày
6/6/1944 tại bờ biển
Normandie của quân lực
Đồng Minh, tướng De
Gaulle dẫn toàn bộ
Chính phủ lâm thời từ
Alger trở về Pháp nắm
chính quyền vào tháng
8 cùng năm đó.
Trên mặt trận Thái
B́nh Dương, tướng Mac
Arthur đă chiếm xong
Phi Luật Tân và đang
tung quân tấn chiếm
các quần đảo pḥng vệ
chiến lược của xứ Phù
Tang, yểm trợ cho một
kế hoạch tái chiếm
Đông Dương của liên
quân Anh-Pháp. Trước
nguy cơ có thể bị nội
công ngoại kích đó,
quân đội Nhật Bản tại
Việt Nam bèn đảo chánh
chính quyền Pháp vào
đêm 9/3/1945, bắt toàn
quyền Decoux và thiết
lập nhiều trại tập
trung để giam giữ công
chức và quân nhân Pháp
tại nhiều địa điểm
trên toàn lănh thổ
Đông Dương. Tại Bắc
Kỳ, một số đơn vị Pháp
chống lại cuộc đảo
chánh này đều bị đàn
áp, kẻ th́ bị bắt, kẻ
th́ trốn qua Tàu.
Thế là sau gần 100 năm
đô hộ Việt Nam, tiến
hành một chính sách
thực dân tàn ác để
khai thác tối đa tài
nguyên và nhân lực của
nước ta, tiến hành một
chính sách xâm lược
văn hóa xảo quyệt để
phá nát truyền thống
của dân ta, tiến hành
một chính sách cai trị
dựa trên bạo lực và
phân hóa, chỉ cần một
đêm và một đêm thôi,
toàn thể bộ máy thống
trị của Pháp hoàn toàn
bị sụp đổ. Huyền thoại
về “nhiệm vụ khai hóa”
đầy nhân đạo của các
quan toàn quyền và các
vị cố đạo theo lá cờ
Tam tài rơi rũ xuống
đất.
Biến cố lịch sử đêm
mồng 9/3/1945, và nhất
là hai ngày sau đó,
khi vua Bảo Đại tuyên
bố “Việt Nam độc lập”
trong khối “Thịnh
vượng chung Đại Đông
Á”, dù không phải là
kết quả của một cuộc
đấu tranh thực sự do
người Việt chủ xướng,
dù sau đó sẽ đưa Việt
Nam đến một chân trời
đầy lọc lừa và cạm
bẫy, đầy máu và nước
mắt, đầy đau đớn và
tủi nhục, nhưng ngày
đó, tự nó, có một ư
nghĩa lịch sử lớn như
một trở ḿnh của lịch
sử, có tác dụng mạnh
trong sự thức tỉnh
sảng khoái của nhân
dân cả nước sau 100
năm dài ch́m đắm trong
giấc mộng bị trị hăi
hùng.
Tôi xin trích lại ở
đây một đoạn hồi kư
của một nhân chứng đă
sống trong ngày đó và
đă bộc bạch một cách
thành thật tâm sự của
ḿnh trước, sau và
trong ngày đó. Chứng
nhân này là ông Lư
Chánh Trung, một tri
thức Công giáo, từ sau
1975 đă ở lại Việt Nam
làm việc cho chính
quyền Hà Nội. Hồi kư
đó được trích từ tác
phẩm “T́m về Dân tộc”,
xuất bản tại Sài G̣n
vào năm 1967. Tôi cũng
cần phải nói rằng với
tư cách một người đă
chống lư thuyết và chế
độ Cộng sản từ 30 năm*
nay bằng chính máu
xương của ḿnh, với tư
cách là người đă từng
cầm đầu một bộ phận về
an ninh đối đầu với
người Cộng Sản, với tư
cách là chiến hữu,
đồng chí, bạn bè của
những nhân vật Việt
Nam đă từng là nguyên
thủ của hai nền Đệ
Nhất và Đệ Nhị Cộng
Ḥa, ở vào thời điểm
nầy, trong buổi hoàng
hôn của cuộc đời nơi
xứ lạ quê người, khi
đọc hai tác phẩm “T́m
về Dân tộc” và “Tôn
giáo và Dân tộc” của
Lư Chánh Trung, tôi
vẫn không giám quả
quyết ông Trung có
thật tâm theo cộng sản
hay không? Cũng như
tôi vẫn không giám quả
quyết là những người
như ông Trung, suốt
chiều dài của cuộc
chiến 30 năm
Quốc-Cộng, dù đứng bên
này hay bên kia chiến
tuyến, có thật sự là
đă có tự do và sáng
suốt để lựa chọn hay
không? Hay tất cả chỉ
muốn thể hiện ḷng yêu
nước của ḿnh nhưng
lại bị xảo quyệt vận
dụng bởi những ngôn
từ, những ảnh tượng,
những thủ đoạn của các
thế lực oan nghiệt
khác.
Đoạn hồi kư của ông Lư
Chánh Trung, dù được
viết lại hơn 20 năm
sau, vẫn nói lên được
rất rơ ràng sức chấn
động lạ lùng của biến
cố đêm 9/3/1945:
Từ trường Taberd Sài
G̣n ra Huế, tôi được
học ở trường
Providence, thọ giáo
với các linh mục của
hội Mission Etrangère.
Nói đến xứ Trung Kỳ,
nghe xa lạ làm sao. Từ
nhỏ chí lớn, tôi chỉ
biết có cờ Tam sắc,
bây giờ ra Huế mới hay
rằng xứ An Nam c̣n có
một lá cờ, lá cờ vàng
sọc đỏ (thuở đó mới có
một sọc thôi...)
Nhưng lá cờ đó không
gây cho tôi một sự
hănh diện nào mà trái
lại: Tất cả những vật
đó có vẻ mốc meo, mục
nát, lỗi thời, không
c̣n một chút ǵ liên
hệ với tôi.
Tôi c̣n nhớ buổi chào
cờ trọng thể đầu niên
học tại trường
Providence, ṭa Khâm
sứ và Chính phủ Nam
triều đều cử đại diện
đến tham dự. Bên người
Pháp là hai ông sĩ
quan trẻ tuổi hùng
dũng trong bộ quân
phục trắng tinh. Bên
người Việt có hai cụ
sồn sồn bụng phệ, khăn
đóng áo rộng thùng
th́nh lẹp xẹp đôi dép
hàm ếch, lại c̣n phe
phẩy cái quạt đồi mồi
ngay trong lễ thượng
cờ. Chúa ơi! Trông mới
chán đời làm sao!
Trường Providence tân
tiến hơn trường
Taberd, có một nền
giáo dục hoàn bị, cởi
mở hơn trường Taberd.
Các Cha gần gũi học
sinh hơn các sư huynh.
Nơi đây tôi đă hấp thụ
những kiến thức vững
chắc để có thể hiểu
biết nền văn hóa Tây
phương là nền văn hóa
quân b́nh, nhân bản và
sâu sắc. Tôi cũng đă
thấm nhuần nền đạo lư
Kitô giáo để cảm thấy
cái đ̣i hỏi (ít ra
cũng được như thế)
hướng cuộc đời ḿnh về
một cái ǵ tốt.
Nền giáo dục này hội
điều kiện cho tôi
“thành người”. Chỉ
tiếc một điều là “con
người đào tạo nơi đây
không phải là con
người Việt Nam”! Quê
hương vắng bóng ngay
giữa ḷng quê hương!
Trong mấy năm trường,
chúng tôi đă sống bên
ngoài dân tộc, bên lề
lịch sử. Cho nên đêm
mồng 9/3/1945, khi
tiếng súng của quân
đội Nhật hoàng đ́ đùng
báo hiệu sự cáo chung
của nền đô hộ Pháp,
chúng tôi chẳng hiểu
mô tê ǵ.
Vài ngày sau, học sinh
trường Khải Định, Đồng
Khánh biểu t́nh mừng
độc lập: Việt Nam Độc
Lập! “Việt Nam” đă lạ
tai rồi, “Độc Lập”
nghe c̣n quái đản hơn.
Ngày biểu t́nh, chúng
tôi ṭ ṃ đi xem, nh́n
thiên hạ vác biểu ngữ
reo ḥ “Việt Nam! Việt
Nam!” mà chẳng thấy
vui mừng chi, chỉ nghe
ấm ức và bực bội và
cảm thấy ḿnh bơ vơ,
lạc loài giữa đám
đông. Tôi c̣n nhớ một
đứa trong bọn tôi đă
nói lớn “Độc lập là
cái cóc ǵ?” Câu hỏi
xấc xược, ngô nghê này
diễn đạt cái tâm trạng
chung của chúng tôi
lúc ấy. Quả t́nh chúng
tôi không hiểu...[12]
Hai mươi năm sau, câu
hỏi Độc lập là cái cóc
ǵ? mới nổ lớn thành
câu trả lời rực lửa
trong ḷng Lư Chánh
Trung để ông “T́m về
với Dân Tộc”, để khỏi
vắng bóng giữa ḷng
quê hương... Là một
tín đồ Công giáo La Mă
mộ đạo, là một tri
thức xuất thân từ các
trường Ḍng mà nội
dung giáo dục thiên
Tây phương, ông Trung
đă phải lục kư ức t́m
về một ngày lịch sử xa
xưa để tỉnh thức t́m
về dân tộc nhưng cuối
cùng lại phục vụ cho
Cộng sản. Nguyên ủy
nào đă đưa đẩy thân
phận của một trí thức
Công giáo trôi giạt
vào thảm cảnh của một
người Việt Nam thấy
lạc loài ngay chính
trên quê hương ḿnh để
cuối cùng phải bám víu
vào những ảo ảnh của
một lư thuyết phi dân
tộc hầu thỏa măn những
khát khao muốn có một
chỗ đứng trên đất Mẹ ở
giữa ḷng quê hương?!
*Sau đêm mồng 9 tháng
3, sau cơn bàng hoàng
chính trị chung của cả
nước, mọi người, và
đặc biệt tại Trung Kỳ,
đều dự đoán là Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để sẽ
nắm được cơ hội mà về
nước lên ngôi Vua để
trao cho ông Diệm chức
Thủ tướng, thành lập
nội các để điều khiển
quốc gia. Không ngờ
chỉ hai ngày sau, ngày
11/3/1945, vua Bảo Đại
vẫn tại vị và tuyên bố
Việt Nam độc lập trong
khối Đại Đông Á, hủy
bỏ mọi hiệp ước bảo hộ
đă kư kết với Pháp từ
trước và mời học giả
Trần Trọng Kim thành
lập Chính phủ. Chính
phủ này được thành lập
và ra mắt đồng bào vào
ngày 17/4/1945 mà Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để vẫn
ở Nhật và ông Diệm vẫn
cô đơn nằm tại Sài G̣n
một cách im lặng lạ
lùng.
Sau này, ông Bảo Đại
cho biết người Nhật đă
dứt khoát không tiếp
tục ủng hộ ông Diệm
nữa [13], và cụ Trần
Trọng Kim trong hồi kư
“Một cơn gió bụi” cũng
kể lại rằng trong cuộc
gặp gỡ giữa cụ và ông
Diệm tại Bộ tư lệnh
Nhật Bản tại Sài G̣n,
ông Diệm cho cụ biết
người Nhật đă không
cho ông Diệm biết ǵ
cả, ngay cả bức điện
tín của vua Bảo Đại
gởi mời ông Diệm về
Huế cũng bị dấu
kín.[14]
Những sử liệu và những
dự kiện thực tế này
cho ta thấy Kỳ Ngoại
Hầu Cường Để và ông
Diệm, dù trước đó đă
thật tâm ủng hộ người
Nhật, cuối cùng đă
thực sự bị người Nhật
bỏ rơi v́ uy tín và
sức mạnh chính trị của
họ (dù dưới mắt người
Nhật chỉ là vị trí và
sức mạnh của một lá
bài chính trị bản xứ
cho một nhu cầu ổn
định giai đoạn) không
c̣n phù hợp với nhu
cầu mới của chính sách
của Nhật tại Đông
Dương. Và điều này
cũng cải chính luôn
luận điệu của một số
tài liệu do bộ máy
tuyên truyền của chế
độ ông Diệm vào những
năm ông mới chấp
chánh, cũng như những
tài liệu do những “sử
gia” hoài Ngô sau
1963, cố t́nh cho rằng
“ông Diệm không bao
giờ chịu hợp tác và
nương dựa vào người
Nhật”.[15]
Trường hợp ông Diệm bị
Nhật Bản bỏ rơi và
phản bội sau gần bốn
năm hợp tác chân thành
với Nhật chỉ là sự lập
lại của một quy luật
chính trị cổ điển và
sơ đẳng trong các
tương quan quốc tế,
nhất là tương quan
giữa một trong nhiều
thế lực chính trị của
một nước nhược tiểu
với một cường quốc như
Nhật Bản. Thật vậy,
Nhật Bản phản bội ba
lần cùng một tổ chức
Việt Nam (trực tiếp
hay gián tiếp do Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để
lănh đạo):
- Năm 1909, trục xuất
Kỳ Ngoại Hầu và cụ
Phan Bội Châu sau khi
họ kư hiệp ước thân
hữu với Pháp.
- Năm 1940, bắt giam
và trao lại cho Pháp
lực lượng Phục quốc
quân của chí sĩ Trần
Trung Lập, Trần Huy
Thanh và Hoàng Lương
sau trận Lạng Sơn.
- Năm 1945, bỏ rơi cụ
Cường Để và ông Diệm
để thừa nhận vua Bảo
Đại với Chính phủ Trần
Trọng Kim, sau biến cố
9 tháng 3 năm 1945 đảo
chánh quân Pháp.
Quả thật ông Diệm và
những mưu sĩ trong bộ
tham mưu của ông đă
không học được hai bài
học trước.
Sau thất bại chính trị
nói trên, ông Ngô Đ́nh
Diệm buồn rầu chán nản
vô cùng, nhất là khi
Chính phủ Trần Trọng
Kim ra đời, hầu như
ông không c̣n nghị lực
để tiếp tục cuộc đấu
tranh nữa. Mang tâm
trạng của người thất
thế, ông lui về sống
cô đơn không tiếp xúc
với ai nữa tại nhà
người em là Ngô Đ́nh
Luyện ở Chợ Lớn, hoặc
thỉnh thoảng xuống
thăm người anh là giám
mục Ngô Đ́nh Thục ở
Vĩnh Long. Gia đ́nh và
t́nh anh em luôn luôn
là pháo đài kiên cố
làm nơi nương dựa cho
ông trong hoạn nạn
cũng như trong đắc
thắng.
Trong lúc đó th́ tại
Huế, v́ vấn đề liên
lạc cách trở, thông
tin chậm chạp, người
anh trưởng là ông Ngô
Đ́nh Khôi vẫn không
nắm vững t́nh h́nh để
thấy rằng “lá bài Ngô
Đ́nh Diệm và giải pháp
Cường Để” đă hoàn toàn
bị Nhật xóa bỏ, vẫn
tiếp tục hoạt động
chuẩn bị cho ngày về
của ông Cường Để và
nội các của ông Diệm.
Số đồng chí của ông
Diệm, mà một số lớn đă
được phóng thích khỏi
nhà giam Pháp nhờ cuộc
đảo chánh của Nhật,
vẫn tiếp tục sinh hoạt
tại nhà ông Khôi để
đợi chờ ông Diệm.
Về phần tôi, sau khi
cùng với các chính trị
phạm khác ở trại tù Di
Linh được quân đội
Nhật phóng thích, tôi
bèn trở về quê cũ thăm
gia đ́nh làng xóm độ
nửa tháng rồi trở lại
Huế cũng sinh hoạt với
các đồng chí cũ dưới
sự điều hành của ông
Ngô Đ́nh Khôi. Tư dinh
của ông Khôi tọa lạc
tại tả ngạn sông Phú
Cam, là một dinh thự
to lớn, huy hoàng và
lộng lẫy như lâu đài
của các vị hầu tước Âu
Châu. Mỗi khi họp, ông
Khôi thường cho trải
sáu tấm chiếu cạp điều
giữa pḥng khách rộng
lớn để mọi người cùng
ngồi tṛn quanh ông,
chẳng khác ǵ ṣng sóc
đĩa lớn tại các nhà
phú hộ ở thôn quê.
Trong các buổi họp,
ông Khôi thường nói
nhiều, nói lưu loát và
luôn luôn mềm dẻo khi
có mâu thuẫn về lư
luận. Tuy tính t́nh
của ông vui vẻ và ḥa
đồng, nhưng ông vẫn
được tiếng là người
nhiều thủ đoạn nhất
trong số chín anh chị
em.
Vào khoảng một tuần lễ
sau khi nội các của cụ
Trần Trọng Kim ra đời,
ông Nguyễn Tấn Quê và
tôi được ông Khôi cử
vào Sài G̣n để gặp ông
Diệm và để tổ chức
cuộc đón tiếp Kỳ Ngoại
Hầu mà ông Khôi tưởng
sẽ trở về Việt Nam.
Ông Khôi c̣n trao cho
chúng tôi một chiếc
khăn đóng và một chiếc
áo gấm màu tím để ông
Diệm mặc trong dịp
nghênh đón nhà cách
mạng đă từng bôn ba
nơi hải ngoại hơn 40
năm trời. Chúng tôi
đến được nhà ông Luyện
ở số 2 đường Armand
Rousseau tại Ngă Sáu
Chợ Lớn, nơi ông Diệm
đang cư trú, sau một
cuộc hành tŕnh hết
sức gian lao, nguy
hiểm, v́ trên suốt
chặng đường gần một
ngàn cây số đó, nhất
là đoạn ở miền Trung,
phi cơ Đồng Minh liên
tiếp oanh tạc ngày đêm
làm gián đoạn đường sá
và làm các toa xe lửa
đổ ngổn ngang nhiều
nơi.
Gặp lại ông Diệm sau
hơn một năm trời mà
tưởng như một khoảng
thời gian xa cách lâu
lắm. Những thất bại
chính trị và sự tan
tác của tổ chức v́ quá
nhiều nhân sự cốt cán
bị tù đày đă làm cho
chúng tôi sung sướng
bàng hoàng trong buổi
hội ngộ này. Sau khi
tŕnh bày đầy đủ chi
tiết các tin tức liên
quan đến tổ chức tại
miền Trung, và sau khi
trả lời cho ông Diệm
biết t́nh h́nh chính
trị tại Huế, ông
Nguyễn Tấn Quê c̣n cho
biết là dọc đường,
trong một lần bị phi
cơ Mỹ ném bom suưt nữa
cả hai chúng tôi tan
xác, hành lư của chúng
tôi, trong đó có cả
khăn đóng và áo gấm
của ông Khôi gởi vào,
đă bị thất lạc. Ông
Diệm không tỏ vẻ trách
móc ǵ, ông chỉ cười
buồn chua chát mà
thôi.
Cũng tại ngôi nhà này,
lần đầu tiên chúng tôi
được gặp ông Ngô Đ́nh
Luyện, linh mục Lê
Sương Huệ, và ông Vơ
Văn Hải. Ông Luyện c̣n
rất trẻ, ít tham gia
những cuộc thảo luận
chính trị, c̣n Vơ Văn
Hải chỉ là một thanh
niên mới lớn, giúp ông
Diệm* các công việc
giấy tờ vừa như một
thư kư, vừa như một
tùy phái. Ban ngày,
ông Quê và tôi về
khách sạn để ông Diệm
tiếp khách hoặc nghỉ
ngơi, chỉ vào buổi
chiều, chúng tôi mới
trở lại ngôi nhà ở
Armand Rousseau để
dùng cơm tối với anh
em ông Diệm và linh
mục Huệ rồi tiếp tục
thảo luận. Dù biết
chúng tôi trông chờ,
tuyệt nhiên ông Diệm
vẫn không đề cập ǵ
đến hoàn cảnh của Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để và
những dự tính tương
lai.
Ở Chợ Lớn vào khoảng
một tuần lễ, ông Diệm
cho chúng tôi biết
ngày mai sẽ khởi hành
đi Đà Lạt. Sáng hôm
sau, khi Sài G̣n bắt
đầu trở ḿnh thức dậy
với những sinh hoạt
rộn rịp th́ bốn người
chúng tôi là ông Diệm,
linh mục Huệ, ông Quê
và tôi lên đường. Lúc
xe ngừng lại tại Blao
để ăn trưa, ông Diệm
mới tŕnh bày việc
người Nhật đă phản bội
không cho Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để về nước và
cắt đứt mọi liên lạc
chính trị với chính
ông, rồi ông tỏ ư buồn
phiền vua Bảo Đại đă
mời “tên đồ nho Trần
Trọng Kim” làm thủ
tướng. Lúc bấy giờ ông
Quê và tôi mới thực sự
hiểu rơ t́nh h́nh và
trạng huống bi đát của
ông Diệm và của tổ
chức chúng tôi. Sách
lược nắm chính quyền
bằng con đường thân
Nhật của ông Diệm đă
đi vào bế tắc và hoàn
toàn thất bại, hệ quả
chính trị của nó không
những là mất đi những
ưu thế phát triển mà
quan trọng hơn cả, c̣n
là sự tê liệt của tổ
chức.
Xe đến Đà Lạt vào buổi
chiều, sương núi mờ mờ
phủ xuống thành phố
vừa lên đèn và không
khí lạnh lùng vào dịp
đầu Thu càng làm cho
nỗi buồn của chúng tôi
thêm sâu đậm. Sau khi
chạy xuyên qua trung
tâm thành phố và vượt
mấy ngọn đồi, xe đến
thẳng dinh Tổng đốc
của ông Trần Văn Lư.
Dinh Tổng đốc vốn là
ṭa Đốc lư cũ của
Pháp, kiến trúc theo
lối Tây phương, tọa
lạc trên ngọn đồi cao
nh́n xuống khắp thành
phố Đà Lạt. Ông Lư ân
cần đón chúng tôi vào
pḥng khách và cho
người dọn trà thơm
dùng cho ấm bụng. Biết
rằng chúng tôi mệt mỏi
sau cuộc hành tŕnh
nên ông cho người thu
xếp pḥng để chúng tôi
đi nghỉ sớm.
Đêm đầu trên thành phố
Cao Nguyên này mà càng
về khuya trăng càng
mờ, sương càng lạnh,
trời đất th́ bàng bạc
huyền ảo như tâm sự
mông lung của những
người vừa thất bại sau
một cuộc đấu tranh.
Thành phố Đà Lạt ch́m
xuống sau những rặng
thông im ĺm như chia
xẻ nỗi thất vọng của
chúng tôi. Trước khi
ngủ, ông Nguyễn Tấn
Quê c̣n tâm sự với tôi
rằng một khi Bảo Đại
đă tiếp tục cầm chính
quyền để củng cố thế
lực th́ tổ chức khó có
thể thay đổi được t́nh
h́nh, huống ǵ ông
Diệm, người lănh đạo
của tổ chức lại không
phải là một loại nhân
vật “anh hùng tạo thời
thế”. Tôi c̣n nhớ măi
mấy lời phê phán cuối
cùng của ông như một
tiếng than năo nùng
trong đêm vắng: “Chúng
ta đă vớ phải cái bè
nứa mục ră trôi xuôi
theo con nước lũ”.
Nhận định và tâm sự
của ông Quê như vậy,
chẳng trách ǵ mười
năm sau, ông đă bị anh
em ông Diệm thẳng tay
hạ sát khi họ có quyền
lực trong tay. Đến năm
1948, 1949 Nguyễn Tấn
Quê c̣n nhắc lại những
nhận xét trên cho
nhiều bạn bè. Trong số
bạn bè đó có cả ông Vơ
Như Nguyện...
Mấy hôm sau, linh mục
Huệ lấy xe đ̣ đi Phan
Rang để từ đó trở lại
Sài G̣n, ông Nguyễn
Tấn Quê đáp xe lửa về
Huế mang theo một lá
thư riêng của ông Diệm
gởi về cho ông Ngô
Đ́nh Khôi, c̣n ông
Diệm và tôi th́ vẫn ở
lại Đà Lạt.
Ông Trần Văn Lư, quê ở
Quảng Trị, có bà con
với giám mục Lê Hữu
Từ, là một vị quan nổi
tiếng liêm chính. (Khi
ông làm Thủ hiến Trung
Việt, người em ruột
của ông là Trần Văn
Tŕnh, chủ sự pḥng
Nội dịch, ngày chủ
nhật lấy xe Chính phủ
về sử dụng riêng bị
ông cất chức ngay, đối
với các linh mục hay
đến xin xỏ, nhờ cậy,
ông thẳng thắn từ
chối). Ông Lư là người
thanh liêm, cương
trực, có tinh thần yêu
nước và có khả năng
quản trị nên được
Chính phủ Trần Trọng
Kim mời giữ chức Tổng
đốc cai trị 4 miền cực
Nam Trung Việt như là
một thứ Tiểu Khâm Sai.
Chức vị của ông lúc
bấy giờ là “Tổng đốc
Lâm-Đồng-B́nh-Ninh”
(bốn tỉnh Lâm Đồng,
Đồng Nai, B́nh Thuận,
và Ninh Thuận), và v́
lúc bấy giờ phương
tiện giao thông và hệ
thống liên lạc c̣n khó
khăn cách trở nên ông
được đại diện chính
phủ toàn quyền giải
quyết cấp thời công
việc quốc gia. Văn
pḥng Tổng đốc có ông
Nguyễn Đ́nh Hàm (sau
này có thời làm hiệu
trưởng một trường
trung học tại Huế) giữ
chức Tổng thư kư, ông
Tham Tự làm chánh văn
pḥng và nhà văn Vơ
Hồng vừa làm bí thư
vừa làm thông dịch
viên v́ ông Vơ Hồng
nói và viết thông thạo
cả ba ngôn ngữ Pháp,
Anh, Nhật.
Ông Lư trưng dụng một
ngôi biệt thự tại Đà
Lạt và biệt phái một
số bồi bếp cũng lính
Bảo An giữ an ninh cho
ông Diệm và tôi. Trong
hơn một tháng trời
sống chung với nhau
trong ngôi nhà rộng
răi nhưng lạnh lùng
đó, sinh hoạt thường
nhật của chúng tôi
thật trầm lặng: buổi
sáng thức dậy uống trà
nói chuyện rồi dùng
điểm tâm, sau đó chúng
tôi đi ra đồi thông
sau nhà để có một chút
nắng ấm và để tạm thay
cho buổi tập thể dục;
sau buổi cơm trưa,
chúng tôi hoặc đi nghỉ
hoặc lên thư pḥng đọc
sách kê trên ba cái tủ
sách lớn của người chủ
nhân Pháp cũ để lại
cho đến chiều. Sau
buổi cơm tối, chúng
tôi hoặc tiếp khách
nhưng thường thường là
ngồi nói chuyện với
nhau đến khuya mới đi
ngủ. Thỉnh thoảng ông
Lư cho người đến hướng
dẫn chúng tôi đi thăm
các thắng cảnh tại Đà
Lạt như thác Cam Ly,
hồ Than Thở, đỉnh Lâm
Viên, ngôi mộ ông
Nguyễn Hữu Hào v.v...
Một hôm ông Trần Văn
Lư nhận được điện tín
của chánh phủ Trần
Trọng Kim thông báo sẽ
bổ nhiệm thiếu úy Đinh
Xuân Thạc (em của luật
gia Đinh Xuân Quảng,
người sau này tham gia
chính biến Nhảy Dù
11/11/1960 để đảo
chánh ông Diệm) giữ
chức Trưởng ty Vơ
pḥng kiêm tư lệnh Bảo
an bốn tỉnh cực Nam
Trung Kỳ trực thuộc
ông Lư. Chúng tôi thảo
luận với nhau rồi đánh
điện trả lời đề cử tôi
thay thế Đinh Xuân
Thạc trong chức vụ
này. Đề nghị này được
Huế mau chóng chấp
thuận chỉ trong mấy
ngày, v́ tôi đang có
mặt tại chỗ và nhất là
thiếu úy Phan Tử Lăng,
một đồng chí cũ của
tôi, đang giữ chức
Tổng chỉ huy Bảo an
Trung Kỳ.
Sau này, ông Lư nhận
được nghị định chính
thức và hồ sơ binh
sách của tôi, trong đó
có một tài liệu của sở
mật thám Trung Kỳ cũ
của Pháp với lời phê:
“A pris une part très
active dans un
mouvement politique
contraire aux intérêts
de la France en
Indochine, a revélé de
ce fait un charactère
sournois d’autant plus
dangereux qu’il est
très intelligent. A
arrêter et surveiller
étroitement”. (Đă tham
dự rất tích cực vào
một phong trào chính
trị đi ngược lại với
quyền lợi nước Pháp
tại Đông Dương, điều
đó chứng tỏ đương sự
không những gian giảo
mà lại c̣n nguy hiểm
nữa v́ đương sự rất
thông minh. Thành phần
cần phải bắt giam và
kiểm soát chặt chẽ).
Vốn đă biết tôi từ
trước, bây giờ lại
được đọc hồ sơ của
tôi, ông Trần Văn Lư
cảm thấy vui mừng và
phấn khởi lắm v́ từ
nay có thêm một người
vừa là cộng sự viên có
khả năng vừa là đồng
chí có tinh thần yêu
nước. Và cũng chính
nhờ lời phê phán của
mật thám Trung Kỳ mà
mấy tháng sau đó, khi
Việt Minh cướp chính
quyền, tôi khỏi bị bắt
giam mà c̣n được trọng
dụng. C̣n ông Lê
Khương, sau này dưới
thời Đệ nhất Cộng Ḥa
mang cấp bậc Đại tá,
lúc bấy giờ là một
Trung sĩ Bảo an phục
vụ dưới quyền tôi tại
Đà Lạt.
Ông Diệm ở lại Đà Lạt
cho đến đầu tháng Tám
th́ quyết định trở lại
Sài G̣n. Buổi chia tay
giữa ông và tôi thật
buồn, mỗi người một
tâm sự, mà tâm sự nào
cũng có liên hệ đến
cơn sóng gió vừa qua
của tổ chức và cũng
đều phản ảnh cái tương
lai vô định của những
ngày sắp tới. Ông ân
cần khuyên tôi nên giữ
ǵn sức khỏe và hẹn sẽ
gặp lại ở Huế nơi ngôi
nhà Phú Cam mà tôi đă
gặp ông lần đầu năm
1942, khi ông c̣n đang
làm lănh tụ lạc quan
của phong trào thân
Nhật ủng hộ Kỳ Ngoại
Hầu Cường Để. Xe của
ông đă khuất sau rừng
thông mà tôi c̣n đứng
ngẩn ngơ v́ những bịn
rịn của buổi chia ly,
không biết trước được
rằng cuộc chia tay hôm
đó lại mở đầu cho
chuỗi ngày lao lư của
lănh tụ ḿnh và cho
những sóng gió thời
cuộc đẩy đưa tôi vào
những biến động máu
lửa của cuộc chiến
tranh Pháp-Việt
1945-1954.
Như vậy là chỉ trong
ba năm ngặt nghèo, từ
1942 đến 1945, từ một
quân nhân mang rất
nhiều ẩn ức t́nh cảm
và chính trị trong một
môi sinh ngột ngạt và
đè nén, tôi đă nhờ
những chuyển động của
thời thế và quyết tâm
của chính ḿnh để cuối
cùng được gia nhập vào
một tổ chức đấu tranh
cho đất nước và, riêng
cá nhân, được hành xử
như một chiến sĩ kiên
tŕ và liên tục đấu
tranh cho quê hương.
Nhiệm vụ mới đă dẫn
dắt tôi đi suốt miền
Trung nghèo nàn cằn
cỗi. Công tác mới đă
tạo ra những liên hệ
thân t́nh với các nhân
vật mà nhiều lúc t́nh
bằng hữu quyện luôn
vào t́nh chiến hữu.
Vóc dáng và vị thế của
ông Ngô Đ́nh Diệm
trong giai đoạn này,
đối với tôi là vóc
dáng và vị thế của
người thuyền trưởng
lèo lái con thuyền tổ
chức, tuy ngặt nghèo
lên xuống nhưng đằm
thắm t́nh nghĩa. Nhưng
lỗi lầm cơ bản về
chính trị do khả năng
đấu tranh yếu kém của
ông gây ra tuy có kéo
theo những đổ vỡ làm
tê liệt tổ chức, nhưng
cuối cùng, trong buổi
tạm biệt sầu mang mang
của một buổi sáng Đà
Lạt, tôi vẫn tin tưởng
mănh liệt vào người
anh cả đầu đàn đó như
tôi vẫn hằng tin tưởng
vào một nước Việt Nam
được thực sự độc lập
trong tương lai.
Những giây phút âm
thầm khắc phục mọi khó
khăn để bí mật xây
dựng tổ chức trước
mạng lưới mật thám
Pháp, những ngày tháng
thui thủi và nhục nhằn
trong trại tù chính
trị phạm ở Di Linh,
rồi những đêm dài nhớ
vợ thương con, nhớ bến
đ̣ xưa, thương cây đa
cũ... đă làm tăng
trưởng khả năng chịu
đựng và tôi luyện thêm
quyết tâm đấu tranh
trong tôi, như chiến
cuộc Việt Nam đă trui
rèn hàng hàng lớp lớp
thanh niên Việt Nam
trong giai đoạn đó.
Ba năm ngắn ngủi đó
cũng đă chất đầy hành
trang chính trị cho
tôi để bước vào một
cuộc chiến tranh
Pháp-Việt sắp mở màn.
[1] Nguyễn Phúc Dân,
Cuộc Đời Cách Mạng
Cường Để, tr. 135,
136.
[2] Tạ Chí Đại Trường,
Lịch Sử Nội Chiến Việt
Nam, tr. 293 (và theo
lời kể lại của nhiều
nhân sĩ lăo thành
thuộc Nguyễn Phước
tộc).
[3] Theo lời kể lại
của cụ Tôn Thất Toại,
nguyên Thượng thư Bộ
Nghi lễ Nam triều, bạn
học buổi thiếu thời
của ông Ngô Đ́nh Diệm.
[4] Thái văn Kiểm, Đất
Việt Trời Nam, tr.
488.
[5] Stanley Karnow,
Vietnam A History, tr.
126, 127.
[6] Ông Nguyễn Dậu,
một nhân sĩ tỉnh Phú
Yên, vốn là bạn thân
với ông Trương Kỳ
Nguyên em ruột của ông
Trương Tử Anh, lănh tụ
đảng Đại Việt, thường
đến chơi nhà cụ Trương
Bội Hoàng (thân phụ
của Trương Kỳ Nguyên)
được cụ cho biết
khoảng 1942-43 khi cụ
được ông Ngô Đ́nh Diệm
mời ra Huế bàn chuyện
hợp tác trong việc ủng
hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường
Để, trước khi gặp ông
Diệm cụ Hoàng ghé thăm
cụ Huỳnh Thúc Kháng để
hỏi ư kiến, cụ Huỳnh
khuyên không nên, cho
rằng ông Diệm là hạng
người phong kiến không
thể làm cách mạng. Ông
Nguyễn Dậu hiện sống ở
California, Mỹ.
[7] Nguyễn Văn Xuân,
Phong Trào Duy Tân,
tr. 156.
[8] Ông Trần Văn Dĩnh
c̣n được ông Thiên
Nhất Phương đề cập đến
trên bán nguyệt san
Việt Nam Hải Ngoại (số
33 năm 1978, tr. 35).
[9] Hoài Thanh &
Hoài Châu, Thi Nhân
Việt Nam, tr. 309.
[10] Đề cập đến tổ
chức ông Diệm lúc bấy
giờ, ông Trần văn
Hướng, một cán bộ ở
Huế của ông Diệm, sau
này đă hồi ức lại như
sau (trích từ Nhật báo
Người Việt thứ Năm số
564, ngày 31/10/1985):
“... Tại Huế, cụ kết
nạp một số rất đông
thanh niên yêu nước
chia thành từng nhóm.
Để tránh màn lưới mật
thám Pháp, cụ đưa họ
vào hoạt động không
lương tại các cơ quan
Nhật như Toà Lănh Sự,
Sở Hiến Binh để theo
dơi hành động của Nhật
cũng như cho Nhật biết
mọi hành động chống
Nhật của Pháp, nhằm
mục đích thôi thúc
người Nhật sớm lật đổ
chính quyền Pháp giải
phóng Việt Nam như
Nhật đă từng tuyên bố.
... Ở các công sở Pháp
cũng như của Nam
triều, ở các đồn lính
khố xanh khố đỏ của
Pháp, cụ Ngô đều có tổ
chức các cộng tác viên
nên mọi chỉ thị của
Pháp cụ đều rơ. Cũng
nhờ vậy mà vào năm
1944, khi mật thám
Pháp vây nhà khám xét
và định bắt cụ đưa đi
an trí ở Xieng Khoang
(Lào) th́ cụ đă được
báo tin trước mấy
ngày. Cụ có đủ th́ giờ
đi ẩn náu tại nhà của
Phó lănh Sự Nhật tại
Huế là ông Ishida.
... Mục đích hoạt động
của cụ Ngô là lợi dụng
thời cơ để thu hồi nền
độc lập cho Tổ Quốc,
thành lập thể chế Quân
chủ Lập hiến giống như
Anh Quốc với Kỳ Ngoại
Hầu Cường Để làm vua,
và một chính phủ lâm
thời do Cụ làm Thủ
tướng. Phương pháp
hành động là dùng
người Việt trong các
cơ quan và đồn lính
Pháp nổi dậy lật đổ
chính quyền Pháp với
sự giúp đỡ của quân
đội Nhật.”
Ngoài ra, trong tác
phẩm nghiên cứu Việt
Nam Niên Biểu Nhân Vật
Chí (Chính Đạo, NXB
Văn Hoá), phong trào
Cường Để thân Nhật Bản
của ông Diệm - mà tên
một thành viên được
nhắc đến là Đỗ Mậu -
cũng đă được nêu lên
nhiều lần. Điều này
mặc nhiên phản bác
luận điệu vô cơ sở của
một linh mục viết sách
cho rằng ông Diệm
không thân Nhật và
phong trào Cường Để
không có thật.
[11] Dưới thời Đệ Nhất
Cộng Hoà, lúc ông
Nguyễn Ngọc Thơ c̣n
làm Đại sứ VN tại
Tokyo, ông Ishida lúc
bấy giờ đă thôi việc ở
Bộ Ngoại Giao Nhật
Bản, được thuê vào làm
thư kư cho Toà Đại Sứ
VN. Năm 1964, nhân một
chuyến công du Nhật
Bản, tác giả có đến
nhà riêng thăm ông
Ishida. Kể lại những
kỷ niệm xưa, vị cựu
Phó Đại sứ Nhật Bản
tại VN thời 1944-45
không quên trách khéo
ông Diệm lúc làm Tổng
Thống đă quên ông ta
mà chỉ trọng dụng ông
Matsuisita nguyên Chỉ
huy ngành Hiến binh mà
thôi.
[12] Lư Chánh Trung,
T́m Về Dân Tộc, tr.
23-27.
[13] Bảo Đại, Le
Dragon d Annam, tr.
99-115.
[14] Trần Trọng Kim,
Một Cơn Gió Bụi.
[15] Phạm Kim Vinh,
Những Bí Ẩn Về Cái
Chết Của Việt Nam Cộng
Ḥa, tr. 27 và sách
Đời Một Tổng Thống của
Minh Bảo.
-
-
-
THĂNG
TRẦM
TRONG
CUỘC CHIẾN VIỆT PHÁP
*Ngày 15 tháng 8 năm
1945, Nhật Bản tuyên
bố đầu hàng sau khi
hứng chịu hai quả bom
nguyên tử tiêu huỷ
hoàn toàn hai thành
phố Hirosima và
Nagasaki. Ngày 18, tại
Đông Dương, Bộ chỉ huy
Nhật Bản trao quyền
lại cho chính phủ Việt
Minh và ngày 23 vua
Bảo Đại thoái vị. Chủ
tịch Hồ Chí Minh thành
lập chính phủ lâm thời
tại Hà Nội vào ngày 19
tháng 8, mời công dân
Vĩnh Thụy làm cố vấn
Tối Cao để ngày 2
tháng 9 năm 1945,
tuyên bố Việt Nam độc
lập. Quân đội Anh,
dưới quyền của tướng
Douglas Gracey, đổ bộ
lên Sài G̣n ngày 13
tháng 9 để giải giới
quân đội Nhật và sau
đó trao quyền lại cho
quân đội Pháp.
Chỉ trong ṿng một
tháng ngắn ngủi đó,
bao nhiêu biến cố
trọng đại đă dồn dập
xảy ra trên chiến
trường và chính trường
Việt Nam, đưa vận mệnh
đất nước vào một khúc
quanh nghiệt ngă mới.
Trong khi đó, tại Đà
Lạt, sau khi ông Diệm
đi được mấy hôm, và
tôi chỉ mới bắt đầu
nhậm chức Tư lệnh Bảo
an của bốn tỉnh cực
Nam Trung phần, th́
các đoàn thể thanh
niên tại thị xă họp
đại hội và bầu tôi làm
Thủ Lănh Thanh Niên
Tiền Phong Đà Lạt
(Thanh niên Phan Anh)
dù lúc đó Việt Minh đă
bắt đầu trải người
hoạt động mạnh. Cờ đỏ
sao vàng và truyền đơn
kêu gọi nổi dậy chống
Nhật và Pháp rải đầy
thành phố, một vài vụ
bạo động và nguồn tin
sẽ có đ́nh công băi
thị càng làm cho không
khí thị xă thêm căng
thẳng.
Đầu tuần lễ thứ nh́
của tháng chín, Việt
Minh cướp chính quyền
tại Đà Lạt bằng một
cuộc biểu t́nh rầm rộ,
vây dinh Tổng đốc bắt
ông Trần Văn Lư giải
về Huế, c̣n tôi th́ họ
giữ lại tại địa phương
để điều tra bổ túc.
Vừa thoát khỏi ngục
Pháp được mấy tháng
tôi lại bước vào cửa
ngục Việt Minh.
Trong các lần thẩm
vấn, tôi quyết định
khai hết sự thật v́
nghĩ rằng "vàng thật
sợ ǵ lửa đỏ", tôi là
người thật tâm yêu
nước, nếu có làm việc
trong hệ thống quân
đội của Pháp th́ chẳng
qua cũng là v́ thời
thế bắt buộc, nếu có ở
trong hệ thống hành
chính của Nhật th́
chẳng qua cũng là v́
hoàn cảnh, miễn rằng
tâm và chí của ḿnh
không thân Tây vọng
Nhật. Duy có việc tham
gia một phong trào
chống Pháp th́ tôi cố
càng dấu tổ chức của
ḿnh càng nhiều càng
tốt, nhất là danh tánh
các đồng chí.
Lúc bấy giờ, tôi chưa
biết Mặt Trận Việt
Minh do đảng Cộng Sản
chỉ đạo và điều động
mà chỉ biết họ như một
tổ chức cách mạng lớn,
cướp chánh quyền để
đánh đổ chế độ phong
kiến, chống thực dân
Pháp và phát xít Nhật
cho độc lập, tự do,
hạnh phúc của toàn dân
Việt Nam. Cho nên ở
một mặt nào đó, tuy bị
giam cầm và tù ngục,
tôi vẫn yên tâm và c̣n
có ư trông chờ ngày
được họ phóng thích để
trở về Huế. Quả nhiên,
chỉ hơn một tuần lễ
sau, tôi được mời lên
một văn pḥng trông
đàng hoàng hơn pḥng
lấy khẩu cung thường
lệ, và cho biết v́ hồ
sơ cá nhân của tôi
sạch sẽ, tứ thân phụ
mẫu đều thuộc giai cấp
nho sĩ vô sản, và hồ
sơ binh sách của tôi
bị phê là có hoạt động
chống Pháp nên tôi
được họ thả với lời
"yêu cầu" ở lại Đà Lạt
hợp tác với chính
quyền cách mạng địa
phương.
Tin tức Sài G̣n đưa về
cho biết t́nh h́nh rất
sôi động v́ quân Pháp,
sau khi được quân đội
Anh trao lại quyền
quản trị, đă cấp tốc
thiết lập các đơn vị
tác chiến để tái lập
trật tự tại Sài G̣n và
mở rộng vùng ảnh hưởng
ra toàn bộ Nam kỳ.
Chính quyền Việt Minh
tại Đà Lạt vội tổ chức
khẩn cấp hai tiểu đoàn
Vệ Quốc Quân. Một tiểu
đoàn được giao cho
Nguyễn Lương, người
Quảng Ngăi, nguyên là
thư kư toà Sứ Đà Lạt
nhưng có lẽ đă tham
gia Việt Minh từ
trước, chỉ huy ; và
tiểu đoàn thứ hai được
giao cho tôi điều
khiển. Trong tiểu đoàn
thứ nhất này c̣n có
ông Tôn Thất Đính làm
uỷ viên chính trị
trung đội và ông Phạm
Đăng Tải (ông Tải sau
làm ở Bộ Ngoại giao
thời Đệ Nhất Cộng Hoà
và hiện sống ở
Monterey, Hoa Kỳ).
V́ quân Pháp đang âm
mưu tiến về miền Trung
và đánh chiếm các tỉnh
Cao Nguyên Trung phần
nên ông Vơ Nguyên
Giáp, lúc bấy giờ là
Bộ trưởng Nội vụ trong
chính phủ Hồ Chí Minh,
vội cầm đầu một phái
đoàn quân chính lên Đà
Lạt để tham quan t́nh
h́nh và cho những chỉ
thị cần thiết[1].
Chúng tôi được lệnh
dàn quân chung quanh
trụ sở Uỷ Ban Hành
Chính Tỉnh và gia nhập
phái đoàn đón tiếp ông
Vơ Nguyên Giáp. Khi
ông Giáp đến, trong
phái đoàn tuỳ tùng,
tôi thấy có cả Thiếu
uư Phan Tử Lăng (vốn
là Tổng chỉ huy Bảo an
Trung kỳ và là một
đồng chí trong tổ chức
ông Diệm) bấy giờ là
đại diện cho Uỷ Ban
Quân Sự Trung Bộ của
Việt Minh tại Huế.
Thấy Lăng, tôi bàng
hoàng, nhưng cũng gọi
tên và giơ nắm tay lên
cao để chào, nhưng
Lăng chỉ mỉm cười kín
đáo rồi trả lời vừa đủ
để tôi nghe: "Việc cũ
bỏ hết, đừng nhắc lại
nữa".
Tuy đă có lần nghe ông
Diệm kể chuyện ông
Giáp đến thăm ngôi nhà
ở Phú Cam và tuy đă
được nghe tiếng tăm
của ông Giáp từ lâu,
nhưng đây là lần đầu
tiên tôi trực tiếp gặp
ông ta. Tôi không ngờ
ông ta c̣n quá trẻ và
phong cách th́ như một
bạch diện thư sinh
chưa từng dăi nắng dầm
sương. Mặc dù lúc bấy
giờ tôi không đồng
quan điểm với Việt
Minh nhưng vẫn chưa có
ǵ để chống đối thù
nghịch nên trong thâm
tâm tôi thoáng có một
chút cảm phục và tự
hào về nhân vật đồng
hương trẻ tuổi nhưng
tài cao chí lớn nầy.
Ông Giáp làm Bộ trưởng
Nội vụ năm 32 tuổi
trong một chính phủ
độc lập của một quốc
gia thống nhất từ ải
Nam Quan đến mũi Cà
Mâu, trong khi người
đồng hương của ông ta
là ông Diệm, cũng năm
32 tuổi, làm Thường
thư Bộ Lại cho một
triều đ́nh phong kiến
bù nh́n của một xứ Bảo
hộ Trung kỳ. So sánh
đó tuy có thoáng qua
rất nhanh trong óc
tôi, nhưng trong buổi
gặp gỡ ông Giáp tại
trụ sở Ủy Ban Hành
Chánh Đà Lạt, h́nh
bóng của ông Diệm với
bao kỷ niệm cũ vẫn có
đủ sức mạnh đánh đổ
cái hấp lực hào hùng
của ông Giáp.
-
-
-
Ông Vơ Nguyên Giáp
sinh năm 1912, quê
làng An Xá, huyện Lệ
Thuỷ, tỉnh Quảng B́nh,
cách làng Đại Phong
của ông Diệm chỉ có
hai con hói. Học
trường tiểu học Lệ
Thuỷ rồi vào Huế học
trung học ở trường
Khải Định, ông Giáp
nổi tiếng thông minh
và thuộc ḷng sử Pháp
lẫn sử Việt. Ông thuộc
từng chi tiết về cuộc
đời, sự nghiệp và
những trận đánh của Nă
Phá Luân. Tại trường
Khải Định, mặc dù là
học sinh trung học Đệ
nhất cấp mà ông vẫn
được giáo sư Sử-Địa
Pháp mời thuyết tŕnh
sử Pháp cho hầu hết
giáo sư và học sinh
toàn trường nghe. Ông
được chú ư sớm nhờ
tính t́nh văn nghệ và
nhờ mang tư tưởng cách
mạng của chí sĩ Phan
Bội Châu. Mới 14 tuổi,
ông đă gia nhập "Tân
Việt Cách Mạng Đảng",
tham dự phong trào băi
khoá để tang cho chí
sĩ Phan Chu Trinh. Năm
1930, nhân những vụ
nổi loạn ở Nghệ An,
ông bị mật thám Pháp ở
Trung kỳ bắt giam vào
lao Thừa Phủ, Huế. Sau
mấy tháng ở trong tù,
nhờ lời khai thú tội
nên được Giám đốc Sở
Chính trị Phủ Toàn
quyền là Marty can
thiệp trả tự do. Ông
Giáp được Marty nâng
đỡ giúp cho vào trường
trung học Pháp Albert
Sarraut ở Hà Nội.
(Theo tôi th́ việc đầu
hàng Sở Chính trị của
thực dân chỉ là sự đầu
hàng giả trá, sự đầu
hàng đă được đảng Cộng
Sản Đông Dương cho
phép và tổ chức, v́
lúc bấy giờ ông Giáp
đă trú ngụ từ lâu tại
nhà giáo sư Đặng Thai
Mai, một đảng viên
Cộng Sản). Trong lúc
c̣n là học sinh, ông
Giáp đă cộng tác với
ông Phạm Văn Đồng trên
tờ báo Pháp ngữ "Le
Peuple . Tiếp tục lên
đại học, ông thi đỗ cử
nhân Luật khoa năm
1937. Điều buồn cười
là trong kỳ thi cử
nhân luật đó, ông Giáp
hoàn toàn hỏng môn
Quốc Tế Công Pháp
nhưng nhờ môn kinh tế
chính trị được 18 điểm
trên 20, nên mới khỏi
bị đánh rớt. Đỗ cử
nhân xong, ông dạy ở
trường Thăng Long, vốn
là một môi trường tốt
để truyền bá chủ nghĩa
Mác-Xít trong đám bạn
bè và sinh viên. Năm
1945, sau khi cướp
được chính quyền, công
an dưới quyền ông Giáp
đă sát hại chính vị
hiệu trưởng trường
Thăng Long là giáo sư
Tôn Thất B́nh và bắt
cha vợ của ông B́nh là
Thượng thư Phạm Quỳnh
đem đi thủ tiêu.
Chiến tranh thế giới
bùng nổ, ông Giáp
thoát ly gia đ́nh, để
vợ sống một ḿnh ở
Vinh, rồi lui vào bóng
tối hoạt động bí mật.
Người vợ cũng là một
chiến sĩ cách mạng bị
bắt năm 1941, bị kết
án chung thân khổ sai
và chết trong lao tù,
sau đó người em gái vợ
cũng bị tra tấn và
chết tại khám lớn Sài
G̣n. Thảm cảnh gia
đ́nh càng làm cho ông
ta thêm thù hận người
Pháp, ông bèn trốn qua
Tàu và nghe nói có
theo học một lớp quân
sự tại Diên An. Tại
Trung Hoa, ông Giáp
gặp các ông Hồ Chí
Minh và Phạm Văn Đồng
để từ đó trở lên một
trong những nhân vật
tối quan trọng của
đảng Cộng Sản Đông
Dương.
Năm 1944, ông Giáp tổ
chức dân thiểu số vùng
Việt Bắc vào các đội
du kích quân, và kết
nạp được ông Chu Văn
Tấn thuộc dân thiểu
số, và tuy là một Cai
Lính dơng, nhưng ông
Tấn đă trở thành một
trong những tướng lănh
giỏi của Cọng sản sau
nầy. Ông Giáp là cha
đẻ của Chiến tranh Du
kích và của Quân đội
Nhân dân tại Việt Nam.
Sau khi Việt Minh cướp
chính quyền, ông Giáp
được coi như nhân vật
trọng yếu thứ nh́ của
Việt Minh, sau ông Hồ
Chí Minh. Theo Bernard
Fall th́ từ khi chiến
tranh Pháp-Việt mở màn
cho đến ngày Cộng Sản
toàn thắng, với tư
cách là Tổng tư lệnh
quân đội Việt Minh,
ông Giáp chỉ phạm lỗi
lầm chiến lược có một
lần trong trận tấn
công Vĩnh Phúc Yên,
Đông Triều và Ninh
B́nh (để bị tướng De
Lattre de Tassigny
đánh bại), v́ tuy rất
thông minh nhưng vẫn
là người tự học một
ḿnh và v́ ông ta chủ
quan sau chiến thắng
Cao Bằng, đường số 4.
Từ đó về sau, ông Giáp
luôn luôn chiến thắng.
Trong suốt bốn năm đầu
của cuộc chiến tranh
Pháp-Việt, ông để cho
du kích địa phương cầm
chân tiêu hao lực
lượng viễn chinh Pháp,
mà chỉ nỗ lực tổ chức
và huấn luyện quân
chính quy tại vùng núi
rừng Việt Bắc và tại
phía Nam Trung Hoa.[2]
Thân phụ của ông Vơ
Nguyên Giáp là ông Vơ
Nghiễm, nguyên là một
thư kư của ty Hành
Chánh tỉnh Quảng B́nh
thời phong kiến, được
hàm Cửu phẩm văn giai
cho nên thường được
gọi là ông Cửu Nghiễm.
Gia đ́nh ông Cửu
Nghiễm là gia đ́nh
tiểu tư sản, có ruộng
cho thuê và có tiền
cho vay. Người con gái
đầu ḷng của ông Cửu
Nghiễm lấy chồng là
một quản lính Khố đỏ
và sống ở thôn quê.
Hai người con trai của
ông Cửu Nghiễm là Vơ
Nguyên Giáp và Vơ
Thuần Nho, ngược lại,
đều theo Việt Minh và
đều là những nhân vật
sắt máu. Ông Vơ Thuần
Nho giữ chức Uỷ Viên
Tư Pháp tỉnh Quảng
B́nh, khi Việt Minh
cướp chính quyền năm
1945 đă xử tử nhiều
người. Trước nhà ông
Vơ Nghiễm có một bức
b́nh phong kết bằng
những cây chè cắt h́nh
một con cọp, mỗi lần
gió thổi, cọp chè lay
động theo bóng đêm làm
nhiều người đi qua
trông thấy phải giật
ḿnh. Năm 1947, khi
quân Pháp đổ bộ lên
Quảng B́nh, ông Vơ
Nghiễm bị bắt đem về
giam ở lao Thừa Phủ,
Huế. Ông ta chết ở
trong lao và được chôn
tại đó nhưng không
biết làm sao mà hài
cốt được Việt Minh đào
lên và di chuyển đến
một chỗ bí mật khác,
có lẽ đă đem về chôn ở
Quảng B́nh.
Sự kiện ông Vơ Nguyên
Giáp phải đến thị sát
Đà Lạt và vùng Tây
Nguyên đă nói lên tính
cách nghiêm trọng của
t́nh h́nh miền Nam và
Cao nguyên lúc bấy
giờ. Sau cuộc thị sát
của ông Vơ Nguyên
Giáp, tôi được chỉ thị
của Uỷ Ban Hành Chánh
Kháng Chiến Đà Lạt đem
tiểu đoàn bố trí từ
ngoại ô thành phố đến
Dran (Đơn Dương), có
một trung đội của ông
Từ Bộ Cam từ Huế vào
tăng cường. (Ông Từ Bộ
Cam sau này là Đại tá
Không quân, hiện ở
tiểu bang Washington).
Tiểu đoàn gồm độ 500
binh sĩ nhưng vũ khí
đều là loại vũ khí cũ
của Pháp và Nhật để
lại, hoả lực chính của
tiểu đoàn là ba khẩu
liên thanh kiểu FM
1924-1929. Chủ lực của
tiểu đoàn gồm một số
lính Khố xanh cũ có
kinh nghiệm tác chiến,
nhưng phần lớn c̣n lại
toàn là thanh niên mới
gia nhập, chưa được
huấn luyện ǵ. T́nh
trạng tiểu đoàn như
thế mà tôi phải đương
đầu với cuộc tấn công
của liên quân
Anh-Pháp-Nhật, được
yểm trợ bởi một chi
đội thiết giáp.
Sau khi thảo luận với
chính trị viên của
tiểu đoàn, tôi quyết
định tránh đụng độ
trực diện với kẻ thù,
chỉ t́m cách cầm chân
hay giảm thiểu sức
tiến của địch để bảo
toàn đơn vị và để chờ
bộ chỉ huy Đà Lạt có
th́ giờ triệt thoái.
Áp dụng kỹ thuật hoán
vị các đại đội, tôi
cho ba tổ liên thanh
di chuyển từ cao điểm
này đến cao điểm khác
của vùng đồi núi Đơn
Dương, bám theo đà
tiến của kẻ thù mà
phục kích tấn công. Dĩ
nhiên hoả lực yếu kém
của chúng tôi chỉ làm
cho địch chuyển quân
chậm hơn và gây thiệt
hại không đáng kể, chứ
không thể nào cầm chân
hay công phá được sức
tiến của đoàn thiết
giáp. Sau một ngày một
đêm vừa đánh vừa lùi,
cuối cùng tôi ra lệnh
bỏ chiến trường Đơn
Dương, rút quân về
Ninh Thuận. Với hơn
300 binh sĩ c̣n lại,
tôi và bộ chỉ huy tiểu
đoàn băng rừng về miền
núi phía Tây tỉnh Phan
Rang và lập chiến khu
ở vùng Ba Râu.
Tại đây, theo lệnh của
Uỷ Ban Kháng Chiến
Trung Uơng, tôi được
lệnh mở những cuộc đột
kích quân đội Pháp để
tạo t́nh trang bất an
ninh trong vùng và để
cầm chân những đơn vị
này không thể tăng
phái về các mặt trận
khác. Sau nửa năm,
t́nh trạng của tiểu
đoàn trở nên nguy
kịch, thiếu đạn dược,
thiếu thực phẩm, thiếu
thuốc men, binh sĩ của
tôi càng ngày càng mất
khả năng cũng như tinh
thần chiến đấu. Bị cô
lập và phải hoàn toàn
tự lực tất cả mọi mặt,
tôi không t́m ra được
phương thế nào để chấn
chỉnh lại sức mạnh của
đơn vị đang càng lúc
càng rơi vào t́nh
trạng tê liệt. Đă vậy,
thỉnh thoảng các chính
trị viên Việt Minh đến
thanh tra chiến khu
lại gay gắt phê b́nh
và lên án những nhược
điểm của chúng tôi mà
không đề nghị một biện
pháp giải quyết nào
cả.
Đồng thời, qua những
sinh hoạt hàng ngày,
tôi bắt đầu phát hiện
ra vai tṛ quyết định
và đầy ưu thế của đảng
Cộng Sản Đông Dương
đằng sau mặt trận Việt
Minh, một vai tṛ
không những giành độc
quyền chỉ đạo cuộc
kháng chiến chống Pháp
mà c̣n giành độc quyền
quản trị đất nước ngay
từ bây giờ cũng như
trong tương lai. Tính
độc quyền đó, ngay cả
trong giai đoạn kháng
Pháp mà nhu cầu đoàn
kết là một nhu cầu tối
quan trọng, vẫn được
thể hiện qua những vụ
thanh trừng các nhân
vật và lực lượng không
Cộng Sản.
Vừa bực ḿnh v́ thái
độ vô trách nhiệm của
chính uỷ, vừa bắt đầu
lo sợ v́ màu sắc chính
trị không Cộng Sản của
ḿnh, và nhất là vừa
nhớ nhà sau hơn hai
năm trời biền biệt
khói lửa, nên vào một
buổi chiều nọ, tôi rời
khỏi chiến khu Ba Râu,
trốn ra vùng biển Ninh
Chữ, giả vờ làm thường
dân tản cư thuê ghe về
Tuy Hoà để từ đó t́m
đường về quê. Ra đến
Tuy Hoà, không ngờ tôi
lại tạm trú tại nhà
một vị cựu công chức
Nam triều nên được
biết một số tin tức về
ông Diệm.
Nguyên sau khi Việt
Minh cướp chính quyền
tại Nam bộ, ông Diệm
liền theo đường bộ rời
Sài G̣n để về Huế.
Cùng đi với ông có ông
Vơ Văn Hải và một đồng
chí trẻ tuổi tên là
Bảo. Đến Nha Trang th́
ông bị Việt Minh bắt
giữ nhưng nhờ kỹ sư
Đặng Phúc Thông đang
làm việc ở ty Hoả Xa
và một trung uư hiến
binh Nhật can thiệp
nên được trả tự do.
Sáng hôm sau, ông tiếp
tục cuộc hành tŕnh
chỉ với Bảo, nhưng cả
hai lại bị Việt Minh
chận bắt tại sông Cầu.
Riêng ông Vơ Văn Hải,
v́ ngủ quên tại nhà
người quen tại Nha
Trang nên thoát khỏi.
Sau gần hai tuần lễ
chỉ để vượt một đoạn
đường không đến 500
cây số, lúc th́ đi
bằng thuyền, lúc th́
xe hoả, lúc xe hàng,
cuối cùng tôi đă đặt
chân được tới Huế.
Tại ngôi nhà Phú Cam,
tôi mới biết tin ông
Diệm bị Việt Minh bắt
đem ra Bắc không biết
số phận như thế nào,
c̣n ông Ngô Đ́nh Khôi
và người con trai độc
nhất của ông là Ngô
Đ́nh Huân cùng bị bắt
với ông Phạm Quỳnh và
sau đó bị thủ tiêu tại
một địa điểm ở phía
Bắc tỉnh Thừa Thiên.
Một số lớn đồng chí
của tôi, trong đó có
Nguyễn Tấn Quê, kẻ th́
bị bắt giam vào lao
Thừa Phủ, kẻ th́ bị
giam giữ ở những trại
tù bí mật xa thành phố
Huế, có người lại bị
thủ tiêu mất tích.
Về Huế mà tôi như lạc
lơng đến một vùng đất
xa lạ. Cũng thành
quách soi bóng nước
sông Hương mơ màng,
cũng cầu Trường Tiền
sáu vài mười hai nhịp,
cũng tiếng chuông chùa
Thiên Mụ ngân vang,
cảnh cũ vẫn đó mà
người xưa đâu c̣n.
Ngọn cờ đỏ sao vàng
ngạo nghễ tung bay
trên kỳ đài Ngọ Môn đă
làm đảo lộn dân t́nh
xứ Huế. Nhân dân tự
vệ, Vệ Quốc quân đang
soạn sửa để chờ đợi
cuộc giao tranh, dân
chúng đang lo lắng để
tản cư về vùng thôn
dă. Công dân Vĩnh Thuỵ
ra đi, kinh thành
trưởng giả, đài trang,
cổ kính xưa kia, nay
đă biến thành một quê
hương ly loạn. Mấy năm
sau, đọc bài thơ của
Vũ Hoàng Chương, tôi
vô cùng thán phục thi
nhân đă lột tả được
một cách thần t́nh
những thay đổi của Cố
Đô và tâm trạng của
những con người vốn
nặng ḷng hoài cổ:
*
Một gánh gươm đàn
tới Cố Đô,
Mưa liền sông tạnh
tưởng vào Ngô.
B́m leo cửa khuyết
ai ngờ rứa,
Rồng lẫn mây thành
chẳng thấy mô.
Lăng miếu tỉnh
chưa hồn cựu mộng,
Vàng son đẹp nhỉ
bức dư đồ.
Tiếng chuông Thiên
Mụ riêng hoài cảm,
Tốt đă vào cung
loạn thế cờ.
*
Sau khi ở Huế mấy hôm
để ḍ la thêm tin tức
và đau đớn chấp nhận
một thực tại khốc liệt
là tổ chức đă tan,
lănh tụ đă bị bắt, thế
cờ đă loạn, tôi quyết
định rời Huế để trở về
lại quê làng Thổ Ngoạ
của tôi.
Trận đói Ất Dậu (năm
1945) khủng khiếp vẫn
c̣n hằn in nét đau
thương kinh hoàng trên
từng luống đất của
làng xóm, trên mỗi
khuôn mặt của bà con:
mồ mả ngổn ngang mọc
đầy đồng làm loang lổ
những đám ruộng nứt
nẻ, bà con chỉ c̣n
xương bọc da thất thểu
đi t́m nhau trong
tuyệt vọng. Chỉ có cán
bộ Việt Minh và Nhân
dân tự vệ, tay súng
tay dao, hung hăng
hành xử quyền làm chủ
một đại xă nổi tiếng
văn học, nho phong của
ngày xưa.
Gặp lại người vợ ngày
xưa ṃn mỏi v́ trông
đợi mà đôi vai gầy như
oằn xuống v́ sức nặng
của nhớ mong và của
thiên tai, gặp lại hai
đứa con trai c̣m cơi
tay lấm chân bùn đang
ê a những mẫu tự vỡ
ḷng trên chiếc chiếu
lá xơ xác, ḷng tôi
như quặn lại. Tôi tự
nghĩ, chí hướng và sự
nghiệp của ḿnh đă
dang dở mà Việt Minh
th́ bây giờ lại xem
ḿnh như thành phần đă
từng hợp tác với Pháp,
cuộc sống tương lai
chắc chắn sẽ vạn phần
bấp bênh nguy hiểm.
Bị dằn vặt trong tâm
trạng đó, tôi bèn giữ
thái độ "gặp thời thế
thế thời phải thế ,
chủ trương sinh hoạt
như một kẻ an phận thủ
thường để lo nuôi vợ
dạy con, vốn đă quá cơ
cực bần hàn với ước mơ
chịu đựng cho qua cơn
băo tố để chờ ngày
trời quang mây tạnh.
*Nhưng người anh vợ
của tôi, ông Nguyễn Bá
Mưu, vốn bất khuất,
luôn luôn mang đầu óc
quật cường, đă cùng
với một số đảng viên
Việt Quốc thành lập
một tổ chức đối kháng
lại với Việt Minh, t́m
cách bắt liên lạc với
những đảng phái quốc
gia ở ngoài Bắc. Ông
kết nạp những thành
phần cựu hào lư, quân
nhân, công chức chế độ
cũ gồm người cùng làng
và những làng lân cận,
trong đó có hai người
anh ruột và anh rể của
tôi. Nhưng chẳng may
âm mưu bị bại lộ, ông
Nguyễn Bá Mưu cùng một
số đảng viên Việt Quốc
bị ban ám sát của Việt
Minh đang đêm đến chặt
đầu ngay tại nhà.
Người anh rể, một
người anh ruột và tôi
bị bắt lên chiến khu
Trung Thuần, mỗi người
bị đem giam một chỗ.
Trong khi tôi nằm đếm
ngày tháng ṃn mỏi
trôi qua trong ngục tù
của Việt Minh th́ t́nh
h́nh chính sự bên
ngoài vẫn biến chuyển
sôi động. Vào cuối
tháng 5 năm 1946, ông
Hồ Chí Minh đi Pháp
tham dự hội nghị
Fontainebleau để điều
đ́nh với Pháp cho đến
tháng 9 mới trở về với
một bản "modus vivendi
về các hợp tác kinh tế
để chấm dứt các vụ
xung đột. Tháng Sáu
cùng năm đó, đô đốc
Thierry d Argenlieu,
Cao ủy Pháp tại Đông
Dương, đă vi phạm thoả
ước kư kết với nhau từ
tháng Ba, tuyên bố
thành lập một chính
phủ tự trị cho Nam kỳ.
Ngày 23 tháng 11,
trước mâu thuẫn quyền
lợi không thể thoả
hiệp được và trong thế
sống mái quân sự một
mất một c̣n, các chiến
hạm của Pháp tại cảng
Hải Pḥng bắt đầu pháo
vào thị xă và đổ quân
vào thành phố để hành
quân tiến về Hà Nội.
Quân đội Việt Minh rút
về bảo vệ thủ đô nhưng
đến tuần lễ thứ nh́
của tháng 12 th́ quyết
định bỏ trống Hà Nội
cho các đơn vị thanh
niên chống trả, ông Hồ
Chí Minh dẫn bộ tham
mưu và chủ lực chính
quy rút về Việt Bắc
lập chiến khu, mở màn
cho cuộc chiến tranh
Pháp-Việt.
Tháng 6 năm 1947, bắt
được tin t́nh báo cho
hay một đơn vị quân
Pháp đang đóng ở Quảng
Khê (sông Gianh) sẽ
phối hợp với một đơn
vị khác đóng tại làng
Công giáo Đan Sa tái
chiếm Ba Đồn, một vị
trí chiến lược nằm
ngay cửa chính mở vào
mật khu của họ, Việt
Minh bèn thủ tiêu hết
những tù nhân mà chúng
cho là nguy hiểm đang
bị cầm tù. Cả anh ruột
lẫn anh rể của tôi đều
bị sát hại trong quyết
định tàn ác này. Hai
các chết đó đă ám ảnh
tôi rất sâu đậm trong
suốt cuộc đời đấu
tranh của tôi sau này.
Riêng tôi và một số
anh em Công giáo khác
đang bị biệt giam ở
một trại tù ở dưới
chân núi đèo Ngang,
kịp thời phá tù trốn
thoát được trong đường
tơ kẽ tóc. Tôi dựa vào
bóng đêm và men theo
đường rừng, ṃ mẫm về
được làng cũ trong bí
mật. Nhưng chỉ mấy hôm
sau, để tránh tai hoạ
cho gia đ́nh, vào một
buổi tối mưa lớn đổ ào
ạt, nh́n lại lần cuối
hai đứa con trai đang
ôm nhau ngủ vùi trong
manh chiếu rách, hôn
vợ và ôm chặt đứa con
trai thứ ba vừa mới
sinh được hai tháng,
tôi lại lầm lũi ra đi,
rời làng vào Đồng Hới.
Mưa xối nặng nề trên
mái tranh xác xơ của
ngôi nhà như nước mắt
của người vợ hiền tiễn
chồng ra đi ngút ngàn
v́ nghiệp dĩ đấu
tranh...
Vào đến Đồng Hới, đang
bơ vơ chưa biết sẽ
liên lạc với ai để t́m
lại các đồng chí cũ
th́ t́nh cờ gặp được
ông Hoàng Văn Toản,
lúc bấy giờ đang làm
Tổng thư kư của toà
Hành chính tỉnh, cũng
là một thành viên
trong tổ chức của ông
Diệm ngày xưa. Ông cho
biết ông Trần Văn Lư,
hiện đang làm Chủ tịch
Hội Đồng Chấp Chánh
Trung phần, ra lệnh
phải t́m kiếm tôi để
phụ trách đơn vị Bảo
Vệ Quân tỉnh Quảng
B́nh. Tôi bèn cấp tốc
vào Huế gặp ông để từ
chối chức vụ Chỉ huy
trưởng Bảo Vệ Quân và
tŕnh bày thẳng ư định
của tôi về ưu tiên
huấn luyện một tầng
lớp cán bộ chính trị
quân sự. Ông Lư đồng ư
và thảo liền công văn
cho tỉnh trưởng Quảng
B́nh là ông Nguyễn Hữu
Nhân về việc thiết lập
một khoá huấn luỵện
quân sự và chính trị
do tôi phụ trách.
Trong dịp gặp riêng
ông Lư ngoài giờ làm
việc, tôi hỏi thăm tin
tức về ông Diệm và
được biết rằng sau khi
bị bắt ở Sông Cầu, ông
Diệm bị đem ra Bắc cô
lập ở một vùng rừng
núi Việt Bắc cho đến
đầu năm 1946, nhờ giám
mục Lê Hữu Từ, lúc bấy
giờ đang là cố vấn tôn
giáo của ông Hồ Chí
Minh, can thiệp nên
ông được trả tự do.
Sau đó ông Diệm về Hà
Nội ở tại nhà thờ ḍng
Chúa Cứu Thế Nam Đồng
một thời gian rồi khi
th́ lên Cao Nguyên
sống với vợ chồng ông
Ngô Đ́nh Nhu tại Đà
Lạt, khi th́ xuôi miền
Nam sống với giám mục
Ngô Đ́nh Thục tại Vĩnh
Long. Về việc ông Diệm
bị bắt, có một số báo
chí và sách vở Cần Lao
cho rằng trước khi
được phóng thích từ
Thái Nguyên, ông Diệm
đă từ chối lời mời
tham gia hợp tác chính
phủ Hồ Chí Minh, và
ông Hồ đă phải thả ông
Diệm ra sau đó. Nhưng
theo ông Hồ Sĩ Khuê
(tác phẩm Hồ Chí Minh,
Ngô Đ́nh Diệm và Mặt
Trận Giải Phóng, tái
bản lần thứ nhất) th́
ông Diệm bị "giam lỏng
trong bệnh viện
Lannessan (Hà Nội) do
các bà Soeurs trông
coi. Đêm Tổng khởi
nghĩa 19/12/1946, ông
Hồ và Việt Minh phải
đương đầu với t́nh thế
cấp bách mà bỏ quên
ông Diệm tại Hà Nội
trong bệnh viện này.
Nhờ thế, ông Diệm đă
thoát khỏi tay ông
Hồ".
Ngoài ra, ông Lư cũng
cho biết Cựu Hoàng Bảo
Đại hiện ở Hồng Kông
và trở thành một "giải
pháp" cho cả hai ông
Diệm và Lư. Không như
các tổ chức của Nguyễn
Phước tộc ủng hộ Bảo
Đại để phục hồi nền
quân chủ cũ, hai ông
Diệm và Lư ủng hộ Bảo
Đại để tiến đến một
chế độ quân chủ lập
hiến. Theo ông Trần
Văn Lư th́ chế độ này
là một thể chế trung
dung giữa chế độ quân
chủ phong kiến đă lỗi
thời và chế độ Cộng
Hoà Tây phương c̣n quá
mới lạ với quần chúng
cũng như truyền thống
chính trị Việt Nam.
Nhưng dù sao th́, theo
ông, tối thiểu Việt
Nam cũng phải có một
qui chế như Dominion
mới lôi kéo được nhân
dân Việt Nam ra khỏi
hấp lực của Hồ Chí
Minh mà về với Bảo
Đại. Cũng cần phải nói
rơ thêm như Bernard
Fall đă mô tả th́ ông
Diệm là người có đầu
óc phong kiến, quan
lại, cổ hủ, chỉ muốn
bảo vệ một nền quân
chủ. Cho đến năm 1955,
v́ ở vào t́nh trạng
tranh chấp với Bảo Đại
và muốn có quyền hành
thật to lớn, ông mới
chủ trương thành lập
nền Cộng Hoà để làm
một nhà độc tài [3].
Đối với tôi, chọn lựa
này rất phù hợp với tư
thế chính trị và bản
chất đấu tranh của
những người như ông
Diệm và ông Lư, vốn là
những vị quan lại được
sinh ra và lớn lên,
rồi lại được thăng hoa
trong hệ thống phong
kiến, nhưng lại có va
chạm với những định
chế Tây phương trong
vị trí của một viên
chức công quyền. Lửa
cách mạng để lột xác
một cách triệt để và
toàn diện, để dứt
khoát hoàn toàn với
quá khứ không thể có
được trong các ông.
Chính một cộng sự viên
thân tín của ông, sáu
năm sau ngày ông bị
lật đổ, nh́n lại
khoảng thời gian làm
việc chung với ông
cũng đă phê phán như
sau:
"Nhưng ông Ngô Đ́nh
Diệm không phải là
người có tâm lư chính
trị mới mẻ như vậy.
Sinh trưởng trong một
gia đ́nh triều thần,
được đào tạo theo nếp
giáo dục cổ truyền,
rồi chính ông lại thừa
nghiệp nhà mà thờ nhà
Nguyễn: hẳn ông không
phủ nhận những mối
liên lạc tinh thần
giữa vua tôi và thầy
tṛ thuở trước. Chứng
cớ là không thấy ai
bắt buộc hơn ông và
ông Nhu sự trung thành
ở người cộng sự. Trung
thành là điều kiện ưu
tiên được đặt trên cả
tài năng" [4].
Tuy nhận định như vậy,
nhưng lúc bấy giờ, đối
với tôi, thể chế tương
lai chưa phải là mối
quan tâm hàng đầu mà
chính sự xây dựng một
tổ chức vững mạnh với
một đội ngũ cán bộ
kiên tŕ mới là yếu tố
quan trọng để khi đuổi
Tây đi, giành được độc
lập th́ vẫn c̣n sức mà
"sống mái" với lực
lượng Việt Minh của
ông Hồ Chí Minh. Lư
luận đơn giản và chắc
nịch như thế, nên tôi
để mặc những vấn đề
thể chế cho các vị đàn
anh như ông Diệm hay
ông Lư, c̣n ḿnh th́
chỉ xả thân hoạt động
trong phạm vi của
ḿnh.
Tôi trở lại Đồng Hới
làm việc dưới quyền
của ông Tỉnh trưởng
Nguyễn Hữu Nhân để
điều khiển một lớp đào
tạo cán bộ gần 40 khoá
sinh, mà nội dung
giảng huấn gồm cả hai
phần chính trị lẫn
quân sự, nhằm mục đích
xây dựng cái lơi nhân
sự đầu tiên cho một
đơn vị quân chính
tương lai.
Độ gần một tháng sau,
nhân chuyến đi kinh lư
ở Đồng Hới, ông Trần
Văn Lư có ghé thăm lớp
huấn luyện và tỏ ra
rất ngạc nhiên về
những tiến bộ và thành
quả của khoá. Cùng đi
với ông c̣n có kỹ sư
Lê Thế Ngạc (hiện nay
đang ở Mỹ), lúc bấy
giờ là Uỷ Viên của Hội
Đồng Chấp Chánh, và
ông Trần Trọng Sanh,
một lănh tụ Việt Quốc
tại Huế đang làm Giám
đốc Công an Trung phần
(hiện ở Mỹ).
Song song với việc
điều hành lớp huấn
luyện, tôi bắt đầu tổ
chức lại từ căn bản
phong trào ủng hộ ông
Diệm trong địa phương
của ḿnh, đặc biệt là
gây dựng lại hệ thống
nhân sự cho tổ chức.
V́ Đồng Hới là cửa ngơ
mở ra liên khu Tư
nhưng cũng là cửa
thoát cho các phần tử
quốc gia muốn rời bỏ
Việt Minh để "về tề",
nên tôi đă thành lập
một bộ phận chỉ chuyên
điều nghiên để kết nạp
các phần tử này.
Hoạt động của tôi dù
kín đáo bao nhiêu
nhưng cuối cùng cũng
không thoát khỏi đôi
mắt nghi ngờ của mật
thám Pháp. Nghi ngờ đó
biến thành thái độ đối
phó khi họ quyết định
bắt tôi và ba đồng chí
cốt cán của tổ chức
lúc khoá huấn luyện
sắp kết thúc. Thế là
ông Hiệu (trưởng ty
Công an tỉnh Quảng
B́nh), ông Đặng Phúc
(một người bà con của
ông Diệm), ông Phạm
Đăng Tải quận trưởng
quận Lệ Thủy (hiện ở
Mỹ) và tôi bị pḥng
Nh́ Pháp ập vào nhà
riêng từng người bắt
giam, và sau đó giải
về pḥng điều tra của
pḥng Nh́ Pháp tại
Huế.
May mắn thay, nhờ có
đồng chí kịp thời
thông báo, ông Trần
Văn Lư vội can thiệp
ngay với tướng Lebris,
đang vừa là Uỷ Viên
Cộng Hoà, vừa là Tư
lệnh quân đội Pháp ở
miền Trung, nên chúng
tôi được trả tự do.
Cuối tháng 12, Bảo Đại
kư thông cáo chung với
Cao uỷ Emile Bollaert,
chuẩn bị cho Việt Nam
độc lập trong Liên
hiệp Pháp. Tôi quyết
định chuyển từ đấu
tranh bí mật sang đấu
tranh công khai. Quyết
định này phát xuất từ
ba lư do rất rơ ràng:
Trước hết, trong khung
cảnh đấu tranh chính
trị lúc bấy giờ, vấn
đề biểu dương lực
lượng để xác định sự
hiện diện và sự lớn
mạnh của tổ chức rất
cần thiết; thứ nh́ là
cần tạo một số cơ sở
quần chúng để đưa tổ
chức dựa lưng vào nhân
dân; và cuối cùng là
cá nhân tôi và một số
đồng chí đàng nào cũng
có hồ sơ và cũng bị
mật thám Pháp theo dơi
rồi.
Một cơ quan ngôn luận
vừa có chức năng thông
tin tuyên truyền, vừa
có nhiệm vụ đấu tranh
là h́nh thức thích hợp
nhất và có thể trả lời
được ba điều kiện
trên. Tôi bèn bàn với
anh Phan Xứng, người
bạn tri kỷ của tôi,
quyết định cho ra đời
tuần báo Tiếng Gọi.
Tôi làm chủ nhiệm kiêm
chủ bút, c̣n anh Xứng
th́ làm Tổng thư kư
toà soạn với sự hợp
tác của anh Nguyễn Văn
Chuân (sau này là
thiếu tướng, và hiện ở
Mỹ) và Nguyễn Khương
(sau này là đại tá, và
hiện ở Pháp). Bốn
người chúng tôi là chủ
lực phụ trách phần bài
vở nói lên đường lối
của tờ báo và lo phần
điều hành, những bài
vở khác có nội dung
văn nghệ nhưng phù hợp
với chủ trương của tờ
báo th́ do một số nhà
văn ở cố đô Huế được
mời viết.
Lúc bấy giờ ở Huế đă
có hai tờ báo khác:
nhật báo Quốc Gia của
Mặt Trận Quốc Gia Liên
Hiệp, do cựu Thượng
thư Trần Thanh Đạt chủ
trương, và bán tuần
san Ḷng dân, tiếng
nói bán chính thức của
Hội Đồng Chấp Chánh
Trung Kỳ, do ông Vơ
Như Nguyện điều khiển.
Hai tờ báo này có lập
trường chính trị rất
rơ rệt là chống Cộng
Sản và cổ xuư cho giải
pháp Bảo Đại. Tuần báo
Tiếng Gọi của chúng
tôi, ngoài lập trường
chống Cộng, c̣n chủ
chương đấu tranh chống
thực dân đế quốc, ủng
hộ đường lối và cá
nhân ông Ngô Đ́nh
Diệm.
Năm 1948 mở màn với
những vận động sôi nổi
tại Hồng Kông, nơi ông
Bảo Đại trú ngụ. Trước
sự thành h́nh minh
nhiên của giải pháp
Bảo Đại, tôi viết một
bài quan điểm nẩy lửa
kêu gọi ông Bảo Đại
nên chấp thuận lập
trường và chủ trương
của ông Ngô Đ́nh Diệm.
Chủ đích của bài báo
là vừa giới thiệu thân
thế và sự nghiệp của
ông Diệm với quần
chúng đông đảo, vừa
chứng minh rằng một
lập trường cứng rắn
trong giai đoạn này là
thích ứng nhất cho vận
mệnh đất nước. Số tiếp
theo, số 8, tôi lại
viết một bài nhan đề
Con chó đá bên mộ cụ
Phan Bội Châu, đả kích
và lên án gắt gao thái
độ ngoan cố của thực
dân Pháp đang tiến
hành chính sách tái
lập nền đô hộ. Bài này
lại được tờ Quốc Gia
của Mặt Trận Quốc Gia
Liên Hiệp trích đăng
đầy đủ.
Mấy ngày sau, trong
lúc đang cùng với anh
em toà soạn chuẩn bị
ra số tiếp theo th́
nhận được tin sở Liêm
Phóng Pháp sắp bắt tôi
một lần nữa. Ông Trần
Văn Lư lại phải can
thiệp với tướng Lebris
để tôi khỏi vào tù,
nhưng tờ Tiếng Gọi th́
bị thâu hồi giấy phép,
đóng cửa vĩnh viễn.
Sau tám số tung hoành
ngang dọc, tờ Tiếng
Gọi đành im tiếng,
nhưng lời kêu gọi của
nó vẫn c̣n vang vọng
trong ḷng một số
người dân cả ba kỳ.
Tôi thanh toán các hồ
sơ c̣n dang dở, thu
xếp bàn ghế và dụng cụ
rồi bùi ngùi đóng cửa
toà soạn với rất nhiều
cảm xúc. Phan Xứng lên
đường đi Đà Lạt và Sài
G̣n.
Cuối tháng ba, Mặt
trận Quốc Gia Liên
Hiệp vận động cất chức
ông Trần Văn Lư và
thành công trong việc
thay thế ông Lư bằng
ông Hà Xuân Hải trong
chức vụ Chủ Tịch Hội
Đồng Chấp Chánh Trung
Kỳ (nhiều sách Việt
ngữ [5] và ngoại quốc,
sau này, đă sai lầm
khi viết rằng ông Diệm
là lănh tụ của Mặt
Trận Quốc Gia Liên
Hiệp tại Huế. Thật ra,
mặt trận này đă xem
ông Diệm và ông Lư là
những đối thủ quan
trọng).
Đến tháng Năm th́ giải
pháp Bảo Đại thật sự
thành h́nh với sự ra
đời của Chính Phủ
Trung Ương Lâm Thời
tại Sài G̣n do ông
Nguyễn Văn Xuân làm
Thủ tướng, và ông Phan
Văn Giáo, một cộng sự
viên thân tín của ông
Bảo Đại, từ Hồng Kông
về Huế đảm nhận chức
vụ Tổng trấn Trung
phần.
Ông Phan Văn Giáo
nguyên là một dược sĩ
ở Thanh Hoá và đă từng
là bạn thân với ông
Ngô đ́nh Diệm và ông
Nguyễn Đệ. Ông bị Việt
Minh bắt giam gần một
năm rưỡi, khi ra khỏi
tù, ông liền qua Hồng
Kông cộng tác với Cựu
Hoàng Bảo Đại. Ông
Giáo là một chính trị
gia nh́n xa thấy rộng,
hoạt bát, lanh lợi, và
rất b́nh dân. Đối với
binh sĩ và cán bộ dân
sự thường phải trực
tiếp đối đầu với hiểm
nguy, ông coi họ như
bà con ruột thịt,
thường giúp đỡ tiền
bạc mỗi khi họ túng
thiếu. Thỉnh thoảng
ông đi hành quân với
binh sĩ, ngủ lại đêm
với họ ở những tiền
đồn hẻo lánh xa xôi.
Về Huế nhậm chức Tổng
trấn, việc đầu tiên
của ông là tiến hành
việc tổ chức và xây
dựng một quân đội quốc
gia tại miền Trung mà
ông có tham vọng sẽ
thay thế quân đội
Pháp. Ông xin đại uư
Nguyễn Ngọc Lễ, lúc
bấy giờ đang làm việc
trong quân đội Pháp,
về giữ chức Tư lệnh
đội quân quốc gia mà
ông đặt tên là Việt
Binh Đoàn. Theo ông
Giáo, Việt Binh Đoàn
là V.B.Đ. ngầm ư là
vua "Vua Bảo Đại", "V́
Bảo Đại", hay "Với Bảo
Đại". Đại uư Nguyễn
Ngọc Lễ dù cấp số
thuộc quân đội Pháp
nhưng là một phần tử
quốc gia yêu nước mà
nhà văn Nguyễn Vỹ có
đề cập đến trong tác
phẩm Tuấn, chàng trai
nước Việt. Ông Lễ, từ
khi chuyển qua Việt
Binh Đoàn được thăng
cấp thiếu tá, là một
người hiền hậu, chân
thành, ông xem binh sĩ
cấp dưới như anh em
ruột thịt trong nhà.
Với chỉ tiêu của đợt
thành lập đầu tiên là
10.000 quân nhân cho
quân lực Việt Binh
Đoàn, ông Lễ có rất
nhiều cộng sự viên có
khả năng trong bộ tham
mưu của ông. Do đó,
tuy không quen nhau từ
trước nhưng chỉ v́ có
nghe đến khả năng tham
mưu và thành tích đấu
tranh của tôi mà ông
cho mời tôi đến và hợp
tác. Trong buổi hội
kiến đầu tiên, điều
làm cho tôi ngạc nhiên
thật sự và có phần nào
cảm phục là ông Lễ (và
cả ông Giáo) đều biết
tôi là một cán bộ ṇng
cốt của tổ chức ông
Diệm, đối thủ trực
tiếp và đáng kể của cả
hai ông, thế mà v́ nhu
cầu quốc gia, hai ông
đă không ngần ngại kêu
gọi làm việc chung.
Sau khi hội ư với một
số anh em, tôi quyết
định nhận lời để duy
tŕ sự hiện diện của
ḿnh trong một bộ phận
trung ương của quân
đội tương lai. Tôi
được giữ chức Trưởng
Pḥng Ba, đặc trách về
tổ chức, huấn luyện,
và hành quân, đồng
thời kiêm nhiệm chức
chủ nhiệm tuần báo
Tiếng Kèn, cơ quan
ngôn luận chính thức
của quân đội Việt Binh
Đoàn. Cả hai nhiệm vụ
này đều phù hợp với
khả năng và sở thích
của tôi. Tôi thầm
nghĩ: sau Tiếng Gọi
yêu nước, bây giờ là
Tiếng Kèn lên đường,
đều là những tiếng KÊU
tranh đấu cả.
Chỉ hơn một năm sau,
quân đội Việt Binh
Đoàn đă phát triển
mạnh mẽ, tinh thần
chiến đấu cao và khả
năng tác chiến ở mức
khá hiện đại. Tại
nhiều địa phương chiến
lược, đơn vị Việt Binh
Đoàn đă thay thế các
đơn vị của quân đội
Pháp. Uy tín và uy thế
của Việt Binh Đoàn
càng ngày càng lên cao
làm cho các chính
khách ở ngoài Bắc cũng
như trong Nam và các
cấp chỉ huy Pháp đi từ
ngạc nhiên đến thán
phục. Nhiều khi họ tổ
chức hẳn thành những
phái đoàn đến thăm để
nghiên cứu.
Ngày 8 tháng 3 năm
1949, cựu hoàng Bảo
Đại và Tổng thống Pháp
Vincent Auriol kư thoả
ước Elysée biến Việt
Nam thành một quốc gia
"Độc lập trong Liên
Hiệp Pháp", nhưng Quốc
pḥng, Ngoại giao và
Tài chính vẫn bị Pháp
chi phối, kiểm soát.
Tháng 4 năm 1949, Quốc
trưởng Bảo Đại hồi
loan sau ba năm tự ư
lưu vong nơi hải
ngoại. Ông đi công du
ba miền để thăm viếng
đồng bào, về Huế thăm
lại Cố Đô, thăm mẹ già
và cúng kỵ Tiên Vương.
Ông sung sướng thấy
tại miền Trung một
quân đội hoàn toàn
Việt nam, do chính sĩ
quan Việt Nam chỉ huy,
tinh thần cũng như tác
phong hùng dũng, gương
mẫu, không thua ǵ
quân đội chính qui ở
các nước tiên tiến.
Cũng cần nhắc lại năm
ngoái, năm 1948, ông
Phan Văn Giao được
Quốc trưởng Bảo Đại
thăng hàm Trung tướng,
do đó một buổi lễ diễn
binh long trọng do tôi
tổ chức trước lầu Ngọ
Môn để Thủ tướng chính
phủ Nguyễn Văn Xuân,
đại diện cho Cựu Hoàng
đang ở Hồng Kông, gắn
lên vai Trung tướng
Phan Văn Giáo ba ngôi
sao bạc. C̣n năm 1949,
một chợ phiên qui mô,
to lớn để tŕnh bày
thành tích của Việt
Binh Đoàn cũng do tôi
tổ chức tại Bến Thương
Bạc và trên sông
Hương, đă thu hút hàng
chục vạn người tham
dự. Các chính khách,
tướng tá, các nhân sĩ,
thương gia từ Hà Nội,
Đà Lạt, Sài G̣n, đến
dự chợ phiên đông đảo,
tạo cho quang cảnh cố
đô mười ngày đêm tưng
bừng rộn ră vô cùng.
*
Nước Việt Nam, trong
tiến tŕnh lập quốc
rồi Nam tiến mở mang
bờ cơi, và cận đại
hơn, trong chuỗi thời
gian Pháp đô hộ, Nhật
chiếm đóng, Việt Minh
cướp chính quyền, cho
đến khi Pháp trở lại
và giải pháp Bảo Đại
ra đời, đă có đến ba
thủ đô: Hà Nội, Huế và
Sài G̣n. Tùy hoàn cảnh
chính trị, tuỳ triều
đại, tuỳ những đổi
thay của thời cuộc mà
mỗi thành phố lần lượt
mang vai tṛ thủ đô
lănh đạo chính trị,
hành chánh quốc gia.
Ví dụ như từ triều đại
nhà Lư đến hậu Lê, Hà
Nội là thủ đô quốc gia
; triều đại nhà Nguyễn
từ thời Gia Long đến
hết đời Tự Đức, thủ đô
là Huế; và thời Pháp
thuộc, thủ đô là Sài
G̣n. Tuy nhiên, mỗi
thủ đô có một cá tính
đặc thù, như Hà Nội có
tiếng là đất ngàn năm
văn vật, Sài G̣n th́
mang tên ḥn ngọc Viễn
Đông, c̣n Huế, từ thời
nhà Nguyễn đến thời
Việt Nam Cộng Hoà, đă
đóng vai tṛ ǵn vàng
giữ ngọc cho nền văn
hoá dân tộc. H́nh ảnh
và dư âm của những
trường thi Hương, thi
Hội, những chùa chiền,
lăng tẩm, miếu vũ, đền
đài, Hoàng thành, Đại
nội, Văn Vơ Thành,
Tàng thư, Di Luân
Đường, những biến cố
truất biếm hay lưu đầy
các vị vua cách mạng,
sự hiện diện của chí
sĩ Phan Bội Châu mười
lăm năm trời tại Bến
Ngự, những điệu ḥ mái
nh́, mái đẩy, những
câu ca Nam B́nh, Nam
Ai, hay cái áo dài
muôn thuở của người
con gái xứ Huế ... đă
là những biểu tượng
sống động của nền văn
hoá và t́nh tự dân
tộc. Nếu chưa cho
những thành tựu, những
kết tinh đó là đủ th́
phong cảnh, cỏ cây,
hoa lá của xứ Huế, hơn
nơi nào hết, đă hoà
t́nh người với cảnh
vật, đă hoà hồn cá
nhân với hồn vũ trụ
tạo nên khí thiêng và
sức sống của dân tộc.
Trong bối cảnh lịch sử
của thập niên 50,
trong khi Hà Nội như
đang đi vào dĩ văng,
Sài G̣n th́ đang cựa
ḿnh vươn lên để đón
nhận một tương lai
kinh tế và thương mại
phồn thịnh, th́ Huế
vẫn tượng trưng cho sự
quyết tâm bảo tồn và
phát triển văn hoá dân
tộc, kiên tŕ bám chặt
lấy truyền thống cốt
lơi. Cho nên Huế đă
giữ đúng vai tṛ trọng
yếu trong sự phát huy
quốc học nói chung và
Phật học nói riêng.
Thử kiểm điểm những
bia miếu, liệt kê
trong những ngôi chùa,
thử làm một danh bản
những bậc cao tăng,
ghi lại những nhọc
nhằn đau đớn mà dân
tộc đă gánh chịu,
những hân hoan kiêu
dũng của một kinh đô
giữa ḷng đất mẹ, th́
ta sẽ thấy ngay một
bức tranh sinh động về
văn hoá và tinh thần
của dân tộc Việt Nam.
V́ quen nghĩ đến Huế
như một biểu tượng
b́nh lặng, khuất ch́m
trong cuộc sống nên ít
người biết rằng dưới
cái lớp vỏ u hoài cô
tịch của xứ Huế, có
một sức sống mănh
liệt, dạt dào đang
luôn sôi sục để nếu có
một cơ hội là vùng lên
phát huy, tung nở đoá
hoa dân tộc. Những
biến cố lịch sử cận
đại cũng đủ để chứng
minh điều đó rồi.
Sau những mùa chiến
chinh ly loạn với bao
thay đổi đoạn trường,
những lá cờ cũng thay
h́nh biến dạng đổi màu
từ cờ Long Tinh qua cờ
Quẻ Ly, rồi từ cờ đỏ
sao vàng biến thành cờ
tam tài xanh trắng đỏ
cho phù hợp với những
đổi thay phông cảnh,
đào kép trên sân khấu
chính trị. Riêng dân
Việt Nam, tôi muốn nói
đến những người Việt
quốc gia chống Cộng
phải chấp nhận thế
đứng đớn đau ở bên này
chiến tuyến, quả thật
đă hoàn toàn tuyệt
vọng v́ có chính nghĩa
mà không làm sáng bùng
lên chính nghĩa đó khi
(v́ lư do này hay lư
do khác, dưới h́nh
thức này hay h́nh thức
khác) phải cùng với
người Pháp bảo vệ
những mảnh đất quê
hương c̣n tự do. Cho
nên sự trở về của vua
Bảo Đại, với sự ra đời
của lá cờ vàng ba sọc
đỏ như một biểu tượng
hồi sinh mới, đă tượng
trưng cho một niềm hy
vọng.
Đồng ư là vua Bảo Đại
đă có thời gian là một
vị vua bù nh́n, sống
cuộc đời thụ hưởng ở
quê người. Nhưng năm
1948, sau những vận
động ngoại giao khôn
khéo trong những điều
kiện khó khăn nhất của
một kẻ mất đất mất
dân, yếu thế, ông đă
thành công trong nỗ
lực tiến lên một bước,
một bước đầu tuy ngắn
nhỏ nhưng cơ bản, để
đặt nền móng cho chế
độ gọi là quốc gia sau
này. Một ông vua đă
lột xác, đă thức tỉnh
để giữ đúng và giữ
trọn tinh thần của lời
tuyên bố bốn năm trước
rằng:
"Trẫm hy sinh ngai
vàng điện ngọc cho
quốc dân" và "Trẫm
thoái vị để thà làm
dân một nước độc
lập, c̣n hơn làm vua
một nước nô lệ"
[6].
V́ vậy, ông trở về và
đă được những lực
lượng đấu tranh trong
nước đón nhận như một
biểu tượng của thế
quốc gia chống Cộng
của người Việt Nam.
Nhiều chính khách,
nhân sĩ yêu nước và có
hoạt động cách mạng,
trước đây giữ thái độ
trùm chăn hoặc chống
đối người Pháp bằng
thái độ bất hợp tác,
nay cũng quyết định ra
mặt ủng hộ Quốc trưởng
Bảo Đại như các ông
Phan Khắc Sửu, Nguyễn
Tôn Hoàn, Hoàng Nam
Hùng,Vũ Hồng Khanh,
Ngô Thúc Định, Nguyễn
Phan Long... và nhiều
nhân vật trọng yếu
trong các đảng Đại
Việt, Việt Quốc, hay
các giáo phái Cao Đài,
Hoà Hảo. Đặc biệt,
giám mục Lê Hữu Từ vốn
là Cố vấn Tôn Giáo của
ông Hồ Chí Minh và
từng duy tŕ giáo phận
Phát Diệm của ngài
trong tư thế "tự trị",
cũng từ bỏ thái độ này
và sát nhập vùng tự
trị Phát Diệm vào cộng
đồng quốc gia dưới
quyền cai trị của Quốc
trưởng Bảo Đại [7].
Ngay cả ông Ngô Đ́nh
Diệm, dù sau này đă
từng xuống tay hạ nhục
ông Bảo Đại bằng một
cuộc trưng cầu dân ư
lạ lùng, th́ cũng là
một Thủ tướng do chính
Bảo Đại bổ nhiệm, và
tháng 7 năm 1954, khi
vị Tân Thủ tướng ra
Huế, th́ cũng đă phải
đến cung Diên Thọ
trong nội thành cố đô
Huế để cúi đầu bái yết
đức Từ Cung, thân mẫu
của Quốc trưởng Bảo
Đại. (Tâm trạng của
ông Diệm và ư nghĩa
đích thực của cuộc
trưng cầu dân ư năm
1955 đă được ông Đoàn
Thêm phân tách rơ ràng
trong chương "hạ bệ và
suy tôn" của tác phẩm
Những ngày chưa quên).
Cho nên, lật lại những
trang sử cũ, khách
quan và nghiêm chỉnh
nh́n lại những biến
động của đất nước
trong thời gian đó để
đừng v́ tinh thần bè
phái và xúc động chủ
quan mà bóp méo sự
thật, ta phải công
nhận rằng chính Bảo
Đại đă đặt viên đá đầu
tiên xây dựng nền tảng
pháp lư, cơ sở quốc
gia, và nội dung chống
Cộng cho các chế độ
Cộng hoà sau này. Nền
tảng đó, cơ sở đó, nội
dung đó, nếu sau này
theo t́nh h́nh mà tăng
trưởng hay lụn bại, mà
đẹp thêm hay xấu đi
th́ viên đá đầu tiên,
với những giới hạn của
trạng huống đất nước
lúc đó, vẫn có giá trị
không chối căi được
của một viên đá đầu
tiên.
Nói rơ ra, phải có một
Bảo Đại mới có một Ngô
Đ́nh Diệm. Cũng như
phải có một Ngô Đ́nh
Diệm th́ mới có một
Nguyễn Văn Thiệu trong
sự liên tục luân lưu
của lập trường chống
Cộng từ năm 1949 cho
đến năm 1975. Sự sụp
đổ thảm bại của quyết
tâm đó và lực lượng
đó, ngoài những yếu tố
khách quan và ngoại vi
khác, là do ông Ngô
Đ́nh Diệm và ông
Nguyễn Văn Thiệu, chứ
phần lớn nhất không
phải là và không thể
là do ông Bảo Đại.
Giải pháp Bảo Đại đă
khai sinh ra Việt Binh
Đoàn, tiền thân đích
thực của Quân đội Việt
Nam Cọng Ḥa sau này,
một đội quân hoàn toàn
Việt Nam trên phương
diện tổ chức, nhân sự
và đường lối. Tuy
người Pháp lúc bấy giờ
có thành lập một số
"tiểu đoàn Việt Nam"
nhưng những tiểu đoàn
này vẫn do sĩ quan
Pháp hoặc tay sai của
họ chỉ huy và vẫn bị
người Việt Nam khinh
bỉ v́ bản chất "lính
đánh thuê" của chúng.
Trái lại, Việt Binh
Đoàn, dù chưa có
truyền thống của một
quân đội độc lập lâu
dài, dù c̣n phải phối
hợp với quân đội Pháp
để cùng chiến đấu
chống lại bộ đội Cộng
sản, đă thực sự là một
quân đội quốc gia
(trong ư nghĩa chủ
quyền và tự quyết) để
che chở và bảo vệ nhân
dân đang kẹt giữa hai
lằn đạn của Việt Minh
và Pháp. Chính Việt
Binh Đoàn với trường
Vơ Bị Quốc Gia đầu
tiên ở Huế đă cung cấp
cho quân lực Việt Nam
Cộng Hoà sau này những
sĩ quan chỉ huy cấp
tướng và cấp tá. Cũng
chính Việt Binh Đoàn
đă đào tạo ra những
chiến sĩ anh dũng (sau
này được chọn lựa vào
Lữ Đoàn Liên Binh
Pḥng Vệ Tổng Thống
Phủ của ông Diệm) và
những cấp chỉ huy của
hai sư đoàn 1 và 2 can
trường đương đầu sóng
gió Trị Thiên.
Nhớ lại thời kỳ chập
chững h́nh thành của
Việt Binh Đoàn với bao
khó khăn và trở ngại
phải khắc phục, nhớ
lại thời kỳ phát triển
vàng son của Việt Binh
Đoàn với những chiến
thắng oanh liệt, tôi
không khỏi liên tưởng
đến cựu Trung tướng
Nguyễn Ngọc Lễ bây giờ
đă là người ngàn thu,
và ông Trần Nguyên An
(hiện ở Mỹ) nguyên
Tham Mưu Trưởng Việt
Binh Đoàn. Một người
tượng trưng cho lư
tưởng, tinh thần và ư
chí, một người biểu
tượng cho óc tổ chức,
tài quyền biến và khả
năng vận động của lực
lượng vơ trang đầu
tiên này của quốc gia
Việt Nam. Chính hai
người này, trong t́nh
nghĩa chung lưng đấu
cật với tôi, trong nỗi
chia sẻ công tác khó
khăn với tôi, đă ảnh
hưởng khá nhiều đến
con người nhà binh của
tôi sau này.
Tuy nhiên, dù bận rộn
v́ công vụ, dù tâm
t́nh có chia sẻ với
những người bạn mới
trong công tác chung,
và dù trên mặt hệ
thống quân giai có
trực thuộc ông Nguyễn
Ngọc Lễ và ông Phan
Văn Giáo (do đó, Quốc
trưởng Bảo Đại), ḷng
tôi vẫn luôn luôn nghĩ
về ông Ngô Đ́nh Diệm
v́ những liên hệ keo
sơn đă kết tinh từ
lâu, và nhất là v́ ư
thức chính trị và kinh
nghiệm đấu tranh thực
tiễn cho tôi thấy rằng
t́nh h́nh Việt Nam
không thể ngưng lại
trong t́nh trạng của
một quốc gia độc lập
mà lại c̣n có chính
quyền Pháp kiểm soát,
của một quân đội chống
Cộng mà lại c̣n phối
hợp với lính viễn
chinh Pháp đang khủng
bố, tàn sát đồng bào
ruột thịt.
Giải pháp Bảo Đại chỉ
là giải pháp tạm thời
để khai thông một số
bế tắc chính trị. Sự
hợp tác giữa ông Bảo
Đại và Pháp chỉ là sự
hợp tác giai đoạn, kết
quả của một thế chính
trị có lợi cho cả hai
bên, do đó, không sớm
th́ muộn, một giải
pháp khác sẽ phải ra
đời cho phù hợp với
t́nh h́nh quốc tế và
sự đe doạ càng lúc
càng nguy hiểm của
đảng Cộng Sản trong
ḷng cuộc kháng chiến
của Việt Minh. Giải
pháp khác đó phải đặt
nền tảng trên chủ
quyền quốc gia của
người Việt mà thể hiện
đầu tiên và rơ ràng
nhất là quân đội quốc
gia phải hoàn toàn
thuộc về một chính phủ
Việt Nam. Tôi suy nghĩ
(và ước mơ) rằng giải
pháp đó là giải pháp
Ngô Đ́nh Diệm.
V́ thế, từ khi trở lại
Huế vào cuối năm 1948,
tôi đă tiếp tục đến
sinh hoạt ở ngôi nhà
Phú Cam, nơi ông Ngô
Đ́nh Cẩn đang ở, để
cùng với một số anh em
thảo luận những kế
hoạch chính trị nhằm
ủng hộ cho ông Diệm.
Ông Ngô Đ́nh Cẩn là
một người có cung cách
và tác phong giống hệt
một viên chánh tổng
của miền quê Bắc Việt.
Chân đi guốc gỗ, mặc
áo bà ba lụa trắng,
miệng nhai trầu nhóp
nhép nhưng nói phô
trịch thượng và lại
khinh người. Với ai
ông Cẩn cũng gọi là
thằng nọ, thằng kia,
ngay cả với ông Bảo
Đại. Ông Cẩn chỉ trích
và chê bai tất cả các
đảng phái và thường
huyênh hoang bảo rằng
"bọn Đại Việt, Việt
Quốc có đến mời tôi
làm lănh tụ nhưng "bọn
đó" chẳng làm nên tṛ
trống ǵ nên tôi từ
chối". Ông Cẩn có
tiếng nói rơ ràng và
cặp mắt rất sắc, đôi
lông mày rậm và hơi
xếch lên theo cái
tướng của những người
hiểm ác, dám làm những
việc táo bạo. Sáu
người con trai của ông
Ngô Đ́nh Khả ai cũng
học hành thành tài và
có sự nghiệp, chỉ
riêng ông Cẩn mới học
đến lớp ba tiểu học
th́ v́ ham chơi mà đứt
ngang việc học hành.
Cũng v́ thế mà khi lớn
lên, Ông Cẩn chỉ lo
việc đồng áng, chăm
sóc bà cụ thân sinh và
phụ trách các việc
quan, hôn, tang, tế
trong gịng họ Ngô
Đ́nh.
Từ năm 1948, một phần
v́ tổ chức bị tan ră
từ trước và phần khác
v́ ông Diệm không có
mặt thường trực tại
Huế. nên số cán bộ cũ
không c̣n lại bao
nhiêu người, chỉ thưa
thớt có các ông Vơ Như
Nguyện, Trần Văn
Hướng, Nguyễn Vinh, và
tôi, vốn là những đồng
chí cũ của ông Diệm từ
thời tiền 1945.
-
-
Dần dần, nhờ nỗ lực
phát triển của chúng
tôi và nhất là nhờ có
một số người ư thức
được rằng giải pháp
Bảo Đại chưa phải là
một giải pháp lâu dài
để giải quyết dứt
khoát và toàn bộ vấn
đề Việt Nam, nên họ
lượng định lại "lá
bài" Ngô Đ́nh Diệm, và
muốn liên hệ với chúng
tôi như một lối thoát
chính trị trừ bị, do
đó họ cùng đến sinh
hoạt và ủng hộ chúng
tôi. Nhóm này có các
ông Nguyễn Đôn Duyến,
Tôn Thất Trạch, Phạm
Văn Nhu, Trương Văn
Huế, Phùng Ngọc Trưng,
Nguyễn Văn Đông, Bùi
Tuân, Huỳnh Hữu
Hiến... Linh mục
Nguyễn Văn Thính thuộc
ḍng Chúa Cứu Thế ở
Huế, cũng thường lui
tới ngôi nhà Phú Cam
để yểm trợ và theo dơi
t́nh h́nh.
Số lượng ủng hộ ông
Diệm càng ngày càng
gia tăng, phần đông là
các linh mục và những
người theo Công Giáo.
Tuy nhiên, cho đến
ngày ông Diệm về nước
(vào năm 1954), số
lượng đó chỉ hơn 30
người ở khắp bốn tỉnh
miền trung Trung phần.
Ông Trần Điền (sau này
là nghị sĩ Quốc Hội
thời Đệ Nhị Cộng Hoà)
và ông Nguyễn Trân
(sau này là Tỉnh
trưởng Nha Trang dưới
thời ông Diệm) cũng
thỉnh thoảng đến nhà
ông Ngô Đ́nh Cẩn,
nhưng hai ông này chỉ
đến gây cảm t́nh và để
nghe ngóng t́nh h́nh
chứ không phải thực sự
ủng hộ ông Diệm. Ông
Trần Điền, v́ một mặt
có bà con với ông Hà
Thúc Kư (một lănh tụ
Đại Việt ở miền
Trung), mặt khác là
cộng sự viên thân tín
của ông Trần Văn Lư,
lại có ư khinh bỉ ông
Cẩn nên không thực tâm
ủng hộ; c̣n ông Nguyễn
Trân, v́ có mặc cảm là
một cựu tri phủ tham
nhũng của Nam Triều bị
hạ hồi dân tịch, lại
có xu hướng thân Pháp,
nên không dám hoạt
động cho giải pháp Ngô
Đ́nh Diệm [8]
Ông Trần Văn Lư, vốn
là một đồng chí kỳ cựu
của ông Diệm, trong
thời kỳ làm Chủ tịch
Hội Đồng Chấp Chánh đă
giúp đỡ tiền bạc để
ông Diệm tiêu dùng và
chi phí việc đi lại
Hồng Kông gặp gỡ Cựu
hoàng Bảo Đại. Nhưng
từ khi ông Cẩn thấy tổ
chức của anh ḿnh bắt
đầu sống lại và càng
ngày càng phát triển
mạnh thêm th́ bắt đầu
có thái độ khinh
thường ông Lư, cho nên
kể từ tháng 3 năm
1948, khi ông Lư mất
chức Chủ tịch Hội Đồng
Chấp Chánh th́ hai gia
đ́nh không c̣n liên hệ
ǵ với nhau nữa. Các
ông Diệm, Nhu, và giám
mục Thục có lẽ v́ nghe
lời dèm pha và xúi
giục của ông Cẩn nên
cũng chấm dứt mối
tương quan với ông Lư.
Thời bấy giờ ở Huế,
ông Cẩn công khai bày
tỏ sự căm thù đối với
dược sĩ Nguyễn Cao
Thăng, và gọi là Việt
gian, vô luân, v́ ông
Thăng là bạn giao t́nh
của Thủ hiến Phan Văn
Giáo, người mà ông Cẩn
thù ghét. Ông Nguyễn
Cao Thăng c̣n là tay
chân thân tín của Thủ
tướng Nguyễn Văn Tâm
và là đại diện thợ
thuyền của ông Tâm tại
Trung phần. Nhưng lư
do chính và sâu kín
nhất mà ông Cẩn thù
hằn ông Thăng là v́
ông này thường công
khai gọi ông Cẩn là
"hạng nhai trầu, dựa
tên tuổi của cha anh
mà làm tàng, hàng
chánh tổng mà đ̣i làm
lănh tụ..." Ông Cẩn
c̣n tuyên bố với anh
em chúng tôi là hễ có
chính quyền trong tay
th́ người đầu tiên ở
Huế mà ông ta chặt đầu
là Nguyễn Cao Thăng.
(Cuối năm 1954, khi
ông Diệm đă làm Thủ
tướng, tức là ông Cẩn
"đă có chính quyền
trong tay", ông bèn ra
lệnh cho nhóm Lê Quang
Tung, Trần Thái ném
lựu đạn vào nhà riêng
của ông Trần Văn Lư và
vào nhà thuốc của ông
Nguyễn Cao Thăng ở
đường Trần Hưng Đạo.
Ông Trần Thái hiện
sống ở Mỹ).
Từ năm 1948, các ông
Thục, Diệm, và Nhu
thỉnh thoảng về Huế để
thăm bà cụ thân sinh.
Cứ mỗi lần như vậy,
nhất là khi chính ông
Diệm về, chúng tôi lại
tổ chức các cuộc gặp
gỡ trong ṿng đồng chí
và thân hữu để thảo
luận về t́nh h́nh
chính trị, t́nh h́nh
chiến sự và các kế
hoạch cần phát động.
Và từ đó, chúng tôi
xiết chặt ṿng thân
hữu lại bằng cách yêu
cầu các thân hữu (chứ
không phải chỉ các
đồng chí trong tổ chức
mà thôi như trước kia)
cứ mỗi ba tháng lại
đóng góp một số tiền
để giúp đỡ ông Diệm,
ông Nhu có khả năng
hoạt động chính trị.
Sau này, khi ông Diệm
xuất ngoại, số tiền
đóng góp của chúng tôi
lại tăng thêm và
thường xuyên hơn.
Ông Thục và ông Nhu
cũng tỏ ra cởi mở và
vui vẻ hơn ngày xưa,
thường hỏi thăm hoàn
cảnh gia đ́nh và tâm
sự cá nhân riêng tư
của chúng tôi. Vào một
buổi chiều tháng 6 năm
1950 ông Nhu đă nhờ
ông Vơ Như Nguyện và
ông Huỳnh Hữu Hiến
hướng dẫn đến thăm tôi
tại căn nhà nghèo nàn
chật hẹp ở cửa Đông
Ba. Lúc bấy giờ tôi là
một Trung uư trong
quân đội Việt Binh
Đoàn với một người vợ
đảm đang nhưng quê mùa
và bốn đứa con trai mà
đứa đầu mới 10 tuổi.
Trong căn pḥng khách
chật hẹp và nóng nực,
và cũng là pḥng học
và pḥng ngủ của các
con tôi, ông Nhu tuy
mồ hôi nhễ nhại mà
cũng vui vẻ dùng chén
chè xanh và cho biết
sở dĩ ông đến thăm tôi
v́ lời giới thiệu đặc
biệt của hai ông Diệm
và Cẩn về một cán bộ
trung kiên, tâm huyết,
can trường và biết
sống chết cho lư
tưởng. Tôi c̣n nhớ ông
Nhu đă nói thẳng rằng:
"muốn làm cách mạng
th́ phải có những
chiến sĩ như anh, c̣n
hạng khoa bảng chỉ là
bọn nhát gan, hay tính
toán và chỉ biết tranh
giành địa vị để làm
giàu".
Ông Cẩn tuy thường
ngạo mạn và ra oai với
mọi người nhưng cũng
biết e dè với cụ
Trương Văn Huế, một
bậc lăo thành, với ông
Vơ Như Nguyện và tôi,
hai cán bộ dám chỉ
trích và tranh luận
tay đôi với ông ta.
V́ những sinh hoạt của
tôi tại ngôi nhà Phú
Cam càng ngày càng
công khai, và v́ ông
Cẩn càng ngày càng đả
kích Quốc trưởng Bảo
Đại nên một hôm, Thủ
hiến Phan Văn Giáo,
với tư cách là cấp*
chỉ huy của tôi, đă
mời tôi đến văn pḥng
để cảnh cáo dưới h́nh
thức của một buổi nói
chuyện thân t́nh:
"Moa biết toa làm việc
với moa mà toa vẫn cứ
trung thành và hoạt
động cho Ngô Đ́nh
Diệm. Nhóm Ngô Đ́nh
Cẩn làm ǵ, kể cả việc
nói xấu Đức Quốc
Trưởng và chỉ trích
moa, moa biết hết.
Nhưng moa tha cho hết
v́ nhóm đó cũng là
những người chống Cộng
sản, chống Việt Minh,
huống chi moa biết
Diệm quá rơ, Diệm
không làm nên tṛ
trống ǵ đâu, bọn toa
có hoạt động cũng vô
ích, cũng chẳng đi tới
đâu, nên moa chẳng cần
bắt bớ.
"Toa chưa biết chứ Ngô
Đ́nh Diệm, Nguyễn Đệ
và Phan Văn Giáo đă có
một thời kết nghĩa anh
em như "Les trois
Mousquetaires". Diệm
lù khù như một nhà tu,
lại dang dở việc t́nh
duyên nên moa và Đệ
gọi y là "Aramis". (Đệ
là ông Nguyễn Đệ,
nguyên Đổng lư văn
pḥng của Quốc trưởng
Bảo Đại. Trong hồi kư
Le Dragon d Annam, Bảo
Đại cũng cho biết ông
Đệ và ông Diệm là đôi
bạn thân, khi ông Diệm
từ chức Thượng thư Bộ
Lại th́ ông Đệ cũng từ
quan luôn. Ông Đệ hiện
ở Pháp – Ghi chú của
tác giả).
"Có lẽ v́ Ngô Đ́nh Cẩn
tự ái không cho toa
biết chứ moa đă giúp
đỡ cho mụ Cả Lễ (em
gái ông Diệm) nhiều vụ
đấu thầu để bà ta có
lời lấy tiền giúp cho
Diệm và Cẩn hoạt động.
Chủ trương của moa là
các đảng phái quốc gia
cần phải được chính
quyền giúp đỡ v́ họ
càng hoạt động, càng
tổ chức, th́ càng làm
giảm tiềm lực Cộng
Sản, hàng ngũ chống
Cộng càng tăng thêm.
Trước đây Trần Văn
Hướng (anh ruột của
Trần Văn Dĩnh) làm Phó
Giám đốc Thông Tin, in
bài báo của đại sứ
William Bullit để đả
kích Quốc trưởng rải
khắp nơi trong ư đồ
ủng hộ ông Diệm, moa
cũng tha thứ, th́ nay
moa chỉ gọi toa đến để
nói cho toa biết ḷng
quảng đại, khoan dung
của moa chứ moa không
làm tội t́nh ǵ toa
đâu". (Những lời lẽ
của ông Giáo trên đây
tôi có nói lại cho ông
Cẩn và các bạn bè như
ông Duyến, Nguyện,
Hướng biết).
Sau này, năm 1954, khi
ông Diệm mới từ Mỹ về
nước cầm quyền th́ ông
Giáo đang là Thủ hiến
Trung Việt (nhiệm kỳ
hai). Trong lần ông
Diệm trở về Huế để bái
yết đức Từ Cung và
thăm những tôn miếu
trong Hoàng thành, ông
Giáo đă tổ chức một
cuộc đón rước rất
trọng thể tại sân bay
Phú Bài và ngay tại cố
đô Huế. Nhưng chỉ độ
một tháng sau th́ ông
Diệm cách chức ông
Giáo, điều tra tài sản
và đe doạ khiến ông
Giáo phải trốn đi
Pháp.
Ông Giáo không phải là
người hoàn toàn và
chắc chắn đă có những
lỗi lầm cá nhân, nhưng
trên mặt công việc,
nhất là công việc
chung của đất nước,
ông là một nhân vật có
lập trường quốc gia
chống Cộng rất vững
chắc, một cán bộ cao
cấp có tài tổ chức, có
tầm nh́n xa và rộng,
lại có tinh thần đoàn
kết rộng răi và biết
trọng dụng nhân tài.
Đă từng công tác với
ông trong một số công
việc khó khăn và quan
trong, tôi cứ tiếc
hoài một người như ông
Phan Văn Giáo mà không
làm Bộ trưởng Quốc
Pḥng để tổ chức và
chỉ huy quân đội quốc
gia hầu đọ sức thi tài
với ông Vơ Nguyên
Giáp.
Ngày 7 tháng 2 năm
1950, Hoa Kỳ và Anh
quốc cùng công nhận
nước Việt Nam độc lập
và thiết lập quan hệ
ngoại giao với chính
quyền Bảo Đại. Toà đại
sứ Hoa Kỳ đầu tiên đặt
tại Sài G̣n do ông
Donald Heath, một nhà
ngoại giao kỳ cựu,
điều khiển. Trong khi
đó th́ Mao Trạch Đông,
sau khi thống nhất
được Trung Hoa Lục
Địa, bắt đầu kế hoạch
quân viện quy mô cho
Việt Minh dọc theo
miền biên giới Việt
Hoa.
*
Như vậy, những vận
động âm ỉ từ trước của
các cường quốc về số
phận của nước Việt Nam
bắt đầu phát động mạnh
mẽ bằng những biểu
dương ngọai giao và
quân sự ngay trong
ḷng đất nước vào mùa
xuân năm 1950, mặc
những nỗ lực tội
nghiệp của đế quốc
Pháp đang trên đà suy
tàn. Và đến cuối năm,
sau khi bị đánh bại
nặng nề ở Cao Bằng,
ngày 6 tháng 12, chính
phủ Pháp bổ nhiệm
tướng Jean De Lattre
de Tassigny làm Tổng
tư lệnh quân đội kiêm
Cao uỷ Đông Dương để
mong cứu văn t́nh h́nh
càng ngày càng nguy
ngập.
Tháng 2 năm 1951, ông
Hồ Chí Minh thành lập
đảng Lao Động để thay
thế cho đảng Cộng Sản
đă được tuyên bố giải
tán từ năm 1945, và
thống nhất Mặt Trận
Liên Hiệp nhằm lôi kéo
những lực lượng chống
Pháp không Cộng sản
khác. Cũng trong mùa
xuân năm đó, tôi được
thuyên chuyển ra Đồng
Hới giữ chức Chỉ huy
trưởng lực lượng Việt
Binh Đoàn tỉnh Quảng
B́nh. Trước khi lên
đường về nhiệm sở mới,
trong văn pḥng ông
Phan Văn Giáo và có
mặt cả ông Nguyễn Ngọc
Lễ, ông Giáo cho biết
người Pháp đă phản đối
kịch liệt quyết định
bổ nhiệm tôi vào chức
vụ quan trọng này v́
họ không tin tưởng vào
lập trường chính trị
của tôi. Trước khi ra
về để lên đường, ông
mới nói rơ ư định thật
của ḿnh: "Moa giải
thích với người Pháp
về chuyện bổ nhiệm toa
giữ chức chỉ huy quân
sự rằng toa là người
quê Quảng B́nh nên
hiểu rơ dân tính và
địa thế vùng đất chiến
lược này. Moa muốn toa
hợp tác chặt chẽ với
bên dân sự là tỉnh
trưởng Nguyễn Văn An ở
ngoài đó. (Nguyễn Văn
An tức Nguyễn Tấn Quê,
mưu sĩ xuất sắc nhất
của ông Diệm mà tôi đă
đề cập đến trong
chương hai, ông đổi
tên từ sau khi ở tù
Việt Minh ra. Từ đây
tôi sẽ chỉ gọi tên
Nguyễn Văn An để thay
thế cho tên Nguyễn Tấn
Quê). Hai anh em sẽ
bắt tay nhau chặt chẽ
để b́nh định tỉnh
Quảng B́nh, v́ moa
đang điều đ́nh với
người Pháp để họ giao
hoàn toàn quyền cai
trị tỉnh này lại cho
chính quyền Việt Nam.
Quảng B́nh là nơi đứng
đầu sóng ngọn gió đối
đầu với Liên khu Tư
của Việt Minh, ḿnh
phải tỏ ra đủ khả năng
đương đầu với Việt
Minh trên cả hai mặt
trận chính trị và quân
sự th́ ngựi Pháp mới
dần dần trả đất đai
quyền hành lại cho Đức
Quốc trưởng".
Tôi về lại Quảng B́nh,
quê hương thân thương,
và cùng với ông Nguyễn
Văn An bắt tay liền
việc xây dựng và phát
triển sức mạnh của
Việt Binh Đoàn như một
sức mạnh vừa công vừa
thủ, vừa có chức năng
bảo vệ các cơ sở hành
chánh và kinh tế, vừa
có nhiệm vụ tiêu diệt
các đơn vị vơ trang
của địch.
Cũng trong năm1951
này, một hôm tôi nhận
được điện tín mật của
ông Nguyễn Đôn Duyến
(tôi nhớ h́nh như lúc
bấy giờ ông đang làm
Tỉnh trưởng Thừa
Thiên) chuyển lời của
ông Ngô Đ́nh Cẩn nhờ
chấm số tử vi của ông
Diệm xem trong tương
lai gần có biến chuyển
ǵ không. Liên lạc
thêm với ông Duyến,
tôi mới biết cụ bà Ngô
Đ́nh Khả mang trọng
bệnh sắp mất và ông
Cẩn đă nghĩ đến chuyện
"hậu sự" cho bà như
chuẩn bị quan tài, in
thiếp báo tang và cũng
đă đánh điện tín thông
báo cho ông Diệm lúc
bấy giờ đang ở Hoa Kỳ
biết.
Tại Đồng Hới có một
thầy tử vi rất giỏi là
thầy Dụ mà ông Cẩn, dù
là một tín đồ Thiên
Chúa giáo ngoan đạo và
vẫn thường chỉ trích
những h́nh thức bói
toán này, đă nhấn mạnh
với ông Duyến nhờ nói
với tôi là phải đến
ông thầy này chứ không
ai khác. Tôi đến gặp
thầy Dụ và đưa tuổi
ông Diệm mà tôi giả vờ
bảo là tuổi anh cả của
tôi để thử tài và nhờ
đoán hộ một số. Bấm
tay xong, thầy Dụ bảo
tuổi Canh Tư này không
phải là tuổi của anh
tôi mà phải là tuổi
của một nhân vật rất
tiếng tăm nhưng cuộc
đời th́ "thăng trầm vô
độ". Thầy Dụ lần lượt
kể ra những đặc biệt
của số này: Một là anh
em của người này phải
có người làm tu sĩ cấp
cao, hai là anh em
phải có người chết bất
đắc ḱ tử, ba là tuổi
này đă có một đại hạn
(mười năm) làm quan
rất lớn, bốn là trong
đại hạn hiện tại, tuổi
này chỉ là bạch đinh
và phải xa nhà, xa anh
em vạn dặm trùng
dương, năm là tuổi này
về đường thê thiếp th́
vợ con vô thuỷ vô
chung v́ cặp mắt có
nốt ruồi thương phu
trích lệ, và cuối cùng
là đại hạn sắp tới
(mười năm tiếp theo)
công danh tột đỉnh,
tiếng tăm vang lừng,
nhưng sẽ bị thiên hạ
nửa ghét nửa thương.
Tôi ngắt lời thầy Dụ
để hỏi :"Ai ở đời mà
không có người thương
người ghét?" thầy Dụ
đồng ư nhưng ông cho
là rất khó nói v́
thương ghét ở đây c̣n
có ư là phe đảng,
thuần phục và chống
đối. (Sau này tôi mới
hiểu ra được thời gian
ông Diệm cầm quyền th́
đất nước bị chia đôi
thành hai phe Quốc-
Cộng). Điểm quan trọng
mà ông Cẩn muốn biết
là ông Diệm có về kịp
để nh́n mặt mẹ trước
khi tống táng cho mẹ
không th́ thầy Dụ bảo
rằng: "số này là số mẹ
khóc con, nghĩa là mẹ
sẽ chết sau con" (xin
lưu ư là lúc bấy giờ
h́nh như bà cụ đă gần
90 tuổi rồi). Ông Diệm
là lănh tụ của tôi, là
niềm hy vọng của tôi
cho nên tôi hỏi thêm:
"Nếu trong đại hạn
tới, tuổi Canh Tư công
danh tột bực, tiếng
tăm vang khắp cơi, vậy
th́ đường công danh
của ông có kéo dài vài
chục năm không?" Thầy
tử vi tài ba này vội
trả lời: "Số này v́
cung Phúc Đức kém lắm,
số đại phát mà cũng
đại sát! Công danh chỉ
kéo dài mười năm mà
thôi". Tôi gửi thư trả
lời cho Ngô Đ́nh Cẩn
về việc bà cụ chưa thể
từ trần, Cẩn hết sức
vui mừng . Lúc chia
đôi đất nước, thầy Dụ
di cư vào Huế ở phường
Tây Lộc trong Thành
Nội, được ông Cố vấn
Chỉ đạo Chính trị miền
Trung nhắn gởi lời
khen. Người con trai
thầy Dụ là một sĩ quan
ngành Công Binh Tạo
Tác được ông Cẩn giữ
lại tại Huế, khỏi phải
thuyên chuyển đi nơi
khác, như là một sự
đền ơn. (Việc này,
nhiều người đồng hương
Quảng B́nh c̣n nhớ
rơ). Theo ông Cẩn th́
tất cả những điều thầy
Dụ nói đều đúng hết.
Số mệnh của ông Diệm
như đă tŕnh bày trên
đây, lúc bấy giờ tôi
cũng kể cho các bạn
tôi biết.
Giờ đây nhớ lại ông
Diệm sinh năm Canh Tư
mà quên mất tháng,
ngày, giờ âm lịch,
những yếu tố cần thiết
để có thể an sao hầu
biết chi tiết về cả
cuộc đời ông. Nhưng
nh́n vào từng đại hạn
để đối chiếu với thực
tế th́ thấy rơ số của
ông đúng là"thăng trầm
vô độ" và "đại phát
đại sát". Số của ông
Diệm thuộc về Mộc tam
cục, nghĩa là mỗi đại
hạn bắt đầu bằng tuổi
tận cùng có số 3. Ta
thấy cuộc đời của ông
Diệm cho đến 23 tuổi
th́ hết vận thanh
niên, học hành, sửa
soạn cho sự trưởng
thành. Từ 23 đến 33
tuổi (1923-1933) ông
làm quan thăng chức
như diều. Từ 33 đến 43
tuổi (1933-1943) là
hạn xấu, mất hết quyền
lộc nhưng chưa đến nỗi
truân chuyên. Vận này,
ông về nhà sống bên
cạnh mẹ và em nhưng
chưa đến nỗi tù tội,
cô lập, ly cách. Nhưng
hạn 44 đến 53 tuổi
(1944- 1953) ông gặp
Thiên la Địa vơng, bị
Pháp bắt năm 44 tuổi,
phải đi trốn, bị Việt
Mnh bắt, bị giam cầm,
khi được tự do cũng
không làm nên được
công nghiệp ǵ, phải
xuất ngoại (ly cách).
Từ 54 đến 63 tuổi
(1954-1963), ông đến
hạn phát giả như lôi,
làm nên sự nghiệp
(Tổng thống), tiếng
tăm vang lừng như "sấm
sét".
Cuối năm 1963, ông bị
sát hại như tiếng vang
rền của sấm sét tan
vào không gian, đúng
với số "thăng trầm vô
độ" và "đại phát đại
sát", đồng thời cũng
phù hợp với cung Phúc
Đức rất xấu của ông.
Năm 1951, cụ bà Ngô
Đ́nh Khả chưa măn phần
là một yếu tố may mắn
cho cuộc đời chính trị
của ông Diệm v́ nếu cụ
mất, ông Diệm về chịu
tang th́ thế nào cũng
bị người Pháp gây phó
khăn không cho đi nữa.
Lư do không phải như
ông đă kể lại với kư
giả Robert Shaplen của
tờ The New Yorker rằng
ông bị Việt Minh xử tử
h́nh vắng mặt, v́
"người Pháp không đủ
nhân viên an ninh để
bảo vệ nên cho phép
ông xuất ngoại" [9].
Lư do thật sự là trên
đường xuất ngoại để
vận động với lực lượng
Thiên Chúa giáo quốc
tế và Hoa kỳ, lúc ghé
lại Hông Kông, ông đă
đưa ra lời tuyên bố
với báo chí có nội
dung chống Quốc trưởng
Bảo đại và chính sách
của Pháp tại Việt Nam.
Ông cũng tuyên bố
"chính phủ tương lai
phải là một chính phủ
gồm toàn những nhân
vật đang cầm súng
kháng chiến" chứ không
phải là hạng người mà
ông cho là bù nh́n và
tay sai của Pháp như
Bảo Đại và nội các
đương nhiệm.
Chuyện ông Diệm xuất
ngoại sẽ được tŕnh
bày trong chương tiếp
theo và bây giờ xin
trở lại với thời gian
tôi đang về Quảng B́nh
làm việc.
Một hôm, tôi vào văn
pḥng Tỉnh trưởng th́
gặp ông Nguyễn Văn An
đang đàm luận với một
tu sĩ Phật giáo, ông
bèn giới thiệu với tôi
vị tăng sĩ này. Đó là
lần đầu tiên tôi gặp
Thượng toạ Thích Trí
Quang, vị tăng sĩ sau
này, năm 1963, đă làm
"rung động nước Mỹ" và
lănh đạo lực lượng
Phật giáo để cùng với
quần chúng cả nước
đương đầu với chế độ
Ngô Đ́nh Diệm, Thượng
toạ Trí Quang lúc bấy
giờ c̣n trẻ, gương mặt
xương, hai lưỡng quyền
cao và cặp mắt rất
sáng, tuy nhiên cách
nói chuyện của ông rất
nhỏ nhẹ mà rơ ràng.
Tôi vào một lát th́
Thượng toạ Trí Quang
ra về. Ông An cho tôi
biết Thượng tọa trụ
tŕ ở Huế nhưng được
ông An đích thân mời
ra Đồng Hới trong ư
định nhờ Thượng toạ
yểm trợ kế hoạch Việt
nam hoá tỉnh Quảng
B́nh mà ông Phan Văn
Giáo đă uỷ thác cho
chúng tôi. Tỉnh trưởng
Nguyễn Văn An kết luận
rằng "quân sự th́ có
anh, chính trị th́ có
tôi, c̣n thế nhân dân
th́ phải nhờ đến
Thượng toạ". Hỏi thêm
th́ ông An cho biết đă
quen với Thượng toạ
Trí Quang trong thời
kỳ hoạt động chung cho
Hội Chấn Hưng Phật
Giáo miền Trung với
Bác sĩ Lê Đ́nh Thám,
một cư sĩ tiếng tăm
của Phật giáo.
Hai con người đa mưu
túc trí đó đều mang
chung hoài băo xây
dựng một vùng "Ba Thục
Việt Nam", không Việt
Minh, không Pháp, để
làm căn cứ địa cho một
chiến lược lâu dài
(chính v́ hoài băo lớn
đó mà Nguyễn Văn An đă
không trở lại hoạt
động cho ông Diệm nữa
như những đồng chí cũ,
mà lại hợp tác với ông
Phan Văn Giáo và Quốc
trưởng Bảo Đại để lợi
dụng thời cơ tính
chuyện lâu dài). An
dặn tôi phải giữ bí
mật tối đa tung tích
và hoạt động của
Thượng toạ Trí Quang
v́ người Pháp vẫn c̣n
nghi ngờ Thượng toạ
thân Việt Minh chống
Pháp.
Chương tŕnh xây dựng
tỉnh Quảng B́nh đang
phát triển tốt đẹp th́
ông Phan Văn Giáo bị
tân Thủ tướng Trần Văn
Hữu cất chức và bổ
nhiệm ông Trần Văn Lư
thay thế. Ông Lư bèn
gửi văn thư yêu cầu
tôi rời Đồng Hới tức
tốc trở về Huế giữ
chức Tham Mưu trưởng
Việt Binh Đoàn thay
thế cho Thiếu tá Trần
Nguyên An, tay chân
thân tín của ông Phan
Văn Giáo. Đại uư Tôn
Thất Xứng (hiện ở
Canada) được cử thay
thế tôi
Rời Quảng B́nh mà ḷng
tôi không khỏi bùi
ngùi và luyến tiếc.
Không những bùi ngùi
v́ phải từ biệt một
đồng chí thân thiết và
luyến tiếc v́ công tác
b́nh định đang trên đà
thắng lợi mà c̣n v́
trong mấy tháng ở đó,
với tư cách chỉ huy
trưởng quân sự, tôi đă
được dịp thăm kỹ và
thăm hết vùng đất quê
hương thân yêu của tôi
mà thời niên thiếu tôi
đă không có cơ hội
thực hiện được. Tôi
cũng đă đến thăm Diên
Điền, quê hương của
Thượng toạ Trí Quang,
chỉ cách tỉnh lỵ Đồng
Hới có ba cây số, cũng
như đến làng An Xá và
làng Đại Phong, quê
hương của các ông Vơ
Nguyên Giáp và Ngô
Đ́nh Diệm. Chính nhờ
những dịp gặp gỡ với
người trong làng,
những dịp tiếp xúc
thân t́nh với các bô
lăo kỳ cựu trong xóm
mà tôi t́m hiểu được
một số dữ kiện về xuất
xứ, gịng họ của các
ông Diệm, ông Giáp và
Thượng toạ Trí Quang
(những dữ kiện mà
những sách báo và tài
liệu v́ muốn suy tôn
và huyền thoại hoá các
nhân vật này đă không
muốn đề cập đến). Thật
ra, lúc bấy giờ, sự
t́m hiểu này là để
thoả măn óc ṭ ṃ về
các nhân vật cùng quê
đang có liên hệ đến
công việc của ḿnh chứ
không phải v́ sau này
ba người đồng hương
kia trở thành ba đối
thủ lợi hại mà tên
tuổi vang lừng khắp
bốn bể năm châu, mà
những quyết định nhiều
khi làm đảo điên vận
mệnh đất nước.
Với nhiệm vụ của một
Tham Mưu trưởng trực
thuộc Trung tá Nguyễn
Ngọc Lễ trong hệ thống
quân giai và thủ hiến
Trần Văn Lư trong hệ
thống hành chánh, tôi
được giao hai công tác
quan trọng và khẩn
cấp: Thứ nhất là cải
tổ Việt Binh Đoàn trở
thành quân đội chính
quy, thống nhất vào
quân đội quốc gia, phụ
thuộc vào Bộ Tổng Tham
Mưu Trung Ương Sài
G̣n. Bộ Tổng Tham Mưu
Việt Nam này vừa được
thành lập với tất cả
những sơ hở và yếu kém
của một định chế mới
chào đời trong những
điều kiện khó khăn của
những bước đầu chập
chững (Ông Nguyễn Văn
Hinh, nguyên Trung tá
Không quân của quân
đội Pháp được đặc cách
phong Thiếu tướng
thuyên chuyển qua làm
Tổng Tham Mưu trưởng).
Sự thành lập quân đội
quốc gia nằm trong chủ
trương chung của Quốc
trưởng Bảo Đại và
Tướng De Lattre và phù
hợp với điều kiện tiên
quyết của Hoa Kỳ, chỉ
muốn viện trợ quân sự
để thành lập một quân
đội chính quy cho quốc
gia Việt Nam (từ ngày
9 tháng 3 năm 1950,
ông Acheson đă yêu cầu
Tổng thống Truman
chuẩn chi 15 triệu Mỹ
kim viện trợ cho người
Pháp tại Đông Dương và
6 tháng sau "The Voice
Of America" bắt đầu có
phần tin tức ngữ Việt
) [10]. Việc này là
nhờ uy tín của Quốc
trưởng Bảo Đại.
Công việc khẩn cấp thứ
hai của tôi là thành
lập một số tiểu đoàn
tác chiến chính quy mà
quân nhân gồm toàn
thanh niên Công giáo
động viên từ vùng Phát
Diệm và các giáo khu
miền Bắc để thành lập
một sư đoàn trong kế
hoạch phản công tiến
chiếm tỉnh Thanh Hoá.
Những thanh niên này
sẽ được bí mật không
vận về Huế để được
huấn luyện đặc biệt và
được tổ chức thành các
đơn vị tác chiến tinh
nhuệ, rồi lại đưa về
Phát Diệm để thực hiện
kế hoạch tái chiếm
Thanh Hoá. Đây là một
chiến dịch tối mật do
giám mục Lê Hữu Từ và
thủ hiến Trần Văn Lư
đề nghị và được Tướng
De Lattre và Thủ tướng
Trần Văn Hữu đồng ư
thực hiện.
Tôi mới thành lập được
một tiểu đoàn mang
danh số "Tiểu đoàn 27"
và sắp măn khoá huấn
luyện tại Quảng Trị
th́ tại Sài G̣n, tháng
8 năm 1952, ông Trần
Văn Hữu từ chức và ông
Nguyễn Văn Tâm được
vua Bảo Đại uỷ nhiệm
lên thay thế. V́ là
một bạn thân của cựu
Thủ tướng Trần Văn
Hữu, ông Trần Văn Lư
bị giải nhiệm chức Thủ
hiến Trung phần.
Ông Nguyễn Văn Tâm là
thân phụ của tướng
Nguyễn Văn Hinh, có
hỗn danh "Cọp Cai
Lậy", là một người
thân Pháp và nổi tiếng
rất chống Cộng tại
miền Nam. Nội các do
ông thành lập, trừ ông
Vơ Hồng Khanh lănh tụ
Việt Nam Quốc Dân Đảng
làm Bộ trưởng Thanh
Niên và Thể Thao, số
c̣n lại gồm toàn những
nhân vật không được
quần chúng tín nhiệm
v́ xu hướng thân Tây
quá rơ ràng. Vị lănh
sự Mỹ tại Hà Nội đă
phúc tŕnh cho Hoa
Thịnh Đốn rằng nội các
này sẽ trở thành "một
đối tượng tuyên truyền
cho Việt Minh" và chỉ
là sự "trở lại khốn
cùng của tiền Mỹ máu
Pháp"[11].
Cả ông Hinh lẫn Trung
tá Trần Văn Đôn (lúc
bấy giờ là Giám đốc An
Ninh Quân đội) đều nắm
vững hồ sơ cá nhân của
tôi và biết tôi là
phần tử chống Pháp và
hoạt động cho ông Diệm
nên quyết định tê liệt
hoá hoạt động của tôi
bằng cách thuyên
chuyển tôi ra Bắc
Việt, trao quyền Tham
Mưu Trưởng Đệ Nhị Quân
Khu tại Huế lại cho
Thiếu tá Trương Văn
Xương, một sĩ quan tay
sai của Pháp và là
nhân viên thân tín của
Tướng Hinh.
Ngày ra đi, sân bay
Phú Bài nắng chói
chang, vợ tôi và sáu
đứa con nhỏ nhờ người
đồng chí của tôi là
ông Thái Văn Châu chở
lên phi trường để tiễn
chồng, tiễn cha đi về
miền Bắc khói lửa ngút
ngàn. Tôi c̣n nhớ hai
câu thơ tả cảnh biệt
ly năo nuột đó mà tôi
đă viết gởi về cho các
con tôi một năm sau:
******************
Mi con tràn lệ cha
rơi lệ
************** Mà
lệ khôn cầm cảnh
chia tay...
Tính sổ lại cuộc đời
trong tám năm truân
chuyên đó, tôi đă vào
tù ra khám nhiều lần
(của cả Tây lẫn Việt
Minh), tôi đă tổ chức
nhiều cơ cấu và đă
phát động nhiều chiến
dịch có tầm ảnh hưởng
mạnh và dài, tôi cũng
đă hoặc chỉ huy trực
tiếp hoặc làm việc với
những nhân vật mà
quyết định của họ (lúc
đó hay sau này) liên
hệ đến vận mệnh quốc
gia; và trên hết, tôi
đă quyết tâm keo sơn
với một lănh tụ duy
nhất, cho một tổ chức
duy nhất trong ánh
sáng chỉ đường rực rỡ
của lư tưởng đời ḿnh
là độc lập cho nước
nhà. Độc lập, ôi hai
tiếng huyền diệu của
thập niên 40!
Nhưng những lên và
xuống đó của tám năm
trôi nổi trong một đời
người chỉ là những nổi
trôi bé nhỏ và khiêm
nhường khi so sánh với
những biến chuyển vĩ
đại của đất nước trong
cơn chuyển ḿnh đau
đớn. Có hàng vạn thanh
niên như tôi ở cả hai
phía, đă đổ máu cho
ḷng đất mẹ thêm màu
mỡ, đă phơi xương cho
hồn dân tộc thêm kiêu
hùng. Tôi hănh diện
được là giọt nước,
hiện diện đầy đủ và
hành xử đúng đắn,
trong ḍng sông miên
man của lịch sử Việt
Nam thuộc giai đoạn
đó.
Cho nên khi giă từ
miền Trung thân thương
để có mặt tại chiến
trường Việt Bắc khói
lửa, tuy tim th́ như
muối xát mà trí th́ mở
rộng để đón chờ những
ngày gian nguy hơn sắp
bắt đầu.
[1] Vơ Nguyên Giáp,
Những Chặng Đường Lịch
Sử, tr.319.
[2] Bernard Fall, Le
Viet Minh, tr.183-185
[3] Bernard Fall, The
Two Vietnam, tr.236.
[4] Đoàn Thêm, Những
Ngày Chưa Quên, tr. 10
và 11.
[5] Phạm Kim Vinh,
Những Bí Ẩn Về Cái
Chết Của Việt Nam Cọng
Ḥa, tr. 74.
[6] Trích lời tuyên bố
thoái vị của vua Bảo
Đại đọc trước lầu Ngọ
Môn ngày 25-8-45 khi
trao ấn kiếm cho Trần
Huy Liệu, đại diện Mặt
Trận Việt Minh. Tư
liệu của tác giả.
[7] Bảo Đại, Le Dragon
d Annam, tr. 247.
[8] Trong lá thư gởi
tờ Sun Valley đề ngày
4/5/87 cho một số báo
chí, ông Nguyễn Trân
viết rằng* “Trước đó
mấy tháng một tên Nhật
Bản tới phủ hỏi tôi về
việc trồng bông vải,
tôi trả lời đất Tỉnh
Gia phần nhiều là đất
cát, rau cải cũng
không trồng được mà
ăn, nên không trồng
bông vải được. Không
biết tên thông dịch
viên Việt Nam dịch thế
nào mà tên Nhật Bản
chồm lên để đánh tôi.
Tôi tránh được, nhưng
nghĩ thế khó làm việc,
th́ bệnh của nhà tôi
đă cho tôi cái dịp xin
nghỉ dài hạn 6 tháng”.
Đoạn viết này nhằm
giải thích và phản bác
việc tôi cho rằng ông
Trân tham nhũng nên bị
hạ hồi dân tịch. Tuy
nhiên chúng tôi đă
được cụ Phạm Đ́nh
Nghị, cựu Tỉnh trưởng
Quảng Ngăi và là một
đảng viên cao cấp Quốc
Dân Đảng, hiện sống
tại El Toro,
California, xác nhận
điều tôi viết đúng. Cụ
Nghị học cùng trường
với ông Trân và theo
dơi kỹ hoạn lộ của ông
Trân sau này. Do đó,
dữ kiện trên vẫn được
giữ nguyên trong lần
tái bản nầy.
Trong tác phẩm "Hồ Chí
Minh, Ngô Đ́nh Diệm và
Mặt Trận Giải Phóng"
(1992, NXB Văn Nghệ),
tác giả Hồ Sĩ Khuê ở
Pháp, một người đă
từng làm việc ở mức độ
chiến lược với hai ông
Diệm Nhu, nhân nhắc
đến thời kỳ ông Trân
làm Tỉnh trưởng tại
Định Tường cũng đă xác
nhận ông Trân bị "Phủ
Toàn Quyền cất chức v́
hối lộ".
Ngoài ra, trên báo Tia
Sáng số 18, xuất bản
tại Houston ngày
20-6-87, có bài của
ông Trương Thiện (bút
hiệu của một Thiếu tá
không quân ngày xưa
làm việc tại Nha Trang
và hiện đang ở Long
Beach, California)
cũng đă tố cáo ông
Trân tham nhũng như
sau:
"Thưa cụ Nguyễn
Trân,
Chỉ v́ một số đố
kỵ, ích kỷ, cố bào
chữa cho lỗi lầm cá
nhân ḿnh mà cụ đă
đi vào cái lầm lẫn
quá lớn lao đối với
tuổi đời đang chồng
chất trên bản thân.
Theo tôi biết, Tướng
Đỗ Mậu c̣n thiếu sót
khi viết về màn ly
kỳ nhất lúc Tỉnh
Trưởng Nguyễn Trân
tham nhũng ở Nha
Trang độ nào đă bị
bác sĩ Nguyễn Thạch
(anh em cột chèo với
cụ) xách súng rượt,
cụ phải chui vào cầu
tiêu (W.C.) trốn,
lúc bác sĩ Thạch dí
súng vào đầu, cụ van
lạy để được tha tội!
Sau đó bác sĩ Thạch
vào khám Chí Hoà một
thời gian chỉ v́
chống tham nhũng
Nguyễn Trân và gia
đ́nh Ngô Đ́nh Diệm".
Ngoài ra, trong tác
phẩm "Công và Tội"
(trang 117), ông
Nguyễn Trân kể lại
rằng trước khi rời Nha
Trang, ông "...có kư
một chi phiếu hai
triệu gửi nơi Linh mục
Cần, căn dặn chỉ nên
đưa cho người nào có
chữ kư của tôi mà thôi
để đưa lại cho anh em
kháng chiến. Không
biết sao Đỗ Mậu biết
được việc đó, đến năn
nỉ để nhận nói là nuôi
quân...".
Đây là một sự bịa đặt
thiếu khôn ngoan: Thứ
nhất, một số tiền rất
lớn của chính phủ, làm
sao linh mục Cần chỉ
v́ một lời "năn nỉ" mà
lại trao cho tôi. Thứ
hai,dù có trao cho tôi
th́ không có chữ kư
của ông Trân làm sao
Ty Ngân Khố dám phát
tiền ra. Thứ ba, sau
đó khi Thủ tướng Diệm
cho điều tra vụ này
th́ chỉ thẩm vấn và
định truy tố ông
Nguyễn Trân ra toà án
mà không thẩm vấn tôi,
lại không thấy lúc đó
ông Trân khai vụ tôi
"năn nỉ" linh mục Cần.
Ngược lại, vào đúng
thời điểm này, tôi lại
được thăng chức Trung
tá. Số tiền hai triệu
bạc đó, theo tôi, chỉ
do một trong hai người
thủ đắc: hoặc linh mục
Cần (mà tôi thực sự
không biết là ai) hoặc
chính ông Nguyễn Trân.
[9] Robert Shaplen,
The Lost Revolution,
tr. 109-112.
[10] Stanley Karnow,
Vietnam A History, tr.
177.
[11] Stanley Karnow,
Vietnam A History, tr.
177.
NHỮNG
NGÀY CUỐI CÙNG
********************** **** CỦA
THỰC DÂN PHÁP
*
Cho đến đầu Thu năm 1952, tổng số
quân nhân Pháp bị tử trận, thương*
vong và mất tích tại Đông Dương lên
đến hơn 90.000 người. Chi phí cho
chiến trường này bằng hai lần số
kinh viện của Hoa Kỳ trong khuôn khổ
chương tŕnh viện trợ tái thiết
Marshall. Tại quốc hội Pháp, từ ngữ
“la sale guerre” (cuộc
chiến tranh bẩn thỉu) bắt đầu được
xử dụng trong các cuộc tranh luận
giữa các phe chủ chiến và chủ ḥa.
Trong khi đó th́ tại miền Bắc Việt
Nam, tướng Vơ Nguyên Giáp đánh bật
các đơn vị thiện chiến của tướng
Raoul Salan ra khỏi cứ điểm Ḥa B́nh
và bắt đầu tung ba sư đoàn chiếm một
ngôi làng bé nhỏ tên là Mường Thanh
ở biên giới Việt - Lào trong một
vùng ḷng chảo bề dài 18 cây số, bề
ngang 8 cây số có tên gọi là Điện
Biên Phủ.
Mấy tuần lễ trước khi Ḥa B́nh thất
thủ, tôi bị tướng Nguyễn Văn Hinh
thuyên chuyển ra Bắc. Hồi bấy giờ, “ra
Bắc” được xem như là một biện
pháp chế tài đối với những sĩ quan ở
miền Trung* và miền Nam, v́ t́nh
h́nh sôi động của chiến sự và v́
những tổn thất nặng nề về phía những
quân nhân Việt Nam. Hầu hết những sĩ
quan Việt Nam trung cấp bị đổi ra
Bắc đều ít nhiều có hồ sơ chống
Pháp, hoặc chống Bộ Tổng Tham mưu
của tướng Nguyễn Văn Hinh.
Tôi theo học khóa Tiểu Đoàn trưởng
và khóa Liên Đoàn Lưu Động (để được
cập nhật hóa với chiến trường Việt
Bắc) do Đại tá Vanuxem, một trong
những sĩ quan cao cấp xuất sắc nhất
của Pháp lúc bấy giờ điều hành. Cùng
khóa với tôi có Trung úy Nguyễn Văn
Thiệu.
Măn khóa, Thiệu, có thêm Trung úy
Cao Văn Viên và tôi, được lệnh
thuyên chuyển ra mặt trận Hưng Yên,
tŕnh diện với Trung tá Dương Quư
Phan, một sĩ quan nổi tiếng thân
Pháp, tay chân của tướng Cogny. Tư
Lệnh miền Đông Bắc Việt đang đóng ở
Hải Dương. Mặt trận Hưng Yên vừa
được bộ tư lệnh Pháp trao trả phần
trách nhiệm lại cho quân đội quốc
gia Việt Nam và đang bị những áp lực
nặng nề. Bộ Tổng Tham mưu Sài g̣n
chỉ định tôi làm Tham mưu trưởng,
Cao Văn Viên làm trưởng pḥng Nh́ và
Nguyễn Văn Thiệu làm trưởng pḥng
Ba. C̣n pḥng Tư vẫn do một Đại úy
người Pháp phụ trách. Bộ chỉ huy và
trung tâm hành quân khu chiến được
đặt tại ngôi giáo đường to lớn rộng
răi của tỉnh lỵ Hưng Yên mà linh mục
bề trên đă vui ḷng cho quân đội
Pháp xử dụng từ trước.
Ba anh em chúng tôi được cấp phát
chung một căn pḥng nhỏ vừa đủ để ba
cái ghế bố loại nhà binh và hàng
ngày ăn cơm tại câu lạc bộ sĩ quan.
Buổi tối, lúc trở lại pḥng để chuẩn
bị đi ngủ, Thiệu và tôi thường phân
tích và luận bàn về t́nh h́nh chính
trị và chiến sự đến khuya. Riêng
Viên vốn tính ít nói nên chỉ thỉnh
thoảng góp ư kiến mà thôi.
Tháng 4 năm 1953, tuy t́nh h́nh
chiến sự ở Lào trở nên quyết liệt
hơn khi Việt Minh chiếm Cánh Đồng
Chum và tiến quân về Luang Prabang,
thủ đô Hoàng gia Lào, nhưng không v́
thế mà áp lực quân sự giảm bớt tại
chiến trường Bắc Việt. Tháng 5 năm
đó, tướng Henri Navarre thay thế
tướng Salan nhưng chỉ làm cho quân
Pháp thêm lúng túng v́ quan điểm
chiến lược thiếu thực tế của vị
tướng lạnh lùng và cô đơn đă từng
tham gia hai trận thế chiến này.
Quân đội Pháp hoàn toàn bị động ngay
cả ở thế pḥng thủ. Hết căn cứ này
đến căn cứ khác lần lượt bị mất vào
tay địch hoặc bị rút bỏ, chỉ c̣n giữ
lại một ít địa bàn ở các giáo phận
Công giáo như Bùi Chu, Phát Diệm, Kẻ
Sặt…và các tỉnh chung quanh Hà Nội
và Hải Pḥng.
Trước t́nh thế bi quan đó, một hôm
Nguyễn Văn Thiệu đă hỏi tôi: “Theo
anh th́ cuộc chiến tranh hiện tại
sẽ đi về đâu và tương lai Việt Nam
sẽ như thế nào?” Đó là câu
hỏi có tính toàn bộ và lâu dài nhưng
tôi vẫn xác quyết với Thiệu và Viên
là “thế nào Pháp cũng bị bại
trận và t́m giải pháp thỏa hiệp
với Việt Minh, đất nước sẽ bị chia
đôi nhưng không biết chia ở khu
vực nào. Hoa kỳ sẽ can thiệp vào
Việt Nam để chận đứng mưu đồ bành
trướng của Cộng Sản ở Đông Nam Á
và Hoa Kỳ sẽ đưa ông Diệm về nước
nắm chánh quyền”. Sau này tại
Sài G̣n, mỗi lần gặp tôi, Thiệu
không quên nhắc lại chuyện cũ và
công nhận tôi nh́n xa thấy rộng.
Sống tại Bắc Việt và đặc biệt tại
Hưng Yên, tôi ở vào t́nh trạng của
một sĩ quan đang thọ phạt dưới h́nh
thức của sự lưu đày. Những đêm trăng
lạnh lùng của xứ Bắc, với cái tâm
trạng “cử đầu vọng minh nguyệt,
đê đầu tư cố hương”, tôi nhớ
về quê hương miền Trung, nơi đang có
gia đ́nh, bạn bè và tổ chức. Tôi hồi
tưởng đến những công tác đang dang
dở và những đồng chí đang lưu lạc
với rất nhiều nhớ thương. Nỗi niềm
đó cộng với ư thức chính trị, tinh
thần dân tộc cực đoan un đúc bởi
mười năm hoạt động, làm tôi không
thiết tha một chút nào với công việc
hiện tại, một công việc tuy gọi là
chống Cộng sản nhưng trước hết chỉ
làm lợi cho người Pháp trong ư đồ
bám víu lấy mảnh đất thuộc địa mà
không thực tâm trao trả độc lập lại
cho người Việt Nam, một nền độc lập
đă biến thành ư thức chỉ đạo của dân
tộc, mà v́ nó và do nó mà trước tôi
đă tồn tại đến ngày nay. Cho nên
trong suốt thời gian ở tại Hưng Yên,
tôi đă cố t́nh không để một chút
nhiệt tâm nào vào công vụ.
Thái độ đó lại được củng cố vững
chắc hơn vào ngày 27 tháng 5 năm
1953, khi tại Sài G̣n, hội nghị Đoàn
Kết đ̣i hỏi “độc lập ḥa b́nh
cho Việt Nam” do các đoàn thể
chính trị của các giáo phái Cao Đài,
Ḥa Hảo, các đảng phái chính trị như
Đại Việt, Việt Quốc và các nhân vật
tên tuổi như Trần Trọng Kim, Trần
Văn Ân, Nguyễn Xuân Chữ, Ngô Đ́nh
Nhu,…tổ chức đă phổ biến lập trường
quyết liệt của nhân dân Việt Nam. Do
đó, tôi thường t́m cơ hội lên Hà Nội
liên lạc với một số đồng chí và thân
hữu như ông Mai Văn Toan (sau này
làm Dân biểu dưới chế độ ông Diệm),
ông Trần Trung Dung (sau này giữ
chức Phụ tá Bộ trưởng Quốc Pḥng
thời Đệ Nhất Cộng Ḥa)…để theo dơi
hoạt động của ông Diệm tại Hải ngoại
và t́m hiểu những biến chuyển mới
của t́nh h́nh chính trị.
Mỗi lần đi Hà Nội về, tôi lại mang
theo một số báo Xă Hội (do ông Nhu
chủ trương) để phổ biến cho một số
sĩ quan và nhân sĩ tại Hưng Yên
trong mục đích xây dựng hậu thuẫn
cho chủ trương chính trị của ông
Diệm. Trong những dịp đi hành quân
hay thanh tra các đơn vị, tôi cũng
thường tŕnh bày cho các sĩ quan
biết t́nh cảnh trôi nổi hiểm nghèo
thật sự của đất nước Việt Nam trong
cái thế tương tranh Pháp - Cộng và
thuyết phục họ về con đường nào mà
một người Việt Nam thực sự yêu nước,
đặc biệt nếu người Việt Nam đó lại
là một chiến sĩ cầm súng, nên chọn
lựa.
Nhưng rồi những hoạt động “phi
quân sự” đó của tôi dần dần
bị báo cáo lên cho Bộ chỉ huy rồi
đến tai Trung tá Dương Quư Phan, nên
tôi bị tướng Cogny phạt 60 ngày
trọng cấm, hạ tầng công tác và
thuyên chuyển về Liên Đoàn Lưu Động
số 3, đang hành quân tại vùng Ninh
B́nh do Thiếu tá Phạm Văn Đổng (hiện
ở Mỹ) chỉ huy. Lư do bị phạt ghi
trong hồ sơ quân vụ c̣n có thêm tội
“vô lễ với cấp chỉ huy” v́
đă hai lần tôi công khai chỉ trích
Phan trước mặt đông người về tác
phong “bồi Tây” của y khi
mỗi buổi sáng, nếu gặp các hạ sĩ
quan Pháp th́ Phan ân cần chào hỏi “Bonjour
mon caporal” c̣n nếu gặp sĩ
quan Việt Nam th́ Phan chỉ chào lấy
lệ và c̣n có ư khinh bỉ.
Trong bữa ăn cuối cùng tại câu lạc
bộ sĩ quan để tiễn tôi lên đường về
nhiệm sở mới, Trung úy Nguyễn Văn
Thiệu mở một chai champagne mời tôi
và nói mấy lời tiễn biệt rất cảm
động. Dương Quư Phan nổi giận, nạt
ông Thiệu tại sao lại dám ca ngợi
một sĩ quan đang mang trọng tội
trước mặt y. Cử chỉ vừa ưu ái, vừa
khí phách của ông Thiệu càng làm cho
tôi quư mến ông ta hơn. Trớ trêu
thay, trong cuộc đời binh nghiệp và
chính trị của ông Thiệu và tôi, và
qua những biến cố quan trọng của
quốc gia, chúng tôi c̣n nhiều duyên
nợ cho đến năm 1965, 1966, khi hai
ông Thiệu và Kỳ lănh đạo quốc gia,
bắt tôi giam lỏng hai lần ở Pleiku
và Nha Trang gần cả năm trời.
Cũng mang cái tâm trạng bất hợp tác
như ở Hưng Yên, tôi về Nam Định và
làm việc tại Bộ Chỉ huy Liên đoàn 3
Lưu Động. Nhiều khi ngay cả trong
giờ công vụ tôi vẫn viết bài hay
sáng tác thơ gởi về Sài g̣n cho ông
Nhu hoặc ông Đỗ La Lam (hiện ở Mỹ)
đăng vào báo Xă Hội. Đặc biệt trong
hai bài thơ Nhớ con và Nhớ Huế và
trong tùy bút Tâm sự ḍng sông
Hương, tôi đă kư thác nỗi ḷng của
ḿnh về nỗi hoài vọng ngày ông Diệm
và tổ chức thành công đem lại độc
lập và tự do cho đất nước để cho
những người Việt Nam b́nh thường như
tôi khỏi c̣n phải đấu tranh trong
cái thế hiểm nghèo giữa Pháp và Việt
Minh. Tâm sự này, sau ngày chia cắt
đất nước, tại miền Nam, tôi t́m lại
được một cách rất khoái cảm trong
kịch phẩm Thành Cát Tư Hăn của nhà
văn Vũ Khắc Khoan (thuộc nhóm Quan
Điểm, gồm những văn nghệ sĩ miền Bắc
đă từng theo kháng chiến rồi về Tề,
hoặc đă ở lại Hà Nội nhưng bất hợp
tác với Pháp) khi ông cho nhân vật
Sơn Ca của ông vừa không cộng tác
với chính quyền Thành Cát Tư Hăn vừa
không vào bưng theo “kháng chiến”
Cổ Giă Trường, mà lại chọc mù đôi
mắt đi về hướng mặt trời mọc để kết
thúc kịch phẩm này.
Một phần có lẽ v́ những bài thơ đó,
và phần khác có lẽ v́ ông Nhu đang
muốn tập hợp lại cán bộ đề tụ lực
chuẩn bị ngày ông Diệm về nước, nên
ông đă vận động với hai người bạn
của ông là Đại tá Trần Văn Đôn (vừa
thăng chức và vẫn c̣n chỉ huy An
Ninh Quân Đội) và Đại tá Trần Văn
Minh (Tham Mưu trưởng của tướng Hinh
để tôi được thuyên chuyển về Nha
Trang, là địa phương chiến lược nằm
gần giữa Huế (căn cứ địa của tổ
chức) và Sài G̣n (chiến trường của
tổ chức).
Rời miền Bắc căng thẳng của một Hà
Nội đang bắt đầu lên cơn sốt, tôi
bay về Nha Trang với tư cách Đại
diện Đặc biệt của Bộ Tư Lệnh Quân
khu Hai với nhiệm vụ cấp thiết thành
lập 9 tiểu đoàn khinh quân theo kế
hoạch tổ chức mới của Bộ Tham mưu
Hỗn hợp Pháp-Việt và của Tướng
O’Daniel, trưởng phải bộ quân sự Mỹ
ở Sài G̣n. Sau khi đă huy động thanh
niên của ba tỉnh Khánh Ḥa, Ninh
Thuận và B́nh Thuận trong bốn tháng,
tất cả 9 tiểu đoàn đều được thành
lập và đều đang trong ṿng huấn
luyện ở quân trường th́ tôi được
thuyên chuyển về chỉ huy khu chiến
Phan Rang vừa được Pháp trao lại cho
Việt Nam.
Khu chiến Phan Rang gồm lănh thổ
Ninh Thuận và quận Ḥa Đa của tỉnh
B́nh Thuận, quân số gồm hai tiểu
đoàn bộ binh và độ 20 đại đội phụ
lực binh (supplétif) và một đơn vị
thiết giáp. Về đây tôi gặp lại người
bạn tri kỷ làm Tỉnh trưởng Ninh
Thuận là ông Thái Văn Kiểm. Ông là
một nhà văn hóa và cũng là một nhà
viết sử tiếng tăm tại miền Trung,
từng làm việc lâu năm ở quê hương
Quảng B́nh của tôi, biết nhiều về
xuất xứ ḍng họ của các ông Ngô Đ́nh
Diệm và Vơ Nguyên Giáp. Tôi được hân
hạnh quen biết ông Thái văn Kiểm từ
ngày ông làm giám đốc Nha Thông tin
Trung Việt vào khoảng năm 1948-1949.
Thế rồi khi ông làm Tỉnh trưởng
Khánh Ḥa, tôi được thuyên chuyển về
đó, nay ông về trấn nhậm Phan Rang,
không ngờ tôi lại gặp ông để hai anh
em, kẻ bên văn người bên vơ, cùng
chung lo dân sinh, dân kế cho đồng
bào Ninh Thuận. Khác với những Tỉnh
trưởng thời Pháp hay thời Việt Nam
Cọng Ḥa sau này, dùng luật lệ, h́nh
phạt để trị dân, nhà học giả họ Thái
chỉ lo “văn dĩ tải đạo”,
lấy nhân trị làm nguyên tắc trị dân.
Ông ít khi ngồi ở văn pḥng dinh
Tỉnh trưởng mà thường lê gót khắp
các ngơ xóm làng để thăm dân cho
biết sự t́nh. Đi đến đâu ông cũng
đem theo những lời giảng dạy của
thánh hiền, những chuyện xưa tích cũ
để giáo hóa, d́u dắt dân quê về mọi
mặt: tôn giáo, chính trị, xă hội,
kinh tế…Sau này, tôi c̣n nhớ vào
khoảng tháng 4 năm 1954, ông Ngô
Đ́nh Cẩn vận động với các tỉnh, thị
trưởng miền Trung lập kiến nghị gởi
lên Quốc trưởng Bảo Đại ở Pháp yêu
cầu Bảo Đại chấp thuận cho ông Diệm
làm Thủ tướng, ông Kiểm (cũng như
ông Lê Tá, thị trưởng Đà Nẵng, hiện
ở Mỹ) đă vui ḷng kư tên vào thỉnh
nguyện thư dù ông Kiểm không thuộc
phe đảng chính trị nào. Nhưng sau
khi ông Diệm về nước cầm quyền th́
ông Kiểm bị mất chức ngay. Ông được
dân chúng Ninh Thuận vô cùng ngưỡng
mộ, nghe nói ngày ông từ giă Phan
Rang ra đi, đă có nhiều người không
cầm được nước mắt trong buổi tiễn
đưa.
Ninh Thuận và Ḥa Đa là nơi dân
chúng hiền ḥa, b́nh dị, lực lượng
của Việt Minh tại đây không lấy ǵ
làm mạnh. Chiến khu Ba Râu của họ
(mà khi c̣n là tiểu đoàn trưởng của
Việt Minh, tôi đă từng đóng quân tại
đây như đă đề cập trong chương III)
bị tôi phá hủy các cơ sở dưỡng binh
và các kho tồn trữ nên trong thời
gian tôi làm việc tại Phan Rang,
t́nh h́nh an ninh tương đối khả
quan, nhân dân làm ăn đi lại như
thuở thái b́nh.
Tháng 7 năm 1953, quốc hội Pháp làm
áp lực yêu cầu chính phủ Pháp phải
bắt đầu t́m biện pháp thương thảo để
giải quyết chiến tranh Đông Dương.
Ngày 9 tháng 11, Hoàng thân* Norodom
Sihanouk nắm lấy quyền chỉ huy quân
đội Hoàng gia và tuyên bố Cao Miên
độc lập. Giáng sinh năm đó, ông Hồ
Chí Minh tiết lộ với một kư giả Thụy
Điển rằng Việt Nam sẵn sàng thảo
luận về những đề nghị ḥa b́nh của
chính quyền Pháp và chỉ một tháng
sau, ngày 25 tháng Giêng năm 1954,
các Ngoại trưởng của Hoa Kỳ, Nga,
Anh và Pháp họp tại Tây Bá Linh
quyết định sẽ triệu tập một hội nghị
quốc tế về Triều Tiên và Đông Dương
vào tháng Tư cùng năm.
Trong khi đó th́ cũng vào đầu năm
1954, tướng Navarre, Tổng Tư lệnh
quân đội Pháp tại Đông Dương, phát
động chiến dịch Atlante để tiến
chiếm B́nh Định và Phú Yên, và tạo
áp lực nhằm xé nhỏ quân của Vơ
Nguyên Giáp vốn đang nỗ lực dồn hết
chủ lực quân về mặt trận Điện Biên
Phủ. Dự đoán rằng ông Giáp cũng sẽ
áp dụng cùng sách lược, nghĩa là mở
nhiều trận đánh lớn khác tại Trung
Việt để cầm chân và làm tê liệt khả
năng di động của các đơn vị địch,
tôi bèn thảo một bản nhận định t́nh
h́nh và một tờ tŕnh về cho Bộ Tư
lệnh Pháp-Việt của Phân khu Duyên
Hải tại Nha Trang để yêu cầu có kế
hoạch đối phó và đồng thời xin tăng
cường phương tiện pḥng thủ cho khu
chiến Phan Rang vốn rất thiếu thốn
và yếu kém. Tôi c̣n dự đoán kế hoạch
phản công của Việt Minh trong địa
phương trách nhiệm của tôi với những
chi tiết về từng đồn một, và sự thất
bại gần như đương nhiên của các đơn
vị dưới quyền nếu không được thỏa
măn nhu cầu tăng viện.
Nhưng Bộ Tư lệnh Nha Trang, mà về
phía Việt Nam do Đại tá Nguyễn Văn
Vỹ chỉ huy, lại cho là tôi hốt
hoảng, báo cáo láo, bèn gửi văn thư
khiển trách, kèm theo lệnh thuyên
chuyển tôi ra Hà Nội học lớp Trung
Đoàn trưởng, một quyết định mà tôi
cho là phát xuất từ những mâu thuẫn
chính trị hơn là từ nhu cầu quân sự
lúc bấy giờ. Nhưng cũng nhờ theo học
lớp Trung Đoàn trưởng này mà tôi có
thêm hai người bạn mới đồng khóa:
Thiếu tá Lam Sơn và Đại úy Nguyễn
Chánh Thi. Người thay thế tôi tại
Phan Rang là Thiếu tá Nguyễn Văn
Thiệu, vừa ở Bắc về, với lư do Thiệu
là người Ninh Thuận sẽ am hiểu và
nắm vững t́nh h́nh hơn tôi.
Sau đó, quả nhiên đúng như bản nhận
định mà tôi đă chi tiết rơ ràng,
trong lúc tôi ở Hà Nội th́ Việt Minh
tổng phản công khắp các tỉnh miền
Trung, đặc biệt tại các tỉnh duyên
hải. Tại Phú Yên và B́nh Định, nhiều
tiểu đoàn bị tiêu diệt hoàn toàn,
phải rút về lập ṿng đai an toàn để
chỉ c̣n bảo vệ các tỉnh lỵ mà thôi.
Tại Quảng Nam, Việt Minh tấn công
Hội An và chiếm giữ một đêm, khi rút
đi, họ phá hủy một số công sự và bắt
mang theo một số sĩ quan và những
dụng cụ truyền tin. Riêng tại Ninh
Thuận của ông Thiệu, Việt Minh tiến
chiếm và tiêu hủy các căn cứ ngoại
vi mà tôi đă xây dựng để che chở mặt
Tây Nam của Bộ Chỉ huy Phan Rang.
Trong một trận đánh ác liệt gần Tháp
Chàm, ông Thiệu đích thân dẫn một
đơn vị đi tiếp cứu bị Việt Minh phục
kích và theo lời một số người kể lại
th́ ông Thiệu đă phải “ôm quần
mà chạy”.
Sau những thất baị liên tiếp, ông
Thiệu bị mất chức chỉ huy, đổi về
Huế làm việc tại Bộ Tham mưu Quân
khu Hai, dưới quyền Đại tá Trương
Văn Xương, một cộng sự viên thân tín
của tướng Hinh, giao quyền chỉ huy
khu chiến Ninh Thuận lại cho ông
Thái Quang Hoàng vừa được thăng
Thiếu tá. Thật ra không phải ông
Thiệu kém khả năng chỉ huy hay thiếu
kinh nghiệm chiến trường. Ông Thiệu
là người khôn ngoan, tính toán rất
kỹ lưỡng, và hành động rất cẩn mật,
nhưng v́ binh sĩ tại khu chiến Ninh
Thuận đại đa số là dân địa phương
hiền lành, không có tinh thần chiến
đấu cao, gặp địch phản công mạnh là
sợ hăi thối lui. Họ là những nông
dân của xứ Chàm cỏ khô lá úa, sau
giờ đồng áng th́ thích rươu chè,
chọi gà và nhất là cải lương, nên
thiếu sự gan dạ và tinh thần kỷ luật
phải có của quân nhân tác chiến
giỏi. Lúc tôi c̣n là Chỉ huy trưởng
tại Phan Rang, cứ mỗi lần có một
đoàn cải lương từ Sài G̣n ra lưu
diễn tại tỉnh lỵ là một lần tôi phải
ban hành t́nh trạng báo động với
nhiều lo lắng, v́ binh sĩ tại các
căn cứ ngoại vi thành phố đều muốn
bỏ đồn về xem hát, bất chấp những
biện pháp kỷ luật mà ngày mai họ
phải chịu, bất cần Việt Minh có thể
tấn công chiếm đồn đêm đó. Nếu dùng
biện pháp mạnh, họ có thể đào ngũ
hoặc theo Việt Minh làm du kích.
Đă từng chỉ huy và đă từng t́m hiểu
phong thổ, dân t́nh của tỉnh này vốn
nằm giữa hai tỉnh nổi tiếng “Cọp
Khánh Ḥa, Ma B́nh Thuận” và
có một quận người Chàm tuy thủ phận
làm ăn nhưng lại rất ngoan cố, cứng
đầu khi có mâu thuẫn với người Việt,
nên trong những năm sau, dưới thời
Đệ Nhất Cộng Ḥa, khi hai ông Ngô
Đ́nh Nhu và Ngô Trọng Hiếu tuyên
dương tỉnh Ninh Thuận đứng đầu trong
công cuộc thực hiện ấp chiến lược,
tôi nghĩ thầm Ngô Đ́nh Nhu đúng là
chỉ biết những con số báo cáo của
Trung tá Khánh, tỉnh trưởng Phan
Rang (Công giáo Phú Cam), và nh́n sự
việc bằng cái bề ngoài hời hợt mà
không có một chút kinh nghiệm thực
tế nào. Thấy dân Ninh Thuận hăng hái
cắm chông, rào ấp, đào hào rồi lại
nhiệt tâm thực tập báo động khua
trống, gơ mơ, ông Nhu vội đánh giá
cao tinh thần chống Cộng của dân ở
đây mà không biết rằng dân Chàm làm
như vậy là để bố pḥng sợ người Việt
phá phách, c̣n người Việt làm như
vậy là để ngăn ngừa cọp về phá vườn
bắt trâu.* C̣n giữa Việt Cộng và
Quốc gia, th́ chọn lựa của người dân
rất rơ ràng: bên nào mạnh họ theo!
*- o0o-
Trở lại năm 1950, khi tôi về Quảng
B́nh để bắt đầu một giai đoạn nổi
trôi lăn lóc trong những năm tàn
khốc của cuộc chiến Pháp-Việt từ
Trung ra Bắc, th́ tháng Tám năm đó,
sau một thời gian vận động ngầm của
giám mục Ngô Đ́nh Thục, ông Diệm và
người anh có ảnh hưởng lớn lao trên
giáo hội Công giáo La Mă Việt Nam
này, lên đường đi La Mă dự lễ Năm
Thánh để che đậy âm mưu đi Mỹ vận
động chính trị.
Lộ tŕnh không đi thẳng đến La Mă mà
c̣n ghé qua Nhật Bản để thăm Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để (một “giải
pháp” hầu như không c̣n giá
trị ǵ nữa kể từ năm 1945) và nhất
là để ông Diệm có cơ hội gặp giáo sư
Wesley Fishel, một cựu sĩ quan t́nh
báo Hải quân thuộc Đệ Thất Hạm đội
Hoa Kỳ thời đệ nhị thế chiến và nghe
nói đang là một nhân viên cao cấp
của CIA. Buổi họp mặt với viên chức
quan trọng này của cơ quan t́nh báo
Mỹ đưa đến kết quả là trường đại học
Michigan sẽ bảo trợ cho chuyến đi Mỹ
của ông Diệm [1].
Sau đó, ông Diệm lên đường đi La Mă
dự lễ Năm Thánh và yết kiến Đức Giáo
Hoàng, rồi từ đó bay đi Mỹ. Qua
trung gian của giám mục Ngô Đ́nh
Thục, ông được Hồng Y Spellman,
thuộc ḍng Franciscain, tiếp kiến.
Từ Mỹ, ông Diệm lại quay về La Mă
mấy ngày rồi mới đi Thụy Sĩ, Bỉ,
Pháp để thảo luận với một số chính
khách Việt Nam phần đông là người
Công giáo đang cư ngụ tại các nước
này. Năm 1951, ông Diệm trở lại Hoa
Kỳ hai năm, sống trong tu viện
Maryknoll tại Lakewood (New Jersey)
và Ossining (New York). Nhờ sự giúp
đỡ của Hồng y Spellman, thỉnh thoảng
ông lại được mời đi thuyết tŕnh tại
các đại học miền Đông và miền
Trung-Tây Hoa Kỳ. Ông cũng diễn
thuyết tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn và
với lư luận rằng “chỉ cần chấm
dứt chính sách thực dân Pháp và
chỉ cần Việt Nam có một chính phủ
do người quốc gia lănh đạo là có
thể đánh bại được Cộng Sản”
mà ông đă chiếm được cảm t́nh và lời
hứa sẽ yểm trợ của các chính trị gia
Mỹ như Nghĩ sĩ Mike Mansfield, John
Kennedy, Dân biểu Walter Judd, Chánh
án Williams Douglas, và nhiều chính
khách Công giáo Mỹ khác. Phê b́nh
câu nói của ông Diệm, giáo sư
Buttinger cho rằng luận cứ này phối
hợp được sự đơn giản rất hấp dẫn và
sự hợp lư khó căi được [2].
Chính v́ sự “hấp dẫn không căi
được” đó và quyết tâm của
Hồng Y Spellman muốn có một chính
phủ Việt Nam do người Công giáo La
Mă lănh đạo [3], mà ông Diệm đă trở
thành một “giải pháp” khả
dụng và khả thi cho chính sách của
Mỹ tại Đông Dương trong tương lai
rất gần. Nhưng cái luận cứ "đơn
giản và hợp lư” này đă chứng
tỏ tính thiếu khoa học và không thực
tế của nó khi ông Diệm, với một
chính phủ quốc gia và 9 năm cai trị,
ông Thiệu với một chính phủ quốc gia
và 11 năm cai trị khác, vẫn không
đánh bại được Cộng Sản. Nếu không
muốn nói rằng chính phủ quốc gia của
ông Diệm đă chính nghĩa hóa sự hiện
diện của Cộng Sản tại miền Nam, và
chính phủ quốc gia của ông Thiệu đă
kiện toàn hóa chiến thắng của Cộng
Sản tại miền Nam. Như vậy, rơ ràng
hai chế độ “quốc gia" đă
quản trị đất nước trong khoảng thời
gian từ 1954 đến 1975 quả thật đă
không xứng đáng trên cả hai mặt nội
dung cũng như thực tế để mang nhận
danh từ này.
Theo dơi hành tŕnh vận động quốc tế
của ông Diệm, ta thấy gồm 6 chặng
đường: Đi Đông Kinh gặp một nhân
viên t́nh báo Mỹ, đến Vatican gặp
Đức Giáo Hoàng, đi Mỹ gặp một vị
Hồng Y, trở lại Vatican không biết
để làm ǵ trong một thời gian ngắn
rồi lại qua Mỹ gặp tiếp vị Hồng Y
cũ, sau đó là các chính khách Hoa
Kỳ. Sáu chặng đường đó thật ra chỉ
gồm trong hai danh từ riêng lẫy
lừng: Vatican và Mỹ.
Tháng 5 năm 1953, theo lời mời của
một số chính khách Việt Nam lưu vong
mà đa số là người Công giáo, ông
Diệm từ giă Hoa Kỳ về Pháp rồi đi Bỉ
và trú ngụ tại tu viện Bénédictine
de St André les Purges. Đúng một năm
sau, năm 1954, khi số phận Việt Nam
bắt đầu bị cột chặt bởi chiến bại
của Pháp tại Điện Biên Phủ vào ngày
mồng 7 tháng 5* và những mặc cả tại
hội nghị Genève, th́ ông Diệm trở
lại Paris và sống tại ngôi nhà của
ông Tôn Thất Cẩn. Tại đây, với sự
yểm trợ đắc lực của người em là ông
Ngô Đ́nh Luyện, ông bắt đầu mở các
cuộc thăm ḍ và vận động trong giới
chính khách Việt Nam cũng như với
các thế lực quốc tế.
Theo giáo sư Buttinger th́ tại Sài
G̣n, ông Nhu biết rằng anh ḿnh
không đủ khả năng trong việc đối phó
với những vận động chính trị quốc tế
khó khăn và phức tạp, bèn vội vàng
phái cộng sự viên thân tín là hai
ông Trần Chánh Thành và Lê Quang
Luật qua Paris để tăng cường thêm
cho ông Diệm. Ông Trần Chánh Thành
nguyên là tri huyện thời Pháp thuộc,
sau theo Việt Minh làm chánh án Liên
khu Tư, rồi bỏ kháng chiến về Tề vào
năm 1952. C̣n ông Lê Quang Luật là
một trí thức Công giáo Bắc Việt,
người thân tín của giám mục Lê Hữu
Từ.
Ba mục tiêu vận động quan trọng và
quyết định nhất của ông Diệm là được
sự yểm trợ của chính quyền Mỹ, tranh
thủ được sự thỏa thuận của chính phủ
Pháp, và cuối cùng là thuyết phục
được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm
làm Thủ tướng. Ba vận động liên hệ
chặt chẽ đến vận mệnh của hàng triệu
người Việt Nam mà sức mạnh vô định
của chính hàng triệu người Việt Nam
đó không hề được vận dụng tới. Thật
ra ba bước vận động này tṛng vào
nhau như ba mắt xích, mà trong bối
cảnh chính trị quốc tế lúc bấy giờ,
mở được mắt xích thứ nhất là hai mắt
xích c̣n lại sẽ bị tháo tung. Mắt
xích thứ nhất, Hồng y Spellman đă
giúp ông Diệm mở ra từ năm 1953 rồi
cho nên tuy Bảo Đại và chính phủ
Pháp lúc bấy giờ không đồng ư “con
người Ngô Đ́nh Diệm”, nhưng dưới áp
lực của ngoại trưởng Mỹ Foster*
Dulles và sự can thiệp mạnh mẽ của
Hồng Y Spellman vào chính sách của
Phong trào Cọng ḥa B́nh dân Thiên
Chúa Giáo Pháp (MRP), cuối cùng
chính phủ Pháp và Bảo Đại đành phải
chấp thuận bổ nhiệm ông Diệm làm Thủ
tướng.
Trong hồi kư Le Dragon d’Annam,
trang 328, ông Bảo Đại đă cố t́nh
không nói rơ những áp lực nầy dù
những vận động chính trị của các
nước liên hệ đến chính t́nh Việt Nam
lúc đó, cũng như dù mối bất hoà Bảo
Đại-Ngô Đ́nh Diệm trong quá khứ đă
rơ ràng (xem thêm Bên Gịng Lịch Sử
1940-1975, ấn bản Hoa Kỳ, của Cao
Văn Luận). Một cách thật tinh tế, để
nói lên áp lực của người Mỹ, ông Bảo
Đại đă cho biết rằng "sau khi gặp
ông Foster Dulles để cho ông ta biết
dự án của tôi, tôi đă gọi ông Diệm
đến và nói rằng" (Après m être
entretenu avec Foster Dulles, pour
lui faire part de mon projet...). Sự
kiện trước lúc lấy một quyết định
nội bộ quan trọng (chỉ định một Thủ
tướng) mà vị nguyên thủ quốc gia
phải hội ư với Ngoại trưởng của Mỹ
(không như trước đó ông Bảo Đại đă
chỉ định 5 Thủ tướng mà không cần
phải qua "thủ tục này") đă chứng tỏ
áp lực của Mỹ quả thật có tác dụng
lên quyết định của ông Bảo Đại. Hơn
nữa, ngay ở trang 239 sau đó, ông
Bảo Đại c̣n viết thêm:
Thật vậy từ, nhiều năm nay, ông ta
được nhiều người Mỹ biết và thích
nhờ tính cứng rắn. Dưới mắt họ, ông
Diệm là người phù hợp một cách đặc
biệt cho hoàn cảnh hiện tại, v́ vậy
mà Hoa Thịnh Đốn không ngần ngại ǵ
mà không ủng hộ ông ta. (En effet,
depuis de nombreuses années, il
était connu des Américains qui
appréciaient son intransigeance. A
leurs yeux, il était l’homme fort
convenant particulièrement à la
conjoncture, aussi Washington ne lui
ménagerait pas son appui).
Nêu lên nhận định nầy, ông Bảo Đại
ngầm cho ta biết sự can thiệp của
người Mỹ trong quá tŕnh chọn lựa
ông Ngô Đ́nh Diệm làm Thủ tướng là
một sự can thiệp có thật. (Những
người không hiểu rơ cá tính của hai
ông Bảo Đại và Ngô Đ́nh Diệm, lại
không nắm vững những hoạt động quốc
tế cũng như nội bộ Việt Nam lúc bấy
giờ, đă nhầm lẫn và không hiểu rơ
được sự can thiệp nầy nên đă hiểu
sai luôn những biến cố lịch sử sau
đó là lẽ dĩ nhiên).
Sự kiện ông Diệm được Vatican và Mỹ
ủng hộ là một yếu tố quan trọng xoay
chuyển lịch sử Việt Nam trong chiến
tranh Quốc-Cộng nên tôi cần trích
dẫn ra dưới đây những đoạn sách khả
tín của các kư giả, nhà văn, nổi
tiếng Anh, Mỹ để thêm tài liệu cho
các nhà nghiên cứu sử sau nầy.
Theo John Cooney th́ Giáo Hoàng Pius
12 muốn Hồng Y Spellman vận động với
Hoa Kỳ tham dự vào chánh t́nh Việt
Nam và ủng hộ cho ông Ngô Đ́nh Diệm
cầm quyền tại nước này:
Theo Malachi Martin, một giáo sĩ
Ḍng Tên đă từng làm việc tại
Vatican trong những năm Mỹ gia tăng
sự tham dự vào Việt Nam, th́ lập
trường của Hồng Y Spellman hợp với ư
muốn của Giáo Hoàng (in accordance
with the wishes of the Pope...) Giáo
Hoàng muốn Hoa Kỳ ủng hộ Diệm v́
ngài bị ảnh hưởng của Giám mục Thục
là anh của Diệm. Ông Martin xác nhận
rằng "Giáo Hoàng lo ngại Cộng Sản sẽ
bành trướng thêm làm suy hại đến
Giáo hội. Giáo Hoàng đă nhờ Spellman
khuyến khích người Mỹ can dự vàoViệt
Nam ("The pope was concerned about
Communism making more gains at the
expense of the Church. He turned to
Spellman to encourage American
commitment to Vietnam", The American
Pope, JohnCooney, tr.241, 242).
V́ vậy Spellman đă bắt tay vào việc
điều động kỹ càng một chiến dịch xây
dựng chế độ Diệm (carefully
orchestrated campaign to prop up the
Diem regime)... Spellman và Kennedy
cũng thành lập một tổ chức ở Hoa
Thịnh Đốn để vận động cho Diệm.
Chiêu bài vận động là chống Cộng và
Công giáo (the rallying cries were
anti-Communism and Catholicism).
Sách đă dẫn, trang 242.
Tháng 10 năm 1950, hai anh em Thục
Diệm gặp các viên chức Bộ Ngoại Giao
tại khách sạn Mayflower ở Hoa Thịnh
Đốn, có cả sự tham dự của Dean Rusk.
Diệm và Thục được linh mục McGuire
và ba giáo sĩ chính trị gia
(political churchmen) đặc trách
chính sách chống Cộng tháp tùng, đó
là Cha Emmanual Jacques, Giám mục
Howard Carroll và Edmund Walsh của
Đại học Georgetown. Mục đích của
cuộc gặp gỡ là để t́m hiểu t́nh h́nh
Việt Nam và để xác định lập trường
chính trị của hai anh em Diệm-Thục.
Hai anh em tin rằng Diệm đă được an
bài để cai trị đất nước (both Diệm
and Thục believed that Diệm was
destined to rule his nation). Sự
kiện giáo dân Việt Nam chỉ chiếm
mười phần trăm chẳng làm cho hai
người bận tâm. (The fact that
Vietnam,s population was only ten
percent Catholic mattered little as
far as the brothers were
concerned...) như Diệm đă nói trong
bữa ăn tối rằng hai lập trường không
lay chuyển của ông đă quá rơ ràng.
Ông tin tưởng vào quyền lực của Toà
thánh và ông chống Cộng kịch liệt
(He believed in the Power of the
Catholic Church and He was
virulently anti-Communist). Sách đă
dẫn, 241.
Thật vậy, ngoài cuốn "The American
Pope - The life and Time of Francis
Cardinal Spellman" của John Cooney
do Time Book phát hành, trong quyển
"VietNam - Why did we go" của Avro
Mahattan (trang 58), chuỗi sự kiện
này cũng đă được tŕnh bày lại rơ
ràng:
"Spellman introduced Diem to William
O. Douglas of the Supreme Court. The
latter introduced Diem to Mike
Mansfield and to John F. Kennedy,
both Catholics and senators. Allen
Dulles, director of the CIA adopted
him.
Following the decision of his
brother, John Foster Dulles, and of
Cardinal Spellman, who was acting
for Pope Pius XII, Diem become their
choice; he was going to be the head
of the government in South Vietnam.
The decision has been taken, Dulles
adviced France to tell Bao Dai to
appoint Diem as Prime Minister.
France, having by now decided to
abandon Vietnam, agreed. Diem became
Prime Minister in June, 1954. The
19th of the same month, Bao Dai
invested Diem with dictatorial
power. This entailed not only
civilian but also military control.
Diem arrived in Saigon June 26, 1954
and on June 7, set up his own
government."
Tạm dịch: HồngY Spellman đă giới
thiệu ông Diệm với ông Wiliam
O.Douglas, Thẩm phán Tối Cao Pháp
Viện. Ông nầy lại giới thiệu ông
Diệm với ông Mike Mansfield và ông
John F. Kennedy, cả hai đều là
Thượng Nghị sĩ theo Công giáo. Ông
Giám đốc CIA Allen Dulles cũng đă đỡ
đầu cho ông Diệm.
Theo quyết định của anh ông ta là
(Ngoại trưởng) John Foster Dulles và
của Hồng Y Spellman, người đại diện
cho Giáo Hoàng Phero XII, ông Diệm
đă được họ tuyển chọn, ông sẽ là
người cầm đầu chính phủ Nam Việt
Nam.
Sau khi lấy quyết định xong, ông
Dulles khuyến cáo chính quyền Pháp
hăy nói với Bảo Đại bổ nhiệm ông
Diệm làm Thủ tướng. V́ lúc bấy giờ
đă có quyết định bỏ Việt Nam nên
Pháp đồng ư. Ông Diệm trở thành Thủ
Tướng vào tháng 6 năm 1954. Ngày 19
cùng tháng đó, Bảo Đại phong cho Ông
Diệm toàn quyền. Không những quyền
kiểm soát dân sự mà c̣n cả quân sự
nữa trên toàn quốc. Ông Diệm về tới
Sài G̣n ngày 26 tháng 6 và thành lập
chính phủ vào ngày 7 thàng 7 năm
1954.
Những bí ẩn lịch sử trên đây cho ta
thấy ngay từ trước năm 1950, ông
Diệm v́ không thể cộng tác được với
Pháp và cựu Hoàng Bảo Đại nữa nên
hướng về Hoa Kỳ, mà cuộc vận động
nhịp nhàng của Vatican và cơ quan
CIA đă đưa ông thành công với chức
vụ Thủ tướng khi Pháp thất bại tại
Điện Biên Phủ. Bây giờ th́ ta đă
thấy rơ ràng tại sao trên đường xuất
ngoại năm 1950 hai ông Diệm và Thục
lại gặp giáo sư Wesley Fishel tại
Nhật Bản, nhân viên cao cấp của cơ
quan T́nh báo Trung Ương Mỹ, tại sao
trong "Bên Gịng Lịch Sử" linh mục
Cao Văn Luận khoe khoang; "Có thể
nói rằng nếu không có cha Houssa th́
số phận Việt Nam không chừng đă
khác", tại sao khi đến thăm Sài G̣n
thăm lính Mỹ, Hồng Y Spellman tuyên
bố: "các anh chiến đấu cho văn minh
Thiên Chúa Giáo". Từ nay, ông Diệm
trở thành người lính tiền đồn ngăn
chận Cộng Sản cho Vatican và Hoa Kỳ.
Đàng sau vở tuồng chính trị này, ta
c̣n thấy thấp thoáng bóng dáng một
người đàn bà mà tuy vai tṛ khiêm
nhường nhưng không kém phần quan
trọng là bà Nam Phương Hoàng Hậu,
một nữ tín đồ Công giáo ngoan đạo và
có uy tín. Ông Tôn Thất Cẩn, con
trai của cụ Thân thần Phụ chánh Tôn
Thất Hân và là bạn thân của ông
Diệm, đă thuyết phục bà Nam Phương
để bà góp ư với chồng với điều kiện
sau khi ông Diệm cầm quyền phải nâng
đỡ Hoàng tử Bảo Long, người con trai
đầu ḷng của bà và của vua Bảo Đại.
Bernard Fall cho biết ông Diệm đă
quỳ xuống trước bà Nam Phương để
nhận lời uỷ thác đó [4].
Ngày 16 tháng 6 năm 1954, sau một
buổi tiếp kiến với Ngoại trưởng
Foster Dulles, Quốc trưởng Bảo Đại
kư sắc lệnh 38/QT bổ nhiệm ông Ngô
Đ́nh Diệm làm Thủ tướng. Sau khi ông
Diệm tuyên bố chấp nhận, vua Bảo Đại
bèn kéo ông vào một gian pḥng kế
cận trong lâu dài Thorence, nơi vua
Bảo Đại trú ngụ tại Cannes, trước
bức thánh giá rồi bắt ông thề:
-"Chúa của ông đó, ông hăy thề sẽ
bảo toàn lănh thổ quốc gia mà người
ta sẽ giao phó cho ông. Ông sẽ bảo
vệ quốc gia chống lại Cộng Sản và
nếu cần chống cả người Pháp".
Ông Diệm suy nghĩ giây lát, nh́n Bảo
Đại, rồi quay lại phía thánh giá,
ông nói thầm:
-"Tôi xin thề" [5].
Kể lại những sự kiện trên đây, kư
giả Karnow viết rằng: "Sau khi bổ
nhiệm ông Diệm làm Thủ tướng, Bảo
Đại đă tự đào lỗ huyệt chính trị của
ḿnh mà không biết".
Những sự kiện về ông Ngô Đ́nh Diệm
đến bái yết Quốc trưởng Bảo Đại khi
nhận chức Thủ tướng c̣n được
Hillaire du Berrier kể tường tận
hơn, đúng như cựu "Tổng trưởng trực
tiếp với Phủ Thủ Tướng" (trong chính
phủ Bửu Lộc) Phan Huy Quát và ông
Tôn Thất Cẩn đă kể cho tôi nghe:
Ngô Đ́nh Diệm sau khi từ giă Hoa Kỳ
năm 1953, về Bỉ rồi đến Pháp và
không thể tránh được con đường dẫn
tới ngôi lâu đài 12 pḥng tại
Cannes. Lúc ấy, vào tháng 6 năm
1954, một người thấp nhỏ, kỳ dị,
lạnh lùng, thiếu nét vui tươi đứng
trước mặt một vị Cựu Hoàng mà vẫn
tâu là "Bẩm tâu Hoàng Thượng", mặc
dù vị cựu Hoàng đó lúc bấy giờ chính
thức mang danh hiệu là Quốc trưởng.
Bảo Đại biết rơ con người đó tính
t́nh bất thường hay thay đổi, khi
th́ bẽn lẽn rụt rè nhưng đôi khi lại
nóng nảy cộc cằn, thứ người ĺ lợm
khắc khổ v́ những năm tháng cô đơn
thiếu t́nh người. Bảo Đại biết con
người đó cao ngạo và ngoan cố. Nếu
để chọn lựa một vị Thủ tướng trong
giờ phút Tổ quốc lâm nguy để phục vụ
hữu hiệu cho quốc gia th́ Ngô Đ́nh
Diệm mà Bảo Đại phải chỉ định làm
Thủ tướng chỉ là con người được lựa
chọn sau chót, nhưng Bảo Đại không
có lựa chọn nào khác hơn.
Qú xuống trước Bảo Đại, Ngô Đ́nh
Diệm thề trung thành với vị Hoàng Đế
của ông ta. Đă trải qua biết bao
thăng trầm cay đắng, Bảo Đại chấp
nhận mọi việc chỉ là thường t́nh.
Bảo Đại cố quên những buổi hội họp
đầy sóng gió tại Hồng Kông năm năm
về trước. Bảo Đại biết rằng con
người trước mặt ông ta không bao giờ
quên thù hận nhưng Bảo Đại vẫn làm
phần vụ của ông ta là chỉ định Ngô
Đ́nh Diệm làm Thủ tướng với toàn
quyền thành lập chính phủ. Lời nói
cuối cùng của Bảo Đại là: "Ông hăy
hợp nhất các giáo phái vào cộng đồng
quốc gia, thống nhất phần đất nước
c̣n lại của chúng ta".
Bà Nam Phương Hoàng Hậu, cũng là một
tín đồ Công Thiên Chúa giáo như ông
Diệm, đă khẩn khoản yêu cầu ông Diệm
hăy cứu văn và tạo thế lực cho nhà
Nguyễn để giúp đỡ cho Bảo Long, con
trai của bà.
Bảo Đại kư cho ông Diệm cái ngân
phiếu một triệu đồng bạc để tổ chức
những cuộc biểu t́nh "tự phát"
(spontaneous demonstration) hầu làm
xúc động người Mỹ và tạo hào hứng
cho dân chúng Việt Nam. Diệm bỏ ngân
phiếu vào túi rồi cảm ơn và tâu:
"Bẩm Hoàng thượng, nếu khi nào Ngài
thấy tôi có lỗi, Ngài chỉ nói một
lời là tôi xin từ chức ngay".
Ngày 26 tháng 6 năm 1954, Diệm vào
tuổi 54, trở về Việt Nam để chấp
chánh và từ đây th́ trách nhiệm về
phần người Mỹ [6].
Nhận định về những nỗ lực và thành
quả vận động quốc tế của ông Diệm,
ta thấy yếu tố chính quyết định
những nỗ lực và thành quả này là tôn
giáo của ông Diệm. Uy tín trong nước
của ông, vị thế chính trị trong nước
của ông, cơ sở quần chúng trong nước
của ông... quả thật chỉ là những hậu
thuẫn nhỏ nhoi không đủ để giúp ông
mở được cánh cửa của Mỹ và Pháp.
Trong cái thế chính trị toàn cầu lúc
bấy giờ, khi mà nội bộ nền đệ tứ
Cộng Hoà Pháp đang dần dần băng ră
v́ "trận chiến tranh bẩn thỉu", khi
mà Cộng Sản đang hiện diện một cách
áp đảo tại Đông Nam Á, th́ nhu cầu
của cường quốc Mỹ là can thiệp vào
Việt Nam với một "người hùng bản xứ"
chống Cộng. Mà dưới nhăn quan chính
trị và nhân văn của Mỹ vào thập niên
50, 60 "người hùng" chống Cộng đó
phải là và chỉ có thể là một tín đồ
Công giáo khả tín (như có anh ruột
là chức sắc cao cấp chẳng hạn). Ông
Diệm thoả măn đầy đủ những điều kiện
đó của nhu cầu này. Và v́ ông là ứng
cử viên "hợp lệ" duy nhất nên ông đă
được chọn. Tôn giáo của ông đă đưa
ông lên đài danh vọng, th́ cũng
chính v́ tôn giáo của ông, mà sau
này thân thế sự nghiệp của ông phải
tan tành.
Mấy ngày trước đó, Thủ tướng Pháp
Pierre Mendès-France được tín nhiệm
để thành lập một nội các với lời hứa
sẽ thực hiện cuộc ngưng bắn tại Đông
Dương trong ṿng một tháng. Ngay sau
khi nhận chức, thủ tướng
Mendès-France liền điều đ́nh với ông
Chu Ân Lai, Ngoại trưởng Trung Cộng.
Cho những độc giả cần nghiên cứu kỹ
càng hơn về giai đoạn khai sinh ra
nền Đệ Nhất Cộng Hoà nầy qua việc
ông Ngô Đ́nh Diệm được Vatican, Hồng
Y Spellman chọn lựa và được cơ quan
CIA và bộ ngoại giao Hoa Kỳ bảo trợ
để được Bảo Đại cử làm Thủ tướng
Việt Nam vào năm 1954, tôi đề nghị
xin đọc kỹ hai tác phẩm: "The
American Pope - The Life and Times
of Francis Cadinal Spellman" của kư
giả Cooney từ trang 236 đến trang
245, và "Vietnam - Why did we go?"
của Avro Mahattan, từ trang 51 đến
trang 75. Qua chi tiết của hai cuốn
sách vừa kể, ta thấy quả thật ông
Diệm được Vatican và Hoa Kỳ cùng sử
dụng để làm con cờ chống Cộng ở Đông
Nam Á. Nói thế không phải là chê
trách ông Diệm, khen hay chê ông ta
là tuỳ vào hành động lănh đạo quốc
gia sau này. Nói thế chỉ v́ sự thật
của lịch sử như thế.
*Một sự kiện lịch sử khác cũng cần
phải được phân tách cho ra lẽ, đó là
việc ông Diệm khi nhận chức Thủ
tướng không biết có quỳ trước Bảo
Đại như Hilaire du Berrier đă viết
trong "Background to Betrayal" hay
không, mà trong "Le Dragon d Annam",
Bảo Đại nói chỉ bắt ông Diệm thề
trước Chúa mà thôi.
*Ngoài Hilaire du Berrier, nhà văn
Hoàng Trọng Miên trong cuốn "Đệ Nhất
Phu Nhân" (trang 389), học giả
Nguyễn Hiến Lê trong cuốn "Con Đường
Thiên Lư" (trang 202), kư giả
Bernard Fall trong cuốn "The Two
Vietnam" (tr.244) cũng nêu lên việc
ông Diệm có quỳ trước Nam Phương
Hoàng Hậu trong lễ nhận chức Thủ
tướng tại lâu đài Thorence:
"... After three days of hesitasion,
Bao Dai yielded. Diem received
absolute dictatorial power on June
19. Fully realizing that he was
throwing his throne away, Bao Dai
allegedly made Diem swear a solemn
oath of alllegiance to him, and
several authoritative witnesses
affirm that Diem also swore on his
knees to Empress Nam Phuong that he
would “do everything in his
power” to preserve the throne
of Vietnam for Prince Bao Long, son
of Bao Dai."
Có thể ông Ngô Đ́nh Diệm đă không
quỳ cho nên vua Bảo Đại không đề cập
đến chuyện này, cũng có thể ông Ngô
Đ́nh Diệm có quỳ mà Bảo Đại v́ tế
nhị không muốn nói đến.
Nhưng nghĩ cho cùng th́ có lẽ ông
Ngô Đ́nh Diệm đă quỳ như hành động
cuối cùng của chuỗi nỗ lực vận động
nắm chức Thủ tướng, trong đó kể cả
việc ông Ngô Đ́nh Luyện dâng Bảo Đại
một chiếc ô tô lộng lẫy mà ông Hồ Sĩ
Khuê đă nêu ra trong tác phẩm "Hồ
Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm, và Mặt Trận
Giải Phóng" (tr. 276) hoặc như ông
Ngô Đ́nh Luyện đến Cannes đề nghị
biếu Bảo Đại 300 triệu Francs (30
triệu bạc Việt Nam) nếu Bảo Đại cho
ông Diệm toàn quyền củng cố uy quyền
bằng vũ lực ("Việt Nam Niên biểu
Nhân vật Chí" của Chính Đạo,
tr.290).
Như vậy, rơ ràng việc ông Diệm được
Giáo hoàng La Mă, Hồng y Spellman và
chính giới Mỹ "bồng" về Việt Nam cầm
chính quyền, và việc vua Bảo Đại bất
đắc dĩ cử ông Ngô Đ́nh Diệm làm Thủ
tướng, là những sự thật lịch sử đă
được ghi lại minh bạch và đầy đủ,
thế mà “trí thức” Công giáo
Nguyễn Văn Chức trong cuốn sách gọi
là "Việt Nam Chính Sử" lại
nguỵ biện cho rằng tác giả VNMLQHT
viết sai và gian trá.
Ông Diệm từ Paris trở về nước ngày
26 tháng 6 năm 1954, sau 5 năm trời
sống tại các thủ đô quốc tế ở hải
ngoại. (Năm năm này, sau đó, đă được
đưa vào phần mở đầu của bài ca "Suy
tôn Ngô Tổng thống"..."Ai bao năm
từng lê gót nơi quê người..." bắt
buộc hát sau bài quốc ca để cân bằng
với 40 năm biệt xứ đấu tranh của ông
Hồ Chí Minh).
Sự trở về của ông Diệm không gây
được hào hứng nào trong khối quần
chúng Việt Nam. Ông Diệm không được
đón tiếp như một anh hùng từng đấu
tranh cho đất nước. Rơ ràng tên tuổi
ông ta không làm bốc lửa trong ḷng
nhân dân. Chỉ độ 500 người gồm những
quan lại già nua, chức sắc Công giáo
và nhân viên cao cấp của chính phủ
đón chào ông ta tại phi trường.
Những người đến đón nhà lănh đạo
quốc gia mới không ngờ rằng khi ông
Diệm bước ra khỏi phi cơ là sẽ đi
trên con đường vinh quang mau chóng,
tuyệt vọng và sớm mua lấy cái
chết.[7]
*Sau này, khi biết được cuộc đón
tiếp ông Diệm thiếu sự tham dự của
nhân dân, tôi đă trách móc ông Nhu
và ông Vơ Văn Hải không huy động nổi
đồng bào đi biểu t́nh đông đảo để
đón tiếp sự hồi hương của lănh
tụ.******
Buổi đón tiếp tuy đầy đủ phần nghi
lễ nhưng thiếu hẳn quần chúng đón
chào tỏ ra rằng ông Diệm không có
thực lực quần chúng ủng hộ. Vả lại,
500 người có mặt tại Tân Sơn Nhất
hôm đó quả thật đă không đại diện
một chút nào cho 25 triệu người Việt
Nam trên mặt pháp lư cũng như chính
trị, trên mặt liên đới t́nh cảm cũng
như liên đới tinh thần.
Một người đă từng chống Bảo Đại và
chống Pháp th́ không thể trở về với
dân tộc để lănh đạo quốc gia bằng
một sắc lệnh của Quốc trưởng và trên
một chiếc máy bay có cờ tam tài.
Trường hợp đó và khung cảnh đó phù
hợp với những thoả hiệp của một cuộc
vận động chính trị hậu trường, hơn
là kết quả của một quyết tâm xả thân
đấu tranh cho đất nước, cho nên nhân
dân Việt Nam nói chung, và quần
chúng Sài G̣n nói riêng vẫn không
t́m được sự hào hứng để chào mừng
ông Diệm trong ngày trở về của ông.
Nhưng lúc đó, đối với tôi, từ miền
Bắc xa xăm, và sau 5 năm trông đợi
ngày về của người lănh đạo tổ chức,
ngày ông Diệm về nước là một ngày
hội lớn, là sự thành tựu của 12 năm
đấu tranh cho lư tưởng của ḿnh
xuyên qua h́nh bóng của ông Ngô Đ́nh
Diệm, là ngày mà những tra tấn trong
ngục tù, những ly biệt với vợ con,
những hiểm nghèo trong lửa đạn bắt
đầu đơm bông kết trái thành đài vinh
quang. Tôi đă không cần dấu diếm nữa
mà bộc bạch hẳn với hai người bạn
cùng khoá là Thiếu tá Lam Sơn và Đại
uư Nguyễn Chánh Thi về tương lai
chắc nịch của đất nước, về cơ hội
lịch sử đă cho phép ông Diệm sẽ được
quản trị quốc gia một cách dân chủ,
sẽ được thi thố tài năng trong cuộc
thư hùng với Cộng Sản.
Tuy nhiên, sau những phút vui mừng
bồng bột đầu tiên đó, tôi bắt đầu lo
âu cho ông Diệm. Đă từng sống giữa
ḷng quê hương từ trước cuộc kháng
Pháp, đă từng làm việc chung với
người Pháp trong chế độ Bảo Đại, đă
là chứng nhân của bao nhiêu biến cố
chính trị, bao nhiêu lừa lọc phản
trắc, tôi biết ông Diệm sẽ phải đi
qua một băi ḿn nổ chậm với bao
nhiêu khó khăn phức tạp cạm bẫy đang
chờ đợi ông. Cụ thể hơn, là một sĩ
quan cấp tá thâm niên, tôi biết rơ
tham vọng và tính t́nh của tướng
Nguyễn Văn* Hinh và tinh thần quân
đội dưới quyền ông ta. Những thực tế
này sẽ là trở lực khó khăn nguy hiểm
đầu tiên mà ông Diệm không thể tránh
được. Đành rằng trong giai đoạn đó,
quân đội không phải là yếu tố quyết
định những thay đổi quan trọng của
t́nh h́nh chính trị Việt Nam, nhưng
ở một mặt nào đó, quân đội dưới
quyền tướng Hinh, một người Pháp
mang tên Việt, lại đủ sức* để cản
trở những kế hoạch của ông Diệm. Hay
đi xa hơn, có thể tiêu diệt ngay sức
mạnh pháp lư và chính trị c̣n mong
manh của vị tân Thủ tướng.
Biết như thế mà lại biết rất rơ nữa
là khác, cho nên dù điều kiện khó
khăn và phương tiện bị hạn chế, tôi
cũng phải làm mọi cách để giúp được
ông Diệm phần nào hay phần đó. Tuyên
truyền, giác ngộ vẫn là thứ khí giới
hữu hiệu nhất cho nên tôi bèn viết
rất nhiều thư cho các bạn bè từ chí
thân đến sơ giao, cho các sĩ quan
thân tín ở nhiều quân khu, nhiều đơn
vị, nói cho họ biết muốn cứu nước,
muốn quốc gia khỏi rơi vào tay Cộng
sản, muốn c̣n có đất chôn chân th́
phải ủng hộ cho Thủ tướng Ngô Đ́nh
Diệm vượt thắng mọi thế lực chống
đối ông ta. Với các sĩ quan miền
Trung như Nguyễn Ngọc Lễ, Lê Văn
Nghiêm, Thái Quang Hoàng, Tôn Thất
Đính,... tôi không ngần ngại nói
thẳng cho họ biết rằng tướng Hinh và
những tay sai của Pháp sẽ t́m cách
triệt hạ ông Diệm. Tôi yêu cầu họ nỗ
lực hoạt động lôi kéo bạn bè, cộng
sự viên của họ theo con đường chính
nghĩa. Mục tiêu của tôi là xây dựng
cho ông Diệm một chủ lực, nếu không
được th́ ít nhất là một hậu thuẫn
trong quân đội, để đối phó với cuồng
vọng của tướng Nguyễn Văn Hinh sau
này.
Tại Hà nội, nơi tôi học, có bốn lớp
quân sự: lớp Trung đoàn trưởng, lớp
Tham mưu trưởng, lớp Tiểu đoàn
trưởng, và lớp Đại đội trưởng, tổng
số* khoá sinh gồm độ 150 người, mà
khi tốt nghiệp những sĩ quan này sẽ
được bổ nhiệm vào các chức vụ chỉ
huy. Tôi dùng luận điệu "ông Diệm có
c̣n, Việt Nam mới c̣n" để tác động
tinh thần họ. Thiếu tá Lam Sơn, Đại
uư Nguyễn Chánh Thi cũng đồng quan
điểm với tôi và sau này họ đă có
công trong việc giúp ông Diệm chống
lại lực lượng của tướng Hinh. Sau
này, biến cố đất nước bị chia đôi
ngày 20 tháng 7 bởi hiệp ước Genève
do sự bất lực của Pháp và các chính
phủ của chế độ Bảo Đại, càng cho tôi
thêm yếu tố để tuyên truyền hầu tăng
cường uy tín và lập trường quốc gia
chống Pháp của ông Diệm.
Ngày 30 tháng 6, khi ông Diệm ra Hà
Nội để quan sát t́nh h́nh miền Bắc
và để thăm ḍ nhân sự hầu thành lập
nội các, th́ t́nh h́nh chiến sự tại
Bắc Việt đă đến hồi kết thúc trong
hỗn* loạn, Đại tá Vanuxem mở cuộc
hành quân Auvergne để di tản khỏi
miền Nam của Bắc Việt (Thái b́nh,
Ninh B́nh, Nam Định... các tỉnh có
nhiều giáo phận và đồn bót của Pháp)
trong cố gắng tránh những tổn thất
do cuộc rút quân gây ra. Thành phố
Hà Nội tràn ngập dân di tản ở các
vùng này, họ sống lê lết ở các vỉa
hè và xô xát với nhân viên công lực.
Và đúng như Bảo Đại mô tả trong "Le
Dragon d`AnNam", họ là những người
Công giáo, lực lượng mà ông Diệm tin
cậy sẽ là hậu thuẫn ở miền Bắc nhưng
họ chỉ lo t́m đường chạy trốn vào
Nam.
Quyết định rút lui của quân đội Pháp
đă như cơn gió mạnh thổi tan lực
lượng này, vốn hiện diện và tồn tại
phần lớn nhờ nương dựa vào sức mạnh
của chính quân đội ngoại bang đó.
Khi cây đă ngă th́ những b́m bịp bám
dựa vào đó cũng ngă theo luôn.
Khi nhận chức Thủ tướng với Bảo Đại,
ông Diệm không ngờ chiến sự tại Bắc
Việt lại suy sụp nhanh đến thế, khi
thề trước thánh giá sẽ "bảo vệ toàn
vẹn lănh thổ", ông Diệm đă hoàn toàn
không nắm vững được t́nh h́nh sẽ
biến chuyển theo chiều hướng nào.
Như suốt cả cuộc đời ông Diệm (và cả
anh em ông nữa) đă chứng minh, họ
luôn luôn chủ quan, không thực tế,
và nhất là chỉ cho ḿnh là đúng, là
nhất.
Khi quân Pháp rút lui, tâm trạng bị
bỏ rơi của các giáo phận đó đă được
chính Đại tá Vanuxem kể lại trong
hồi kư của ông qua thái độ tuyệt
vọng một cách nhục nhă của Giám mục
Phạm Ngọc Chi thuộc giáo phận Bùi
Chu, một thái độ bị bỏ rơi nên trở
lại coi người bạn Pháp năm xưa như
kẻ thù [8]:
Một ngày kia, tại Nam Định, nơi có
bộ chỉ huy của tôi, người ta báo cho
tôi biết có một số các vị giáo phẩm
Công giáo Việt Nam của địa phận tới
xin vào thăm, tôi tiếp họ ở một căn
hàng tạp hoá. Cả thảy có bốn người,
cầm đầu bởi giám mục Phạm Ngọc Chi
thuộc giáo phận Bùi Chu, và sau này
thuộc giáo phận Đà Nẵng và luôn luôn
là bạn thân của tôi.
Đến trước mặt tôi, ông bèn quỳ xuống
trong lúc tôi cố đỡ ông dậy, ông
nói: "Không, tôi xin lỗi Đại tá.
Chúng tôi xin lỗi Đại tá. Chúng tôi
cứ tưởng rằng quốc gia chúng tôi
xứng đáng được độc lập mà chúng ta
có bổn phận giúp đỡ; nhưng chúng tôi
đă nhận ra quá muộn rằng những người
mà chúng tôi trông cậy (người Pháp)
lại là những kẻ thù của chúng tôi,
những kẻ thù muốn chúng tôi mất linh
hồn".
Vanuxem kết luận rằng:
Thật là một thảm hoạ to lớn khi
những nhân vật lănh đạo tinh thần đă
buộc phải hạ ḿnh nhục nhă trước một
quân nhân. Tương lai đă cho thấy tất
cả thảm hoạ đó.
Giáo phận Bùi Chu đă hợp tác và phục
vụ quân đội Pháp ngay từ ngày đầu
tiên Pháp trở lại Bắc Việt. Giáo
phận này đă biến một số giáo đường
thờ Chúa thành pháo đài quân sự,
khuyến khích thanh niên Công giáo
gia nhập Phụ Lực Binh cho quân đội
Pháp. T́nh trạng của giáo dân trước
viễn ảnh Tây đi Cộng về rơ ràng rất
nguy hiểm và rất đáng tội nghiệp,
nhưng không phải v́ thế mà một vị tu
sĩ cao cấp lănh đạo tinh thần của
một tôn giáo có truyền thống hy sinh
tử v́ đạo lại có thể quỳ xuống trước
một quân nhân ngoại quốc để cầu khẩn
họ ở lại bằng những luận cứ trách
móc, giận hờn. Cách thế hành sử đó
và nội dung lời cầu khẩn đó không
những làm đau ḷng những tín đồ Công
giáo chân chính mà c̣n làm cho những
đồng bào Việt Nam của ông hổ thẹn
nữa. (Sau này, khi di cư vào Đà
Nẵng, Giám mục Phạm Ngọc Chi trở
thành một lănh tụ của đảng Cần Lao
tại miền Trung bên cạnh lănh chúa
Ngô Đ́nh Cẩn. Không trách ǵ quần
chúng và Phật giáo đồ tại miền Trung
bị khốn khổ và cũng không trách ǵ
v́ những người như vậy, mà chế độ
Ngô Đ́nh Diệm bị toàn dân căm thù
lật đổ vào năm 1963).
Được tin ông Diệm đến Hà Nội, tôi
bèn tới dinh Thủ Hiến để gặp chào
mừng ông. Một đám đông chưa tới một
ngàn người, do nhóm các ông Lê Quang
Luật và Hoàng Bá Vinh (hai nhân sĩ
Công giáo ở Bắc) tổ chức, đang cầm
quốc kỳ và trương biểu ngữ diễn hành
trước dinh Thủ Hiến để chào mừng vị
tân Thủ tướng. Tôi vừa buồn vừa giận
v́ số người tham dự quá ít ỏi so với
dân số Hà Nội lúc bấy giờ, nhất là
dân số đó lại vừa được tăng cường
nhờ số dân Công giáo tị nạn từ các
tỉnh mới đến. Tôi nghĩ thầm như thế
và đâm ra ngượng với các cán bộ của
Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí (thuộc đảng
Đại Việt), vốn không ưa ǵ ông Diệm.
*Khi ông Diệm đến bậc thềm để vào
dinh Thủ Hiến th́ thấy tôi, tôi vội
chào lớn "thưa Cụ". ông Diệm nh́n
tôi vừa lộ vẻ ngạc nhiên một cách
vui mừng và nói lớn: "À! có cả anh
Mậu đây nữa à . Tôi chưa kịp nói
thêm lời nào th́ những lễ nghi quân
cách đă vang lên kéo ông vào đại
sảnh. Tuy hơn tôi những 16 tuổi và
xa cách gần sáu năm trời, tôi vẫn
không thấy ông già thêm bao nhiêu.
Bước đi của ông vẫn ngắn và thoăn
thoắt, chỉ có dáng người trông có vẻ
bệ vệ hơn trong bộ âu phục trắng.
Biết ông c̣n bận rộn với những nghi
lễ, tôi vội rời đám đông trở về quân
trường. Nhớ lại ngày nhận được tin
ông Diệm được ông Hồ Chí Minh trả tự
do tôi mừng bao nhiêu th́ hôm nay,
gặp lại ông trong cảnh huy hoàng của
sự đạt thành ư nguỵện, tôi mừng bấy
nhiêu. Đối với tôi, một cá nhân tầm
thường, một cán bộ đấu tranh chỉ có
tấm ḷng son trang trải cho quê
hương, th́ sự kiện ông Diệm nắm được
chính quyền là một thắng lợi vĩ đại
vừa của tổ quốc, vừa của tổ chức, và
vừa của chính ḿnh. Mười hai năm
gian truân vào tù ra khám, mười hai
năm không biết được mái ấm gia đ́nh,
mười hai năm cầm cự cho tổ chức sống
c̣n... như cuốn phim dài chợt tuần
tự tŕnh chiếu lại như một thoáng vó
câu. Tôi mừng mừng tủi tủi đến rơi
nước mắt và trong một thoáng ngắn
ngủi, chợt thấy trời đất Bắc mùa Hạ
mà ngọt ngào hương nắng mùa Xuân.
Hai ngày sau, ông Diệm cho người mời
tôi vào dinh Thủ Hiến để thăm hỏi
t́nh h́nh chiến sự, t́nh trạng gia
cảnh. Ông bắt tôi kể lại cho ông
nghe điều kiện hoạt động của từng
anh em trong nhóm và riêng tôi th́
khi nào măn khoá để về Nam. Ông cũng
cho biết là mới về, công việc c̣n đa
đoan và nhiều khó khăn. Sau những
phút nồng nhiệt ban đầu của cuộc gặp
gỡ, ông trở lại với trạng thái đăm
chiêu, nét lo âu mệt mỏi hiện rơ ra
trên cặp mắt kém linh động; ghế bên
kia, ông Nhu ngồi với bộ mặt khổ năo
lầm ĺ. Được gần một tiếng đồng hồ
th́ tôi đứng dậy chào về v́ bên
ngoài đă có người chờ vào gặp.
Ra ngoài hành lang dinh Thủ Hiến,
tôi gặp cụ Tạ Chương Phùng và ông Vơ
Văn Hải, bèn thắc mắc với họ về nét
mặt ưu tư của ông Diệm và ông Nhu.
Ông Hải chưa kịp trả lời th́ cụ
Phùng đă nói: "Hôm qua Nhu mới bị
ông Cụ la cho một trận nên thân đó .
Cụ Phùng nhắc lại gần nguyên văn lời
ông Diệm gay gắt với ông Nhu: "Chú
đánh điện qua Pháp bảo tôi mọi việc
ở nhà đều xong xuôi sẵn sàng cả rồi,
bây giờ tôi về lại gặp không biết
bao nhiêu là khó khăn. Không ai thèm
hợp tác với tôi, ngay cả ông Chữ và
ông Toàn cũng từ chối (tức là bác sĩ
Nguyễn Xuân Chữ và bác sĩ Lê Toàn,
hai đồng chí của ông Diệm trong
phong trào Cường Để hoạt động ở Bắc
Việt dưới thời Nhật chiếm đóng). Tôi
không làm việc được trong t́nh cảnh
này, về Sài G̣n rồi tôi sẽ ra đi..."
Tuy ông Diệm nói thế nhưng hai anh
em ông vẫn liên lạc thăm ḍ, mời một
số chính khách tham dự vào nội các
của ông. Sau gần hai tuần lễ Việt
Nam không có chính phủ, ngày 7 tháng
7 tại Sài G̣n, nội các Ngô Đ́nh Diệm
đầu tiên ra mắt quốc dân với thành
phần như sau;
*- Ngô Đ́nh Diệm: Thủ tướng kiêm
Tổng trưởng Nội vụ, kiêm Tổng trưởng
Quốc pḥng.
* - Trần Văn Chương: Quốc Vụ Khanh.
* - Trần Văn Đỗ: Tổng trưởng Ngoại
Giao.
* - Trần Văn Của: Tổng trưởng Tài
chính, Kinh tế.
* - Phan Khắc Sửu: Tổng trưởng Canh
nông.
* - Nguyễn Tăng Nguyên: Tổng trưởng
Lao Động và Thanh Niên.
* - Trần Văn Bạch: Tổng trưởng Công
chánh và Giao Thông.
* - Nguyễn Dương Đôn: Tổng trưởng
Giáo Dục.
* - Phạm Hữu Chương: Tổng trưởng Y
Tế và Xă Hội.
*
Ngoài ra c̣n có một số Bộ trưởng
như:
* - Trần Quang Thành: Bộ trưởng Phủ
Thủ tướng.
* - Lê Quang Luật: Bộ trưởng Thông
Tin.
* - Nguyễn Ngọc Thơ: Bộ trưởng Nội
Vụ.
* - Lê Ngọc Chấn: Bộ trưởng Quốc
pḥng.
* - Bùi Văn Thinh: Bộ trưởng Tư
Pháp.
* - Nguyễn Văn Thoại: Bộ Trưởng Kinh
Tế.
* - Trần Hữu Phương: Bộ Trưởng Tài
Chánh.
*- Phạm Duy Khiêm: Phát ngôn viên
Phủ Thủ tướng [9]
Nh́n vào thành phần chính phủ trên
đây ta thấy có một số nhân vật có uy
tín, có thành tích đấu tranh, số
khác là những nhà trí thức khoa bảng
hoặc là thành phần quan lại cũ,
nhưng không có nhân vật nào nằm gai
nếm mật xả thân cho Cách mạng chống
Pháp chống Việt Minh như anh em ông
Diệm thường hô hào. Và đại đa số
những Tổng, Bộ trưởng trong nội các
lại càng chưa bao giờ "cầm súng
kháng chiến" như lời tuyên bố của
ông Diệm tại Hồng Kông năm 1950 khi
ông bắt đầu cuộc hành tŕnh vận động
quốc tế.
*Điều mỉa mai là trong số 16 nhân
vật cộng tác với ông Diệm trong
chính phủ đầu tiên này, chỉ trừ các
ông Nguyễn Dương Đôn và Phạm Duy
Khiêm là không nghe nói đến có mâu
thuẫn và chống đối với ông Diệm hay
chế độ của ông, 14 vị c̣n lại dần
dần đều đứng trong tư thế đối lập
hoặc trở thành kẻ thù của ông Diệm.
Ngay như hai ông Bùi Văn Thinh và
Trần Chánh Thành, những người từng
chia sẻ cay đắng, đồng lao cộng khổ
với ông Diệm trong những năm 1954,
1955, mà rồi cũng bị bạc đăi để phải
đi ra nước ngoài theo chính sách
"được làm Vua thua làm Đại sứ". Kỹ
sư Trần văn Bạch chỉ v́ không chịu
hô "Ngô Thủ tướng muôn năm" trong lễ
chào cờ mà bị mất chức, bị gán cho
là thân B́nh Xuyên và bị theo dơi
[10]. Ông Nguyễn Ngọc Thơ, người bạn
chí thân của ông Diệm, cuốí cùng rồi
cũng theo phe cách mạng 1-11-63. Ông
Nguyễn Văn Thoại làm Bộ trưởng mấy
tháng rồi cũng chán nản từ chức bỏ
nước ra đi v.v...
Một điểm cần lưu ư ở đây là từ năm
1956, nghĩa là khoảng tám tháng sau
khi truất phế Cựu hoàng Bảo Đại và
thành lập nền Cộng Hoà, chính phủ
ban hành đạo luật xem ngày 7 tháng 7
như một quốc lễ (lễ Song Thất) và
đồng thời bài "Suy tôn Ngô Tổng
Thống" được hát sau bài quốc ca
trong tất cả mọi lễ chào quốc kỳ của
tất cả mọi trường hợp (Bài hát đại ư
tôn vinh cá nhân Ngô Tổng thống anh
minh đă cứu nguy cho dân tộc), mà
trong phần điệp khúc có câu “Toàn
dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng
thống. Ngô Tổng thống, Ngô Tổng
thống muôn năm” đă được quần
chúng nhại lại một cách châm biếm là
"Toàn dân Việt Nam nhớ ăn tô hủ
tiếu. Tô hủ tiếu, Tô hủ tiếu ngon
ghê!". Lễ song thất và bài ca suy
tôn Ngô Tổng thống là một sự bắt
chước thô kệch và thất nhân tâm của
ngày lễ Song Thập, vốn là quốc khánh
của Trung Hoa Dân quốc để kỷ niệm
ngày cách mạng Tân Hợi thành công
(10-10-1911). Thô kệch về h́nh thức
v́ một bên là vinh danh một cuộc
cách mạng, một bên là suy tôn một cá
nhân; và thất nhân tâm là v́ nội
dung của nó, một bên mô tả lại một
cuộc cách mạng gian khổ để đạp đổ
nền quân chủ phong kiến, c̣n một bên
mô tả lại một cá nhân “bao năm
lê gót nơi quê người” mà ai
cũng biết là "lê gót" để đi vận động
chính trị chứ không phải xuất dương
để đấu tranh cách mạng gian khổ.
Tội nghiệp ông Diệm đă từng chống
lại Bảo Đại rồi "lê gót" từ Việt Nam
qua Rome, qua Mỹ mong cầu hai thế
lực này đưa ông về nước làm lănh tụ,
không ngờ ông c̣n buộc phải qua cái
cầu Bảo Đại nữa mới mong làm được
Thủ tướng. Theo linh mục Cao Văn
Luận trong Bên Gịng Lịch Sử th́
giữa năm 1953, ông Diệm "lê gót" từ
Mỹ qua Pháp mong cầu gặp Đức Quốc
trưởng nhưng chờ chực ba tháng trời
mà không được Quốc trưởng tiếp kiến
làm cho ông bồn chồn, lo âu, bực tức
đến phải trách móc than thở. Thấy
thái độ lănh đạm của Cựu hoàng Bảo
Đại, ông Diệm lại phải "lê gót" qua
Bỉ để đợi thời. Cho đến khi Ngoại
trưởng Foster Dulles yết kiến vua
Bảo Đại để vận động cho ông Diệm,
vua Bảo Đại mới chịu tiếp kiến ông
Diệm và sau đó cử ông làm Thủ tướng.
Chỉ là một Thủ tướng được Quốc
trưởng chỉ định chứ không phải do
con đường cách mạng mà lên cầm quyền
cho nên các văn kiện như sắc lệnh,
như Dụ, v.v... ông phải kư "thừa
lệnh Đức Quốc trưởng". Sau khi thành
lập chính phủ mà ông đă từng chỉ
trích chống đối, ông Diệm cử Ngoại
trưởng Trần Văn Đỗ và ông Nguyễn Hữu
Châu, một luật sư danh tiếng, anh em
cột chèo với ông Ngô Đ́nh Nhu, đi
tham dự hội nghị Genève thay thế
phái đoàn của chính phủ Bửu Lộc do
giáo sư Nguyễn Quốc Định cầm đầu;
đồng thời bổ nhiệm ông Hoàng Cơ B́nh
giữ chức chủ tịch Uỷ Ban Bảo Vệ Bắc
Việt thay thế ông Nguyễn Hữu Trí,
Thủ hiến Bắc Việt, một nhân vật
thuộc đảng Đại Việt.
Trách nhiệm ông Diệm là phải bảo
toàn tất cả những phần đất của phe
quốc gia và nước Việt Nam phải toàn
vẹn lănh thổ như ư nguyện của mỗi
người quốc gia và như ông đă thề
trước thánh giá và trước Quốc trưởng
Bảo Đại. Nhưng ông đă hoàn toàn thất
bại.
Tại pḥng hội lớn của Liên Hiệp Quốc
tại Genève, trưởng phái đoàn Việt
Nam là Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, mặc
dù khả năng lư luận có thừa và ḷng
yêu nước cuồn cuộn, vẫn không ngăn
được kết quả của một thế cờ đă được
sắp sẵn rồi. Thế cờ oan nghiệt cắt
đứt đất nước thành hai miền để những
thoả hiệp của các cường quốc có thể
thành h́nh trên máu lệ của 25 triệu
người dân Việt Nam.
Thư mà cựu Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ
gởi cho tôi đính kèm trong phần Phụ
lục là một tài liệu lịch sử quư giá
nói lên nỗi đau ḷng của một nhà
Ngoại giao thất thế. Ngoại trưởng
Trần Văn Đỗ đă không khóc lóc tại
hội nghị Genève như một số người
viết sử đă thêu dệt, vô t́nh tạo cơ
hội cho Cộng Sản tuyên truyền; ngược
lại, chính ông đă phản đối kịch liệt
Thủ tướng Mendès-France, trưởng phái
đoàn Pháp, đ̣i hỏi Pháp phải đưa ra
lời tuyên bố long trọng công nhận
Việt Nam hoàn toàn độc lập. Ít ra,
trong những giây phút cô đơn và
tuyệt vọng nhất, ông cũng đă phơi
bày được tấm ḷng son với đất nước
quê hương.
C̣n tại Bắc Việt, ông Hoàng Cơ B́nh,
chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ Bắc Việt nhất
định không muốn rút lui khỏi miền
Bắc, ông thành lập trung đoàn Thủ Đô
để bảo vệ Hà Nội. Người Pháp thấy
thái độ cứng rắn của ông có thể gây
trở ngại cho việc thi hành những
điều quy định của hiệp ước Genève
nên làm áp lực với Thủ tướng Diệm
cất chức ông ta. Ông Diệm đành phải
nhượng bộ người Pháp và cử ông Lê
Quang Luật đang làm Bộ trưởng Thông
Tin tại Sài G̣n ra Hà Nội thay thế
ông Hoàng Cơ B́nh, giải tán trung
đoàn Thủ Đô và tổ chức cuộc triệt
thoái các cơ cấu quốc gia trong ṿng
300 ngày theo qui định của hiệp ước
Genève.
Trước đó và cách đó gần trọn nửa
trái cầu, vào buổi chiều ngày 20
tháng 7 năm 1954, Molotov, trưởng
phái đoàn Nga Sô, triệu tập một buổi
họp không chánh thức tại biệt thự Le
Bocage nơi ông ta đang trú ngụ, ông
Bedell Smith của phái đoàn Mỹ và
Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ không được
mời tham dự. Hiện diện tại buổi họp
có Mendès-France, Chu Ân Lai, Ngoại
trưởng Eden của Anh, và ông Phạm Văn
Đồng. Ông Đồng mở đầu bằng đề nghị
chia đôi Việt Nam theo vĩ tuyến 16,
Mendès-France vẫn nhất định đ̣i vĩ
tuyến 18. Sau một hồi bàn căi quyết
liệt, cuối cùng Molotov lớn tiếng:
"Thôi hăy đồng ư với nhau vĩ tuyến
17 đi" và đề tài thảo luận chuyển
qua thời biểu cho cuộc tổng tuyển cử
thống nhất đất nước.[11]
Số phận Việt Nam thế là được định
đoạt bằng một câu nạt nộ của một
viên chức người Nga trong một biệt
thự kín cổng cao tường của nước Thuỵ
sĩ. Không có ai trong buổi họp lịch
sử đó là người phía Việt Nam quốc
gia cả.
Hiệp ước 20-7-54 này qui định chấm
dứt mọi hành động thù nghịch giữa
các phe lâm chiến, tạm chia nước
Việt thành hai miền tại vĩ tuyến thứ
17 trong lúc chờ đợi một cuộc tổng
tuyển cử toàn quốc vào mùa hè năm
1956. (Theo nhiều sử sách ngoại quốc
th́ trước cuộc họp tại biệt thự Le
Bocage, Chu Ân Lai, Ngoại trưởng
Trung Cộng, đă gặp riêng ông Phạm
Văn Đồng và cho biết là phải chấp
nhận vĩ tuyến 17).
Như vậy là sau 10 năm máu lửa và với
hơn bốn trăm ngàn thường dân và quân
nhân chết cả ở hai phía, chủ nghĩa,
chế độ, xă hội và con người Cộng Sản
bắt đầu công khai xuất hiện và quản
trị miền Bắc. C̣n tại miền Nam Việt
Nam, chủ nghĩa và chế độ gọi là quốc
gia bắt đầu biến mất để nhường lại
cho một chủ nghĩa và một chế độ gọi
là “chống Cộng kiểu Công Giáo”,
dù Hiến pháp có gọi là nước Cộng
Hoà, có gọi định chế quốc gia là
Tổng thống chế, và dù giai tầng lănh
đạo có gọi chủ thuyết chỉ đạo quốc
gia là nhân vị.
*-o0o-
*Cuối tháng Bảy, tuy chưa măn khoá
nhưng lớp của chúng tôi cũng phải
xuống Hải Pḥng đợi tàu di tản vào
Nam. Năm giờ chiều, con tàu Saint
Michel từ từ rời bến. Đứng trên
boong tàu, tôi nh́n lại quê hương
miền Bắc lần chót, ḷng tái tê trước
cảnh biệt ly.
Miền Bắc không phải là nơi chôn nhau
cắt rốn nhưng Bắc-Trung-Nam như đầu
ḿnh và tay chân, nối liền máu xương
ruột thịt, nay miền Bắc rơi vào tay
Cộng Sản, quê hương Quảng B́nh của
tôi rơi vào tay Cộng Sản, tôi đau
đớn như thấy mất đi một phần thân
thể của mẹ hiền. Theo Gia phả họ Đỗ
nhà tôi th́ nơi xuất phát của gịng
họ tôi vốn nằm ở mạn Sơn Tây, Bắc
Việt gần vùng đất Hùng Vương dựng
nước. Nhưng v́ cuộc cờ biến thiên,
hoặc v́ loạn ly, hoặc v́ những đợt
hưng vong của các triều đại, một số
con cháu họ Đỗ theo đà Nam tiến của
dân tộc trôi dạt đến đất Quảng B́nh,
dừng lại trên bờ sông Linh Giang sau
dăy đèo Ngang, lập thành làng Thổ
Ngọa. Căn cứ vào truyền thuyết và
gia phả th́ tổ tiên chúng tôi thuộc
ḍng dơi thiền sư Đỗ Thuận. Theo
Việt Nam Phật Giáo sử Luận của
Nguyễn Lang (tức Thượng Toạ Thích
Nhất Hạnh) và Hai ngàn năm Việt Nam
và Phật Giáo của Lư Khôi Việt th́
"Thiền sư Đỗ Thuận xuất gia hồi c̣n
thơ ấu, có thiên tài về thơ phú và
văn chương, được học giả Lê Quư Đôn
có thơ truy tặng: "Câu thơ Pháp
Thuận, sứ Tống khen hay. Bài ca Chân
Lưu nổi danh một thủa". Chính ông
cùng với thiền sư Khuông Việt đă
dùng nghệ thuật phù sấm giúp Lê Hoàn
nắm lấy quyền bính trong cuộc đảo
chánh ôn hoà năm 980. Trong buổi đầu
sáng nghiệp của triều Lê, ông có
công thiết kế và quyết định chính
sách quốc gia, nhưng khi thiên hạ đă
thái b́nh rồi th́ không chịu nhận
phong thưởng. Vua Lê Đại Hành rất
kính trọng, không gọi tên, chỉ xưng
họ là Đỗ Pháp sư mà thôi." [12]
Cho nên hôm nay xa đất Bắc, ĺa quê
cha đất tổ của thời xa xưa, chẳng
những tôi phải ly cách một phần quê
hương ruột thịt mà c̣n vĩnh biệt
luôn miền đất của gốc rễ cội nguồn.
Giờ đây, núi Tản Viên ghi dấu Quốc
Tổ Hùng Vương, sông Hồng Hà bao phen
nhuộm máu quân thù phương Bắc, Hà
Nội ba mươi sáu phố phường, thành cũ
Thăng Long ngàn năm văn vật với chùa
Trấn Quốc, hồ Hoàn Kiếm, g̣ Đống Đa,
đền Ngọc Sơn, tất cả núi sông hùng
vĩ, cảnh vật cẩm tú yêu kiều chỉ c̣n
là những h́nh bóng của tâm tưởng
trong cảnh trời chiều bảng lảng, để
rồi vỡ tung thành vạn mảnh kư ức khi
con tàu từ từ ĺa bến Cảng ra khơi.
Ḷng tôi se thắt lại.
Đến Sài G̣n, những lớp học của chúng
tôi được chuyển vào Bộ Tổng Tham Mưu
để tiếp tục cho đến ngày măn khoá
gần cuối tháng 9. Trong lúc đó th́
đài phát thanh quân Đội của tướng
Hinh vẫn ra rả ngày đêm công kích,
đả phá, thách thức Thủ tướng Ngô
Đ́nh Diệm.
Ngày chúng tôi măn khóa, tướng
Nguyễn Văn Hinh cho tổ chức một buổi
tiệc trà tại nhà riêng của Đại tá
Trần Văn Đôn ở Chợ Lớn vào lúc 7 giờ
chiều để chúc mừng các sĩ quan tốt
nghiệp. Khi chúng tôi đến nơi th́ đă
thấy tề tựu nhiều sĩ quan như Đại tá
Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Trần Văn
Minh, các Trung tá Nguyễn Khánh,
Trần Tử Oai, Dương Văn Đức... và
những sĩ quan thuộc pḥng hai, pḥng
năm, và pḥng sáu, pḥng chiến tranh
Tâm Lư, Nha An Ninh Quân đội, nghĩa
là những sĩ quan thuộc bộ phận chính
trị và t́nh báo, những sĩ quan thân
thuộc của tướng Nguyễn Văn Hinh. Độ
chín giờ tối, tướng Hinh mới đến,
theo sau là cả một đoàn xe hộ tống
có cả xe Jeep trang bị trung liên.
Ông ra lệnh cho tất cả các sĩ quan
trong buổi tiệc đứng ṿng tṛn chung
quanh ông. Sau khi ông nói mấy lời
chào mừng các sĩ quan măn khoá các
lớp quân sự, đến lượt các sĩ quan
phụ tá của ông phát biểu ư kiến. Tất
cả đều dùng một thứ ngôn từ và một
thứ luận điệu để nặng lời đả kích,
hạ nhục Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm. Họ
chê ông là Tuần Vũ, là ngu thần của
phong kiến thối nát, là tay sai của
Đế quốc tư bản Mỹ, là trốn tránh ra
nước ngoài để vận động làm Thủ tướng
trong lúc quân dân hy sinh xương máu
chống Cộng Sản, là ngồi mát ăn bát
vàng... Cuối cùng một sĩ quan trẻ
thuộc pḥng Năm tóm lược các lời
tŕnh bày rồi đề nghị quân đội phải
đảo chánh ông Diệm để cứu lấy miền
Nam. Họ c̣n ví ông Diệm là một thứ
Farouk và kêu gọi tướng Hinh noi
gương Nasser, người hùng Ai Cập. Họ
hô hào là thời cơ đă đến cho tướng
Hinh cướp lấy chính quyền. Tướng
Hinh và tất cả các sĩ quan thuộc hạ
của ông nh́n tôi với đôi mắt vừa chế
diễu vừa khiêu khích v́ họ biết quá
rơ tôi là cán bộ cốt cán của ông
Diệm.
Bao vây bởi một nhóm người thù
nghịch làm cho máu căm thù sôi sục
trong tim gan tôi. Trong giây phút
đó, trong khung cảnh đó, tôi chợt
nhớ đến Ngự sử Phan Đ́nh Phùng,
trước ba trăm cấm binh của Tôn Thất
Thuyết mà vẫn can đảm đứng lên oai
dũng kết tội viên phụ chánh lộng
quyền độc ác, dám trái lời uỷ thác
của vua Tự Đức khi vua vừa mới băng
hă: "Đức Tiên Hoàng vừa mới nhắm mắt
mà ngài đă làm việc trái nghịch di
chiếu như thế thật không c̣n đạo
nghĩa quần thần một chút nào. Huống
chi Tân quân (vua Dục Đức) chưa có
lỗi ǵ mà ngài định làm việc phế lập
càn dỡ đó, sao cho phải lẽ?" Nhớ lại
thái độ gan dạ của chí sĩ Phan Đ́nh
Phùng trước một triều thần mục nát,
xuẩn động, tôi chợt quên hẳn hoàn
cảnh của một quân nhân trước thượng
cấp mà chỉ c̣n bùng lên ḷng căm
phẫn của một cán bộ mà lư tưởng và
lănh tụ của ḿnh đang bị xúc phạm.
Không một chút phân vân, tôi bèn giơ
tay xin phát biểu ư kiến: "Thưa
Trung tướng, tôi xin hỏi ai đă làm
mất nửa nước, có phải là tại thực
dân và tay sai không? Vậy tại sao
Trung tướng và các sĩ quan không kết
tội thực dân và tay sai mà lại công
kích ông Diệm một cách vô ư thức như
thế. Tôi xin hỏi ông Diệm mới về
nước cầm quyền, ông đă làm những lỗi
lầm ǵ mà đ̣i đảo chánh ông ta? ".
Thiếu tá Lam Sơn đứng bên tay mặt
của tôi, thúc cùi chỏ vào hông tôi
và nói nhỏ: “Đừng nói nữa mà
nguy hiểm”. Nhưng tôi vẫn
hùng hồn lên án tướng Hinh và tay
sai thực dân, càng nói tôi càng to
tiếng hơn. Trung tá Trần Đ́nh Lan,
một loại Tây da vàng, con của bác sĩ
Trần Đ́nh Quế, từng làm bác sĩ ở
tỉnh tôi, từng làm Thị trưởng Đà Lạt
mà tôi biết cả lai lịch gia đ́nh rất
rơ, rút súng lục chĩa vào mặt tôi mà
nói lớn: "Mày có im miệng không, nói
nữa tao bắn tan xác". Đại uư Nguyễn
Chánh Thi đứng phía trái tôi vội giơ
tay lên can. Từ đó buổi họp nhuộm
bầu không khí nghẹt thở nặng nề
trong khi nhóm tay chân bộ hạ của
tướng Hinh xầm x́ to nhỏ. Tôi t́m
một chiếc ghế ngồi xuống, mặt hầm
hầm chờ đợi tướng Hinh ra lệnh bắt
giam. Nhưng rồi ông ta vẫn để tôi
yên. Sau này tôi nghe nói lại rằng
ông Hinh định đảo chánh ông Diệm
xong mới bắt tôi v́ bắt lúc bấy giờ
sợ mang tiếng. Tiệc tàn, tôi và Đại
uư Nguyễn Chánh Thi cùng về, c̣n có
một số sĩ quan trẻ đi theo vừa để
bảo vệ, vừa để bộc bạch sự ngưỡng
mộ. Trung uư Nguyễn Huỳnh, người
Công giáo (sau này là một đảng viên
Cần Lao, Trung tá phụ tá cho tôi ở
Nha An Ninh Quân Đội) giở mũ và nói:
"Đàn em xin kính phục đàn anh, vào
hang hùm mà không sợ cọp. Đàn em xin
"chapeau".
Vốn có ư thức chính trị lại nắm vững
t́nh h́nh quân đội, tinh thần sĩ
quan nên tôi đă dự liệu rất đúng
tham vọng và ư đồ của tưóng Nguyễn
văn Hinh và phe nhóm của ông ta đối
với Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm. Về phần
tôi, đă trải bao gian nguy mà tôi
c̣n không e ngại th́ sá ǵ những kẻ
tay sai thực dân, đầu óc vơ biền,
ham lợi danh, không hiểu biết ǵ
thời thế.
Ngay tối hôm đó, khoảng nửa đêm, tôi
vào dinh Độc Lập xin yết kiến Thủ
tướng và kể lại cho ông Diệm nghe sự
t́nh bữa tiệc vừa qua, đồng thời
tŕnh bày những nhận định của tôi về
ư đồ đảo chánh của tướng Hinh. Ông
Diệm nghe xong chỉ khuyên tôi lần
sau đừng liều như thế, nhưng trông
ông có vẻ buồn rầu và hết sức ưu tư.
Sáng hôm sau, ông sai ông Ngô Đ́nh
Luyện đến nhà tướng Hinh tại Chợ Lớn
để điều đ́nh, nội dung điều đ́nh như
thế nào tôi cũng không rơ.
Thái độ cương quyết và hung hăn đó
của tướng Hinh cộng với những áp lực
của Pháp và cuộc nổi loạn của B́nh
Xuyên sau này đă có lúc làm cho ông
Diệm dự định bỏ nước ra đi như Linh
mục Cao Văn Luận đă mô tả trong cuốn
"Bên Gịng Lịch Sử".
Từ ngày ông Diệm về làm Thủ tướng,
tướng Hinh đă bày tỏ thái độ bất măn
của ông bằng cách cho đài phát thanh
Quân Đội liên tục đả kích ông Diệm,
mặt khác thành lập một tổ chức bí
mật, "Đảng Con Ó", để làm hậu thuẫn
chính trị cho ông ta, đồng thời bố
trí bốn tiểu đoàn tại những địa điểm
huyết mạch của Đô Thành. Tôi c̣n nhớ
một trong bốn tiểu đoàn này do Đại
uư Albert Cao chỉ huy [13], người mà
sau này nhờ là tín đồ Công Giáo nên
lại được ông Diệm tin cậy và trọng
dụng.
Suốt mùa hè năm đó, tướng Hinh phối
hợp với nhóm B́nh Xuyên của Bảy Viễn
t́m cách khiêu khích và âm mưu phá
hoại tân chính phủ, đặc biệt nhắm
vào cá nhân ông Diệm. Hinh cho pḥng
Năm in truyền đơn rải khắp Sài
G̣n-Chợ Lớn kết án ông Diệm. Đă có
lần ông Diệm yêu cầu vua Bảo Đại
giải nhiệm tướng Hinh nhưng không
nhận được trả lời. Biết vậy, tướng
Hinh lại càng lộng hành hơn, đến độ
mặc thường phục cỡi xe mô tô chạy
trên các phố chính của Thủ đô để
dương oai với dân chúng và để thách
thức quyền hành của Thủ tướng phủ.
Trước những khiêu khích và khinh
thường đó, tôi chỉ thấy ông Diệm
liên lạc với phía người Mỹ để nhờ
can thiệp, và riêng ông Nhu th́
không h́nh thành nổi một lực lượng
quần chúng để có phản ứng thích hợp.
Những đồng chí cán bộ cũ, hoặc bị tê
liệt v́ bị vướng mắc vào bộ máy nhà
nước chưa chạy nhịp nhàng, hoặc v́
quá tŕnh hoạt động chưa bao giờ kết
tinh thành một tổ chức đấu tranh có
qui củ, nên lúc đó, mỗi người, trong
cương vị của ḿnh, tự lấy sáng kiến
mà hoạt động riêng rẽ.
Trong t́nh trạng đó, tôi ráo riết đi
khắp các đơn vị ở thủ đô để phát
hiện và động viên các sĩ quan tâm
huyết hăy biết phân biệt chính tà,
hăy biết phân biệt vấn đề sống chết
của quốc gia, của quân đội, và đặt
họ trước một sự chọn lựa dứt khoát
giữa Thủ tướng Diệm hay tay sai của
thực dân Pháp. Tôi vận động được một
số khá đông sĩ quan trẻ, đặc biệt có
Trung uư Nguyễn Hữu Hạnh, một cộng
sự viên thân tín của Đại tá Dương
Văn Minh, đang là Chỉ huy trưởng
Quân vụ Thị trấn Sài G̣n-Chợ Lớn.
Tôi chỉ thất bại một lần khi lên
Trung tâm Quang Trung để tuyên
truyền cho Trung tá Trần Tử Oai. Oai
hầm hầm nhục mạ ông Diệm và gần như
muốn đuổi tôi ra khỏi văn pḥng (ông
Oai hiện ở Pháp).
Trong lúc đó th́ từ tháng 6 năm
1954, nghĩa là khi hiệp định Genève
chưa ra đời, và một tháng trước khi
ông Diệm được bổ nhiệm làm Thủ
tướng, đại tá Edward G. Lansdale đă
có mặt ở Việt Nam với một nhóm
chuyên viên t́nh báo khoảng 15 người
nằm trong Phái Bộ Quân Sự Sài G̣n
(Saigon Military Mission) với hai
nhiệm vụ rất rơ ràng: Thứ nhất, tiêu
diệt khả năng phá hoại của t́nh báo
Pháp và tay sai để dọn đường cho ông
Diệm dễ dàng củng cố quyền lực; và
thứ hai là xây những viên đá đầu
tiên làm cơ sở cho sự hiện diện
chính trị hợp pháp và tất yếu của
người Mỹ tại Việt Nam. Sau đó, một
cách chính thức hơn, tướng Collins
xuất hiện bên cạnh Thủ tướng Diệm và
ngân sách viện trợ ba trăm triệu Mỹ
kim được Ngoại trưởng Dulles tháo
khoán cho Việt Nam. Ở một kích thước
khác và bí mật hơn, Thiếu tá Lucien
Conein (thuộc hạ của Lansdale) chỉ
huy một kế hoạch phá hoại miền Bắc
trước, trong và sau khi hiệp định
Genève có hiệu lực.
Cuối tháng Chín, tôi được lệnh Tổng
Tham Mưu trở về tŕnh diện đơn vị cũ
ở Nha Trang thuộc phân khu Duyên
Hải, lúc bấy giờ do Đại tá Nguyễn
Ngọc Lễ làm tư lệnh. Tại Nha Trang
c̣n có Thiếu tướng Nguyễn Văn Vận,
tư lệnh quân khu 3, đóng bộ chỉ huy
tại đây và một số đơn vị khác từ
miền Bắc di cư vào tạm trú để được
chờ tái phối trí về các đơn vị địa
phương khác. Vài ngày trước khi ra
đi, tôi tŕnh bày với ông Vơ Văn Hải
và bác sĩ Bùi Kiện Tín (hiện ở Mỹ) ư
định sẽ tổ chức một chiến khu tại
vùng Duyên Hải để ông Diệm có thể
trở về sử dụng như một căn cứ địa
trong trường hợp ông Diệm bị tướng
Hinh đảo chánh đánh bật ra khỏi Sài
G̣n.
* Bác sĩ Bùi Kiện Tín là một người
đă từng ủng hộ ông Diệm từ trước năm
1945, gia đ́nh ông đă giúp đỡ nhiều
cho ông Diệm khi ông Diệm c̣n ở với
em là Ngô Đ́nh Luyện tại số 2 đường
Armand Rousseau trong Chợ Lớn. Năm
1954, bác sĩ Tín trở thành bác sĩ
riêng của ông Diệm và sau đó thay
ông Lê Quang Luật làm Bộ trưởng
Thông Tin, khi ông Luật ra Bắc nhận
chức Đại biểu Chính phủ tại Bắc
Việt.
Sau khi nghe tôi tŕnh bày, bác sĩ
Tín đề nghị tôi nên thông báo kế
hoạch đó cho Phái bộ Quân sự Mỹ
biết, và sáng hôm sau, bác sĩ Tín
dẫn con là ông Bùi Kiến Thành (hiện
ở Pháp) và hai người Mỹ phụ tá cho
Lansdale vào dinh Độc Lập, nơi tôi
đang tạm trú để t́m gặp tôi. Tôi
tŕnh bày về nguyên tắc tổng quát
cho họ biết rằng quân đội Việt Nam
tại miền Trung, do một số sĩ quan
tâm huyết chỉ huy, nhất định sẽ
chống đối tướng Hinh và người Pháp
đến kỳ cùng. Nếu ông Diệm bị lật đổ
bằng bất kỳ phương cách nào và bởi
bất kỳ thế lực nào th́ chúng tôi sẽ
xây dựng miền Trung thành một quốc
gia độc lập để vừa chống Cộng sản ở
phương Bắc, vừa đuổi tay sai Pháp ở
phương Nam. Hai người Mỹ không tranh
luận với tôi, họ chỉ ghi nhận và cố
t́m thêm chi tiết, họ ngỏ lời ca
ngợi tinh thần quốc gia của chúng
tôi và hứa sẽ báo cáo lên thượng cấp
chủ trương lập Chiến khu của chúng
tôi.
Ư thức chính trị cho tôi biết rằng
giai đoạn này là cái cơ duyên lịch
sử duy nhất để dân tộc có thể chấm
dứt vĩnh viễn sự hiện diện nặng nề
và ung thối của thực dân Pháp trên
đất nước tôi. Vậy th́ dù có hay
không có ông Diệm, tôi cũng phải t́m
cách khai dụng cái cơ duyên này. Bắc
chống Cộng, Nam đuổi Tây chỉ là cái
thế tất yếu nhưng có phần nguy hiểm
hơn Khổng Minh ngày xưa muốn thành
h́nh chiến lược tam phân, Đông hoà
Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo. Nhưng có
chống được Cộng Sản ở phương Bắc và
có đuổi được tay sai Pháp ở phương
Nam hay không, lúc bấy giờ, đối với
tôi, chưa phải là lúc ngồi nghiên
cứu tính cách khả thi của nó. Tôi
chỉ biết là phải ủng hộ ông Diệm cho
cái thế cờ đuổi Pháp chống Cộng
thành h́nh. C̣n nếu ông Diệm không
c̣n th́ tuy cách đánh cờ có khác
nhưng thế cờ vẫn phải như vậy.
*********** Về đến Nha Trang, tôi
đến gặp Đại tá Nguyễn Ngọc Lễ ngay.
Ông Lễ là người tâm huyết nhưng ít
mưu cơ. Tôi tŕnh bày cho ông biết
rằng nếu ông Diệm phải ra đi hay bị
lật đổ th́ người Pháp sẽ thi hành
hiệp định Genève, nghĩa là sau hai
năm, Cộng Sản sẽ chiếm trọn miền Nam
để thống nhất đất nước. Cho nên dù
có chết bây giờ hay sau hai năm th́
cũng là chết, quân đội Việt Nam phải
có thái độ và hành động cụ thể để
cứu ông Diệm bây giờ tức là cứu cho
miền Nam mai sau. Tôi bàn với ông Lễ
là sẵn ông đang làm Tư lệnh Phân khu
Duyên Hải, có lực lượng quân đội
trong tay, lại thêm những sĩ quan
chỉ huy trưởng các tiểu khu, các
tiểu đoàn đều là người thân tín với
ông hết, công việc lập chiến khu
biến miền duyên hải thành đất Ba
Thục không khó khăn ǵ. Điểm khó
khăn duy nhất là sự hiện diện của
tướng Vận, nguyên Tư lệnh Quân khu 3
từ Bắc vào, đang đóng tại Nha Trang.
Tôi liền đề nghị ông Lễ triệu tập
ngay một buổi họp gồm có Trung tá
Nguyễn Quang Hoành, chỉ huy trưởng
tiểu khu Phan Thiết, Thiếu tá Thái
Quang Hoàng, chỉ huy trưởng tiểu khu
Phan Rang, Thiếu tá Huỳnh Công Tịnh,
chỉ huy trưởng tiểu khu Nha Trang,
và Đại uư Lê Khương, chỉ huy tiểu
đoàn 82 đóng tại thành Diên Khánh
cách tỉnh lỵ Nha Trang 10 cây số.
Ngày hôm sau, cuộc họp diễn ra tại
nhà ông Lễ gần bờ biển. V́ đă có kế
hoạch sẵn nên tôi tŕnh bày chi tiết
cho anh em thảo luận thêm, c̣n ông
Lễ th́ khôn khéo kích động ḷng yêu
nước của anh em để cuối cùng buổi
họp đi đến quyết định chung là phải
cứu ông Diệm. Bốn ngày sau, một cuộc
họp mật khác được tổ chức tại một
địa điểm trong một dăy núi thuộc
huyện Sơn Hải phía đông tỉnh Ninh
Thuận. Tham dự buổi họp này, ngoài
sự hiện diện của anh em quân nhân,
tôi c̣n mời thêm ba người dân sự
toàn là bạn thân của tôi và có thể
nói họ là những chiến sĩ kiên cuờng.
Đó là Phan Xứng từ Đà Lạt xuống,
Nguyễn văn Hay ở Phan Rang, và Tạ
Chí Diệp, tức Nguyễn Phan Châu cháu
gọi cụ Tạ Chương Phùng bằng Bác, từ
Qui Nhơn vào. Về phía quân sự c̣n có
Đại uư Nguyễn Khương và Trung uư Hà
Quang Giác, những sĩ quan tâm huyết
và có ḷng yêu nuớc rất cao. (Nguyễn
Khuơng vốn là cộng sự viên với tôi
khi c̣n làm chủ nhiệm tuần báo
"Tiếng Gọi" ở Huế). Chúng tôi phân
công cho Thái Quang Hoàng lập chiến
khu Đông. Tạ Chí Diệp sẽ đưa 50
thanh niên đảng viên của anh ta từ
B́nh Định vào chiến khu để làm cán
bộ chính trị ṇng cốt, Đại uư Nguyễn
Khương phụ trách thông tin tuyên
truyền. Phan Xứng về Đà Lạt lo đối
phó với Ngự Lâm Quân. Chúng tôi nhờ
linh mục Nguyễn văn Sồ (ở cách Nha
Trang 5 cây số) lo việc in truyền
đơn, c̣n nhà thờ của Cha sẽ biến
thành trụ sở bí mật. Thiếu tá Nguyễn
Quang Hoành nắm lấy tỉnh Phan Thiết
và Đại uư Nguyễn Khương về Khánh Hoà
sửa soạn đem quân lên núi tổ chức
thêm chiến khu. Sắp đặt xong, ông Lễ
và tôi về lại Nha Trang và cho Đại
uư Huỳnh văn Cao vào mật tŕnh với
dinh Thủ tướng.
Yếu tố mấu chốt của kế hoạch này là
thành lập được vài chiến khu để gây
thanh thế và tạo áp lực chính trị về
Sài G̣n. Áp lực chính trị này xuất
phát từ cả quân lẫn dân th́ sẽ là
một đ̣n bẩy lớn giúp ông Diệm thêm
sức mạnh trong thế chính trị mà ông
phải đương đầu. Nhưng mặt khác, yếu
tố mấu chốt đó cũng là điểm có nhiều
sơ hở nhất trong kế hoạch v́ chúng
tôi không có nhiều th́ giờ để chuẩn
bị chu đáo hầu tạo nên yếu tố bất
ngờ. V́ vậy, sau khi Thiếu tá Thái
Quang Hoàng di chuyển đuợc một số
đơn vị lên Chiến khu Đông rồi th́
t́nh báo của Pháp phúc tŕnh cho Bộ
Tham Mưu và tướng Hinh có phản ứng
quyết liệt liền.
Tướng Hinh đánh công điện ra lệnh
cho tuớng Vận nắm toàn quyền chỉ huy
Phân khu Duyên Hải và Đại tá Lễ phải
lên đường tŕnh diện Bộ Tổng Tham
mưu tức khắc để nhận lệnh thuyên
chuyển đi làm Chỉ huy trưởng đặc khu
Phú Quốc. Được t́nh báo cho biết ông
Lễ và tôi là hai nguời chủ lực trong
kế hoạch này, tướng Vận bèn cho một
trung đội đến "hộ tống" ông Lễ* lên
máy bay vào Sài G̣n, và đến phi
trường Tân Sơn Nhất th́ có sĩ quan
của tướng Hinh đón về Bộ Tổng Tham
mưu. Trên đuờng từ phi trường về,
ông Lễ đă lừa được vị sĩ quan an
ninh đó, cầm lấy tay lái xe rồi chạy
thẳng vào dinh Thủ Tuớng và tạm trú
tại đó luôn.
Riêng phần tôi th́ Tướng Vận cũng
cho một trung đội đến bao vây nhà để
bắt giam, nhưng tôi trốn được chỉ 5
phút trước đó và đến trú ẩn tại nhà
thờ của linh mục Nguyễn Văn Sồ. Mấy
ngày sau, Đại uư Nguyễn Vinh, chỉ
huy trưởng Tiểu đoàn Danh dự Phủ Thủ
tướng tuớng, mặc thuờng phục đến t́m
tôi và chuyển lệnh của ông Diệm gọi
tôi vào Sài G̣n ngay có công tác
quan trọng. Tôi vào đến dinh Thủ
tướng đợi ba ngày mà không gặp được
ông Diệm, chỉ được ông Vơ Văn Hải
(lúc bấy giờ đă là Chánh văn pḥng
Phủ Thủ tuớng ) cho biết là "Cụ đang
bận lắm, anh cứ đợi đó”. Thế là ông
Lễ và tôi cứ ở mấy ngày liền trong
pḥng riêng của ông Vơ Văn Hải tại
dinh Thủ tướng.
T́nh h́nh Thủ đô mỗi ngày một căng
thẳng, các đơn vị quân đội, cảnh sát
và các giáo phái đều ở trong tư thế
sẵn sàng nổ súng. Tướng Collins, Đặc
phái viên của Tổng thống Eisenhower,
bất đồng quan điểm với ông Diệm
trong khi Đại tá Lansdale th́ lại
hết ḷng ủng hộ ông Diệm. Sự mâu
thuẫn nội bộ của các viên chức cao
cấp Mỹ làm cho hoạt động của vị tân
Thủ tướng bị đ́nh trệ và lúng túng,
và cũng làm cho tướng Hinh thêm
quyết liệt trong ư định lật đổ ông
Diệm.
Một hôm, trong pḥng riêng của ông
Vơ Văn Hải, Đại tá Lễ, bác sĩ Tín,
Tạ Chí Diệp, Hải và tôi đang ngồi
nói chuyện th́ hai ông Luyện và Nhu
vào. Ông Luỵện hướng về Đại tá Lễ và
tôi rồi nói: " Cụ thương hai anh nên
muốn hai anh đi Hoa Kỳ tu nghiệp
thêm. Hai anh sửa soạn hành lư rồi
đợi giấy tờ xong th́ đi".
Từ khi mới vào Sài G̣n, tôi đă ngạc
nhiên về việc ông Diệm gọi gấp vào
mà cứ bắt tôi chờ không giao cho một
công tác nào, rồi ông Vơ Văn Hải
suốt cả tuần nay, sau mỗi ngày làm
việc cho ông Diệm, tối về pḥng lại
kể cho chúng tôi biết "ông Cụ đang
rất buồn rầu chán nản trước nhiều
khó khăn", cho nên khi nghe ông
Luyện nói hết sự thật rằng việc cho
ông Lễ và tôi, hai sĩ quan đă công
khai dùng biện pháp quân sự để chống
tướng Hinh, đi Mỹ là v́ có ư thương
muốn cho chúng tôi đi trước để rồi
ông sẽ đi sau mà không sợ cộng sự
viên bị trả thù. Tôi vội trả lời ông
Luyện: "Mười mấy năm trời theo Cụ
đấu tranh biết bao gian khổ mà tôi
không sờn ḷng, nay Cụ đă về nước để
cầm quyền, đă ngồi đàng hoàng trong
dinh Độc Lập mà lại phải bỏ cuộc ra
đi th́ thật là vô lư. Tôi không đi
đâu hết". Ông Luyện có vẻ bực ḿnh
nói; "Vậy anh ở nhà để làm ǵ?" Tôi
cũng bực ḿnh trả lời lại: "Nếu Cụ
không c̣n nắm chính quyền, và nếu
tôi bị đuổi khỏi quân đội, tôi sẽ về
nhà đi buôn nước mía, có sao đâu!"
Ông Nhu từ đầu vẫn không nói một
tiếng nhưng đến đây th́ ông mỉm
cười, có lẽ v́ biết không thuyết
phục được chúng tôi, ông bèn kéo ông
Luyện đi ra. Sau này nhờ thời gian
và các nhân chứng kể lại, nhờ các
biến cố tiếp theo cũng như nhờ càng
ngày càng hiểu rơ thêm tính t́nh ích
kỷ, hẹp ḥi của anh em nhà Ngô, ông
Lễ và tôi biết được rằng việc hai
anh em ông Luyện và Nhu cùng vào
thuyết phục chúng tôi đi Mỹ thật ra
chỉ là một âm mưu. Họ định hy sinh
loại bỏ chúng tôi và cả ông Thái
Quang Hoàng (chiến khu Đông) nữa, để
dùng như một trong nhiều điều kiện
để thoả hiệp với tướng Hinh đừng
chống đối, đừng đảo chánh. (Tôi vẫn
nghĩ rằng điều kiện của tướng Hinh
chỉ là kế hoăn binh của ông ta mà
thôi, thâm tâm và chủ trương của
tướng Hinh và Pháp vẫn luôn luôn
muốn lật đổ ông Diệm).
Ở đời, thường thường hết chim mới bẻ
cung, ăn xong cháo mới đá bát.
Trường hợp này, anh em ông Diệm chỉ
mới gần hết chim, chỉ ăn sắp xong
bát cháo, binh lửa vẫn c̣n ầm ĩ mà
đă xuống tay hy sinh cộng sự viên
rồi. Tuy xót xa nhưng cũng là thường
t́nh, v́ lúc đó nếu ông Diệm nói
thẳng với tôi về nhu cầu phải chấm
dứt mọi hoạt động chính trị quân sự
tại miền Trung, hoặc nếu cần cứ nói
thẳng với tôi là tự tê liệt hoá mọi
hoạt động th́ chắc chắn tôi cũng sẵn
sàng trả quân phục, cấp hiệu lại cho
quân đội để về làm một cán bộ đấu
tranh trong quần chúng. Nhưng ông
Diệm và anh em của ông đă không làm
như thế, đă không hành xử đúng cung
cách của một bậc lănh đạo đối với
đồng chí của ḿnh, hay ngay cả không
đúng tư cách của một người tầm
thường nhưng có tâm chất yêu nước và
có đạo đức cách mạng.
Sau này, chúng tôi biết thêm được sở
dĩ ông Diệm không c̣n* ư định "bỏ
nước ra đi" nữa là phần lớn là nhờ
những vận động chính trị và hoạt
động cụ thể của Đại tá Lansdale nhằm
chia rẽ và thu phục phe đối lập,
đồng thời khuyên giải và gây niềm
tin nơi ông Diệm, nhưng một phần
khác cũng nhờ thái độ cương quyết
của ông Ngô Đ́nh Cẩn và lực lượng
cán bộ ở Huế, trong t́nh trạng thiếu
những tin tức chính xác để có thể
lượng định t́nh h́nh, đă cứng rắn
một cách liều lĩnh nhất định bắt
buộc ông Diệm phải tiếp tục nắm
quyền. Chính ông Nguyễn Đôn Duyến,
Đại biểu Chính phủ ở Trung phần, đă
thảo nội dung công điện đánh vào Sài
G̣n.
Hai ông Luyện và Nhu đă ra khỏi
pḥng rồi mà ông Lễ và tôi vẫn c̣n
bàng hoàng về quyết định của ông
Diệm gởi hai chúng tôi đi Mỹ, dù bấy
giờ quyết định đó không c̣n được thi
hành nữa. Tạ Chí Diệp, người bạn trẻ
trí thức, chí lớn tài cao của tôi,
người đă từng phụ trách bộ phận
chính trị của Chiến khu Đông, hậm
hực kéo tôi ra hành lang tâm sự "Đă
muốn làm cách mạng, muốn cầm chính
quyền th́ khó khăn nguy nan mấy cũng
phải kiên cường gian khổ đấu tranh,
sao ông Cụ và hai ông Nhu Luyện mau
thối chí đến thế. Bác xem lại coi
liệu chúng ta có lầm ủng hộ cho một
gia đ́nh phong kiến tầm thường
không?..." Tôi vội chận Diệp lại:
"Cứ từ từ cho Cụ Diệm làm việc đă,
chưa nên có ư nghĩ đó vội, dù sao
c̣n nước ta c̣n tát".
Tuy nhiên, từ đó Tạ Chí Diệp xa lánh
dần nhà Ngô, không c̣n liên hệ với
anh em ông Diệm nữa. Cho đến khi bác
của Diệp là cụ Cử Tạ Chương Phùng bị
nhà Ngô chê bai là quê mùa cổ hủ, tỏ
thái độ vong ân bội phản, Diệp càng
thêm bất măn bèn liên lạc với B́nh
Xuyên để chống đối lại Thủ tướng
Diệm. Diệp đă tổ chức nhiều cuộc
biểu t́nh phản đối nhà Ngô ngay
trước dinh Độc Lập, do đó Diệp bị
bắt và bị giam chung với cán bộ Cộng
Sản tại Thủ Đức và Tam Hiệp gần 5
năm trời. Sau khi Diệp bị bắt th́ Cụ
Cử Tạ Chương Phùng và người con rể
của Cụ cũng bị công an bắt (xem thêm
thư của Cụ Huỳnh Minh Ư trong phần
phụ lục A). Khi được trả tự do, Diệp
thường liên lạc với bác sĩ Trần Kim
Tuyến và tôi, do đó sau này Diệp có
chân trong Hội nghị Đoàn Kết do ông
Ngô Đ́nh Nhu chủ tọa, việc mà tôi sẽ
kể rơ ở một chương sau.
Như đă nói ở trên, trong lúc anh em
ông Diệm ở Sài G̣n đang bối rối v́
áp lực của tướng Hinh và thối chí
muốn bỏ nước ra đi, th́ Đại tá
Lansdale và 15 người trong tổ chức
đặc nhiệm hoạt động ráo riết để t́m
cách cứu văn t́nh h́nh và động viên
tinh thần ông Diệm.
Là người đă dính dự rất chủ động
trong việc di cư hơn 800 ngàn đồng
bào từ Bắc vào Nam, Landsale là một
sĩ quan cao cấp xuất sắc của ngành
t́nh báo Hoa Kỳ* trong các công tác
hải ngoại. Xuất thân là một chuyên
viên trong ngành quảng cáo kỹ nghệ,
ông chú trọng rất nhiều đến các kỹ
thuật tâm lư chiến. "Đức Mẹ đă vào
Nam" là một trong rất nhiều kỹ thuật
đă được ông sử dụng để vận động các
giáo phận tại Bắc Việt dứt khoát lên
đường vào Nam trong khuôn khổ 300
ngày chọn chỗ di trú do Hội nghị
Genève 1954 quy định. Chính ông là
người đă giúp đỡ và tạo nên huyền
thoại Magsaysay trong chiến dịch
tiêu diệt Cộng Sản Hukbalahap tại
Phi Luật Tân nhờ vậy sau này ông có
biệt danh là "The Kingmaker .
Cho nên để loại bỏ tướng Hinh với sự
ủng hộ của Pháp và lực lượng các
giáo phái, ông đă được phái đến Sài
G̣n. Quả nhiên Lansdale đă thành
công trong loại công tác này một lần
nữa: Trước hết là thuyết phục Hoa
Thịnh Đốn về sự thiên vị và thiếu am
hiểu t́nh h́nh của tướng Collins,
sau đó là hoặc thuyết phục tướng
Tŕnh Minh Thế và quân đội Cao Đài
liên minh tại núi Bà Đen, hoặc hối
lộ một số cấp chỉ huy của lực lượng
vơ trang các giáo phái, hoặc là nhờ
Bộ Ngoại giao Mỹ hăm doạ chính phủ
Pháp để tạo áp lực bắt cơ quan t́nh
báo Pháp tại Sài G̣n phải ngưng ủng
hộ tướng Hinh và lực lượng B́nh
Xuyên của Bảy Viễn...
Vào lúc tướng Hinh sắp đảo chánh ông
Diệm th́ Quốc hội Hoa Kỳ chính thức
công bố lập trường qua lời tuyên bố
của phát ngôn viên bán chính thức về
vấn đề Đông Dương lúc bấy giờ là
Thượng Nghị Sĩ Mansfield "Nếu ông
Diệm bị lật đổ th́ Mỹ sẽ chấm dứt
viện trợ cho Việt Nam và cũng chấm
dứt quân viện cho quân đội Pháp",
đồng thời Tổng thống Eisenhower gửi
thư cho Sài G̣n công khai xác nhận
sự ủng hộ ông Diệm của chính quyền
Mỹ.
Ngày 2 tháng 10, tướng Ély, Cao uỷ
Pháp tại Đông Dương, về Pháp phúc
tŕnh cho Bảo Đại biết, chính quyền
Pháp đành phải theo đường lối chính
trị của Mỹ tại Đông Dương, nghĩa là
Mỹ sẽ thay Pháp xây dựng một tiền
đồn chống Cộng tại Đông Nam Á v́
quyền lợi của thế giới tự do. Ngày
19 tháng 11, theo lệnh Bảo Đại,
tướng Hinh rời Việt Nam vĩnh viễn,
trao quyền Tổng Tham Mưu trưởng quân
đội Việt Nam lại cho tướng Nguyễn
văn Vỹ, và như vậy chấm dứt mọi khó
khăn và mọi đe doạ cho cá nhân ông
Diệm và cho khả năng hành xử quyền
điều hành quốc gia của tân nội các.
Thế là Hoa Kỳ đă cứu ông Diệm tránh
được cuộc đảo chánh của tướng Nguyễn
Văn Hinh nhưng ông Diệm không giao
chức Tổng Tham Mưu trưởng cho tướng
Vỹ mà lại giao cho tướng Lê Văn Tỵ.
Sau khi tướng Hinh đi rồi, tôi đề
nghị mật với Thủ tướng rút hai tiểu
đoàn bộ binh thuộc Phân khu Duyên
hải vào khu Sài G̣n để tăng cường
quân lực cho ông Diệm. Hai tiểu đoàn
đó do Đại uư Trọng và Đại uư Long
người Công giáo Quảng trị và Thừa
Thiên chỉ huy (Trung tá Long hiện
nay ở Hoa Kỳ).
*-o0o-
*Từ năm 1952 đến năm 1954, bao nhiêu
biến cố trọng đại đă xảy ra cho dân
tộc điêu linh trên quê hương khốn
khổ. Năm 1952, trận Hoà B́nh mở màn
cho những thảm bại quân sự của quân
đội viễn chinh Pháp, và năm 1954,
tướng Nguyễn Văn Hinh ra đi để dân
tộc vĩnh viễn xóa nhoà tàn tích của
chế độ Bảo Hộ trên đất nước. Chảy
xuyên ḍng sông lịch sử trong giai
đoạn đó là trạng huống chia đôi
giang sơn và biến cố ông Diệm về
nước chấp chánh.
Nh́n lại ba năm nhọc nhằn nhưng oai
hùng đó, ta thấy đất Mẹ như đang
chuyển bụng sau gần 100 năm cưu
mang. Giai đoạn lâm bồn quằn quại
của Tổ quốc là giai đoạn biến h́nh
đau đớn của 25 triệu người dân Việt
vùng lên đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi
sơn hà gấm vóc. Dù thấp thoáng đằng
sau cơn vượt cạn đó có bóng dáng ma
quái của Cộng Sản Nga, Cộng Sản Tàu,
Đế quốc Mỹ, Thực dân Pháp, nhưng quả
thật chính dân tộc Việt Nam, và chỉ
dân tộc trong hoàn cảnh này hay điều
kiện nọ, đă xả thân hy sinh xương
máu cho nền độc lập của nước nhà.
Nếu Cộng Sản trong mặt trận Việt
Minh đă không phải là kẻ duy nhất
chống Pháp, th́ những thành phần yêu
nước ở bên này chiến tuyến cũng
không phải là những kẻ hoàn toàn
theo Pháp. Đuổi giặc xâm lăng ra
khỏi Quê hương chính là công đầu của
dân tộc, và chỉ dân tộc mà thôi.
Ngoại trừ một số đă rứt ĺa cuống
nhau ruột thịt ra khỏi ḷng dân tộc,
mới là tay sai của Pháp, tay sai của
Nga Tàu.
Hưng Yên, Nam Định, Phan Rang, Hà
Nội, Sài G̣n, Nha Trang... những địa
danh thân thương của đất nước trong
những ngày sôi động mà tôi có dịp
đặt chân đến, bây giờ, ở quê người,
chỉ c̣n là những tiếng gọi tuy đă xa
vời nhưng vẫn vang vọng trong chiều
sâu của kư ức và chiều dài của dĩ
văng. Tôi đă làm đầy đủ nhiệm vụ của
người trai thời loạn trong cuộc
chiến, đầy đủ nhiệm vụ của một cán
bộ trong tổ chức đấu tranh, giờ đây,
ông Diệm đă vững vàng để xây dựng
chế độ mà tôi ao ước ông sẽ đem lại
phúc lợi cho toàn dân, đem lại dân
chủ tự do cho miền Nam để lấy đó làm
bàn đạp cho một ngày sáng nắng hồng,
quân ta trở về giải phóng đất Bắc mù
khơi.
********** Trong niềm ao ước chính
đáng nhưng vẫn c̣n xa vời đó, tôi
chợt thấy đất miền Nam như cứng lại
cho ông Diệm quét hết rác rớm, tàn
tích để xây dựng một vận hội mới cho
Tổ Quốc.
*
[1] Về buổi gặp mặt này xin xem thêm
"Vietnam History, Documents and
Opinions" của* Marvin E. Gettleman,
tr. 269.
[2] Joseph Buttinger, Vietnam A
Political History, tr.385.
[3] John Cooney, The American Pope,
tr.236-245.
[4] Bernard Fall, The Two Vietnam,
tr.244. Về sự kiện nầy, xin đọc thêm
Đệ Nhất Phu nhân của Hoàng Trọng
Miên (tập 1, tr. 389), Con Đường
Thiên Lư của Nguyễn Hiến Lê
(tr.202).
[5] Bảo Đại, Le Dragon d Annam,
tr.329.
[6] Hilaire Du Berrier, Background
to Betrayal, tr.27, 28.
[7] Joseph Buttinger, Vietnam, A
Political History, tr.387.
[8] Historia - Notre Guerre d
Indochine (số 25 năm 1972),
tr.158,159.
[9] Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên,
tr. 149.
[10] Hội Ái Hữu Công Chánh, Lá thư
Công Chánh (số 14 tháng 11-79),
tr.52,53.
[11] Stanley Karnow, Vietnam A
History, tr.203.
[12] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo
Sử luận, tr. 144,145 và sách Hai
Ngàn Năm Việt Nam và Phật giáo của
Lư Khôi Việt, tr.89.
[13] Ông Albert Cao hiện sống ở
Pháp. Dù trước đây là nhân viên thân
tín của tướng Nguyễn Văn Hinh, nhưng
sau này nhờ một số linh mục và ông
Bùi Văn Lương cất nhắc, nên được ông
Diệm bổ nhiệm làm Tổng Uỷ viên Dinh
Điền thay thế ông Lương về giữ Bộ
Nội Vụ.
-
Alexandre De Rhodes (Đắc Lộ)
(1593-1660 )
“Tôi
tin rằng v́ nước Pháp ngoan đạo nhất
trong tất cả các vương quốc nên sẽ
cung cấp cho tôi nhiều quân lính để
đi chinh phục toàn thể Đông Phương,
và tôi sẽ t́m ra phương cách để thu
dụng nhiều Giám mục và Giáo sĩ người
Pháp cai quản các nhà thờ mới nầy”
Helen B. Lamb: Vietnam’s Will to
Live, 1985, trang 38 và 39
“Việt Nam: Đây là một vị trí cần
phải chiếm lấy và khi chiếm được vị
trí nầy th́ thương gia Âu châu sẽ
t́m được một nguồn lợi nhuận và các
tài nguyên phong phú”
Nhà Xuất bản Khoa học: Lịch sử Việt
Nam, 1976, trang 304
*
Pierre Joseph Georges
Pigneau de Béhaine
(Cha Cả)
(1741-1799 )
Vị Giáo
sĩ thừa kế và thực hiện ư đồ của Đắc
Lộ, người đở đầu cho Nguyễn Ánh và
sau nầy dẫn Hoàng tử Cảnh đến bệ
kiến vua Louis XVI để xin quân viện
và kư Hiệp ước Versailles
(28-11-1787), hiệp ước đầu tiên bán
nước Việt Nam cho thực dân Pháp
*
Georges
Thierry d’Argenlieu
(1884-1964)
-
*Cựu tu
sĩ Công giáo gịng Carmélite, Đô đốc
Hải quân, Cao ủy đầu tiên của thực
dân Pháp tại Đông Dương.
*
Kỳ Ngoại Hầu Cường
Để
(1882- ?)
*Biểu
tượng tinh thần của các nhóm chính
trị Việt Nam chống Pháp nhưng thân
Nhật trong thập niên 40’
*
Tổng Giám mục Trịnh Như
Khuê
Chịu trách nhiệm Giáo phận Hà Nội từ
năm 1954
Giám mục Phạm Ngọc Chi
Người
đă van xin Đại tá Vanuxem đừng rút
quân Pháp khỏi Bắc Việt. Sau 1954,
cai quản Giáo phận Đà Nẳng, phụ tá
cho Cố vấn Chỉ đạo Ngô Đ́nh Cẩn
trong đảng Cần Lao tại miền Trung.
*
Đại
tá LeRoy
*Tư
lệnh Quân đội Công Giáo B́nh Đại
(Bến Tre, Kiến Ḥa), lực lượng thân
binh của Quân đội Pháp, đang phủ dụ
các Bà Xơ.
*
Các ông
Hồ Chí Minh, Trựng Chinh,
Vơ Nguyên Giáp và Trung
tá A. Peter Dewey,
Trưởng nhóm 7 người O.S.S. (Office
of Strategic Services). Dewey bị
Việt Minh bắn nhầm trên đường ra phi
trường tại Sài G̣n (1945) và là quân
nhân Mỹ tử nạn đầu tiên tại Việt
Nam.
*
Đại tướng Vơ Nguyên Giáp
(1912 – )
Thành
lập Đội Vơ trang Tuyên truyền 34
người tại chiến khu Bắc Việt ngày
22-12-1944 và chỉ huy Quân đội Nhân
dân trong hai cuộc chiến tranh chống
lại quân đội viễn chinh Pháp và Mỹ
sau nầy.
*
Giáo
chủ Cao Đài Phạm Công Tắc
(1893-1956)*và đội Hộ Vệ Quân trước
Ṭa Thánh Thất tại Tây Ninh
*
Tướng Trịnh Minh Thế
Tư lệnh
Quân đội Quốc gia Liên Minh Cao Đài
Bị tử nạn bí mật tại Cầu Chử Y
(1955) Sài G̣n trong lúc* giao tranh
với lực lượng vơ trang B́nh Xuyên.
*
Tổng
thống Ngô Đ́nh Diệm
đang đón tiếp Hồng Y Agagianan
tại Sài G̣n (1959) nhân dịp Ṭa
thánh Vatican nâng nhà thờ Đức Bà
lên hàng Vương Cung Thánh Đường
*
Tổng
thống Ngô Đ́nh Diệm,
ngồi giữa Đại sứ Trần Văn
Chương và Thượng Nghị sĩ
Henry Cabot Lodge,
trong chuyến công du Hoa Kỳ (1957)
*
H́nh
nộm Cựu hoàng Bảo Đại trong chiến
dịch hạ nhục do chính phủ Ngô Đ́nh
Diệm tổ chức trong cuộc Trưng cầu
Dân ư ngày 23-10-1955
*
Cuộc
biểu t́nh vĩ đại tại Sài G̣n năm
1947 yêu cầu cựu hoàng Bảo Đại (đang
ở Hồng Kông) hồi hương chấp chánh.
*
Luật
sư Nguyễn Hữu Thọ
Chủ
tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng
Miền Nam Việt Nam trong một
buổi lễ tuyên thệ tại mật khu ở miền
Nam vào đầu thập niên 60’
*
Tướng Lê Quang Vinh
(biệt danh Ba Cụt)
Chỉ huy
một lực lượng vơ trang Ḥa Hảo chống
cả Việt Minh lẫn Pháp, trước Ṭa án
Quân sự Cần Thơ năm 1956.* Từ chối
không chịu phép Rửa Tội của Công
giáo.
Do đó, bị bác đơn xin ân xá nên bị
chặt đầu và tử thi bị chặt nhỏ đem
dấu biệt tích
*
Các
Thượng tọa Thích Hộ Giác,
Thích Thiện Minh và Thích
Trí Quang(từ trái qua
phải)
*
Tăng Ni
và đồng bào Phật tử đang đấu tranh
cho Tự do Tín ngưỡng và Công bằng Xă
hội trong Mùa Pháp nạn 1963
*
Ḥa
thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để
phản đối chính sách đàn áp Phật giáo
của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm và để
thức tỉnh cấp lănh đạo chế độ sớm
hồi tâm.
*
Ngày
2-11-1963, một đơn vị Thủy Quân Lục
Chiến chiếm được Dinh Gia Long. Đông
đảo dân chúng thủ đô ào ạt đến xem
để khích lệ và hoan nghênh anh em
quân đội.
*
Thanh
niên và sinh viên thủ đô hân hoan
chào mừng Trung tướng Trần
Văn Đôn trên đại lộ Thống
Nhất, Sài G̣n.
*
Trụ sở
Báo chí gia nô của chế độ Ngô Đ́nh
Diệm bị dân chúng thủ đô đập phá, và
các tàn tích bị quẳng đầy đường phố
*
Hội
Đồng Quân Nhân Cách Mạng và Chính
phủ Lâm Thời ra mắt đồng bào và báo
chí ngày 6-11-1963 tại tiền đ́nh Bộ
Tổng Tham mưu
*
Tác gỉa
(trái), Trung tướng Dương
Văn Minh và Trung tướng Tôn
Thất Đính ngay sau ngày
cách mạng 1-11-1963
*
Thượng
tọa Thích Huyền Quang
đọc diễn văn chào mừng quan khách
trong lễ khai mạc Đại hội Phật giáo
Thống nhất đầu tiên vào năm 1964.*
Tác giả ngồi ở hàng thứ nh́, bên
trái
*
Cuộc
họp báo đầu tiên của Chính phủ Cách
mạng Lâm thời ngày 6-11-1963.
+ Từ trái sang phải: Trung tướng Tôn
Thất Đính, Bộ trưởng Nội
Vụ; Thủ tướng Nguyễn Ngọc
Thơ, tác giả và Ngoại
trưởng Phạm Đăng Lâm.
+ Hàng thứ nh́: Bộ trưởng Kinh tế Âu
Trường Thanh, Bộ trưởng
Tài chánh Lưu Văn Tính,
Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Lưu
Thành Cung, Bộ trưởng
Giáo dục Phạm Hoàng Hộ
và Bộ trưởng Y tế Vương
Quang Trường
*
Họp báo
với Trung tướng Nguyễn Khánh
ngay sau cuộc Chỉnh lư ngày
30-1-1964
*
Thủ tướng Trần Văn Hương
tŕnh diện Nội các với Quốc trưởng
Phan Khắc Sửu
*
Tổng thống Đệ nhị Cộng ḥa Nguyễn
Văn Thiệu trong một buổi
kinh lư tại Quân Đoàn I
*
GÓP CÔNG XÂY DỰNG
NỀN MÓNG CHẾ ĐỘ
Trong giai đoạn 1954-1955, tuy ông
Diệm có nhiều kẻ thù nhưng tướng
Nguyễn Văn Hinh vẫn là đối thủ nguy
hiểm nhất trên cả hai mặt chính trị
lẫn quân sự. Trước hết, trên mặt chính
trị, tướng Hinh có tư cách hợp pháp
của một vị Tổng Tham mưu trưởng của
quân đội quốc gia, khác hẳn với những
giáo phái vơ trang không được chính
thức thừa nhận; ông lại có Quốc trưởng
Bảo Đại nâng đỡ và người Pháp yểm trợ.
Trên mặt quân sự, ông có một số thuộc
cấp từ cấp tá đến cấp úy nắm giữ những
nhiệm sở có quân nhân tác chiến, ông
lại điều động được các cơ quan t́nh
báo và an ninh với sự hợp tác hữu hiệu
của cơ quan t́nh báo Pháp, và cuối
cùng ông lại vận dụng được một số
những bộ phận vơ trang của một vài
giáo phái.
Cho nên, nếu không kể những yếu tố
khác th́ về mặt tương quan lực lượng,
rơ ràng việc lật đổ Thủ tướng Diệm
không lấy ǵ làm khó. Tuy nhiên, như
đă tŕnh bày ở chương IV, đă có những
yếu tố khác chi phối t́nh h́nh miền
Nam lúc bấy giờ làm cho Tướng Hinh
phải từ bỏ ư định dùng bạo lực lật đổ
ông Diệm mà tôi có thể tóm tắt trong
một ngoại lực duy nhất là sự yểm trợ
tối đa và vô điều kiện của Hoa Kỳ trên
cả hai mặt chính trị lẫn quân sự.
Những công hàm Washington-Paris, những
Lansdale, Foster Dulles, những 300
triệu Mỹ kim quân viện..., chính những
hoạt động và những nhân sự đó chứ
không phải cái nội các nhiều nhiệt tâm
nhưng c̣n tê liệt, cái chiến khu Đông
của chúng tôi, hay cái công điện của
ông Ngô Đ́nh Cẩn từ miền Trung đánh
vào, đă giúp cho ông Diệm loại trừ
được kẻ thù nguy hiểm nhất này.
Tướng Hinh ra đi, cả thế cờ của Pháp
và Bảo Đại sụp đổ. V́ tướng Hinh, bằng
xương bằng thịt, là đại diện cho sức
mạnh chính trị của Pháp và Bảo Đại tại
Việt Nam lúc bấy giờ. Sự sụp đổ đó
được biểu hiện rơ ràng nhất trong sự
tan hàng tâm lư của lực lượng quân đội
thuộc xu hướng của Tướng Hinh. Tướng
Vận ở Nha Trang trốn vào Sài G̣n rồi
biệt tích luôn. Đại tá Trương Văn
Xương, Tư lệnh Quân khu Hai, người đă
từng gây khốn khổ cho ông Ngô Đ́nh Cẩn
và ông Đại biểu Chính phủ miền Trung
cũng trốn vào Nam. Tại Đà Lạt, đội Ngự
Lâm Quân do tướng Nguyễn Văn Vỹ điều
động bị ông Phan Xứng và Thiếu tá
Nguyễn Chánh Thi phần nào tê liệt hóa.
Đại tá Linh Quang Viên, Tư lệnh Quân
khu Ba ở Ban Mê Thuột, tuy là một phần
tữ quốc gia đối lập với ông Diệm nhưng
lại không theo Pháp và không phục
Tướng Hinh, cuối cùng cũng hợp tác với
Chính phủ. Đại tá Ṿng-A-Sang người
Nùng, thuộc hạ của tướng Vanuxem, di
cư vào Nam và đang là Sư đoàn trưởng
Sư đoàn Nùng ở Phan Rí, thấy t́nh h́nh
bất lợi cũng tuyên thệ thi hành kỷ
luật của quân đội.
Thế là sau khi Tướng Hinh ra đi, không
kể tại miền Trung Trung Việt mà tướng
Hinh không có một cơ sở vững mạnh nào,
toàn bộ vùng Duyên Hải và Cao Nguyên
Trung phần trở thành hậu thuẫn vững
chắc cho ông Diệm để tiến hành những
vận động cuối cùng quét sạch tàn dư
của chế độ Pháp thuộc. Trung tá Nguyễn
Quang Hoành từ Phan Thiết được bổ
nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân khu Hai,
Thiếu tá Thái Quang Hoàng được lệnh
giải tán chiến khu Đông về làm Tỉnh
tướng B́nh Thuận, ông Hồ Trần Chánh,
một đảng viên Đại Việt từng ủng hộ
chiến khu Đông, được chúng tôi đề nghị
làm Tỉnh trưởng Ninh Thuận. Trung tá
Phạm Văn Đổng, tuy chưa bao giờ ủng hộ
ông Diệm nhưng cũng khôn ngoan chưa
bao giờ tỏ ra chống đối Chính phủ,
được cử làm Tư lệnh Phân khu Duyên
Hải. Chúng tôi mỗi người được thăng
một cấp v́ đă bảo vệ được miền Trung:
Hoành và Đổng lên Đại tá, Hoàng và tôi
lên Trung tá. Và tuy c̣n ở trong dinh
Thủ tướng, tôi đă được bổ nhiệm làm Tư
lệnh phó Phân khu Duyên Hải, c̣n Đại
tá Lễ th́ sẵn sàng để nhận chức Tổng
giám đốc Cảnh Sát Công An một khi đuổi
được B́nh Xuyên ra khỏi định chế này.
Song song với và chính v́ việc tướng
Hinh ra đi, Lansdale đă vừa dùng tiền
bạc vừa sử dụng lư luận để lôi kéo
thêm được tướng Nguyễn Giác Ngộ của
Ḥa Hảo và tướng Nguyễn Thành Phương
của Cao Đài đem lực lượng của họ về
hợp tác với Chính phủ. Lansdale c̣n sử
dụng kỹ thuật địch vận để dẫn dụ được
Đại tá Thái Hoàng Minh, Tham mưu
trưởng của lực lượng B́nh Xuyên, đứng
lên chống Bảy Viễn. Tuy việc phản bội
của Thái Hoàng Minh bị lộ và cuối cùng
bị Bảy Viễn thủ tiêu, nhưng cái chết
của ông ta đă gây một chấn động tâm lư
sâu đậm trong hàng ngũ của lực lượng
B́nh Xuyên.
Tuy nhiên, dù ngần đó biến cố thuận
lợi đă làm cho “ Mặt trận Thống
Nhất” của các giáo phái bị phân
hóa và suy giảm sức mạnh rất nhiều,
nhưng trong mùa Xuân năm 1955, ông
Diệm vẫn c̣n gặp rất nhiều khó khăn v́
Thủ tướng Pháp Edgar Faure vẫn c̣n
muốn xây dựng lại uy thế cho Quốc
trưởng Bảo Đại để mong lật ngược thế
cờ. Pháp vẫn c̣n muốn lợi dụng những
lực lượng thù nghịch với ông Diệm c̣n
sót lại như toàn bộ B́nh Xuyên, như
Ḥa Hảo của Trần Văn Soái, Lâm Thành
Nguyên, Lê Quang Vinh, như Cao Đài của
Hộ pháp Phạm Công Tắc, như tướng Vỹ và
một thiểu số Ngự Lâm Quân c̣n trung
thành với Bảo Đại.
Đặc biệt trong quân đội, mặc dù Thiếu
tướng Lê Văn Tỵ đă được ông Diệm bổ
nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng nhưng
vẫn c̣n nhiều sĩ quan cấp tá cao cấp
chưa muốn hợp tác với ông Diệm như các
Đại tá Trần Văn Đôn, Trần Văn Minh, Lê
Văn Kim, các Trung tá Nguyễn Khánh, Đỗ
Cao Trí, Nguyễn Văn Là, Trần Tử Oai...
Như vậy th́ riêng tại miền Nam, đặc
biệt tại Sài G̣n-Chợ Lớn và vùng phụ
cận, đứng trên mặt thuần túy vũ lực
(vốn là yếu tố quyết định trong sự hỗn
loạn của t́nh thế lúc bấy giờ) th́ phe
Chính phủ và phe đối lập quả thật
ngang ngửa.
Từ đầu Xuân 1955, lực lượng B́nh Xuyên
tiếp tục gây hấn, khiêu khích đô
thành, tấn công những đơn vị của quân
đội quốc gia đi lẻ tẻ và bắn súng cối
vào dinh Độc Lập để chuẩn bị cho âm
mưu đảo chánh Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm.
Ngày 30/4/1955, sau khi thuyết phục
được tướng Lê Văn Tỵ và một nhóm sĩ
quan thuộc cấp cũ của tướng Hinh,
tướng Nguyễn Văn Vỹ bèn vào dinh Độc
Lập buộc ông Diệm phải đi Pháp ngay
tức khắc theo lệnh của Quốc trưởng Bảo
Đại, đồng thời tướng Vỹ ra lệnh cho
đội Ngự Lâm Quân từ Đà Lạt di chuyển
về Sài G̣n và thông báo cho Trung tá
Đỗ Cao Trí, một bạn thân của Vỹ, biết.
Trung tá Trí là Tư lệnh lực lượng Nhảy
Dù, đang hành quân tiểu trừ B́nh
Xuyên, nhưng thâm tâm vẫn muốn lật đổ
ông Diệm.
Cũng trong ngày 30/4 đó, “ Hội Đồng
Nhân Dân Cách Mạng” ra đời tại
Ṭa Đô Chánh Sài G̣n. Đây là một lực
lượng chính trị quần chúng được chuẩn
bị từ trước để làm hậu thuận đấu tranh
cho ông Diệm. Hội đồng này do ông
Nguyễn Bảo Toàn, một lănh tụ Ḥa Hảo
làm chủ tịch, ông Hồ Hán Sơn, một viên
chức của Cao Đài, làm phó chủ tịch và
ông Nhị Lang (hiện ở Mỹ), thuộc Việt
Nam Quốc Dân Đảng và cũng là một phụ
tá của tướng Tŕnh Minh Thế làm Tổng
thư kư. Thành viên của Hội Đồng gồm
nhiều thành phần đại diện cho mọi tầng
lớp quần chúng mà đa số là thân hữu
của ông Diệm, ngoài ra c̣n có một số
do tôi tổ chức từ Phân khu Duyên Hải
vào để đại diện cho miền Trung mà
người cầm đầu là giáo sư Hà Huy Liêm
(trường trung học Vơ Tánh), đang làm
Ủy viên Tuyên Nghiên Huấn của Phong
Trào Cách Mạng Quốc Gia tỉnh Khánh
Ḥa.
Chủ tịch Nguyễn Bảo Toàn là nhân vật
uy tín nhất của Phật Giáo Ḥa Hảo lúc
bấy giờ. Ông là một nhà cách mạng lăo
thành từng bôn ba qua Pháp, Tàu, Nhật
để đấu tranh cho nền độc lập quê
hương. Ngay từ năm 1947, khi Pháp định
thương thuyết với cựu hoàng Bảo Đại,
ông Toàn đă cùng với cụ Nguyễn Hải
Thần và ông Nguyễn Tường Tam thành lập
“ Mặt Trận Thống Nhất Quốc Gia”
đ̣i hỏi Pháp chỉ thương thuyết với các
lực lượng dân tộc mà thôi chứ không
phải với Bảo Đại hay với Hồ Chí Minh.
Từ ngày dấn thân hoạt động cách mạng,
ông Nguyễn Bảo Toàn luôn luôn chủ
trương một nước Việt Nam độc lập theo
chế độ Cộng Ḥa với một h́nh thức sinh
hoạt hoàn toàn dân chủ. Ông quan niệm
sinh họat chính trị của quốc gia phải
hoàn toàn dân chủ mới đáp ứng được
nguyện vọng của nhân dân và mới có thể
chiến thắng được Cộng Sản, do đó ông
quyết tâm ủng hộ ông Diệm và truất phế
Bảo Đại, mặc dù lúc bấy giờ tính mạng
của ông có thể v́ thế mà bị nguy hiểm.
Ngày 30, trong lúc tướng Vỹ và nhóm sĩ
quan thân Pháp vào dinh Độc Lập ép
buộc Thủ tướng Diệm phải đi Pháp
(nghĩa là đi không trở về), th́ tại
ṭa Đô Chánh Sài G̣n, “ Hội Đồng
Nhân Dân Cách Mạng” cũng thảo
luận sôi nổi và Hội nghị ra tuyên ngôn
truất phế Bảo Đại, ủy cho chí sĩ Ngô
Đ́nh Diệm tạm thời lănh đạo quốc gia
trong lúc chờ đợi Hiến Pháp và Quốc
hội định đoạt quy chế tương lai cho
đất nước. Họp xong, Hội đồng đi bộ qua
dinh Độc Lập để trao tuyên ngôn cho
Thủ tướng Diệm. Không ngờ khi đến nơi
th́ lại chạm trán với tướng Vỹ và các
“ sĩ quan phản loạn” đang làm
áp lực ông Diệm. (Có thể cuộc đụng độ
này là do dinh Độc Lập kịp thời thông
báo cho Hội đồng để đến tăng cường).
Thấy tướng Vỹ, tướng Tŕnh Minh* Thế
(và h́nh như có cả tướng Nguyễn Thành
Phương) bèn bắt giữ tướng Vỹ trong lúc
ông Nhị Lang đưa súng lục ra hăm dọa
tướng Vỹ. Thủ tướng Diệm sợ tái mặt,
vội vă kéo tướng Vỹ vào pḥng riêng để
bảo vệ sinh mạng cho tướng Vỹ, đồng
thời yêu cầu Hội đồng đừng bắt hoặc
giết tướng Vỹ. Không phải ông Diệm
thương xót ǵ tướng Vỹ nhưng nếu tướng
Vỹ bị giết th́ ắt hẵn những lực lượng
yểm trợ tướng Vỹ, v́ t́nh chiến hữu,
sẽ không tha thứ cho ông. Huống hồ ǵ
Trung tá Đỗ Cao Trí lại gọi điện thoại
cho ông Diệm đ̣i thả tự do cho tướng
Vỹ ngay nếu không th́ Trí sẽ tấn công
dinh Độc Lập. Cuối cùng, Hội đồng đạt
được một thỏa hiệp chung là bắt tướng
Vỹ phải kư giấy xin quy hàng Hội Đồng
và ḥa ḿnh với nhân dân để đấu tranh
cho đất nước, đổi lại Hội Đồng sẽ trả
tự do cho ông ta.
Tướng Vỹ đồng ư ra về và trong thâm
tâm định phản bội lại lời cam kết đó,
nhưng phần v́ Ngự Lâm Quân, chủ lực
của ông ta đă bắt tay với quân đội,
phần v́ phản ứng quyết liệt của lực
lượng của tướng Tŕnh Minh Thế nên
tướng Vỹ đành chịu thất bại. Trong lúc
tướng Vỹ hoạt động ở Sài G̣n để lật đổ
ông Diệm th́ tướng Nguyễn Văn Hinh ở
Pháp cũng trên đường trở về Việt Nam
để dự định giúp tướng Vỹ lật ngược thế
cờ. Nhưng v́ tướng Vỹ đă thất bại, lại
v́ t́nh h́nh mỗi ngày một thuận lợi
cho ông Diệm cho nên tướng Hinh bay
đến Nam Vang th́ dừng lại và bay ngược
về Pháp.
Về hành động rút súng và lột lon tướng
Vỹ của Nhị Lang, tướng Trần Văn Đôn
trong hồi kư “Việt Nam Nhân
Chứng” (tr. 125, 126) ghi nhận
rằng “ v́ hành động quá khích của
Nhị Lang và Hồ Hán Sơn mà t́nh thế
trở nên rối rắm”.
C̣n nhà văn Lê Nhật Thăng trên tạp chí
“ Ánh Sáng Dân Tộc” (số 2,
ngày 15/11/1989) trong loạt bài “ Thái
Lân và Trần Minh Thế”, khi phê
b́nh cuốn “ Phong Trào Kháng Chiến
Trần Minh Thế” đến đoạn ông Nhị
Lang khoe khoang: “ tôi nhanh nhẹn
rút súng colt 45 trong chiếc cặp ra
chĩa thẳng vào người tướng Vỹ và ra
lệnh giơ tay lên không tôi bắn”
đă mỉa mai ông Nhị Lang rằng:
“ Ông Thái Lân ơi, mỗi khi nh́n
thấy ảnh ḿnh đang rút súng đe doạ
một sĩ quan có thấy bẽ bàng vô duyên
không? Tôi xin nói để Nhị Lang biết
nếu ông nổ súng là đám sĩ quan ở
pḥng bên cạnh sẽ xé xác ông ngay
lập tức, may cho ông lắm đó. Chúng
ta thấy Diệm che chở cho Vỹ, trách
mắng Nhị Lang và xác định quyền uy
của ḿnh. Không biết Nhị Lang có
biết vậy không? Tôi thiết nghĩ Diệm
Nhu đă có kế sách nào đó để đối phó
t́nh h́nh rối beng mà hành động trật
búa, tài khôn của Nhị Lang chỉ làm
Diệm thêm nhức đầu”.
Như vậy hành động ngang tàng nhưng vô
chính trị của ông Nhị Lang chỉ phản
ảnh thái độ “ luồng gió bẻ măng”,
dựa thế các tướng Tŕnh Minh Thế và
Nguyễn Thành Phương đang có mặt mới
dám rút súng làm oai mà không biết
rằng hành động đó có thể đưa đến tai
họa cho cả hai ông Diệm Nhu.
*
-o0o-
*
Trong những ngày sôi động tại Sài G̣n
mà bạo lực có thể bùng nổ bất cứ lúc
nào, ông Diệm không những đă lo sợ cho
tương lai chính trị của ông mà con lo
cho chính bản thân ông nữa. Chỉ quen
đấu tranh theo kiểu quan trường, ông
rất e ngại về súng đạn. Chỉ quen dựa
vào những thế lực ngoại bang (như
Pháp, Nhật, Mỹ, Vatican), vận dụng
chính trị và cũng cố địa vị, ông thiếu
tự tin khi phải đối phó với những quân
nhân như Nguyễn Văn Vỹ, Trần Đ́nh Lan,
Đỗ Cao Trí …mà vũ lực là lư luận.
Nhưng điều làm cho ông lo sợ nhất là
bức tường đồng để ông nương dựa là Hoa
Kỳ sẽ có thể bỏ rơi ông, v́ không
những ông chấp chánh được là nhờ sự
ủng hộ của Hoa Kỳ mà c̣n nhờ chính cả
những hoạt động t́nh báo và quân sự
của Lansdale. Cho đến khi cả Đại tá
Lansdale lẫn Đặc sứ Collins liên tục
tái bảo đảm với ông là chính sách Mỹ
đă quyết định yểm trợ miền Nam do ông
lănh đạo, ông mới thật sự an ḷng để
đối phó với t́nh thế.
Thật vậy, một ngày trước buổi chạm
trán với tướng Vỹ ở dinh Độc Lập,
Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles đă thông
báo cho Đại sứ Pháp Couve de Murville
ở Hoa Thịnh Đốn, cũng như Đại sứ Mỹ
Dillon đă thông báo cho Thủ tướng Pháp
Edgar Faure ở Paris về quyết tâm của
Mỹ nhất định ủng hộ ông Diệm vô điều
kiện [1]. Kết quả cụ thể làm ông Diệm
yên tâm nhất là cuối cùng, dưới áp lực
của Mỹ, chính Pháp đă tiếp tế đạn dược
cho quân đội để dẹp phiến loạn B́nh
Xuyên trong khi chờ đợi một chương
tŕnh quân viện dồi dào hơn sau này.
Sau thất bại của tướng Nguyễn Văn Vỹ,
quân đội mặc nhiên trở thành một lực
lượng trọng yếu nhất trí ủng hộ ông
Diệm. Thật ra, từ trước tại Sài G̣n,
chỉ có hai sĩ quan cao cấp và có vị
trí then chốt thật sự ủng hộ ông Diệm
mà thôi, đó là Đại tá Dương Văn Minh
và Trung tá Phạm Xuân Chiểu. Đại tá
Dương Văn Minh giữ chức Quân Trấn
trưởng Sài G̣n-Chợ Lớn, c̣n Trung tá
Phạm Xuân Chiểu giữ chức Tham mưu
trưởng Quân khu I dưới quyền Đại tá
Trần Văn Minh. Ông Dương Văn Minh tuy
xuất thân từ trường vơ bị của Pháp ở
Tông (Bắc Việt), tuy phục vụ trong
quân đội Pháp nhưng ông vẫn giữ bản
chất và phong độ của một người Việt
Nam thuần túy, vẫn nặng t́nh tự với
dân tộc quê hương. Người Pháp và tướng
Hinh vốn không ưa ông Dương Văn Minh
nên không giao cho ông chức vụ chỉ huy
có quân sĩ, có đơn vị, để ngăn ngừa
hậu họa. C̣n ông Phạm Xuân Chiểu là
một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng,
sau khi bỏ học trường thuốc ở Hà Nội
v́ biến cố Nhật đảo chánh Pháp
9-3-1945, bèn vào học trường Vơ bị Yên
Bái do người Nhật tổ chức, rồi qua
Trung Hoa học trường Vơ bị Hoàng Phố.
Ở đây, ông gặp một nữ đảng viên của “ Cách
Mạng Đồng Minh Hội” của cụ
Nguyễn Hải Thần, hai người trở thành
vợ chồng và đều là nhân vật tham gia
cách mạng, có tinh thần chống Cộng rất
cao. Mấy năm sau ông về Phát Diệm và
được mời giữ chức chỉ huy tiểu đoàn 2
trong lực lượng Tự Vệ của giáo phận
này rồi trở thành sĩ quan quân đội
quốc gia. Với thành tích đó nên ông
Phạm Xuân Chiểu đă hết ḷng ủng hộ ông
Diệm. Hai sĩ quan này, nhất là ông
Dương Văn Minh, đă ủng hộ và hoạt động
đắc lực cho ông Diệm ngay từ phút đầu,
ngay từ khi tướng Hinh chống đối ông
Diệm. Ngoài ra, cũng phải nói một
trong những lư do ông Minh ủng hộ ông
Diệm là v́ người bạn thân của ông là
ông Nguyễn Ngọc Thơ cũng là người bạn
quư của ông Diệm. Hai ông Dương Văn
Minh và Phạm Xuân Chiểu đều ở Sài G̣n,
đều biết rơ vị trí, âm mưu hoạt động
và những kế hoạch chuyển quân của B́nh
Xuyên và Pháp nên đă giúp đỡ rất hữu
hiệu ông Diệm trong vấn đề đối phó với
quân của Lê Văn Viễn.
Ngoài ra, ông Diệm c̣n có Đại tá Mai
Hữu Xuân, một sĩ quan nhiều thủ đoạn
và giỏi về t́nh báo ủng hộ. Ông Mai
Hữu Xuân trước kia là một phần tử thân
Pháp, từng là Tổng Giám đốc Công An và
lúc bấy giờ là Giám đốc An ninh Quân
đội, nhưng quan trọng hơn cả, ông Xuân
vốn là kẻ thù của B́nh Xuyên. Kư giả
Lucien Bodart trong cuốn “ La
Guerre d’Indochine” mô tả hai
ông Bảy Viễn và Mai Hữu Xuân là hai
lănh chúa tại Chợ Lớn và Sài G̣n, hai
kẻ thù không đội trời chung, nay gặp
cơ hội ông Diệm đánh B́nh Xuyên, Mai
Hữu Xuân trở nên đồng minh của ông
Diệm. Sự ủng hộ của ông Mai Hữu Xuân
và Nha An Ninh Quân Đội lúc bấy giờ
quả là một đóng góp t́nh báo hết sức
lớn lao cho việc tấn công và tiêu diệt
B́nh Xuyên để củng cố địa vị ông Diệm.
Nói rơ ra, hai ông Dương Văn Minh và
Phạm Xuân Chiểu ủng hộ ông Diệm là v́
quốc gia dân tộc, v́ tin tưởng ông
Diệm là nhà lănh đạo chống Pháp, chống
Cộng, có thể cứu được miền Nam, trong
lúc ông Mai Hữu Xuân về với ông Diệm
chỉ v́ hoàn cảnh, và nhất là v́ lư do
cá nhân muốn trả mối thù cũ với B́nh
Xuyên. Dù sao th́ điều đó cũng là một
may mắn rất lớn cho ông Diệm.
Trong những ngày đầu của tháng Năm năm
1955, quân đội quốc gia phối hợp với
quân của tướng Tŕnh Minh Thế đánh bật
được quân B́nh Xuyên qua bên kia cầu
chữ Y. Tướng Thế trong khi đứng trên
cầu Tân Thuận để quan sát địa h́nh đă
bị một viên đạn bắn lén từ sau lưng
trúng thái dương và không cứu sống
được. Ngày 9 tháng 5, B́nh Xuyên bị
đánh bật ra khỏi Sài G̣n và Chợ Lớn
nên rút về vùng bùn lầy Rừng Sát sau
khi đă đốt cháy nhiều phố xá, nhà cửa
ở khu Nancy. Đại tá Dương Văn Minh
được Thủ tướng Diệm cử giữ chức Tư
lệnh chiến dịch Rừng Sát, và chẳng bao
lâu, ông tiêu diệt toàn bộ quân B́nh
Xuyên. Bảy Viễn và bộ hạ thân tín là
Lai Văn Sang và Lai Hữu Tài phải trốn
qua Pháp. Cùng lúc đó, Đại tá Nguyễn
Ngọc Lễ cũng đă nắm vững được Nha Tổng
Giám đốc Công an Cảnh sát Việt Nam, và
củng cố được lực lượng Công an Cảnh
sát Đô thành mà trước đó vốn nằm dưới
sự điều động của Lai Văn Sang.
Đánh tan quân B́nh Xuyên, Đại tá Dương
Văn Minh dẫn đầu đoàn quân đắc thắng
tiến về thủ đô trên con đường Catinat
để vào dinh Độc Lập giữa tiếng hoan hô
vang dội của dân chúng. Thủ tướng Ngô
Đ́nh Diệm đứng tại thềm dinh Độc Lập
đón chào người anh hùng chiến thắng
Rừng Sát. Ông ôm hôn Đại tá Dương Văn
Minh rồi một nữ sinh choàng ṿng hoa
cho Đại tá. Mấy ngày sau, Thủ tướng
Diệm vinh thăng Đại tá Minh lên Thiếu
tướng, báo chí Sài G̣n đề cao Dương
Văn Minh là “ Anh hùng Rừng Sát”.
Riêng ông Ngô Đ́nh Nhu, tuy vui mừng
sung sướng thấy kẻ thù bị tiêu diệt,
vẫn tỏ ra bất măn với báo chí và dư
luận khi Dương Văn Minh được đề cao là
“ anh hùng”. Ông Nhu nói với
nhiều người, nhất là những người thân
tín ở trong dinh, rằng: “ cả nước
Việt Nam chỉ có một anh hùng mà
thôi, đó là anh hùng Ngô Đ́nh Diệm”.
Phải nói rơ rằng từ sau vụ thất bại
của tướng Vỹ tại dinh Độc Lập, toàn
thể quân đội đă đứng hẳn về phe ông
Diệm và từ đó ông Diệm mới thật sự
vững vàng trên ngôi vị. Robert Shaplen
cũng như học giả Douglas Pike đă nói:
“ Cho đến khi quân đội ủng hộ ông
Diệm, (trước đó) ông ta không có
cách ǵ để thực thi được uy quyền
của chính phủ” (until the Army
opted for him, Diem had no means of
enforcing a governmental order).[2]
Tiêu diệt được B́nh Xuyên là Thủ tướng
Diệm thu đạt thêm được một thắng lợi
to lớn, một thắng lợi quyết định tương
lai sắp tới huy hoàng của ông. Thắng
lợi của ông Diệm đối với B́nh Xuyên
cũng như đối với tướng Hinh, tướng Vỹ
là biểu hiện thắng lợi của ảnh hưởng
Mỹ đối với ảnh hưởng Pháp trong ván
bài Đông Dương.
Trong khi Sài G̣n và Rừng Sát đang mịt
mù khói lửa th́ hội đàm giữa Pháp và
Mỹ diễn ra tại Paris từ ngày 7 đến
12/5/1955. Ngoại trưởng Mỹ, ông Foster
Dulles, đ̣i hỏi Pháp phải trả độc lập
hoàn toàn cho Việt Nam, phải rút toàn
bộ quân viễn chinh Pháp (90.000) về
nước. Chương tŕnh Pháp rút quân về
nước gồm 3 giai đoạn: Một: Ngày
20/5/1955, quân đội Pháp phải bắt đầu
rút ra khỏi Sài G̣n-Chợ Lớn, tập trung
về Vũng Tàu. Hai: ngày 2/7/1955, quân
đội Việt Nam hoàn toàn chấm dứt sự phụ
thuộc vào Bộ Tư lệnh Pháp tại Đông
Dương. Ba: ngày 28/4/1956 người lính
cuối cùng của quân đội viễn chinh Pháp
vĩnh viễn rời khỏi Việt Nam [3]. Thế
là nhờ quân đội, nhờ người Mỹ, từ nay
ông Diệm bước lên đài danh vọng quyền
quư tột đỉnh trong cuộc đời chính trị
của ông.
Sau chiến thắng Rừng Sát, một buổi lễ
long trọng, hào hùng và cảm động đă
được tổ chức tại Bộ Tổng tham mưu. Đại
tá Trần Văn Đôn, Tham mưu trưởng quân
đội, đại diện cho toàn thể quân đội
Việt Nam đốt phù hiệu và cấp hiệu cũ
để chấm dứt mối liên hệ với dĩ văng,
một dĩ văng chua xót và đau thương.
Quân đội Việt Nam từ nay là quân đội
của một quốc gia độc lập để làm tṛn
sứ mạng của nó là bảo vệ giang sơn và
cùng với toàn dân làm chủ đất nước.
Trong suốt gần 100 năm Pháp thuộc,
chúng ta đă có 2 lần được nghe những
lời tuyên bố về một nước Việt Nam độc
lập: Vua Bảo Đại tuyên bố ngày
9/3/1945 và ông Hồ Chí Minh tuyên bố
ngày 2/9/1945. Nhưng 2 lần đó chỉ có
giá trị của một lời tuyên bố v́ trên
thực tế quân đội Nhật và Pháp vẫn c̣n
đó. Nhưng ngày 28/4/1956, nghĩa là gần
2 năm sau Hiệp ước Genève, chữ Độc Lập
mới thực sự có ư nghĩa và cuộc đấu
tranh giành độc lập mới thực sự chấm
dứt. V́ vào ngày đó, người lính Pháp
cuối cùng, biểu tượng cụ thể cho chính
sách và kỷ nguyên thực dân của Pháp,
vĩnh viễn rời khỏi đất nước thân yêu.
Ném một cái nh́n toàn diện và chân
thực để soát xét lại quá tŕnh đấu
tranh chống thực dân Pháp của dân tộc,
ta phải, một lần nữa, xác định cho rơ
ràng rằng lực lượng đă lănh đạo, đă tổ
chức và đă tiến hành cuộc đấu tranh
này cho đến ngày thắng lợi, chính là
toàn bộ dân tộc ta. Những đứa con yêu
xuất sắc của đất nước như Hoàng Diệu,
Nguyễn Tri Phương, Trần Cao Vân,
Trương Công Định, Phan Đ́nh Phùng,
Phan Thanh Giản, Phan Bội Châu của
những ngày đầu; những Phạm Hồng Thái,
Phạm Thái Học, Huỳnh Phú Sổ, Lư Đông
A, Trương Tử Anh, Nguyễn Hải Thần...
đă cùng với toàn dân hy sinh xương máu
trong giai đoạn trực đối sống mái với
kẻ thù để dồn chúng vào đường tuyệt
lộ. Cuối đoạn đường và về phía những
người không Cộng Sản là một Bảo Đại
nhọc nhằn xây viên đá cho một Ngô Đ́nh
Diệm đàng hoàng bước lên khóa lại cánh
cửa tủi nhục của giai đoạn Pháp thuộc,
và mở toang cánh cửa Độc Lập cho đất
nước quê hương.
Hang vạn anh hùng và liệt nữ vô danh
đă âm thầm nằm xuống. Ánh sáng vinh
quang của họ cũng phải rực rỡ như ánh
sáng vinh quang của những lănh tụ
khác, tấm ḷng son sắt của họ cũng
phải được tôn vinh như tấm ḷng son
sắt của những anh hùng khác.
Tuy nhiên, nếu ngày 28/4/1956 đă chấm
dứt phong trào giải thực trên đất nước
Việt Nam th́ ngày đó cũng sẽ là ngày
mở đầu cho phong trào Tân Đế Quốc, nếu
những nhà lănh đạo của đất nước ta
không khôn khéo và quyết tâm bảo vệ
được hai chữ Độc Lập và Chủ Quyền. V́
ở một mặt nào đó, nếu chúng ta đă ghi
nhận với ít nhiều thiện cảm những
Eisenhower, Foster Dulles, Buttinger,
Fishel, Lansdale, v.v... đă giúp chúng
ta bằng cách áp lực người Pháp phải
rời khỏi Việt Nam, th́ ở một mặt khác
chúng ta không thể không đau ḷng v́
họ đă thô bạo và vụng về can thiệp vào
Việt Nam qua một cá nhân Ngô Đ́nh Diệm
thay v́ bằng sức mạnh thực sự của toàn
khối dân tộc ta. V́ rơ ràng trong một
cuộc chiến tranh dành độc lập và sau
đó sẽ kéo theo một cuộc đấu tranh
chống Cộng Sản th́ chính nghĩa và sức
mạnh nằm trong ḷng quần chúng chứ
không nằm ở giai tầng lănh đạo, lại
càng không nằm ở một cá nhân, một gia
đ́nh, một phe nhóm.
Lá bài Ngô Đ́nh Diệm đúng là giải
quyết được t́nh h́nh lúc đó. Nhưng là
một giải quyết giai đoạn và tức thời
chứ không trường kỳ và toàn diện. Mà
hệ quả rơ ràng nhất là cuối cùng,
chúng ta đành để Cộng Sản chiếm hết
nửa phần của đất nước. Sức mạnh và
chính nghĩa của dân tộc đă không được
vận dụng đúng đắn th́ lấy ǵ mà đương
đầu với Cộng Sản.
*
-o0o-
*
Sau chiến thắng B́nh Xuyên, những đối
thủ c̣n lại của Thủ tướng Diệm tại
miền Nam chỉ là lực lượng yếu kém và
phân hóa.
Về phía Cao Đài có Đức Hộ Pháp Phạm
Công Tắc với một đơn vị Hộ vệ quân
khoảng 300 tay súng. Theo một kế hoạch
của ông Ngô Đ́nh Nhu, tướng Cao Đài bị
mua chuộc Nguyễn Thành Phương dẫn đơn
vị cũ đến Tây Ninh tước khí giới đám
Hộ Vệ quân này, bắt giữ hai người con
gái của Giáo chủ Cao Đài với tội “ tham
nhũng và bóc lột đồng bào”.
Giáo chủ Phạm Công Tắc và một số bộ hạ
thân tín trốn được qua Cao Miên và kéo
dài cuộc đời lưu vong cho đến lúc ông
tạ thế.
Về phía Ḥa Hảo vơ trang th́ c̣n ba
nhóm: Trần Văn Soái (tức Năm Lửa), Lâm
Thành Nguyên và Lê Quang Vinh (thường
được gọi là Ba Cụt). Cả ba nhóm này có
căn cứ và có địa bàn hoạt động tại
miền Hậu Giang. Vào giữa năm 1956,
tướng Dương Văn Minh hành quân mở
chiến dịch càn quét những căn cứ này.
Trần Văn Soái và Lâm Thành Nguyên
chống cự không nổi nên phải xin về quy
hàng với Chính phủ. Riêng lực lượng Lê
Quang Vinh với kỹ thuật du kích chiến
để tránh hỏa lực hùng hậu của quân
đội, đă cầm cự được khá lâu nhưng cuối
cùng cũng bị bắt và xử tử.
Theo thông cáo chính thức của Chính
phủ Diệm th́ tướng Ḥa Hảo Lê Quang
Vinh bị một tiểu đội Bảo An bắt được
tại Chắc Cà Đao (Long Xuyên) cùng với
năm tên hộ vệ. Trong một buổi lễ trao
lệnh kỳ và huy chương, đại biểu Chính
phủ đưa tặng một triệu đồng cho Liên
Đội Bảo An Trần Quốc Tuấn, Liên Đội đă
có binh sĩ bắt được Lê Quang Vinh.
Nhưng lúc bấy giờ nhiều người, đặc
biệt là tướng Dương Văn Minh và Bộ
Tham mưu của ông ta biết rằng, bắt
được Lê Quang Vinh là nhờ ông Nguyễn
Ngọc Thơ lừa Ba Cụt đến điều đ́nh
trong lúc lính Bảo An đă bố trí 1 cuộc
phục kích tinh vi nên mới bắt được
người chiến sĩ nổi tiếng gan dạ và có
tài đánh du kích đất miền Tây. Nếu
không bị lừa th́ làm sao một tiểu đội
Bảo An có thể bắt được tướng Ḥa Hảo
đa mưu túc trí cùng với 5 hộ vệ quân
của ông ta. Sự thật th́ ông Thơ chỉ
muốn lừa ông Lê Quang Vinh về để đầu
hàng Chính phủ cho yên miền Tây, nơi
quê hương của ông, không ngờ ông Diệm
phản lại những lời đă hứa, ra lệnh cho
Ṭa án xử tử ông Lê Quang Vinh.
Sau cách mạng ngày 1/11/1963 ông Thơ
cho tôi biết sở dĩ ông Lê Quang Vinh
bị bắt ngày 13/4/1956 mà Ṭa án Quân
sự và Ṭa Thượng Thẩm Sài G̣n cứ xét
đi phúc lại (đến 4 lần) cho đến ngày
6/7/1956, Ṭa án Quân sự Cần Thơ mới
xét xử một lần chót là v́ ông Diệm đă
nhiều lần dụ ông Lê Quang Vinh theo
đạo Công giáo mà ông nằng nặc không
theo. Nếu theo đạo Công giáo th́ ông
Lê Quang Vinh sẽ được rửa tội trong
một buổi lễ long trọng tại nhà thờ Đức
Bà Sài G̣n và sẽ được trọng thưởng và
tất nhiên sẽ được tha mạng. Nhưng vị
tướng “ Mạnh Hoạch” vùng linh
địa Thất Sơn nhất định giữ lấy nền đạo
của Đức Thầy, vị Giáo chủ mà ông vô
cùng ngưỡng mộ và kính phục. Do đó ông
ta đă bị ông Diệm ra lệnh cho Ṭa án
Quân sự Cần Thơ phải: “ Tuyên án tử
h́nh, tước đoạt binh quyền và tịch
thu tài sản”. Tướng Lê Quang
Vinh bị hành quyết ngày 13/7/1956 tại
nghĩa địa Cần Thơ. Lúc chết ông mới 32
tuổi, trối trăn dặn vợ nuôi con cái
nên người và xin được chôn tại núi
Sam, Châu Đốc.
Phải chăng v́ cái chết của ông Lê
Quang Vinh mà từ sau khi rời bỏ chính
quyền, (vào thời mà Tôn giáo Ḥa Hảo
được phục hồi), cựu Phó Tổng thống
Nguyễn Ngọc Thơ ở luôn Sài G̣n cho đến
khi qua đời, không giám trở về Long
Xuyên nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ông
có một ngôi biệt thư vô cùng huy hoàng
và 100 mẫu ruộng.
Dẹp yên được hai ông Năm Lửa và Lâm
Thành Nguyên, diệt được tướng Ba Cụt
Lê Quang Vinh là chấm dứt hoàn toàn
mọi hoạt động đối lập vơ trang nguy
hiểm tại miền Nam trừ những toán vơ
trang lẻ tẻ không đáng kể. Toàn bộ
chiến dịch này được gọi là “ đánh
dẹp Giáo phái”. Sau này, ông
Nguyễn Long Thành Nam, một nhân vật
Ḥa Hảo có thẩm quyền về các vấn đề
Giáo phái đă đánh giá như sau (Phật
giáo Ḥa Hảo trong Gịng Lịch sử Dân
tộc, tr 593-594):
Ông Ngô Đ́nh Diệm đă tự hào dẹp được
các “ lănh chúa giáo phái”,
nhưng sau đó, chính thể của ông cũng
là một kiểu lănh chúa giáo phái. Các “ lănh
chúa giáo phái” trước kia chỉ
có quyền hành giới hạn tại từng địa
phương, trái lại chế độ lănh chúa giáo
phái mới này oai quyền bao trùm trên
toàn cả nước trong mọi địa hạt, chứ
không chỉ riêng về quân sự như các lực
lượng vơ trang giáo phái trước kia.
Có người nói rằng ông Ngô Đ́nh Diệm
tuy có độc tài độc tôn, nhưng đó là
ḷng yêu nước, muốn cứu nước, muốn làm
tṛn sứ mạng lịch sử của người chiến
sĩ yêu nước trong một t́nh trạng rối
ren, cho nên phải cứng tay lái để lănh
đạo quốc gia. Lập luận này không được
chứng minh bằng thực tế và thành quả.
Sự ủng hộ của một thành phần thiểu số
trong dân chúng không thể gọi là thành
quả của chế độ, khi đem đối chiếu với
sự bất măn và đau khổ của thành phần
đại đa số. Các thành quả nhất thời và
ngắn hạn không thể xem là thành công
của chế độ, khi đem đối chiếu với
những hậu quả lớn lao và lâu dài mà
chế độ ấy đă gây ra cho quốc gia và
dân chúng.
Người ta cũng hay nói đến “ độc tài
sáng suốt”. Từ ngữ này không có
nghĩa trong thời đại dân chủ. Không
thể có một nhà độc tài sáng suốt trong
thế giới phức tạp ngày nay. Lư thuyết
tự do dân chủ không chấp nhận chế độ
độc tài, và không cho rằng nhà độc tài
có thể sáng suốt được.
Ông Ngô Đ́nh Diệm đă dẹp các giáo phái
và như thế có hẳn* là ông không có
tinh thần giáo phái không ? nếu định
nghĩa giáo phái thoát ra từ từ ngữ
Sectarism, th́ rơ ràng là ông Diệm
cũng rất nặng tinh thần giáo phái.
Trong một xă hội đa tôn giáo như Việt
Nam không thể có quốc giáo, cũng không
thể chấp nhận ưu thế chính trị của bất
cứ tôn giáo nào. Do đó, chánh quyền
không thể nằm trong tay một tôn giáo,
hoặc điều khiển, lănh đạo bởi một tôn
giáo. Thực tế chánh trị dưới chế độ Đệ
Nhứt Cộng Ḥa đă biểu lộ rơ ràng ưu
thế của Công giáo. Tổng thống Ngô Đ́nh
Diệm là một tín đồ Công giáo, chánh
sách cai trị của ông tạo ưu thế cho
tôn giáo của ông, đưa các tôn giáo
khác vào vị trí thất thế. Và như thế,
là một t́nh trạng Sectarism, hoặc gọi
là bè phái, hoặc gọi là giáo phái.
Ông Diệm đă nêu cao khẩu hiểu “ Dẹp
lănh chúa, dẹp giáo phái”,
nhưng khi ông nắm quyền cai trị, chế
độ của ông lại trở thành một chế độ
mang đầy đủ tính chất của lănh chúa và
giáo phái trên một b́nh diện cao hơn,
là b́nh diện toàn quốc, thay v́ b́nh
diện địa phương như trước ông.
Tuy nhiên, tại miền Trung, vấn đề trở
thành phức tạp và khó khăn hơn nhiều
v́ những lực lượng chống đối ông Diệm
không phải là tay sai của Pháp mà là
những đảng Cách mạng đă từng xả thân
đấu tranh vừa chống Cộng vừa chống
Pháp, và đă có lúc ủng hộ ông Diệm
trong và sau những nỗ lực vận động nắm
chính quyền của ông. Tuy nhiên, cuối
cùng, chiến khu Ba Ḷng ở Quảng Trị
của Đảng Đại Việt bị đánh tan. Chiến
khu Nam Ngăi của Việt Nam Quốc Dân
Đảng bị ông Diệm ra lệnh cho sư đoàn
Nùng càn quét dă man trong những năm
1955-1956 ở các quận Quế Sơn, Tiên
Phước, Duy Xuyên nhưng vẫn không tiêu
diệt được lực lượng có quá nhiều kinh
nghiệm chiến trường và ḷng yêu nước
sắt đá này. Ông Ngô Đ́nh Cẩn phải dùng
thủ đoạn “ Đoàn kết thỏa hợp”
mới lôi kéo được đơn vị vơ trang gần
2.000 tay súng về hợp tác để rồi sau
đó cấp lănh đạo chính trị, quân sự của
họ đều bị tù đày.
Ngoài ra phải kể đến vua Bảo Đại,
người đă bổ nhiệm ông Diệm làm thủ
tướng, người đă từng một thời được ông
Diệm tung hô vạn tuế khi ông c̣n làm
quan Nam triều. Với Bảo Đại, ông Diệm
đă phải dùng đến những h́nh thức đấu
tranh có vẻ dân chủ hơn qua một cuộc
trưng cầu dân ư (23/10/1955) để biểu
diễn cho Chính phủ và Quốc hội Hoa Kỳ
lúc bấy giờ đang thẩm định khả năng
chính trị của ông. Ư nghĩa của cuộc
truất phế này đă được ông Đoàn Thêm
phân tích rơ ràng trong cuốn Những
Ngày Chưa Quên nhưng tôi cũng xin sẽ
bổ túc và triển khai trong chương VI
v́ những oái oăm lịch sử của biến cố
này.
Như vậy, từ năm 1956, ông Diệm là một
Tổng thống hợp hiến và hợp pháp của
một quốc gia Việt Nam theo chế độ Cộng
Ḥa (dù ngày 26/10/1955 mới chỉ ban
hành Hiến ước tạm thời), có cường quốc
số một thế giới là Hoa Kỳ ủng hộ và có
đại đa số dân chúng miền Nam Việt Nam
sẵn ḷng sống chết với ông. Thực dân
Pháp đă biến mất, chính quyền Cộng sản
miền Bắc là mối đe dọa minh nhiên và
tức thời, cho nên toàn dân đoàn kết
nhất trí sau lưng ông để đương đầu với
mối họa mới. Công việc đầu tiên là cải
tổ hai định chế lớn chi phối sinh hoạt
quốc gia: bộ máy công quyền và bộ máy
quân đội. Với sự yểm trợ về ngân quỹ
và kế hoạch của Mỹ, ông biến quân đội
Việt Nam Cộng Ḥa thành một thứ quân
đội Hoa Kỳ bản xứ, ít nhất là trên mặt
h́nh thức và điều hành. Hệ thống tổ
chức, quân phong, quân kỷ, quân nhu,
quân dụng cho đến những chi tiết nhỏ
nhặt như cách chào, đôi giày, khẩu
phần ăn,... đều đến từ và rập theo
khuôn mẫu Hoa Kỳ.
Hiến pháp Việt Nam Cộng Ḥa ra đời,
hiến pháp có 1 điều bất hủ rất phản
dân chủ là “ Tổng thống lănh đạo
quốc gia” cũng đă quy định tính
cách phân quyền và xác định những định
chế ở thượng tầng để quản trị đất
nước. Viện trợ Hoa Kỳ và sự yểm trợ
của các nước trong thế giới tự do đă
nâng uy tín của ông lên cao, kết quả
cuộc trưng cầu dân ư với tỷ số phiếu
thắng 98.16% (kết quả chính thức của
Bộ Nội vụ: 5.721.735 phiếu cho ông
Diệm trên 5.828.907 tổng số phiếu) đă,
dù sao, xác định sự kiện toàn dân sẵn
sàng hợp tác với ông. Quả thật, Tổng
thống Ngô Đ́nh Diệm đă nắm được đầy đủ
yếu tố Thiên Thời, Địa Lợi, Nhân Ḥa,
tức là cả thời, cả thế và cả lực, đă
nắm được cơ hội ngàn vàng để đưa quê
hương xứ sở đến phú cường và hùng
mạnh. Lịch sử và dân tộc chỉ cần ông
quyết liệt khước từ mọi liên hệ xấu xa
với quá khứ, chỉ cần ông thành thật
đặt quyền lợi tổ quốc trên quyền lợi
gia đ́nh, chỉ cần ông thực hiện dân
chủ và đoàn kết thực sự, th́ chỉ với
ba điều kiện đó mà thôi, ông Diệm đă
trở thành anh hùng dân tộc, cứu tinh
dân tộc rồi.
Đau xót thay, ông đă không những không
tôn trọng ba điều kiện đó mà chính ông
và thành phần lănh đạo cao cấp nhất
của đất nước là các anh em ông, cũng
không ư thức được điều này. Cho nên
bánh xe lịch sử đă quay lại nghiền nát
ông, cho nên dân tộc đă đứng lên khước
từ chế độ ông. Hệ quả đó không phải
chỉ chấm dứt khi chế độ ông bị tiêu
diệt mà c̣n kéo dài cho đến mùa Xuân
năm 1975, điều mà tôi sẽ nói ở các
chương sau.
*
-o0o-
*
Trở lại ngày 19/11/1954, sau khi tướng
Nguyễn Văn Hinh từ giă Việt Nam về
Pháp, tướng Vận trốn khỏi Nha Trang,
và miền Trung đă hoàn toàn tự chủ, tự
quản, tôi rời Sài G̣n về Nha Trang giữ
chức Tư lệnh phó Phân khu Duyên Hải
dưới quyền của Đại tá Phạm Văn Đổng.
Trước khi rời pḥng của ông Vơ Văn Hải
trong dinh Độc Lập, nơi mà Đại tá Lễ
và tôi đă tạm trú gần hai tháng trời,
bác sĩ Bùi Kiện Tín, lúc bấy giờ đă là
Bộ trưởng Bộ Thông tin, trao cho tôi
một xấp tài liệu nói về điều lệ, mục
đích và hệ thống tổ chức của Phong
Trào Cách Mạng Quốc Gia để nhờ tôi về
tổ chức Phong trào này tại các tỉnh
thuộc quyền tôi trách nhiệm. Bác sĩ
Tín tŕnh bày cho tôi biết việc tổ
chức Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia là
do sáng kiến của các ông Trần Chánh
Thành, Trần Trung Dung, Trần Quốc Bửu,
Bùi Kiện Tín... muốn đưa ra một phong
trào nhân dân làm hậu thuẫn chính trị
cho ông Diệm. Theo bác sĩ Tín th́
phong trào này ủng hộ chế độ ở mặt nổi
và đảng Cần Lao Nhân Vị th́ điều động
phong trào ở mặt ch́m, cũng như Việt
Minh là đoàn thể mặt nổi mà đằng sau
th́ có đảng Cộng Sản Đông Dương chỉ
đạo trong 10 năm kháng Pháp.
Lúc bấy giờ, vẫn c̣n một số người Pháp
ở Việt Nam mà đa số có liên hệ đến
mạng lưới t́nh báo Pháp để yểm trợ cho
các tổ chức chống đối Thủ tướng Diệm.
Ở Nha Trang vẫn c̣n Ṭa Đại diện Pháp,
vẫn c̣n sĩ quan cố vấn ở các trường
hải quân và không quân, vẫn c̣n một
tiểu đoàn Sénégalais đóng ở Colona gần
phi trường. Tại Cam Ranh, cách Nha
Trang 50 cây số, vẫn c̣n hải quân Pháp
và cơ quan y tế thuộc quân đội Pháp.
V́ người Pháp c̣n hiện diện và c̣n
ngấm ngầm phá hoại Thủ tướng Diệm nên
các Tỉnh trưởng, Trưởng ty, Công chức
Việt Nam vẫn c̣n e sợ người Pháp. (Như
Tỉnh trưởng Nguyễn Trân ở Khánh Ḥa,
mỗi lần tôi tổ chức biểu t́nh chống
Pháp th́ ông lại t́m cớ đi Phan Rang
hoặc đi Sài G̣n để lẩn tránh; hoặc như
Phó tỉnh trưởng Lưu Văn Châm, khi nghe
Trung tá Thái Quang Hoàng, Tỉnh trưởng
B́nh Thuận, đọc diễn văn đả kích người
Pháp th́ lắc đầu tỏ vẻ sợ sệt).
V́ kẻ thù trực tiếp và thực sự của ông
Diệm lúc bấy giờ là người Pháp, mà các
giới chức dân sự địa phương lại vẫn
c̣n e dè nên tôi phải lấy quân đội làm
chủ lực ṇng cốt và phát động để đi
tiên phong trong việc xây dựng Phong
Trào Cách Mạng Quốc Gia, với hy vọng
có thể gây được sự phấn khởi và tin
tưởng cho phía dân sự cũng như quần
chúng. Đại tá Phạm Văn Đổng, vị chỉ
huy trực tiếp của tôi vốn là một sĩ
quan thân Pháp nhưng ông là một người
khôn ngoan thâm trầm cho nên vẫn để
tôi hoạt động chính trị, hoạt động tổ
chức Phong trào mà không can thiệp
ngăn cấm, ông Đổng chọn thái độ đứng
ngoài chính trị và chỉ lo hoạt động
quân sự thuần túy.
Chẳng bao lâu, tôi đă tạo dựng được
một phong trào chính trị rầm rộ trong
hàng ngũ quân nhân tại Nha Trang với
những cơ cấu nhịp nhàng. Thấy anh em
quân nhân gồm có hàng vạn người hăng
say hoạt động cho Phong trào với những
buổi học tập, xuống đường, những buổi
công tác xă hội, lại thấy anh em quân
nhân rất dứt khoát thái độ khi đi tháo
gỡ những bảng hiểu, tên phố, tên
đường, tên cơ quan bằng tiếng Pháp,
c̣n các cổng trại đơn vị quân đội th́
treo đầy những biểu ngữ “ Bài Phong”,
“ Đả Thực”, “ Diệt Cộng”,
những biểu ngữ hoan nghênh Thủ tướng
Diệm cùng với cờ quốc gia và cờ Phong
trào hiên ngang tung bay trước gió,
các “ ông dân sự” và quần
chúng bấy giờ mới bớt sợ người Pháp.
Có hậu thuẫn quân đội rồi và thấy quần
chúng bắt đầu giác ngộ rồi, tôi bèn
bắt đầu phát động Phong trào Cách Mạng
Quốc Gia về phía dân sự. Lúc bấy giờ,
trong giới trí thức và công chức tại
Nha Trang đă có một số người tin tưởng
vào Thủ tướng Diệm và Phong Trào Cách
Mạng Quốc Gia như các bác sĩ Nguyễn
Đ́nh Ḱnh, Đỗ Cao Minh (hiện ở Pháp),
giáo sư Hà Huy Liêm,... tôi bèn mời
ông Vơ Văn Trưng, Trưởng ty học chánh,
làm Chủ tịch Tỉnh bộ Phong trào ở
Khánh Ḥa và Nha Trang. Phong trào
phát triển nhanh chóng làm cho ngân
quỹ trở nên dồi dào, do đó mà chẳng
mấy chốc trụ sở Tỉnh bộ Phong trào
được dựng lên và mang lại niềm tin cụ
thể cho đồng bào, công chức và cán bộ.
Đă thế, giáo sư Hà Huy Liêm (trường
trung học Vơ Tánh, Nha Trang) và kỹ sư
Nguyễn Mạnh Hoàn (hiện ở California),
những ủy viên tuyên nghiên huấn của
phong trào lại là những nhân vật có
kinh nghiệm đấu tranh, có tài hùng
biện động viên và kích thích được quần
chúng trong các buổi thuyết tŕnh hoặc
biểu t́nh, nên khí thế của Phong trào
mỗi ngày càng một tăng, tổ chức của
Phong trào một ngày càng trưởng thành
trên cả hai mặt lượng lẫn phẩm. Tôi có
thể nói mà không ngại ngùng rằng ngoại
trừ thời Việt Minh mới cướp chính
quyền năm 1945, chưa khi nào tỉnh
Khánh Ḥa và thị xă Nha Trang có một
phong trào chính trị bừng bừng lửa
cách mạng như thời 1955, 1956, dưới
ngọn cờ của Phong Trào Cách Mạng Quốc
Gia do tôi lănh đạo tại miền thùy
dương cát trắng, dù nơi đó dân chúng
vốn hiền ḥa và không hiếu động. Một
vài kỷ niệm mà tôi nhắc lại sau đây
tuy chỉ có tính cách địa phương, không
gây được những chấn động to lớn, nhưng
quả thật đă là những chứng tích cách
mạng của một phong trào nhân dân mà
động cơ thúc đẩy lớn lao và duy nhất
là t́nh cảm giải phóng sau những năm
dài áp bức. Những kỷ niệm đó bây giờ
chỉ là những vang bóng của một thời xa
xưa nhưng chắc chắn vẫn c̣n là những
âm vang rộn ràng trong ḷng những
chiến hữu của tôi hiện c̣n sống nơi
hải ngoại hay kẹt lại trong nước, mà
tôi vẫn luôn ghi nhớ rằng không có họ
th́ không thể có được cao trào cách
mạng đó.
Nào là lúc vận động quần chúng tấn
công đơn vị Tây Đen Sénégalais ở
Colona, khiến Pháp đặt toàn căn cứ
trong t́nh trạng báo động tác chiến và
dùng xe cứu hỏa và quân khuyển để phản
công lại khiến một số học sinh bị
thương. Nào là lúc bao vây Trụ sở Ủy
Hội Quốc Tế để cuối cùng huy động dân
chúng xông vào trụ sở ném đá gây
thương tích trầm trọng cho hai đại tá
Việt Cộng (đi điều tra về việc cán bộ
ở Phú Yên bị dân chúng nổi lên giết
chết), khiến họ phải nhờ máy bay Pháp
trốn về Sài G̣n tức khắc.
Tôi cũng muốn nhắc lại vụ Phong trào
cầm đầu đoàn biểu t́nh kéo đến khách
sạn Beau Rivage để áp lực sĩ quan Pháp
phải giữ thái độ khách quan, và buộc
các thành viên Ấn Độ và Ba Lan phải
gửi một cái chổi và cục đá và một bản
án ra Hà Nội cho ông Hồ Chí Minh. Và
chắc chắn các chiến hữu cũ của tôi
cùng đồng bào ở Nha Trang không thể
nào quên được lễ tưởng niệm tướng
Tŕnh Minh Thế tại công viên trước ga
xe lửa của thành phố Nha Trang, một
buổi lễ vừa cảm động vừa hào hùng để
tôn vinh người chiến sĩ cách mạng thực
sự hy sinh cho tổ quốc tại cầu Tân
Thuận Sài G̣n. Sau buổi tưởng niệm,
toàn thể quân dân đă đồng thanh yêu
cầu ông tỉnh trưởng Nguyễn Trân đổi
tên công viên thành ra công trường
Tŕnh Minh Thế và nhờ vậy mà tên tuổi
cũng như h́nh bóng của vị lănh tụ Cao
Đài Liên Minh, xuất thân từ núi Bà Đen
(Tây Ninh), đă sống với người dân Nha
Trang tại miền đất thùy dương cho đến
tháng 4/1975. Cho đến bây giờ, tôi vẫn
không quên được ḍng nước mắt của vị
đại diện Cao Đài khi đọc diễn văn ca
ngợi người anh hùng áo vải, 5 năm trời
thân cô thế yếu mà dám đương đầu với
hai kẻ thù của dân tộc: Cộng Sản và
Thực Dân, người anh hùng đă chết tức
tưởi trong một trường hợp mà cho đến
ngày nay vẫn c̣n nằm trong ṿng bí ẩn
của lịch sử.
Sở dĩ cái chết của tướng Thế cho đến
ngày nay vẫn c̣n nằm trong ṿng bí ẩn
của lịch sử v́ chưa có một chứng nhân
nào hay một nhà viết sử nào chứng minh
được một cách xác quyết kẻ nào, hay tổ
chức nào, đă chủ trương giết tướng
Thế. Kư giả Brown (trong The New Face
of War) cho rằng cái chết của tướng
Thế ở vào một trường hợp có thể đưa
đến nhiều nghi vấn về một vụ ám sát.
Ông Nhị Lang (trong hồi kư: Phong Trào
Kháng Chiến Tŕnh Minh Thế) th́ gán
cho tướng Mai Hữu Xuân đă giết tướng
Thế. C̣n tướng CIA Lansdale, người bạn
chí thiết của tướng Thế, người đă lôi
kéo ông về với ông Diệm, th́ không nói
ai là kẻ chủ mưu giết tướng Thế. Trong
hồi kư In The Midst of War, Lansdale
kể lại rằng ngày 3/5/1955, ông đang
ngồi trong dinh Độc Lập, trong lúc ông
ta đang tỏ lời giận dữ Tổng thống Diệm
v́ ông Diệm có những lời lẽ khinh mạn
và vong ân đối với tướng Thế th́ bỗng
ông Nhu đi vào cho biết tướng Thế đă
từ trần trên tàu Tân Thuận trong lúc
đang chỉ huy trận tấn công B́nh Xuyên.
Nghe được tin này, ông Diệm khóc và
xin lỗi Lansdale. Lansdale nắm vai ông
Diệm và ngỏ lời an ủi. Lansdale là bạn
chí thân của tướng Thế, lại là một
nhân vật CIA tài ba vậy mà không điều
tra nổi ai đă ám hại vị tướng Cao Đài
Liên Minh. Trong lúc đó th́ dư luận
Sài G̣n lại cho rằng ông Ngô Đ́nh Nhu
là kẻ chủ mưu giết tướng Thế. Sở dĩ có
dư luận ấy v́ Nhu nổi tiếng là người
thủ đoạn “ ăn cháo đá bát” và
đă phản bội lại bạn bè từ sau khi cầm
được chính quyền, huống ǵ ông Nhu lại
không muốn bất kỳ ai có thể trở thành
anh hùng để có thể qua mặt được anh em
ông Diệm.
Về phần tôi th́ đoán rằng cái chết của
tướng Thế chỉ có thể là do người Pháp
chủ mưu. Tôi đoán vậy v́ lúc bấy giờ
chỉ có một đơn vị quân đội Pháp đang
đóng rất gần nơi tướng Thế chỉ huy,
ngoài đơn vị đó ra không c̣n một lực
lượng quân sự nào khác nữa (tướng Thế
bị một viên đạn xuyên từ tai này sang
tai kia). Người Pháp hết sức căm thù
tướng Thế v́ trải 5 năm kháng chiến,
tướng Thế đă nhiều phen làm đảo điên
người Pháp, đặc biệt vụ bỏ bom tại Nhà
hát lớn Sài G̣n ngày 9/2/1952 sát hại
hơn 50 người cả Pháp lẫn Việt.
Cũng v́ cảm phục tấm ḷng yêu nước, ư
chí cao cả và hành động gan dạ của
người chiến sĩ Cao Đài Liên Minh nên
tôi đă tổ chức một buổi lễ kỷ niệm hết
sức long trọng để tôn vinh vị anh hùng
núi Bà Đen 5 năm nằm gai nếm mật. Cũng
từ đó trước mặt tôi, trên bàn giấy tại
văn pḥng Tư lệnh Phân Khu Duyên Hải
(Nha Trang), chân dung tướng Tŕnh
Minh Thế đă thay chổ chân dung thủ
tướng Ngô Đ́nh Diệm.
Cuối cùng, tôi muốn kể lại chuyện trực
diện ngăn cấm viên Tổng Tư lệnh quân
đội Pháp ở Đông Dương lúc đó là Đại
tướng Jacquot, không được di chuyển
trong lănh thổ Phân khu Duyên Hải, dù
lúc bấy giờ quân đội Việt Nam vẫn c̣n
phụ thuộc vào Bộ Tư lệnh Pháp. Nguyên
vị tướng Tổng Tư lệnh này muốn đi kinh
lư thăm các đơn vị khác đóng ở Nha
Trang và Cam Ranh. Từ Đà Lạt xuống,
tướng Jacquot đi xe mang cờ tam tài và
cờ hiệu 4 sao, có một trung đội nhảy
dù Pháp và một Đại úy chỉ huy hộ tống.
Nhưng đến Tháp Chàm th́ đoàn xe bị
Trung úy Trần Văn Đại bố trí một đại
đội chặn lại và bắt ông ta phải quay
lui (Trung úy Đại nay là Đại tá, hiện
ở Mỹ). Quả là một việc hết sức bất ngờ
và mất thể diện cho quân đội Pháp, v́
vậy tướng Jacquot giận lắm nhưng không
giám ra lệnh nổ súng nên cuối cùng,
tuy ông ta đă đổi từ thái độ trịch
thượng hùng hổ đến ôn ḥa năn nỉ,
nhưng ông vẫn bị khước từ không thể
tiếp tục lộ tŕnh. Trung úy Đại cho
ông ta biết Trung úy đang làm theo
lệnh của tôi, nghĩa là thể hiện ư chí
của cao trào cách mạng của quân dân
vùng duyên hải, rằng tất cả người
Pháp, dù ở bất cứ tư thế nào cũng phải
chịu luật “ nội bất xuất ngoại bất
nhập”. Ngày hôm sau, tôi nhận
được công điện của Tổng Tham mưu Việt
Nam (do Đại tá Trần Văn Đôn kư) khiển
trách tôi tại sao lại vô lễ với vị Đại
tướng “ Tổng Tư lênh quân đội Liên
Hiệp Pháp”. Tôi liền đánh công
điện trả lời không ngại ngùng: “ Tôi
chỉ biết có một vị Tổng Tư lệnh là
Thiếu tướng Lê văn Tỵ mà thôi”.
Sau này, khi Thủ tướng Diệm đến Nha
Trang có hỏi lại tôi về vấn đề đó, vấn
đề mà tướng Jacquot khi về Sài G̣n đă
đến dinh Độc Lập trách móc thủ tướng,
tôi bèn tŕnh bày: “Thưa Cụ,
chúng tôi coi người Pháp là kẻ thù
v́ họ phá rối Cụ, họ muốn lật đổ Cụ
tức là chống lại dân tộc Việt Nam,
th́ chúng tôi đương đầu với họ là lẽ
tất nhiên. Tôi làm cho tướng Jacquot
suy nghĩ và hy vọng nhờ đó mà ảnh
hưởng phần nào đến đường lối chính
trị của người Pháp”. Ông Diệm
gật gù nở nụ cười thỏa măn.
Tôi nhắc lại vài hoạt động “ Bài
Phong, Đả Thực, Diệt Cộng” tại
vùng Phân khu Duyên Hải đó là v́ muốn
nhắc lại sự đóng góp của dân và quân
vùng này cho sự thành công của ông
Diệm khi ông phải đương đầu với ba kẻ
thù của ông ta mà cũng là kẻ thù của
dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ. Đă đành
rằng “ Chiến khu Đông” đặt tại
Phan Rang và những hoạt động của Phong
Trào Cách Mạng Quốc Gia vùng Duyên Hải
không có tầm vóc đủ lớn để có ảnh
hưởng chính trị sâu đậm bằng những
biến cố xảy ra ngay tại thủ đô Sài
G̣n, nhưng âm vang của nó như là một
biểu hiện ư chí của quần chúng có làm
cho quân dân toàn quốc lên tinh thần,
có làm họ quyết liệt hơn trong việc
ủng hộ thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm hay
không; thái độ của ba anh em ông Diệm
sau đó mấy tháng đối với Phong Trào
Cách Mạng Quốc Gia tại Nha Trang sẽ
chứng minh điều này.
Những hoạt động đó, dù bây giờ chỉ c̣n
là kỷ niệm trong tận đáy cùng của kư
ức, và dù kư ức đó đang phai nhạt dần
v́ năm tháng và v́ đời sống ly hương
nơi đất người, tôi vẫn muốn trang trải
lên trang sách này để một lần trong
đời được tạ ơn và tạ tội với các đồng
chí bạn bè ngày xưa trong Phong Trào
Cách Mạng Quốc Gia miền duyên hải. Nếu
cuộc biểu t́nh do bà Ngô Đ́nh Nhu tổ
chức vào năm 1956 đă được nhóm bồi bút
của ông Diệm sau đó (và đến tận bây
giờ) tâng bốc lên đến tột đỉnh những
ǵ mà ngôn ngữ ma quái có thể diễn tả
được, th́ tại sao tôi lại không chân
thành viết ra đây như viết về những
anh hùng lặng lẽ nhưng sừng sững,
những nỗ lực không đo lường được bằng
ngôn ngữ của các bạn bè đồng chí của
tôi. Tại Sài G̣n, bà Nhu có ông anh
chồng làm tổng thống với một bộ máy
công quyền, có cả bóng lẫn h́nh đồ sộ
của Mỹ đè nặng trên t́nh h́nh chính
trị Việt Nam lúc bấy giờ, có sẵn cả
một khối lượng của người Công giáo di
cư để làm hậu thuẫn. C̣n tại Khánh
Ḥa, nơi mà cái tên Ngô Đ́nh Diệm nghe
không kêu bằng và không được biết bằng
tên của ông Hồ Chí Minh, nơi mà phong
trào phải tự lực cánh sinh không có
được một hậu thuẫn hay yểm trợ nào,
nơi mà đảng Con Ó của tướng Hinh và
quyền lực của đại tá Trương Văn Xương
đang tê liệt hóa ông Ngô Đ́nh Cẩn và
các thuộc hạ người Công giáo tại miền
Trung, và nơi mà người dân chỉ biết
dùng ḷng yêu nước chân thành để phân
định thời cuộc và đo lường ḷng
người... th́ những hoạt động của chúng
tôi, ở một kích thước nào đó, quả thật
là không thể đo lường được bằng ngôn
ngữ mà chỉ có thể kể lại như những
hoài niệm mà thôi.
Tôi cần viết ra đây những hoài niệm đó
là cũng để tạ tội với những anh em Đại
Việt tỉnh bộ Phan Rang do ông Hồ Trần
Chính cầm đầu, và những Phật tử bốn
tỉnh đă v́ thấy chuyện tôi làm, nghe
lời tôi hô hào khích động mà dấn thân
hoạt động hăng say để rồi sau đó mấy
năm lại thành nạn nhân của đảng Cần
Lao phóng tay phát động chính sách
chia rẽ kỳ thị. Viết ra đây để tạ tội
với nhóm các bác sĩ trong Quân y viện
Nguyễn Huệ, những giáo sư Vơ Tánh như
các ông Lê Tá, Nguyễn Mậu, Vơ Hồng...
những giáo sư Bồ Đề như các ông Lê Bá
Chẩn, Ưng Thi, Quách Tấn chỉ v́ mấy
năm sau chống đối ông Diệm (có người
c̣n giám tổ chức buổi kịch “ Tần
Thủy Hoàng” để lên án ông Diệm)
mà, lúc bấy giờ, đang quá say mê lănh
tụ Ngô Đ́nh Diệm, tôi đă nghĩ rằng
những vị ấy là Việt gian. Nhưng rơ
ràng là họ đă sáng suốt hơn tôi, đă
nh́n xa thấy rộng hơn tôi. (Giáo sư Lê
Tá, hiệu trưởng trường Vơ Tánh Nha
Trang, bị đổi vào Phan Thiết khác với
ông Lê Tá tỉnh trưởng Phú Yên. Hai cụ
Lê Tá hiện sống ở Mỹ và đều là những
nhân chứng của thời đại. C̣n gia đ́nh
Cụ Lê Bá Chẩn, ngoài việc dạy học ở
trường Bồ Đề, c̣n là Phó Tỉnh trưởng
Nha Trang, bị ông Tỉnh trưởng Nguyễn
Trân gán cho cái tội “ Cộng Sản”
mặc dù ai cũng biết Cụ Chẩn đă từng là
kẻ thù của Cộng Sản).
Xây dựng xong cả thượng tầng lẫn hạ
tầng cơ sở của Phong Trào Cách Mạng
Quốc gia tại Khánh Ḥa để làm thí điểm
gương mẫu, tôi bèn đi khắp bốn tỉnh
thuộc phân khu Duyên Hải, từ Phú Yên
đến B́nh Thuận, để thành lập các tỉnh
bộ khác của Phong trào cho những tỉnh
đó. Dân chúng bốn tỉnh miền cực Nam
Trung Việt cũng như dân chúng trên
toàn quốc sau gần 10 năm chiến chinh
khói lửa dưới chế độ cũ đă chán nản
chiến tranh, đă mất niềm tin vào những
lời hứa hẹn, bỗng bừng dậy nh́n về
chân trời mới, một chân trời vinh
quang và rất nhiều hy vọng nhờ khí thế
cách mạng đang dâng tràn từ thành thị
đến thôn quê. Khí thế đó có được nội
dung cách mạng là nhờ ư thức và tâm
chất của những người như ông Lê Tá,
nguyên Tỉnh trưởng Phú Yên, ông Hồ
Trần Chánh, bác sĩ Nguyễn Trọng Thiện,
bác sĩ Đỗ Cao Minh... những bằng hữu
và chiến hữu đă cùng tôi hoạt động cho
Phong Trào Cách Mạng Quốc gia, và đă
trở nên hội viên Hội Đồng Nhân Dân
Cách Mạng hay Dân biểu Quốc Hội sau
này. (Ba nhân vật trên hiện sống ở hải
ngoại).
Sau khi hoàn thành việc xây dựng bộ
phận chủ yếu cho Phong trào tại bốn
tỉnh miền Duyên Hải, tôi trở lại Nha
Trang để trong một buổi đại hội quân
dân chính gồm trên ba ngàn đại diện
tham dự, tôi hô hào thực hiện một cuộc
cách mạng dân tộc do lănh tụ Ngô Đ́nh
Diệm lănh đạo để đương đầu với cuộc
cách mạng vô sản chuyên chính ở miền
Bắc do ông Hồ Chí Minh lănh đạo. Giữa
hội trường đằng đằng chính khí mà
khuôn mặt mỗi người đều biểu lộ một
niềm tin sắt thép, tôi cho đồng bào
biết rằng lănh tụ Ngô Đ́nh Diệm đă
từng cởi áo từ quan, đă từng hoạt động
cách mạng chống Pháp, chống Cộng ngay
thời 1930, một nhân vật chân thành yêu
nước yêu dân, chỉ đặt quyền lợi tổ
quốc và dân tộc trên phe phái, tôn
giáo riêng tư... Tôi đă mang tấm ḷng
son sắt của người cán bộ trung kiên,
của người từng là chiến hữu của lănh
tụ Ngô Đ́nh Diệm từ 1942, tôi thề sống
chết với ông, và nếu ông phản bội quốc
dân, tôi sẽ là người đầu tiên đảo
chánh ông. Riêng với anh em quân đội,
tôi thề sẽ thực hiện đúng khẩu hiệu “ Huynh
đệ chi binh” mà tôi đă nêu ra
để đưa cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
đến thành công. Trước lời thề sắt đá
của tôi, hội trường như nổ tung bởi
những tràng pháo tay vang dội. Rất
đông sĩ quan và binh sĩ quá hăng say
và cảm động đă đứng bật dậy hô to khẩu
hiệu “ Bài Phong, Đả Thực, Diệt
Cộng”, khẩu hiệu “ Ngô Đ́nh
Diệm muôn năm” và “ Hoan hô
Trung tá Đỗ Mậu”... Không khí
hội trường như không khí hội nghị Diên
Hồng của cha ông thủa trước, mà những
đồng chí cũ của tôi là tướng Trần Văn
Minh (Không Quân), tướng Nguyễn văn
Thịnh (Pháo Binh), tướng Vũ Đức Nhuận
(An Ninh Quân Đội), Đại tá Hà Quang
Giác, Đại tá Đỗ Khắc Mai... (hiện sống
tại hải ngoại) đă là những chiến sĩ
tiền phong đầy ắp ḷng yêu nước và lửa
cách mạng.
Thật vậy, ḷng yêu nước và lửa cách
mạng đó của quân dân bốn tỉnh Duyên
Hải đă vang dội về Huế và vào Sài G̣n
làm cho chủ tịch Phong Trào Cách Mạng
Quốc gia Trung ương là ông Trần Chánh
Thành, và ông Hà Đức Minh, đại diện
đảng Cần Lao của ông Ngô Đ́nh Nhu,
phải đến Nha Trang quan sát và nghiên
cứu kinh nghiệm thực tiễn này. Ông Ngô
Đ́nh Cẩn gửi thư yêu cầu tôi sát nhập
phong trào miền duyên hải vào phong
trào miền Trung và ủy nhiệm tôi làm
đại diện chính trị cho ông ta. Ông
Nguyễn Đôn Duyến, đại diện Chính phủ,
phái người vào mời tôi ra Huế thuyết
tŕnh về cuộc đời của Thủ tướng Ngô
Đ́nh Diệm.
Ngày 7/7/1955, tôi ra Huế thuyết tŕnh
về đề tài “ Chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm
với chính nghĩa quốc gia”. Dân
chúng và công chức kinh thành Huế vốn
nghe tiếng tôi là cán bộ kỳ cựu và
trung kiên của ông Diệm nên kéo nhau
đến nghe tôi nói về cuộc đời của ông
tại Hội trường Morin. Họ đứng chật hội
trường và c̣n tràn ra các đường phố
chung quanh. V́ Huế là địa phương biết
khá rơ về dĩ văng của ông Diệm, biết
cả điều xấu lẫn điều tốt, biết cả sở
trường lẫn sở đoản, cho nên nội dung
bài thuyết tŕnh của tôi gồm hai phần
rơ rệt: Phần thứ nhất nhằm so sánh con
người của ông Ngô Đ́nh Diệm và con
người của ông Hồ Chí Minh, nhưng đặc
biệt chỉ nhấn mạnh vai tṛ Cộng sản
quốc tế của ông Hồ Chí Minh và đề cao
tư cách “ Cách mạng quốc gia”
của ông Diệm; Phần thứ hai tôi xác
định vai tṛ và vị trí tất yếu của ông
Diệm trong cuộc đấu tranh Quốc-Cộng
sắp tới giữa hai miền Nam Bắc. V́ vậy,
sau lời giới thiệu rất ân cần và tâm
huyết của Giáo sư Vơ Thu Tịnh, giám
đốc Nha Thông tin Trung Việt (hiện
sống ở Pháp), tôi đă cố t́nh bỏ qua
những điều tiêu cực của chính cá nhân
ông Diệm cũng như của t́nh h́nh chính
trị tổng quát để chỉ nhằm đề cao ông
Diệm như là một môn đồ Khổng Mạnh đầy
đủ Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa, như là
một tín đồ Chúa Kitô bác ái, công
bằng.
Bài thuyết tŕnh sau đó được ông Ngô
Đ́nh Cẩn cho phát thanh lại trên đài
phát thanh Huế đến 7 đêm liền, được Bộ
Thông tin Sài G̣n cho in thành sách
phát cho các tỉnh để làm tài liệu học
tập và, hân hạnh nhất cho tôi, là năm
1958 được Tổng thống Diệm gọi vào Dinh
Độc lập để khen ngợi và cảm ơn sau khi
ông đă đọc xong tập “ Chí sĩ Ngô
Đ́nh Diệm với chính nghĩa Quốc gia”.
Nhưng nếu sự lưu tâm của các ông Ngô
Đ́nh Cẩn, Trần Chánh Thành trên đây là
một khích lệ cho tôi trong việc xây
dựng Phong trào Cách mạng Quốc gia
vùng Duyên hải th́ chuyến viếng thăm
Nha Trang của Thủ tướng Diệm sau đó
mới thực sự là phần thưởng tinh thần
và t́nh cảm giá trị hơn. Thủ tướng
Diệm, từ ngày bị tướng Nguyễn Văn Hinh
chống đối, đă tự giam ḿnh trong khuôn
viên Dinh Độc lập, nhưng ngay sau khi
đánh tan quân B́nh Xuyên ở rừng Sát và
mặc dù công việc đa đoan, ông đă quyết
định đi kinh lư mà địa điểm đầu tiên
là Nha Trang, nơi tôi đang chịu trách
nhiệm.
Khi Thủ tướng Diệm đến Nha Trang, mặc
dầu tôi chỉ là Tư lênh phó nhưng đại
tá Phạm Văn Đổng vẫn đề nghị tôi, với
tư cách Chủ tịch Phong trào Cách mạng
Quốc gia vùng Duyên hải, đại diện cho
quân dân đọc diễn văn chào mừng Thủ
tướng. Tôi tổ chức một buổi mít-tinh
của dân chúng và quân đội tại một công
viên sát bờ biển để nghênh đón ông
Diệm. Tôi muốn mượn cảnh trời cao biển
rộng, cảnh bạch nhật thanh thiên, thay
mặt quân dân Nha Trang đưa cao lời thề
chết sống với Ông để thực hiện cuộc
cách mạng dân tộc, xây dựng đời sống
mới ấm no hạnh phúc cho đồng bào sau
100 năm quê hương đắm ch́m trong nô lệ
dưới gót giầy sắt của thực dân. Có lẽ
Đại tá Đổng và nhiều nhân chứng đă
không quên có những bà già, trẻ em 15,
16 tuổi đă đến ôm chầm lấy vị Thủ
tướng khả kính ngỏ lời hân hoan được
thấy tận mắt nhà lănh đạo v́ dân v́
nước. Tôi c̣n nhớ ông Diệm đă nh́n tôi
rơm rớm nước mắt như muốn chia sẻ nỗi
cảm động hân hoan của ông. Sau buổi lễ
đón chào, ông Diệm không chịu về ṭa
Tỉnh trưởng ăn cơm trưa mà lại đ̣i về
ăn cơm chung với các sĩ quan ở Câu lạc
bộ. Ngồi giữa Đại tá Linh Quang Viên,
Tư lệnh Vùng Ba, và Đại tá Đổng, Tư
lệnh Phân khu Duyên hải, và trước độ
60 sĩ quan, ông Diệm nói với các sĩ
quan hiện diện là ông rất biết ơn quân
đội đă ủng hộ ông, đă hy sinh cho ông.
Ông hứa sẽ trung thành với dân tộc và
đưa nước nhà đến bến bờ vinh quang.
Sau khi thăm Nha Trang, ông bảo tôi
cùng đi theo ông lên Đà Lạt để tiếp
tục chuyến kinh lư của ông. Cử chỉ ưu
ái đó làm tôi cảm động. Đến Đà Lạt,
ông cho biết sẽ thăng tôi lên đại tá
và sẽ bổ nhiệm làm Tư lệnh Phân khu
Duyên hải thay cho đại tá Phạm Văn
Đổng giữ chức Tư lệnh Sư đoàn Nùng (Sư
đoàn 3) ở Phan Rí. C̣n ông Thái Quang
Hoàng lên chức thiếu tướng và sẽ giữ
chức Tư lệnh Quân khu III thay cho đại
tá Linh Quang Viên. Sau này tôi mới
biết việc thăng cấp cho tôi và Thái
Quang Hoàng... nằm trong chủ trương
tưởng thưởng chung cho những người cả
dân sự lẫn quân sự đă từng ủng hộ ông
Diệm từ những ngày đầu và trong những
ngày ông gặp khó khăn đối phó những kẻ
thù thực dân và phong kiến. Chủ trương
đó do các ông Trần Chánh Thành, Trần
Trung Dung, Trần Ngọc Liên... đề nghị
lên ông Diệm. Mỗi người có công đều
được thăng một cấp, ví dụ như ông
Nguyễn Đôn Duyến, nguyên đốc sự hạng
nh́ được thăng lên đốc sự hạng nhất;
như ông Vơ Như Nguyện (hiện ở Pháp),
từ Chánh thanh tra Công an hạng ba lên
Chánh thanh tra Công an hạng nh́. Về
vụ thăng thưởng, đến năm 1964, khi
tướng Nguyễn Khánh làm Thủ tướng, ông
hủy bỏ những nghị định thăng cấp cũ
làm cho một số người vô cùng bất măn.
(Vị giáo sư Hán học Vơ Như Nguyện biết
rơ vấn đề này và có đến phàn nàn với
tôi tại Sài G̣n).
Như vậy, từ nay, nhiệm vụ của tôi trên
toàn Phân khu Duyên hải (gồm bốn tỉnh
Phú Yên, Khánh Ḥa, Ninh Thuận, B́nh
Thuận) sẽ gồm không những giữ ǵn an
ninh địa phương này mà c̣n về mặt
chính trị, phải xây dựng cho quần
chúng một ư thức chính trị vững mạnh
mà nội dung là chống Cộng và ủng hộ
chế độ Cộng Hoà. Trước 1945, tôi có
qua lại Nha Trang vài lần trong các
chuyến đi công tác cho ông Diệm khi
c̣n hoạt động cho phong trào Cường Để.
Lúc bấy giờ, đầu óc c̣n suy tư về
những hoạt động cách mạng bí mật và
nguy hiểm, và lại tuổi trẻ nên tôi
chưa nghĩ đến việc an cư lạc nghiệp
cho gia đ́nh. Nhưng từ năm 1953, khi
được đổi về miền thùy dương gió hiền
cát trắng, làm đại diện cho Quân khu
II, tôi có nhiều th́ giờ quan sát dân
t́nh cảnh trí tỉnh Khánh Ḥa, và tôi
có ư định sẽ chọn tỉnh lỵ Nha Trang
làm quê hương. Ư định này trở thành
quyết định v́ sau ngày chia cắt đất
nước vào tháng 7 năm 1954, tôi linh
cảm thấy ngày trở lại nơi chôn nhau
cắt rốn vùng tả ngạn sông Gianh quả
thật là xa vời. Sau những năm* lê gót
khắp mọi nẻo miền đất nước, tôi thấy
Nha Trang quả là nơi đất lành cho chim
đậu, có thể làm nơi sinh sống vĩnh
viễn cho vợ con, làm nơi thừa lương
cho ḿnh khi tuổi đă về chiều. Tôi say
mê Nha Trang, quyến luyến Nha Trang v́
Nha Trang không khép kín u trầm như cố
đô Huế, không cô đơn lạnh lùng như Đà
Lạt, không náo nhiệt xô bồ như Sài
G̣n. Tôi yêu Nha Trang v́ cảnh non
nước trời mây t́nh tứ. Nha Trang sống
động mà không suồng să, mộng mơ mà
không sầu năo, một thành phố trung
b́nh nhưng thanh lịch như là nhà thơ
Quách Tấn đă mô tả sau đây: [4]
*
Nhắn ai viếng cảnh Nha Trang,
Muốn t́m dấu cũ th́ sang Tháp Bà.
Muốn trông trời biển bao la,
Con thuyền nho nhỏ bơi ra Ḥn
Chồng.
Muốn xem cá lạ biển Đông,
Xuống ṭa Hải Học trong vùng
Trường Tây.
Muốn vui cùng nước, cùng mây,
Mây trùm suối ngơ, nước vầy suối
tiên.
Ba Hồ làm thú thiên nhiên,
Qua Sơn là chốn thần tiên đi về.
Ḷng mong nương bóng Bồ Đề,
Lên chùa Hải Đức gần kề Nha Trang.
Nha Trang trăng ngọc gió trầm,
Anh về B́nh Định lệ dầm nhớ
thương.
Trách ai rắp nẻo ngăn đường,
Non song gởi gấm can trường lại
em.
Ḥn Chữ chưa ch́m,
Ḥn Trầm chưa ngă,
Ngoài c̣n Vạn Giă,
Trong c̣n Cam Lâm,
Vẫn c̣n trăng ngọc gió trầm,
Ngh́n thu nghĩa nặng t́nh thâm măi
c̣n.
*
Ngay trước cả thời chúa Nguyễn mở mang
bờ cơi, phong cảnh Nha Trang đă nổi
tiếng là t́nh tứ với hàng dương liễu
dịu dàng trên một bờ biển cát trắng
nước xanh, dân t́nh Nha Trang đă nổi
tiếng là hiền ḥa đôn hậu, chỉ biết
khai thác đất cha biển mẹ làm phương
kế sinh nhai. Vào đầu thế kỷ thứ 19,
khi nhà bác học Yersin đến định cư tại
đây thành lập viện Pasteur để nghiên
cứu thêm về vi trùng học trên các bệnh
của miền nhiệt đới, th́ Nha Trang được
chỉnh trang lại vừa đủ như một cô gái
quê xinh đẹp điểm thêm một chút phấn
hồng để trở thành một thành phố có hấp
lực lôi cuốn khách nhàn du.
Nhưng từ khi đất nước qua phân, ông
Diệm về nước, th́ Nha Trang bỗng vươn
ḿnh và trở thành một “ thành tŕ
cách mạng” sôi động đến nỗi ông
Ngô Đ́nh Nhu, cha đẻ và là lănh tụ
đảng Cần Lao Nhân Vị, phải đích thân
đến đây để tổ chức việc thành lập Quân
ủy Trung Ương của đảng. Thật vậy, lúc
bấy giờ, chỉ độ một tuần sau ngày
thành lập nền Cộng ḥa (26-10-1955),
cuộc truất phế Bảo Đại c̣n đang làm
cho một số dân chúng miền Trung xao
động, miền Hậu Giang c̣n khói lửa mịt
mù, tân nội các c̣n chập chững đối phó
với bao nhiêu việc trọng đại... thế mà
ông Nhu đă bỏ thủ đô vội vă đến Nha
Trang để xúc tiến công tác này trong
vùng trách nhiệm của tôi. Quả là một
vinh dự cho Nha Trang và cho riêng
tôi.
Không ai được biết đảng Cần Lao được
thành lập vào lúc nào ngoại trừ một
thiểu số rất nhỏ ṇng cốt của Đảng
này, nhưng ai cũng biết là từ lúc chưa
nắm được chính quyền, ông Nhu đă cổ
xúy và nhiều lần đề cập đến một đảng
bí mật làm rường cột cho chế độ. Là
một người nghiên cứu và chịu ảnh hưởng
phần nào lư thuyết của Mao Trạch Đông,
ông Nhu cũng chủ trương quản trị và
lănh đạo quốc gia theo phương tŕnh
Lănh tụ Đảng - Nhà nước - Nhân dân,
nhưng điều mà ông Nhu không ngờ tới là
ông đă theo mô thức này một cách quá
lư thuyết nên sau này thực tế đă cắt
miền Nam thành hai vùng chính trị khác
nhau, lúc th́ có ranh giới rơ ràng lúc
th́ lẫn lộn vào với nhau với nhiều mâu
thuẫn sâu đậm: Hai lănh tụ Ngô Đ́nh
Nhu và Ngô Đ́nh Cẩn, hai đảng Cần Lao
miền Trung và Trung Ương, hai nhà nước
có hai bộ máy công quyền với những
nhân sự và phương thức quản trị khác
nhau, và hai loại nhân dân chạy theo
hay chống lại chế độ. (Sẽ nói rơ hơn
trong chương IX: Đảng Cần Lao).
Tôi nhận lănh nhiệm vụ Tư lệnh Phân
khu Duyên hải được độ hai tháng th́
hai Trung úy Lê Quang Tung và Nguyễn
Văn Châu từ Huế vào gặp tôi cho biết
hai Cậu (lúc bấy giờ hai ông Tung và
Châu gọi hai ông Nhu và Cẩn bằng Cậu)
phái họ vào Nha Trang để thảo luận với
tôi về việc tiến hành thành lập Quân
ủy Trung Ương của Đảng Cần Lao. Tôi
hỏi v́ sao không lập ở Sài G̣n để cho
gần Trung Ương của đảng, hoặc ở Huế
cho đông nhân sự ṇng cốt trung kiên
mà lại ở Nha Trang, th́ ông Châu trả
lời v́ “ thượng cấp và anh em đều
công nhận quân nhân Nha Trang có
tŕnh độ giác ngộ chính trị sâu, có
tinh thành đấu tranh cao, lại trung
thành triệt để với lănh tụ Ngô Đ́nh
Diệm”. Rồi họ không tiếc lời
khen tôi là người có công lớn trong
việc xây dựng “ thành tŕ
cách mạng” tại bốn tỉnh duyên
hải miền Trung để làm thí điểm.
Điều làm tôi thắc mắc lúc đó là tôi
không biết ǵ về đường lối và sách
lược chính trị của Đảng Cần Lao, lại
càng không biết ǵ về vai tṛ và nhiệm
vụ của bộ phận quân ủy trong sách lược
của Đảng cũng như trong sách lược
chung của quốc gia. Như vậy ba lư do
mà họ trả lời trên kia thật ra chỉ gồm
lại trong điều cuối mà c̣n bị giới hạn
nữa, nghĩa là không phải toàn quân,
toàn dân trong Nha Trang mà chỉ “ cán
bộ trung thành triệt để với lănh tụ
Ngô Đ́nh Diệm”. V́ tôi chỉ thấy
đó là tiêu chuẩn duy nhất để nhận diện
và kết nạp đảng viên nên sau ba ngày
hội họp và đúc kết thành quả, khi toàn
thể anh em bầu tôi là Chủ tịch Quân ủy
đảng Cần Lao, tôi liền viện ra một số
lư do, công cũng như tư, để nhất quyết
từ chối chức vụ này cũng như từ chối
bất kỳ chức vụ nào trong Trung ương
Quân ủy.
Cuối cùng, khi có sự can thiệp của ông
Nhu và nhất là chính v́ sự hiện diện
đặc biệt của ông, nên tôi đành phải
nhận chức ủy viên Trung Ương cũng như
Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lệnh
Quân khu II và đại tá Tôn Thất Xứng
(vắng mặt trong buổi họp!). Chủ tịch
Quân ủy do Trung úy Nguyễn Văn Châu
(sau này là Giám đốc Nha Chiến tranh
Tâm lư, hiện sống ở Pháp) và Phó Chủ
tịch do Trung úy Lê Quang Tung (sau
này là Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt) đảm
nhiệm. Đó là hai sĩ quan trẻ có những
điểm chung rất nổi tiếng trong quân
đội về tinh thần địa phương quá khích,
về thái độ mộ đạo cuồng tín, và về
quyết tâm phục tùng vô điều kiện mệnh
lệnh của anh em ông Ngô Đ́nh Diệm mà
từ nay tất cả quân nhân của Quân đội -
từ Đại tướng đến binh nh́ - sẽ bị chi
phối về mặt lập trường chính trị và sẽ
bị điều khiển về mặt công tác chính
trị.
Sau buổi họp, ông Nhu trở lại Sài G̣n,
các đồng chí về nhiệm sở cũ. Kết quả
của buổi họp và h́nh thức cũng như nội
dung của buổi họp không gây được một
xúc cảm đặc biệt nào ngoại trừ cái
t́nh cảm to lớn mà tôi đă có từ lâu là
dân tộc ta, suốt cả thế kỷ này, đă
chịu biết bao thống khổ điêu linh, nay
được sống và được tham dự vào công
cuộc xây dựng một nền Cộng ḥa có tự
do, có dân chủ và có phúc lợi cho toàn
dân. Có quân ủy hay không có quân ủy,
có đảng hay không có đảng, th́ ông
Diệm cũng được sức mạnh của dân yểm
trợ để ông thực hiện những ước mơ tối
thiểu và chính đáng của họ. Từ nay,
hết rồi những tủi nhục của quá khứ. Từ
nay, trong vận hội mới, những ai đă
lầm đường theo Tây theo Cộng để sát
hại đồng bào sẽ được tha thứ lỗi lầm
như lời bác ái của Chúa dạy; những ai
đă nuôi căm thù v́ bị áp bức đàn áp
trong chế độ cũ, sẽ quên hết oán thù
như lời hỉ xả của Phật dạy, để người
người nắm tay nhau vun xới cho trăm
hoa đua nở khắp xóm làng, chào mừng
chế độ Ngô Đ́nh Diệm khai mở một cuộc
cách mạng cho quê hương dân tộc.
[1] William Henderson, South Vietnam
Finds Itself, trong “ Foreign
Affairs” (số XXXV) và Christian
Science Monitor (Số ngày 30-4-55).
[2] Douglas Pike, Vietcong, tr. 58
[3] Joseph Buttinger, Vietnam A
Vietnam, A Political History, tr. 411,
412 và “ The New York Times”
(số ngày 30-5-55).
[4] Quách Tấn, Xứ Trầm Hương, tr. 154,
157.
-
BẢO
ĐẠI
****************** ******** *
VÀ NGÔ Đ̀NH DIỆM
*
Sau khi lực lượng B́nh Xuyên bị đánh
tan vào đầu tháng 5 năm 1955, nh́n vào
t́nh h́nh chính trị miền Nam lúc bấy
giờ ta thấy không c̣n một cá nhân hay
một tổ chức nào đủ uy tín quần chúng
và thực lực chính trị hoặc quân sự để
hồi phục lại được t́nh trạng cũ, nghĩa
là t́nh trạng của những chính phủ thân
Pháp. Hướng đi của thời đại và vận
động lịch sử đă chuyển hóa nước ta vào
một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên
của người dân đích thực làm chủ nước
ḿnh.
Trên mặt lư thuyết, lúc bấy giờ Việt
Nam có thể trở thành một nước theo chế
độ quân chủ lập hiến (như Anh, Nhật,
Ḥa Lan, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Thái
Lan…) nghĩa là giữ lại thực thể hoàng
gia như một biểu tượng quốc gia vô
quyền và vô hại để tránh một biến đổi
quá độ trong xă hội đóng kín và bảo
thủ như xă hội ta, hoặc có thể trở
thành một nước theo chế độ Cộng Ḥa
Đại Nghị (như Mỹ, Pháp…) để dứt khoát
hẳn với nền quân chủ quá khứ và trao
quyền làm chủ cho người dân. Đó là
trên mặt lư thuyết. Trên thực tế, quần
chúng đă chọn lựa rồi vào ngày 30
tháng 4 năm 1955 tại Ṭa Đô Chánh Sài
G̣n qua nghị quyết của Hội Đồng Nhân
Dân Cách Mạng, nghị quyết đ̣i truất
phế Bảo Đại và tạm thời trao quyền
lănh đạo đất nước cho ông Diệm trong
lúc chờ đợi Hiến Pháp và Quốc Hội định
đoạt chế độ tương lai của đất nước. Đó
là một nghị quyết lịch sử, phát xuất
trung thực từ ước vọng của quần chúng.
Tuy nhiên v́ cái nghị quyết hợp ḷng
dân và hợp thời đại nhưng lại không
hợp ư anh em ông Diệm nên anh em ông
Diệm và mưu sĩ Trần Chánh Thành phải
dùng đến thủ đoạn phân hóa, bẻ gẫy và
hạ uy tín Hội Đồng hầu cướp lấy chính
quyền mà không cần chờ đợi những quy
định của Hiến Pháp và Quốc Hội. Ngày
10 tháng 5, anh em ông Diệm đơn phương
thành lập chính phủ chính thức, gồm
toàn người thân tín và những kẻ đầu
hàng, không cần hỏi ư kiến của Hội
Đồng, cũng không có một nhân vật nào
của Hội Đồng được mời tham dự chính
phủ đó.
Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng do ông
Nguyễn Bảo Toàn làm chủ tịch, ông Hồ
Hán Sơn làm Phó, và ông Nhị Lang giữ
chức Tổng thư kư, nhưng Hội Đồng c̣n
có một ban Thường Vụ cũng do ông Toàn
kiêm chức Chủ tịch với các ủy viên là:
Văn Ngọc, Hà Huy Liêm, Nguyễn Phổ,
Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Hữu Khai, Huỳnh
Minh Ư, Đoàn Trung C̣n, Nguyễn Văn
Quyền. (Bốn nhân vật Nhị Lang, Hoàng
Cơ Thụy, Huỳnh Minh Ư, Nguyễn Hữu Khai
hiện đang có mặt tại Mỹ và Pháp ).
Để đạt mục đích nắm chặt chính quyền,
anh em ông Diệm bèn ra lệnh cho nhóm
ủy viên thân tín là các ông Hà Huy
Liêm, Huỳnh Minh Ư, Nguyễn Hữu Khai, …
cầm đầu thành phần thân ông Diệm trong
Hội Đồng gây mâu thuẫn, chống đối nội
bộ. Đồng thời anh em ông Diệm kết tội
Hội Đồng qua Tổng thư kư Nhị Lang là
đă thâm lạm biển thủ số tiền trên một
triệu đồng, số tiền mà ông Diệm (qua
Bộ Thông Tin) đă cấp cho Hội Đồng hoạt
động.
Kẻ viết không dám nói rằng ông Nhị
Lang và Hội Đồng đă thâm lạm biển thủ
tiền bạc, nhưng trong bối cảnh loạn
lạc lúc bấy giờ th́ sự chi tiêu của
Hội Đồng thật khó mà chứng minh bằng
giấy trắng mực đen. Huống chi số tiền
dù có bị thất thoát th́ cũng đă chủ
yếu sử dụng cho việc cứu văn địa vị
ông Diệm qua cơn sóng gió ngặt nghèo.
Trước hành động phản bội của anh em
ông Diệm, ông Nguyễn Bảo Toàn bèn từ
chức Chủ tịch Hội Đồng để phản đối ông
Diệm. Bị hăm dọa, ông lui vào bóng tối
trong lúc Phó chủ tịch Hồ Hán Sơn trốn
về Tây Ninh và bị giết một cách bí
mật. Dư luận lúc bấy giờ cho rằng ông
Nhu đă mua chuộc được tướng Cao Đài
Nguyễn Thành Phương để ông này cho
thuộc hạ hạ sát ông Hồ Hán Sơn. (Sau
này tướng Nguyễn Thành Phương cũng bị
ông Ngô Đ́nh Diệm mua chuộc để phản
lại giáo chủ Phạm Công Tắc mà rồi cuối
cùng ông Nguyễn Thành Phương cũng bị
Ngô Đ́nh Nhu phản bội). C̣n Tổng thư
kư Nhị Lang, người đă từng cầm súng
dọa bắn tướng Nguyễn Văn Vỹ để cứu ông
Diệm, bị công an của tướng Nguyễn Ngọc
Lễ và Bộ Thông Tin của ông Trần Chánh
Thành đ̣i bắt bớ và làm khó dễ. Tuy
các mưu sĩ Ngô Đ́nh Nhu, Trần Chánh
Thành có hạ nhục ông Nhị Lang (nghĩa
là gián tiếp hạ nhục Hội Đồng) nhưng
rồi cũng nương tay v́ sợ mang tiếng
phản bội quá trắng trợn. Tuy nhiên ông
Nhị Lang vốn là người có kinh nghiệm
đấu tranh và có lẽ vẫn c̣n bị ám ảnh
v́ cái chết khả nghi của tướng Tŕnh
Minh Thế, lại sợ ông Ngô Đ́nh Nhu lắm
thủ đoạn nên vội vă trốn lên Cao Miên,
làm kẻ lưu vong để cùng với những
người lưu vong khác hoạt động chống
nhà Ngô. Ngoài ra, luật sư Hoàng Cơ
Thụy vốn hết ḷng ủng hộ ông Diệm từ
khi ông Diệm mới về nước, nhưng trước
thủ đoạn của ông Ngô Đ́nh Nhu, cũng
trở thành người đối lập quyết liệt với
chế độ Diệm.*
Phê b́nh những biến cố trên đây, nhà
viết sử Buttinger, vốn có mặt tại Sài
G̣n lúc bấy giờ và thường gặp gỡ các
ông Diệm, Nhu, đă cho ta một bức tranh
đầy h́nh ảnh rối rắm, xảo quyệt, giành
giật, biến ảo ly kỳ mà tôi muốn ghi
chép lại nguyên văn bằng tiếng Anh để
cho những sự kiện lịch sử được tŕnh
bày trung thực:
In other tenebrous phases of these
power struggles in South Vietnam, the
truth can be glimpsed through the
tightly woven screen of intrigues.
This is not the case in the chain of
events that began in the afternoon of
April 30, 1955, when a gathering of
some 200 persons at the Saigon town
hall constituted itself as a General
Assembly of Democratic and
Revolutionary Forces of the Nation.
Although the outcome of these events
is known, what actually happened at
various critical stages is not. The
picture that emerges from the
available conflicting reports is that
of a weird kaleidoscope made up of
hate, lust for power, greed,
cowardice, and treachery.[1]
(Tạm dịch: Trong những giai đoạn tối
tăm khác của những màn tranh giành
quyền lực tại miền Nam Việt Nam th́ sự
thật vẫn có thể thoáng thấy được qua
những màn mưu mô đan dệt chặt chẽ vào
nhau. Nhưng rất khó để biết rơ sự thật
của những chuỗi biến cố đă bắt đầu vào
chiều ngày 30 tháng 4 năm 1955, khi
một nhóm khoảng 200 người họp nhau tại
ṭa Đô Sảnh Sài G̣n tự gọi là “Hội
Đồng Nhân Dân Cách Mạng”. Mặc
dầu ta đă biết rơ kết quả của chuỗi
biến cố này, nhưng chuyện ǵ đă thật
sự xảy ra trong những giai đoạn quan
trọng đó th́ không ai biết được. Những
tường tŕnh mâu thuẫn về những biến cố
này cho thấy một h́nh ảnh loạn xạ như
nh́n qua kính vạn hoa, đầy màu sắc thù
ghét, tranh quyền, tham lam, hèn hạ,
và gian lận).
C̣n kư giả Francis J. Corley cho ta
biết như sau:
“V́ thành phần lănh đạo của Hội
Đồng gồm một số nhân vật thoát thai
từ nhân dân mà ra với đầy ắp tâm
chất cách mạng như Nguyễn Bảo Toàn,
Hồ Hán Sơn, Nhị Lang, Tŕnh Minh
Thế… và v́ nội dung của nghị quyết
chỉ cho ông Diệm cái quyền tạm thời
chứ chung kết vẫn dành cho Quốc Hội,
tức là nhân dân, định đoạt, cho nên
đă làm cho những người có truyền
thống chính trị phong kiến và có
tham vọng lănh tụ như anh em ông
Diệm phải bất măn, nổi giận và cảm
thấy bị đe dọa” [2].
Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng với tên
tuổi của lănh tụ Ḥa Hảo Nguyễn Bảo
Toàn và trong hoàn cảnh đất nước lúc
bấy giờ quả thật là một tổ chức đầy uy
tín, một tổ chức “làm lịch sử”.
Hội Đồng đưa ra một quyết nghị vừa tạo
chính nghĩa cho quốc gia, vừa cứu ông
Diệm qua cơn khó khăn nguy hiểm, nhưng
v́ sự phản bội của anh em ông Diệm mà
Hội Đồng tan ră, chết yểu. C̣n những
người muốn làm cách mạng để cải đổi xă
hội th́ thân thế gặp phải cảnh lao
lung đầy bất trắc, với một tương lai
mịt mờ. Hội Đồng giải tán rồi, anh em
ông Diệm bèn lật lá bài chính trị cuối
cùng để qui thiên hạ về một mối, tức
là lá bài truất phế Bảo Đại, vị Quốc
trưởng hợp pháp, sự kiện mà tôi sẽ đi
vào chi tiết trong phần sau của chương
này.
Tuy nhiên trước khi tiếp tục nói về
cuộc cờ oan trái giữa hai ông Bảo Đại
và Ngô Đ́nh Diệm, tôi muốn mở một dấu
ngoặc ở đây để có mấy lời nói về ông
Nhị Lang và tác phẩm Phong Trào
Kháng Chiến Tŕnh Minh Thế
(PTKCTMT) của ông.
PTKCTMT ngoài phần chính yếu nói về
cuộc đời và sự nghiệp của tướng Thế,
tại chiến khu cũng như lúc về Thành,
ngoài phần nói về hoạt động đấu tranh
của ông Nhị Lang, tác giả c̣n muốn làm
nổi bật một số biến cố mà tôi cần phải
có những lời chất chính:
- Nguyên nhân nào buộc ông Nhị Lang
phải lấy quyết định bỏ nước ra đi sang
Cao Miên lưu vong để sống cuộc đời cơ
cực và tủi nhục.
- Những phân trần dài ḍng về điểm ông
bị nghi ngờ đă hoạt động cho Việt Cộng
tại Cao Miên.
- Thái độ chống Cộng hung hăn quá
khích của tác giả.
- Cái chết của tướng Tŕnh Minh Thế và
của tướng Ba Cụt Lê Quang Vinh.
- Ḷng ngưỡng mộ vô biên của tác giả
đối với hai ông Diệm – Nhu.
Rất tiếc là trong tác phẩm PTKCTMT tác
giả đă không ghi lại một số biến cố
vốn đă được nêu ra trong bài hồi kư Nguồn
gốc nền Đệ Nhất Cộng Ḥa Việt Nam
được đăng trên tuyển tập Quê Hương số
Xuân năm 1977 xuất bản tại Costa Mesa,
Hoa Kỳ, những biến cố có thể làm sáng
tỏ thêm thái độ chính trị của tác giả
dưới thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Ḥa
Việt Nam.
… Năm 1956, ông (Nhị Lang) phải lưu
vong qua Cam Bốt. Đến năm 1960, ông bí
mật trở về nước, nửa đường bị quân
Giải phóng bắt tại Đồng Tháp Mười, sau
đó được thả ra rồi lại bị chính phủ
Diệm bắt lại trong cuộc đảo chánh Nhảy
Dù ngày 11-11-1960. Ông ngưng hoạt
động một thời gian cho đến năm 1970,
ông lại được bầu làm Tổng thư kư Ủy
Ban Phối Hợp Hành Động các Chính Đảng…
Với sự hiểu biết của cá nhân tôi về
Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng, về chế độ
Ngô Đ́nh Diệm lúc bấy giờ, nay phối
hợp với những lời phân trần của ông
Nhị Lang trong tác phẩm PTKCTMT cùng
với lời giới thiệu trên tuyển tập Quê
Hương tôi muốn nêu lên những ư kiến
sau đây:
- Ông Nhị Lang bảo rằng sở dĩ ông phải
lưu vong sang Cam Bốt là để tránh sự
tranh chấp giữa hai ông Văn Thành Cao
và Nguyễn Thành Phương, và v́ chán nản
bởi thái độ bất thân thiện của một số
người của chế độ Diệm, đặc biệt là Bộ
trưởng Trần Chánh Thành và tướng
Nguyễn Ngọc Lễ, c̣n đối với anh em
Tổng thống Diệm th́ ông Nhị Lang trước
sau vẫn một ḷng kính phục. Trái lại,
theo tôi th́ ông Nhị Lang ra đi v́
khiếp sợ và thâm thù anh em ông Diệm,
ra đi với mưu đồ hợp tác với kẻ thù
của Việt Nam Cộng Ḥa để lật đổ chế độ
Ngô Đ́nh Diệm. C̣n hai ông Nguyễn Ngọc
Lễ và Trần Chánh Thành chẳng qua chỉ
là kẻ thừa hành, kẻ nhận mệnh lệnh của
anh em ông Diệm để hạ nhục ông Nhị
Lang trong lúc hai ông Diệm–Nhu bề
ngoài vẫn tỏ ra c̣n ưu ái ông ta.
Sau khi Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng bị
giải tán, chủ tịch Nguyễn Bảo Toàn
phải lui vào hoạt động bí mật để chống
nhà Ngô, hai ông Tŕnh Minh Thế và Hồ
Hán Sơn bị chết một cách bí ẩn th́ ông
Nhị Lang đâm ra lo sợ cho tương lai,
số phận của ḿnh. Đă thế, ông Nhị Lang
c̣n bị điều tra về thâm lạm tiền bạc,
bị hai ông Thành và Lễ làm nhục, ông
Nhị Lang đâm ra uất hận và căm thù tự
cho là đă bị phản bội. Ngoài ra, ông
Nhị Lang c̣n bất măn việc anh em ông
Diệm nâng tướng Văn Thành Cao, một kẻ
đối thủ của Nhị Lang, lên thay thế
tướng Tŕnh Minh Thế làm cho ông ta
càng ganh ghét và thù hận anh em ông
Diệm hơn.
Ngoài ra, sự việc mà ông Nhị Lang từ
Cam Bốt trở về Việt Nam một cách bí
mật trước khi biến cố Nhảy Dù xảy ra
để rồi sau biến cố đó, lại bị chế độ
Diệm bắt bớ và suốt thời gian c̣n lại
của chế độ Diệm, ông Nhị Lang phải
sống âm thầm không có một hoạt động
nào, càng cho thấy mối căm thù to lớn
của ông ta đối với anh em ông Diệm.
Tôi lại c̣n nghi ngờ trong những ngày
sống lưu vong tại Cam Bốt, có thể ông
Nhị Lang đă có liên hệ với Việt Cộng
(qua một cán bộ Cộng Sản tên là Ngô
Điền) và đă cộng tác với chính quyền
Sihanouk trong mưu đồ lật đổ chế độ
Diệm. Những lời phân trần dài ḍng của
ông về cuộc sống tại Cam Bốt, sự lưu
tâm của Quốc trưởng Sihanouk đối với
ông, sự trở về nước của ông trước khi
biến cố Nhảy Dù xảy ra (biến cố mà tôi
nghĩ rằng gián điệp Pháp đă cho
Sihanouk biết trước), rồi lại vụ Việt
Cộng bắt ông tại Đồng Tháp Mười để rồi
lại thả ra, cho phép tôi nghi ngờ ông
Nhị Lang đă có liên hệ với Cộng Sản và
đă cộng tác với Sihanouk.
Một người già dặn đấu tranh như ông
Nhị Lang há lẽ bỏ nước ra đi lưu vong
chỉ v́ bất măn với hai ông Nguyễn Ngọc
Lễ và Trần Chánh Thành? Một người có
thành tích đấu tranh chống Cộng như
ông há lẽ Việt Cộng bắt được rồi thả
ra một cách dễ dàng? Ngoài ra ông liên
hệ với chính quyền Sihanouk làm ǵ khi
mà Sihanouk đang coi Việt Nam Cọng Ḥa
là kẻ thù?
Vấn đề c̣n lại là tại sao ông Nhị Lang
căm thù chế độ Diệm đến như thế mà
trong tác phẩm PTKCTMT và trong bài
Hồi kư đăng trên tuyển tập Quê Hương
ông lại hết lời ca ngợi anh em Tổng
thống Diệm và tuyên dương “Phong
trào phục hồi tinh thần Ngô Đ́nh
Diệm”. Tiếc thương hai ông Diệm
Nhu tại sao măi đến năm 1970 Nhị Lang
mới vào nghĩa trang thăm mộ hai ông?
Số là từ sau khi chế độ Diệm bị lật
đổ, cũng như giới báo chí, giới chính
trị đảng phái đă tố cáo lẫn nhau. Dư
luận đă lên án ông Nhị Lang chạy theo
nhà Ngô năm 1955 phản bội lại các đảng
phái, phản bội Việt Nam Quốc Dân Đảng
mà ông Nhị Lang từng là một đảng viên
kỳ cựu, giúp cho nhà Ngô củng cố được
địa vị và làm cho các đảng phái bị
tiêu diệt. Từ đó, Nhị Lang thay đổi
lập trường, trở lại đề cao và bênh vực
nhà Ngô để chính nghĩa hóa việc làm
của ḿnh vào thời 1955. Ngoài ra, Nhị
Lang c̣n bị dư luận tố cáo là đă hoạt
động cho Sihanouk và Việt Cộng như Bộ
trưởng Trần Chánh Thành đă từng lên
án, v́ thế ông Nhị Lang lại càng phải
tỏ ra ḿnh vẫn là người chống Cộng
quyết liệt. Muốn thế, ông Nhị Lang
phải dựa vào uy thế nhóm Công giáo Cần
Lao đang là hậu thuẫn chính trị chính
yếu của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu
và đang tổ chức phong trào “Phục
Hồi Tinh Thần Ngô Đ́nh Diệm” mà
cao điểm là vào năm 1970, năm mà ông
Nhị Lang tái xuất giang hồ.
Trong mưu đồ xóa tội cho ông Diệm và
để tỏ ra ḿnh tiếc thương Tổng thống
Diệm và ông Nhu một cách ngoạn mục
hơn, ông Nhị Lang đă hư cấu ra việc
ông Nguyễn Ngọc Thơ v́ có bà con hoạt
động cho Việt Cộng nên đă làm áp lực
Tổng thống Diệm sát hại tướng Lê Quang
Vinh. Nếu quả ông Thơ thân với Việt
Cọng như ông Nhị Lang tố cáo th́ tại
sao suốt 9, 10 năm trời, ông Diệm lại
giao cho ông Thơ những chức vụ quan
trọng trong chính quyền, đặc biệt là
chức Phó Tổng thống kiêm nhiệm Kinh Tế
và Tài Chánh. Ông Thơ quê ở Long
Xuyên, vùng sinh sống và ảnh hưởng của
Ḥa Hảo, ông Thơ lại có nhà cửa đồ sộ,
có hàng trăm mẫu đất, có bà con mồ mả
cha ông, ông Thơ dại ǵ mà gây thù oán
với một lực lượng giáo phái đông đảo,
can trường và quyết liệt sẵn sàng trả
thù cho Đức Thầy, cho các đồng chí
đồng đạo. Huống ǵ tướng Lê Quang Vinh
lại là bà con gần của ông Thơ, việc
này cựu Bộ Trưởng Nội Vụ Lâm Lễ Trinh
(hiện ở Mỹ) biết rơ. Chẳng qua ông Thơ
cũng như đại đa số nhân dân miền Nam
lúc bấy giờ tin tưởng vào tương lai
thanh b́nh hạnh phúc của đất nước do
ông Diệm lănh đạo, nên ông đă nhận lời
chiêu dụ tướng Ba Cụt về đầu hàng cũng
như đă chiêu dụ tướng Nguyễn Giác Ngộ
và rất nhiều phần tử Ḥa Hảo khác để
giúp ông Diệm ổn định miền Tây. Ông
Thơ có ngờ đâu ông Diệm lại ra lệnh
cho ṭa án xử tử người anh hùng Ḥa
Hảo của quê hương ông. Bảo rằng ông
Thơ làm áp lực với ông Diệm giết Lê
Quang Vinh, vậy th́ ai đă áp lực ông
Diệm để ông Nguyễn Bảo Toàn, một lănh
tụ Ḥa Hảo, bị ông Diệm ra lệnh sát
hại? Không cần phải dài ḍng mà chỉ
cần đọc “PTKCTMT” cũng thấy
rằng ông Nhị Lang không đưa ra những
chứng cớ cụ thể nào, chỉ có những suy
luận một chiều mà lại dám xác quyết
việc ông Thơ làm áp lực ông Diệm để
sát hại tướng Lê Quang Vinh cũng như
việc Mai Hữu Xuân giết tướng Tŕnh
Minh Thế.
Cũng trong mục đích muốn đánh tan dư
luận nghi ngờ ḿnh có liên hệ với Việt
Cộng, ông Nhị Lang tỏ ra hung hăn hơn
khi đưa ra nhiều nhận xét, nhiều kế
hoạch chống Cộng vô lư như trường hợp
ông đă chê trách Tổng thống Truman hay
trường hợp dùng du kích đánh chiếm hai
tỉnh địa đầu của Bắc Việt.
Hết ḷng đề cao Tổng thống Diệm ưu ái
thủy chung với tướng Tŕnh Minh Thế,
ông Nhị Lang bỏ lơ việc ông Diệm đă có
lời lẽ khinh thị tướng Thế trước mặt
Lansdale làm cho Lansdale nổi giận bảo
ông Diệm đừng có những lời lẽ khinh
chê tướng Thế như vậy nữa [3].***
Hai anh em ông Diệm–Nhu trong bước
đường nguy khốn đă phải đích thân lên
tận núi Bà Đen thỉnh cầu tướng Thế đem
quân về thành cứu giúp, hành động đó
có khác ǵ ba anh em Lưu Quan Trương
đến Ngọa Long Cương thỉnh cầu Khổng
Minh về pḥ tá, thế mà ông Diệm nỡ
khinh thị tướng Thế khi quân đội B́nh
Xuyên đă bị đánh bật qua bên kia cầu
chữ Y. Như vậy ông Diệm có phải là
người vong ân bội nghĩa không hở ông
Nhị Lang?
Phê b́nh tác phẩm PTKCTMT, bà Linh Bảo
trong tạp chí Việt Nam Hải Ngoại (San
Diego) của luật sư Đinh Thạch Bích đă
viết như sau nơi mục Giữa Chúng Ḿnh:
... Theo LB biết th́ Hùng vào chiến
khu ra mắt tướng Thế với một cuốn sách
tên là “Con đường tranh đấu của
chúng ta”. Tướng Thế đă cho in
cuốn ấy để làm tài liệu lư luận căn
bản của phong trào kháng chiến quốc
gia. Nghe đâu anh (Nhị Lang) lúc vào
khu với tướng Thế đă ra mắt với một
bài thơ ca tụng lănh tụ, có câu đầu
là: “Tŕnh Minh Thế, đấng anh hùng
cứu quốc!” Hai cách ra mắt
tương phản nhau như thế không thấy anh
nói đến. Điều LB ngạc nhiên là: anh
Hùng chẳng những là một chiến sĩ hữu
danh, không những có tên mà lại có đến
ít nhất là ba tên; trong cuốn sách anh
viết anh Hùng thành ra một… chiến sĩ
vô danh! Các anh em khác ở đây cũng đă
chuyền tay đọc cuốn sách của anh. Đọc
xong, những ai từng ở chiến khu Tŕnh
Minh Thế cũng như những ai tuy không
vào khu nhưng đă sống trong thời kỳ
ấy, đều có những ư kiến khá… ly kỳ.
H́nh như có một vài người bỗng đâm…
ngứa ngáy định viết thêm, hay viết
những “lịch sử kư sự” cùng
một giai đoạn để bổ túc hay bổ khuyết,
hay điều chỉnh, hay.. và… , hầu giúp
người đời sau có thêm tài liệu mà so
sánh… “lịch sử” và “kư sự”.
LB hỏi anh ĐTB về 10 điều luật tử h́nh
trong chiến khu Tŕnh Minh Thế. Anh ấy
chỉ nhớ có 5 điều. Anh có nhớ đủ
không? [4]
Những lời phê phán trên đây chẳng
những cho thấy tác phẩm lịch sử kư sự
của ông Nhị Lang có rất nhiều sai lầm
khiếm khuyết mà quan trọng hơn, c̣n
lên án ông Nhị Lang thiếu tác phong
cách mạng và đă có những hành động
đáng phải xử tử.
Ngoài nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại
ra, nguyệt san Thanh Niên Hành Động số
ra mắt ngày 1-10-1985 phát hành tại
San Jose, trong mục Điểm Sách đă có
những phân tách tỉ mỉ hơn về tác phẩm
PTKCTMT. Thanh Niên Hành Động c̣n so
sánh sách ông Nhị Lang với sách của
một kư giả Mỹ và của Lansdale, và đă
cho thấy nhiều sự kiện trái nghịch. Để
kết luận, Thanh Niên Hành Động viết
như sau:
… V́ vậy, chúng ta không ngạc nhiên
khi đối chiếu giữa cuốn hồi kư của Nhị
Lang và của Lansdale có những sự kiện
được viết ra rất trái nghịch…
Chúng ta đọc để có một cái nh́n chín
chắn cho hành động và sự hy vọng. Cái
nh́n chín chắn đó là biết rơ hơn nữa,
ai là những thành phần bán đứng dân
tộc… Một cuộc cách mạng có chính nghĩa
phải phát xuất từ nguyện vọng của đại
đa số nhân dân. Phải đặt quyền lợi dân
tộc lên trên hết. Một lực lượng cách
mạng thể hiện được con đường chính
nghĩa này không thể “hợp tác”
với những bọn người thối nát nhưng
luôn mang danh nghĩa “quốc gia”,
một chế độ phi dân tộc như Ngô Đ́nh
Diệm. Đó là bài học cần được rút
tỉa…[5]
C̣n ông Lê Nhật Thăng (trên tạp chí
Ánh Sáng Dân Tộc) th́ viết thẳng rằng:
Tác phẩm “Phong Trào Kháng Chiến
Tŕnh Minh Thế” chỉ đem lại một
thông điệp đáng chú ư là tích cực
chống Cộng Sản, c̣n lại chỉ là sự tập
họp những khen ngợi bốn người. Đó là
Tŕnh Minh Thế, Ngô Đ́nh Diệm, Ngô
Đ́nh Nhu và “Le Moi” (cái Ta)
c̣n ai ai cũng bị tác giả chê trách,
sỉ vả hết thảy.
Riêng đối với tôi, sau khi tác phẩm
PTKCTMT ra đời, ông Nhị Lang và ông
Phan Xứng đă có nhă ư gởi tặng tôi một
cuốn với lời đề tặng đầy thân t́nh gọi
tôi là cố tri. Sau khi đọc xong sách,
tôi bèn gởi thư để cám ơn tác giả đồng
thời nêu lên một số sự kiện mà tôi
không đồng ư với ông Nhị Lang. Nói rơ
ra như thế để thấy rằng viết lại đoạn
hồi kư trên này tôi không có ác ư với
người bạn cũ mà tôi chỉ muốn làm sáng
tỏ lịch sử để hậu thế khỏi hiểu lầm
cha ông.
Rất tiếc, tấm ḷng chân thành của tôi
đă bị ông Nhị Lang phản ứng hết sức hạ
cấp và thô bạo. Ông viết báo để nhục
mạ tôi, gán cho tôi là Cộng Sản và
kích thích những thành phần Công giáo
cuồng tín ở hải ngoại chống phá tôi.
Nhưng sự thật vẫn là sự thật, nhiều
độc giả đă viết bài đăng báo, viết
sách để vạch trần tâm địa xấu xa và
hành xử không lương thiện của ông Nhị
Lang: như bà Yến Vân và cụ Vũ Trọng Kỳ
trên báo Viet Press, như cụ Nguyễn Duy
Hiệp trên báo Chấn Hưng, như ông
Trương Thiện trên báo Tia Sáng, như
nhà văn Lê Nhật Thăng trên báo Saigon
Bolsa và Ánh Sáng Dân Tộc, như nhóm
ông Vũ Đăng Quư và nhà văn Xuân Tước
trên tờ Văn Hóa Colorado và đặc biệt
là cuốn “Lột Mặt Nạ Những Con Tḥ
Ḷ Chính Trị” của ông Lê Trọng
Văn. Tất cả đă lột trần thủ đoạn gian
trá và thiếu đạo đức của ông Nhị Lang
và cuốn “Phong Trào Kháng Chiến
Tŕnh Minh Thế” của ông ta.
*
-o0o-
*
Trở lại biến cố truất phế Bảo Đại, một
biến cố lớn đă lột cả xác lẫn hồn của
đất nước để biến thiên từ kỷ nguyên
quân chủ qua kỷ nguyên dân chủ, tôi
xin có vài hàng về thân thế và sự
nghiệp của hai nhân vật tiêu biểu cho
hai kỷ nguyên đó: ông Bảo Đại, vị vua
cuối cùng của nhà Nguyễn; và ông Ngô
Đ́nh Diệm, vị Tổng thống đầu tiên của
Việt Nam Cộng Ḥa.
Triều đại nhà Nguyễn bắt đầu kể từ khi
vua Gia Long lên ngôi năm 1802 cho đến
khi chấm dứt dưới triều Bảo Đại năm
1945, đă trải qua 10 đời vua, mà gác
qua một bên tội ác đă “rước voi về
giày mả tổ” th́ nhà Nguyễn vẫn
có nhiều vị vua đă có công tô điểm
vàng son cho lịch sử nước nhà.
Trước hết tôi xin sơ lược về vua Gia
Long, vị vua sáng lập ra triều Nguyễn,
qua cái nh́n của nhà viết sử Phạm Văn
Sơn:
Ở vua Gia Long, từ con người quân nhân
đến con người chính trị có nhiều điểm
đặc biệt khiến ta phải coi vua Gia
Long cũng là một nhân vật kỳ liệt của
lịch sử trên nhiều phương diện. Nhân
vật này có nhiều điều hay mà cũng có
nhiều điều dở.
Chiếu theo cội rễ th́ Gia Long thuộc
về một ḍng họ có nhiều danh tướng,
giàu mưu cơ, đảm lược, nhẫn nại, cần
cù, thông minh, trác lạc, nhờ vậy mà
trong thời trung suy, Nguyễn Ánh mới
17 tuổi đă cầm đầu được binh tướng,
nắm vững được ḷng dân, bốn phen vinh
nhục ở đất Gia Định, nhiều lần xiêu
bạt ngoài khơi, trôi giạt cả vào đất
Xiêm, nương nhờ triều đ́nh Vọng Các,
có lúc phải hy sinh cả tính mạng (diệt
trừ giặc Miên và Mă Lai cho Xiêm La)
để mua chuộc thiện cảm của người ḥng
có chỗ nương thân. Trên 20 năm ṛng,
vua Gia Long xông xáo khắp các chiến
trường, từ vùng Đồng Nai ra Thuận Hóa,
vượt biển trèo non trong vùng khói lửa
mịt mùng mà vẫn không bao giờ lui
bước, con người ấy thật đáng là một
chiến sĩ. Trước điểm này ta không thể
không vỗ tay khen ngợi Thế Tổ nhà
Nguyễn.
Về chính trị, khi sức cùng lực tận,
Gia Long đă cho giám mục Bá Đa Lộc đem
con ḿnh là Hoàng tử Cảnh đi cầu cứu
với nước Pháp và luôn luôn giao thiệp
khéo léo với các lân bang để lấy ngoại
viện, nhờ đó mà chẳng những người Âu
Châu mà cả các quân Xiêm, Miên, Lào
thường qua lại đánh Tây Sơn giúp ḿnh.
Ngoại giao đến thế là khéo léo tuy
rằng mang người ngoài về đánh anh em
trong nhà là làm một hành động không
đẹp so với việc 12 Sứ quân trên tám
thế kỷ về trước. Nhưng đến khi sự
nghiệp đă thành, ngôi quốc chủ đă
vững, Gia Long thay đổi luôn thái độ,
lên tiếng kẻ cả với Xiêm, đặt Miên,
Lào vào ṿng lệ thuộc. Tiến thoái kinh
quyền đến thế quả thật là mau lẹ, quỉ
quyệt… Tuy vậy, vua Gia Long cũng có
một ít sở đoản như bạc bẽo và tàn nhẫn
với các trung thần, như hành động trả
thù dă man với đối thủ cũ là anh hùng
Nguyễn Huệ, như đă biết dă tâm của
cường quốc Tây phương mà không có kế
sách để giữ cho nước khỏi bị “Bạch
Họa”.[6]
Sau vua Gia Long, tuy các đế quốc Tây
phương (đặc biệt là Pháp) bắt đầu phát
động âm mưu thôn tính nước ta mà các
vũ khí ban đầu là các dịch vụ buôn bán
và sự phối hợp chặt chẽ với sinh hoạt
truyền bá đạo Công giáo La Mă, nhưng
dưới thời ba vị vua Minh Mạng, Thiệu
Trị, Tự Đức, quốc gia vẫn c̣n hoàn
toàn độc lập và nắm giữ chủ quyền.
Ba vị vua này, nếu không phải là anh
quân thời loạn th́ cũng đă chứng tỏ là
minh vương thời b́nh, một ḷng v́ nước
thương dân, phát huy được những thành
quả của cha ông để lại dựa trên nền
luân lư nhân nghĩa của nền Tam giáo.
Chỉ tiếc rằng trên mặt phát triển kinh
tế và vận dụng nhân tài vật lực của
đất nước, họ vẫn c̣n nặng tinh thần
bảo thủ, chủ trương bế môn tỏa cảng
không chịu tiếp nhận những trào lưu
văn hóa và kỹ thuật của nước ngoài để
ḥa hóa trong một chính sách cải cách
duy tân cho nước nhà thêm hùng mạnh.
Đặc biệt dưới triều vua Tự Đức, ảnh
hưởng Tống Nho của “Thiên Triều
Trung Hoa” lại được dịp phát
triển mạnh mẽ trong một xă hội tương
đối ổn định, mà những ước lệ từ chương
trở thành những mẫu mực đo lường sức
mạnh văn hóa của quốc gia.
Cũng dưới triều đại của ba vị vua này,
tuy có gửi một số phái đoàn (Bùi Viện
đi Mỹ là một) để nghiên cứu nước
ngoài, nhưng tinh thần bài ngoại triệt
để biểu hiện qua chính sách cấm đạo,
giết đạo đă vừa mắc mưu các cố đạo vừa
tạo ra cái cớ cho đế quốc Pháp nắm
được chính nghĩa (tại Pháp) để xua
quân xâm lấn giang sơn. Đă có nhiều
người của đời sau, hoặc v́ những xúc
động chủ quan hoặc v́ những thiên kiến
bè phái, đă nh́n chính sách này một
cách phiến diện và đơn giản để lên án
nặng nề ba vị vua trên mà không chịu
đặt ḿnh vào khung cảnh của thời đại
đó để suy nghiệm và phê phán cho khách
quan hơn.**
Theo ư kiến riêng của tôi th́ trên mặt
chính trị, và đặc thù hơn trên b́nh
diện phát triển quốc gia và giao hệ
quốc tế, quả thật các ông vua này đáng
bị phê phán khắt khe. Nhưng ngược lại,
trên mặt nhân văn, th́ các vị vua đó
chỉ phản ánh ư nguyện của tuyệt đại đa
số quần chúng mà thôi. Bốn chữ “B́nh
Tây, Sát Tả”trong những bài
hịch của các phong trào Văn Thân và
Cần Vương do các sĩ phu chủ xướng là
một trong những chủ điểm đấu tranh của
các bản cương lĩnh chính trị này, để
thể hiện cái ước vọng lớn lao và đại
chúng của nhân dân là “giết Đạo
trước rồi đánh Tây sau”.
Nếu trên mặt chính trị, các vị vua đó
có một chính sách khôn khéo hơn th́
Công giáo La Mă đă được du nhập vào
Việt Nam và may ra được ḥa hóa thành
một thứ Công giáo Việt Nam như trường
hợp đạo Phật cách đây hai ngàn năm.
Lỗi lầm chính trị của các vị vua này,
sự cấu kết giữa chính quyền Pháp và
Giáo hội La Mă Vatican lúc bấy giờ,
những tham vọng mở mang nước Chúa của
hội truyền giáo, và truyền thống chống
ngoại xâm thể hiện chính đáng nhưng
không đúng mức của dân ta. Đó là bốn
yếu tố chính chi phối trạng huống lịch
sử lúc bấy giờ và làm cho Hội Truyền
Giáo Hải Ngoại Pháp quên đi chức năng
rao truyền đức tin của Chúa trong nhân
ái, để chỉ c̣n tiến hành nhiệm vụ cao
cả của ḿnh như một trận chiến xâm
thực văn hóa. Sự cố t́nh phê phán hệ
quả của chính sách cấm đạo chỉ dựa
trên mặt chính trị mà không đặt nó
trong bối cảnh nhân văn của thời đại
lúc bấy giờ, là một thái độ thiếu
trách nhiệm và thiếu lương thiện của
một số nhà viết sử muốn trốn tránh sự
thật mà thôi!
Bây giờ th́ lịch sử đă chứng minh một
cách quá rơ ràng và quá đầy đủ rằng
chính cái tham vọng xâm thực văn hóa
của Hội Truyền Giáo Pháp đă là nguyên
nhân chủ yếu và lợi khí hữu hiệu của
chính sách xâm lăng quân sự chính trị
của đế quốc Pháp lúc bấy giờ. Trong
tiến tŕnh cấu kết này, những khuôn
mặt của Alexandre de Rhodes, Pigneau
de Béhaine, Puginier, Pellerin,
Taberd… đă là những chính trị gia lăo
luyện khoác áo tu sĩ để tiến hành một
thủ đoạn chính trị cổ điển nhất nhưng
cũng hữu hiệu nhất: chia để trị. Họ
chia dân ta thành hai khối lương giáo
bất khả ḥa và bất khả dung.
Lịch sử của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại
gắn liền một cách chặt chẽ với lịch sử
bành trướng ảnh hưởng của Pháp tại
Đông Dương. Một trong những sáng lập
viên của Hội, ông Pallu, đă đóng vai
tṛ liên lạc giữa hai triều đ́nh Pháp
và Huế. Vị giáo sĩ nổi tiếng nhất của
Hội, Giám mục Adran Pigneau de
Béhaine, đă chính thức gia tăng mối
quan hệ này: Sự can thiệp của các hội
viên của Hội Truyền Giáo vào chính
t́nh Việt Nam đă dẫn đến hành động xâm
lược vơ lực đầu tiên (của Pháp) [7].
Một số trí thức Thiên Chúa giáo Việt
Nam như các ông Nguyễn Văn Trung, Lư
Chánh Trung… hơn một trăm năm sau,
trong khi suy nghiệm về sự bế tắc nhân
văn của nền văn minh Tây phương và
trong nỗi niềm khổ hận của một người
Việt Nam lận đận, cũng đă nh́n thấy và
nêu lên rơ sự thật này:
Tuy nhiên lịch sử đă cho thấy rằng từ
khi Giáo Hội (La Mă) trở thành “Quốc
Giáo” th́ cây gươm tinh thần của thánh
Phao Lồ đă luôn luôn bị cám dỗ để biến
thành cây gươm thép thật sự. Kể từ dạo
ấy, mỗi khi hoàn cảnh cho phép, Giáo
Hội đă không ngần ngại để dùng thế lực
tiêu diệt các tôn giáo khác, đập phá
các đền thờ “Tà thần”, đốt
sách vở ngoại đạo, và đốt luôn bọn
người bị xem là “Lạc Đạo” nếu
không chịu sửa sai [8].
Cái hoàn cảnh không may đó đă đến với
dân ta từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 20, để
dân Việt trở thành đối tượng, nạn nhân
của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp và
đoàn quân xâm lăng Pháp. Cho nên ông
Lư Chánh Trung mới hạ bút viết mấy lời
tâm huyết như là lời thú tội:
Ngày nay, mọi người đều đồng ư rằng
việc cấm đạo dưới các nhà vua triều
Nguyễn là một hành động bất nhân và
sai lầm. Nhưng nếu chúng ta tự đặt
ḿnh vào địa vị các nhà vua ấy, vào
cái khung cảnh tâm lư thời đó, th́ có
lẽ chúng ta khó có thể làm khác hơn
[9].
“Khó có thể làm khác hơn” đó
chỉ là thái độ “t́m về dân tộc”
của những người Công giáo Việt Nam
kiểu Nguyễn Văn Trung, Lư Chánh Trung.
C̣n đối với anh em ông Diệm, đối với
nhóm Công giáo Cần Lao th́ lời than
trách của Lư Chánh Trung chỉ làm cho
anh thêm mang tội: cái tội “lạc
đạo”, cái tội “thân Cộng”,
cái tội “bênh vực hành động những
kẻ ngoại đạo”. May thay, Lư
Chánh Trung vô t́nh được nhà trí thức
Công giáo Etienne Vũ Đức Hạnh gián
tiếp trưng bày bằng cớ về cái tội thực
dân của các giáo sĩ ngoại quốc và cái
tội làm tay sai cho kẻ xâm lăng của
giáo dân Việt Nam dưới thế kỷ 19.
Trong tác phẩm La place du
Catholicisme dans les relations entre
la France et le Viet-Nam de 1851 à
1870, dựa vào những tài liệu của một
số tác giả Pháp và một số giáo sĩ
ngoại quốc, Etienne Vũ Đức Hạnh đă
viết như sau:
Sous Tự Đức, un grand nombre de
catholiques Vietnamiens sont
d’intelligence avec les Francais,
certes, mais cette collaboration est
plus materielle que formelle. Comment
expliquer cet état de fait sans
ajouter aux raisons précédentes les
circonstances politiques à la fois
troublées et troublantes de l’époque?
Les ambitions des Chúa Trịnh dans le
Đàng Ngoài, des Chúa Nguyễn dans le
Đàng Trong et celles momentanées des
frères Tây Sơn ne connaissent plus de
limites. Le peuple qui en souffre,
surtout celui du Bắc Kỳ a la nostalgie
des rois Lê dont it garde un souvenir
ineffaceable. Bien que Chúa Nguyễn
Phúc Ánh ait unifié l’Empire, la
dynastie des Nguyễn n’est pas aimée;
elle est à jamais considérée comme
l’engeance d’insurpateurs.* La
fidèlité des populations appelle la
résurrection des Lê et à la recherche
d’un rejeton royal. Ce qui explique le
succès du prétendant catholique Lê Duy
Phụng.
Au jour de Tự Đức, chrétiens et non
chrétiens à l’instigation des
missionnaires, résistent ici
sourdement, là ouvertement au roi
régnant mieux à la dynastie des Nguyễn
pour plusieurs motifs. Les Nguyễn ont
volé le trône des rois Lê. Leurs
descendants actuels ont manqué le
mandat du ciel pour avoir traité avec
les envahisseurs et cédé à l’ennemi
une portion du territoire national.
Une seule différence: les chrétiens
font cause commune avec les francais,
les non chrétiens, les
combattent”[10].
Tạm dịch:
Dưới triều Tự Đức, một số đông người
Thiên Chúa giáo Việt Nam quả đă làm
t́nh báo cho Pháp, nhưng sự cộng tác
ấy chỉ có tính cách thực tiễn hơn là
quy thức. Làm sao có thể giải thích
được t́nh trạng ấy nếu không thêm cho
những nguyên do ấy, những hoàn cảnh
chính trị rối rắm đáng phải lo âu?
Tham vọng của chúa Trịnh Đàng Ngoài,
chúa Nguyễn Đàng Trong và cả anh em
Tây Sơn đều vô giới hạn. T́nh trạng ấy
làm cho nhân dân đau khổ, nhất là nhân
dân Bắc Kỳ vẫn hoài vọng nhà Lê mà họ
đă có những kỷ niệm khó xóa mờ. Dù
chúa Nguyễn Phúc Ánh đă thống nhất
giang sơn, nhưng nhà Nguyễn không được
thương mến và măi măi bị coi là những
kẻ cướp quyền. Ḷng trung thành của
dân chúng đ̣i hỏi sự phục hồi nhà Lê
và t́m kiếm một hậu duệ. Lư do đó giải
thích cho sự thành công của Lê Duy
Phụng, kẻ tự nhận là người hậu duệ
Thiên Chúa giáo của nhà Lê.
Dưới triều đại Tự Đức, theo sự xúi dục
của các giáo sĩ ngoại quốc, người
Thiên Chúa giáo và người không Thiên
Chúa giáo kẻ th́ chiến đấu âm thầm, kẻ
th́ công khai để chống lại những nhà
vua đang tại vị hơn là chống lại nhà
Nguyễn v́ nhiều nguyên nhân. Nhà
Nguyễn đă cướp ngôi vua nhà Lê. Những
vua nối quyền hiện tại th́ không c̣n
thiên mệnh để kư kết với quân xâm lăng
và nhượng một phần lănh thổ cho kẻ
thù. Chỉ khác nhau là: người Thiên
Chúa giáo th́ hợp tác với Pháp trong
một mục tiêu chung, c̣n người không
Thiên Chúa giáo th́ chiến đấu chống
lại.
Gác một bên việc Etienne Vũ Đức Hạnh
cố t́nh xuyên tạc lịch sử dân tộc,
chúng ta thấy rơ ràng ông ta đă hân
hoan vinh danh hành động làm tay sai
cho thực dân của người Công giáo Việt
Nam dưới thế kỷ 19.
Với cái tội phản quốc đó của giáo sĩ
ngoại quốc và giáo dân Việt Nam th́
làm sao vua chúa nhà Nguyễn lại không
“cấm đạo, giết đạo”.
Nói cho rơ ra th́ từ ngày đạo Chúa du
nhập vào Việt Nam từ giữa thế kỷ 16
cho đến đời Tự Đức gần 300 năm trời,
vua chúa nước ta với truyền thống hiếu
ḥa và bản chất hiếu khách đă biết bao
phen mở rộng ṿng tay để cho giáo sĩ
và giáo dân tự do hành đạo. Khốn nỗi,
các cố đạo “cứ được đằng chân lại
lân đằng đầu” trong mưu đồ thôn
tính Việt Nam cho nên mới có t́nh
trạng cây muốn lặng mà gió chẳng
ngừng, các vua chúa nhà Nguyễn phải
cấm đạo, giết đạo, sĩ phu Việt Nam
phải phất cờ “B́nh Tây Sát Tả”.
Những hành động đó tuy tàn ác nhưng
lại là những biện pháp bắt buộc để cứu
nước cứu dân trong t́nh thế quê hương
lúc bấy giờ, một quê hương loạn ly
tang tóc do chính các giáo sĩ và giáo
dân gây ra mà nhà trí thức Công giáo
Etienne Vơ Đức Hạnh lại cố t́nh để cao
và bênh vực họ.
Vào cuối đời vua Tự Đức, đất nước từ
từ mất dần về tay người Pháp. Rồi đến
năm 1884, với hiệp ước kư kết giữa đại
diện Pháp là Patenôtre và đại diện
triều đ́nh An Nam là Nguyễn Văn Tường
và Phạm Trọng Duật, th́ nước Việt Nam
bị chia thành ba kỳ: Nam kỳ thuộc địa
có quy chế như một tỉnh hạt của Pháp
quốc do một Thống đốc Pháp cai trị,
Bắc kỳ Bảo hộ do một thống sứ Pháp cai
trị, và Trung kỳ Bảo hộ do một khâm sứ
Pháp đứng đầu. Đối với xứ Bảo hộ Trung
kỳ từ Thanh Hóa đến Phan Thiết, Pháp
vẫn giữ lại nền quân chủ có vua và
triều đ́nh với chút hư quyền, hư danh.
(V́ vậy, từ đây, kẻ viết xin gọi nhà
Nguyễn từ thời nước nhà bị đô hộ là
nhà Mạt Nguyễn).
Thời Mạt Nguyễn, trừ vua Đồng Khánh là
một ông vua hiền hậu nhưng chỉ ngồi
trên ngai vàng được có ba năm rồi
chết, c̣n những vị vua khác, có ông
th́ là vua cách mạng, có ông th́ thuộc
loại vua bù nh́n.
Về cách mạng th́ có:
Vua Hàm Nghi (1884) bỏ kinh thành ra
Tuyên Hóa (Quảng B́nh) lập chiến khu,
phất cao ngọn cờ Cần Vương chống Pháp.
Rồi v́ thân cô thế yếu, lại bị một tên
Mường (Trương Quang Ngọc) phản bội bắt
Ngài giao cho Pháp nên bị Pháp đem đày
ở Algérie.
Vua Thành Thái (1888-1920), lên ngôi
khi mới 10 tuổi, là vị vua thông minh
uyên bác, thấm nhuần tư tưởng cách
mạng Trung Hoa và Nhật Bản, muốn thực
hiện công cuộc cải cách quốc gia, đưa
dân tộc đến con đường tân tiến. Nhưng
tất cả việc làm của ông đều bị người
Pháp ngăn trở, Vua tức giận giả cách
điên rồ, ngấm ngầm xướng xuất đưa
thanh niên ra nước ngoài cầu học để
dùng vào đại cuộc sau này. Chính nhà
vua cũng âm mưu xuất ngoại nhưng sự
không thành nên năm 1907, khi Pháp ḍ
biết được vua liên lạc với Phong Trào
Đông Du để cầu viện Nhật Bản, bèn bắt*
ép vua thoái vị và đày qua đảo Réunion
ở Ấn Độ Dương.
Vua Duy Tân (trị v́ từ 1907-1916) là
con vua Thành Thái, c̣n nhỏ tuổi mà đă
nhiều phen bộc lộ nỗi căm thù thực dân
Pháp. Nhân một buổi bơi thuyền câu cá
ở cửa Tùng (Quảng Trị), nhà vua ra một
câu đối cho thượng thư Nguyễn Hữu Bài,
người của Pháp, để ḍ xem ḷng dạ ông
này như thế nào:
Ngồi trên nước khôn ngăn được nước,
Trót buông câu đă lỡ phải lần.
Đáp lại, thượng thư Nguyễn Hữu Bài
khuyên nhà vua nên nhắm mắt chịu thua
thời cuộc:
Ngẫm việc đời mà ngán cho đời,
Liều nhắm mắt tới đâu hay đó.
Vua Duy Tân liền phán: “Thầy th́
hay liều thôi chứ không bao giờ nghĩ
cách đương đầu với nghịch cảnh”.
Tất nhiên, làm sao ông Nguyễn Hữu Bài,
con đẻ của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại,
có thể đương đầu với thực dân Pháp
được.
Tuy nhiên, vua Duy Tân vốn ư chí bất
khuất nên quyết tâm đợi thời cơ để làm
cách mạng phục hồi nền độc lập cho đất
nước. Thế chiến thứ nhất xảy ra đă là
một cơ hội tốt đẹp, rồi lại gặp được
các đồng chí yêu nước như hai ông Trần
Cao Vân và Thái Phiên hết ḷng hỗ trợ,
nên Ngài bèn quyết định phất cờ khởi
nghĩa. Chẳng may quốc vận c̣n gặp lúc
truân chuyên, việc đại nghĩa của vua
Duy Tân thất bại, Ngài bị bắt và bị
đày qua đảo Réunion lúc mới 17 tuổi.
Trong thế chiến thứ Hai, hoàng tử Vĩnh
San (tức là vua Duy Tân) có một thời
gian mang cấp bậc Thiếu tá của Pháp.
Ngày 10 tháng 6 năm 1945, Ngài đă lên
tiếng trên đài phát thanh Brazzaville
thuộc Pháp, đại ư hô hào toàn dân Việt
Nam nên nghe theo tiếng gọi của tổ
quốc mà đứng lên xây dựng nước nhà,
nêu cao danh dự cho giống ṇi.
Ngày 26 tháng 12 năm 1945, Ngài bị
chết trong một tai nạn máy bay ở xứ
Bangui thuộc Trung Phi. Theo dư luận
hồi đó th́ cái chết thê thảm này có
nhiều chi tiết bí ẩn, có giả thiết cho
rằng chính thực dân gây nên để chặn
đường về nước của một nhà ái quốc được
toàn dân tín nhiệm [11].
Thế là nhà Mạt Nguyễn có ba vị vua yêu
nước và có tinh thần cách mạng bị Pháp
bắt đi đày ở Châu Phi. Sự kiện đó đă
phần nào trực tiếp đóng góp cho quyết
tâm đấu tranh chống Pháp của sĩ phu
trong nước và trở thành đề tài gây xúc
động cho nhiều văn nghệ sĩ yêu nước
lúc bấy giờ. Nhà Nho Phan Quốc Quang,
hiệu là Thượng Tân Thị, quê ở Thừa
Thiên, cảm xúc cảnh cha con vua Thành
Thái v́ nước v́ dân mà bị đọa đày, ông
bèn thác lời vợ vua làm ra mười bài
thơ nhan đề là Khuê Phụ Thán được
truyền tụng trong nhân gian mà vào
thời Pháp đô hộ, ai đọc lên cũng không
cầm được nước mắt. Bài thơ nói lên nỗi
ḷng cô đơn lẻ bóng của một người khuê
phụ nơi quê nhà ngày đêm mỏi ṃn đợi
chồng trông con:
Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự,
Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương.
Nỗi đau xót của một người đàn bà trước
thảm cảnh quê hương dâu bể, tử biệt
sinh ly, đă làm cho sông núi cỏ cây,
vốn là vật vô t́nh mà cũng phải “giọt
lệ đầy vơi, can trường khô héo”.
Sau những vùng vẫy tuyệt vọng của vua
Duy Tân, các vị vua c̣n lại của nhà
Mạt Nguyễn chỉ là những đóm lửa le lói
của một triều đại đang đến hồi suy
tàn, nhất là lúc đó chính quyền thực
dân đă đủ thời gian và lực lượng để
củng cố bộ máy bảo hộ của họ, cũng như
lúc đó quần chúng đă ư thức được nhiệm
vụ năng động đích thực của ḿnh để
đứng lên thay vua mà cứu nước.
Cho nên hai vị vua c̣n lại là Khải
Định và Bảo Đại chỉ hành xử như những
vị vua bù nh́n, hoặc cúi đầu tuân phục
lệnh người Pháp như vua Khải Định,
hoặc cô đơn buông xuôi theo số mệnh
như vua Bảo Đại mà thôi.
Thật vậy, vua Khải Định (trị v́ từ
1916–1925) bị sĩ phu lên án là Việt
gian, bù nh́n, khoán trắng việc nước
vào tay thực dân Pháp. Cụ Phan Chu
Trinh đă từng gọi vua Khải Định là “Dân
Tặc”, và năm 1922, khi vua Khải
Định sang Pháp dự cuộc triển lăm quốc
tế, cụ Phan đă gởi một lá thư trách
nhà vua bảy điều: Tôn bậy quân quyền,
Lạm hành thưởng phạt, Thích chuộng hư
văn, Xa xỉ quá mức, Phục sức lố lăng,
Chơi bời vô độ, và Hành động ám muội
trong việc bang giao với Pháp.
C̣n cụ Nghè Ngô Đức Kế, hiệu là Tập
Xuyên, chủ bút báo Hữu Thanh, năm 1924
th́ lại châm biếm bằng bài thơ lên án
Khải Định như sau: [12]*
HỎI GIA LONG
*********** Ai về địa phủ hỏi Gia
Long,
Khải Định thằng này phải cháu ông?
Một lễ tứ tuần vui lũ trẻ,
Trăm gia ba chục khổ nhà nông.
Mới rồi ngoài Bắc tai liền đến,
Năm ngoái sang Tây ỉa văi cùng.
Bảo hộ trau dồi nên tượng gỗ,
Vua thời c̣n đó, nước thời không.
Vua Bảo Đại (1925–1945), vị vua cuối
cùng của nhà Nguyễn, là con trai độc
nhất của vua Khải Định, nhưng đặc biệt
diện mạo cùng phong độ lại khác hẳn
vua cha. Ông có nét mặt chữ điền, đi
đứng nghiêm trang, ăn nói đàng hoàng,
dáng điệu đường bệ chững chạc. Rất
nhiều tài liệu cho thấy ông Bảo Đại
không phải là con ruột của vua Khải
Định, v́ vua Khải Định mang bịnh bất
lực không thể gần gũi đàn bà.
Vua Bảo Đại húy là Vĩnh Thụy, sinh năm
1913 (Quư Sửu) tại kinh thành Huế.
Ngày 28 tháng 4 năm 1922, ông được vua
cha tấn phong làm Đông Cung Hoàng Thái
Tử, nghĩa là tước vị của một thái tử
sẽ được quyền nối ngôi vua. Ngày 15
tháng 5 năm 1922, khi ông mới lên chín
tuổi, th́ được vua cha và chính phủ
Bảo Hộ cho đi Pháp du học. Trong thời
gian ở Pháp, ông được vua Khải Định
gởi gấm cho ông Charles (một vị cựu
khâm sứ Trung kỳ) để giám hộ như một
người cha nuôi săn sóc trông coi. Năm
1925, khi vua Khải Định băng hà, Bảo
Đại về nước để chịu tang và để làm lễ
đăng quang lên ngôi Hoàng Đế. Sau đó,
ông trở lại Pháp để tiếp tục việc học
cho đến năm 1932 th́ về nước vĩnh
viễn, và chính thức tức vị để điều
khiển triều đ́nh An Nam.
Nhân dân ta từ ngày bị Pháp đô hộ vẫn
liên tục kiên cường chiến đấu chống
lại kẻ thù xâm lăng. Ngay cả dưới
triều Khải Định mà việc nước hầu như
đă khoán trắng cho thực dân Pháp và
cho Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp qua
ông Vơ Hiển Nguyễn Hữu Bài (nhất là
trong khoảng thời gian 1925–1932, từ
khi vua Khải Định băng hà cho đến ngày
ông Bảo Đại về nước chấp chánh), lửa
cách mạng vẫn hừng hực cháy trong ḷng
dân tộc Việt. Ngọn lửa đó đă được đốt
bừng lên và được nuôi dưỡng mạnh nhờ
ảnh hưởng của bản án tử h́nh chí sĩ
Phan Bội Châu. Lửa cách mạng mănh liệt
đến nỗi trước cao trào đấu tranh của
toàn dân phản kháng bản án này, thực
dân đành phải hủy bản án và đem Cụ về
quản thúc tại kinh thành Huế (1925).
Trong khoảng thời gian đó, những phong
trào cách mạng và những biến động quan
trọng đă liên tiếp xảy ra: đảng Tân
Việt Cách Mạng gồm đa số là những trí
thức trẻ ra đời tại Huế, phong trào Sô
Viết nổi lên ở Nghệ Tĩnh và cuộc nổi
loạn đẫm máu của Việt Nam Quốc Dân
Đảng ở Bắc Việt do anh hùng Nguyễn
Thái Học cầm đầu. Lại c̣n ảnh hưởng
của phong trào Cường Để tại hải ngoại,
của Phong Trào Đông Kinh Nghĩa Thục,
của cuộc tranh đấu đ̣i dân quyền của
chí sĩ Phan Chu Trinh… tất cả đă là
những hỏa sơn ầm ĩ cháy trong ḷng dân
tộc. V́ vậy, trước ư chí đối kháng của
nhân dân để bày tỏ sự bất măn đối với
chế độ bảo hộ và nhất là đối với triều
đ́nh mục nát già nua, người Pháp bèn
lợi dụng việc vua trẻ Bảo Đại hồi loan
để trẻ trung hóa triều đ́nh, và hứa sẽ
để cho nhà vua thực hiện một số cải
cách mong xoa dịu ḷng dân, mà việc
đầu tiên là sa thải lớp quan lại già
cả về hưu trí để thay thế bằng một lớp
người trẻ trung hơn.
Những quan lại lớn tuổi này chẳng
những là lớp người lạc hậu không hợp
thời để theo kịp với dân trí mỗi ngày
một tiến bộ, mà đa số những vị quan
này là những nịnh thần tham nhũng, làm
tay sai cho Pháp. Bài thơ của Cụ Nghè
Ngô Đức Kế dưới đây đủ nói lên cái tư
cách của lớp quan lại áo măo xênh xang
mà thật ra chỉ là những con bung xung
làm gai mắt mọi người:
Cu li đành phận chớ ra oai,
*********** Chuyên chế ăn quen thói cũ
hoài.
*********** Quân chủ cờ bay vui trước
mắt,
*********** Dân quyền trống đánh chán
bên tai.
*********** Bài, Liêm giảo hiểm khoe
tài trí
*********** Huề, Thụ thông minh gọi
bất tài.
*********** Cấm hết công môn tiền hối
lộ,
*********** Ngoài ra Tiềm Để mặc ḷng
ai. [13]
(Bài, Liêm, Huề, Thụ là tên bốn vị
Thượng thư mà Bài tức là ông Nguyễn
Hữu Bài người đỡ đầu cho ông Diệm, và
Huề tức là ông Thân Trọng Huề, ông
ngoại của bà Ngô Đ́nh Nhu).
Trong lớp quan lại già nua đó, người
nổi tiếng nhất là ông Nguyễn Hữu Bài.
Nổi tiếng v́ ông đă là tay sai đắc lực
nhất của hai thế lực Thực Dân lúc bấy
giờ. Một là hệ thống cai trị của Pháp,
và một là hội Truyền giáo Hải ngoại
Pháp. Ông cũng nổi tiếng v́ với tư
cách đó, ông lại là vị tể tướng cầm
đầu triều chính trong thời gian vua
Bảo Đại du học tại Pháp, quả thật ông
Nguyễn Hữu Bài là một thứ vua không
ngai. Thời bấy giờ, số phận quan lại
từ trên xuống dưới đều nằm trong tay
ông, đời sống nhân dân cũng nằm trong
tay ông qua những chính sách ông đề
nghị với chính phủ Bảo Hộ.
Theo giáo sư Nguyễn Văn Xuân th́ ông
Nguyễn Hữu Bài có đến 5 đồn điền chung
quanh Huế, có đồn điền rộng đến cả
1.000 mẫu ruộng. Phê b́nh ông Nguyễn
Hữu Bài, vị giáo sư đại học Huế đă
viết:
Đối với chúng ta, ngày nay có thể công
kích Nguyễn Hữu Bài, ông gia của Ngô
Đ́nh Khôi và ông gia hụt của Ngô Đ́nh
Diệm, cho rằng chỉ là một thứ “bồi
Tây” dù ông được liệt vào hạng
“Đày vua không Khả, đào mả không
Bài”, và những nhàn điền (đồn
điền) của ông chỉ theo phương thức bóc
lột tư bản Tây phương tàn nhẫn và
trong sự thật cũng đáng gọi là tên chủ
đồn điền quỷ quyệt [14].
Ngoài ra trong tác phẩm “Hoàng Tử
Vĩnh Sang” của sử gia Vũ Ngự
Chiêu (tr. 113–114) có trích đăng một
lá thư của vua Thành Thái từ Saint
Denis gởi về cho vợ, tố cáo Thượng Thư
Nguyễn Hữu Bài – trong cuộc nổi dậy
của vua Duy Tân – đă lập kế xúi dục
vua Duy Tân bỏ Đại nội ra ngoài Hoàng
thành để Tây bắt.
Với một thành tích tay sai đắc lực của
hai thứ thực dân như thế, và với sự
tích lũy tài sản lớn lao như thế mà
lại tự xưng là người có ḷng yêu nước
yêu vua, dám “đày vua không Khả,
đào mả không Bài” th́ quả thật
là một sự lạ đối với người có hiểu
biết về tâm lư t́nh báo và lư luận
chính trị. C̣n ông Ngô Đ́nh Khả th́
lại là người đă theo đại Việt gian
Nguyễn Thân cầm quân đánh phá chiến
khu Phan Đ́nh Phùng, đào mả Cụ lên rồi
lấy thuốc súng trộn với thi hài Cụ bắn
đi cho mất tích (tài liệu của tạp chí
Lên Đường số ra mắt, Houston, trong
phần phụ lục E). Ngoài ra, qua bức thư
gởi cho Toàn quyền Decoux, giám mục
Ngô Đ́nh Thục (xem phần phụ lục) xác
nhận Cụ Ngô Đ́nh Khả và hai con Ngô
Đ́nh Khôi, Ngô Đ́nh Diệm đều là tay
sai đắc lực của thực dân Pháp.
C̣n trường hợp ông Nguyễn Hữu Bài
không kư giấy đào mả vua cần được phân
tách kỹ càng hơn. Theo tác phẩm “Hồ
sơ Vua Duy Tân” mà cụ Hoàng
Trọng Thược, một nhân sĩ người Huế và
cũng là một nhà viết sử, th́ Nguyễn
Hữu Bài là người mà vua Duy Tân không
ưa mấy, nhất là lúc ông Nguyễn Hữu Bài
cho đào đất t́m vàng trong Đại nội.
Vua hỏi:
- Đại nội nầy thuộc về ai rứa thầy?
- Tâu: của Vua.
- Vậy tôi có bảo đào đâu?
- Tâu: v́ kho ta thiếu tiền và người
Pháp đang đánh nhau với Đức.
- Nước Pháp bị xâm lăng chứ nước ta
không bị xâm lăng đó sao?
Nguyễn Hữu Bài vâng đầu bái phục. Song
v́ t́nh thế, Ấu Chúa cũng không làm
sao ngăn được việc làm của người Pháp.
Đất cấm địa nơi vua đang ở và vua c̣n
sống, mà ông Nguyễn Hữu Bài dám cho
đào lên để t́m vàng dâng cho Tây, th́
câu “Đày vua không Khả, đào mả
không Bài” có c̣n ư nghĩa là
câu truyền tụng để “vinh danh”
cho ông Nguyễn Hữu Bài nữa hay không?!
Để những nhà Sử học có thêm tài liệu
nghiên cứu về tội làm tay sai cho thực
dân Pháp và cho Hội Truyền Giáo Hải
Ngoại Pháp của ông Nguyễn Hữu Bài và
cha con ông Ngô Đ́nh Khả, tôi xin đề
nghị quư vị đọc thêm các tác phẩm khác
như “Hồ Chí Minh Con Người và
Huyền Thoại” của Chính Đạo, như
“Hoàng Tử Vĩnh Sang” của Vũ Ngự
Chiêu, như “Việt Nam Niên Biểu Nhân
Vật Chí” của Chính Đạo do nhà
xuất bản Văn Hóa (Houston, Texas, Hoa
Kỳ) phát hành.
Trong kế hoạch trẻ trung hóa triều
đ́nh này, vua Bảo Đại đă đồng ư trọng
dụng hai nhân vật nổi tiếng là hai ông
Ngô Đ́nh Diệm và Phạm Quỳnh. Ông Ngô
Đ́nh Diệm là một vị Tuần Vũ 32 tuổi
của một tỉnh nhỏ (B́nh Thuận), được Vơ
Hiển Nguyễn Hữu Bài tiến cử giữ chức
Thượng thư Bộ Lại đầu triều. Và ông
Phạm Quỳnh là một học giả chủ nhiệm
báo Nam Phong, nhưng đồng thời cũng là
bạn thân của Marty (Giám đốc sở Chính
trị của Phủ Toàn quyền), được cử giữ
chức Thượng thư Bộ Giáo dục kiêm Ngự
tiền văn pḥng của Hoàng Đế. Khi chấp
nhận hai vị Thượng thư này, rơ ràng
trong sự chọn lựa chính trị của vua
Bảo Đại, yếu tố “trẻ” không
phải là yếu tố quyết định nhất mà
chính v́ với một Ngô Đ́nh Diệm trung
quân, rường mối nhà Nguyễn sẽ vững
vàng không lo hậu họa, và với một Phạm
Quỳnh thân Pháp, tương quan Pháp Việt
sẽ dễ dàng hơn để có thể thực hiện
những cải tổ cần thiết. Hai vị đại
thần đó sẽ bổ túc cho nhau để giúp cho
vua Bảo Đại vận hành triều đ́nh An Nam
để có thể thực hiện những cải cách xă
hội mà người Pháp đă hứa hẹn với ông.
Nhưng bao nhiêu lời hứa hẹn của thực
dân đều như nước chảy qua cầu, dân bị
trị vẫn là dân bị trị, vua bù nh́n vẫn
là vua bù nh́n. Vua Bảo Đại bất lực bó
tay để đi từ bất măn đến chán nản,
Thượng thư Ngô Đ́nh Diệm xin từ quan,
việc triều chính nằm trong tay ông
Phạm Quỳnh và người Pháp. Do đó, trong
thời gian làm vua, ông Bảo Đại chỉ c̣n
biết săn bắn và thể thao, thường sống
ở đồn điền Quảng Trị, ở Bạch Mă, Đà
Lạt hơn là giam ḿnh trong bốn bức
tường thành nội cung với cỏ mọc rêu
phong. Từ khi chấp chánh cho đến ngày
9 tháng 3 năm 1945 (ngày Nhật Bản đảo
chánh), ông cố giảm thiểu càng ít càng
tốt mối ràng buộc với Pháp trong những
chính sách thất nhân tâm. Công việc
của ông chỉ là công việc tế lễ, như lễ
ở Nam Giao, cúng kỵ các tiên vương,
ban phát sắc bằng huy chương cho hàng
quan lại, c̣n mọi việc cai trị ông giữ
thế mắt đui tai điếc. Thần dân chỉ
biết ông Bảo Đại là một vị vua bù nh́n
mà có ai hiểu nỗi tâm sự thầm kín của
ông đâu.
Ông Bảo Đại làm vua bù nh́n nhưng nếu
những ai đă từng sống đồng thời với
ông, chịu khó quan sát cảnh ngộ của
ông ta đều phải nhận rằng nếu ta ở vào
địa vị của ông th́ cũng khó thể làm ǵ
được khác hơn. Vua Bảo Đại hoàn toàn
bị bao vây kềm kẹp, nhất cử nhất động
của ông ta đều bị thực dân theo dơi
kiểm soát gắt gao. Họ đặt quan hầu
người Pháp bên cạnh, họ lập cho ông
một đội lính khố vàng (Ngự Lâm Quân)
do viên Đại úy Bond trực tiếp chỉ huy,
đóng ngay trong Hoàng thành để canh
chừng những hành động chống đối của
nhà vua. Họ đặt các vị Thượng thư toàn
là tay chân thân tín của họ để ngăn
cản vua mưu đồ thực hiện những cuộc
cải cách, hay những âm mưu nổi loạn
như các vua tiền triều. Thế mà người
Pháp vẫn chưa vừa ḷng, họ c̣n đặt
những viên cố vấn người Pháp gọi là
Hội lư bên cạnh các vị Thượng thư để
kiểm soát các vị này, và để triều đ́nh
An Nam thi hành cho đúng những chỉ thị
do Toàn Quyền và Khâm Sứ ban bố.
Vừa không đủ khả năng và điều kiện
nhân tâm cũng như điều kiện hoạt động
để phát khởi một cuộc đấu tranh, vừa
phải khôn khéo hóa giải những áp lực
chính trị có thể làm sụp đổ vĩnh viễn
triều đại nhà Nguyễn, vua Bảo Đại chỉ
c̣n hai chọn lựa: hoặc làm một vị vua
tay sai mang tội với lịch sử, hoặc làm
một vị vua bù nh́n bất lực cho hậu thế
chê cười. Và ông đă chọn lựa. Hậu thế
chỉ có thể chê cười mà không thể kết
ông tội bán nước hay tay sai.
Hăy nh́n vào cuộc hôn nhân của ông Bảo
Đại để thấy chính sách cai trị thâm
độc và chặt chẽ của thực dân, để nh́n
thấy những kế hoạch đường dài và những
toan liệu kỹ lưỡng của sự cấu kết giữa
chính quyền thực dân Pháp và Hội
Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp.
Trong những năm cuối cùng của Bảo Đại
ở Pháp vào lúc đă ở tuổi trưởng thành,
họ cho một nữ sinh tên là Marie
Thérèse Nguyễn Thị Lan, con một nhà
phú hộ theo Công giáo là ông Nguyễn
Hữu Hào ở Nam Kỳ, đi Pháp du học. Tất
nhiên cô Marie Thérèse phải là một
tiểu thư dù không hoàn toàn sắc nước
hương trời th́ vẫn có được cái đẹp
kiều diễm đài các để có thể làm rung
động trái tim của một nhà vua trẻ đang
đến tuổi rạo rực t́nh yêu đôi lứa.
Trong thời kỳ ông Bảo Đại c̣n bận học
hành, họ chưa cho đôi trai tài gái sắc
gặp nhau, mà đợi đến khi ông xuống tàu
về nước chính thức cầm đầu triều đ́nh,
đến khi ông thấy ḿnh đă trưởng thành
và có trách nhiệm với quốc dân th́ họ
mới tổ chức cho Marie Thérèse Nguyễn
Thị Lan gặp ông Bảo Đại. Ban đầu họ
cho cô Lan lân la gần ông mỗi khi ông
đứng một ḿnh trên boong tàu nh́n ngắm
sóng nước trùng dương. Cho đến khi hai
người đă vượt khỏi giai đoạn khách sáo
sơ giao th́ họ bắt đầu tổ chức cho đôi
uyên ương khắng khít nhau hơn trong
những buổi dạ hội trên chuyến tàu
xuyên đại dương bất tận.
Chỉ tội nghiệp cho bà Từ Cung Thái
Hậu, v́ trong lúc con ḿnh ở nơi đất
khách quê người th́ bà đă lo nghĩ đến
tương lai của ḍng họ, đă nghĩ đến
việc t́m bạn trăm năm cho con. Tại
Huế, Bà đă cho ḍ xét thân thế, phẩm
hạnh, sắc đẹp của bao nhiêu tiểu thư
khuê các, con những vị đại thần để Bà
có thể lựa chọn một nàng dâu cho Hoàng
tộc, một Hoàng Hậu tương lai cho nước
An Nam. Bà đă chọn được một nữ sinh
con một vị đại quan có sắc đẹp nghiêng
nước nghiêng thành mà bà mẹ của tiểu
thư đó cũng sùng mộ đạo Phật như Bà.
(Tiểu thư này sau lấy chồng họ Phạm,
giáo sư trường Quốc học Huế). Bà chỉ
đợi con ḿnh ngự giá hồi loan chính
thức điều khiển việc nước là làm lễ
thành hôn cho đôi lứa. Cuộc đời của Bà
xuất thân từ nơi dân giả, phúc đức cha
ông đẩy đưa Bà được tiến cung làm
Hoàng Hậu nên Bà cố học hỏi cho thành
người đài các chốn vi cung, cố trau
dồi đức hạnh cho thành người vợ hiền
dâu thảo. Nhưng chẳng may chồng mất
sớm, Bà lại chỉ có một mụn con trai
nên Bà thiết tha mong cho con trưởng
thành để nối nghiệp vua cha và nối dơi
tông đường. V́ thế, đối với Bà, việc
t́m kiếm một nàng dâu đức hạnh mọi bề
là điều quan trọng thiết yếu nhất.
Quan trọng v́ không phải chỉ thương
con mà c̣n v́ danh dự triều đại nhà
Nguyễn nữa.
Bà không ngờ rằng trong lúc Bà đang
sống những giây phút rộn ràng của bất
kỳ một người mẹ nào đang lo chuyện
trăm năm cho con th́ người Pháp, ở
trong những văn pḥng của các thế lực
giáo quyền và thế quyền, cũng âm thầm
thực hiện âm mưu vượt quyền hạn và
giết giấc mơ của Bà để cưới vợ cho vua
Bảo Đại dựa vào những tiêu chuẩn chính
trị của chính sách bảo hộ lâu dài.
Vua Bảo Đại về nước được một thời
gian, việc triều chính tạm yên th́ vợ
chồng ông Charles, người giám hộ, bắt
đầu lo chuyện thành hôn cho ông. Vào
khoảng cuối năm 1933, ông bà Charles
rủ vua Bảo Đại đi Đà Lạt, tại khách
sạn Lang Biang huy hoàng tráng lệ, bà
Charles dẫn tiểu thư Marie Thérèse
chính thức giới thiệu với nhà vua trẻ
tuổi trước sự chứng kiến của quan Toàn
quyền Pierre Pasquier. Tất nhiên khi
đă có phù phép của chúa tể thực dân
tại Đông Dương th́ cuộc hôn nhân chính
trị giữa vua Bảo Đại và cô Nguyễn Thị
Lan nhất định phải thành. Nó phải
thành trên nỗi đau khổ cay đắng của Bà
Từ Cung, của những vị đại thần trong
Tôn Nhân Phủ và của cả Hoàng gia. Đó
là lần đầu tiên trong lịch sử nước
nhà, triều đ́nh Việt Nam có một vị
Hoàng Hậu theo Công giáo La Mă qua sự
sắp đặt của các thế lực phương Tây.
Sau 400 năm, công tác truyền giáo đạt
đến cao điểm bằng sự có mặt của một nữ
tín đồ trong chốn thâm cung của triều
đ́nh Việt Nam. Và cô Marie Thérèse từ
nay được mang danh hiệu là Nam Phương
Hoàng Hậu.
Lịch sử đế quốc thực dân Pháp đă cho
thấy rằng Hội Truyền Giáo Hải Ngoại
Pháp luôn luôn chủ trương Công giáo
hóa Việt Nam, không chỉ là đối với
người Việt Nam thuộc hàng dân dă mà
chủ yếu là hạng người Việt Nam thuộc
đẳng cấp cao nhất của triều đ́nh. Thời
Nguyễn Ánh, Pigneau de Béhaine đă
khuyến dụ được Hoàng Tử Cảnh, nay đến
thời vua Bảo Đại họ đặt một hoàng hậu
người Công giáo th́ tất nhiên trong
tương lai vị vua kế vị ông Bảo Đại
cũng sẽ là một ông vua đă được rửa tội
từ lúc mới sinh ra để tô bồi cho “la
fille ainée de l’Eglise en Extrême
Orient” (Trưởng nử cuả Giáo hội
tại Viễn đông)
Chẳng thế mà vị đại diện ṭa Thánh ở
Đông Dương, Đức Khâm Mạng Drapier, đă
tôn vinh cuộc hôn nhân Bảo Đại -
Nguyễn Thị Lan trong cuốn Lịch sử đạo
Thiên Chúa ở Việt Nam. Trong bài đề
tựa cuốn sách, sau khi ca ngợi sự bành
trướng của đạo Công giáo La Mă trên
mảnh đất thuộc địa màu mỡ, Đức Khâm
Mạng Drapier huênh hoang viết:
“… Việc kể ra cũng đi theo một thứ tự
với lịch sử thế tục v́ đời sống của
Công giáo đă lẫn với đời sống xă hội
Việt Nam từ bốn trăm năm nay. Trong
khoảng thời gian ấy, có hai việc cách
nhau hàng trăm năm đă tỏ rằng Công
giáo bao giờ cũng “trung thành với
đế quốc Việt Nam”(sic). Việc
đức giám mục D’Adran giúp nhà Nguyễn
và việc đức Bảo Đại phong (?) lên ngôi
Hoàng Hậu một thiếu nữ ḍng dơi vọng
môn Công giáo hồi đầu chiến tranh*
[15].
Tuy nhiên đây là một cuộc hôn nhân dị
giáo trái với giáo luật thời bấy giờ
nhưng tại sao Bảo Đại vẫn cưới được
Nguyễn Thị Lan. Th́ ra thực dân đă có
kế hoạch sẵn. Theo cuốn “Việt Nam
Niên Biểu Nhân Vật Chí” của
Chính Đạo (tr. 36, 37) th́:
Năm 1934: Lấy Nguyễn Hữu Thị Lan, con
gái một đại điền chủ miền Nam. V́ Thị
Lan có đạo Kitô, gây nhiều trở ngại.
Ngô Đ́nh Thục cực lực chống đối v́
theo đúng phéo đạo Kitô, Bảo Đại phải
“rửa tội” rồi mới được thành
hôn. Sau đó, Pháp dàn xếp cho một giáo
sĩ ngoại quốc bí mật làm lễ cưới theo
phép đạo. Như thế Bảo Đại trở thành
vua Kitô đầu tiên trong lịch sử Việt
Nam.
Cũng trong cuốn sách này, Đức Khâm
Mạng lại trách móc những phản kháng
của người Việt Nam mà đại diện là giới
sĩ phu nho sĩ: “Núp ḿnh sau bức
thành chữ Nho, các nhà cựu học không
thể nhận được Tin Lành Cứu Thế. Các
nhà tân học chịu ảnh hưởng một nền
giáo hóa thế tục cố t́nh không muốn
biết đến đạo lư Gia Tô”.[16]
Lúc nêu lên hai sự kiện lịch sử của
thời Gia Long và thời Bảo Đại, cũng
như lúc chê bai giới sĩ phu VN, Đức
Khâm Mạng Drapier muốn chứng tỏ một
cách công khai rằng quá tŕnh phát
triển của Công giáo tại Việt Nam luôn
luôn gắn liền với giai cấp triều đ́nh
quư tộc ở mức độ cao nhất, và có cả
“Thế” lẫn “Lực” mạnh nhất trên đất
nước Việt Nam này mà thể hiện rơ ràng
nhất (của sự liên tục này) là Thượng
thư đầu triều Nguyễn Hữu Bài khi từ
chức đă đề cử (và đă được chấp thuận)
một vị khác thế ḿnh, ông Ngô Đ́nh
Diệm, mà cả hai người, cũ cũng như
mới, đều có những liên hệ chặt chẽ
trên cả hai mặt đức tin lẫn sự tuân
phục với Hội Truyền Giáo Hải Ngoại.
Nói cho đúng, từ khi gặp cô Marie
Thérèse trên chuyến tàu hồi hương cho
đến tận khi lập thành Hoàng Hậu, ông
Bảo Đại không cảm thấy bị ép buộc và
t́nh yêu đôi lứa hẳn phải có sự đồng
thuận của cả hai bên. Tuy nhiên, điểm
đáng nhấn mạnh ở đây là t́nh yêu đó
được tác thành trong một thủ đoạn
chính trị vượt hẳn sự sáng suốt của
một người thanh niên đang ngụp lặn
trong t́nh yêu, như Lư Bạch ngày xưa
ngây ngất nhảy xuống nước ôm trăng mà
không biết ḿnh sẽ vùi thân dưới ḍng
sông lạnh.
Trường hợp hôn nhân của vua Bảo Đại và
cô Marie Thérèse chỉ là một trong rất
nhiều h́nh thái kiểm soát, vận dụng,
khai thác một vị vua của các thế lực
thế quyền và giáo quyền Pháp. Tôi muốn
nêu lên trường hợp đó là để chứng minh
rằng ông Bảo Đại dù có muốn cũng không
thể làm ǵ hơn được, dù có lúc ông đă
muốn có những cải cách, những vận động
để cứu triều đại nhà Nguyễn và cứu
chính nước Việt Nam của ông. Trôi nổi
trong một hoàn cảnh như thế, sự bất
lực chính trị đă biến sự bất măn thành
ra một sự chán nản tâm lư và sinh lư.
Ông chỉ c̣n biết mượn những thú thể
thao để khuây khỏa cho phù hợp với
thói quen phóng khoáng của cuộc sống
Paris mà ông đă bị điều kiện hóa từ
ngày ông du học ở Pháp.
Năm 1945, sau khi được tiếp xúc nhiều
lần với vua Bảo Đại, học giả Trần
Trọng Kim đă có nhận xét: “Vua Bảo
Đại thông minh, am hiểu t́nh h́nh.
Trong thời Bảo hộ của nước Pháp,
h́nh như Ngài chán nản không làm ǵ
cả, chỉ săn bắn và tập thể thao.
Ngài có vẻ trang nghiêm và nói những
điều rất đứng đắn”[17]. Học giả
Trần Trọng Kim quả thật đă mô tả đúng
tâm sự của một con người bất đắc dĩ
phải làm vua bù nh́n, làm một vị vua
không nổi loạn được v́ bị kềm kẹp,
không làm tay sai được v́ ḷng yêu
nước nồng nàn, và nhất là không tự xử
thân mạng được v́ trách nhiệm duy tŕ
ḍng dơi nhà Nguyễn.
Khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9 tháng 3
năm 1945, ông Bảo Đại đă biết lợi dụng
vận hội mới đó để khước từ dĩ văng đau
thương, ông đă tuyên bố Độc Lập cho
Việt Nam, xé bỏ mọi hiệp ước liên hệ
với nước Pháp, chấm dứt nền đô hộ gần
trọn thế kỷ. Có lẽ sẽ có người cho
rằng súng đạn và sức mạnh của quân đội
Nhật Bản đă giúp cho ông Bảo Đại có
ḷng yêu nước. Nói thế quả thật tội
nghiệp cho ông ta bởi v́ ngày 16 tháng
8 năm 1945, khi Nhật Bản sửa soạn đầu
hàng Đồng Minh và nước Pháp của De
Gaulle đang sửa soạn đổ bộ để tái
chiếm Việt Nam, ông vẫn có can đảm và
sáng suốt gởi thông điệp cho Tổng
thống Truman để nhờ Tổng thống Mỹ gởi
lời phản kháng đến Tổng thống De
Gaulle:
Hoàng Đế Bảo Đại
Gởi Tổng Thống Truman
Được tin Chủ tịch Chính phủ Lâm thời
Pháp sẽ yết kiến Các hạ để giải quyết
t́nh thế tương lai của Đông Dương, Quả
nhân xin tin Các hạ biết rằng các nước
Đông Dương đă tuyên bố độc lập và quả
quyết giữ vững nền độc lập ấy.
Riêng về phần dân tộc Việt Nam, chúng
tôi không coi kiều dân Pháp là kẻ thù,
lại trọng nhân mạng và tài sản của họ,
nhưng chúng tôi sẽ cực lực phản kháng
việc nước Pháp lập lại nền thống trị
của họ trên đất nước Việt Nam bất cứ
theo một chế độ nào.
Chính sách thực dân nay không hợp thời
nữa! Một dân tộc Việt Nam đă có bốn
ngàn năm lịch sử và một dĩ văng vẻ
vang không thể chịu ở dưới quyền một
dân tộc khác.
Nước Pháp nên cúi đầu theo lẽ công
bằng ấy, mà Mỹ quốc là một nước hào
hiệp đă từng công khai tuyên bố và bảo
vệ điều đó.
Nước Pháp phải vui ḷng thừa nhận chân
lư đó để tránh khỏi tai vạ và để cho
chiến tranh đừng xảy ra trên đất nước
chúng tôi. Trong cuộc chiến tranh vừa
kết liễu, dân tộc chúng tôi tuy không
tham chiến mà cũng đă chịu bao nhiêu
nỗi khổ, nên chúng tôi chỉ mong tham
dự vào một cuộc kiến thiết mới: kiến
thiết một nền ḥa b́nh với công lư
trên toàn thế giới.
Quả nhân nhờ Các hạ chuyển đạt thư này
sang quư chính phủ của hai nước Anh
Quốc và Trung Hoa.
Bảo Đại
Đồng thời với bức thông điệp gởi cho
Tổng Thống Truman, vua Bảo Đại cũng đă
gởi cho tướng De Gaulle một bức thư
với lời lẽ hết sức nhă nhặn mà cũng vô
cùng cứng rắn. Ông báo cho tướng De
Gaulle biết là nếu nước Pháp vẫn quyết
tái lập nền thuộc địa trên đất nước
Việt Nam th́ “… dân tộc Việt Nam
không muốn và cũng không thể chịu
đựng một cuộc đô hộ nào nữa, mỗi
làng sẽ là một ổ kháng chiến, mỗi
người cộng sự cũ của Pháp sẽ là một
kẻ thù…” [18]
Những lời tuyên bố nồng nàn t́nh yêu
nước và sự bày tỏ thái độ quyết liệt
đối với Pháp khi quân đội Pháp sắp sửa
tái xâm chiếm Việt Nam, đă nói lên
quyết tâm của vua Bảo Đại nhất định
khước từ quá khứ, dù quá khứ ấy đă
được đan bằng những sợi dây liên hệ
giữa ông và nước Pháp.
Nhưng chẳng may cho vận nước c̣n phải
chịu cảnh ngửa nghiêng nên toàn dân
lại hướng về cuộc kháng chiến của Việt
Minh, và thêm vào đó ông Bảo Đại lại
không tham quyền cố vị, không luyến
tiếc điện ngọc ngai vàng, vui vẻ từ bỏ
ngôi báu để tránh cho quốc dân một
cuộc huynh đệ tương tàn. Ông đă tuyên
bố:
Hạnh phúc của dân Việt Nam,
Độc lập của nước Việt Nam,
Muốn đạt được mục đích ấy, Trẫm đă
tuyên bố hy sinh tất cả mọi phương
diện và cũng v́ phương diện ấy, Trẫm
muốn sự hy sinh của Trẫm phải bổ ích
cho tổ quốc.
… trong giờ phút nghiêm trọng này,
đoàn kết là sống, chia rẽ là chết.
… cho nên mặc dầu Trẫm hết sức bùi
ngùi cho nỗi làm vua 20 năm, mới gần
gũi dân được mấy tháng, chưa làm được
ích lợi ǵ cho quốc dân như ḷng Trẫm
mong muốn, Trẫm cũng quả quyết thoái
vị để nhường quyền điều khiển quốc gia
cho một chính phủ dân chủ cộng ḥa.
… c̣n về phần Trẫm, sau 20 năm ngai
vàng bệ ngọc đă biết bao ngậm đắng
nuốt cay, từ nay Trẫm lấy làm vui được
làm dân Tự Do của một nước Độc Lập,
chứ Trẫm nhất quyết không để ai lợi
dụng danh nghĩa của Trẫm hay của Hoàng
gia mà lung lạc quốc dân nữa…
(trích một đoạn trong chiếu thoái vị
của vua Bảo Đại nhân dịp trao bảo
kiếm, ngọc tỷ cho ông Trần Huy Liệu,
đại diện Việt Minh tại lầu Ngọ Môn
ngày 25 tháng 9 năm 1945)
Chính tấm ḷng hy sinh cao cả của vua
Bảo Đại, hy sinh quyền uy tối thượng,
hy sinh bệ ngọc ngai vàng, hy sinh cả
sự nghiệp mấy trăm năm trời của vua
chúa nhà Nguyễn mà lúc bấy giờ vào
thời điểm quân Pháp đang lăm le tái
chiếm Việt Nam, quốc dân đă quên hết
cái dĩ văng 20 năm trời làm vua bù
nh́n của vua Bảo Đại để chỉ thấy nơi
ông một công dân Vĩnh Thụy đầy ḷng
yêu nước.
Năm 1946, khi Cựu Hoàng đang thong
dong với đời sống tự do của một công
dân th́ ông Hồ Chí Minh, v́ gặp nhiều
khó khăn chống đối, nên muốn nhường
quyền lại cho ông để ông hứng chịu
những hậu quả đen tối của t́nh thế.
Tuy nhiên ông Bảo Đại đă không tham
quyền tham danh để bị mắc mưu. Ông kể
chuyện này cho ông Phạm Văn Bính nghe
khi ông Bính đến gặp ông ở một biệt
thự tại đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội.
(Lúc bấy giờ, ông Bính đang là cộng sự
viên của ông Nguyễn Tường Tam và đang
hoạt động cho phong trào Ngũ Xă, một
phong trào chống Cộng do bác sĩ Phan
Quang Đán cầm đầu).
*********** Cựu Hoàng mỉm cười bảo
tôi:
Tôi đă nhă nhặn nhưng cương quyết từ
chối. Cụ Hồ khôn ngoan quá mức. Một là
Cụ thử ḷng tôi c̣n ham chính quyền
không, hai là Cụ muốn trút lên đầu tôi
những sự khó khăn hiện tại.
Cụ thấy sinh viên, thanh niên và dân
chúng biểu t́nh đ̣i Việt Minh trả lại
chính quyền cho tôi. Cụ làm như Cụ dân
chủ tột bực. Cụ biết nội các nào cũng
không qua nổi mặt Việt Minh, và một
khi nội các Vĩnh Thụy không làm được
ǵ cho quốc dân đồng bào, th́ sinh
viên, thanh niên đang ủng hộ tôi sẽ
chán nản và không c̣n tín nhiệm tôi
nữa.
Tôi đă thoái vị để được hưởng tự do
của một người công dân, chẳng lẽ tôi
tham một chức Thủ tướng làm bù nh́n
cho Cụ Hồ hay sao? [19]
*Vai tṛ Cộng Sản quốc tế của ông Hồ
Chí Minh lần lần hiện rơ nên lợi dụng
chuyến đi Trùng Khánh, khi trở về, vua
Bảo Đại đă ở lại luôn Hồng Kông. Sau
đó, theo lời kêu gọi của người Quốc
gia, ông đứng ra thương thuyết với đại
diện của Pháp, ông Bollaert, Cao ủy
của Pháp tại Đông Dương.
Kể về giai đoạn này, ông Đoàn Thêm,
một nhà văn nổi tiếng, một cựu Đổng lư
Văn pḥng của Bộ Phủ Tổng Thống Việt
Nam Cọng Ḥa, đă viết:
Ngày 15-5-1947 và ngày 10-9-1947 tại
Hà Đông, ông Ballaert đọc diễn văn hứa
hẹn thừa nhận trên nguyên tắc sự độc
lập trong Liên Hiệp Pháp. Y cũng biết
rằng những nhân vật được mời ra hợp
tác đều mắc tiếng bị mua chuộc nên
không được ủng hộ, nên y kêu gọi tất
cả đoàn thể các gia đ́nh tinh thần
(famille spirituelle).
Khốn nỗi, các gia đ́nh ấy lại chia rẽ,
lục đục, hoặc chưa có dịp xum họp để
t́m đường lối chung. Nếu nói chuyện
với từng nhà th́ chỉ thấy những thành
kiến, những ư niệm cố chấp, những
quyền lợi tương phản. Vậy phải t́m một
nhân vật nào sẵn uy tín, được toàn
quốc biết tên tuổi, đứng trên các đảng
phái để liên lạc, quy tụ các phe nhóm
địa phương rồi chính thức đàm thoại
với Pháp. Tất nhiên người đó lại phải
có thái độ ôn ḥa, có dĩ văng đáng tin
cậy, thực ḷng thừa nhận cho Pháp
những quyền lợi quan trọng mà Pháp
phải huy động toàn lực để duy tŕ.
Đủ các điều kiện ấy th́ ai cũng thấy
chỉ có Cựu Hoàng Bảo Đại… Tại Việt
Nam, báo Thời Sự của nhóm Nghiêm Xuân
Thiện, Trần Trung Dung ở Hà Nội là một
trong những tờ báo đầu tiên đưa ra ư
kiến thỉnh Cựu Hoàng về nước lănh đạo
quốc gia và để chống Cộng. Rồi nhiều
cuộc biểu t́nh khá lớn đă tiếp diễn
như ở Huế ngày 12-8-1947, ở Hà Nội
ngày 1-9-1947, và cả ở Sài G̣n để ủng
hộ và yêu cầu Cựu Hoàng đứng ra cứu
văn thời cuộc…
Trước sự ủng hộ nồng nhiệt của quốc
dân và của mọi giới nhân sĩ, Bảo Đại
mới lên tiếng với phóng viên ngoại
quốc: “Nếu quả thật quốc dân c̣n
tín nhiệm th́ ông sẵn sàng đàm phán
với Pháp”. Kế đó, ông nhận lời
mời của Bollaert tới gặp Cao ủy tại
vịnh Hạ Long (6-12-47) trao đổi ư kiến
rồi lại trở về Hương Cảng…
Sau một thời gian trả giá, cuộc thương
thuyết ngày 5 tháng 6 năm 1948 đi đến
một thỏa thuận: “Bollaert nhân
danh chính phủ Pháp long trọng tuyên
bố thừa nhận Việt Nam độc lập trong
Liên Hiệp Pháp”. Cựu Hoàng xác
nhận chính thức hóa việc điều đ́nh với
Pháp trên căn bản đó và chính phủ
trung ương lâm thời của tướng Nguyễn
Văn Xuân ra đời [20].
Mặc dầu đă xác nhận chính thức đứng ra
thương thuyết với Pháp, nhưng vua Bảo
Đại cũng tự biết những nhược điểm và
ưu điểm của ḿnh cho nên ông đă tỏ ra
rất khôn ngoan cẩn trọng trong việc
đấu tranh cho đất nước. Ông biết người
Pháp cần ông ta làm người đối thoại,
nhưng ông cũng biết người Pháp sẵn
sàng phản bội để quay về thỏa hiệp với
lực lượng của ông Hồ Chí Minh. Ông
biết chống Cộng Sản là điều tối quan
trọng của phe quốc gia, nhưng ông cũng
biết phải làm thế nào để thỏa măn ư
nguyện tối thiểu của quốc dân, cho nên
sau thỏa ước vịnh Hạ Long, ông tiếp
tục ráo riết đấu tranh với Pháp một
cách can đảm (bravely) và khôn khéo
(skillfully) để tạo cái thế đứng vững
chắc cho ông và cho phe quốc gia chống
Cộng sau này như Buttinger đă nói rơ
[21].
Dù chính phủ Nguyễn Văn Xuân ra đời
(27-5-48), vua Bảo Đại vẫn chưa chịu
về nước mà tiếp tục kiên nhẫn đấu
tranh để đạt cho bằng được hai mục
tiêu: thứ nhất là thống nhất ba kỳ mà
đặc biệt là sát nhập Nam Kỳ vào cộng
đồng quốc gia (là điều kiện mà lực
lượng hữu phái của Pháp và “nhóm ly
khai Nam Kỳ quốc” vẫn ngoan cố chống
đối), và việc thứ hai là nước Pháp
phải chính thức thừa nhận nền thống
nhất và độc lập của Việt Nam. Ông đi
Pháp và qua bao nhiêu vận động khó
khăn, cuối cùng, một hiệp ước chính
thức ra đời (kư kết ngày 8-3-1949)
giữa ông và Tổng thống Pháp Vincent
Auriol. Dù vậy, ông vẫn chờ đợi cho
việc thống nhất ba kỳ thật sự hoàn
thành rồi ngày 13-6-49 ông mới chịu
trở về nước và chính thức giữ chức
quốc trưởng.
Khách quan nh́n lại khung cảnh phức
tạp của lịch sử lúc bấy giờ với hai
lực lượng ưu thế nhất đang tranh giành
quyền làm chủ nước Việt Nam mà một bên
là bộ máy viễn chinh Pháp có binh hùng
tướng mạnh, có một tập đoàn tay sai
bản xứ trung thành, có một mẫu quốc to
lớn yểm trợ… và một bên, lực lượng
kháng chiến Việt Nam có đảng Cộng Sản
lănh đạo, có đại đa số quần chúng sẵn
ḷng hy sinh, có thế lực Cộng Sản quốc
tế làm hậu phương lớn… th́, trong cái
thế gọng ḱm nghiệt ngă đó, nếu không
có vua Bảo Đại với ư thức trách nhiệm
(dù chưa thật sự toàn vẹn), với khả
năng ngoại giao (dù chưa thật sự đủ
khôn khéo) để đấu tranh với cả Pháp
lẫn Việt Minh để tạo một thế đứng cho
phe quốc gia, để khai sinh lá cờ vàng
ba sọc đỏ, th́ thử hỏi số phận những
người chống Cộng sẽ đi về đâu? Vào
bưng th́ bị Cộng Sản vận dụng, dinh Tề
th́ trở thành Việt gian, nhắm mắt bịt
tai làm kẻ đui điếc th́ mang tội hèn
nhát với lịch sử trong khi Việt Minh
đă giành lấy mất chánh nghĩa dân tộc,
trong khi thực dân Pháp đang giành độc
quyền chống Cộng để thực hiện chủ
trương tái xâm lăng của De Gaulle như
lời tuyên bố của ông ta trong bài diễn
văn đọc tại Brazzaville (Congo) năm
1944. Cho nên lá cờ chống Cộng của vua
Bảo Đại phất lên, cho nên chính quyền
Việt Nam (quốc gia) mà vua Bảo Đại là
biểu tượng, nếu chỉ thực sự phản ánh
đúng đắn mà chưa đầy đủ ước nguyện và
vị thế của các lực lượng th́ ít nhất,
trong giai đoạn đó, cũng đă đặt nền
móng và cũng đă phân định biên cương
cho sự hiện diện của một lực lượng “đả
Cộng chống Pháp” mà, ít nhất
trên mặt quốc tế, đă được các cường
quốc và ṭa thánh La Mă Vatican công
nhận.
Nếu cho rằng không có ông Bảo Đại th́
cũng sẽ có một nhân vật khác thoát
thai từ lực lượng này để điền vào chỗ
trống đó của lịch sử, th́ xin hỏi nhân
vật đó là ai? Những chánh khách thân
Pháp ư ? Những chính trị gia trong
“gia đ́nh tinh thần” được khối Thiên
Chúa giáo quốc tế công nhận ư? Ông
Đoàn Thêm đă trả lời rồi nhưng ở đây
tôi cũng xin liệt kê thêm một số nhân
vật mà lập trường và tư thế có nhiều
triển vọng để xem họ có đóng được vai
tṛ lịch sử đó không?
Đó là các lănh tụ cách mạng, các lănh
tụ đảng phái đă lần lượt bị sa lưới
Việt Minh hay đă bị tê liệt chính trị,
không c̣n một phương thế nào tạo nổi
một chủ lực, một hậu thuẫn để đương
đầu với ông Hồ Chí Minh hoặc với Pháp,
hoặc với cả hai. Cụ Nguyễn Hải Thần,
lănh tụ Việt Cách, các ông Vũ Hồng
Khanh, Nguyễn Tường Tam, lănh tụ Việt
Quốc, đều đă bỏ sang Tàu khi không
chống nổi Việt Minh dù có quân Lư Hán
yểm trợ. Lănh tụ Đại Việt Trương Tử
Anh đă bị Việt Minh sát hại ngay tại
Hà Nội năm 1946, lănh tụ Duy Dân Lư
Đông A cầm quân kháng Cộng một thời
gian ngắn rồi mất tích luôn ở vùng Ḥa
B́nh Bắc Việt. Lănh tụ Đệ Tứ Quốc Tế,
ông Tạ Thu Thâu, bị Việt Minh âm mưu
sắp đặt cho dân quân Quảng Ngăi giết
trên đường vào Nam. Đức Thầy Huỳnh Phú
Sổ của lực lượng Ḥa Hảo từng tỏ thiện
chí hợp tác với Việt Minh cũng bị lừa
và bị giết trong chiến khu Nam Bộ năm
1947. Lănh tụ Cao Đài, ông Nguyễn Văn
Sâm, th́ bị Việt Minh giết ngay khi họ
vừa cướp chính quyền năm 1945. C̣n Đức
Hộ Pháp Phạm Công Tắc, giáo chủ Cao
Đài, th́ bị Pháp đày ra đảo Comores từ
1940, mới được thả về năm 1946 và vẫn
bị Pháp canh chừng. Những trí thức
nhân sĩ có thể làm lănh tụ hàng nh́
th́ hoặc là đă chạy theo Việt Minh
hoặc là giữ thái độ trùm chăn, cầu an,
chờ thời. Ngay như ông Ngô Đ́nh Nhu có
thù máu với Cộng Sản mà cũng chỉ t́m
đường trốn về Thanh Hóa rồi qua Lào để
cuối cùng về sống an nhàn ở Đà Lạt, và
làm một chính khách xa lông đợi thời.
Ông Ngô Đ́nh Diệm, lănh tụ của phe
Công giáo, là người có tên tuổi thế mà
sau khi được ông Hồ Chí Minh trả tự
do, dù có mối thù không đội trời chung
với ông Hồ Chí Minh và Việt Minh, cũng
chỉ biết về sống tại Sài G̣n, Đà Lạt,
trong vùng Pháp chiếm đóng cho đến
cuối năm 1947 mới qua lại Hồng Kông để
yết kiến Cựu Hoàng mong chống Cộng
bằng giải pháp Bảo Đại. Theo giáo sư
Buttinger, th́ chính ông Ngô Đ́nh Diệm
lần đầu tiên đă đứng chung trên một
mặt trận do ông Lê Văn Hoạch thành lập
vào năm 1947, gồm nhiều nhân vật Cao
Đài, Ḥa Hảo, Việt Quốc, Đại Việt,
Công giáo và một số người Phật giáo để
ủng hộ vua Bảo Đại. Buttinger lại c̣n
cho biết rằng trước khi Cựu Hoàng Bảo
Đại thành công trong việc xây dựng
những cơ sở pháp lư và các điều kiện
chính trị thuận lợi cho một nước Việt
Nam qua thỏa ước Vịnh Hạ Long vào
tháng 5 năm 1948, ông đă phái ông Ngô
Đ́nh Diệm về Sài G̣n ngày 30 tháng 3
năm 1948 để thương thuyết trước với
Pháp mà ông Diệm không hoàn thành nổi
công tác này.
Ngoài các lănh tụ trên đây c̣n phải kể
đến bác sĩ Phan Quang Đán và Đức Giám
mục Lê Hữu Từ.
Trong những năm đói (trước và sau năm
Ất Dậu), bác sĩ Đán cầm đầu phong trào
khất thực để cứu giúp đồng bào. Sau
khi Việt Minh cướp chính quyền, ông
dám ngang nhiên thành lập Phong Trào
Ngũ Xă gần hồ Trúc Bạch Hà Nội để
chống lại lực lượng vơ trang Việt
Minh. Phong Trào Ngũ Xă không theo
Pháp, không dựa vào quân đội Trung
Hoa, chỉ là một phong trào nhân dân
chống Cộng. Tờ báo Thiết Thực của
Phong Trào đă gây phấn khởi cho nhiều
người quốc gia, đă phổ biến vào tận
miền Trung. Khi cuộc chiến giữa Việt
Minh và Pháp xảy ra vào tháng Chạp năm
1946 th́ Phong Trào mới tan ră.
C̣n Giám mục Lê Hữu Tư, lúc đầu làm Cố
vấn Tôn giáo cho ông Hồ Chí Minh nhưng
sau đó đă viết thư luân lưu lên án
Việt Minh là Cộng Sản, rồi giữ vùng
Phát Diệm trong thế tự trị cho đến
ngày Quốc trưởng Bảo Đại về nước cầm
quyền năm 1949, ông mới xin sát nhập
vùng Phát Diệm vào cộng đồng quốc gia
và triệt để ủng hộ Quốc trưởng.
Nêu tên tuổi và trường hợp tất cả các
lănh tụ ra, nhất là trường hợp ông Ngô
Đ́nh Diệm, người sau này truất phế vua
Bảo Đại, là để chứng minh rằng ông Bảo
Đại quả thật là một con cờ, nhưng là
một con cờ cần thiết độc nhất cho giai
đoạn 1948-1954 không ai thay thế được.
Chỉ tiếc rằng con cờ đó đă không được
lực lượng quốc gia sử dụng một cách
khôn khéo. Nếu không muốn nói rằng ông
Bảo Đại là vị cứu tinh cho phe quốc
gia trong giai đoạn và bối cảnh đất
nước lúc bấy giờ th́ ít nhất ông cũng
đă có công làm kẻ lót đường cho người
quốc gia có đất đứng để tiếp tục cuộc
hành tŕnh chống Cộng sau 1954. Vua
Bảo Đại đă đóng đúng vai tṛ cần thiết
và bi hùng của ông trong một giai đoạn
lịch sử khó khăn đến vậy.
Mặc dù mang tiếng là người thân Pháp,
nhưng trong thời gian làm Quốc trưởng,
ông vẫn tỏ rơ phong cách và thái độ
một lănh tụ quốc gia. Ông trọng dụng
những phần tử cách mạng, các nhân sĩ
có thành tích yêu nước, các nhân tài
trí thức, ông không phân biệt chia rẽ
đảng phái, không kỳ thị tôn giáo. Gia
đ́nh của ông không mang tiếng tham
nhũng khủng khiếp như các chế độ sau
ông. Ông đă tỏ rơ tư thế một vị Quốc
trưởng của một quốc gia độc lập, làm
cho chính tướng De Lattre De Tassigny
vừa là Cao ủy vừa là Tổng Tư lệnh quân
đội Pháp, tuy hết sức bất măn nhưng
vẫn kính trọng.
Sau năm năm lănh đạo quốc gia, ông Bảo
Đại đă xây dựng được những ǵ? Theo
ông Đoàn Thêm th́ chế độ Bảo Đại đă để
lại nhiều thành quả, nhiều định chế mà
giá trị vẫn c̣n được các chế độ sau
mặc nhiên thừa nhận, nghĩa là thừa
hưởng, và duy tŕ như:
- Từ 1949, sau khi được một số khá
đông cường quốc công nhận, Việt Nam
mới bước chân ra chính trường ngoại
giao và tuy chưa thể vào Liên Hiệp
Quốc v́ sự ngăn trở của Nga Sô, nhưng
cũng đă được gia nhập vào 35 cơ quan
quốc tế.
- Hoa Kỳ đặt phái bộ viện trợ quân sự
từ ngày 6-3-50 và kư hiệp ước tương
trợ với Việt Nam ngày 7-9-1951, đồng
thời viện trợ kinh tế và cứu trợ cho
Việt Nam.
- Quân đội quốc gia được thành lập và
phát triển mau lẹ: Từ 5 tiểu đoàn
(1950) lên 26 tiểu đoàn (1951) và vào
năm 1953 gồm 167.000 binh sĩ với 3.500
phụ lực quân. Các cấp chỉ huy được đào
tạo tại các trường Vơ Bị Liên Quân Đà
Lạt, khai giảng ngày 5-11-1950, trường
Cao Đẳng Vơ Bị thành lập ngày
25-6-1950, trường Quân Y ngày
7-8-1950, trường Không Quân ngày
24-6-1951, và Hải Quân ngày 1-1-1952.
Các tổ chức khác cũng được thành lập
như Ṭa Án Quân Sự, Bộ Tổng Tham mưu,
nhiều luật lệ quân sự cũng được ban
hành như: Quy chế quân đội, chế độ
quân dịch, thể thức sát nhập các lực
lượng giáo phái vào quân đội quốc gia
(10-4-1954).
- Tổ chức Tư Pháp và các ṭa án.
- Hành chánh địa phương.
- Giáo dục, Văn hóa: Trường đại học
Văn Khoa, Sở Bảo Tồn Cổ Tích, trường
Cao Đẳng Sư Phạm, Văn Hóa Nguyệt San.
- Kinh tế, xă hội: Bộ Luật Lao Động,
Bộ Luật Cải Cách Điền Địa.
- Các tổ chức chuyên môn: Viện Thống
Kê, Việt Nam Thông Tấn Xă, Quốc gia
Kiến Ốc Cục và Vé số Kiến Thiết Quốc
Gia, Sở Du Lịch Quốc Gia, Công ty Hàng
Không Việt Nam, trùng tu Điện Lực
Cuộc, trường Quốc Gia Hành Chánh.
- Quy chế Nghiệp Đoàn, Chế độ Bảo vệ
quyền phát minh và sáng chế công nghệ,
chế độ Phim ảnh và Quay phim.
- Các thiết bị và Quy chế quan trọng:
Bảo Quốc Huân Chương, Anh Dũng Bội
Tinh, ngày Phụ Nữ Việt Nam, Quy Chế
Công Chức Quốc Gia, Quy Chế các Hiệp
Hội, Quy Chế Thể Thao, Thanh Niên, Quy
Chế Hàng Hải, Chế độ Thuê nhà và quyền
lưu cư. Bộ Luật thuế Trực thu và Gián
thu.
Ông Đoàn Thêm cho rằng người ta đă vô
t́nh hay hữu ư thổi phồng những khuyết
điểm, những thất bại của ông Bảo Đại
một cách quá đáng, đă mô tả cuộc đời
và sự nghiệp của ông Bảo Đại một cách
lố lăng mà không nghĩ đến hoàn cảnh
khó khăn của đất nước dưới thời ông
Bảo Đại, so với hoàn cảnh dễ dàng hơn
của thời ông Ngô Đ́nh Diệm. Thậm chí
người ta đă dễ dàng gắn cho Bảo Đại là
trụy lạc dâm ô, trong lúc Bảo Đại lấy
vợ hầu chỉ là để đền ơn trả nghĩa cho
một người đàn bà đă từng giúp đỡ ông
trong khi ông đang bôn ba ở Hồng Kông.
Theo ông Đoàn Thêm, người ta chỉ trích
vua Bảo Đại mà quên đi công lao to lớn
của ông ta. Trước hết, nếu không có
vua Bảo Đại th́ người Quốc gia chưa
chắc đă c̣n hiện diện trong cuộc tranh
chấp Pháp – Cộng, lại nữa, trong lúc
đầu, tuy ông chỉ giành được một nền
độc lập trong Liên Hiệp Pháp, nhưng
trước khi Việt Nam bị chia đôi bởi
hiệp ước Genève, ông đă cương quyết
đ̣i cho Việt Nam được hoàn toàn độc
lập và b́nh đẳng với nước Pháp qua hai
Hiệp ước Độc lập (Traité
d’Indépendence) và Hiệp ước Liên kết
(Traité d’Association). Nhờ hai hiệp
ước đó mà ông Ngô Đ́nh Diệm thừa hưởng
chủ quyền trọn vẹn trên một nửa đất
nước sau này.
Nói tóm lại, sau 8 năm đấu tranh và 5
năm lănh đạo, vua Bảo Đại đă tạo dựng
cho phe quốc gia, phe chống Cộng ba
thành quả cơ bản to lớn: (1) Một quốc
gia với thế đứng hợp pháp, (2) Một nền
độc lập và thống nhất toàn vẹn, (3)
Nhiều cơ sở về ngoại giao, hành chánh,
kỹ thuật, văn hóa làm nền tảng cần
thiết cho sinh hoạt quốc gia.
So sánh hai ông Bảo Đại và Ngô Đ́nh
Diệm, ông Đoàn Thêm sau khi nói về
công tội của vua Bảo Đại, đă chê trách
ông Diệm nhiều điều mà điều quan trọng
nhất là thiếu đạo đức và tài trí để
làm một nhà lănh đạo.
Phê phán những nhà lănh đạo là một
việc làm hết sức tế nhị mà nếu nhầm
lẫn th́ hậu quả sẽ không những nguy
hiểm cho ḿnh mà c̣n cho hậu thế nữa.
Muốn tỏ tấm ḷng vô tư và tinh thần
khách quan của ḿnh, sau khi nêu lên
những sự kiện lịch sử, những dẫn chứng
rơ ràng, ông Đoàn Thêm đă đưa ra những
phân trần để tránh ngộ nhận: “… Song
đối với kẻ đem tâm thành mà t́m hiểu
việc nước, thiết nghĩ “b́nh tĩnh
nhận xét” là điều kiện ưu tiên
để tới gần sự thật. Nên tôi đă lặng lẽ
kiểm điểm một ḿnh công cuộc của ông
(Bảo Đại) và của một lớp người, để tự
soi sáng cho tôi. V́ đối với bất cứ
nhân vật nào, chánh thể nào, tôi không
muốn nghĩ ác v́ tưởng lầm, hoặc nói ác
v́ không biết rơ” [22].
*Ông Đoàn Thêm là một nhà hành chánh
kinh nghiệm và có thực tài, một công
chức cao cấp đă từng làm việc với
nhiều chế độ từ thời Pháp thuộc, qua
chế độ Quốc trưởng Bảo Đại, đến chế độ
Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Ông không
thuộc một đảng phái nào mà chỉ là một
công chức tận tâm và kỷ luật, liêm
chính và cương trực, đứng trên những
mâu thuẫn phe phái để ghi nhận các
biến cố lịch sử. Nhưng quan trọng hơn
cả, ông cũng là một nghệ sĩ đa tài, cả
văn lẫn thơ lẫn hội họa, vốn là những
chất liệu hun đúc nên một tâm hồn luôn
luôn đối nghịch với cái ǵ xấu xa, bất
thiện. Tôi không quen biết nhiều ông
Đoàn Thêm nhưng vốn có ít nhiều hiểu
biết về ông Bảo Đại, về ông Ngô Đ́nh
Diệm và đă từng sống và làm việc dưới
cả hai chế độ, nên tôi nhận thấy tác
phẩm “Những Ngày Chưa Quên” sẽ giúp
ích rất nhiều cho những ai muốn biết
về giai đoạn lịch sử 30 năm Việt Nam
chiến tranh Quốc Cộng, viết bởi một
người quốc gia mang nhiều tâm tư cố
t́m hiểu lịch sử. Ông không cố t́nh
bóp méo lịch sử như ông Cao Thế Dung
hay bà Margueritte Higgins, ông không
lợi dụng viết hồi kư để xuyên tạc và
bôi lọ người khác như Linh mục Cao Văn
Luận, ông Nhị Lang, ông Nguyễn Văn
Chức, ông* Nguyễn Trân…
Để tóm tắt lại trường hợp của ông Bảo
Đại, vị vua cuối cùng của triều
Nguyễn, của chế độ quân chủ tại Việt
Nam, th́ kể từ lúc tức vị (1932) cho
đến năm bị truất phế (1955) là 24 năm
chịu trách nhiệm trước quốc dân và
trước lịch sử, ông Bảo Đại quả thật đă
mang đầy đủ vóc dáng của một vị nguyên
thủ quốc gia vào lúc mạt vận, nghĩa là
có đầy đủ khuyết điểm của một vị lănh
đạo không có thực quyền và không có
thực tài để hoán chuyển định mệnh.
Nhưng ông cũng có đầy đủ những công
lao của một nhân vật lịch sử trong
giai đoạn giao thời, là xây dựng cơ sở
cho giai đoạn kế tiếp chứ không đạp đổ
những nền móng cơ bản để gây xáo trộn
cho kẻ thừa kế.
Khi công dân Vĩnh Thụy đứng dậy, ông
đă chứng tỏ được ḷng yêu nước và ư
thức trách nhiệm đối với cộng đồng dân
tộc và tiền đồ tổ quốc. Khi trở thành
kẻ thất bại (dù là thất bại trước đối
thủ thực dân Pháp hay cựu thần Ngô
Đ́nh Diệm) ông vẫn giữ được cái phong
thái lănh đạo trong cách hành xử chững
chạc cũng như trong thái độ quân tử an
nhàn. Giai đoạn nào th́ có nhân vật
đó, chỉ khen vua Bảo Đại mà không biết
đến tội của ông hay chỉ chê mà không
biết đến công của ông th́ quả thực bất
công. Tôi không có khả năng và cũng
không có ư định phê phán ông, nhưng
chẳng qua v́ muốn bắt chước người xưa,
nói thẳng những điều ḿnh biết để đóng
góp vào sự thật cho những người làm
công việc viết sử sau này mà thôi.
V́ thật ra, có lẽ chính ông Bảo Đại
cũng không màng những lời phê phán đó
khi mà hoàn cảnh của ông cũng như của
đất nước đă là những thảm trạng tột
cùng của sự đau khổ.
*
-o0o-
*
Song song với nhân vật Bảo Đại trong
thời gian đó là nhân vật Ngô Đ́nh
Diệm, người từ tư cách là một thần tử
của nhà Mạt Nguyễn, với thời thế và nỗ
lực, đă đi đến hành động quyết liệt
nhất của mối liên hệ vua tôi bằng cách
truất phế vị Hoàng đế của ḿnh.
Ḍng họ Ngô Đ́nh vốn quê làng Xuân
Dục, phủ Quảng Ninh, tỉnh Quảng B́nh
và theo đạo Công giáo La Mă từ thế kỷ
thứ 17. Trong giai đoạn quân Pháp đánh
chiếm Trung Kỳ và Bắc Kỳ (khoảng
1870), khi phong trào Văn Thân nổi lên
chống Pháp cứu nước và phát động chiến
dịch chống Đạo th́ ḍng họ Ngô Đ́nh
phải bỏ làng Xuân Dục phủ Quảng Ninh
mà di cư về làng Đại Phong thuộc huyện
Lệ Thủy của cùng tỉnh Quảng B́nh, nơi
có nhiều làng Công giáo hơn tại Quảng
Ninh.
Theo những bô lăo ở Quảng B́nh th́ nội
tổ của ông Diệm thuộc vào hàng bần dân
khốn khổ. Kư giả Robert Shaplen xác
định rơ ràng hơn rằng nội tổ của ông
Diệm sinh sống bằng nghề chài lưới
[23], cho đến đời thân phụ của ông
Diệm là ông Ngô Đ́nh Khả, nhờ quân
Pháp đánh chiếm và b́nh định được tỉnh
Quảng B́nh, nên liên hệ được với các
vị Cố đạo để được các giáo sĩ cho đi
học chữ Hán và chữ Pháp tại một trường
ḍng ở Penang (Mă Lai). Trong đám du
học sinh này c̣n có ông Nguyễn Hữu
Bài, người Công giáo quê Quảng Trị,
một nhân vật thủ đoạn và có cùng một
cảnh ngộ thơ ấu bần hàn như cụ Ngô
Đ́nh Khả.
Hai ông Khả và Bài sau khi học xong,
được người Pháp đưa về nước và cho làm
thông dịch viên ở ṭa Khâm sứ Huế.
Thời bấy giờ số người Việt nói và viết
được tiếng Pháp c̣n rất hiếm hoi, nhất
là ở Trung Kỳ, hai ông lại được Hội
Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp đặc biệt
nâng đỡ nên đă được các viên chức cai
trị Pháp trọng dụng và được triều đ́nh
An Nam phong chức tước và phẩm hàm rất
mau.
Năm 1885, khi phong trào Cần Vương ở
Quảng B́nh nổi lên pḥ vua Hàm Nghi
chống Pháp, ông Ngô Đ́nh Khả được quân
Pháp và triều đ́nh An Nam cử giữ chức
An Phủ Sứ về tỉnh nhà lo việc b́nh
định và chiêu an dưới quyền điều khiển
của Đại tá Pháp Duvilllier, ủy viên
chính phủ vùng Bắc xứ Trung Kỳ
(Commissaire du Gouvernement pour le
Nord Annam) [24].
Ông Thái Văn Kiểm chuyên nghiên cứu về
phong thổ miền Trung thuộc nhà Nguyễn,
năm 1945, lúc đang ở Quảng B́nh, thâu
thập được một tờ báo cáo viết tay của
ông Ngô Đ́nh Khả gởi cho công sứ Pháp
Quảng B́nh tŕnh bày kết quả của cuộc
b́nh định tỉnh này. Năm 1956, nhân làm
việc tại Nha Văn hóa Bộ Giáo dục, ông
vào dinh Độc Lập tặng tờ báo cáo đó
cho Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Nh́n
thấy bút tích của thân phụ, ông Diệm
mừng lắm, ngỏ lời khen ngợi và cám ơn,
ông Diệm c̣n nói thêm: “Trong việc
b́nh định tỉnh Quảng B́nh, thầy tôi
không dùng đến quân sự mà chỉ đem theo
gạo lên núi chiêu dụ những kẻ chống
đối về với chính phủ”. Dù b́nh định
bằng vơ lực hay bằng chiêu dụ th́ hành
động của ông Ngô Đ́nh Khả cũng là làm
tay sai cho Pháp trong việc đàn áp
Phong Trào Kháng Chiến chống thực dân
xâm lăng của dân tộc.
Thật thế, ông Ngô Đ́nh Khả không phải
làm tay sai hạng thường mà là thứ tay
sai cao cấp của Thực dân. Ông Ngô Đ́nh
Khả đă từng làm bộ tướng cho đại Việt
gian Nguyễn Thân cầm quân đánh phá
chiến khu Phan Đ́nh Phùng. Năm 1944,
Giám mục Ngô Đ́nh Thục cũng viết thư
cho Toàn quyền Decoux kể lể công lao
của cha và cũng gọi nhà anh hùng Phan
Đ́nh Phùng là giặc. (Xem thư Ngô Đ́nh
Thục gửi cho Toàn quyền Decoux ở phần
Phụ Lục). Quả thật tội ác của ông Ngô
Đ́nh Khả đối với Dân Tộc không bút nào
tả hết.
Năm 1888, vua Đồng Khánh băng hà sau
ba năm trị v́ ngắn ngủi, người Pháp
thành lập Liên Bang Đông Dương (gồm
bốn đơn vị hành chánh: Cochinchine,
Annam, Tonkin, và Cambodge. Vương quốc
Lào được sát nhập sau đó vào năm 1893)
để thống nhất các cơ cấu hành chánh,
đồng thời áp lực với triều đ́nh An Nam
để lập con của ông Dục Đức là Bửu Lân
lên làm vua, hiệu là Thành Thái.
Vua Thành Thái lên ngôi khi mới 10
tuổi nên triều đ́nh cử hai vị đại thần
là Nguyễn Trọng Hợp và Trương Quang
Đáng làm Phụ Chánh. Riêng cụ Ngô Đ́nh
Khả, nhờ có công dẹp được các cuộc nổi
loạn chống Pháp ở tỉnh Quảng B́nh và
Hà Tĩnh, nhờ có liên hệ chặt chẽ với
các giới chức Pháp cả bên chính quyền
lẫn bên Hội Truyền Giáo, nên được cử
vào chức Tổng Quản Cấm Thành
(Superintendent du Palais) có lẽ là
Lưu Kinh Đại Thần và có ảnh hưởng với
vua Thành Thái, đồng thời người Pháp
cũng vận động đề cử Nguyễn Hữu Bài làm
Thượng thư Bộ Công. Hai nhân vật này
dù không xuất thân từ nơi khoa giáp và
không thăng chức theo hệ thống quan
trường mà vẫn một bước nhảy vọt nắm
giữ những chức vụ tối quan trọng với
những phẩm hàm cao cấp nhất là v́
người Pháp, với sức mạnh toàn quyền
trong tay, muốn có những người thân
tín là cụ Khả để kiểm soát nhà vua và
cụ Bài để kiểm soát triều đ́nh.
Tuy nhiên, trong lúc con đường quan
trường của ông Nguyễn Hữu Bài kéo dài
cho đến thời già cả (trên 70 tuổi), mà
chức vụ cuối cùng là Thượng thư đầu
triều hàm Vơ Hiển Đại học sĩ, th́ công
danh của ông Ngô Đ́nh Khả lại nửa
đường đứt gánh. Theo Tổng thống Diệm
kể lại cho kư giả Shaplen trong một
cuộc phỏng vấn dài sáu tiếng đồng hồ
tại dinh Gia Long năm 1962, th́ thân
phụ của ông mất chức v́ người Pháp
nghi ngờ cụ Khả có liên hệ đến một âm
mưu chống Pháp, v́ cụ Khả đă chống lại
việc người Pháp đă truất phế và đày
vua Thành Thái [25]. Nhưng theo bạn
của tôi và những vị cựu quan lại,
những nhân vật thuộc Nguyễn Phước tộc
kể lại, th́ việc ông Khả bị mất chức
thật ra là v́ lúc c̣n làm Cận thần,
ông đă tự động dựng một ngôi giáo
đường trong Hoàng thành trái với bầu
không khí và màu sắc hoàn toàn Tam
giáo nơi cung cấm của nhà Nguyễn, và
bất cần những lời phản đối của các vị
quan khác và Hoàng gia. V́ thế mà nhân
cơ hội vua Thành Thái bị truất phế,
triều đ́nh hạch tội ông Ngô Đ́nh Khả
đă khinh mạn Hoàng gia, giáng ông
xuống ba cấp và cho về hưu non. Thật
ra th́ vụ xây ngôi giáo đường chỉ là
một cái cớ, cái cớ cuối cùng và cụ thể
nhất của một chuỗi dài những mâu thuẫn
và xung khắc của nhiều thế lực. Nguyên
Khâm sứ Trung kỳ lúc bấy giờ là
Lévêque, thuộc hội Tam Điểm
(Franc–Macon), có khuynh hướng chống
sự bành trướng quyền lực của Hội Thánh
Công giáo La Mă và cũng thường có thái
độ khinh mạn nhà vua và triều đ́nh An
Nam. Với tư cách là Khâm sứ Trung kỳ,
y có toàn quyền trực tiếp hay gián
tiếp quyết định bổ nhiệm, thay đổi hay
cách chức các quan lại An Nam [26].
Ông Ngô Đ́nh Khả hội đủ hai yếu tố cho
Lévêque khinh ghét: “quan lại” và
“Công giáo”, lại không được các bạn
đồng liêu bênh vực, nên khi vua Thành
Thái bị truất phế ông không c̣n tư
cách ǵ để làm Cận thần, và Hội Truyền
Giáo cũng không đủ sức mạnh để cứu ông
khỏi bị Lévêque vận động với một triều
đ́nh sẵn sàng đuổi ông về.
Do đó, ngôi giáo đường trong Đại Nội
chỉ là cái cớ có thật cuối cùng. Và
cũng do đó, tiếng đồn rằng v́ “Đày vua
không Khả” nên ông Ngô Đ́nh Khả bị mất
chức cũng chỉ là tiếng đồn được phóng
đại thêm v́ rơ ràng chính cụ Nguyễn
Hữu Bài, vừa không chịu kư giấy đào mồ
vua (Đào mả không Bài), lại vừa công
khai bênh vực Kỳ Ngoại Hầu Cường Để,
một hoàng thân quốc thích có khuynh
hướng và hành động chống Pháp rơ rệt,
mà vẫn thăng quan tiến chức mau lẹ và
nắm giữ giềng mối triều đ́nh mấy chục
năm trời.
(Tuy nhiên, phải nói thêm rằng quyết
định ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để của
ông Bài lúc đó, và cả ông Diệm của
những năm 40 sau này, chỉ phản ánh
chiến lược chính trị của Hội Truyền
Giáo Hải Ngoại muốn phục hồi chi hệ
của Hoàng Tử Cảnh, vị hoàng tử đă được
Giám mục Pigneau de Béhaine đỡ đầu
theo Công giáo La Mă và bị vua Minh
Mạng biếm vị từ cả gần thế kỷ rưỡi
trước).
Những “tiếng đồn” loại “đày Vua không
Khả, đào mả không Bài” nầy cần phải
được kiểm chứng bằng những tài liệu
khả tín chứ không thể mù quáng tin
theo một cách nhẹ dạ được. Cũng như
trường hợp Linh mục Trần Lục dưới thời
Pháp thuộc được vinh danh là “Nam
Tước, Quốc Công”, là “Phúc tinh, anh
hùng vang danh bốn bể”, lại được đặt
tên cho một trường Trung học dưới thời
đệ I Cộng Ḥa. Chỉ đến sau này, nhờ
tài liệu như cuốn “Những trận đánh
Pháp” của học giả Lăng Nhân Phùng Tất
Đắc, “Thập Giá và Lưỡi Gươm” của Linh
mục Trần Tam Tĩnh, ta mới biết rơ Trần
Lục là một tên Việt gian đă từng bị cụ
Phan Đ́nh Phùng lúc c̣n làm Tri phủ
Yên Khánh, nọc ra đánh tại Phát Diệm.
Trần Lục đă cùng với 5.000 giáo dân
Phát Diệm, Kẻ Sở, Điền Hộ, Bố Xương
giúp quân Pháp đánh phá chiến khu Ba
Đ́nh của anh hùng Cần Vương Đinh Công
Tráng (xin xem thêm “Hội hè của đồng
bào Thiên Chúa giáo” của giáo sư Toan
Ánh trong phần Phụ Lục).
Theo cụ Trương Văn Huế, một nhân sĩ
lăo thành Công giáo tại Phú Cam, nơi
gia đ́nh ông Ngô Đ́nh Khả trú ngụ, th́
khi bị giáng chức rồi về hưu sớm, cụ
Khả thường mặc đồ nâu, quần ống cao
ống thấp, chân đi guốc gỗ và thường
đến ngồi trước sân nhà thờ Phú Cam,
miệng lẩm bẩm chửi bới đích danh các
vị quan tại triều. Thái độ hằn học một
cách sống sượng với các vị đại thần
này phản ánh một t́nh cảm căm thù v́
quyền lợi mất mát, đường tiến thủ bị
bế tắc hơn là, và đáng lẽ là, một t́nh
cảm kiêu hănh v́ giữ tấm ḷng trung
trinh không chịu ... đày ải vị vua của
ḿnh.
Khi về hưu, cụ Ngô Đ́nh Khả tạo được
một ngôi nhà lầu tại Phú Cam, một cảnh
vườn khá rộng và mấy mẫu ruộng ở cánh
đồng An Cựu gần thành phố Huế. Cụ Khả
có chín người con: 6 trai và 3 gái.
Con trai là các ông: Ngô Đ́nh Khôi,
Ngô Đ́nh Thục, Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh
Nhu, Ngô Đ́nh Cẩn và Ngô Đ́nh Luyện.
Ba người con gái là các bà Ngô Thị
Giao, Ngô Thị Hiệp, thân mẫu của đức
cha Nguyễn Văn Thuận, và bà Ngô Thị
Hoàng, nhạc mẫu của Bộ trưởng Bộ Quốc
pḥng Trần Trung Dung.
*
-o0o-
*
Ông Ngô Đ́nh Diệm sinh tại Huế ngày 3
tháng Giêng năm 1901 (Canh Tư), ra đời
khi thân phụ c̣n làm quan tại triều,
nhưng lại trưởng thành khi gia đ́nh
không c̣n được sung túc v́ cụ Khả đông
con mà lại về hưu sớm. Lớn lên, ông
Diệm vào học trường tư thục Công giáo
Pellerin tại Huế, đỗ bằng Thành Chung
tức là bằng Trung Học Đệ Nhất cấp sau
này, rồi thi vào trường Hậu Bổ dưới
triều vua Khải Định, một vị vua nổi
tiếng Việt gian.
Trường Hậu Bổ là hậu thân của trường
Quốc Tử Giám, nơi đào tạo ra ngạch
thuộc quan để phục vụ cho Nam triều.
Từ thời vua Duy Tân trở về trước,
trường Quốc Tử Giám ở Huế c̣n giữ được
ít nhiều truyền thống và thực chất
giai đoạn mà định chế này mới được
thiết lập lần đầu tiên vào đời vua Lư
Nhân Tông (1072–1127) tại kinh thành
Thăng Long. Nghĩa là trường được điều
khiển bởi một vị đại khoa giáp mang
chức Tế Tửu, và sĩ tử cũng là hạng
người đă đỗ đạt, khi ra trường sẽ là
“dân chi phụ mẫu”. Trái lại, dưới thời
vua Khải Định (1916–1925) kể từ năm
1918, trường Hậu Bổ do một viên Công
Sứ Pháp được ṭa Khâm sứ ủy nhiệm làm
hiệu trưởng, dưới quyền viên Công sứ
th́ có vị Thượng thư Bộ Học (Nam
triều), Thủ hiến học chánh Trung Kỳ
(người Pháp) và Học chính hội lư
(người Pháp) là các hội viên lo việc
quản trị và giáo huấn của nhà trường.
Nói cách khác, trường Hậu Bổ dưới
triều Khải Định đă bị Tây hóa trong
tinh thần Bảo Hộ, và không c̣n cái nho
phong của các thời tiền triều mặc dù
vẫn c̣n một số các ông Tú, ông Cử Hán
học theo đ̣i hoạn lộ qua con đường
trường Hậu Bổ.
Muốn được vào trường Hậu Bổ thí sinh
chỉ cần có học lực ngang cấp tiểu học
nhưng phải có tŕnh độ căn bản về Hán
học. Thời gian học là ba năm có nghỉ
hè, nghỉ lễ theo niên khóa của các
trường phổ thông. Khi ra trường, thí
sinh phải có tŕnh độ ngang với cấp
bằng trung học đệ nhất cấp, ngoại trừ
có thêm môn Kinh Nghĩa, thi phú và môn
luật bằng Hán văn. (Xem thêm “Văn Hóa
nguyệt san” do các học giả Nguyễn Khắc
Kham, Thái Văn Kiểm, Bùi Đ́nh San,
Nguyễn Văn Ninh biên tập, hiện lưu trữ
tại thư viện Sorbonne, Paris).
Đọc trong Tản Đà bát cú bài thơ Thi
Hậu Bổ Trượt Kỳ Vấn Đáp của Nguyễn
Khắc Hiếu nói về trường Hậu Bổ Nam
Định ở Bắc, một trường đào tạo ngạch
quan lại đồng thời với trường Hậu Bổ ở
Huế, ta sẽ có một khái niệm rơ ràng
hơn về giá trị của một ông quan thời
vua Khải Định như thế nào:
Hồi Pháp thuộc lập trường Hậu Bổ,
trường Nam Định học chữ quốc ngữ, chữ
Pháp, qua lớp dự bị thi vào lớp chánh
ngạch, học ba năm ra làm quan. Những
người muốn đỗ phải đút lót mới được.
Tản Đà tiên sinh v́ không có tiền lo
lót nên làm ra bài thơ sau đây:
*
THI HẬU BỔ TRƯỢT KỲ VẤN ĐÁP
*
Mỗi năm Hậu Bổ một kỳ thi,
Năm ngoái năm xưa tớ cũng đi,
Cử, Tú, Ấm sinh vài chục kẻ,
Tây, Ta, Quốc ngữ bốn năm kỳ.
Đĩa, nghiên, lọ mực, b́a bao sách,
Thước kẻ, đinh găm, ngọn viết ch́.
Lại đến o-ran là bước khó,
Ḿnh ơi! Ta bảo có th́ đi.
*
Rơ ràng vua Khải Định, một ông vua nổi
tiếng Việt gian, đă cùng với thực dân
Pháp trong buổi giao thời Hán–Việt
Tây–Ta lẫn lộn, cải đổi trường Quốc Tử
Giám, nơi đào tạo quan trường theo
tinh thần “Cần, Kiệm, Liêm, Chính”của
đạo lư Khổng Mạnh thành ra trường Hậu
Bổ, nơi khai sinh một lớp người thừa
hành của Nam triều để phục vụ cho bộ
máy cai trị của chế độ bảo hộ Pháp. Từ
thời đó cho đến ngày tàn của thực dân
vào năm 1945, việc thăng quan tiến
chức của một ông quan An Nam tùy thuộc
vào ba yếu tố: Thứ nhất là phải có
ḷng trung thành tuyệt đối với mẫu
quốc Pháp, lập được nhiều công trạng
cho chế độ Bảo Hộ. Thứ hai là phải có
liên hệ thân thiết với nhà vua và các
vị đại thần. Thứ ba là phải có tiền lo
lót cho cấp trên. Lịch sử c̣n cho thấy
dưới triều vua Khải Định có nhiều ông
quan dâng vợ dâng con gái cho quan Tây
để mau lên chức, mau làm quan to.
Lẽ dĩ nhiên cũng có những trường hợp
đặc biệt mà một vị quan, dù ở bậc
Thượng thư hay chỉ có hàm Cửu phẩm,
thu đạt được địa vị của ḿnh không nhờ
ba yếu tố kể trên mà nhờ chính thực
tài và sự ngay thẳng của ḿnh. Tuy
nhiên, biệt lệ này quả thật hiếm hoi.
Ông Ngô Đ́nh Diệm xuất thân từ trường
Hậu Bổ đó và được bổ làm quan dưới
triều Khải Định. Cụ Tôn Thất Toại, vị
Thượng thư trí sĩ bạn vong niên của kẻ
viết, từng hoạt động hăng hái cho
Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia ở Nha
Trang và là cựu Dân biểu khóa I thời
Đệ Nhất Cộng Ḥa, cho biết rằng Cụ và
hai ông Ngô Đ́nh Khôi và Ngô Đ́nh Diệm
vốn là bạn chí thân cùng học ở trường
Pellerin và trường Hậu Bổ. Nhưng khi
học xong th́ tất cả các sĩ tử chỉ được
bổ vào các ngạch tập sự, riêng một
ḿnh ông Diệm là được bổ ngay vào chức
Tri huyện Hương Trà tỉnh Thừa Thiên.
Trong ngạch quan lại thời đó, mỗi chức
vụ phải qua ba bốn cấp, mỗi cấp phải
có ít nhất ba năm thâm niên, thế mà
ông Diệm lại thăng quan tiến chức mau
như diều gặp gió, một đặc cách vượt
bực không ai có trừ những nhân vật làm
quan tắt như ông Phạm Quỳnh chẳng hạn.
Năm 23 tuổi, ông Diệm làm tri huyện
Quảng Điền (Thừa Thiên), lên tri phủ
Hải Lăng (Quảng Trị), lên Quản Đạo
Ninh Thuận (tỉnh trưởng hạng nhỏ), lên
Tuần Vũ B́nh Thuận (tỉnh trưởng hạng
trung). Năm 1933, lúc ông mới 32 tuổi,
được thăng lên Thượng thư Bộ Lại,
nghĩa là chức vụ đầu triều đứng trên
hết hàng quan lại An Nam. Chỉ trong
ṿng mười năm mà ông Diệm vượt hết mọi
nấc thang hoạn lộ, việc mà những quan
lại khác phải mất ít nhất là 30 năm
trời. Ông Diệm chưa bao giờ ra Hà Nội
học trường Luật hay trường Quốc Gia
Hành Chánh như văn pḥng báo chí phủ
Tổng Thống đă đưa ra để huyễn hoặc một
số kư giả Việt Nam và ngoại quốc lầm
lẫn ghi vào sách báo của họ. Tuy
nhiên, ông Diệm là một ông quan nổi
tiếng cần mẫn thanh liêm.
Thời làm quan huyện quan tỉnh, ông bận
áo gấm đội nón chóp đeo bài ngà, mỗi
lần đi hành hạt thường cỡi ngựa để về
các làng quê. Ông vừa là quan cai trị
vừa là quan Tư pháp, vừa làm nhiệm vụ
cảnh sát giữ ǵn trật tự an ninh cho
địa phương do ông cầm đầu dưới sự giám
sát của quan công sứ Pháp và theo
chánh sách của chế độ bảo hộ Pháp.
Nhiệm vụ đặc biệt của ông quan huyện
tỉnh lúc bấy giờ là đốc thúc dân chúng
trong việc nạp thuế má và ngồi ở công
đường xét xử các vụ kiện cáo của dân
trong quản hạt. Thời làm quan, ông
Diệm đặc biệt có tài khám phá nhiều tổ
Cộng Sản hoạt động bí mật nên được
chính phủ Bảo Hộ rất tín nhiệm, do đó
mà mới 29 tuổi ông đă được thăng lên
chức Tuần Vũ B́nh Thuận và sau đó ông
thăng chức Thượng Thư Bộ Lại như đă
nói trên kia.
Nhưng trong lúc ông Diệm là một vị
quan lại thanh liêm th́ người anh ruột
là ông Ngô Đ́nh Khôi làm Tổng Đốc tỉnh
Quảng Nam, một tỉnh lớn thứ hai của
triều đ́nh An Nam, của xứ Trung Kỳ,
lại là một vị quan mang tiếng tham
quan ô lại và có tác phong bê bối. Dư
luận c̣n nói rằng ông Khôi tằng tịu
với vợ con thuộc cấp. Dư luận c̣n nói
rằng sở dĩ ông Khôi thích ăn hối lộ,
kể cả những món tiền rất nhỏ, v́ ông
rất cần tiền để gởi cho hai người em
ăn học ở Pháp. Những dư luận trên đây
vẫn c̣n được các bậc cao niên quê tỉnh
Quảng Nam hiện nay ở hải ngoại kể lại
mỗi khi nhắc đến chuyện xưa cũ nơi quê
nhà… Ông Ngô Đ́nh Cẩn, thời ông Diệm
chưa cầm chính quyền cai trị miền Nam,
có kể lại cho chúng tôi nghe rằng sau
khi từ chức Thượng Thư Bộ Lại, ông
Diệm thường vào Quảng Nam ở chơi với
ông Ngô Đ́nh Khôi, có lần thấy tư cách
bất chính của anh ḿnh ông giận lắm,
bèn đi bộ từ Hội An ra Đà Nẵng (40 cây
số) lấy tàu hỏa để về Huế rồi gửi thư
trách móc anh ḿnh thiếu tác phong của
một bậc “dân chi phụ mẫu”.
Việc thăng quan tiến chức vượt bực của
anh em nhà họ Ngô Đ́nh làm cho giới
quan trường vừa ganh tức vừa khinh bỉ.
Họ làm thơ để chế giễu “vây cánh” nhà
Ngô sở dĩ tiến mau trên đường lợi danh
là chỉ nhờ thế thần vây cánh:
*
************************ LÀM QUAN NAM
TRIỀU
*
*********************** Lênh đênh
chiếc bách buổi ba đào,
*********************** Chèo lái
xem chừng khó biết bao.
*********************** Tôi tớ mấy
người dâng lễ hậu,
*********************** Quan thầy
mấy kẻ nặng hầu bao.
*********************** Chật trong
bể hoạn thêm ḿnh nữa,
*********************** Theo hết
rừng “Hàn” biết kiếp nao.
*********************** Vây cánh
Ngô Đ́nh ghê gớm thật,
*********************** Mềm lưng
dẻo gối chóng lên cao.
*
(ghi chú: “rừng Hàn” là hệ thống phẩm
trật “Hàn Lâm” trong ngạch văn giai
của quan lại Nam triều).[27]
Những ai đă từng chịu khó theo dơi
không khí và khung cảnh quan trường
thời Mạt Nguyễn đều biết rằng tất cả
các hàng quan lại, nhất là hàng quan
cao cấp từ Tuần Vũ trở lên, không mấy
ai thân yêu kính phục anh em nhà họ
Ngô Đ́nh. Thời bấy giờ, những ḍng họ
có người làm quan to như họ Phạm, họ
Vơ, họ Thân Trọng, Hồ Đắc, Trương Như,
Nguyễn Khoa, Tôn Thất… đều coi anh em
nhà họ Ngô Đ́nh như người xa lạ, nếu
không muốn nói là như kẻ thù. Sở dĩ có
t́nh trạng đó là v́ ḍng họ Ngô Đ́nh
vừa theo đạo Thiên Chúa vừa không xuất
thân từ hàng khoa giáp, không có tŕnh
độ học vấn cao mà chỉ dựa vào thế lực
của các cố đạo và các quan cai trị
Pháp để được thăng thưởng mau lẹ. Đă
thế, v́ anh em họ Ngô lại khép kín,
cao ngạo, nên rất tự nhiên mà giới
quan lại ngấm ngầm chia rẽ ra hai phe,
phe Phật giáo và phe Công giáo.
Nếu tổng hợp sự kiện cụ Khả bị triều
đ́nh cách chức cho về hưu sớm, sự kiện
có những bài thơ phổ biến trong nhân
gian để chế giễu “phe” Ngô Đ́nh, với
lời phê phán của giáo sư Nguyễn Văn
Xuân về tính thâm hiểm của cụ Bài, và
nhận định của Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn
Hữu Trí về con người “thâm” của ông
Ngô Đ́nh Diệm [28] ta có thể h́nh dung
ra được nếp sống cách biệt với lề lối
hành xử thiếu giao cảm của nhà Ngô
Đ́nh, cũng như t́nh cảm nghi kỵ và
ganh ghét của các bạn đồng liêu lúc
bấy giờ.
Sở dĩ bước đường công danh của anh em
ông Diệm ông Khôi thênh thang dễ dàng
và thăng tiến mau lẹ là nhờ vào cột
trụ Nguyễn Hữu Bài, vị tể tướng đứng
đầu triều đ́nh An Nam, người đă được
thực dân Pháp hun đúc từ ngày mới đi
học ở trường đạo Penang về, từ thời
c̣n là thông ngôn ở ṭa Khâm sứ Huế.
Vơ Hiển Nguyễn Hữu Bài lại c̣n là nhạc
phụ của ông Ngô Đ́nh Khôi và là người
đỡ đầu cho ông Ngô Đ́nh Diệm. Chỉ có
vị quan đầu triều thế lực tột đỉnh như
Nguyễn Hữu Bài, người nắm toàn quyền
giềng mối triều đ́nh An Nam trong lúc
vua Bảo Đại c̣n bận du học ở Pháp, mới
có đủ quyền lực hóa phép cho ông Diệm
mang đôi hia bảy dặm trên con đường
hoạn lộ, để chỉ trong 10 năm mà từ Tri
Huyện lên đến chức Thượng Thư. Cũng
chỉ có Nguyễn Hữu Bài mới có đủ uy thế
để tiến cử ông Diệm với Bảo Đại làm
Thượng Thư Bộ Lại thay thế ḿnh về
hưu, dù ông Diệm tuổi c̣n rất trẻ, dù
ông Diệm mới chỉ là Tuần Vũ một tỉnh
nhỏ. Cái ǵ đă tạo cho ông Nguyễn Hữu
Bài uy quyền và sức mạnh để khuynh
loát triều đ́nh An Nam lúc bấy giờ?
Cái ǵ đă cho phép ông Nguyễn Hữu Bài
một bước nhảy vọt lên làm Thượng Thư
đầu triều, quán xuyến mọi sinh hoạt
triều chính để có thể đạp mọi thủ tục
mà nâng người này lên hay đè người
khác xuống, trong khi khả năng thực sự
và quá tŕnh đóng góp cho triều đ́nh
của ông không đáng kể? Câu trả lời mà
nhiều người biết gồm hai phần: Phần
thứ nhất là cái trạng huống chung của
đất nước thời Bảo Hộ mà định chế được
gọi là “triều đ́nh” chỉ là một cơ quan
bất lực và vô quyền, ai có sức mạnh
th́ thao túng được. Và phần thứ hai là
chính Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp
đă trao cho Nguyễn Hữu Bài cái sức
mạnh vô địch của giáo quyền phối hợp
với thế quyền của kẻ chiến thắng để,
xuyên qua lá bài này, tiến hành chính
sách Công giáo hóa Việt Nam (gli
affari publici).
Lịch sử Hội Truyền Giáo Hải Ngoại gắn
liền với lịch sử bành trướng của Pháp
ở Đông Dương. Một sáng lập viên của
Hội, Giáo sĩ Pallu, đă làm gạch nối
giữa hai triều đ́nh Pháp-Việt. Giáo sĩ
Pigneau de Béhaine sau đó thắt chặt
thêm sợi dây liên hệ: sự can thiệp của
những thành viên của Hội đưa đến cuộc
can thiệp quân sự của Pháp tại Việt
Nam.[29]
Nếu từ thế kỷ thứ tư, lịch sử Giáo Hội
La Mă đă có những vị Giáo hoàng như
Silvester cấu kết với Hoàng đế
Constantine để xây dựng Giáo hội (năm
314) [30], đă có những Giáo hoàng như
Léo khi chết để lại một chúc thư (năm
461) rằng “Hội Thánh Công giáo th́ bất
phân ly với đế quốc La Mă và khi tốt
cũng như khi xấu, chính là đế quốc La
Mă” [31]… th́ Hội Truyền Giáo Hải
Ngoại Pháp, trong giai đoạn của một
chính quyền Pháp c̣n sống với những ảo
tưởng vàng son của một đế quốc oai
hùng xa xưa, cũng đă hành xử với đầy
đủ uy lực trên mảnh đất Việt Nam nghèo
nàn xa xăm để phối hợp chặt chẽ chính
sách thực dân (chính trị) với chính
sách truyền giáo (tôn giáo).
Hăy đọc bản báo cáo của toàn quyền
Beau gởi tŕnh cho chính phủ Pháp nhân
dịp t́m người kế vị vua Thành Thái th́
đủ thấy thế lực của ông Nguyễn Hữu
Bài, dù chỉ là một con cờ ủy nhiệm bản
xứ, nhưng cũng đă mạnh như thế nào:
… Ngày 3 tháng 9 năm 1907, tôi
đến Huế để chứng kiến lễ thoái vị
của vua Thành Thái. Viên chánh văn
pḥng của tôi liền đi thăm các quan
đại thần của triều đ́nh Huế để ḍ la
cho biết tư tưởng của họ đối với
thời cuộc. Các vị này đều công kích
kịch liệt tất cả các nhân vật đưa
ra, nhưng họ thận trọng không đề
nghị một ai cả, chỉ cùng thốt câu
sáo ngữ: “Chúng tôi sẽ đồng ư và
hoan nghênh bất kỳ một ông vua nào
mà chính phủ Bảo hộ tuyển chọn”.
Riêng có Nguyễn Hữu Bài, Công bộ
Thượng Thư, có nói đến cái tên Cường
Để và tỏ thái độ thẳng thắn ủng hộ.
Ông ta làm tôi lưu ư v́ ông có đạo
Thiên Chúa, ư kiến của ông có thể được
đoàn thể thế lực ấy tán đồng [32].
Nếu “ư kiến của ông có thể được Hội
Truyền giáo tán đồng” th́ điều chắc
chắn là ư kiến của Hội Truyền giáo
cũng sẽ được phản ánh qua lập trường
và hành động của ông Nguyễn Hữu Bài,
mà chính quyền bảo hộ Pháp cần lưu tâm
đến.
Thế lực Hội Truyền giáo mạnh mẽ như
thế để cho ta thấy rơ v́ sao khi mà
ông Nguyễn Hữu Bài đă muốn là có thể
xây dựng được uy thế cho một Ngô Đ́nh
Diệm từ thời ông Diệm c̣n là một sinh
viên trường Hậu Bổ, v́ sao vua Bảo Đại
phải chấp nhận cho ông Ngô Đ́nh Diệm
làm Thượng Thư Bộ Lại, và v́ sao Hội
Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp khi đă muốn
là có thể sắp đặt được để có một bà
Hoàng Hậu theo Công giáo.
Về triều giữ chức Thượng Thư Bộ Lại,
ông Diệm đ̣i hỏi người Pháp phải thực
hiện những cải cách xă hội như họ đă
hứa với vua Bảo Đại. Những cải cách xă
hội đại để gồm có những mục như:
- Triều đ́nh An Nam có toàn quyền bổ
báo, thưởng phạt trong vấn đề nhân sự
của Nam triều.
- Triều đ́nh An Nam có ngân sách
riêng, có tài chánh riêng, tư pháp
riêng.
- Mở rộng nền giáo dục.
- Thiết lập Viện Dân Biểu.
- Người Pháp phải thực thi đứng đắn
Ḥa Ước 1884, nghĩa là Ḥa Ước vẫn c̣n
để cho Triều đ́nh An Nam (Trung kỳ)
một ít quyền hành nội bộ, dù Ḥa Ước
vẫn công nhận nền Bảo Hộ Pháp là điều
kiện chính yếu.
Điều cần phải nói rơ là những dự định
cải cách trên đây là do vua Bảo Đại
đ̣i hỏi khi ông mới về nước và đă được
người Pháp hứa hẹn. Những dự định cải
cách này cũng đă được ông Phạm Quỳnh,
nguyên chủ bút báo Nam Phong, đề nghị
từ năm 1931 khi vua Bảo Đại chưa hồi
loan. Ông Phạm Quỳnh c̣n đi xa hơn là
đ̣i hỏi việc sát nhập Bắc kỳ và Trung
kỳ, vốn là hai xứ Bảo hộ riêng biệt,
thành một vương quốc có hiến pháp hẳn
ḥi, nghĩa là chủ trương một nước Việt
Nam theo chế độ quân chủ lập hiến tự
trị trong một Liên Bang Đông Dương
thuộc Pháp [33].
C̣n ông Diệm th́ vẫn trung thành với
chính sách của người Pháp từ ngày ông
làm Tri Huyện cho lên đến chức Tuần Vũ
tỉnh B́nh Thuận. Cho đến khi được vua
Bảo Đại cử làm Thượng Thư Bộ Lại và
được chỉ định cầm đầu “Ủy Ban Cải
Cách”, ông mới đ̣i hỏi việc thi hành
những cải cách mà người Pháp đă hứa
với nhà vua.
Nhưng ông Diệm gặp phải phản ứng quyết
liệt của ông Phạm Quỳnh, người của Sở
Chính Trị Pháp (Service Civil). Ông
thất bại trong việc tranh chấp với ông
Quỳnh nên chỉ làm Thượng thư Bộ Lại
được 4 tháng th́ phải xin từ chức.
Để giải thích sự tranh chấp có vẻ khó
hiểu của hai vị Thượng thư cùng được
đỡ đầu và bảo vệ từ một nguồn thế lực
là Pháp, ta cần phải thấy rơ bản chất
thật sự của sự cấu kết giữa Hội Truyền
Giáo Hải Ngoại và chính quyền thực dân
Pháp. Sự cấu kết đó dựa trên căn bản
hỗ tương quyền lợi và quân phân trách
nhiệm: Thực dân Pháp phải núp đàng sau
những chiếc áo chùng thâm mới có được
cái chính nghĩa “nhiệm vụ khai hóa”
(mission civilisatrice); các tu sĩ
Thiên Chúa giáo phải được che chở bằng
súng đạn của bộ máy xâm lược mới b́nh
định được các cuộc chống ngoại xâm bản
xứ để rao truyền đức tin của Chúa
Kitô. Đó là quyền lợi hỗ tương giữa
Giáo truyền và Thế quyền mà lịch sử
Giáo hội La Mă và đế quốc La Mă đă
tiến hành từ thế kỷ thứ 4 và hiện vẫn
c̣n là mối đe dọa lớn cho sự sinh tồn
của Giáo hội, và chính Đức Giáo Hoàng
John Paul II vào năm 1978 đă phải lên
tiếng cảnh cáo rằng “khói lửa của quỷ
Satan đă tràn vào Giáo hội”[34]. Tuy
nhiên, trong tiến tŕnh cấu kết này,
vấn đề quân phân trách nhiệm không
phải lúc nào cũng minh bạch và được
tôn trọng, Giáo hội đă có lúc vượt hạn
chế để hành xử thế quyền cũng như các
đế quốc cũng đă có lúc uy hiếp Giáo
hội để khuynh loát giáo quyền.
Những va chạm dễ hiểu đó đă chạy dài
suốt quá tŕnh phát triển của Giáo hội
La Mă và các đế quốc Địa Trung Hải, và
ở một kích thước nhỏ hơn nhưng rơ rệt
hơn, đă thể hiện rơ ràng trong cuộc
xâm thực văn hóa–chính trị trên đất
nước ta trong những triều đại nhà
Nguyễn. Ví dụ hiển nhiên nhất là chính
sách ngu dân của Pháp t́m đủ mọi cách
để duy tŕ và khuyến khích các truyền
thống và h́nh thái cổ tục của dân ta,
trong khi các vị truyền đạo lại t́m đủ
mọi cách để đả phá và bài trừ những
tục lệ cổ truyền đó của văn hóa dân
tộc để dễ dàng len lỏi giáo lư Thiên
Chúa giáo vào tín ngưỡng dân ta.
Chính Giám mục Puginier đă chủ trương
trong 30 năm phải thực hiện cho xong
công cuộc Công giáo hóa toàn bộ Bắc kỳ
để biến miền này thành một tỉnh quận
của Pháp gồm toàn người Việt theo đạo
Công giáo, trong khi đó th́ Toàn quyền
Đông Dương Lanessan lại t́m cách gây
cảm t́nh với người Việt, đối đăi với
người Việt theo lễ phép và phong tục
địa phương, nhiều khi c̣n long trọng
đến dự lễ khánh thành các chùa đền,
lăng miếu. Chính sách của Lanessan đă
làm cho các giáo đoàn e sợ, v́ thế
giáo đoàn phải vận động để Lanessan bị
mất chức và bị triệu hồi về Pháp.
V́ các viên chức cai trị Pháp ở Đông
Dương không thể chịu đựng măi sự thao
túng của các vị cố đạo, nên nhân dịp
triều đ́nh An Nam chỉnh đốn nội bộ lúc
vua trẻ Bảo Đại mới về nước, họ bèn
đặt ông Phạm Quỳnh là người thân tín
của họ vào để cản trở những kế hoạch
của Hội Truyền giáo mà ông Ngô Đ́nh
Diệm là đại diện. Trong cuộc tranh
chấp này, Sở Chính Trị không những chỉ
phải lo đối phó với ông Ngô Đ́nh Diệm
mà c̣n muốn nắm vững bà Nam Phương
Hoàng Hậu vốn cũng là con bài của Hội
Truyền Giáo, họ bèn đặt cạnh bà một
người thân tín khác của họ làm bí thư,
đó là ông Nguyễn Tiến Lăng, một người
của toàn quyền Robin. Thật ra, không
phải chỉ v́ không đ̣i hỏi được những
cải cách mà ông Diệm xin từ chức ngay,
chứng cớ là hơn mười năm làm quan
Huyện quan Tỉnh, ông vẫn thi hành
chính sách của người Pháp một cách yên
lặng. Đă vậy, trong các cuộc tranh
luận công khai, ông Diệm lại bị đàn áp
về lư luận cũng như về ngôn ngữ trước
tài hùng biện và kiến thức uyên bác
của một Phạm Quỳnh vừa là nhà báo vừa
là học giả lại kém phẩm hàm hơn ông.
Theo dơi cuộc đời chính trị của ông
Diệm, ta thấy số mạng đă an bài cho
ông luôn luôn nắm giữ những chức vụ
chỉ huy, an định ở những vị trí lănh
đạo. Làm quan triều Nguyễn hai đời
vua, ông không hề giữ những chức vụ
thừa hành ở các Viện hay các Bộ mà chỉ
làm Tri Huyện, Tri Phủ, Quản Đạo, Tuần
Vũ rồi cuối cùng là làm một vị Thượng
Thư giang sơn một cơi. Sau này, th́
làm Thủ tướng toàn quyền cho một vị
vua biệt xứ để rồi cuối cùng trở thành
một vị Tổng thống mà không bị Tư pháp
và Lập pháp phân quyền hoặc kiểm
quyền. Quan niệm lănh đạo của ông Diệm
là luôn luôn đ̣i cho được toàn quyền
dù khả năng không đủ để cáng đáng, dù
t́nh h́nh phức tạp khó khăn đ̣i hỏi
một sự tản quyền và phân quyền hợp lư.
Thời làm Thủ tướng (1954–55), ông Diệm
đ̣i Bảo Đại trao cho ông toàn quyền và
thề sẽ bảo vệ lănh thổ toàn vẹn dù sau
đó trở nên lúng túng và tê liệt, đành
phải bỏ rơi Bắc Việt. Trước đó, thời
làm Thượng Thư Bộ Lại (1933), ông cũng
đă đ̣i toàn quyền để cải cách xă hội
mà không biết rằng những cải cách đó,
nếu thực hiện được, chỉ làm đẹp thêm
vai tṛ thực dân và làm mạnh thêm vị
trí bảo hộ của người Pháp tại Việt
Nam. Huống ǵ là người của Hội Truyền
Giáo Hải Ngoại Pháp, ông làm sao đi
ngược lại được chính sách thực dân của
Hội, làm sao lên án và tiêu trừ được
những hành vi áp bức quá khích của các
vị cố đạo đối với lương dân.
Trong Việt Nam Pháp Thuộc Sử của giáo
sư Phan Khoang, trong Lịch Sử Nội
Chiến Việt Nam của giáo sư Tạ Chí Đại
Trường, trong rất nhiều lời kêu gọi
của cụ Phan Bội Châu, ta đă biết rơ
ràng và đầy đủ việc các vị Cố đạo dựa
vào bạo lực của quân đội viễn chinh
Pháp để bênh vực con chiên mà áp bức
người lương [35]. Ở đây, tôi xin dẫn
chứng thêm nhận định của học giả Đào
Trinh Nhất khi phê phán những tệ hại
do các Cố đạo gây ra:
… Thật thế, các ông ấy giảng đạo,
song nếu “con chiên” có chuyện ǵ
kiện cáo với lương dân, tức thời các
ông mang bộ “áo dài thâm” vào rồi
thân hành lên quan Phủ, quan Huyện
kêu nài, và dọa nạt quan Phủ, quan
Huyện phải xử cho con chiên được
kiện. Nếu quan không bênh vực theo ư
muốn của các ông th́ các ông hăm dọa
lên nói với quan Công sứ t́m cách ám
hại. Các ông cố đạo gọi dân đến dụ
dỗ, hễ đứa nào chịu theo Đạo th́
lănh sáu đồng bạc. Những đứa đă ngửa
tay lấy tiền để đi Đạo th́ c̣n có ra
hồn ǵ đâu. Lấy tiền xong chúng về
làng dọa nạt anh em đồng bào ḿnh:
“Bây liệu hồn, chúng tao đây đă có
Tây đỡ đầu, nếu bây dám chửi tao,
gây gổ với tao là tao nướng xác của
bây và lấy hết của cải của bây”. Đêm
tối, chúng nó chụm lửa tự đốt tiêu
nhà tranh vách nát của chúng để rồi
la làng giá họa vu oan cho bọn Văn
Thân, bọn dân lương. Thế là chúng
vừa lấy được tiền của nhà nước mà
bọn lương dân kia th́ phải tù tội
[36].
Với một t́nh trạng xă hội “quan tha ma
bắt” như thế, với một triều đ́nh bạc
nhược thối nát như thế, thử hỏi ông
Diệm dù có đ̣i hỏi thật sự th́ làm sao
ông có thể thực hiện những cải cách
được. Dưới thời Cộng Ḥa, là một Tổng
thống toàn quyền mà ông c̣n để cho các
Linh mục và nhóm Cần Lao khủng bố áp
bức lương dân th́ dưới thời Pháp
thuộc, ông làm sao có thể chống lại
chính sách của Hội Truyền giáo và
chống lại cái bổn phận tông đồ của
ông, khi chính ông là một vị quan tay
sai của Pháp, tay chân của Giáo Hội.
Cho nên năm 1933, dù người Pháp có để
cho ông Diệm thực hiện những cuộc cải
cách th́ ông Diệm cũng chỉ làm được
công việc tô vẽ cho chiếc lồng đẹp đẽ
hơn, nặn đúc cho cái chậu rộng lớn
hơn, nhưng dân Việt Nam vẫn là thứ dân
cá chậu chim lồng, thứ dân bị ru ngủ
để thực dân Pháp củng cố và kéo dài
nền đô hộ. Dưới thời quân Nhật chiếm
đóng (1941-45), Toàn quyền Decoux v́
sợ dân ngă theo Nhật Bản đă đưa ra
nhiều cải cách rộng lớn như mở viện
“Nhân Dân đại biểu”, như b́nh đẳng hóa
nhiều ngạch công chức Pháp–Việt, ngạch
sĩ quan Pháp–Việt, như mở thêm trường
đại học… Thế mà chính phủ Bảo Hộ vẫn
vững vàng, dân Việt Nam vẫn là dân
thuộc địa cho đến khi có cuộc cách
mạng của chính dân Việt nổi lên th́
mới thực sự được giải thoát khỏi gông
cùm.
Như vậy, việc ông Diệm từ chức Thượng
thư rơ ràng phần lớn là do áp lực của
người Pháp và Phạm Quỳnh. Riêng Bảo
Đại, khi cho thu hồi bằng sắc, huy
chương của ông Diệm chẳng qua cũng chỉ
như ông Diệm, nghĩa là v́ áp lực của
thực dân mà chính vua Bảo Đại, trong
công việc này, cũng tỏ ra bất măn với
người Pháp, tỏ ra luyến tiếc sự ra đi
của một trung thần mà ḍng họ đă ba
đời khuông pḥ nhà Nguyễn, mà thế hệ
anh em ông Diệm đă là thần tử tận tụy
với tiên vương. Thế mà sau khi từ
chức, ông Diệm lại pḥ Cường Để với ư
đồ nhờ quân đội Nhật Bản lật đổ ngai
vàng của Bảo Đại. Trước sự phản bội
của ông Diệm, vua Bảo Đại vẫn không
thù oán, vẫn nhớ đến kẻ cựu thần, hai
lần đánh điện vào Sài G̣n mời ông Diệm
về lập chính phủ. Không ngờ người Nhật
đă bỏ rơi lá bài Cường Để và Ngô Đ́nh
Diệm, và do đó không chịu trao điện
tín lại làm cho cuộc tái hợp vua tôi
không thành tựu, và cũng do đó mà vua
Bảo Đại phải mời học giả Trần Trọng
Kim làm Thủ Tướng. Nhưng rồi Việt Minh
cướp chính quyền, vua Bảo Đại từ bỏ
ngai vàng trở thành một công dân, rồi
làm Tối cao Cố vấn cho ông Hồ Chí Minh
trong lúc ông Ngô Đ́nh Diệm bị Việt
Minh đày ải nơi miền sơn cước, gần
biên giới Hoa–Việt.
Chính trị đúng là tấn tuồng muôn mặt
v́ có ai ngờ việc quân Pháp trở lại
Việt Nam lại gián tiếp giải thoát được
cả cho hai ông Bảo Đại lẫn Ngô Đ́nh
Diệm khỏi ṿng kềm kẹp của ông Hồ Chí
Minh để Bảo Đại đi Hồng Kông và hai
năm sau trở thành đối thủ của ông Hồ,
c̣n ông Ngô Đ́nh Diệm trở về Sài G̣n
để một lần nữa quay về với vị Vua mà
ḿnh đă hai lần bội phản.
Năm 1947–1948, khi Pháp bỏ giải pháp
Hồ Chí Minh để quay về thương thuyết
với Cựu Hoàng Bảo Đại trong âm mưu sử
dụng ông vua bù nh́n cũ hầu tái lập
nền thuộc địa, th́ ông Diệm, hơn ai
hết, đă nhận biết được Bảo Đại chính
là người của thời cuộc, chính là tụ
điểm cần thiết cho lực lượng quốc gia
trong bối cảnh đất nước lúc bấy giờ.
V́ vậy, cùng với một số chính khách
thuộc nhiều khuynh hướng và tổ chức
khác nhau, ông Diệm đă qua Hồng Kông
hội kiến và thảo luận với vua Bảo Đại
để t́m một giải pháp chống Cộng cứu
nước.
Kết quả của những thảo luận này là sự
mâu thuẫn về mục tiêu đấu tranh giữa
ông Diệm và các chính khách khác, dù
sách lược đấu tranh của cả hai phía
hoàn toàn giống nhau. Nghĩa là trong
cái thế tam phân lực lượng lúc bấy giờ
(Việt Minh kháng chiến, Pháp bảo hộ và
Bảo Đại quốc gia), mà lực lượng chính
trị chống Cộng của người Việt Nam th́
không có được một hậu thuẫn nhân dân
và một sức mạnh vơ lực đáng kể, th́
phương thức đấu tranh c̣n lại duy nhất
là những vận động ngoại giao. Tuy
nhiên, trong khi các chính khách khác
chủ trương vận động cho một nước Việt
Nam Độc Lập dần dần th́ ông Diệm chủ
trương vận động cho một Việt Nam độc
lập theo quy chế Dominion (tương tự
như Khối Thịnh Vượng Chung của Anh).
Được sự đồng ư của vua Bảo Đại và được
ủy thác thi hành công tác này, ông trở
về Sài G̣n và bắt đầu vận động theo
chiều hướng đó. Nhưng ông đă hoàn toàn
thất bại trong nỗ lực này và do đó,
quyết định ở lại Sài G̣n để tiếp tục
hoạt động chính trị qua các phương
tiện truyền thông và báo chí để chống
lại vua Bảo Đại và Pháp.
Năm 1949, ông bảo trợ cho nhật báo Hoa
Lư do một người đồng hương là ông Đinh
Xuân Tiếu, tự là Thiết Mộc, làm chủ
nhiệm kiêm chủ bút mà hai cộng sự viên
thân tín nhất là Huỳnh Hoài Lạc và
Phan Xứng ở trong ban biên tập và ông
Hồ Sĩ Khuê là giám đốc chính trị. Ông
Diệm chủ trương thân thiện với Thủ
tướng Nguyễn Văn Xuân và đối lập với
các chính khách khác. Đến thời ông
Trần Văn Hữu giữ chức Thủ Hiến Nam
Phần (1948-49), ông Đinh Xuân Tiếu bị
ám sát, nhật báo Hoa Lư tự ư đ́nh bản
vĩnh viễn. Song song với nhật báo Hoa
Lư, ông Diệm c̣n được sự yểm trợ của
tuần báo Tinh Thần của nhóm các bác sĩ
Trần Văn Đỗ, Nguyễn Tăng Nguyên, Huỳnh
Kim Hữu.
Tôi xin mở một dấu ngoặc để nói thêm
rằng trụ sở của nhật báo Hoa Lư ở tầng
giữa của ngôi biệt thự lầu số 152
đường Général De Gaulle, tức là đường
Công Lư sau này. Tầng trên do một
người Pháp làm việc cho Pḥng Nh́ Pháp
chiếm cứ, c̣n tầng dưới th́ thuộc về
văn pḥng và gia đ́nh của luật sư
Nguyễn Hữu Thọ. Lúc bấy giờ v́ cả ông
Diệm lẫn luật sư Nguyễn Hữu Thọ đều là
những nhân vật chính trị chống Pháp và
chống những chính phủ đương thời cho
nên hai người liên hệ với nhau rất
tương đắc. Nhưng đến năm 1954, 1955,
khi ông Nguyễn Hữu Thọ ở trong Phong
trào Ḥa B́nh, anh em ông Diệm bắt ông
Thọ quản thúc ở Tuy Ḥa, từ đó ông Thọ
trở nên con người cho Hà Nội khai
thác. Thật ra Luật sư Nguyễn Hữu Thọ
cũng như Dược sĩ Trần Kim Quan và tiến
sĩ Âu Trường Thanh (hiện ở Pháp)…
không phải là Cộng Sản, nếu anh em ông
Diệm khôn khéo hơn, không chủ trương
độc tài mà thực hiện một chính sách
cởi mở hơn với mọi thành phần quốc gia
th́ ắt hẳn ông Nguyễn Hữu Thọ đă không
theo Hà Nội làm Chủ tịch Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam sau này.
Lại cũng phải nói thêm rằng, sau này,
khi ông Diệm làm Tổng thống được một
thời gian, hai cộng sự viên của ông
trong ban biên tập nhật báo Hoa Lư là
các ông Phan Xứng và Huỳnh Hoài Lạc
cũng trở thành những phần tử bất măn
với chính ông và chế độ của ông. C̣n
ông Đinh Xuân Tiếu, người đă hy sinh
tính mạng ḿnh cho ông Diệm, có người
chú là luật gia Đinh Xuân Quảng th́
cũng trở thành đối lập với ông Diệm
nên bị bắt giam một thời gian, sau đó
ông lại có chân trong Mặt Trận Dân Chủ
Tự Do của bác sĩ Phan Quang Đán nên bị
chế độ ông Diệm bắt giam vào tù thêm
một lần thứ hai nữa.
Giữa năm 1949, Quốc trưởng Bảo Đại về
nước lănh đạo quốc gia, đặt văn pḥng
tại Đà Lạt để tránh cái nghênh ngang
của Cao ủy Pháp đang ngự trị tại dinh
Norodom Sài G̣n. Không lẽ Quốc trưởng
mà lại ở dinh Gia Long, sao c̣n thể
thống?
Người ngoài không ai biết được giữa
ông Bảo Đại và ông Ngô Đ́nh Diệm có
liên lạc công khai hay bí mật nào
không, nhưng có một điều chắc chắn là
ông bà Ngô Đ́nh Nhu (vốn ở đường Hoa
Hồng tại Đà Lạt) vẫn giao du với Quốc
trưởng, đặc biệt là bà Nhu, mỗi tuần
ba bốn lần, có khi cả ban đêm, thường
đến Biệt điện số Một, nơi Quốc trưởng
trú ngụ, để dạy Quốc trưởng đàn dương
cầm. Việc này th́ nhân viên văn pḥng
đức Quốc trưởng và ngự lâm quân không
mấy ai không biết.
Môi trường và các thế lực chính trị
lúc bấy giờ tại Việt Nam quả thật
không thuận lợi cho những nỗ lực hoạt
động của ông Diệm. Ngoài kẻ thù Cộng
Sản đang điều động kháng chiến, các
lực lượng chống Cộng khác như chính
quyền Pháp th́ không tin tưởng ở ông,
chính phủ Việt Nam mà thể hiện rơ ràng
là thành phần lănh đạo th́ chống ông,
các đảng phái và giáo phái th́ nghi
ngờ ông, đại đa số giáo dân và giám
mục Lê Hữu Từ cũng không đặt kỳ vọng
hay dành thiện cảm cho ông. Triển vọng
của ông Diệm để xây dựng một thế đứng
chính trị thoát dậy từ một trạng huống
như vậy để tiến lên áp lực vua Bảo Đại
hầu được ủy nhiệm làm Thủ tướng nắm
chính quyền, tỏ ra rất mong manh, nếu
không muốn nói là vô vọng.
Lượng giá đúng như vậy cho nên lối
thoát c̣n lại cho ông Diệm để khai
thông bế tắc sự nghiệp chính trị của
đời ḿnh là nương dựa vào ngoại lực để
áp đảo và san định t́nh h́nh trong
nước. Đối với ông Diệm, phương thức
này không phải là mới mẻ. Thời đô hộ,
ông dựa vào Hội Truyền giáo và thực
dân Pháp để làm quan; thời Nhật chiếm
đóng, ông dựa vào người Nhật để hoạt
động, cho nên bây giờ, trong bối cảnh
của cuộc chiến tranh Pháp–Việt, với
một chính thể quốc trưởng Bảo Đại
không thuận lợi cho ông, ông bèn, dĩ
nhiên, t́m một thế lực quốc tế khác để
nhờ cậy. Cuối năm 1950, ông xuất ngoại
măi cho đến năm 1954, nhờ thế lực của
Ṭa Thánh La Mă, của Hồng Y Spellman,
của phong trào Cộng Ḥa B́nh Dân Thiên
Chúa giáo Pháp (MRP), và đặc biệt là
nhờ Hoa Kỳ làm áp lực với chính quyền
Pháp cùng Bảo Đại, và cũng nhờ vận
động ngầm của Nam Phương Hoàng Hậu,
cuối cùng ông Diệm đă được Quốc trưởng
chỉ định làm Thủ tướng.
Bác sĩ Phan Huy Quát, nguyên Bộ trưởng
trong nội các của ông Bửu Lộc, đă cho
tôi biết rằng sau ngày Nội các Bửu Lộc
họp lần chót ở lâu đài Thorence dưới
quyền chủ tọa của Quốc trưởng Bảo Đại,
nhiều vị Bộ trưởng đă tỏ ra bất măn về
việc đề cử ông Diệm làm Thủ tướng,
nhưng vua Bảo Đại đă gạt đi:
“Tôi là Việt gian của Pháp, Ngô Đ́nh
Diệm là Việt gian của Mỹ. Nay thời của
Pháp đă hết mà Mỹ th́ đang lăm le nhảy
vào Việt Nam, tại sao ta lại không
giao chánh quyền cho Ngô Đ́nh Diệm để
nhờ Mỹ bảo vệ Việt Nam”.
Đó là lời nói chí t́nh tha thiết muốn
bảo vệ quê hưong trước một t́nh thế
khó khăn của một Bảo Đại không hẹp ḥi
và cố chấp, mà ngược lại, lại có tinh
thần trách nhiệm của một cấp lănh đạo
quốc gia. Vua Bảo Đại trao trọn quyền
hành chánh và quân sự cho ông Ngô Đ́nh
Diệm mà chỉ đổi lấy một lời thề, lời
thề trước Chúa, phải bảo vệ quê hương.
Lời thề này cũng hàm ư phải trung
thành với Quốc trưởng, v́ trước ông
Diệm cũng đă có 5 vị thủ tướng nhưng
không có một vị nào bị vua Bảo Đại bắt
thề trước khi nhận chức vụ và quyền
hành cả (ngoại trừ lễ tŕnh diện chính
phủ).
Sau lời thề “tận trung báo quốc” năm
1954 đó, Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm lên
đường về nước để lèo lái con thuyền
quốc gia trước cơn sóng gió, trong lúc
Quốc trưởng Bảo Đại c̣n ở lại Pháp để
theo dơi cuộc Hội đàm Genève định đoạt
số phận đất nước và tranh đấu quyết
liệt với Pháp để giành lại trọn vẹn
chủ quyền quốc gia [37].
Như vậy, sau 6 năm trời xa lánh Quốc
trưởng mà trong đó có hơn 4 năm “lê
gót nơi quê người”, 6 năm xa lánh
trong tư thế đối lập với cá nhân vị
Quốc trưởng chứ không phải với chế độ
của Quốc trưởng, cuối cùng ông Diệm
lại quay về để nhận chức Thủ Tướng do
chính Quốc trưởng bổ nhiệm. Dù sự bổ
nhiệm đó có dưới áp lực của Mỹ th́ nó
cũng mang cùng bản chất với những bổ
nhiệm dưới áp lực của Pháp của ba vị
thủ tướng tiền nhiệm là các ông Nguyễn
Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn
Tâm. Với tư cách Thủ tướng, ông Diệm
đă kư tất cả các văn kiện chính thức
dưới ḍng chữ “Thừa lệnh Đức Quốc
Trưởng”, ông đă đứng dưới ngọn cờ vàng
ba sọc đỏ do vua Bảo Đại khai sinh để
chống Cộng Sản, ông cũng đă trông cậy
hoàn toàn vào quân đội quốc gia của
vua Bảo Đại, lực lượng mà ông từng chê
bai là “lính đánh thuê cho Pháp”, để
dẹp B́nh Xuyên và các giáo phái hầu
xây dựng và củng cố quyền lực lẫn địa
vị cho ông.
Tuy nhiên, cuộc tái hợp giữa Cựu Hoàng
và vị cựu thần nhà Nguyễn chỉ là một
hệ quả tạm thời của cuộc tranh chấp
chính trị Mỹ–Pháp, nên chỉ sau mấy
tháng phải tan vỡ. Hồi cuối cùng của
tấn tuồng trăm năm đô hộ là những diễn
viên tận t́nh múa may cho vừa ḷng các
đạo diễn nhiều phù phép: Diễn viên Hồ
Chí Minh khoác áo dân tộc, lănh đạo
cuộc kháng chiến; diễn viên Bảo Đại
đóng vai quốc gia bám vào lực lượng
người Pháp để kháng Cộng; và diễn viên
Ngô Đ́nh Diệm dựa vào thế lực Mỹ để
t́m cách thay thế Bảo Đại trong cuộc
tương tranh Quốc–Cộng. Trên mặt lịch
sử và hiển hiện trong thực tế, đó là
cuộc đấu tranh quyền lực của những tay
sai bản xứ, mà dân tộc, đau đớn thay,
lại là nạn nhân bất lực bị cuốn hút
vào. Trong chiều dài của cuộc đấu
tranh sống mái Quốc–Cộng, nếu phía
Cộng Sản chỉ có một hậu phương lớn là
khối Cộng Sản quốc tế, một cấp lănh
đạo duy nhất là đảng Cộng Sản Việt
Nam, th́ ngược lại, phía những lực
lượng gọi là quốc gia, v́ không đủ tư
cách và khả năng vận dụng được sinh
lực của dân tộc nên liên tục thay thầy
đổi tớ. Trong những năm từ 1953 đến
1956, mà cao điểm là cuộc Trưng Cầu
Dân Ư vào ngày 23 tháng 10 năm 1955,
Ngô Đ́nh Diệm phải thay Bảo Đại cho
phù hợp với ông thầy Pháp đă nhường
quyền cho ông chủ Mỹ trên quê hương
ta.
Cuộc Trưng Cầu Dân Ư do chính quyền
đương nhiệm của ông Diệm đứng ra tổ
chức và cũng do chính quyền đương
nhiệm (dưới h́nh thức Quốc Hội Lập
Hiến) kiểm soát. Ngày 23 tháng 10 năm
1955, dân chúng miền Nam Việt Nam đến
pḥng phiếu để chọn lựa giữa hai ông
Bảo Đại và Ngô Đ́nh Diệm theo khẩu
hiệu đă được chính quyền và Phong trào
Cách mạng Quốc gia giáo dục trước:
“Xanh bỏ giỏ, Đỏ bỏ b́”, hoặc:
*********** Phiếu đỏ ta bỏ vô b́
*********** Phiếu xanh Bảo Đại ta
th́ vất đi.
Kết quả chính thức cuộc Trưng Cầu Dân
Ư được đăng vào công báo là 5.721.735
phiếu đỏ có h́nh ông Diệm (98.2%) và
63.107 phiếu xanh có h́nh vua Bảo Đại
(1.1%). Tại Sài G̣n, tổng số cử tri là
450.000 người mà số phiếu bỏ cho ông
Diệm lên đến 650.000, nghĩa là số
phiếu gian lận là 200.000. Giữa thủ đô
Sài G̣n có tai mắt quốc tế mà c̣n gian
lận trắng trợn đến thế, thử hỏi tại
các tỉnh, tại thôn quê th́ sự gian lận
đến mức độ nào?
Buồn cười là sự gian lận này đă bị đại
tá CIA Lansdale, cố vấn Mỹ của ông
Diệm, đoán trước thế nào cũng sẽ xảy
ra nên đă cảnh cáo ông Diệm. Sau khi
giúp ông Diệm đánh dẹp được B́nh Xuyên
rồi, Lansdale khuyên ông Diệm phải tổ
chức “Trưng cầu Dân Ư” để truất phế
Bảo Đại cho có chánh nghĩa. Trước ngày
lên đường về Mỹ để lánh mặt cuộc “Tổng
Tuyển Cử”, Lansdale c̣n dặn ông Diệm:
“Trong lúc đi vắng, tôi không muốn
bỗng nhiên nhận được tin ông thắng
99.99 phần trăm, v́ biết đó là âm mưu
sắp đặt trước”[38]. Và ông Diệm đă
vâng lời để chỉ thắng… 98.2 phần trăm!
Lansdale bảo ông Diệm nên tỏ ra công
bằng và chỉ cần thu lượm được một đa
số phiếu tương đối là tốt đẹp rồi,
không nên tham lam quá. Nhưng với bản
chất muốn cho ḿnh cái ǵ cũng “Nhất”,
anh em ông Diệm bèn tổ chức bầu cử
gian lận. Khốn nỗi, việc gian lận quá
lộ liễu xảy ra ngay tại thủ đô Sài G̣n
để cho ngoại giao đoàn và báo chí quốc
tế biết được.
Nói cho cùng th́ nếu không tổ chức bầu
cử gian lận chưa chắc ông Diệm đă đắc
thắng vẻ vang. Thật thế, nh́n vào bối
cảnh đất nước vào mùa Thu 1955, lực
lượng nhân dân hướng về ông Bảo Đại
vẫn c̣n đông đảo: Cao Đài, Ḥa Hảo,
Đại Việt, Việt Quốc, Duy Dân, Nguyễn
Phước tộc, khối người miền Nam không
ưa người miền Bắc, khối người miền Nam
c̣n nhớ ơn nhà Nguyễn, khối dân tộc
thiểu số của Hoàng Triều Cương Thổ, số
người thân Pháp v.v… có thể làm lệch
cán cân “Trưng cầu Dân Ư”. Nhưng quyền
lực trong tay, thủ đoạn gian lận và
tiền bạc của Mỹ đă giúp ông Diệm đánh
ngă vị cựu Quốc trưởng của ông một
cách dễ dàng.
Tuy nhiên, dù gian lận th́ kết quả
cuộc đầu phiếu, riêng đối với ông
Diệm, cũng đă giúp ông đạt được hai
mục tiêu mà ông đă nhắm đến là tŕnh
diện được một bề mặt dân chủ với chính
quyền lẫn Quốc hội Hoa Kỳ, và nâng cao
uy thế cá nhân của ông lên đến mức độ
tôn sùng như một vị cứu tinh anh minh
của dân tộc [39]. Riếng đối với dân
tộc Việt Nam, ngày 23 tháng 10 năm
1955 có một ư nghĩa lịch sử quan trọng
hơn hẳn những mục tiêu chính trị giai
đoạn của ông Diệm. Đó là ngày chấm dứt
triều đại nhà Nguyễn và chế độ quân
chủ tại Việt Nam và trao lại quyền
quản trị đất nước để chống Cộng, và
quan trọng hơn cả, để xây dựng nền
móng cho kỷ nguyên dân chủ sau này.
Chính sách và chế độ ông Diệm 9 năm
sau đó có làm cho nền móng đó thui
chột và có làm cho Cộng Sản mạnh thêm
là tội của ông và gia đ́nh ông đă phản
bội lại những lá phiếu tín nhiệm của
nhân dân Việt Nam thể hiện trong ngày
23 tháng 10 lịch sử này.
Bên lề của biến cố này có hai nhận
định tôi cần ghi lại ở đây như tiếng
thở dài chán chường của nhân thế vẫn
thường vang vọng trong những nổi trôi
của lịch sử. Nhận định thứ nhất về ông
Ngô Đ́nh Diệm của Thủ hiến Bắc Việt
Nguyễn Hữu Trí chỉ một năm trước ngày
trưng cầu dân ư: “Ông Diệm là người
đạo gốc, lại mấy đời thờ nhà Nguyễn,
chắc chắn là tôn quân bảo hoàng và hết
ḷng với Quốc trưởng Bảo Đại, tài cán
ông Diệm th́ chưa ai rơ nhưng trung
thành với Ngài th́ tôi có thể tin”
[40].
Và nhận định thứ hai về ông Bảo Đại
của kư giả Stanley Karnow gần một phần
tư thế kỷ sau: “… Khi cử ông Diệm làm
Thủ tướng, Bảo Đại có ngờ đâu chính
quyết định của ḿnh lại là một hành
động tự ư đào huyệt chôn vùi sự nghiệp
chính trị của ḿnh” [41]. Thế là ông
Ngô Đ́nh Diệm từ chủ trương cho Việt
Nam quy chế “quân chủ lập hiến” với
một Bảo Đại là nhà vua, một Ngô Đ́nh
Diệm là Thủ tướng, đă đưa miền Nam
Việt Nam đến một thể chế “Cộng Ḥa” mà
ông là vị Tổng thống đầu tiên, c̣n vị
vua đă từng bổ nhiệm ông làm Thủ
tướng, từ nay trở thành kẻ lưu vong
biệt xứ, ngậm đắng nuốt cay nơi đất
khách quê người.
*
-o0o-
*
Năm 1955, với vị thế là cán bộ chính
trị trung kiên của Thủ tướng Ngô Đ́nh
Diệm, với tư cách là chủ tịch phong
trào Cách Mạng Quốc gia của bốn tỉnh
duyên hải miền Nam Trung phần, tôi đă
hăng say hoạt động cho chiến dịch
truất phế vua Bảo Đại mà tôi cho là
không c̣n đủ khả năng lănh đạo cuộc
đấu tranh chống Cộng, và không c̣n đủ
vóc dáng để khai mở một kỷ nguyên dân
chủ cho đất nước nữa.
Thật ra th́ dân ư đang đ̣i hỏi và
hướng về một cuộc thay đổi gốc rễ để
đáp ứng với biến đổi mới của thời đại.
Nhưng những tài liệu do Bộ Thông Tin
Sài G̣n gởi ra cũng như những chỉ thị
mật của Phong Trào Cách Mạng Quốc gia
từ Huế gởi vào cho tôi đều chủ yếu tập
trung vào việc lên án những tội lỗi
của vua Bảo Đại vô đức vô tài… Lên án
không chưa đủ, chỉ thị c̣n bắt phải
khơi dậy ḷng căm thù ông Bảo Đại
trong quần chúng nữa!
Cả một chiến dịch bao trùm từ Cà Mâu
đến Bến Hải do chính quyền yểm trợ
trên cả hai mặt nội dung lẫn phương
tiện, hung hăng và rầm rộ t́m cách đạp
Bảo Đại xuống bùn dơ của lịch sử. Cả
nước được vận động để phỉ nhổ Bảo Đại
như là một hiện thân xấu xa nhất hơn
cả Lê Chiêu Thống và Lê Long Đĩnh. Hai
đài phát thanh Sài G̣n và Huế, phối
hợp với báo chí trong gần một tháng
trời, liên tục mạt sát ông Bảo Đại và
thúc dục dân chúng quất roi và đốt lửa
những h́nh nộm Bảo Đại. Chiến dịch to
lớn của một nhân vật quốc gia chống
Cộng (theo Mỹ) để truất phế một nhân
vật quốc gia khác cũng chống Cộng
(nhưng theo Tây) c̣n tàn độc và khủng
khiếp hơn chiến dịch hạ bệ Bảo Đại của
kẻ thù là Cộng Sản Việt Minh thời
1948, 1949, khi giải pháp Bảo Đại mới
ra đời để đối phó với ông Hồ Chí Minh.
Sau biến cố đó, nghĩa là khi kết quả
chính thức đă được công bố và thể hiện
tượng trưng là việc thu hồi chiếc du
thuyền của vua Bảo Đại và ngôi biệt
thự một tầng ở đường Công Lư của bà Từ
Cung, vị Cựu Hoàng âm thầm lui vào
bóng tối để kéo dài cuộc sống tha
hương, c̣n bà Từ Cung th́ được phép
trở về An Định Cung An Cựu ở ngoại
Hoàng thành Huế để sống nốt chuỗi ngày
già lăo. Trong thảm cảnh đau thương
đó, có lẽ đêm đêm bà đă ngậm ngùi ngâm
câu thơ cũ, khóc thương cho một triều
đại suy tàn để nhớ tiếc triều đại nhà
Nguyễn của Bà:
*********************** Cung miếu
triều xưa đâu vắng ngắt,
*********************** Trăng mờ
khắc khoải quốc kêu thâu.
*************************
************************* *********
(Chu Mạnh Trinh)*****
*
Trong gần mười năm kể từ biến cố đó,
cho đến khi ông Diệm bị lật đổ và giết
chết năm 1963, rồi ông Hồ Chí Minh từ
giă cuộc đời vào năm 1969, quê hương
đă trải qua bao độ thăng trầm và dân
tộc đă nhận chịu biết bao thống khổ.
Gần mười năm đọa đày trong tang tóc và
binh lửa mà ba nhân vật lịch sử đă
từng hằn in dấu tích của ḿnh trong
ḍng sông lịch sử, th́ nay mỗi người
một ngả, mỗi người một số phận: Hai
ông Hồ Chí Minh và Ngô Đ́nh Diệm đă ra
người thiên cổ để lại rất nhiều nợ nần
oan trái cho dân tộc, c̣n cựu hoàng
Bảo Đại th́ kéo dài cuộc sống tha
hương vô vị mà ngày trở về quê cũ chỉ
c̣n có thể có trong giấc mộng mà thôi.
Tôi không dám bắt chước tiền nhân làm
công việc “cái quan định luận” về giai
đoạn truân chuyên này của lịch sử nước
ta, tôi cũng không muốn phê phán ông
Hồ Chí Minh v́ cả nước đều đă biết
công tội của ông ta, mà tôi chỉ muốn
để ḷng ḿnh lắng xuống trong những
ngày tháng c̣n lại của cuộc đời biệt
xứ, để tự tâm nh́n về hai nhân vật Bảo
Đại và Ngô Đ́nh Diệm bằng cái nh́n của
người không những đă kinh qua cả hai
chế độ trong tư thế của một cán bộ đấu
tranh, mà c̣n bằng cái nh́n nghiêm
khắc của một người dân khốn khổ nhưng
vẫn luôn luôn là chủ nhân của đất
nước.
Rất nhiều tài liệu, quá nhiều tài
liệu, bằng giấy trắng mực đen hay bằng
những chứng tích đau nhục trên các
thân thể tàn phế v́ bị tra tấn đă phê
phán lên án ông Diệm cũng như chế độ
của ông: Lịch sử của sinh viên Việt
Nam, lịch sử của các đảng phái Việt
Nam, lịch sử của quân đội Việt Nam,
lịch sử của các tôn giáo lớn và nhỏ
tại Việt Nam, lịch sử của văn học Việt
Nam… nói tóm lại lịch sử Việt Nam
trước, sau, và trong chín năm ông Diệm
cầm quyền đă làm xong cái công việc
phán quyết tối hậu và chung kết rồi,
nhưng điều đó không ngăn cản nổi những
cố gắng tội nghiệp của một thiểu số
cuồng tín và ngoan cố vẫn muốn t́m
cách đánh tráo lịch sử để phục hồi lại
vị trí “cứu tinh dân tộc” và “lănh tụ
anh minh” của một ông Diệm đă nằm
trong ṿng xích sắt của lịch sử.
Đến đây không thể không nêu ra hai sự
kiện mà nhờ ánh sáng thời gian đă được
lột trần ra trước lịch sử để nhân dân
đi từ mất niềm tin đến chống đối ông
Diệm. Đó là yếu tố Tham Nhũng và yếu
tố Dâm Ô được phe nhóm ông Diệm sử
dụng để hạ nhục Bảo Đại trong chiến
dịch truất phế Cựu Hoàng. Nhưng khi
ông Diệm nắm vững được chính quyền rồi
th́ nền tham nhũng của anh em ông ta
c̣n tệ hại gấp trăm lần thời Bảo Đại.
C̣n cái huyền thoại “Cụ Ngô không
vợ không con để hiến thân cho đại
cuộc” đă trở thành câu chuyện
cười ra nước mắt.
Bêu xấu Bảo Đại nào là dâm ô nào là vợ
nọ con kia mà chính ông Ngô Đ́nh Diệm
lại dấn thân vào những cuộc t́nh bất
chính.
Ông Phạm Văn Nhu, bạn thân ông Diệm và
là cựu chủ tịch Quốc Hội, đă viết trên
nhật báo Ḥa B́nh (Sài G̣n) rằng thời
gian làm nhà đối lập với chế độ Bảo
Đại, chính ông Ngô Đ́nh Diệm đă dan
díu với một gái me Tây (xem “Làm
thế nào để giết một Tổng thống”
của Cao Thế Dung). Nhưng trước đó, vào
năm 1945, thời Nhật chiếm đóng, cũng
chính ông Ngô Đ́nh Diệm đă lừa gạt một
người con gái nhẹ dạ đến mang thai.
Năm 1958, hai mẹ con đến Sài G̣n xin
gặp nhưng bị ông Diệm từ chối nhất
định không thừa nhận đứa con trai
huyết thống của ḿnh, và cũng không
phụ cấp cho người đàn bà khốn nạn một
đồng xu cắc bạc nào.
Tài liệu này (thư và ảnh) do tướng
Trần Văn Đôn sưu tầm được trong Hồ sơ
mật dinh Gia Long sau biến cố
1-11-1963, và năm 1989 được ông giao
cho một số báo chí đăng tải. Chúng tôi
cũng trích đăng vào phần Phụ Lục cuốn
sách nầy.
Về phần Bảo Đại th́ cũng đă có rất
nhiều, nếu không muốn nói là quá nhiều
tài liệu viết về ông do các bộ phận
tuyên truyền của chế độ Ngô Đ́nh Diệm
xuất bản. Sau đó th́ cá nhân của ông
cũng như vai tṛ chính trị của ông
hoàn toàn bị quên lăng. Phê phán về
ông, một cách đại chúng và một cách
thuận lợi, th́ có những cuốn Một Cơn
Gió Bụi của học giả Trần Trọng Kim,
Phong Trào Ngũ Xă của Kư giả Phạm Văn
Bính, Việt Nam Máu Lửa của nhà cách
mạng lăo thành Nghiêm Kế Tổ. Cũng một
cách thuận lợi với rất nhiều cảm phục
là ư kiến riêng tư mà tôi nghe được
của Giám mục Lê Hữu Từ, linh mục Hoàng
Quỳnh, của các ông Nguyễn Xuân Chữ,
Trần Văn Tuyên, Nguyễn Hữu Phiếm, Trần
Quang Vinh, sử gia Phan Khoang v.v…
những nhân vật tiêu biểu cho các đảng
phái, tôn giáo.
Về phía quốc tế, dư luận thường gán
cho Bảo Đại là ông vua bù nh́n, chơi
bời trụy lạc. Những lời phê phán đó
không phải là sai lầm nếu chỉ nh́n vào
cuộc sống bên ngoài của ông Bảo Đại mà
không chịu t́m hiểu sâu sắc tâm tư
thầm kín của ông, không chịu phân tách
những hoàn cảnh khó khăn mà ông đă
phải chịu đựng. Chẳng hạn như dư luận
Pháp thường chê trách vua Bảo Đại mà
không nhớ rằng chính người Pháp đă
không để cho ông tự do hành động,
không để cho ông cầm quyền theo ư
riêng. Họ không có cái nh́n về con
người Bảo Đại như học giả Trần Trọng
Kim, như kư giả Phạm Văn Bính đă từng
tiếp xúc và sống gần gũi với ông trong
những giờ phút phức tạp khó khăn. Tuy
nhiên vẫn có những người Mỹ dày công
nghiên cứu t́nh h́nh Việt Nam như nhà
viết sử Joseph Buttinger hay Thiếu tá
Archimedes L. Patti, từng tham dự vào
những biến động tại Việt Nam vào những
năm 1945, 1946 nên đă có những cái
nh́n lịch sử vô tư hơn.
Thiếu tá Patti từng chỉ huy một nhóm
OSS nhảy dù xuống miền Việt Bắc và
giúp đỡ cho ông Hồ Chí Minh thời c̣n
quân đội Nhật Bản tại Đông Dương. Ông
đă ghi chép chi tiết những biến cố về
thời đó, khi về Mỹ ông vẫn tiếp tục
theo dơi sát t́nh h́nh Việt Nam và bắt
đầu viết sách, nhưng cho đến năm 1980,
khi mà nhiều bí ẩn lịch sử đă được
tiết lộ, ông mới cho xuất bản tác phẩm
nhan đề là “Why Vietnam?” để nói lên
những sự thật mà ông biết được. Ông
hết sức khâm phục ông Hồ Chí Minh và
Mặt Trận Việt Minh, nhưng ông vẫn ca
ngợi Bảo Đại là nhà chính trị lăo
luyện, là một người thành tâm yêu
nước.
Patti tiết lộ rằng:
Năm 1947, Mặt Trận Quốc Gia Liên
Hiệp của phe chống Cộng (do bác sĩ
Lê Văn Hoạch cầm đầu có sự tham dự
của ông Ngô Đ́nh Diệm như giáo sư
Buttinger đă kể) đề xướng ra giải
pháp Bảo Đại. Người Pháp bèn bỏ chủ
trương thương thuyết với Việt Minh
và muốn sử dụng lá bài Bảo Đại mà họ
cho là một ông vua “Playboy” dễ sai
khiến. Họ dự định chỉ để cho Bảo Đại
giành lấy một nền độc lập giả hiệu
cho Việt Nam v́ họ biết rằng Bảo Đại
không thể b́nh định được xứ sở mà
quân lực Pháp tại Đông Dương mỗi
ngày phải một gia tăng.
Người Pháp bèn thúc giục Mặt Trận Quốc
Gia Liên Hiệp đ̣i hỏi Bảo Đại phải
đứng ra thành lập một chính phủ quốc
gia, nhưng Bảo Đại từ chối v́ lẽ ông
không muốn cầm đầu một chính phủ do
người Pháp bảo trợ. Huống chi ông lại
quan niệm rằng Mặt Trận Liên Hiệp Quốc
Gia không tiêu biểu đại diện cho ai
cả, trong lúc Mặt Trận Việt Minh mới
là lực lượng chính yếu. Bảo Đại chỉ
bằng ḷng đứng ra thương thuyết với
Pháp nếu có sự thỏa hiệp nào đó của
Việt Minh.
Cho đến mùa hè năm 1947, khi Bảo Đại
biết chắc chính phủ Pháp do đảng Cộng
Ḥa B́nh Dân cầm đầu cương quyết bỏ
hẳn việc đàm thoại với Việt Minh, Bảo
Đại mới công khai tuyên bố chống lại
Việt Minh. Dư luận đồn rằng việc Bảo
Đại đưa ra lập trường chống Cộng rơ
rệt là có ư khuyến khích Hoa Kỳ giúp
đỡ Bảo Đại chống lại tham vọng của
Pháp, như Hoa Kỳ đă ảnh hưởng Ḥa Lan
giúp Nam Dương độc lập. Việc hy vọng
vào Hoa Kỳ không phải là một ảo tưởng
v́ sau đó mấy tuần lễ, đại sứ Mỹ tại
Pháp, ông William Bullit tuyên bố
chiến tranh Đông Dương của người Pháp
là thứ “chiến tranh bẩn thỉu nhất”.
Lời tuyên bố của Đại sứ Bullit được
mọi người quan niệm như là một lời hứa
hẹn của Hoa Kỳ sẽ viện trợ cho Bảo Đại
(sau này khi Bảo Đại chính thức cầm
quyền, Hoa Kỳ liền công nhận quốc gia
Việt Nam và viện trợ cho chính phủ Bảo
Đại).
Với hy vọng được Hoa Kỳ giúp đỡ, Bảo
Đại mới chịu gặp Bollaert, Cao ủy Pháp
tại Đông Dương. Nhưng khi gặp Bollaert
rồi, Bảo Đại nhận thấy rằng đại diện
nước Pháp chỉ đưa ra những lời hứa hẹn
mù mờ, do đó ông không chịu chấp nhận
thương thuyết với Pháp. Ông trở về
Hồng Kông rồi đích thân đi Pháp để
thăm ḍ t́nh h́nh. Tại Pháp ông cũng
nhận thấy rằng người Pháp vẫn ngoan
cố, chỉ muốn tái lập nền đô hộ nên ông
không muốn tự cột ḿnh vào âm mưu của
thực dân.*
Thái độ cứng rắn của ông đă buộc
Bollaert phải nhiều lần đến diện kiến
với Bảo Đại tại Cannes và Genève, nơi
Bảo Đại trú ngụ. Bollaert đă phải hứa
thỏa măn những điều kiện của ông trong
những cuộc thương thuyết sắp tới, do
đó hai nhân vật này mới gặp nhau lần
thứ hai vào ngày 5 tháng 6 năm 1948
tại vịnh Hạ Long. Lần này th́ Pháp
long trọng tuyên bố để cho Việt Nam
độc lập nhưng ngoại giao và quốc pḥng
vẫn do Pháp kiểm soát. Thỏa ước Hạ
Long đă làm cho cả thực dân Pháp lẫn
Việt Minh căm tức. Thực dân th́ cho
rằng Pháp đă đầu hàng Bảo Đại, trong
lúc Việt Minh chửi rủa Pháp (cried
foul) v́ tại Hội Nghị Fontainebleau,
Hồ Chí Minh đă thất bại không giành
được những điều kiện như Pháp đă thỏa
thuận với Bảo Đại.
Nhưng dù thỏa ước Hạ Long ra đời, Bảo
Đại vẫn muốn thỏa ước ấy phải được
chính thức hóa, do đó Bảo Đại phải đi
Pháp và kư kết với Tổng Thống Auriol
hiệp ước ngày 8 tháng 3 năm 1949,
thường được gọi là hiệp ước Elysées.
Tuy vậy, Bảo Đại vẫn không chịu về
nước v́ ông muốn phải thực hiện cho
xong nền thống nhất ba kỳ. Thái độ
cứng rắn của ông làm cho thực dân tức
giận la ó lên rằng: “Nó đă bắt đầu coi
chúng ta không ra ǵ” (ll commence
vraiment à se foutre de nous). Nhưng
tại sao Bảo Đại lại chịu kư vào một
hiệp ước mà ông ta chưa thỏa măn. Có
ba lư do: Một là v́ sợ nếu không kư,
người Pháp sẽ tái lập nền đô hộ; hai
là sợ ảnh hưởng của Việt Minh sẽ lan
rộng làm cho phe chống Cộng mất cơ hội
thiết lập một chính quyền quốc gia; và
ba là ông hy vọng sẽ được Hoa Kỳ viện
trợ kinh tế đồng thời giúp ông chống
Pháp.[42]
Qua những biến cố trên đây, ta thấy rơ
như Patti đă nhận định rằng ông Bảo
Đại quả là một nhà ái quốc, một chính
trị gia khôn ngoan, sáng suốt, thâm
trầm, độ lượng, và cả cuộc đời chính
trị của ông cho thấy ông không phải là
thứ người tham quyền cố vị. Khác với
vua cha là Khải Định được thực dân đẩy
ra sân khấu làm bù nh́n th́ múa may
quay cuồng, thỏa măn với địa vị bù
nh́n của ḿnh. Trái lại ông Bảo Đại dù
được đẩy ra sân khấu làm bù nh́n,
nhưng trên sân khấu, ông chẳng chịu
làm tṛ mà chỉ đứng ù ĺ cho qua buổi,
bất cần lệnh lạc của thầy tuồng.
Vua Bảo Đại là bù nh́n nhưng gia đ́nh
họ Ngô lại không có quyền gọi Bảo Đại
là bù nh́n. Mười năm làm quan, ông
Diệm chẳng đă là thần tử của vua Bảo
Đại đó sao? Được làm Thủ Tướng chẳng
là ơn mưa móc của vua Bảo Đại đó sao?
Thật thế, tuy ông Ngô Đ́nh Diệm nhờ
thế lực Thiên Chúa giáo quốc tế và Mỹ
đẩy trở lại chính trường, khốn nỗi
muốn được làm Thủ tướng th́ ông ta bắt
buộc phải qua cửa ải Bảo Đại, phải
thần phục vua Bảo Đại.
Mùa hè năm 1953, ông Diệm theo lời chỉ
dẫn của em là Ngô Đ́nh Luyện, rời Hoa
Kỳ về Paris và ăn ở tại nhà ông Tôn
Thất Cẩn, một người bà con của vua Bảo
Đại. Về đây, dù đă nhiều lần vận động
xin yết kiến Quốc trưởng nhưng Quốc
trưởng vẫn chưa chịu tiếp. Nhân dịp có
linh mục Cao Văn Luận được ông Ngô
Đ́nh Cẩn nhờ đưa thư mật và tiền bạc
qua, anh em ông Diệm bèn nhờ ông Luận
lấy t́nh quen biết cũ đến vận động với
ông Nguyễn Đệ, Đổng lư văn pḥng của
Bảo Đại. Ông Nguyễn Đệ hứa sẽ giúp
nhưng lời hứa vẫn trôi xuôi. Sau năm
1963, những bí ẩn được tiết lộ dần dần
cho biết sở dĩ vua Bảo Đại không chịu
tiếp ông Diệm v́ hai lư do: một là vua
Bảo Đại thấy năm 1953 chưa phải là
thời của ông Ngô Đ́nh Diệm, và lư do
thứ hai mà là lư do chính yếu: Ông Bảo
Đại vốn là con người thâm trầm, cao
ngạo, lại cũng đă biết ông Diệm là
người cứng đầu đă nhiều phen quay
quắt, nên Bảo Đại cần phải làm khó dễ
để ông Diệm khỏi qua mặt, khỏi phản
bội sau này (cũng như khi chính thức
cử làm Thủ tướng, Bảo Đại đă bắt ông
Diệm thề).
Cho đến mùa hè năm 1954, những vận
động của gia đ́nh họ Ngô, của những
người thuộc Nguyễn Phước tộc và nhất
là của các thế lực quốc tế giúp ông
Diệm làm Thủ tướng đă chín mùi nhưng
vua Bảo Đại vẫn không lay chuyển. Ông
chờ cho người Mỹ, kẻ đỡ đầu cho ông
Diệm, đến năn nỉ vua Bảo Đại mới vừa
ḷng. Thật thế, một tháng trước ngày
kư kết hiệp ước Genève, t́nh thế đă
quá sôi động làm cho Ngoại trưởng
Foster Dulles phải xin yết kiến vua
Bảo Đại và yêu cầu vua cử ông Diệm làm
Thủ tướng, lúc bấy giờ, ông mới bằng
ḷng. Đổi lại việc đề cử ông Diệm làm
Thủ tướng để thỏa măn người Mỹ, ông
đ̣i hỏi Ngoại trưởng Dulles phải cam
kết giúp phe quốc gia tiếp tục chống
Cộng (gián tiếp đuổi Pháp) và viện trợ
dồi dào cho Việt Nam, nghĩa là viện
trợ cho chính quyền Bảo Đại. Tiếc rằng
những bí ẩn trên đây, ông Bảo Đại đă
không viết vào hồi kư, phải chăng v́
thể thống ngoại giao buộc ông muốn nói
mà không nói nên lời.
Ông Bảo Đại là bù nh́n vậy th́ ông Ngô
Đ́nh Diệm là ǵ? Ta hăy nghe Thiếu tá
Patti tiết lộ trong cuốn Why Vietnam?:
“Sau khi Ngô Đ́nh Diệm được Mỹ
nâng đỡ giúp cho cầm quyền th́ miền
Nam rối loạn, bị các giáo phái và
đảng phái chống đối, tướng Collins
Đặc sứ của Tổng thống Eisenhower
phần v́ nghe lời xúi giục của Pháp,
phần v́ sợ Bắc Việt tấn công trước
khi có hiệp ước SEATO, nên đă mất
thiện cảm đối với ông Diệm. Nhưng
Ngoại trưởng Foster Dulles vẫn cương
quyết ủng hộ ông Diệm, đă thế Hồng Y
Spellman, Nghị sĩ Mansfield, Kennedy
đều chống lại việc thay thế Diệm,
nên Collins phải chịu theo lập
trường của Ngoại trưởng Hoa Kỳ. T́nh
h́nh khó khăn và sự căng thẳng giữa
Hoa Kỳ và Pháp đă buộc Ngoại trưởng
Mỹ phải đưa ra lời hăm dọa: “Hoa Kỳ
sẽ cắt bỏ viện trợ nếu ông Diệm
không c̣n cầm quyền”. Để giải quyết
tranh chấp, tướng Collins đ̣i Mỹ
phải viện trợ cho đội quân viễn
chinh Pháp tại Việt Nam 100 triệu đô
la, bấy giờ Cao ủy Ely mới chịu chấp
thuận”.
Đó là chưa kể những tháng tiếp theo,
người Mỹ, đặc biệt là Ngoại trưởng
Dulles, làm áp lực nặng nề với Pháp để
ông Diệm được tiếp tục cầm quyền như
đă tŕnh bày ở đoạn trước.
Hai biến cố trên đây đă nói lên rơ rệt
nếu Bảo Đại là bù nh́n của Pháp th́
Ngô Đ́nh Diệm là con nuôi của Mỹ không
hơn không kém. Nếu có khác là vua Bảo
Đại đă khôn ngoan, sáng suốt, kiên
nhẫn đấu tranh cho phe chống Cộng có
một quốc gia, trong lúc ông Ngô Đ́nh
Diệm là người chỉ nhờ thế lực ngoại
bang mà được lên cầm quyền, thụ hưởng
những kết quả do Bảo Đại để lại.
Nói tóm lại, những sự kiện lịch sử
trên đây đă cho thấy ông Diệm cầu xin
vua Bảo Đại để được làm Thủ tướng,
nhưng chỉ một năm sau nhờ áp lực của
Hoa Kỳ mà ông đă tặng cho vị Quốc
trưởng của ông hai chữ Bù Nh́n khi bắt
đầu mở chiến dịch truất phế Bảo Đại.
Ông Bảo Đại là một vị vua bù nh́n do
cái thế lịch sử tạo nên từ cả mấy chục
năm trước, tư thế bù nh́n đó không cho
phép ta đặt ông vào vùng hào quang
vinh dự của những anh hùng đă xả thân
dựng nước. Ông Bảo Đại là một vị vua
bất lực do cái t́nh trạng bị trị của
một đất nước bị đô hộ cả gần trăm năm
trước, khả năng yếu kém đó lại cũng
không cho phép ta đặt ông vào đài
tưởng niệm huy hoàng của những hiền
nhân quân tử đă đóng góp và xây dựng
nên sự nghiệp Việt Nam. Ta có thể phê
phán cái tư cách bù nh́n và cái khả
năng yếu kém đó như một lỗi lầm lớn
không thể tha thứ được ở một nhà lănh
đạo quốc gia, nhưng ta cũng phải công
nhận cái quyết tâm bảo tồn sinh lực
dân tộc của ông trong mục đích nuôi
dưỡng để tính kế lâu dài: Thời làm
Quốc trưởng, ông biết và có những hành
động bênh vực các thành phần quốc gia
vừa chống Cộng vừa chống Pháp, nâng đỡ
những nhân vật có thành tích yêu nước
và tinh thần cách mạng dù có bất đồng
chính kiến với ông [43]. Cũng trong ư
định tính kế lâu dài đó, ông đă cống
hiến cho quốc gia những định chế cơ
bản để làm cơ sở nền móng cho bất kỳ
một chế độ nào có hay không có ông sau
này được dễ dàng phát triển. Đối với
các viên chức đại diện cho chính quyền
Pháp, ông kiêu hănh giữ thể thống và
phong độ của một vị Quốc trưởng, không
để cho họ xem thường như Lansdale đă
đối xử với ông Diệm. Lucien Bodard,
một kư giả ngưỡng mộ danh tướng Pháp
là De Lattre de Tassigny, đă chê bai
và đả kích vua Bảo Đại v́ ông đối xử
với vị Toàn Quyền Cao ủy này như một
viên chức cấp dưới trong cuốn La
Guerre d’Indochine.
*Nói như vậy không có nghĩa là vua Bảo
Đại tránh được những tội lỗi lịch sử
lớn lao mà ông phải gánh chịu. Những
tội lỗi đó, trước ṭa án lương tâm và
đạo đức tối hậu của con người, lại
không phải là những tội ác như của chế
độ Ngô Đ́nh Diệm.
Thật vậy, so sánh với chế độ Ngô Đ́nh
Diệm, chế độ Bảo Đại đâu có độc tài
nắm giữ hết mọi quyền lực của quốc
gia, đâu có gia đ́nh trị, đâu có tiêu
diệt đảng phái sát hại người đối lập,
đâu có dựng nhà tù P-42 ở sở thú Sài
G̣n, trại Chín Hầm ở Huế để tra tấn
giam cầm hoặc thủ tiêu người* quốc
gia. Chế độ Bảo Đại đâu có kềm kẹp,
đóng cửa, bỏ tù báo chí, đâu có phản
bội bạn bè, ân nhân. Ông Bảo Đại tuy
có lấy tiền của Bảy Viễn nhưng đâu có
buôn thuốc phiện lậu kinh khủng như
ông Ngô Đ́nh Nhu, đâu có bắt những nhà
giàu tra tấn đến chết để làm tiền như
ông Ngô Đ́nh Cẩn. Bà Từ Cung vẫn sống
khiêm tốn thanh đạm ở Huế, không ỷ vào
con làm Quốc trưởng mà hối mại quyền
thế, mua tước bán quan. Bà Nam Phương
Hoàng Hậu vẫn sống âm thầm cách biệt ở
ngoại quốc, bà Mộng Điệp vẫn không ảnh
hưởng chồng trong việc lănh đạo quốc
gia như bà Ngô Đ́nh Nhu ở Sài G̣n và
mụ Luyến ở Huế, và như toàn thể anh em
ông Diệm mỗi người một chức vị, một
giang sơn, một triều đ́nh, một cơ quan
mật vụ, một tổ chức thanh niên, một
lực lượng đặc biệt, một cơ quan kinh
tài. Chê vua Bảo Đại là lười biếng
không đi thăm dân mà quên đi mỗi lần
Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm đi kinh lư,
dân phải dậy từ 4, 5 giờ sáng, cơm đùm
cơm bới, phơi nắng 7, 8 tiếng đồng hồ
đợi Tổng thống đến để hoan hô, quên đi
ông Ngô Đ́nh Diệm ngồi chễm chệ trên
thuyền bắt sĩ quan đẩy và lính sắp
hàng dưới nước mà dàn chào như vua
chúa thời Trung Cổ. Cho nên thà không
đi thăm dân như ông Bảo Đại c̣n hơn là
mỗi lần ông Ngô Đ́nh Diệm đi kinh lư
là làm khổ cho quân dân. Ông Bảo Đại
cũng đâu có xây nhà cửa riêng tư như
năm sáu anh em ông Diệm tạo dựng không
biết bao nhiêu là đồn điền, ruộng đất,
khách sạn, nhà lầu, hăng xưởng, biệt
thự. Ông Ngô Đ́nh Cẩn c̣n bắt cả công
binh, công chánh xây lăng cho ḿnh tốn
kém trên hàng trăm triệu bạc công quỹ.
Điều trớ trêu là trong khi nhà Ngô rêu
rao tuyên truyền ông Bảo Đại dâm ô
trụy lạc th́ chính ông Ngô Đ́nh Cẩn
lại dâm loạn vô luân [44]. Ông Vơ Văn
Hải, chánh văn pḥng đặc biệt thân tín
nhất của ông Diệm cũng đă không ngần
ngại công nhận với nhóm lănh đạo Nhảy
Dù trong cuộc đảo chánh ngày
11-11-1960 là “trong dinh Độc Lập
có một bọn đĩ điếm” [45].
Ông Lê Nguyên Long, một chiến sĩ cách
mạng, một nhân sĩ miền Trung, một
chứng nhân thời đại, sống giữa ḷng
dân tộc trên 30 năm trời quê hương
khói lửa, chứng kiến bao cuộc thay
ngôi đổi chủ, thấm thía với bao thế sự
nhân t́nh, đă nghiêm khắc lên án rằng:
“Chưa có chế độ quốc gia nào tại
Việt Nam tàn bạo như chế độ Ngô Đ́nh
Diệm, trừ chế độ Cộng Sản. Nếu nói
chống ông Bảo Đại th́ ai cũng có
quyền chống trừ Ngô Đ́nh Diệm, v́
cha anh ông Diệm và cả ông Diệm nữa
vốn là “tôi con” nhà Nguyễn. Ông Bảo
Đại trên nguyên tắc đă tín nhiệm ông
Diệm và ông Diệm đă phục mệnh. Trước
và sau khi truất phế Bảo Đại, ông
Diệm, qua Bộ thông tin, đă thuê bọn
bồi bút (hầu hết báo chí thời Diệm)
mở một chiến dịch dài hạn đả kích,
bêu xấu, vu cáo, nhục mạ ông Bảo Đại
hết sức tàn tệ. Thiết nghĩ người có
lương tâm tối thiểu không ai nỡ hành
xử như thế, Ngô Đ́nh Diệm là người
đại phản phúc”[46].
Tuy nhiên, trong biến cố anh em ông
Diệm truất phế vua Bảo Đại, người cay
đắng bẽ bàng nhất có lẽ là ông Tôn
Thất Cẩn, người bạn thân thiết của gia
đ́nh họ Ngô, người đă nuôi ông Diệm ăn
ở tại Paris, người đă đôn đáo ngược
xuôi vận động với Quốc trưởng và bà
Nam Phương, đă đem tinh thần nhà Nho
của ông Diệm, đă đem ba đời thần tử
của ḍng họ Ngô Đ́nh, đă đem chức giám
mục của ông Ngô Đ́nh Thục, toàn là
những thứ cao trọng thiêng liêng để
bảo đảm tấm ḷng tôn quân trung thành
của anh em nhà Ngô… Không ngờ Quốc
trưởng Bảo Đại lại bị truất phế để cho
ông Tôn Thất Cẩn mang tiếng làm hại
cho cả nhà vua lẫn nhà Nguyễn. Không
riêng ông Tôn Thất Cẩn mà cả anh ruột
của ông, ông Tôn Thất Toại, một bạn
thân của ông Diệm từ thời niên thiếu,
cũng mang tâm sự đắng cay của một
người Tôn Thất lỡ pḥ ông Diệm mà làm
buồn ḷng cho Nguyễn Phước tộc, việc
mà tôi sẽ nói đến trong một chương
sau.
Nói tóm lại, cả hai ông Bảo Đại và Ngô
Đ́nh Diệm đều có tội trước lịch sử và
dân tộc. Nhưng cái tội của Bảo Đại là
do cái lỗi gây ra, c̣n cái tội của Ngô
Đ́nh Diệm th́ do cái ác gây ra.
Năm 1969, một năm sau tết Mậu Thân,
khi t́nh h́nh miền Nam bắt đầu đi vào
tuyệt lộ v́ Tổng thống Johnson mật đàm
với Hà Nội để mở màn cho Ḥa đàm Ba Lê
và để cứu văn nội t́nh một nước Mỹ
đang bị rối nát, khi chế độ Nguyễn Văn
Thiệu hoàn toàn bất lực trong việc
điều động quân dân miền Nam đối kháng
với Cộng Sản đang càng ngày càng lớn
mạnh, th́ tuy đă về hưu trí từ năm
1965 và quyết định đứng ngoài mọi sinh
hoạt chính trị, tôi vẫn theo dơi thời
cuộc và nh́n thấy rơ cái thảm họa
chênh vênh của đất nước bên bờ vực
thẳm. Đă thế, cũng trong năm đó, ông
Hồ Chí Minh mắc bệnh mà qua đời, lại
chợt nhắc tôi nhớ đến ông Bảo Đại,
người đă xây dựng một thế đứng hợp
pháp và một lực lượng cơ bản cho người
quốc gia chống Cộng lúc đó và sau này.
V́ vậy, tôi bèn viết một bài tham luận
dài đăng trên nhật báo Độc Lập của kư
giả Anh Quân mà nội dung nhằm cảnh
giác chính giới Việt Nam về viễn tưởng
người Mỹ sẽ rút khỏi Việt Nam với hệ
quả là miền Nam có thể rơi vào tay
Cộng Sản Hà Nội. Đồng thời, tôi cũng
đóng góp một số sử liệu và khai triển
một số nhận định về công và tội của
ông Bảo Đại để trả ông lại đúng vị trí
trong lịch sử, cũng như lấy đó làm
những suy nghiệm cho t́nh h́nh miền
Nam lúc bấy giờ, vốn có nhiều điểm
tương đồng cơ bản như lúc Pháp gần rút
khỏi Việt Nam 15 năm về trước.
Tôi không ngờ bài báo đó của tôi trên
tờ Độc Lập lại đến tay Cựu Hoàng tại
Paris và bà Từ Cung tại Huế. Cựu Thủ
tướng Bửu Lộc, đại diện cho Cựu Hoàng
đă gởi một tấm thiệp ngỏ lời cảm ơn
tôi đă dám nói lên một số sự thật vốn
bị người ta chôn vùi từ nhiều năm nay,
và nhờ tôi đem ḷng vô tư viết lại
những trang sử thuộc về nhà Nguyễn, và
về Cựu Hoàng Bảo Đại với chứng minh
công tội rơ ràng. Đồng thời Đức Từ
Cung cũng phái cụ Ưng An, đại diện cho
Nguyễn Phước tộc và ông Trần Quang
Vinh một lănh tụ Cao Đài (người cầm
thiệp của ông Bửu Lộc từ Pháp về), đến
nhà tôi chuyển lời cảm tạ của Bà. Rất
nhiều nhân vật thuộc ḍng dơi Nguyễn
Phước tại Sài G̣n và nhiều địa phương
cũng ghé đến thăm tôi tỏ t́nh giao hảo
(như ông Vĩnh Thọ hiện ở Hoa Kỳ chẳng
hạn).
Từ đó, tôi được mời đến tham dự những
buổi hội họp cúng kỵ Đức Thế Tổ và các
vị tiền triều tại trụ sở của Hội
Nguyễn Phước tộc ở đường Công Lư, tại
ngôi biệt thự đă bị ông Diệm tịch thu
và nay được ông Thiệu trả lại. Nhờ
vậy, tôi có dịp lặng lẽ t́m hiểu thêm
và kiểm điểm lại những biến cố chính
trị liên hệ đến hai ông Ngô Đ́nh Diệm
và Bảo Đại mà trong những thời gian
đó, v́ c̣n trẻ và v́ đam mê chỉ biết
một lănh tụ Ngô Đ́nh Diệm, tôi đă
không đủ khôn ngoan và sáng suốt để
thấy được sự thật.
Bây giờ, viết lại theo kư ức những kết
quả đă được đúc kết từ 15 năm trước,
trong sự thiếu thốn mọi sử liệu, tôi
đành chỉ viết những ǵ ḿnh c̣n nhớ
chắc chắn và chỉ giới hạn những nhận
định trong tương quan giữa hai nhân
vật Bảo Đại và Ngô Đ́nh Diệm mà thôi.
Tuy nhiên, có một điểm tôi cần nói lên
ở đây là đối tượng thúc đẩy tôi viết
lại chương này không c̣n là các thành
viên của ḍng họ Nguyễn Phước tộc nữa
mà mở rộng cho thế hệ thanh niên hiện
tại, trong cũng như ngoài nước, để
mong đóng góp được thêm cho họ những
sự thật và những quan điểm đă ít được
đề cập từ trước.
Khi so sánh ông Hồ Chí Minh và những
lănh tụ quốc gia trong giai đoạn đó,
cụ Hoàng Văn Chí phê phán rằng:
“Cựu Hoàng Bảo Đại mà người Pháp
tái phong làm Quốc trưởng năm 1949
(và viên cựu quan lại Ngô Đ́nh
Diệm), những kẻ măi quốc cầu vinh,
no lưng ấm cật, những kẻ bất chánh
đó không tài nào địch nổi Hồ Chí
Minh…”[47].
Lời phê phán đó, đứng trên quan điểm
cách mạng và áp dụng như một nguyên
tắc tiên quyết cho cuộc đấu tranh cứu
nước kể từ sau thảm trạng mùa Xuân năm
1975, th́ hoàn toàn đúng. Tuyệt đối
đúng.
Nhưng đặt nó vào bối cảnh của 20 năm
từ 1945 đến 1965, giai đoạn mà ba nhân
vật Hồ Chí Minh, Bảo Đại và Ngô Đ́nh
Diệm nắm giữ những trục vận động chính
của lịch sử nước ta, th́ tôi e rằng
lời phê phán đó có phần quá khắt khe
cho trường hợp của vua Bảo Đại.
Từ 1945 đến 1954, chúng ta có nhiều
nhà cách mạng đấu tranh chống cả Pháp
lẫn Cộng nhưng không một ai đủ lực, đủ
thế và đủ thời để vận động được toàn
dân khởi phát cuộc cách mạng đó cả. Và
trước cơn băo dữ của cuộc chiến tranh
Pháp–Cộng, trong đống bùn nhơ của một
triều đ́nh lơ láo dưới chế độ bảo hộ,
ông Bảo Đại ít ra cũng đă vun xới được
một cánh sen màu vàng ba sọc đỏ để làm
tụ điểm cho những thành phần chống
Cộng, để làm căn bản cho miền Nam Việt
Nam sau này có cơ sở tiếp tục chống
lại miền Bắc Cộng Sản. Điều bất hạnh
thê thảm nhất cho dân tộc là người
thừa hưởng cánh sen đó, ông Ngô Đ́nh
Diệm, lại phong kiến như vua và độc
tài như Cộng Sản nên mới “không
tài nào địch lại Hồ Chí Minh”.
Chữ Quốc Gia mà chúng ta sử dụng hôm
nay, ngọn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ mà chúng
ta c̣n dùng hôm nay quả thật đă thuộc
về lịch sử và dân tộc. Nhưng nếu nó
cần được duy tŕ như một biểu tượng
lịch sử cần thiết tạm thời cho cuộc
đấu tranh giải phóng đất nước hiện
tại, th́ hẳn ngoài cái giá trị thời
đại không chối căi của nó, ta cũng nên
suy nghiệm một cách lương thiện và
đứng đắn hơn về cả giá trị của một vị
vua đă âm thầm cay đắng mang tiếng bù
nh́n để khai sinh và nuôi dưỡng nó
trong những tháng ngày chập chững non
nớt đầu tiên.
[1] Joseph Buttinger, Vietnam A
Political History, tr. 408, 409.
[2] Francis Y. Corley, Vietnam Since
Geneva Talk, trong nguyệt san Foreign
Affairs (số 131 năm 1958), tr. 546.
[3] Edward Lansdale, In the Midst of
War, tr. 307, 308.
[4] Bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại
(Số 164 ngày 1-3-85), tr. 87, 88.
[5]* Nguyệt san Thanh Niên Hành Động
(số 1 ngày 1-10-85), tr. 19.
[6] Phạm Văn Sơn, Việt Sử Tân Biên,
tr. 596.
[7] Charles Maybon, Histoire Moderne
du Pays d’Annam, (do Thượng Tọa Thích
Nhất Hạnh trích in lại trong “Vietnam:
Lotus In A Sea Of Fire”, tr. 16) và về
mặt sử liệu xin xem thêm “Sổ tay Văn
hóa Việt Nam ” (NXB Văn Hóa, Hà Nội),
tr. 135, 137.
[8] Lư Chánh Trung, Tôn Giáo và Dân
Tộc, tr. 74, 75.
[9] Lư Chánh Trung, Tôn Giáo và Dân
Tộc, tr. 78.
[10] Etienne Vũ Đức Hạnh, La Place Du
Catholicisme Dans Les Relations Entre
La France Et Le Vietnam de 1851 à 1870
(Tome I), tr. 260, 261.
[11] Thái Văn Kiểm, Đất Việt Trời Nam,
tr. 540, 542 và sách Vua Duy Tân của
Hoàng Trọng Thược.
[12] Hoàng Trọng Thược, Tinh Thần Trào
Phúng trong Thi Ca Xứ Huế, tr. 316.
[13] Hoàng Trọng Thược, Tinh Thần Trào
Phúng trong Thi Ca Xứ Huế, tr. 317.
[14] Nguyễn Văn Xuân, Phong Trào Duy
Tân, tr. 23, 24.
[15] Lịch Sử Đạo Thiên Chúa ở Việt
Nam, tr. 4.
[16] Lịch Sử Đạo Thiên Chúa ở Việt
Nam, tr. 5.
[17] Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi,
tr. 49.
[18] Bảo Đại, Le Dragon d’Annam, tr.
114, 115.
[19] Trần Tương, Biến cố 11-11-1960,
tr. 277.
[20] Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên,
tr. 143.
[21] Joseph Buttinger, Vietnam, A
Political History, tr. 304, 305.
[22] Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên,
tr. 184.
[23] Robert Shaplen, The Cult Of Diem,
trong tuần báo The New Yorker (số ngày
14-5-72).
[24] Tư liệu của ông Thái Văn Kiểm gửi
cho tác giả ngày 4-4-1978 và theo lời
kể của nhiều bô lăo ở huyện Lệ Thủy,
tỉnh Quảng B́nh.
[25] Robert Shaplen, The Lost
Revolution, tr. 106.
[26]* Phạm Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư,
tr. 684.
[27] Hoàng Trọng Thược, Tinh Thần Trào
Phúng trong Thi Ca Xứ Huế, tr. 273.
[28] Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên,
tr. 234.
[29] Charles Maybon, Histoire Moderne
du Pays d’Annam.
[30] Malachi Martin, The Decline and
Fall of The Roman Church, tr. 26.
[31] Malachi Martin, The Decline and
Fall of The Roman Church, tr. 57.
[32] Thái Văn Kiểm, Đất Việt Trời Nam,
tr. 489.
[33] Nguyễn Thế Anh, Việt Nam Thời
Pháp Đô Hộ, tr. 339-342 và sách Le
Dragon d’Annam, Bảo Đại, tr. 58, 59.
[34] Malachi Martin, The Decline and
Fall of The Roman Church.
[35] Phan Khoang, Việt Nam Pháp Thuộc
Sử, tr. 404 (Viết theo Jean Chesneau
trong “Contribution à l’Histoire du
Vietnam” và Notes du 13-71887 của cựu
Toàn quyền Lanessan “Indochine
Francaise”, Paris 1889, Archives du
Ministère de la France d’Outre-Mer
trong luận án tiến sĩ của Cao Huy
Thuần, Đại học Sorbonne, Paris).
[36] Đào Trinh Nhất, Phan Đ́nh Phùng,
trong bán nguyệt san Việt Nam Hải
Ngoại (số 141), tr. 109-111.
[37] Bảo Đại, Le Dragon d’Annam, và
sách Những Ngày Chưa Quên của Đoàn
Thêm, tr. 171, 172.
[38] Michael McClear, The
Ten-Thousand-Day War, tr. 62.
[39] Joseph Buttinger, Vietnam A
Political History, tr. 414.
[40] Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên,
tr. 236.
[41] Stanley Karnow, Vietnam A
History, tr. 218.
[42] Archimedes L. Patti, Why Vietnam?
tr. 395, 396, 397.
[43] Danh sách những nhân vật chính
trị, cách mạng tên tuổi hợp tác với
Bảo Đại được kể trong Le Dragon
d’Annam. (Danh sách nội các).
[44] Thư ông Hoàng Đồng Tiếu gửi cho
tác giả.
[45] Trần Tương, Biến cố 11-11-1960,
tr. 109.
[46] Lê Nguyên Long, Bất Đắc Dĩ Khơi
Đống Tro Tàn, trong báo Khai Phóng (số
7), tr. 38.
[47] Hoàng Văn Chí, Từ Thực Dân Đến
Cộng Sản, tr. 58, 59.
-
Khi đề cập
đến thân thế và sự nghiệp của chí sĩ
Phan Đ́nh Phùng, người đă trải bao
khốn khổ cay đắng kháng Pháp trước khi
tử tiết để được vinh danh trên bảng
vàng bia đá của lịch sử nước nhà, học
giả Đào Trinh Nhất đă được gợi ư từ
một tư tưởng của Mạnh Tử để nhận định
rằng: “Nhưng mà lẽ thường xưa nay,
Trời muốn sắp giao phó một việc lớn
lao hệ trọng cho ai, bao giờ trước hết
cũng hành hạ người ấy phải đói khát
khổ sở, gặp toàn những bước khốn đốn
nguy hiểm, điên đầu rối trí thật năo
nề chê chán đă sẽ hay. Thân thế cụ
Phan ở trong cảnh đó”. [1]
Chân lư đó phát xuất từ nhân sinh quan
Đông Phương về Định Mệnh và đă được
đối chiếu chặt chẽ với quá tŕnh lịch
sử của nước ta, mà anh hùng liệt nữ
tuyệt đại đa số là những vị xả thân
nằm gai nếm mật để bảo vệ sơn hà xă
tắc. Trường hợp ông Diệm từ ngày cởi
áo từ quan vào tuổi trung niên, cũng
trải qua một số hoạn nạn. Khi th́ phải
trốn trong sở hiến binh Nhật Bản, khi
th́ bị Việt Minh quản thúc ở núi rừng
Thái Nguyên, và trước khi làm Thủ
tướng lănh đạo chính quyền ở miền Nam
c̣n phải lánh ra nước người gần năm
năm trời. Nhưng tất cả những gian
truân đó chỉ vừa đủ để xây dựng cho
ông cái uy tín và huyền thoại để cho
chính quyền Mỹ quyết định yểm trợ ông
trong chín năm bèo bọt mà thôi nếu ta
so sánh với những gian truân của các
anh hùng liệt nữ khác của dân tộc mà
tên tuổi và h́nh bóng măi măi là những
ngọn lửa oai hùng đă vượt không gian
và thời gia soi sáng ḍng sử Việt, mà
máu xương đă thẩm thấu vào quê hương
sơn hà gấm vóc.
Các sử gia xem thành công của ông Diệm
là hệ quả chính trị tất yếu của mâu
thuẫn quyền lợi Pháp-Mỹ. Người dân
Việt b́nh thường th́ cho rằng ông Diệm
bước vào vận số tốt như hết cơn bĩ cực
đến thời thái lai. Riêng ông Diệm và
một thiểu số cộng sự viên Công giáo
lúc bấy giờ (nhất là sau vụ mưu sát
tại Ban Mê Thuột năm 1957) th́ lại tin
rằng Trời (dù được gọi là Chúa hay
Thượng Đế như ông vẫn thường dùng câu
“xin Thượng Đế ban phước lành cho
chúng ta” ở cuối mỗi bài diễn văn) đă
ban phép lành cho ông và đă trao lại
cho ông và gia đ́nh ông cái sứ mạng to
lớn và thiêng liêng lănh đạo miền Nam
Việt Nam. Niềm tin vừa có tính cách
huyền bí tôn giáo vừa chứa đầy quan
niệm Thiên Mệnh quân chủ đó đă chỉ đạo
mọi suy tư và quyết định chính trị của
ông suốt thời kỳ ông làm Tổng thống.
Và cũng chính niềm tin thần bí chắc
nịch đó đă xây dựng nên những đặc tính
tâm lư nơi ông và gia đ́nh ông đă
khiến cho chế độ sau đó bị nhân dân
gán cho hai chữ “Ngô triều” xấu xa.
Niềm tin đó, ngay từ những ngày tháng
đầu tiên ông nắm chính quyền đă được
hun đúc bằng một sự kiện thiêng liêng
có liên hệ đến gia đ́nh ông. Đó là
việc gia tộc Ngô Đ́nh t́m được xác của
cha con ông Ngô Đ́nh Khôi mà sau hơn
mười năm trời tốn nhiều công của t́m
kiếm vẫn không đạt được kết quả.
Nguyên năm 1944, sau khi ông Diệm bị
Pháp bắt hụt trốn vào Sài G̣n th́
người anh ruột của ông đang làm Tổng
đốc Quảng Nam là ông Ngô Đ́nh Khôi bị
người Pháp và Thượng thư Phạm Quỳnh
bắt phải về hưu. Khi Việt Minh cướp
chính quyền, họ kết tội cả ông Ngô
Đ́nh Khôi lẫn ông Phạm Quỳnh vào hàng
đại Việt gian phản quốc và bắt đem đi
mất tích. Cùng bị bắt với ông Khôi c̣n
có người con trai độc nhất là Ngô Đ́nh
Huân từng giữ chức Thanh tra Lao động
của chế độ bảo hộ Pháp. Ngô Đ́nh Huân
bị bắt v́ tội vừa làm tay sai cho Pháp
vừa là cộng tác viên đắc lực cho Hiến
binh Nhật Bản thời quân đội Thiên
Hoàng chiếm đóng Việt Nam. Có người đă
từng thấy Việt Minh áp giải cha con
ông Khôi và ông Quỳnh rồi giết đi
nhưng không biết chôn ở nơi nào. Năm
1955, nhờ có chính quyền trong tay,
ông Ngô Đ́nh Cẩn bèn thiết lập một hệ
thống cán bộ rộng lớn đặc trách đi t́m
kiếm xác người thân và cuối cùng th́
t́m được tại địa phận huyện Phong Điền
tỉnh Thừa Thiên trong một cái hố chôn
chung với nhiều người, trong đó có cả
xác ông Phạm Quỳnh. Thật là trớ trêu:
ông Quỳnh và ông Khôi khi c̣n sống là
hai kẻ thù không đội trời chung mà khi
chết th́ thân xác lại cùng vùi chung
một hố. Xác ông Quỳnh được nhà chức
trách quận Phong Điền trao lại cho
thân nhân và được chôn cất một cách
khiêm tốn như đám tang hàng dân dă.
Trong lúc đó xác ông Ngô Đ́nh Khôi,
nhờ có em đang làm Thủ tướng nên tang
lễ được cử hành vô cùng trọng thể đầy
đủ nghi thức quốc táng: có toàn bộ
nhân viên cao cấp chính phủ tham dự,
có quân nhân dàn chào từ huyện Phong
Điền về đến nghĩa trang họ Ngô tại Phú
Cam (Huế), có quốc kỳ phủ quan tài, có
quân đội bồng súng theo hộ tống đi hai
bên linh cữu, và có quân nhạc trổi bài
quốc ca và Hồn Tử Sĩ. Ông Vơ Như
Nguyện, một cộng sự viên của ông Ngô
Đ́nh Diệm và cũng là một đồng chí của
kẻ viết, được cử giữ chức trưởng nam
của ông Ngô Đ́nh Khôi, cũng đội mũ
rơm, mặc áo sổ gấu, cầm gậy tre đi
theo linh cữu. (Ông Vơ Như Nguyện hiện
ở Mỹ)
Đối với dân tộc và lịch sử th́ ông Ngô
Đ́nh Khôi chỉ là một cựu quan lại của
chế độ bảo hộ và triều đ́nh mục nát,
nhưng anh em ông Diệm lại bắt nhân dân
coi anh ruột ḿnh như một nhà ái quốc
đă hy sinh cho đất nước nên đă cử hành
tang lễ cho ông Khôi như lễ quốc táng
của một vị anh hùng. Cá nhân Tổng
thống và gia tộc Tổng thống bỗng trở
thành một trong quan niệm phong kiến
“một người làm quan, cả họ được nhờ”,
và gia tộc Tổng thống và quốc gia dân
tộc bỗng trở thành một trong quan niệm
phản dân chủ “lănh đạo là do Thiên
Mệnh trao quyền”.
Ông Ngô Đ́nh Khôi tuy chỉ là một quan
lại thời thực dân phong kiến bị Việt
Minh lên án phản quốc và đă được ông
Diệm làm lễ quốc táng, thế mà anh em
ông Diệm vẫn chưa hài ḷng c̣n muốn
tôn vinh anh ḿnh lên hàng danh nhân
vĩ đại của lịch sử. Họ lấy tên của ông
Khôi đặt cho con đường lớn nối liền
thủ đô Sài G̣n với phi trường quốc tế
Tân Sơn Nhất. Ngoài ra anh em họ c̣n
muốn đổi tên trường trung học Khải
Định Huế thành trường Ngô Đ́nh Khả.
Thật ra việc xóa bỏ tên “Khải Định” là
một việc làm hữu lư v́ ông Khải Định
là một vị vua Việt gian, nhưng xóa bỏ
tên của vua Khải Định mà lại thay vào
tên của ông Ngô Đ́nh Khả, một vị quan
lại của Pháp, th́ quả là một việc làm
khinh thị nhân dân. Trong mục đích tôn
vinh cha ḿnh, anh em họ Ngô đă định
lừa dối quốc dân bằng cách phao tin
rằng chính cha ḿnh là người sáng lập
ra ngôi trường trung học đó, nhưng có
lẽ v́ có nhiều bậc trưởng thượng và
trí thức cố đô Huế biết rơ sự thật là
không đúng như đă tuyên truyền nên anh
em ông Diệm đành phải bỏ ư định đó và
rồi đổi tên trường từ Khải Định ra
Quốc Học. (Xin lưu ư rằng trong cuộc
đàm luận với kư giả Robert Shaplen,
ông Diệm đă nói rất nhiều đến sự
nghiệp và thân thế của cụ Ngô Đ́nh Khả
thế mà ông không hề đề cập đến chuyện
cụ Khả là người xây dựng trường Quốc
Học Huế được Pháp đặt tên là trường
Khải Định. Trái lại theo “Việt Nam
Niên Biểu Nhân Vật Chí” của Chính Đạo
(s.đ.d., tr. 304) th́ ông Ngô Đ́nh Khả
theo ông Nguyễn Thân đi đánh phong
trào Văn Thân của cụ Phan Đ́nh Phùng ở
vùng Hà Tĩnh-Nghệ An. Năm sau khải
hoàn, được cử làm Phó giám đốc trường
Quốc Học, trước khi được thăng chức
Tổng quản Cấm Thành).
Sau sự vinh danh cho người anh trưởng
đă khuất, dĩ nhiên ông Diệm bắt đầu
lên ngôi cho những người c̣n sống
trong gia đ́nh.
Ông Ngô Đ́nh Thục, người anh trai thứ
nh́, từ khi ông Khôi chết, được gia
đ́nh tôn kính theo quan niệm “quyền
huynh thế phụ”. Ông Ngô Đ́nh Thục là
vị Giám mục thâm niên của hàng giáo
phẩm đang giữ chức Tổng giám mục của
Giáo hội Công giáo Việt Nam. Mặc dù
không giữ một chức vụ chính thức nào
trong chính quyền, nhưng với địa vị
anh trưởng trong gia đ́nh, với địa vị
Tổng giám mục của Giáo hội, lại được
các em, nhất là Tổng thống Diệm cung
kính và vâng lời nên ông Thục trở
thành một thứ tối cao cố vấn của chế
độ. Ṭa giám mục Vĩnh Long, và sau này
Ṭa giám mục Huế, nơi ông Thục cai
quản bỗng trở thành một thứ triều đ́nh
siêu vương quốc với đầy đủ mọi quyền
lực làm cho chính ông Nhu cũng phải
than phiền với một linh mục thân tín
khi thấy các viên chức cao cấp của cả
ba ngành hành pháp, lập pháp và tư
pháp chăm chỉ đến cung kính cầu cạnh
Đức Cha. Giám mục Ngô Đ́nh Thục, trong
cương vị đó, và với cung cách của
những viên chức trong và ngoài chánh
quyền như thế, lẽ tất nhiên đă nhiều
lần trộn lẫn giáo quyền và thế quyền
làm một để dính dự vào những quyết
định quan trọng của sinh hoạt quốc gia
không khác ǵ Giáo hoàng Boniface VIII
vào ngày 18-11-1302 đă sống sượng
tuyên bố “... cả hai quyền lực này đều
nằm trong tay vị Giáo chủ La Mă”. [2]
Ngay tại tỉnh Vĩnh Long, ông đặt tên
ḿnh cho đại lộ lớn nhất của thị xă
này đến nỗi người bạn thân của gia
đ́nh là Cụ Huỳnh Minh Ư cũng phải chê
trách. [3]
Ông Ngô Đ́nh Nhu là một Dân biểu Quốc
hội không bao giờ biết đến dân chúng
nơi địa phương ḿnh ra ứng cử, không
bao giờ bước chân đến ṭa nhà Lập Pháp
để tham dự sinh hoạt nghị trường và
làm trách nhiệm dân cử, mà chỉ ngồi
tại dinh Tổng thống để ra chỉ thị cho
Quốc hội làm luật theo ư của anh em
ông ta. Thực quyền như thế nhưng ông
Ngô Đ́nh Nhu vẫn cần có chức Dân biểu
có lẽ là chỉ để điều khiển và kiểm
soát Quốc hội cho chính danh, nhưng
thật ra chính cái chức vụ “Cố vấn
Chính trị” của ông bên cạnh Tổng thống
Ngô Đ́nh Diệm mới thật sự là bộ năo
của chế độ, nơi khai sanh và điều
khiển tất cả mọi sách lược của quốc
gia. Với cái bề ngoài khôn khéo, tế
nhị và kín đáo, ông tỏ ra phục tùng
người anh Tổng thống, nhưng quyền hành
thực sự lại nằm trong tay Cố vấn Chính
trị Ngô Đ́nh Nhu. Điều đặc biệt của
chế độ Cộng ḥa Ngô Đ́nh Diệm là chức
Cố vấn Chính trị của ông Ngô Đ́nh Nhu
lại không phải là một chức vụ chính
thức của chính quyền như chức cố vấn
được công khai hóa và quy chế hóa của
các vị lănh đạo các nước dân chủ trên
thế giới. Ông Nhu và gia đ́nh ông ta ở
trong dinh Tổng thống, ông có văn
pḥng riêng, ông giúp việc cho Tổng
thống rồi bỗng nhiên người trong dinh
gọi ông là “cố vấn”. Lời xưng hô lan
rộng ra ngoài để rồi nhân dân, báo
chí, người ngoại quốc đều gọi ông là
cố vấn, một cố vấn không chánh danh mà
lại nắm trọn quyền hành quốc gia trong
tay.
Bà Ngô Đ́nh Nhu, nhũ danh là Trần thị
Lệ Xuân, cũng là một Dân biểu Quốc
hội, bà c̣n được người ta xưng tụng là
“Đệ nhất phu nhân”. Không biết danh từ
“Đệ nhất phu nhân” xuất hiện từ đâu và
từ khi nào, mà rồi báo chí, đài phát
thanh, phim thời sự của các rạp chớp
bóng đều gọi bà Nhu là “Đệ nhất phu
nhân”. Do đó cả nước phải gọi bà là Đệ
nhất phu nhân, dù danh từ đó trong
truyền thống sử dụng ngôn ngữ Việt Nam
không được chính xác v́ ông Tổng thống
là người độc thân. Tuy đă hài ḷng với
tước hiệu này v́ bà chưa bao giờ tỏ ư
bất măn hay ra lệnh cấm đoán, nhưng bà
Nhu vẫn chưa lấy thế làm thỏa măn.
Danh xưng “Đệ nhất Phu nhân” c̣n bị
trói buộc trong một chế độ và, trong
tương lai xa xăm, c̣n có thể có nhiều
Đệ nhất phu nhân khác, cho nên bà Nhu
c̣n muốn đi xa hơn và cao hơn để được
gọi là “Bà Ngô”, như lịch sử đă từng
vinh danh các Bà Trưng, Bà Triệu.
Theo ông Nguyễn Thái, cựu Tổng giám
đốc Việt Tấn Xă, đă có lần bà Nhu ra
lệnh cho ông phải ghi danh xưng “Bà
Ngô” trên các bản thông tin của cơ
quan Việt Tấn Xă nhưng ông Thái từ
chối v́ làm như thế trên mặt luân lư
sẽ có sự hiểu lầm vô cùng tai hại. Vào
tháng Sáu năm 1961, khi ông bà Ngô
Đ́nh Nhu đi viếng thăm Maroc, thông
cáo chính thức của Bộ Ngoại giao gọi
bà Nhu là “Bà Ngô” [4]. Cũng theo ông
Nguyễn Thái th́ bà Nhu là bộ mặt then
chốt của chính quyền (a key figure in
the Diem regime). Không cần phải dài
ḍng, cứ nh́n việc bà ta đưa ra Luật
Gia Đ́nh bị dư luận và ngay cả nhiều
Dân biểu phản đối quyết liệt mà Tổng
thống Diệm cũng như ông Ngô Đ́nh Nhu
đều tận t́nh bênh vực, cũng đủ nói lên
uy quyền to lớn của Bà. Lại hăy nh́n
hai lần đi dự hội nghị Liên hiệp Nghị
sĩ Quốc tế ở Rome và Rio de Janeiro,
mặc dù không phải là trưởng phái đoàn,
bà ta vẫn giành lấy quyền ăn nói. Ông
Phạm văn Nhu vừa là Chủ tịch Quốc hội
vừa là Trưởng phái đoàn đành chỉ biết
ngồi nghe [5]. Uy quyền to lớn của bà
Nhu c̣n được biểu lộ rơ rệt hơn vào
dịp lễ Hai Bà Trưng hàng năm. Đây cũng
là ngày lễ Phụ nữ Việt Nam và được tổ
chức vô cùng long trọng tại công
trường Mê Linh bến Bạch Đằng, do bà
Ngô Đ́nh Nhu chủ tọa. Chủ tọa lễ này,
bà Nhu có đủ mọi nghi thức trọng thể
nhất dành cho một vị nguyên thủ quốc
gia trong buổi lễ quốc khánh do Tổng
thống Diệm chủ tọa, trừ 21 phát đại
bác, cũng v́ thế mà dân chúng mới mỉa
mai rằng Việt Nam có hai ngày Quốc
Khánh. [6]
Ông Ngô Đ́nh Cẩn, tự xưng là “Cố vấn
Lănh đạo các Đoàn thể Chính trị miền
Trung và miền Cao Nguyên”. Trên thực
tế, ông là vị chúa tể ở cả hai miền đó
v́ ông nắm hết mọi quyền hành nhất là
quyền bổ nhiệm nhân sự, c̣n các đại
biểu chính phủ và Tỉnh trưởng chỉ là
những viên chức thừa hành mệnh lệnh
của ông mà thôi. Ông Ngô Đ́nh Cẩn được
nhân dân Việt Nam và sách sử, báo chí
quốc tế tặng cho hỗn danh là “Lănh
chúa miền Trung”, điều đó cũng đủ nói
lên cái uy quyền sinh sát của ông ta
rồi.
Ông Ngô Đ́nh Luyện là người em trai
chót, vào năm 1955, làm Đại sứ lưu
động tại Âu Châu. Thật ra lúc bấy giờ
ông Luyện ở Việt Nam nhiều hơn ở Âu
Châu v́ ông Diệm cần ông ta ở bên cạnh
để cùng lo đối phó với những khó khăn
của thời cuộc, những chống đối quốc
nội của tướng Nguyễn văn Hinh, B́nh
Xuyên... Sau khi truất phế Bảo Đại
xong, phần v́ sự bất đồng chính kiến
giữa hai ông Nhu và Luyện, phần th́
Tổng thống Diệm muốn có một người ruột
thịt ở Âu Châu nên ông Luyện được cử
giữ chức Đại sứ Việt Nam* tại Anh
Quốc. V́ vậy, trước khi lấy một quyết
định ngoại giao quan trọng đối với bất
kỳ một quốc gia nào ở Âu Châu và Bắc
Phi, ông Diệm cũng thường tham khảo ư
kiến trước với ông Luyện. Từ đó ông
Luyện trở thành một thứ siêu Đại sứ mà
các vị đại sứ Việt Nam tại Âu Châu và
Bắc Phi phải nể sợ và vâng lời.
Về trường hợp của ông Ngô Đ́nh Luyện,
Hillaire du Berrier đă đưa ra ánh sáng
một bí ẩn lịch sử vào năm 1955 như sau
đây:
Thật ra chức Đại sứ lưu động tại Âu
Châu không cần thiết khi mà Việt Nam
đă có một ông Đại sứ đặt văn pḥng tại
số 47 bis đường Kleber ở Paris, nơi mà
Đại sứ lưu động Ngô Đ́nh Luyện cũng
đặt văn pḥng. Nhưng ông Diệm phải đặt
ra chức Đại sứ lưu động Âu Châu, đặt
ra trong lúc t́nh h́nh Sài G̣n vô cùng
căng thẳng, là cốt để kịp thời phái
ông Luyện đến yết kiến Bảo Đại để xin
Bảo Đại một lời tuyên bố tín nhiệm ông
Diệm trước khi sự bất tín nhiệm của cả
Bảo Đại lẫn Đại sứ Collins tại Sài G̣n
đến được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. [7]
Quả đúng với lời tŕnh bày của Berrier
v́ sau khi vua Bảo Đại bị truất phế,
Đại sứ Collins bị triệu hồi về Mỹ,
chức Đại sứ lưu động tại Âu Châu cũng
được băi bỏ, ông Luyện được cử giữ
chức Đại sứ Việt Nam Cộng Ḥa tại Anh
Quốc như tôi đă tŕnh bày trong đoạn
trên.
Bà Ngô thị Hoàng tức là bà Cả Lễ, em
gái của Tổng thống Diệm chỉ là một nhà
thầu khoán nhưng lại là một thứ Trùm
thầu khoán. Nhờ ảnh hưởng và uy quyền
của anh em, tất cả những vụ đấu thầu
lớn đều về tay bà ta. Những nhà thầu
đối thủ muốn cạnh tranh các dịch vụ
đấu thầu tại miền Trung đều bị ông Ngô
Đ́nh Cẩn khủng bố giam cầm hoặc áp lực
nên tự động ngưng đấu, do đó bà Cả Lễ
coi như độc quyền trong mọi dịch vụ
đấu thầu lớn. Bà Cả Lễ chỉ có một
người con gái tên là Kim Anh được gả
cho ông Trần Trung Dung, Bộ trưởng Bộ
Quốc pḥng, v́ thế mặc dầu bà Cả Lễ
không có một chức tước nào cả cũng vẫn
được lên ngôi vừa là em Tổng thống,
vừa là nhạc mẫu của một Bộ trưởng
quyền thế.
Ông Nguyễn Hữu Châu là chồng bà Trần
thị Lệ Chi, chị ruột của bà Ngô Đ́nh
Nhu. Ông Nguyễn Hữu Châu giữ chức Bộ
trưởng Bộ Phủ tổng thống kiêm Bộ
trưởng Bộ Nội vụ.
Ông Trần văn Chương, luật sư, là nhạc
phụ của ông Ngô Đ́nh Nhu giữ chức Đại
sứ Việt Nam Cộng Ḥa tại Hoa Kỳ mà v́
lư do liên hệ chặt chẽ và sinh tử của
hai quốc gia, chức vụ Đại sứ Việt Nam
tại Mỹ là một chức vụ quan trọng vào
hàng siêu đại sứ. C̣n bà Trần văn
Chương th́ giữ chức “Quan sát viên”
của Việt Nam Cộng Ḥa tại Liên Hiệp
Quốc.
Ngoài những nhân vật bà con nội ngoại
của gia đ́nh họ Ngô trên đây giữ những
địa vị then chốt trong guồng máy lănh
đạo quốc gia đối nội cũng như đối
ngoại, c̣n có những nhân vật tuy báo
chí, sách sử không mấy đề cập đến tên
tuổi, và tuy họ không mang một chức
tước nào nhưng họ vẫn có quyền sinh
sát làm run sợ nhiều người, kể cả
những viên chức cao cấp trong chính
quyền và quân đội. Tại Sài G̣n và Nam
Phần th́ có luật sư Trần văn Khiêm, em
ruột bà Nhu, một công tử chơi bời đàng
điếm chuyên dựa thế chị ruột để làm
tiền những thương gia giàu có [8].
Giới trí thức miền Nam gọi ông Trần
văn Khiêm là “luật sư khùng” v́ tính
t́nh bất thường và lối hành xử nửa
khôn nửa dại cũng như tính khoe khoang
phách lối quá độ của ông ta. Tổng
thống Diệm rất ghét ông Trần văn Khiêm
nhưng vào mùa Thu năm 1963, Khiêm được
anh chị là vợ chồng Ngô Đ́nh Nhu cử
giữ chức Giám đốc Nha Nghiên cứu Chính
trị thay thế Bác sĩ Trần Kim Tuyến bị
hạ tầng công tác, đổi đi làm Tổng lănh
sự tại Ai Cập để tê liệt khả năng
chống đối của Bác sĩ Tuyến có thể nguy
hiểm cho chế độ.
Tại Huế và miền Trung có mụ Luyến, một
người bà con trong họ Ngô Đ́nh, làm
gia nhân hầu hạ thân mẫu Tổng thống
Diệm từ thời c̣n trẻ. Mặc dầu có chồng
và ba, bốn người con, nhưng mụ Luyến
không ở riêng lại cùng chồng và con ở
chung với ông Ngô Đ́nh Cẩn trong nhà
tại Phú Cam. Từ ngày ông Diệm cầm
quyền, người ta không c̣n dám gọi Mụ
Luyến là Mụ nữa mà gọi là Bà. Dù không
có một chức vụ nào ngoài nhiệm vụ quản
gia nhưng nhờ sống cận kề lănh chúa
Ngô Đ́nh Cẩn mà “Bà” ta có quyền sinh
sát, một tiếng nói của “Bà” Luyến với
ông Cẩn cũng đủ làm cho nhiều người
lên voi xuống chó. Viên chức chính
quyền cũng như quân đội ở miền Trung
phải cung kính, sợ hăi, nịnh hót, bợ
đỡ “Bà” Luyến cũng cùng mức độ như đối
với ông Ngô Đ́nh Cẩn. Dư luận dân
chúng Huế đă mỉa mai gọi mụ Luyến bằng
cái hỗn danh “Đệ nhất phu nhân” của
miền Trung.
Nói tóm lại Việt Nam là một nước Cộng
ḥa nhưng qua Hiến pháp (sẽ được phân
tích ở một chương sau) và qua thực tế,
người ta thấy ông Diệm không phải là
một Tổng thống do dân bầu để cầm đầu
ngành hành pháp mà là một vị vua của
thời phong kiến và bà con anh em ông
ta đều là “Hoàng thân Quốc thích”, thứ
Hoàng thân Quốc thích có quyền hành
nắm hết rường mối quốc gia. V́ thế
nhân dân Việt Nam và báo chí quốc tế
đă nặng lời chỉ trích chế độ Ngô Đ́nh
Diệm và gọi chế độ ấy là chế độ “gia
đ́nh trị”, một thứ h́nh dung từ sâu
sắc và ám ảnh tâm trí mọi người đến độ
chỉ cần nói ba tiếng ấy là người ta
biết ngay nói đến chế độ nào.
Nhưng chế độ “gia đ́nh trị” Ngô Đ́nh
Diệm không phải chỉ ngừng lại ở sự
việc toàn thể bà con, anh em, dâu rể,
nội ngoại (và cả mụ Luyến, một người
giúp việc nhà) nắm toàn quyền lănh đạo
đất nước, nắm trọn quyền sinh sát nhân
dân, nắm trọn tài nguyên quốc gia mà
chế độ đó đang c̣n tự biến dần để trở
thành một triều đại vua chúa như các
triều đại Đinh, Lê, Lư, Trần,
Nguyễn... Bởi v́ ngoài chuyện quốc gia
hóa lễ Bổn Mạng Tổng thống Diệm mà ông
Đoàn Thêm (trong “Hai Mươi Năm Qua”)
đă tự hỏi ai đă đề nghị như vậy, chế
độ đi dần đến việc tổ chức “Ủy ban
Nhân dân lễ khánh thọ lục tuần” của
Tổng thống Diệm, lễ đầu tiên được tổ
chức vào ngày 28-12-1960 (8 ngày sau
khi Mặt trận Giải phóng miền Nam ra
đời). Hơn nữa, thứ nghi lễ vua chúa đó
cũng không ngừng lại chỉ để dành riêng
cho ông Tổng thống mà người ta c̣n đi
xa hơn bằng cách tổ chức lễ “Cửu Tuần
Khánh Thọ” cho bà Ngô Đ́nh Khả, mẹ của
Tổng thống (ngày 18-9-1961). Nhiều đại
diện các đoàn thể, nhiều nhân vật cao
cấp của chính quyền phải về Huế để
dâng lời chúc mừng lên “Thái Từ” trong
lúc Bộ Nội vụ chính thức tổ chức Lễ Tạ
Ơn tại Vương Cung Thánh Đường tại Sài
G̣n.
C̣n nghi ngờ ǵ nữa: anh em ông Diệm
đang sửa soạn một số nghi thức, một số
danh từ, sửa soạn dư luận để hoán
chuyển từ chế độ Cộng ḥa trở thành
chế độ quân chủ và chỉ đợi ngày ông
Diệm tức vị đăng quang lên ngôi Hoàng
Đế. Mà nếu không th́ ít nhất ông Diệm
cũng đă trở thành một thứ “Tổng Đế”
như ông Đoàn Thêm đă mỉa mai.
Dù sao th́ Ngô triều đang làm sống lại
những lễ nghi của Nguyễn triều chẳng
hạn như “Lễ Khánh Thọ Tứ Tuần” của vua
Khải Định, đang làm sống lại hai tiếng
“Đức Từ” dành cho mẹ vua Bảo Đại mà
thời gian chưa đủ lâu để xóa nḥa tâm
trí nhân gian. Điều đáng nói là mẹ vua
Bảo Đại tuy được xưng tụng là “Đức Từ”
nhưng Bà lại không được con bà (một vị
Quốc trưởng) và chính phủ của con Bà
dành cho những vinh dự quá lớn lao như
“Thái Từ” mẹ của anh em nhà họ Ngô
Đ́nh.
* * * * *
Tuy nhiên trong những năm đầu tiên của
chế độ, khi mà thời cuộc vừa chuyển
đổi qua một giai đoạn mới với niềm tin
vào tương lai mà động lực là hy vọng
để toàn dân cùng với chính quyền bắt
tay vào việc xây dựng đất nước, th́
những cảm nhận của quần chúng về chính
sách “gia đ́nh trị” dễ dàng được tha
thứ nhờ những thành quả ngoạn mục mà
chế độ đă thực hiện được:
Trước hết là việc chuyên chở và định
cư cho hơn 860.000 người di cư trong
đó có gần 700.000 người Công giáo.
Việc chuyên chở người di cư từ Bắc vào
Nam được kế hoạch và sử dụng phương
tiện chuyên chở của Pháp và Mỹ, c̣n
việc định cư th́ hoàn toàn chỉ do tiền
viện trợ của Mỹ đài thọ. Công cuộc
định cư sở dĩ hoàn thành mau chóng và
tốt đẹp là một phần nhờ ông Diệm dành
những vùng đất màu mỡ rộng lớn cho dân
di cư. Ví dụ như ông Diệm đă lấy đất
Cái Sắn màu mỡ cấp phát cho 45.000
nông dân; lấy bờ biển B́nh Tuy và đảo
Phú Quốc, những nơi nổi tiếng nhiều
hải sản cho dân chài lưới; lấy Long
Khánh, Định Quán, Gia Kiệm, Hố Nai cho
dân khai thác lâm sản và làm đồ mộc,
lấy Ban Mê Thuột và Cao Nguyên vùng
đất đỏ ph́ nhiêu cho dân trồng trọt
hoa mầu để xuất cảng; lấy vùng Ngă Ba
Ông Tạ, Tân B́nh, G̣ Vấp chung quanh
Sài G̣n cho dân thương măi và kỹ
nghệ... Nhờ tiền bạc dồi dào của Mỹ,
nhờ chính quyền dành cho mọi sự dễ
dàng, nhờ Tổng thống Diệm chú tâm nâng
đỡ, chẳng bao lâu người dân di cư miền
Bắc đă hội nhập dễ dàng vào cuộc sống
của dân miền Nam mà trước đó họ coi là
vùng đất xa lạ. Và cũng chẳng bao lâu,
đời sống dân di cư đă đi từ ổn định
đến trù phú c̣n hơn cả dân địa phương.
Công cuộc định cư mau chóng và tốt đẹp
cho hơn 700.000 người Công giáo di cư
đă làm cho các quốc gia trên thế giới
nhất là Hoa Kỳ phải khâm phục. Một bác
sĩ trẻ của Hải quân Mỹ, ông Tom
Dooley, một nhân vật rất mộ đạo Thiên
Chúa từng tham gia vào việc chuyên chở
người Bắc di cư vào Nam, nhận thấy
tinh thần chống Cộng cao độ của người
Thiên Chúa giáo Việt Nam đă t́nh
nguyện ở lại miền Nam để thực hiện
nhiều công cuộc nhân đạo, viết sách ca
ngợi công tŕnh di cư và định cư làm
cho nhân dân Mỹ càng thêm kính phục
Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm.
Đây là một thành công lớn về mặt xă
hội của chính quyền chỉ trừ một điều
là trên mặt chính trị, và ở một khía
cạnh nào đó, sự chọn lựa vào Nam của
gần một triệu người miền Bắc đáng lẽ
phải được coi như là một sự chọn lựa
chính trị của quần chúng giữa tự do và
Cộng sản th́, v́ sự vụng về trong
chính sách, đă trở thành một sự lựa
chọn chỉ của một khối lượng Thiên Chúa
giáo, nghĩa là giữa hữu thần và vô
thần. Do đó, đáng lẽ biến cố đó có thể
tạo nên nhiều uy thế dũng mănh cho
chính nghĩa của miền Nam, th́ nó lại
bị giới hạn rất nhiều vào một bộ phận
thiểu số của cộng đồng dân tộc. Đó là
chưa nói đến những tác hại chính trị
và nhân văn gây ra do sự vụng về này.
Trong những năm 1955-56, ngoài công
cuộc định cư cho dân Công giáo miền
Bắc, nhiều cải cách xă hội cũng như
những biến cố chính trị tốt đẹp khác
càng làm tăng thêm uy tín của ông
Diệm:
- Ngày 15 tháng 2 năm 1955, ông Diệm
ra lệnh đóng cửa ṣng bạc Kim Chung
Đại Thế Giới của Bảy Viễn.
- Ngày 23 tháng 10 năm 1955, ông Diệm
tổ chức Trưng cầu Dân ư, truất phế vua
Bảo Đại.
- Ngày 1 tháng 12 năm 1955, ông Diệm
ra lệnh đóng cửa xóm B́nh Khang, nơi
buôn bán măi dâm công khai do ông Bảy
Viễn để lại, đồng thời ra lệnh cấm hút
và cấm buôn bán thuốc phiện để lành
mạnh hóa nhân dân miền Nam. Một chiến
dịch đốt bàn đèn hấp dẫn vừa để làm
gương cho dân chúng vừa để làm cho
người ngoại quốc kính nể chế độ.
- Ngày 4 tháng 4 năm 1956, chính phủ
bắt ông Ưng Bảo Toàn, Tổng giám đốc
Thương măi ở Bộ Kinh tế v́ tội bán gạo
chợ đen (nhưng sau này mới biết đây là
một vụ do ông Ngô Đ́nh Cẩn bắt ông
Toàn làm vật tế thần).
- Ngày 28 tháng 4 năm 1956, quân đội
viễn chinh Pháp xuống tàu về nước.
- Ngày 13 tháng 7 năm 1956, xử tử
tướng Ba Cụt, một vị lănh tụ nghĩa
quân Ḥa Hảo, chấm dứt t́nh trạng mất
ổn định tại miền Tây Nam phần.
- Ngày 20 tháng 7 năm 1956, do sự
khuyến khích và hỗ trợ của Hoa Kỳ,
Tổng thống Diệm bác bỏ việc tổng tuyển
cử hai miền theo quy định của Hiệp ước
Genève.
- Ngày 21 tháng 8 năm 1956, chính phủ
bắt ông Vũ Đ́nh Đa và đồng bọn về tội
biển thủ mấy triệu bạc của Ngân hàng
Quốc gia.
- Ngày 26 tháng 10 năm 1956, ông Diệm
tuyên bố thành lập nền Cộng ḥa.
Tất cả những thành công trong hai năm
đầu của chế độ được xem như là kết quả
của những nỗ lực của một chính quyền
tuy c̣n yếu kém về mặt quản trị nhưng
lại được một sự quyết tâm cộng tác của
toàn dân. Tuy nhiên những nỗ lực này,
tự nó và nếu chỉ riêng nó, cũng chưa
đủ để hoàn thành việc củng cố miền Nam
nếu không có sự yểm trợ tối đa và vô
điều kiện của Hoa Kỳ mà đặc biệt là
của ba người Mỹ đă từng liên hệ chặt
chẽ với ông Diệm từ trước. Đó là một
vị Hồng y, một giáo sư có đầu óc xă
hội gốc người Áo và một nhân vật cao
cấp CIA, ba nhân vật (từ đầu) đă hoán
cải được quan niệm của Tổng thống
Eisenhower vốn đă muốn bỏ rơi Việt Nam
[9]. Vị Hồng y là ông Spellman, vị
giáo sư là ông Buttinger và nhân viên
CIA, ai cũng biết, là ông Lansdale.
Trong ba nhân vật đó th́ Đại tá
Lansdale đóng vai tṛ cố vấn trực tiếp
bên cạnh Tổng thống Diệm. Ông ta nổi
tiếng đến độ không một nhà viết sử nào
khi nói đến sự nghiệp của ông Diệm mà
không nhắc đến thân thế và hoạt động
của ông ta. Đại tá Lansdale đến Đông
Dương từ năm 1954, làm cố vấn phản du
kích cho quân đội viễn chinh Pháp. Vào
tháng Sáu năm 1954, trước t́nh h́nh
khẩn trương của Việt Nam, Lansdale
được Ngoại trưởng Foster Dulles phái
đến Bắc Việt để điều nghiên t́nh h́nh
và từ công tác đó đă đẩy đưa Lansdale
trở thành bạn thân và cố vấn của ông
Diệm, giúp ông Diệm trở thành Tổng
thống Việt Nam Cộng Ḥa. Do đó nhiều
sách sử, báo chí Mỹ gọi Lansdale là
“Kẻ tạo nên những ông vua” (The
Kingsmaker).
Lịch sử dân tộc Việt có hai thời kỳ mà
nhà lănh đạo Việt Nam có người Âu-Mỹ
trực tiếp và công khai làm cố vấn, làm
quân sư đặc biệt, đó là thời kỳ chúa
Nguyễn Ánh Đàng Trong và thời kỳ miền
Nam với Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm.
Thật vậy, Giám mục Pigneau de Béhaine
người Pháp trong suốt mười năm ở với
chúa Nguyễn Ánh thực sự đă là một
Thượng thư Bộ Binh và Bộ Ngoại giao,
đêm ngày quên cả đọc kinh, lo dịch
binh thư, lo giao thiệp với Pháp và
các nước lân bang, lo chủ tŕ hội nghị
các sĩ quan Pháp giải quyết việc quân
sự, giúp chúa Nguyễn Ánh giải vây
thành Quy Nhơn. Pigneau đă đóng góp
cho chúa Nguyễn Ánh phần công lao to
lớn trong việc đè bẹp được nhà Nguyễn
Tây Sơn để sau này chúa Nguyễn Ánh
thống nhất xứ sở. [10]
Miền Nam Việt Nam vào những năm 1954,
55, 56 trước những khó khăn và nguy
hiểm mà ông Diệm tưởng là khó ḷng
vượt qua được (đến nỗi ông Diệm chán
nản đă định bỏ nước ra đi vào cuối năm
1954) chính nhờ ông Edward Lansdale
làm cố vấn giúp đỡ tận t́nh, ông Diệm
đă chuyển bại thành thắng. Không có
vấn đề chính trị, quân sự, xă hội nào
mà không có ư kiến của ông Lansdale.
Hàng ngày, ông Lansdale vào dinh Độc
Lập gặp gỡ ông Diệm để thảo luận và đề
nghị kế hoạch, ông cũng đă từng gọi
ông Diệm là “Papa”, sự kiện này nói
lên mối thâm t́nh thắm thiết giữa ông
Lansdale và ông Diệm cũng như xác định
vai tṛ tối cần thiết và tối quan
trọng của ông Lansdale đối với ông
Diệm.
Không những chỉ cần thiết và quan
trọng mà uy thế của Đại tá Lansdale
c̣n to lớn đến độ đă có lần công khai
to tiếng chỉ trích ông Diệm (là một
hành động “phạm thượng” nặng nề nếu đó
là một người Việt Nam khác) khi ông
Diệm đă có những lời lẽ khinh thường
tướng cách mạng Tŕnh Minh Thế. [11]
Đă rất nhiều lần ông Diệm tỏ ra lo âu
trước những quyết định của Hoa Thịnh
Đốn có vẻ muốn chấm dứt sự ủng hộ của
Hoa Kỳ th́ chính Lansdale đă đánh điện
về Bộ Ngoại giao để trực tiếp thăm ḍ
và can thiệp với Ngoại trưởng Foster
Dulles. Khi đă nắm được mọi dữ kiện
tích cực trong tay, Lansdale lại đến
gặp ông Diệm để bảo đảm rằng chính
sách của Hoa Kỳ không thay đổi và
khích lệ ông Diệm hăy can đảm mà tiếp
tục cầm quyền.
Trong thời gian ông Diệm bị các giáo
phái, B́nh Xuyên, và tướng Nguyễn văn
Hinh chống đối, Lansdale và tiền bạc
của Mỹ đă lôi kéo được một số tướng tá
giáo phái về với ông Diệm và đă gây
được sự chia rẽ trong hàng ngũ chống
đối ông Diệm, củng cố địa vị cho ông
ta và đưa ông ta đến thắng lợi cuối
cùng. Đồng thời với việc ổn định t́nh
h́nh miền Nam, Lansdale đă thiết định
cho ông Diệm những kế hoạch trong việc
tiếp thu các vùng B́nh Định và Cà Mâu
do Việt Minh để lại. Lansdale giúp ông
Diệm thành lập cơ quan Công dân vụ gồm
thanh niên áo đen về thôn quê giúp đỡ
đồng bào tái tạo đời sống mới. Ông ta
c̣n khám phá ra và giới thiệu với ông
Diệm vị trưởng cơ quan Đặc ủy Công dân
vụ là ông Kiều Công Cung. Lansdale
cũng đă giúp cho ông Diệm tổ chức hội
Cựu Chiến Binh và nhà phát hành Thống
Nhất để ông Diệm có một hậu thuẫn vững
chắc gồm những người đă từng cầm súng
chống lại Cộng sản. Lansdale lại c̣n
đưa một phái đoàn Phi Luật Tân qua
Việt Nam trong chương tŕnh y tế gọi
là “chiến dịch huynh đệ” (Operation
Brotherhood)... để giúp dân quê Việt
Nam hướng về một đời sống tiến bộ hơn.
Ngoài Lansdale ra c̣n có giáo sư
Buttinger, giáo sư Fishel và một số
người Mỹ khác giúp ông Diệm về những
phương tiện kinh tế, giáo dục tạo sự
phồn thịnh cho miền Nam. Họ đă giúp
ông Diệm bành trướng Viện Đại học Sài
G̣n, thiết lập Viện Đại học Huế, mở
trường Quốc gia Hành chánh, trường
Nông Lâm Súc, trường Kỹ Thuật Phú
Thọ... mở các nhà máy than Nông Sơn,
nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy đường
Hiệp Ḥa, các cơ sở kỹ nghệ bông vải,
ve chai... tạo công ăn việc làm cho
dân lao động để mở mang kinh tế cho
miền Nam...
Người Mỹ cũng giúp ông Diệm tái tạo
lại hệ thống đường sá, bài trừ nạn mù
chữ, thiết lập chương tŕnh y tế nông
thôn, đào giếng cho dân quê, và thành
lập những đội xịt thuốc DDT để bài trừ
nạn sốt rét.
Nếu chúng ta đă không phủ nhận được
quyết tâm của toàn dân và của chính
quyền nhằm mau chóng và vững vàng xây
dựng một miền Nam hồi sinh th́ chúng
ta cũng không thể phủ nhận được chính
người Mỹ, trên tất cả mọi mặt, đă yểm
trợ cho chúng ta hoàn thành ước nguyện
đó. Nhân, tài, vật, lực chảy vào miền
Nam không ngơi nghỉ. Chính sách, kế
hoạch, phương tiện, tài chánh đổ vào
miền Nam không giới hạn.
Và sau 10 năm trời chiến tranh ly loạn
(1945-1955) trong khung cảnh ḥa b́nh
an lành và với một viễn tưởng phồn
vinh trước mắt, dân miền Nam đă cảm
thấy cuộc đời ấm no hơn và tương lai
tươi sáng hơn.
Cũng trong những năm đầu của chế độ,
về mặt đối ngoại, ông Diệm đă gây được
nhiều uy thế to lớn. Nhiều quốc gia
thuộc khối phi liên kết công nhận Việt
Nam Cộng Ḥa, mà chuyến viếng thăm của
ông U Nu (Thủ tướng Miến Điện) ngày 11
tháng 11 năm 1956 là một bông hồng vô
cùng quư giá cho chế độ ông Diệm. Cao
Miên vốn coi Việt Nam là kẻ thù truyền
kiếp thế mà nay phải kiêng nể Việt Nam
Cộng Ḥa, c̣n Lào th́ kết thân với
Việt Nam làm anh em dựa vào nhau theo
cái thế môi hở răng lạnh.
Trong ba năm đầu, tên tuổi ông Diệm
vang lừng trên trường quốc tế nhờ
những cuộc công du thăm viếng các quốc
gia như Ấn Độ, Thái Lan, Trung Hoa Dân
Quốc, Đại Hàn. Đặc biệt ông được ṭa
Bạch Ốc mời viếng thăm chính thức nước
Mỹ ngày 4 tháng 4 năm 1957. Ngược lại
nhiều chánh khách và lănh tụ quốc tế
tên tuổi như Ngoại trưởng Dulles nước
Mỹ, Ngoại trưởng Couve de Murville của
Pháp, ông Pinay cựu Thủ tướng Pháp,
Tổng thống Lư Thừa Văn của Đại Hàn,
Phó tổng thống Trần Thành của Trung
Hoa Dân Quốc cũng đă đến viếng thăm
Việt Nam.
Cho đến mùa Xuân năm 1959, mặc dù Việt
cộng đă hoạt động mạnh khiến t́nh h́nh
an ninh nông thôn bắt đầu đáng lo ngại
nhưng danh tiếng của Tổng thống Ngô
Đ́nh Diệm vẫn c̣n sáng chói nhờ những
quan hệ đặc biệt với Ṭa thánh La Mă
Vatican và quốc gia Ấn Độ, một nước
đang có nhân viên làm Chủ tịch Ủy hội
Quốc tế Kiểm soát Đ́nh chiến tại Việt
Nam. Ngày 16 tháng 2 năm 1959, Đức
Hồng y Agagianian, đại diện Đức Giáo
hoàng đến Sài G̣n chủ tọa lễ 300 năm
thành lập Giáo hội Công giáo Việt Nam
và tôn vinh nhà thờ Đức Bà Sài G̣n lên
hàng Vương Cung Thánh Đường. Trong
những ngày Đức Hồng y có mặt tại Việt
Nam với những buổi lễ ngoài trời, cờ
của Ṭa thánh chen lẫn với cờ quốc gia
tung bay trước công viên dinh Độc Lập
và khắp mọi tỉnh thị tạo nên một khung
cảnh náo nhiệt rộn ră khắp miền Nam.
Ngày 18 tháng 3 năm 1959, Tổng thống
Ấn Độ là ông Prasad viếng thăm Việt
Nam mà lại đến Sài G̣n trước rồi mới
đến Hà Nội sau, gây thêm vinh dự và tự
hào cho chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Ngày 7
tháng 8, con đường xe lửa xuyên Việt
nối liền Đông Hà với Sài G̣n được
khánh thành trọng thể càng tạo nên
cảnh thanh b́nh cho đất nước.
Như vậy, kể từ khi hiệp định Genève ra
đời chia đôi đất nước rồi ông Diệm về
chấp chánh, ít ai nghĩ rằng ông Diệm
có thể vượt thắng được những khó khăn,
ít ai nghĩ rằng chế độ có thể tồn tại
lâu dài. Nhưng miền Nam đă đứng vững,
đă hồi sinh. Và ông Diệm đă duy tŕ
được chế độ để bước lên đài vinh
quang. Báo chí trong và ngoài nước ca
tụng ông Diệm là người hùng của vùng
Đông Nam Á và Tổng thống Eisenhower đă
gọi ông Diệm là “người của phép lạ”
(the miracle man).
Nhưng bất hạnh thay cho dân tộc Việt
Nam! Bức tranh màu sắc rực rỡ trên đây
chỉ như cái ráng hồng của một chiều
trời nắng quái trong buổi tàn thu, v́
chung quanh ráng hồng đó, mây đen đă
bắt đầu vần vũ báo hiệu một cơn giông
tố hăi hùng sắp xảy ra. Chính Đại tá
Lansdale, người lạc quan nhất và nắm
vững t́nh h́nh khá rơ, cũng đă bắt đầu
nhận thấy nhiều hiện tượng bất ổn cho
chế độ. Ông đă thấy sự ra đời của đảng
Cần Lao, ông đă thấy cung cách lănh
đạo độc tôn, độc tài của anh em ông
Diệm, ông đă nghe nói đến những cuộc
đi bắt người ban đêm của cán bộ đảng
Cần Lao, đă chứng kiến việc bắt bớ thủ
tiêu những người quốc gia đối lập...
Trước khi từ giă Việt Nam để về Mỹ vào
cuối năm 1956, ông Lansdale đem tâm
t́nh khuyên bảo Tổng thống Diệm nên
noi gương Tổng thống Washington đứng
trên và đứng ngoài mọi tranh chấp tôn
giáo và đảng phái để cứu nước và trở
thành “vị cha già dân tộc”. Nhưng than
ôi! Những lời khuyên chí t́nh của ông
Lansdale đă theo gió mà bay về Mỹ, để
lại sau lưng một chế độ ngày càng đi
sâu vào tội lỗi mà chính ông cũng bị
anh em ông Diệm phũ phàng quên hết
công ơn... Cuối năm 1955, khi mối đe
dọa và mối hiểm nghèo đă qua rồi,
Thiếu tướng Trần văn Đôn không thấy
ông Lansdale ngày ngày bên cạnh Tổng
thống Diệm nữa, bèn hỏi lư do th́ được
ông Diệm trả lời: “Lansdale CIA quá,
ồn ào quá. Trong chính trị, không có
chỗ cho t́nh cảm” [12]. Thế là sau
tướng Tŕnh Minh Thế đến Đại tá
Lansdale bị quên ơn.
Chính v́ quan niệm “trong chính trị
không có chỗ cho t́nh cảm” này, nghĩa
là không đếm xỉa đến bản vị con người
trong một triết lư hành động nhân trị,
mà sau này, kể từ những năm 60, chế độ
gia đ́nh trị của ông Diệm đi vào con
đường bạo trị bạo quản. Nhưng đó là
chuyện về sau, v́ trong những năm đầu
chấp chánh, khi mà men quyền lực c̣n
chưa làm say sưa cấp lănh đạo... th́
quả thật ḷng dân đều đặt hết vào ông
Diệm niềm tin trọn vẹn. Thể hiện rơ
ràng nhất là chuyến viếng thăm lần thứ
nh́ 4 tỉnh miền Nam Trung Việt, nơi
địa phương Duyên Hải mà tôi đang là Tư
lệnh vào tháng 9 năm 1955.
* * * * *
Trước khi ông Diệm rời Sài G̣n, ông Vơ
văn Hải gởi công điện cho tôi thông
báo lộ tŕnh kinh lư gồm trước hết là
tỉnh Phú Yên để khánh thành đập Đồng
Cam, sau đó ông sẽ thăm ba tỉnh Khánh
Ḥa, Ninh Thuận, và B́nh Thuận. Ngoài
ra Hải c̣n gởi một lá thư riêng đề
nghị tôi tổ chức thật trọng thể và
thật có ư nghĩa chuyến kinh lư này v́
“kỳ này ông Cụ đi thăm dân c̣n có
Ngoại giao đoàn và một số đông báo chí
quốc tế tháp tùng”.
Muốn buổi lễ trở nên “trọng thể và có
ư nghĩa” th́ theo tôi không có cách
nào hay hơn là biểu dương được niềm
tin mạnh mẽ của quần chúng về vị lănh
tụ của ḿnh. V́ vậy tôi bèn nhờ Phong
trào Cách mạng Quốc gia huy động thêm
nhân dân ở hai quận ngoại biên của
thành phố Nha Trang là Diên Khánh và
Vĩnh Xương tham dự vào cuộc nghênh đón
vị nguyên thủ quốc gia. Chương tŕnh
thăm viếng Nha Trang dự định bắt đầu
vào lúc 4 giờ chiều, không ngờ cuộc lễ
khánh thành đập Đồng Cam bị chậm trễ
thành ra hơn 8 giờ tối ông Diệm mới
tới phi trường Nha Trang. Dù bất ngờ,
anh em quân dân cũng kịp thời mua nứa
làm trên mười ngàn cái đuốc phát cho
dân chúng để thắp sáng thêm thành phố.
Khi ông Diệm đến nơi, cả một rừng
người đứng chật dọc theo các đại lộ từ
phi trường về đến trung tâm thành phố,
nơi có “chợ phiên triển lăm kinh tế”
do ông Tỉnh trưởng Nguyễn Trân (hiện ở
Mỹ) tổ chức để đón mừng vị nguyên thủ
quốc gia. Tiếng hoan hô vang dội và
đèn đuốc sáng choang tưng bừng rộn ră
một góc trời. Tôi đứng chung với ông
Diệm trên chiếc xe Jeep đi giữa hai
hàng dân chúng, thỉnh thoảng ông quay
nh́n tôi với vẻ mặt vô cùng hoan hỉ,
miệng luôn luôn nở nụ cười và hai tay
dơ cao đáp lại lời tung hô của dân
chúng. Trong cuộc kinh lư này c̣n có
cả ông Ngô Đ́nh Luyện đi theo.
Đêm đó tôi mời ông Diệm và các vị Bộ
trưởng lên sân thượng khách sạn “Beau
Rivage” để xem đoàn xe hoa 140 chiếc
của quân đội diễn hành mừng quan
khách. Trên bầu trời đen tối lấp lánh
ánh sao, phi cơ L19 và phi cơ Dakota
của Không quân (do Thiếu tá Oánh -
hiện ở Mỹ - chỉ huy) bay theo đội h́nh
và thả hỏa châu muôn màu biến trời cao
biển rộng của Nha Trang thành một tấm
thảm nạm kim cương lóng lánh. Cuộc
tŕnh diễn của quân đội kéo dài từ 10
giờ đêm đến 2 giờ sáng, các Bộ trưởng
dần dần tỏ dấu mệt mỏi, riêng ông Diệm
vẫn vui tươi ngồi nh́n đoàn xe hoa đi
qua, thỉnh thoảng ông đứng thẳng dậy
dơ hai tay cao vẫy chào tỏ ư khen ngợi
và để đáp lại tiếng hoan hô của quân
đội. Tôi nghĩ rằng từ ngày thành phố
Nha Trang được thành lập có lẽ chưa
bao giờ dân chúng được chứng kiến một
đêm hoa đăng tưng bừng rộn rịp như đêm
ông Diệm đến viếng thăm vào mùa Hè năm
1955 đó. Tôi cố gắng tạo một cuộc
nghênh đón thật đông đảo, huy hoàng để
chứng tỏ quân đội và nhân dân đang
ngưỡng mộ nhà lănh đạo mà có thể c̣n
nhiều nhân vật quốc tế c̣n nghi ngờ là
uy tín vẫn chưa thật sự ăn sâu trong
ḷng người Việt Nam.
Cuộc kinh lư của ông Diệm kéo dài
trong niềm hân hoan của mọi người và
trong sự đắc ư của ông Diệm cho đến
khi ông lên phi cơ ở phi trường Phan
Thiết để trở về Sài G̣n. Trước khi phi
cơ cất cánh, ông Diệm đă bắt tay tôi
thật chặt và nói thật thiết tha: “Mậu
gắng làm việc nghe”. Tôi biết đó không
phải là một lời chào tạm biệt, lại
càng không phải là lời cám ơn của một
cấp chỉ huy với một cán bộ trung kiên
đă chứng tỏ qua nhiều lần quyết tâm
phục vụ cho đất nước và cho cá nhân
ông từ gần 15 năm nay, mà rơ ràng đó
là một lời kết ước sâu sắc mà ông thề
nguyền. V́ cũng câu nói đó, tôi đă
từng nghe dặn ḍ nhiều lần trong những
giai đoạn gian nan của ông Diệm và
tôi, trong những giờ phút vinh nhục
của thời kỳ đấu tranh nguy hiểm.
Tổ chức cuộc nghênh đón vô cùng long
trọng sau ngày ông Diệm đă lật đổ một
chế độ phong kiến, sau ngày ông Diệm
đă bước lên đài vinh quang tột đỉnh,
tôi tự cho đă chấm dứt giai đoạn mở
đầu của chế độ, giai đoạn giới thiệu
nhà lănh đạo với quốc dân đồng bào. Từ
nay tôi chú tâm vào công việc đóng góp
phần nhỏ mọn của ḿnh vào công cuộc
kiến thiết và bảo vệ chế độ để phục vụ
quốc gia. Tôi trở về với nhiệm vụ của
người quân nhân, lo tảo thanh vùng
rừng núi nghi ngờ c̣n Việt cộng ẩn nấp
và lo việc huấn luyện binh sĩ. Một
trong những cuộc hành quân quy mô được
mở ra tại vùng rừng núi giáp giới ba
tỉnh B́nh Định, Phú Yên và Pleiku. Bộ
Tổng tham mưu biệt phái Thiếu tá
Nguyễn Huy Lợi làm Tham mưu trưởng cho
cuộc hành quân đó. Nguyễn Huy Lợi
(hiện nay ở Mỹ) là một sĩ quan trẻ
tuổi, có tài, có kinh nghiệm, giỏi cả
về tham mưu lẫn tác chiến. Tôi đă biết
Lợi từ ngày c̣n chiến đấu ở Bắc Việt.
Mấy tháng Lợi làm việc ở Nha Trang đă
giúp tôi khám phá thấy Lợi là viên sĩ
quan trẻ tuổi thông minh, có thể trở
thành một tướng lănh ưu tú của quân
đội sau này. Tiếc thay, cuối năm 1960,
Lợi tham gia tích cực cuộc lật đổ chế
độ nhà Ngô nhưng không thành nên phải
mai một, cơ cực mấy năm trời lưu vong
tại Cao Miên.
Về phương diện huấn luyện binh sĩ th́
dưới quyền tôi có trường Bộ binh Đồng
Đế, cách Nha Trang 3 cây số là trung
tâm đào tạo hạ sĩ quan lớn nhất của
quân đội. Một hôm, Thiếu tá Lê Cầm (do
Thiếu tá Huỳnh văn Cao, Tham mưu
trưởng Biệt bộ Phủ tổng thống, đặt để)
chỉ huy trường Hạ sĩ quan, mời tôi và
ông Tỉnh trưởng Nguyễn Trân cùng phái
đoàn nhân sĩ và hành chánh Nha Trang
đến thăm trường.
Sau khi thăm xong các cơ sở doanh
trại, Cầm mời chúng tôi đến chiêm
ngưỡng một ngôi “giáo đường” to lớn và
khang trang. Tôi khen ngợi Cầm có sáng
kiến tốt, đồng thời cũng hỏi xem Cầm
có thiết lập một ngôi chùa nào không.
Cầm trả lời “chưa”. Tôi nổi nóng ngay
và la Cầm: “Ở đây chỉ có vài trăm binh
sĩ theo Công giáo th́ anh lo làm nhà
thờ ngay, trong lúc đó đến trên 3.000
quân nhân theo đạo Phật th́ anh không
chịu để ư lo phần thiêng liêng của họ,
anh làm vậy binh sĩ sẽ ngờ rằng Tổng
thống Diệm chủ trương kỳ thị tôn giáo,
hơn nữa anh là cấp chỉ huy có đạo
Thiên Chúa, anh sẽ mang tiếng bất
công. Lại nữa việc làm của anh tỏ ra
anh đă không tuân lệnh tôi. Rất nhiều
lần trong các buổi học tập, tôi đă
tuyên bố Tổng thống Diệm là nhà lănh
đạo đặt tổ quốc lên trên tôn giáo...
không bao giờ ông có thái độ kỳ thị,
thiên vị, hẹp ḥi...”. Không ngờ những
lời tôi la mắng Thiếu tá Lê Cầm đă đem
lại hậu quả tai hại cho tôi liền ngay
sau đó.
Vào khoảng tháng 7 năm 1956, th́nh
ĺnh tôi nhận được lệnh bàn giao lại
Phân khu Duyên Hải cho Trung tá Nguyễn
Vĩnh (thường được binh sĩ gọi là Vĩnh
Hèo v́ ông hay cầm hèo đánh vào đầu
binh sĩ mỗi khi có lầm lỗi). Tôi được
thuyên chuyển về đơn vị quản trị Sài
G̣n đợi lệnh mới. Nhận được lệnh, tôi
liền bí mật vào Sài G̣n gặp Bộ trưởng
Trần Trung Dung vốn quen biết với tôi
từ năm 1953 tại Hà Nội, để hỏi duyên
cớ v́ sao tôi bị mất chức một cách vô
lư và bị thuyên chuyển như một h́nh
phạt. Ông Trần Trung Dung cho biết
việc đó là do lệnh trực tiếp của ông
cố vấn Ngô Đ́nh Nhu, v́ theo ông Nhu
th́ tôi mang đầu óc công thần và có
lời lẽ thất lễ đối với Tổng thống. Mấy
ngày sau Trung tá “Vĩnh Hèo” cho tôi
biết ông được lệnh mở cuộc điều tra về
ngân quỹ của Bộ tham mưu Phân khu
Duyên Hải do tôi sử dụng. Nhưng v́
Phân khu Duyên Hải không có ngân quỹ
riêng nên cuộc điều tra không đưa đến
kết quả nào. Tiếp đến là một phái đoàn
đảng Cần Lao gồm có Thiếu tá Công giáo
Vũ Hùng Phi và một cán bộ của Tổng
Liên đoàn Lao công (mà tôi quên tên)
đến Nha Trang để tiếp xúc với các cơ
quan quân dân chính để điều tra tôi về
tội “phá Công giáo”. Những hiện tượng
trên cho tôi thấy ḿnh bắt đầu trở
thành đối tượng chống phá của nhóm
Công giáo và Cần Lao mà nguyên do chỉ
v́ sự mâu thuẫn giữa tôi và ông Tỉnh
trưởng Nguyễn Trân, người thuộc phe
Công giáo Nha Trang.
Ông Nguyễn Trân khởi nghiệp là một vị
quan lại Nam triều, c̣n tôi xuất thân
từ một quân nhân trong một quân đội
bảo hộ. Nếu thế nước ḷng dân mà cứ êm
đềm như ḍng sông Hương th́ có lẽ tôi
và ông Nguyễn Trân không có cơ hội gặp
gỡ như lời của chí sĩ Phan Sào Nam:
“Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh
hùng hào kiệt có hơn ai!”. Nhưng cuộc
đời lại không bẳng phẳng măi cho nên
tôi mới gặp ông Nguyễn Trân để bị đố
kỵ, kéo bè, kết đảng cố t́nh làm hại
tôi.
Tôi biết ông Nguyễn Trân lần đầu tiên
vào năm 1949-1950 khi tôi c̣n làm việc
tại Bộ Tham mưu Việt binh đoàn ở Huế.
Ông Trân đến nhà tôi để nhờ tôi vận
động với Trung tá Nguyễn Ngọc Lễ cho
ông ta được gia nhập Việt binh đoàn
với cấp bậc “Chuẩn úy”. Nhưng ông Lễ
từ chối v́ biết ông Trân đang bí mật
làm việc cho công an Pháp tại Huế
(Sureté Féderale). Tôi cũng có gặp ông
Trân vài lần tại nhà ông Ngô Đ́nh Cẩn
ở Phú Cam. Nhưng như tôi đă nói ở
chương trước, ông Trân đến với ông Cẩn
chỉ để ḍ la t́nh h́nh. Thật ra ông
Trân khinh ông Cẩn dốt nát, c̣n ông
Cẩn th́ chê ông Trân là một cựu quan
lại tham nhũng; thế mà tôi không hiểu
v́ lư do nào ông Trân lại được cử làm
Tỉnh trưởng Khánh Ḥa khi ông Diệm vừa
được Bảo Đại cử làm Thủ tướng. Mấy
tháng sau, ông Tôn Thất Toại c̣n cho
tôi biết dĩ văng không đẹp của ông
Trân v́ ông Trân đă có thời làm Tri
huyện dưới quyền ông Toại khi ông Toại
c̣n làm Tuần vũ Phú Yên. Lúc c̣n làm
Tri phủ Tỉnh Gia (Thanh Hóa) ông Trân
bị liên hệ vào một vụ bông vải thời kỳ
Nhật chiếm đóng. Nhiều người c̣n ví
ông Nguyễn Trân là một thứ Trần Mậu
Trinh thứ nh́, v́ ông này làm Tri
huyện Hương Khê (Hà Tĩnh), nhân khi
ông Khâm sứ Pháp đi xe hỏa ra Hà Nội,
ông Trần Mậu Trinh bèn cho trồng chuối
dọc hai bên đường rầy suốt dọc huyện
Hương Khê v́ biết viên Khâm sứ đó
thích trồng chuối. Ông Nguyễn Trân
không trồng chuối nhưng lại thích mở
chợ phiên. Đến Nha Trang hai năm, ông
mở hai chợ phiên: chợ phiên Kinh tế
năm 1955 và chợ phiên Trung thu năm
1956. Vào Mỹ Tho, ông ta lại mở chợ
phiên luôn mấy tháng và bày tṛ đấu lư
với những cán bộ Cộng sản đang bị
giam.
Thời gian ở Nha Trang, cứ mỗi lần tôi
tổ chức biểu t́nh chống Pháp, chống
Cộng th́ ông Trân cùng với c̣ Dần lẩn
tránh vào Phan Rang hay “đi công tác
trong Phủ tổng thống” v́ lúc bấy giờ
vẫn c̣n người Pháp, Nha Trang vẫn c̣n
ṭa Đại diện Pháp (Délégation
Francaise). Nhưng hễ cuộc biểu t́nh
đưa đến kết quả mỹ măn th́ ông ta lại
khoe khoang với dinh Độc Lập là mặc dù
đi vắng nhưng ở nhà, dân chúng Nha
Trang vẫn tự động biểu t́nh chống
Pháp, chống Cộng, để khoe “dân của
ông” có tinh thần rất cao.
Tôi biết rơ sở dĩ ông Trân đố kỵ và
muốn tôi rời khỏi địa phương của ông
v́ cái t́nh cảm ghen tức và vị kỷ rất
thường bám rễ chặt trong một số cấp
quan lại thời phong kiến. Tôi là cán
bộ tiền phong của chế độ mà ông Trân
th́ không; tôi là người đứng đầu sóng
gió mà đấu tranh c̣n ông th́ vào Dinh
mà kể công, cho nên, đối với ông, tôi
là một thứ gươm Damocles trên đầu.
Ngoài ra, và trực tiếp hơn, tôi là một
Phật tử chỉ biết ông Diệm là cấp chỉ
huy duy nhất của ḿnh, c̣n ông Trân
lại là một tín đồ Công giáo đang góp
phần xây dựng một pháo đài Công giáo
chung quanh những người anh em ông
Diệm. Tôi nghĩ rằng chính điểm này,
điểm then chốt này, đă là lư do cuối
cùng và mạnh mẽ nhất làm cho ông Trân
t́m cách và đă thành công trong việc
thuyên chuyển tôi ra khỏi địa phương
mà tôi đă xây dựng.
Từ đầu, tôi không muốn có mâu thuẫn
với ông ta v́ dù sao chúng tôi đều là
cấp lănh đạo địa phương, nếu trầm
trọng hóa và công khai hóa th́ có thể
mất uy tín của chế độ và làm buồn ḷng
ông Diệm. Gặp ông Trân tôi chỉ than
phiền một số cử chỉ thiếu thành thực
của ông ta, không ngờ ông ta vẫn ôm
chặt mối hận thù đối với tôi. Ông dùng
nhóm Cần Lao Công giáo địa phương, cầm
đầu bởi linh mục Nguyễn Sồ và ông Vơ
Sĩ, báo cáo về ông Nhu để xuyên tạc
tôi.
Ngày tôi chính thức từ giă Phân khu
Duyên Hải lên đường vào Sài G̣n, quân
dân chính Nha Trang tổ chức một cuộc
tiễn đưa vô cùng cảm động và trọng
thể. Quân nhân và đoàn viên Phong trào
Cách mạng Quốc gia tập trung đầy cả
sân ga và đầy cả công trường Tŕnh
Minh Thế với vô số cờ của Phong trào
và biểu ngữ mang khẩu hiệu biểu lộ nỗi
mến tiếc sự ra đi của một người anh
đầu đàn. Nhiều binh sĩ đă ôm lấy tôi
mà khóc v́ ái mộ một cấp chỉ huy đă
thực hiện t́nh “huynh đệ chi binh”
bằng những chính sách cụ thể. Trước
hôm tôi ra đi, quân dân chính Nha
Trang mở một bữa tiệc tiễn hành, nhiều
người đă thay phiên nhau lên máy vi âm
ngỏ lời chào tiễn biệt. Vẫn chưa đủ
khoái trá với thành công, ông Trân bắn
phát đạn cuối cùng: Ông mượn một câu
thơ của Thế Lữ để mỉa mai tôi “Đi là
chết trong ḷng một ít”. Một nhân viên
của tôi là Trung úy Nguyễn Thiện thuộc
Đại đội Truyền tin, không thể im lặng
được bèn đứng dậy xin phát biểu ư
kiến. Thiện mượn tích Liêm Pha và Lạn
Tương Như để mỉa mai ông Trân là không
có tinh thần đoàn kết, chỉ biết dùng
thủ đoạn để hại người hiền.
Ngày nay, ông Trân và tôi đều làm thân
kẻ lưu vong biệt xứ, ăn nhờ ở đậu nơi
xứ người, c̣n có sung sướng hănh diện
ǵ mà kể lại chuyện tranh chấp xa xưa,
hơn nữa ông Trân và tôi đều là người
lăo giả, đều đă gần đất xa trời, chẳng
qua v́ không những tôi muốn kể lại một
ít chuyện của đời ḿnh, mà quan trọng
hơn thế nữa, tôi c̣n muốn trang trải
kinh nghiệm đời cho thế hệ tương lai
nên mới phải trung thực đề cập đến
chuyện của ông Nguyễn Trân. Huống chi
tư cách ông Nguyễn Trân như thế nào
th́ những cựu quan lại và công chức
miền Trung, những đồng hương nơi vùng
ông Trân ở đều biết rơ (tạp chí Thức
Tỉnh tại Los Angeles của kư giả Tô Văn
cũng đă có hai kỳ nêu lên một ít t́nh
tiết không đẹp về ông Trân rồi). Thành
thực mà nói th́ khi bị thuyên chuyển
khỏi Nha Trang, tôi không oán hờn ông
Trân lắm mà chỉ ngạc nhiên và thầm
trách ông Ngô Đ́nh Nhu, làm một nhà
lănh đạo cao cấp mà lại chủ quan,
thiếu sáng suốt.
Sau cuộc tiễn đưa thắm thiết t́nh đồng
chí của quân dân Nha Trang, dọc chuyến
tàu hỏa đưa tôi vào Sài G̣n, đêm đó
tôi c̣n đón nhận bao nhiêu cảm t́nh
nồng hậu của quân dân vùng duyên hải
Nam Trung phần. Mỗi lần tàu ngừng lại
tại Ba Ng̣i, Tháp Chàm, Phan Rí và
Phan Thiết, hàng trăm chiếc đuốc, hàng
ngàn cánh tay của quân dân chính những
vùng đó dơ cao lên hoan hô một người
chiến hữu cách mạng đă từng dẫn dắt họ
trong cuộc đấu tranh chống
Phong-Thực-Cộng qua hơn hai năm trời.
Các ông Tỉnh trưởng Nguyễn văn Tích
(Ninh Thuận) và Hồ Đắc Khương (B́nh
Thuận), các Thiếu tá Tiểu khu trưởng
như Hồ Nghĩa, Phan Xuân Nhuận và các
dân biểu đại diện Phong trào Cách mạng
Quốc gia (mà hiện nay c̣n có bác sĩ
Nguyễn Trọng Thiện hiện ở Mỹ) đă thay
mặt quân dân chính các tỉnh liên hệ
ngỏ lời tiễn đưa tôi. Họ bùi ngùi nhắc
lại những thành quả thu hoạch được tại
địa phương do sự chỉ đạo chính trị của
tôi. Đặc biệt tại Ba Ng̣i, Linh mục
Nguyễn văn Dũng đă kéo mấy trăm gia
đ́nh người Công giáo di cư Quảng B́nh
đến ga xe lửa để gặp mặt người đồng
hương, đồng chí lần chót. Cha Dũng đă
ôm lấy tôi mà khóc nức nở và Cha cũng
không ngần ngại to tiếng trách móc ông
Ngô Đ́nh Nhu “có mắt mà không có
ngươi”. Tôi không ngạc nhiên trước
thái độ của nhà tu hành khả kính đó.
Ông là người hết ḷng ủng hộ chế độ
Ngô Đ́nh Diệm, nhưng ông không phải là
hạng linh mục Cần Lao, hạng linh mục
hay lui tới cửa ngơ kẻ có quyền, không
bao giờ vào ra dinh Phú Cam hay dinh
Độc Lập, không bao giờ khúm núm trước
cửa Triều đ́nh Ngô Đ́nh Thục ở Vĩnh
Long. Sau khi tôi đi rồi, ông Nguyễn
Trân t́m mọi cách làm khó dễ địa phận
của Cha Dũng ở Hải Triều, thu lại hết
số vũ khí mà tôi đă phát cho xóm đạo
của cha. Linh mục Nguyễn văn Dũng là
một tu sĩ Công giáo có tinh thần cách
mạng, có tính t́nh cứng rắn, nhưng tôi
không ngờ ông quyết liệt đến độ đă
cùng với Phan Xứng tham gia vào tổ
chức cách mạng chống nhà Ngô của ông
Nguyễn văn Lực sau này. Đă đành Cha
Dũng và ông Phan Xứng sau này bí mật
tham gia vào hoạt động của ông Nguyễn
văn Lực là để đạp đổ một chế độ độc
tài làm đau khổ nhân dân 8, 9 năm
trời, nhưng biết đâu việc tôi bị cất
chức khỏi Nha Trang một cách bất công
đă là một yếu tố nhỏ đầu tiên đóng góp
cho cái quyết định có thể đă làm Cha
mất mạng. Sau cuộc lật đổ ông Diệm
(năm 1963) nhóm Cần Lao coi tôi như kẻ
thù, nhưng có những phần tử Công giáo
như ông Phạm Quốc Trị hay như ông
Nguyễn văn Dật (hiện ở Los Angeles)
chẳng hạn, quen thân với Cha Dũng, hết
ḷng bênh vực tôi, họ không ngần ngại
công khai lên án tập đoàn Cần Lao đă
phá hoại chế độ và làm suy sụp miền
Nam.
Đến Sài G̣n, tôi t́m cách vào gặp ông
Nhu măi mà không được, bèn đi thăm một
số bạn bè trong đó có ông Tôn Thất
Trạch (hiện ở Pháp) Tổng giám đốc Bảo
an. Ông Trạch nguyên là cựu Tri huyện,
theo ông Diệm từ ngày hồi cư khoảng
1949, 1950. Khi ông Diệm mới về nước
làm Thủ tướng, nhờ là người liêm chính
ông Tôn Thất Trạch được chọn giữ chức
vụ tín cẩn là Đổng lư Văn pḥng. Nhưng
tính t́nh vốn cứng rắn, nói phô thiếu
mềm dẻo, nên ông Trạch không được ông
Diệm ưa thích, sau đó ông Trạch bị mất
chức Đổng lư Văn pḥng và được bổ
nhiệm làm Tổng giám đốc Bảo an.
Tôi vào thăm, ông Trạch mừng lắm, và
đề nghị với Bộ trưởng Nội vụ là ông
Nguyễn Hữu Châu để tôi giữ chức Phó
Tổng giám đốc Bảo an, phụ tá cho Trạch
về phần quân sự. Nhưng chỉ độ hai tuần
lễ sau th́ Trạch bị ông Cố vấn Ngô
Đ́nh Nhu khiển trách tại sao lại sử
dụng tôi, và đồng thời ra lệnh cho tôi
sửa soạn đi nhận chức Tùy viên Quân sự
tại Ṭa đại sứ Việt Nam ở Pháp.
Tôi nghĩ bụng việc chỉ định tôi đi làm
Tùy viên Quân sự thật ra chỉ là một
biện pháp khai trừ những phần tử “bất
hảo” bằng cách cho ra nước ngoài (như
trường hợp các ông Bùi văn Thinh,
Nguyễn Đôn Duyến, Trần Chánh Thành,
Lâm Lễ Trinh, Trần Kim Tuyến sau
này...), nhưng điều làm tôi ngạc nhiên
là tại sao lại bổ nhiệm tôi đi Pháp v́
tôi vốn là phần tử có thành tích chống
Pháp mà cả ông Diệm và ông Nhu đều
biết rất rơ. Vốn nặng t́nh quê hương
và thích sống đơn giản nên tôi không
thích những kinh thành hoa lệ, náo
nhiệt và xa xôi như Paris, hơn nữa lại
chán nản trước sự bạc đăi của ông Nhu,
tôi đă định xin từ chức. Nhưng nghĩ
lại th́ dù sao c̣n có ông Diệm biết rơ
cuộc đời ḿnh, biết rơ công lao của
ḿnh, biết rơ tấm ḷng trung cang
nghĩa khí của ḿnh, cho nên trước khi
quyết định từ chức, tôi muốn biết rơ
thái độ của ông Diệm như thế nào đă.
Tôi xin yết kiến Tổng thống, tŕnh bày
mọi sự việc đă xảy ra ở Nha Trang, rồi
xin ông Diệm cho tôi được ở lại quê
nhà. Ông Diệm trả lời: “Không lẽ cha
Sồ mà cũng nói láo về anh hay sao? Anh
cứ đi Pháp đi đă”. Ông Diệm không có
vẻ giận dữ tôi lắm nhưng tôi vẫn tự
hỏi tại sao ông lại không có một quyết
định sáng suốt hơn và đúng đắn hơn để
gỡ mối oan cho người cán bộ trung
kiên. Một ông linh mục th́ thường có
thể đúng trong chuyện Đạo, nhưng trong
chuyện Đời, nhất là những mâu thuẫn
chính trị có tính cách phe phái phức
tạp, th́ ông Cha có thể nhầm lẫn lắm
chứ. Chỉ một ông Cha Sồ ở Nha Trang mà
đă có áp lực nặng nề như thế th́ sau
này những linh mục, nhưng Tổng giám
mục, những Hồng y... c̣n san sẻ quyền
lực và chi phối chính sách đến mức độ
nào!
Tôi rời quê hương ngày 25 tháng 10 năm
1956, một ngày trước lễ Quốc Khánh đầu
tiên của miền Nam Việt Nam. Ngày mai,
ông Diệm sẽ tuyên bố thành lập nền
Cộng ḥa và chính thức ban hành Hiến
pháp, sẽ chủ tọa lễ Quốc Khánh trên
đại lộ Trần Hưng Đạo huy hoàng cờ
quạt. Ngày mai, bạn bè tôi ở đó, đồng
chí tôi ở đó, đồng bào tôi ở đó, và
lănh tụ tôi ở đó cũng sẽ được mang
chung niềm vinh dự lớn, c̣n tôi th́
sau 15 năm gian truân đấu tranh cho
dân tộc và cho tổ chức ông Diệm, lại
làm kẻ độc hành giă từ quê hương đi
đến một phương trời xa ngái. Dẫn theo
đứa con trai trưởng mới 16 tuổi cho đỡ
đơn côi tại xứ người, tôi bước lên
chiếc phi cơ Constellation 4 động cơ
của hăng Air France mà buồn ông Diệm
hiểu lầm ḿnh th́ ít nhưng giận ông
Nhu mới qua sông mà đă chặt cầu th́
nhiều.
Trời Paris cuối thu lành lạnh, sương
trắng giăng mắc suốt đoạn đường từ phi
trường Orly về đến trung tâm thành
phố. Hai cha con chúng tôi được nhân
viên Ṭa đại sứ đón về tạm trú tại một
khách sạn ở khu Latin. Đêm đầu tiên
trên xứ người thật là dài và sâu.
Mặc dù được đại sứ Phạm Duy Khiêm hết
ḷng vận động nhưng tôi vẫn không được
chính phủ Pháp thừa nhận là nhân viên
thuộc ngoại giao đoàn. Tôi không ngạc
nhiên và cũng không có ư trách người
Pháp v́ làm sao họ có thể có thiện cảm
với một người có thành tích hung hăn
chống lại quyền lợi của quốc gia họ,
và đe dọa tính mạng kiều dân của họ
tại Việt Nam. Trong bữa tiệc thết đăi
Đại sứ Pháp Jean Payart từ Sài G̣n về
công cán tại Paris có sự tham dự của
hai ông Bùi Xuân Bào và Bửu Kĩnh với
mục đích tạo một tiếng dội về Bộ Ngoại
giao Pháp, Đại sứ Phạm Duy Khiêm đă
giới thiệu tôi không phải là một con
cọp hung dữ với Đại sứ Payart, nhưng
chính phủ Pháp vẫn coi tôi là phần tử
nguy hiểm. Tuy nhiên, lúc bấy giờ, v́
chính phủ Pháp chưa muốn tạo ra quan
hệ căng thẳng giữa Pháp và Việt Nam
nên họ đă để cho tôi ở vào cái thế
không ở trong quy chế ngoại giao đoàn
mà cũng không coi tôi là một personna
non grata để trục xuất về nước. Cuối
năm 1956, nhân có các ông Trần Chánh
Thành và Nguyễn Hữu Châu đi công cán ở
Pháp, tôi nhờ hai ông về tŕnh lại với
Tổng thống Diệm cho tôi được hồi
hương. Trong lúc chờ đợi sự giải quyết
của chánh phủ Sài G̣n, tôi lại phải
kéo dài chuỗi ngày vô vị chán nản của
một người mang tâm trạng bị vắt chanh
bỏ vỏ, một người bị phản bội, sống vất
vưởng nơi quê người mà tâm huyết đóng
góp cho đất nước th́ vẫn sục sôi theo
ngày tháng.
Paris vào tiết trọng Đông sương tuyết
lạnh lùng càng làm cho niềm cô đơn
thêm tê tái, căn pḥng trọ ở số 10
đường Claude Terrace gần Porte St.
Cloud là một cao ốc ở tầng thứ bẩy
hứng chịu cơn gió lốc buốt giá khi đêm
về. Tôi thường ngồi độc ẩm với b́nh
trà tàu thâu đêm và tuy không phải là
thi sĩ, nhưng cứ mỗi lần tâm sự dạt
dào th́ t́nh thơ lại chứa chan lai
láng. Nhớ lại cụ Phan Thanh Giản ngày
xưa cũng đă có lần đi sứ sang Pháp nên
tôi bèn nhại bài thơ Đường của Cụ để
kư thác tâm sự ḿnh, tâm sự mà tôi
muốn nhắn gởi cho ông Diệm:
Từ lúc quen nhau kết chữ đồng,
Lời thề đă hẹn với non sông.
Trời Tây riêng tớ sầu cô quạnh,
Đất Việt mong ai khéo vẫy vùng.
Chén rượu liên hoan c̣n chửa cạn,
Con thuyền viễn xứ đă xa trông.
Trùng dương muôn dặm dù xa cách,
Rằng nhớ rằng quên, ḷng hỏi ḷng.
Tôi gởi bài thơ về nước cho một số bạn
bè đọc chơi, không ngờ sau này ông dân
biểu Vơ văn Trưng, một đồng chí của
tôi, lại cho đăng trên tuần báo “Sinh
Lực” do ông làm chủ nhiệm và người bạn
tri kỷ của tôi là nhà văn Thái văn
Kiểm lại gởi cho thi sĩ Đinh Hùng để
được ngâm nga trên mục Tao Đàn của đài
phát thanh Sài G̣n. Tôi nghĩ rằng bạn
hữu tôi đều biết đó là thứ “thơ kaki”,
nhưng có lẽ v́ họ thương mến và muốn
chia sẻ tâm sự của tôi nên mới phổ
biến bài thơ để cùng cảm thông với nỗi
buồn của một con người bị bạc đăi mà
vẫn cố giữ tấm ḷng cô trung.
Trong thời gian ở tại Paris, tôi lại
t́nh cờ mà biết thêm về tư cách của vợ
chồng Ngô Đ́nh Nhu, sự hiểu biết cần
thiết của một cán bộ về cấp lănh đạo
quốc gia đang cầm vận mạng đất nước.
Ông bà Ngô Đ́nh Nhu đến Pháp ở một
tuần lễ tại ngôi nhà riêng của ông bà
ta tại quận 16 của thủ đô Paris. Ông
Bùi Xuân Bào (hiện nay ở Pháp) vừa là
Cố vấn của Ṭa đại sứ, vừa là Chủ tịch
của Phong trào Cách mạng Quốc gia Hải
ngoại, đại diện cho ông Đại sứ, thường
đến gặp ông Nhu để tŕnh bày công
việc. Một hôm tôi cùng đi với ông Bào
đến gặp ông Nhu để tŕnh bày trường
hợp khó xử của tôi và yêu cầu cho tôi
hồi hương. Gặp ông Nhu, ông Bào mới
nói được vài lời th́ ông Ngô Đ́nh
Luyện đến, chúng tôi vẫn tiếp tục nói
chuyện với ông Nhu trong khi ông Luyện
nói chuyện với bà Nhu trong cùng một
pḥng khách. Do đó dù không muốn tôi
vẫn nghe câu chuyện của họ, trong đó
ông Luyện không gọi bà Nhu bằng chị mà
chỉ gọi bằng tên “Lệ Xuân” (ví dụ “Lệ
Xuân nói vậy là sai” hay là “Lệ Xuân
hay căi bướng”...). Câu chuyện giữa
hai người lúc đầu c̣n êm thắm, dần dần
đi đến căi vă, tuy lời lẽ chưa đến độ
thô lỗ nhưng bầu không khí cuộc nói
chuyện đă nặng nề lắm rồi. Ông Bào và
tôi ra dấu cho nhau để cáo từ ra về.
Ngày ông bà Nhu lên đường về nước, ông
Bào và tôi lại đến chào tạm biệt ông
Nhu và để tiễn ông lên phi trường
Orly. Vào nhà, chúng tôi thấy ông Nhu
đang ngồi ủ rũ một ḿnh, trong khi đó
th́ chuông điện thoại reo vang thúc
giục ông bà lên phi trường gấp v́ đă
gần tới giờ phi cơ cất cánh, nhưng bà
Nhu vẫn “biệt vô âm tín”. Một lát lâu
sau, thấy bà Nhu về tay xách tay ôm
mấy gói đồ. Thấy mặt vợ, ông Nhu đứng
bật dậy như chiếc ḷ xo, miệng lẩm
bẩm: “Ḿnh đi đâu để tàu bay hối thúc
hoài...”. Ông Nhu nói chưa dứt câu th́
bà Nhu đă nổi cơn thịnh nộ, ném mấy
gói đồ xuống sàn nhà làm tung tóe mấy
chai lọ, toàn là đồ trang sức đàn bà,
và to tiếng nạt lại ông Nhu: “Mấy bữa
nay bận rộn, hôm nay mới rảnh để mua
một ít đồ dùng sao ḿnh ồn ào quá thế,
có gấp th́ về trước đi, tôi về sau”.
Bà Nhu cứ tiếp tục lải nhải như thế
ngay cả trước mặt chúng tôi trong khi
ông Nhu mặt x́u xuống, đứng im lặng.
Ông Bào và tôi lại làm dấu cho nhau
bước ra khỏi pḥng đứng đợi.
Tôi được nghe kể nhiều giai thoại về
chuyện bà Nhu nạt nộ, hỗn láo với
chồng và tôi đă chứng kiến hơn một lần
cái cung cách “vô hạnh” của bà vào năm
1962 nhân đi họp ở Bộ Quốc pḥng Sài
G̣n, khi tôi ghé thăm ông Nhu ở số 8
đường Ypres. Đến nơi tôi thấy có ông
Tôn Thất Cẩn, một bạn thân của nhà họ
Ngô, chủ tiệm “Table des Mandarins” ở
Paris, đang ngồi với ông Nhu trong
pḥng khách. Trong lúc ông Nhu, ông
Cẩn và tôi đang nói chuyện th́ bỗng
nhà trong nổi lên tiếng bà Nhu quát
tháo ồn ào. Nghe tiếng vợ, ông Nhu đưa
lời khuyên can, nhưng tiếng quát tháo
của bà Nhu càng lúc càng lớn hơn, ông
Nhu bèn kéo ông Cẩn và tôi ra mái hiên
ngồi nói chuyện. Hôm nay, tại Paris,
ông Bào và tôi có cơ hội chứng kiến
cái tư cách yếu hèn của một nhà đại
khoa bảng, của một lănh tụ quốc gia,
chỉ v́ quá chiều chuộng người vợ trẻ
mà đành phải mất hết sĩ diện trước
những người lạ. Từ khi chứng kiến được
cảnh ông Nhu bị vợ làm nhục trước mặt
khách, sau này tôi không ngạc nhiên về
việc bà Nhu trở thành “Nữ Hoàng” tại
dinh Tổng thống, dám la mắng cả người
anh chồng là một vị nguyên thủ quốc
gia.
Đáng lẽ sinh ra sau lũy tre làng nơi
đồng khô cỏ cháy, bùn lầy nước đọng,
th́ dễ bị cuốn hút vào nét kiêu kỳ của
kinh đô ánh sáng Paris, nhưng nhờ lớn
lên trôi nổi khắp ba miền đất nước và
rung động được với cảnh trí xinh đẹp
của quê hương mà nét đan thanh lồng
vào trong niềm đau khổ của cả người
lẫn cảnh nên đối với tôi, dù Paris có
ḍng sông Seine êm đềm, có đại lộ
Champs Elysées diễm ảo, có khu Latin
quyến rũ... tôi vẫn cảm thấy ḷng vắng
lặng, hồn xa xôi. Đúng là người buồn
th́ cảnh có vui đâu bao giờ! Đă mang
cái tâm trạng bị bạc đăi và đang bị
lưu đày th́ lầu son gác tía của kinh
đô hoa lệ, lá vàng trải thảm dưới chân
những pho tượng trắng ở vườn
Luxembourg... tất cả chỉ là hư ảnh
trong niềm nhớ xót xa về quê hương
ruột thịt.
Nhiều lần, nhớ đến việc ông Nhu kết
tội tôi “phá Công giáo, chống Cần
Lao”, tôi thấy giấc mơ ôm ấp từ thuở
thiếu thời về một quốc gia dân chủ,
một chế độ đoàn kết, một chính sách
ḥa đồng dân tộc để xây dựng được sức
mạnh chống lại Cộng sản miền Bắc bỗng
tan thành mây khói. Một cán bộ trung
kiên như tôi mà c̣n bị cấp dưới xuyên
tạc rồi lại bị cấp trên tin vào đó mà
chế tài về cái tội gọi là “phá Công
giáo” th́ thử hỏi những thành phần
khác, quần chúng cũng như đảng phái,
đứng ngoài chế độ hoặc đối lập xây
dựng, th́ số phận của họ sẽ như thế
nào. Niềm hy vọng duy nhất c̣n sót lại
để tôi ấp ủ đóm lửa đấu tranh, để sưởi
ấm những ngày dài và lạnh là sự hiểu
biết và t́nh nghĩa của con người nhà
nho nơi ông Ngô Đ́nh Diệm.
Đúng một năm trôi qua, vào giữa tháng
10 năm 1957, tôi nhận được thư của Đại
tá Đinh Sơn Thung, Giám đốc Nha Nhân
viên Bộ Quốc pḥng và là một người bạn
rất thân với tôi. Thung cho biết ông
Diệm đă ra lệnh làm giấy tờ để gọi tôi
hồi hương và Đại tá Trần văn Trung
(sau này là Trung tướng Cục trưởng Cục
Chiến tranh Chính trị vào năm 1975) sẽ
qua Pháp thay tôi. Đinh Sơn Thung là
một cựu chánh quản khố xanh, thời
kháng Pháp tuy Thung làm sĩ quan Việt
binh đoàn nhưng vẫn bí mật hoạt động
cho Việt Minh trong tổ chức của nhóm
trí thức Huế với bác sĩ Lê Khắc Quyến.
Thung đă bị sở mật thám Pháp bắt vài
lần nhưng nhờ Thủ hiến Phan văn Giáo
và ông Nguyễn Ngọc Lễ hết ḷng can
thiệp nên khỏi bị tội tù. Nguyên tôi
với ông Thung là bạn láng giềng tại
cửa Đông Ba (Huế) nên ngày ngày thường
cùng nhau thảo luận t́nh h́nh chiến
tranh và tương lai đất nước. Cuối cùng
tôi thuyết phục được ông Thung ủng hộ
ông Diệm. Khi ông Diệm về nước, tôi
giới thiệu ông Thung với ông Ngô Đ́nh
Cẩn, nhờ đó ông được cử làm Giám đốc
Nha Nhân viên Bộ Quốc pḥng. Thung lớn
tuổi hơn tôi, có mái tóc bạc như cước,
lại cũng đă đỗ được bằng Thành Chung
nên ông Diệm có vẻ nể nang. Trong thư
ông Thung gửi qua Pháp cho tôi có câu:
“Cụ vẫn nhắc đến anh, có vẻ nhớ thương
anh lắm”. Đồng thời với thư của ông
Thung, tôi lại nhận được thư của ông
Vơ văn Hải bảo tôi khi về nước nhớ mua
cho “ông Cụ” một ít melon, thứ trái
cây mà ông Diệm ưa thích. Việc nhắn
mua melon, tôi đoán không phải là do
sáng kiến của ông Vơ văn Hải mà chính
là của ông Diệm, nghĩ vậy, tôi rất
mừng v́ cho rằng trong cái việc nhắn
mua melon đă gói ghém rất nhiều sự hồi
tâm của ông Diệm.
Trong suốt thời gian một năm ở Paris,
tôi chỉ chơi thân với một người bạn
học và đồng chí cũ là anh Nguyễn văn
Đạt. Ngày rời Paris, tôi chỉ cho một
ḿnh Đạt biết và Đạt đă thân hành đến
tiễn đưa tôi. Đạt là người Quảng B́nh
cùng quê hương với ông Diệm và tôi.
Đạt vốn là bạn học với các ông Thái
văn Kiểm và Trần văn Dĩnh ở trường
Khải Định. Vào năm quân Nhật chiếm
đóng Đông Dương, Đạt cũng hoạt động
thân Nhật như Trần văn Dĩnh và cũng ở
trong phong trào ủng hộ Cường Để.
Trong việc Nhật Bản cứu thoát ông Diệm
năm 1944, Đạt đă tham dự một cách tích
cực nhờ Đạt đang là bí thư của Phó
tổng lănh sự Ishida tại Huế. Thời thế
đổi thay, Đạt theo Việt Minh, chỉ huy
Cục Quân báo Mặt trận B́nh Trị Thiên
dưới sự điều khiển của cháu tôi là Đỗ
Dinh, Chính trị viên của Mặt trận. Năm
1952, khi tôi đang giữ chức Tham mưu
trưởng Đệ nhị quân khu, Đạt bí mật
liên lạc với vợ (hiện ở Mỹ) nhờ nhắn
với tôi là đang bị Dinh nghi ngờ theo
Pháp, muốn trở về vùng quốc gia để
tránh hậu họa. Tôi liền tổ chức bố trí
một tiểu đoàn hành quân ở Dạ Lệ (Thừa
Thiên) và phái một tiểu tổ đặc công
cứu được Đạt. Năm 1954, khi tướng
Navarre mở cuộc hành quân Atlante, do
sự giới thiệu của người bạn là ông
Nguyễn văn An đang giữ chức chỉ huy
Trung Nam trấn, Đạt được ông Phan văn
Giáo cử giữ chức Tỉnh trưởng Phú Yên.
Nhưng khi ông Diệm mới về làm Thủ
tướng được ba, bốn tháng, ông Nguyễn
văn An bị anh em ông Diệm ra lệnh sát
hại tại Qui Nhơn như tôi sẽ tŕnh bày,
c̣n Nguyễn văn Đạt bị nhóm Công giáo ở
Phú Yên do linh mục Tô Đ́nh Sơn cầm
đầu tố cáo Đạt là Việt cộng. (Các vị
Tỉnh trưởng Phú Yên sau Đạt đều v́ ông
linh mục này mà kẻ th́ xin từ chức, kẻ
th́ bị thuyên chuyển đi nơi khác như
quư cụ Hồng Dũ Châu, Lê Tá và Thiếu tá
Dương Thái Đồng hiện có mặt tại hải
ngoại). Sở dĩ Đạt bị vu khống là Việt
cộng chỉ v́ lúc làm Tỉnh trưởng, Đạt
đă liên kết với tổ chức Đại Việt
Trương Tử Anh ở Phú Yên, một đoàn thể
cách mạng chống Cộng, mà tổ chức Đại
Việt đó và nhóm Công giáo lúc bấy giờ
lại là hai lực lượng thù nghịch nhau.
(Theo Đoàn Thêm trong “Hai Mươi Năm
Qua” th́ ngày 7 tháng 10 năm 1958,
nhóm Đại Việt Trương Tử Anh ở Phú Yên
bị ra Ṭa án quân sự ở Nha Trang với
54 can nhân mà chỉ có một luật sư).
Đạt bị thuyên chuyển lên Kontum được
độ một tuần lễ th́ có lệnh bắt nên Đạt
phải đi trốn và lưu vong qua Pháp.
Không ngờ năm 1956, tôi và Đạt gặp lại
nhau nơi đất khách quê người, mà tôi
là kẻ bị bạc đăi c̣n Đạt là một tội đồ
lưu vong. V́ thế mối t́nh tha hương
ngộ cố tri giữa Đạt và tôi lại càng
thắm thiết. Nhưng gặp nhau chưa bao
lâu th́ tôi được gọi về nước c̣n Đạt ở
lại làm kẻ giang hồ “rũ áo phong sương
nơi gác trọ”, gậm nhấm mối oán hận
t́nh đời bạc bẽo. Khi tiễn tôi lên
đường, Đạt rưng rưng nước mắt tặng tôi
tấm ảnh với mấy vần thơ ghi chút kỷ
niệm của đôi bạn tuy khác hoàn cảnh mà
cùng tâm sự:
“Gặp nhau nơi xứ lạ
Tôi tâm hồn tơi tả
Anh tơ ḷng vấn vương
Gặp lại anh giữa độ đường
Thuyền vừa cập bến trăng buông lạnh
lùng”
Mấy năm sau, Đạt về Việt Nam làm chủ
nhiệm nhật báo Tin Mới. Ngày Nhảy dù
đảo chánh 11-11-1960, Đạt viết bài đả
kích chế độ Ngô Đ́nh Diệm nên ngày 13,
ṭa báo của Đạt bị cảnh sát công an
đến đập phá tan tành, may cho Đạt kịp
thời trốn thoát, sống lẩn lút ở nhiều
nơi khác nhau trong ba năm cho đến
ngày chế độ Diệm bị lật đổ. Dưới chế
độ Nguyễn văn Thiệu, tuy có nhiều bạn
bè có quyền lực mời Đạt tham dự nội
các nhưng Đạt từ chối để hoạt động
trong Phong trào Quốc gia Cấp tiến của
giáo sư Nguyễn Ngọc Huy với tư cách là
Tổng ủy viên Tổ chức.
Nguyễn văn Đạt là người thông minh,
mưu trí, có ư thức chính trị, nhiều
kinh nghiệm t́nh báo, từng trải đấu
tranh, lại là cán bộ cũ và là ân nhân
của ông Diệm, thế mà chỉ v́ Cần Lao
thù ghét, v́ anh em ông Diệm thiếu
sáng suốt, thiếu khoan dung, để từ một
người có thể hữu ích cho quốc gia, cho
chế độ, Nguyễn văn Đạt đă phải trở
thành kẻ thù rồi nạn nhân của chế độ.
Trả lại Paris vô duyên cho Đạt, trả
lại một năm vô t́nh dằng dặc cho quá
khứ, tôi hân hoan trở về Việt Nam ḷng
tự nhủ thầm rằng có đứng vững vàng
trên đất mẹ mới nói đến chuyện đấu
tranh cho quê hương.
Về Sài G̣n, vào yết kiến Tổng thống
Diệm sau hơn một năm xa cách, tôi thấy
ông bệ vệ và mập mạp ra một cách rơ
ràng. Ông vui cười và có thái độ cởi
mở, thông cảm với hoàn cảnh của tôi đă
không được chính phủ Pháp chấp thuận
là nhân viên của ngoại giao đoàn. Tuy
nhiên ông trách Đại sứ Phạm Duy Khiêm
bất lực và bảo rằng Khiêm là một nhà
trí thức thân Pháp, từng làm thông
ngôn cho Pháp trong đội lính thợ
(Ouvrier Non-Specialisé) thời Đệ nhị
thế chiến, mà không vận động nổi cho
tôi làm Tùy viên Quân sự.
Ông Diệm bảo tôi về Nha Trang nghỉ ít
ngày rồi vào nhận chức “Tổng giám đốc
Công binh”. Ông giải thích sẽ hợp nhất
ngành “công binh tạo tác” và “công
binh chiến đấu” làm một cho dễ chỉ huy
và đỡ tốn công quỹ. Tôi rất ngạc nhiên
v́ hợp nhất hai ngành công binh làm
một đă là một sự lạ, và cử tôi chỉ huy
ngành công binh lại càng vô lư hơn.
Tôi lễ phép từ chối v́ tôi có biết ǵ
về chuyên môn công binh đâu. Nhưng ông
Diệm bảo tôi đừng ngại v́ tôi chỉ lo
phần vụ điều hành cho đúng chính sách
và ông sẽ cho một số kỹ sư có khả năng
chuyên môn về phụ tá cho tôi, rồi ông
nói tiếp một cách giận dữ: “Anh sang
đó đuổi hết mấy thằng Bắc kỳ đi cho
tôi”. (Ông Diệm rất khinh ghét người
Bắc, trừ ra thành phần người Bắc Công
giáo là ông tin tưởng).
Nói chuyện với ông độ hơn một giờ, tôi
xin từ giă để đến tŕnh diện tại Bộ
Quốc pḥng và tŕnh bày lại cho ông
Trần Trung Dung biết quyết định của
Tổng thống và quan điểm của tôi. Ông
Dung thông cảm ngay và t́m cách “hoăn
binh chi kế” để khỏi làm cho ông Tổng
thống vốn ghét “Bắc kỳ” nổi giận. Ông
Dung bàn với Đổng lư Nguyễn Đ́nh Thuần
(hiện ở hải ngoại) cử tôi đi thanh tra
công binh để rút kinh nghiệm trước khi
nhậm chức Tổng giám đốc công binh. Làm
thế độ vài ba tháng th́ Tổng thống
Diệm sẽ quên đi và khi đó sẽ kiếm một
sĩ quan chuyên môn thay vị Đại tá
đương kim Giám đốc Công binh người Bắc
cho Tổng thống vừa ḷng. Cũng may cho
tôi, nhờ được đi thanh tra công binh
mà tôi có dịp tham quan khắp các nẻo
đường đất nước và tiếp xúc với khá
nhiều đơn vị nên biết rơ được nỗi ḷng
quân dân đối với chế độ Ngô Đ́nh Diệm
như thế nào sau hơn một năm trời xa
xứ.
Độ ba tháng sau, tôi được gọi gấp về
tŕnh diện Tổng thống. Đang lo âu v́
cái nợ “Tổng giám đốc Công binh” th́
được Tổng thống cho biết ông đă quyết
định bổ nhiệm tôi giữ chức Giám đốc
Nha An ninh Quân đội thay tướng Mai
Hữu Xuân đi làm Chỉ huy trưởng Trung
tâm Huấn luyện Quang Trung.
Từ ngày đi Pháp về, tôi vẫn không muốn
gặp lại ông Ngô Đ́nh Nhu, nhưng từ khi
được Tổng thống giao cho nhiệm vụ chỉ
huy ngành An ninh Quân đội, xét thấy
cần phải đến chào ông ta để nhận chỉ
thị v́ dù sao ngành An ninh Quân đội
cũng chịu ít nhiều trách nhiệm về sự
tồn vong của chế độ, do đó, của quốc
gia. Vẫn cái nh́n cao ngạo và vẻ mặt
lạnh như tiền, ông Nhu tŕnh bày một
số quan điểm của ông về nhiệm vụ của
tôi và cuối cùng chỉ thị cho tôi là
phải đuổi hết bọn tay sai của Pháp và
tay chân của ông Mai Hữu Xuân mới có
thể bảo mật được công tác và hồ sơ.
Nha An ninh Quân đội có bốn nhiệm vụ
chính yếu là Phản gián, chống Binh
vận, chống Phản loạn và “Bảo vệ tinh
thần binh sĩ”. Tất nhiên tất cả nhiệm
vụ đều khó khăn, đ̣i hỏi người chỉ huy
trước hết phải có ư thức chính trị,
phải am hiểu Cộng sản, phải có ư thức
t́nh báo, nhưng điều khó khăn của tôi
lại là điều “bảo vệ tinh thần binh
sĩ”. Nhiệm vụ không những đ̣i hỏi phải
có công tâm đối với toàn thể các cấp
trong quân đội mà c̣n thể hiện sự công
tâm đó ra bằng hành động cụ thể. Khốn
nỗi quân đội Việt Nam Cộng Ḥa được
khai sinh trong hoàn cảnh ngang trái,
phối hợp với và kết hợp bởi rất nhiều
thành phần thuộc các giáo phái, đảng
phái và hoàng phái vốn có rất nhiều
mâu thuẫn chính trị và ân oán lịch sử
với chế độ.
Mâu thuẫn đó và ân oán đó lại phát
triển và chồng chất thêm kể từ khi chế
độ khai sinh thêm một thứ “quân đội”
song song có tên gọi là Cần Lao. Một
thứ quân đội không nằm trong định chế,
không xả thân ngoài chiến trường nhưng
có đặc quyền kiểm soát, điều động và
khống chế quân lực. Là một lực lượng
ch́m khi ẩn khi hiện, lại chỉ chịu
mệnh lệnh và chịu trách nhiệm với ông
Ngô Đ́nh Nhu là trung tâm quyền lực
cao hơn cả vị Tổng tư lệnh quân đội
(là Tổng thống Diệm) nên t́nh trạng
lạm quyền và bè phái đục khoét tinh
thần binh sĩ tạo khó khăn cũng như
nguy hiểm không cần thiết cho sự quản
trị và điều động quân lực trong đại
công tác đối đầu với lực lượng vơ
trang của kẻ thù Cộng sản. Ba lần quân
đội đứng ra phát động và tổ chức binh
biến làm lung lay và cuối cùng lật đổ
chính quyền đă đủ nói lên sự căm phẫn
của thành phần quân nhân đối với chế
độ Diệm-Nhu.
Cho nên từ khi về nhậm chức, tôi đă
không thay đổi một sĩ quan nào như ư
muốn của ông Nhu, tôi chỉ tăng cường
thêm nhân viên theo đà cải tổ chung
của quân đội. Tôi không muốn có sự
thay đổi xáo trộn tạo chia rẽ, bè
phái, chỉ gây tai hại cho tinh thần
quân đội. Về nhậm chức được hơn một
năm tôi chỉ đổi viên chánh văn pḥng
là Đại úy Tống Tấn Sĩ v́ ông ta đă ăn
cắp cuốn băng ghi âm cuộc điều tra một
vị Trung tướng. C̣n số nhân viên được
xin thêm hầu hết là người theo Công
giáo do các ông Ngô Đ́nh Cẩn, Nguyễn
văn Châu, Lê Quang Tung và các đảng
viên Cần Lao giới thiệu. Về chính trị,
tôi chủ trương đối với Cộng sản, phải
coi họ là đối thủ nguy hiểm, đối với
các sĩ quan thuộc các giáo phái hay
đảng phái th́ phải gây t́nh đoàn kết,
c̣n về nhiệm vụ “bảo vệ tinh thần binh
sĩ”, tôi chủ trương chính sách “nặng
giáo hóa mà nhẹ trừng phạt”. Tôi không
thể đề nghị đưa ra ṭa án những binh
sĩ chỉ ăn cắp ít tấm tôn, vài chục lít
xăng, trong lúc các tướng tá và cả anh
em ông Diệm lại hết sức tham nhũng,
bóc lột, dĩ công vi tư, hối mại quyền
thế.
Chức vụ Giám đốc An ninh Quân đội đối
với tôi là một chức vụ bạc bẽo. Tôi
vừa bị các sĩ quan tham nhũng, vừa bị
các sĩ quan thuộc các đảng phái đối
lập với chính phủ coi là kẻ “hung
thần”, là “tay sai của chế độ”; trong
lúc đó th́ nhóm Cần Lao cũng coi tôi
như kẻ thù chỉ v́ tôi đă khinh bỉ ông
Ngô Đ́nh Cẩn ra mặt, tôi bất phục ông
Ngô Đ́nh Nhu, và tôi không bao giờ gặp
mặt, khúm núm chầu hầu bà Cố vấn và
Giám mục Ngô Đ́nh Thục. Ngay các dịp
lễ, Tết, cúng kỵ của họ Ngô, hầu hết
nhân viên cao cấp của chính phủ và
nhiều tướng tá ra Phú Cam để chầu hầu,
ngoại trừ tôi. Tôi bị toàn thể anh em
ông Diệm coi như cái gai phải nhổ,
nhóm Cần Lao xem như kẻ thù nên nhất
cử nhất động của tôi đều thường bị Cần
Lao báo cáo lại cho ông Nhu. Nếu không
có ông Diệm bênh vực và thông cảm th́
có lẽ tôi đă vào tù hay bị mưu hại từ
lâu rồi.
Cho đến cuối năm 1958 và c̣n kéo dài
thêm một năm nữa, chế độ Ngô Đ́nh Diệm
quả thật đă bước vào giai đoạn cực
thịnh. Dù riêng cá nhân tôi có một
thời gian bị bạc đăi, dù mầm mống độc
tài đă bắt đầu xuất hiện, dù lực lượng
Cần Lao tàn độc đă manh nha khống chế
sinh hoạt chính trị, và cuối cùng, dù
nền dân chủ tối cần thiết để xây dựng
sinh lực lâu dài cho quốc gia không
được thực thi, nhưng những thành quả
của chế độ trên mặt ngoại giao, kinh
tế và xă hội cũng đă là những khích lệ
lớn cho quần chúng tiếp tục tin tưởng
ông Diệm, tiếp tục nhắm mắt bỏ qua
những tội lỗi mà chế độ đă phạm phải.
Nhưng những căn bệnh ấu trĩ của nền
dân chủ này lại có sức tàn phá độc hại
khốc liệt sau này v́ thành phần lănh
đạo đă không xem đó như những lỗi lầm
cần sửa chữa ngay, trái lại anh em ông
Diệm lại tin tưởng mănh liệt rằng đàn
áp đối lập, khuynh loát quân đội, áp
bức chính trị, trung ương tập quyền
vào gia đ́nh và phe nhóm là những sách
lược hiệu dụng để chống Cộng và bảo vệ
quốc gia. Họ không biết rằng để đối
đầu với Cộng sản, sách lược trường kỳ
và bảo đảm nhất là phát triển và khai
dụng sinh lực của dân tộc, một nguồn
sinh lực chỉ được khơi dậy bằng một
sinh hoạt dân chủ, bằng đoàn kết dân
tộc, nhất là trên mặt chính trị và đặc
biệt trong giai đoạn qua phân đó của
đất nước.
Mỹ có yểm trợ, Cộng sản Hà Nội có đe
dọa, đảng Cần Lao có là bức tường đồng
của chế độ th́ cũng chưa đủ để bảo vệ
chế độ chứ đứng nói đến bảo vệ miền
Nam. Nếu không muốn nói rằng chính
những yếu tố đó lại phá nát lực lượng
quần chúng, tạo mâu thuẫn giữa chính
quyền và nhân dân, giữa bộ phận dân
tộc này với bộ phận dân tộc khác.
Từ năm 1956 đến 1958, say sưa với
những thành công ngoạn mục, lộng hành
v́ tấm ḷng quảng đại của nhân dân,
ông Diệm và chế độ gia đ́nh trị của
ông đứng trước bờ vực thẳm của lịch sử
mà không biết, để từ đó về sau trở
thành những kẻ đại tội làm vẫn đục
chánh nghĩa dân tộc và làm suy nhược
sức mạnh của miền Nam.
Chú thích:
[1] Đào Trinh Nhất, Phan Đ́nh
Phùng, trong tạp chí “Việt Nam Hải
Ngoại” (số 137), tr. 115
[2] Malachi Martin, The Decline
and Fall of The Roman Church, tr.
88.
[3] Thư của cụ Huỳnh Minh Ư gửi
cho tác giả.
[4] Nguyễn Thái, Is South Vietnam
Viable? Tr. 178.
[5] Nguyễn Thái, Is South Vietnam
Viable? Tr. 181.
[6] Nguyễn Thái, Is South Vietnam
Viable? Tr. 189.
[7] Hilaire Du Berrier, Background
to Betrayal, tr. 92.
[8] Stanley Karnow, Vietnam A
History, tr. 267.
[9] Marvin E. Gettleman, Vietnam
History, Documents and Opinions, tr.
242.
[10] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử
Nội Chiến Việt Nam, và “Sổ Tay Văn
Hóa” - s.đ.d. - tr. 138.
[11]Edward Lansdale, In The Midst
of War, tr. 307.
[12] Trần văn Đôn, Our Endless
War, tr. 60.
-
Nguồn:
http://www.forum.clickvao.com
Nhóm mạng Việt Nam Văn
Hiến
Trang
: Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email:
thuky@vietnamvanhien.net
"Bất
chiến tự nhiên thành" chi
kế
Văn Hiến ngàn năm sử đă đề
Giải trừ
quốc nạn bằng Tâm lực
"Nhân
Chủ (tự chủ) - An Vi (an lạc)" khai lối
về
|
Lấy Tâm Lực thay cho vũ lực
để giải trừ quốc nạn là phục hoạt nếp sống Văn Hiến và phục hồi nền "An Lạc &
Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.
|