Năm Thứ 4890

www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com



Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi
Hoành Linh Đỗ Mậu



  1. LỜI GIỚI THIỆU


  2. ẤN BẢN ĐIỆN TỬ - NĂM 2007

    Đầu Xuân năm 2007, được biết Nhà Xuất bản Văn Nghệ đă tiêu thụ hết đợt phát hành cuối cùng của Hồi kư Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi, và không có ư định tái bản tác phẩm nầy nữa trong một tương lai gần, chúng tôi, một nhóm thân hữu của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu, đă liên lạc với gia đ́nh của tác giả để xin tái bản tác phẩm nầy dưới dạng điện tử. Và đă được gia đ́nh tác giả chấp thuận với một số yêu cầu về tác quyền và biên tập.

    Về nội dung, không có một thay đổi nào trong Ấn bản Điện tử (so với ấn bản giấy 1993) ngoại trừ thêm một số h́nh ảnh của tác giả; và ở Phụ Lục E, 10 Bài Đọc Thêm, chúng tôi thêm một lá thư của tướng Dương Văn Minh và một bài viết về Tướng Tŕnh Minh Thế để làm sáng tỏ một số bí ẩn lịch sử được nhắc đến trong Hồi kư.

    Về h́nh thức, có ba thay đổi trong quá tŕnh cập nhật lại tác phẩm nầy:

    (a)*** Sửa lại các lổi chính tả và đánh máy. Với tổng số lượng gần 750,000 từ của toàn bộ tác phẩm, đây là một nỗ lực liên tục nhưng chắc vẫn c̣n khiếm khuyết ngay cả trong ấn bản điện tử nầy.

    (b)** Sửa và thêm các đại danh từ (cụ, ông, bác, anh, ...) và những chức vụ (phó tổng thống, thiếu tá, giáo sư, nhà văn, ...) trước tên riêng của các nhân vật. Tùy ngữ cảnh và bối cảnh của mỗi t́nh huống, chúng tôi chọn đại danh từ/chức vụ nào mà chúng tôi nghĩ rằng phù hợp nhất. Mặt khác, có một số nhỏ đại danh từ và chức vụ không cần thiết, th́ chúng tôi cũng đă quyết định bỏ đi.*

    (c)*** Ba từ “Công giáo”, “Kitô giáo” và “Thiên Chúa giáo” đă là một vấn nạn khó tạo được sự đồng thuận trong cách sử dụng. Do đó, ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt, trên nền không-thời-gian lịch sử mà Hồi kư chủ yếu được xây dựng (là chế độ Ngô Đ́nh Diệm), chúng tôi quyết định thống nhất hầu hết các từ nầy thành từ “Công giáo” như chính những giáo hữu Việt Nam, trong giai đọan đó cũng như kể cả bây giờ, đă gọi Công giáo La Mă (Roman Catholic).

    Có hai lư do khiến chúng tôi lấy quyết định tái bản tác phẩm Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi nầy của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu dưới dạng điện tử:*

    ·******* Thứ nhất là v́ nhu cầu t́m đọc tài liệu về chủ đề nầy không những đă không giảm bớt mà thậm chí c̣n gia tăng. Hơn 40 năm sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ, hơn 20 năm sau khi tác phẩm nầy ra đời, và sau hơn 20.000 ấn bản (dự đoán) được phổ biến cả ở trong lẫn ngoài nước, giai đoạn lịch sử 1954-1975 tại miền Nam Việt Nam (và những nhân vật lịch sử quan hệ đến nó) vẫn là đề tài được nhiều người quan tâm muốn t́m hiểu. Để xem rút ra được những bài học ǵ cho bây giờ và mai sau trên quê hương Việt Nam.***

    *·******* Và thứ nh́ là với những thành quả ngoạn mục của cuộc cách mạng Tin học, tri thức không c̣n bị phong tỏa, lại càng không trở thành sản phẩm độc quyền của một giai tầng nào nữa. Do đó, sản phẩm trí tuệ cần được xuất hiện dưới dạng điện tử để dễ dàng vượt mọi biên giới thiên nhiên, rào cản hành chánh và giới hạn tiền bạc, ngơ hầu có thể bay vào không gian cyberspace mà đến với người đọc khắp địa cầu.

    Nhóm Thân hữu của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu, khi hoàn thành ấn bản nầy, chỉ nhắm đáp ứng hai nhu cầu nói trên. Và đóng góp phần ḿnh vào việc thực hiện tâm nguyện của tác giả đă được trang trải đầy ắp trong tác phẩm nầy.

    *Hoa Kỳ - Thu* 2007


    Nhóm Thân hữu trách nhiệm Ấn bản Điện tử VNMLQHT-2007

    * * **
    LỜI GIỚI THIỆU
    ẤN BẢN THỨ BA - NĂM 1993

    *
    ***** Tập Hồi kư chính trị Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu được Nhà Xuất bản Hương Quê ấn hành lần đầu tiên vào mùa thu năm 1986 tại miền Nam California, Hoa Kỳ.

    ****** Từ đó đến nay, tác phẩm này đă được tái bản một lần (1987) và in lại tám lần. Như vậy, bản mà quư bạn đọc cầm trên tay hôm nay (1993) của Nhà Xuất bản Văn Nghệ là lần biên tập thứ ba và là lần in lại thứ chín (Third Edition, Ninth Printing).

    ****** anban1986.jpg***************anban1993.jpg
    ************ Ấn bản 1986*********************** * Ấn bản 1993
    *

    Đó là không kể hai ấn bản mà tác giả hoàn toàn không biết đến quá tŕnh h́nh thành của chúng. Bản thứ nhất in tại Úc Châu vào khoảng năm 1990 với một h́nh b́a khác hẳn. Và bản thứ nh́ in tại Việt Nam, không những khác b́a, nội dung bị biến cải, mà ngay cả tên sách cũng bị thay đổi. Đó là cuốn Tâm Sự Tướng Lưu Vong do Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân ấn hành 3.200 ấn bản vào năm 1991 (Số xuất bản 117/KII90 CAND). Sau khi đối chiếu với nguyên bản, tác giả cho chúng tôi biết rằng ấn bản này đă bị bỏ bớt gần một phần tư nội dung, thay đổi một số danh xưng và bớt nhiều đoạn; nhưng nói chung, phần Sử luận và các luận điểm chính trị của ông, về căn bản, vẫn được giữ lại gần nguyên vẹn.

    anban1991.jpg*** * *anban1995.jpg*** ** anban2001.jpg

    * Ấn bản 1991*************Ấn bản 1995************ Ấn bản 2001
    *
    ****
    Lẽ dĩ nhiên, tác giả đă không biết ǵ hết về sự ra đời của ấn bản này, lại càng không liên lạc được v́ hoàn cảnh lịch sử và chính trị oái oăm của đất nước, để phản đối việc làm vừa vi phạm tác quyền vừa vi phạm sự trung thực toàn vẹn của một sản phẩm trí tuệ.
    Bảy năm đă trôi qua kể từ khi ấn bản đầu tiên ra đời.

    Đă có rất nhiều, quá nhiều là khác, thảo luận và bút chiến về tác phẩm, và nhiều khi, về từng chủ điểm mà tác phẩm này nêu lên. Cho đến thời điểm này, vẫn c̣n xuất hiện trên báo chí hải ngoại những bài viết đề cập đến tác phẩm hoặc tác giả. Đặc biệt đă có 13 cuốn sách của những người viết đứng từ những vị trí khác nhau, nh́n từ những góc độ khác nhau, và mang những tâm chất khác nhau, nhưng tất cả đều trực tiếp hay gián tiếp liên hệ đến tác phẩm hay tác giả.

    Trong lúc có hai người viết nêu đích danh tác giả trên b́a sách để “trực thoại” (Linh mục Vũ Đ́nh Hoạt và Cựu Nghị sĩ Nguyễn Văn Chức) th́ cũng có những cuốn đào sâu các luận đề mà tác giả viết chưa đủ rốt ráo (Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của ông Hồ Sĩ Khuê và Gia Tô Thực Dân Sử Liệu của ông Chu Văn Tŕnh). Trong lúc có người viết lúc chống lúc thuận với tác giả (ông Nguyễn Trân) th́ cũng có người cung cấp thêm những dữ kiện và luận cứ mới làm mạnh thêm những luận điểm của tác phẩm (ông Nguyễn Long Thành Nam, Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tướng Trần Văn Đôn, Đại tá Trần Văn Kha, ông Lê Trọng Văn). Lại có thêm ấn bản Việt ngữ (Sự Lừa Dối Hào Nhoáng) của tác phẩm The Bright Shining Light của Neil Sheehan (1991) và ấn bản Pháp ngữ Les Missionnaires et La Politique Coloniale Francaise au Vietnam của ông Cao Huy Thuần lần đầu tiên được Đại học Yale xuất bản tại Hoa Kỳ (1990)… Tất cả chỉ làm cho tác phẩm Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi trở thành một hiện tượng độc đáo trong lịch sử các tác phẩm nghiên cứu của Việt Nam. Và hơn thế nữa, chỉ làm cho chúng ta thấy rằng tác phẩm đă đề cập đúng những vấn đề căn bản, có thực, và có tác động sâu sắc đến nhiều người Việt Nam, đến chính t́nh Việt Nam không những chỉ trong quá khứ mà c̣n cả trong tương lai nữa.

    Trong lần tái bản này, phương pháp luận căn bản của tập Hồi kư là thông qua các biến cố lịch sử (mà tác giả đă sống và/hoặc nghiên cứu) để giải thích những lực nào đă tác động lên sự vận hành của lịch sử nước ta trong hơn nửa thế kỷ vừa qua, vẫn không thay đổi. Nói rơ hơn, bản chất cuộc chiến và các lực lượng tham chiến trên quê hương ta suốt mấy chục năm trời vẫn có tính phi dân tộc. Và nguyên lư chỉ đạo làm nền tảng sử luận cho tác giả là đă phi dân tộc th́ thế nào cũng phản dân tộc vẫn chảy xuyên suốt tác phẩm.

    Tuy nhiên, trong lần tái bản thứ ba này có một số thay đổi sau đây:

    Về h́nh thức, số lỗi chính tả và ấn loát (nhất là các dấu hỏi ngă) được giảm thiểu tối đa. Một số rất ít tên người, tên địa phương và ngày tháng cũng đă được cập nhật lại. Đặc biệt, so với lần trước, ấn bản này tuy có dài thêm khoảng 15 phần trăm (nâng tổng số lên hơn 750 ngàn chữ) nhưng số trang, theo lời yêu cầu của tác giả, lại được rút ngắn c̣n 80 phần trăm (1089 trang) nhờ cách ḍng (interline spacing) nhỏ hơn và cỡ chữ (text size) nhỏ lại, hầu tiết giảm giá thành đến mức thấp nhất.

    Việc sử dụng hai nhu liệu tin học VNI và Ventura để tŕnh bày sách đă giúp cho ấn bản này đồng dạng hơn, sáng sủa hơn, do đó dễ đọc hơn các ấn bản trước.
    Về nội dung, một số luận cứ và chứng liệu lịch sử mới đă được thêm vào, đặc biệt về quá tŕnh du nhập Công giáo vào Việt Nam, về những bí ẩn mới trong cuộc Cách mạng 1-11-63, về cuộc vận động cho Dân chủ của Phật giáo tại miền Trung năm 1966, về vai tṛ của Vatican trong những ngày cuối cùng của miền Nam vào năm 1975... để nhân đó, tác giả trả lời một số xuyên tạc và ngộ nhận về tác phẩm. Cũng thêm vào trong ấn bản này là một Phụ Lục mới gồm 10 tài liệu đọc thêm của những nhân chứng lịch sử và một số h́nh ảnh của các khuôn mặt quan trọng đă hiện diện trong tác phẩm.
    Nhân dịp này, tác giả có nhờ chúng tôi chuyển lời cảm ơn đặc biệt đến cụ Lăng Nhân Phùng Tất Đắc, cụ Hương Thuỷ Hoàng Trọng Thược, cụ Phùng Duy Miễn, nhà Sử học Vũ Ngự Chiêu, Trung tướng Vĩnh Lộc, bác sĩ Vơ Tư Nhượng và Giáo sư Phạm Phú Xuân đă tận t́nh góp ư sửa lời để ấn bản này được toàn vẹn hơn.
    Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, khi quyết định xuất bản và phát hành tác phẩm này, chỉ muốn xác nhận lại chủ trương của ḿnh: cung cấp cho độc giả trong và ngoài nước những tác phẩm giá trị, những công t́nh trí tuệ có phẩm chất cao hầu đóng góp vào gia tài Văn hoá của dân tộc.
    Ngoài ra, riêng với tác phẩm Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, sự kiện có những tranh luận sôi nổi xung quanh tác phẩm, và trước nhu cầu t́m đọc nguyên bản của nhiều độc giả đă từng đọc “ấn bản trong nước”, chúng tôi tự thấy có bổn phận phải nỗ lực hoàn thành việc xuất bản và phát hành tác phẩm này, với ước mong cống hiến cho những đồng bào c̣n quan tâm đến vận mệnh quê hương một cách nh́n mới về những vấn nạn mà tổ quốc ta đă đối trị và có thể sẽ c̣n phải đối diện trong tương lai.

    ************** Hoa Kỳ, tháng 9 năm 1993
    ************** Nhà Xuất Bản VĂN NGHỆ


  3. bia.jpg
    *
    LỜI GIỚI THIỆU
    ẤN BẢN ĐIỆN TỬ - NĂM 2007

    Đầu Xuân năm 2007, được biết Nhà Xuất bản Văn Nghệ đă tiêu thụ hết đợt phát hành cuối cùng của Hồi kư Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi, và không có ư định tái bản tác phẩm nầy nữa trong một tương lai gần, chúng tôi, một nhóm thân hữu của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu, đă liên lạc với gia đ́nh của tác giả để xin tái bản tác phẩm nầy dưới dạng điện tử. Và đă được gia đ́nh tác giả chấp thuận với một số yêu cầu về tác quyền và biên tập.

    Về nội dung, không có một thay đổi nào trong Ấn bản Điện tử (so với ấn bản giấy 1993) ngoại trừ thêm một số h́nh ảnh của tác giả; và ở Phụ Lục E, 10 Bài Đọc Thêm, chúng tôi thêm một lá thư của tướng Dương Văn Minh và một bài viết về Tướng Tŕnh Minh Thế để làm sáng tỏ một số bí ẩn lịch sử được nhắc đến trong Hồi kư.

    Về h́nh thức, có ba thay đổi trong quá tŕnh cập nhật lại tác phẩm nầy:

    (a)*** Sửa lại các lổi chính tả và đánh máy. Với tổng số lượng gần 750,000 từ của toàn bộ tác phẩm, đây là một nỗ lực liên tục nhưng chắc vẫn c̣n khiếm khuyết ngay cả trong ấn bản điện tử nầy.

    (b)** Sửa và thêm các đại danh từ (cụ, ông, bác, anh, ...) và những chức vụ (phó tổng thống, thiếu tá, giáo sư, nhà văn, ...) trước tên riêng của các nhân vật. Tùy ngữ cảnh và bối cảnh của mỗi t́nh huống, chúng tôi chọn đại danh từ/chức vụ nào mà chúng tôi nghĩ rằng phù hợp nhất. Mặt khác, có một số nhỏ đại danh từ và chức vụ không cần thiết, th́ chúng tôi cũng đă quyết định bỏ đi.*

    (c)*** Ba từ “Công giáo”, “Kitô giáo” và “Thiên Chúa giáo” đă là một vấn nạn khó tạo được sự đồng thuận trong cách sử dụng. Do đó, ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt, trên nền không-thời-gian lịch sử mà Hồi kư chủ yếu được xây dựng (là chế độ Ngô Đ́nh Diệm), chúng tôi quyết định thống nhất hầu hết các từ nầy thành từ “Công giáo” như chính những giáo hữu Việt Nam, trong giai đọan đó cũng như kể cả bây giờ, đă gọi Công giáo La Mă (Roman Catholic).

    Có hai lư do khiến chúng tôi lấy quyết định tái bản tác phẩm Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi nầy của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu dưới dạng điện tử:*

    ·******* Thứ nhất là v́ nhu cầu t́m đọc tài liệu về chủ đề nầy không những đă không giảm bớt mà thậm chí c̣n gia tăng. Hơn 40 năm sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ, hơn 20 năm sau khi tác phẩm nầy ra đời, và sau hơn 20.000 ấn bản (dự đoán) được phổ biến cả ở trong lẫn ngoài nước, giai đoạn lịch sử 1954-1975 tại miền Nam Việt Nam (và những nhân vật lịch sử quan hệ đến nó) vẫn là đề tài được nhiều người quan tâm muốn t́m hiểu. Để xem rút ra được những bài học ǵ cho bây giờ và mai sau trên quê hương Việt Nam.***

    *·******* Và thứ nh́ là với những thành quả ngoạn mục của cuộc cách mạng Tin học, tri thức không c̣n bị phong tỏa, lại càng không trở thành sản phẩm độc quyền của một giai tầng nào nữa. Do đó, sản phẩm trí tuệ cần được xuất hiện dưới dạng điện tử để dễ dàng vượt mọi biên giới thiên nhiên, rào cản hành chánh và giới hạn tiền bạc, ngơ hầu có thể bay vào không gian cyberspace mà đến với người đọc khắp địa cầu.

    Nhóm Thân hữu của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu, khi hoàn thành ấn bản nầy, chỉ nhắm đáp ứng hai nhu cầu nói trên. Và đóng góp phần ḿnh vào việc thực hiện tâm nguyện của tác giả đă được trang trải đầy ắp trong tác phẩm nầy.

    *Hoa Kỳ - Thu* 2007


    Nhóm Thân hữu trách nhiệm Ấn bản Điện tử VNMLQHT-2007

    * * **
    LỜI GIỚI THIỆU
    ẤN BẢN THỨ BA - NĂM 1993

    *
    ***** Tập Hồi kư chính trị Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu được Nhà Xuất bản Hương Quê ấn hành lần đầu tiên vào mùa thu năm 1986 tại miền Nam California, Hoa Kỳ.

    ****** Từ đó đến nay, tác phẩm này đă được tái bản một lần (1987) và in lại tám lần. Như vậy, bản mà quư bạn đọc cầm trên tay hôm nay (1993) của Nhà Xuất bản Văn Nghệ là lần biên tập thứ ba và là lần in lại thứ chín (Third Edition, Ninth Printing).

    ****** anban1986.jpg***************anban1993.jpg
    ************ Ấn bản 1986*********************** * Ấn bản 1993
    *

    Đó là không kể hai ấn bản mà tác giả hoàn toàn không biết đến quá tŕnh h́nh thành của chúng. Bản thứ nhất in tại Úc Châu vào khoảng năm 1990 với một h́nh b́a khác hẳn. Và bản thứ nh́ in tại Việt Nam, không những khác b́a, nội dung bị biến cải, mà ngay cả tên sách cũng bị thay đổi. Đó là cuốn Tâm Sự Tướng Lưu Vong do Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân ấn hành 3.200 ấn bản vào năm 1991 (Số xuất bản 117/KII90 CAND). Sau khi đối chiếu với nguyên bản, tác giả cho chúng tôi biết rằng ấn bản này đă bị bỏ bớt gần một phần tư nội dung, thay đổi một số danh xưng và bớt nhiều đoạn; nhưng nói chung, phần Sử luận và các luận điểm chính trị của ông, về căn bản, vẫn được giữ lại gần nguyên vẹn.

    anban1991.jpg*** * *anban1995.jpg*** ** anban2001.jpg

    * Ấn bản 1991*************Ấn bản 1995************ Ấn bản 2001
    *
    ****
    Lẽ dĩ nhiên, tác giả đă không biết ǵ hết về sự ra đời của ấn bản này, lại càng không liên lạc được v́ hoàn cảnh lịch sử và chính trị oái oăm của đất nước, để phản đối việc làm vừa vi phạm tác quyền vừa vi phạm sự trung thực toàn vẹn của một sản phẩm trí tuệ.
    Bảy năm đă trôi qua kể từ khi ấn bản đầu tiên ra đời.

    Đă có rất nhiều, quá nhiều là khác, thảo luận và bút chiến về tác phẩm, và nhiều khi, về từng chủ điểm mà tác phẩm này nêu lên. Cho đến thời điểm này, vẫn c̣n xuất hiện trên báo chí hải ngoại những bài viết đề cập đến tác phẩm hoặc tác giả. Đặc biệt đă có 13 cuốn sách của những người viết đứng từ những vị trí khác nhau, nh́n từ những góc độ khác nhau, và mang những tâm chất khác nhau, nhưng tất cả đều trực tiếp hay gián tiếp liên hệ đến tác phẩm hay tác giả.

    Trong lúc có hai người viết nêu đích danh tác giả trên b́a sách để “trực thoại” (Linh mục Vũ Đ́nh Hoạt và Cựu Nghị sĩ Nguyễn Văn Chức) th́ cũng có những cuốn đào sâu các luận đề mà tác giả viết chưa đủ rốt ráo (Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của ông Hồ Sĩ Khuê và Gia Tô Thực Dân Sử Liệu của ông Chu Văn Tŕnh). Trong lúc có người viết lúc chống lúc thuận với tác giả (ông Nguyễn Trân) th́ cũng có người cung cấp thêm những dữ kiện và luận cứ mới làm mạnh thêm những luận điểm của tác phẩm (ông Nguyễn Long Thành Nam, Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tướng Trần Văn Đôn, Đại tá Trần Văn Kha, ông Lê Trọng Văn). Lại có thêm ấn bản Việt ngữ (Sự Lừa Dối Hào Nhoáng) của tác phẩm The Bright Shining Light của Neil Sheehan (1991) và ấn bản Pháp ngữ Les Missionnaires et La Politique Coloniale Francaise au Vietnam của ông Cao Huy Thuần lần đầu tiên được Đại học Yale xuất bản tại Hoa Kỳ (1990)… Tất cả chỉ làm cho tác phẩm Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi trở thành một hiện tượng độc đáo trong lịch sử các tác phẩm nghiên cứu của Việt Nam. Và hơn thế nữa, chỉ làm cho chúng ta thấy rằng tác phẩm đă đề cập đúng những vấn đề căn bản, có thực, và có tác động sâu sắc đến nhiều người Việt Nam, đến chính t́nh Việt Nam không những chỉ trong quá khứ mà c̣n cả trong tương lai nữa.

    Trong lần tái bản này, phương pháp luận căn bản của tập Hồi kư là thông qua các biến cố lịch sử (mà tác giả đă sống và/hoặc nghiên cứu) để giải thích những lực nào đă tác động lên sự vận hành của lịch sử nước ta trong hơn nửa thế kỷ vừa qua, vẫn không thay đổi. Nói rơ hơn, bản chất cuộc chiến và các lực lượng tham chiến trên quê hương ta suốt mấy chục năm trời vẫn có tính phi dân tộc. Và nguyên lư chỉ đạo làm nền tảng sử luận cho tác giả là đă phi dân tộc th́ thế nào cũng phản dân tộc vẫn chảy xuyên suốt tác phẩm.

    Tuy nhiên, trong lần tái bản thứ ba này có một số thay đổi sau đây:

    Về h́nh thức, số lỗi chính tả và ấn loát (nhất là các dấu hỏi ngă) được giảm thiểu tối đa. Một số rất ít tên người, tên địa phương và ngày tháng cũng đă được cập nhật lại. Đặc biệt, so với lần trước, ấn bản này tuy có dài thêm khoảng 15 phần trăm (nâng tổng số lên hơn 750 ngàn chữ) nhưng số trang, theo lời yêu cầu của tác giả, lại được rút ngắn c̣n 80 phần trăm (1089 trang) nhờ cách ḍng (interline spacing) nhỏ hơn và cỡ chữ (text size) nhỏ lại, hầu tiết giảm giá thành đến mức thấp nhất.

    Việc sử dụng hai nhu liệu tin học VNI và Ventura để tŕnh bày sách đă giúp cho ấn bản này đồng dạng hơn, sáng sủa hơn, do đó dễ đọc hơn các ấn bản trước.
    Về nội dung, một số luận cứ và chứng liệu lịch sử mới đă được thêm vào, đặc biệt về quá tŕnh du nhập Công giáo vào Việt Nam, về những bí ẩn mới trong cuộc Cách mạng 1-11-63, về cuộc vận động cho Dân chủ của Phật giáo tại miền Trung năm 1966, về vai tṛ của Vatican trong những ngày cuối cùng của miền Nam vào năm 1975... để nhân đó, tác giả trả lời một số xuyên tạc và ngộ nhận về tác phẩm. Cũng thêm vào trong ấn bản này là một Phụ Lục mới gồm 10 tài liệu đọc thêm của những nhân chứng lịch sử và một số h́nh ảnh của các khuôn mặt quan trọng đă hiện diện trong tác phẩm.
    Nhân dịp này, tác giả có nhờ chúng tôi chuyển lời cảm ơn đặc biệt đến cụ Lăng Nhân Phùng Tất Đắc, cụ Hương Thuỷ Hoàng Trọng Thược, cụ Phùng Duy Miễn, nhà Sử học Vũ Ngự Chiêu, Trung tướng Vĩnh Lộc, bác sĩ Vơ Tư Nhượng và Giáo sư Phạm Phú Xuân đă tận t́nh góp ư sửa lời để ấn bản này được toàn vẹn hơn.
    Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, khi quyết định xuất bản và phát hành tác phẩm này, chỉ muốn xác nhận lại chủ trương của ḿnh: cung cấp cho độc giả trong và ngoài nước những tác phẩm giá trị, những công t́nh trí tuệ có phẩm chất cao hầu đóng góp vào gia tài Văn hoá của dân tộc.
    Ngoài ra, riêng với tác phẩm Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, sự kiện có những tranh luận sôi nổi xung quanh tác phẩm, và trước nhu cầu t́m đọc nguyên bản của nhiều độc giả đă từng đọc “ấn bản trong nước”, chúng tôi tự thấy có bổn phận phải nỗ lực hoàn thành việc xuất bản và phát hành tác phẩm này, với ước mong cống hiến cho những đồng bào c̣n quan tâm đến vận mệnh quê hương một cách nh́n mới về những vấn nạn mà tổ quốc ta đă đối trị và có thể sẽ c̣n phải đối diện trong tương lai.

    ************** Hoa Kỳ, tháng 9 năm 1993
    ************** Nhà Xuất Bản VĂN NGHỆ

    Trả lời với
                                              trích dẫn

    VIỆT NAM Máu Lửa Quê Hương Tôi - Hoành Linh Đỗ Mậu (Tiếp theo)


    ************************* *********** *QUẢNG B̀NH
    ************************* ** QUÊ HƯƠNG ĐỊNH MỆNH

    *
    Trong suốt quá tŕnh lịch sử cận đại của nước ta, trên cả ba miền đất nước mà đặc biệt tại miền Trung, khi nói đến cái “ḷ” cách mạng hay cái “nôi” văn học là phải nói đến hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ở phía Bắc Đèo Ngang, và hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngăi ở phía Nam Đèo Hải Vân. Những bậc hào kiệt tài danh đứng đầu ngọn sóng cách mạng hoặc làm đẹp cho nền thi văn đất nước như các cụ Phan Bội Châu, Phan Đ́nh Phùng, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ đều xuất thân từ vùng đất Nghệ-Tĩnh; c̣n những tên tuổi của các cụ Phan Chu Trinh, Trần Cao Vân, Trần Quư Cáp th́ lại vươn lên từ vùng đất Nam-Ngăi, nơi được mang danh là đất của “Ngũ Phụng Tề Phi” (năm con phượng cùng bay) nhờ kỳ thi Hội năm Mậu Tuất (1898), ba tiến sĩ và hai phó bảng trong số mười tám vị chiếm bảng vàng đều xuất thân từ tỉnh Quảng Nam, cho nên vua Thành Thái mới ban cho năm vị tân khoa bốn chữ “Ngũ Phụng Tề Phi” vang rền đất nước.
    Nghệ-Tĩnh và Nam-Ngăi, dưới thời Pháp thuộc, cũng chính là vùng đất bất khuất, tiếp nối truyền thống cách mạng chống ngoại xâm của cha ông, vùng lên đối kháng chính quyền bảo hộ Pháp mà điển h́nh là các cuộc đấu tranh của Văn Thân và Cần Vương, là phong trào chống thuế ở Nam-Ngăi, là phong trào Sô-Viết ở Nghệ-Tĩnh. Các ông Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và một số các lănh tụ khác của đảng Cộng Sản Việt Nam, cũng xuất thân từ ḷ luyện thép này.
    Bên cạnh vóc dáng và khí thế lẫy lừng của bốn tỉnh kể trên, B́nh-Trị-Thiên là ba tỉnh nằm giữa hai ngọn đèo lớn đó của miền Trung, v́ quen nhọc nhằn chống lại thiên nhiên hà khắc, lại vốn làm cái đ̣n gánh chính trị oằn vai v́ sức nặng cách mạng của bốn tỉnh tiếp giáp nên cũng đă cưu mang trong sức sống tất cả cái hào hùng và oan nghiệt của lịch sử. Tỉnh Quảng B́nh, tuy là một tỉnh nhỏ về cả hai phương diện dân số lẫn diện tích, nhưng nhờ vậy lại chiếm địa vị của một vùng đất quê hương nổi tiếng địa linh nhân kiệt.
    Từ đời Hùng Vương, Quảng B́nh đă là một trong mười lăm bộ của nước Văn Lang, có tên là Việt Thường với thủ đô là Phong Châu[1]. V́ là tỉnh cực Nam tiếp giáp với biên giới Chiêm Thành nên suốt một thời gian dài trong quá tŕnh dựng nước và mở nước, Quảng B́nh đă là chiến địa khốc liệt và dai dẳng, lắm phen thay ngôi đổi chủ giữa hai dân tộc Chiêm-Việt. Cho đến năm 1069, khi vua Lư Thánh Tông xuất quân đánh Chiêm Thành bắt được vua Chế Củ và sát nhập ba châu Địa-Lư, Ma-Linh, và Bố-Chính th́ Quảng B́nh (và phần đất phía Bắc tỉnh Quảng Trị) mới hoàn toàn thuộc về lănh thổ nước Việt Nam và thuộc về chủ quyền dân tộc Việt Nam cho đến bây giờ.*
    Tuy là một tỉnh nhỏ, dù bề dài 110 cây số, và bề ngang, chỗ hẹp nhất, chỉ vào khoảng 45 cây số, quanh năm ách nước tai trời, lưng dựa vào Trường Sơn huyền bí, mặt nh́n về biển Đông thét gào, đất cày lên không sỏi th́ đá, nhưng tạo hóa lại đền bù cho Quảng B́nh nhiều danh lam thắng cảnh để tô điểm cho thêm thanh kỳ, mỹ tú mà nhiều tỉnh khác không có. Lũy Thầy, Đèo Ngang, sông Linh Giang, động Phong Nha… không những là kỳ tích của thiên nhiên mà c̣n là những địa danh ghi đậm những biến cố hào hùng trong lịch sử nước nhà.
    Đèo Ngang nằm trên một rặng núi bắt nguồn từ dăy Trường Sơn, vươn ra biển Nam Hải như một bức trường thành hùng vĩ nên có lẽ v́ thế mà rặng núi này được gọi là Hoành Sơn. Sử chép rằng chúa Nguyễn Hoàng thời Lê Mạt trước khi vào trấn nhậm Đàng Trong, có cho người đến thỉnh ư cụ Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cụ nh́n thấy một đàn kiến đang ḅ trên ḥn giả sơn trước sân nhà, bèn nói Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân (núi Hoành một dăy, vạn đời dung thân). Câu chuyện thuộc về dă sử không rơ thực hư, nhưng kể từ năm 1558, khi chúa Trịnh cho Nguyễn Hoàng vào Nam trấn nhậm cho đến khi nhà Nguyễn lập quốc xưng vương vào năm 1802, rồi kéo dài cho đến năm 1945, khi vua Bảo Đại thoái vị trao quyền lại cho ông Hồ Chí Minh, tổng cộng gần 400 năm kể cũng là vạn đại lắm rồi.
    Cảnh vật Đèo Ngang như là nơi tao ngộ của trời mây non nước, đất đá cỏ cây, lại có ải-quan trơ gan cùng ngày tháng, có Cổ Lũy pha đậm nét rêu phong, cảnh trí vừa hùng vĩ, vừa nên thơ dễ làm động ḷng khách du quan mỗi khi đi qua Đèo. Vua Lê Thánh Tôn, Bà Huyện Thanh Quan, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu… những thi hào tên tuổi của Việt Nam dừng chân trên đỉnh đèo, động ḷng hoài cảm trước cảnh vật giao ḥa đă để lại những vần thơ láng lai t́nh non nước. Người Việt Nam không mấy ai không biết bài thơ hoài cảm Qua Đèo Ngang tức cảnh của Bà Huyện Thanh Quan:
    *********** Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
    *********** Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
    *********** Lom khom dưới núi tiều vài chú,
    *********** Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
    *********** Nhớ nước đau ḷng con quốc-quốc,
    *********** Thương nhà mỏi miệng cái gia-gia.
    *********** Dừng chân đứng lại trời non nước,
    *********** Một mảnh t́nh riêng ta với ta.
    Cách Đèo Ngang 15 cây số về phía Nam có con sông Gianh mà ḷng sông vừa sâu lượng nước lại vừa chảy mạnh. Sông Gianh bắt nguồn từ núi rừng Trường Sơn hiểm trở, bạt núi xuyên ngàn tạo ra nhiều thác lắm ghềnh và đổ ̣a ra biển Đông, cắt đôi đất nước thành hai miền riêng biệt. Bề ngang rộng lớn của ḍng sông và thế chảy mănh liệt của ḍng nước biến sông Gianh thành một trở lực thiên nhiên hữu ích cho các nhà quân sự muốn tạo ra một thế bố pḥng vững chắc vào cái thời mà vũ khí và các phương tiện vận tải c̣n giới hạn.
    Cửa sông Gianh nước chảy xiết, khó bắc cầu, thuyền bè qua lại khó khăn nguy hiểm nên dân gian mới ví von:
    *********** Bao giờ nước cạn Đồng Nai,
    *********** Sông Gianh bớt chảy mới phai lời nguyền.
    Tuy cửa sông Gianh hiểm trở nhưng đây cũng lại là nơi phong cảnh hữu t́nh, nên thơ với tiếng gió thổi lộng qua hàng dương liễu vi vu trỗi lên những bản nhạc du dương trầm hùng, với những cánh buồm nâu trở về bến cũ khi bóng xế chiều tà, với tiếng sóng dạt dào theo con nước thuỷ triều lên xuống. Khách lữ hành mỏi mệt sau những chặng đường dài trên con đường thiên lư, đến cửa sông Gianh dừng chân nghỉ lại trong những ngôi quán tranh của dân xóm Thanh Hà, phía hữu ngạn sông Gianh, nếm mùi hải vị, uống chén chè tươi, ngắm nh́n bức tranh thiên tạo, hưởng làn gió mát trước khi tiếp tục cuộc hành tŕnh ngược Bắc xuôi Nam.
    Rời sông Gianh, theo phương Nam mà đi gần 30 cây số nữa, khách lữ hành sẽ gặp Đồng Hới, tỉnh lỵ Quảng B́nh, có Động Hải, có sông Nhật Lệ, có cổng B́nh Quan, có cổ lũy Phú Ninh, có những tiền đồn của Lũy Thầy, những di tích c̣n sót lại của thời Trịnh Nguyễn phân tranh.
    Tiếp tục đi về phía Nam, băng qua sông Nhật Lệ, khách lữ hành sẽ t́m thấy những kiến trúc rêu phong vốn là vết tích của Lũy Thầy, c̣n được gọi là Trường Thành Định Bắc. Lũy Thầy, chiến lũy vững vàng đă từng chận đứng rất nhiều chiến dịch Nam tiến của quân chúa Trịnh, được xây từ năm 1629 do sáng kiến chiến lược của vị quân sư tài ba và đầy mưu lược của nhà Nguyễn là ông Đào Duy Từ. Ông vốn xuất thân từ một gia đ́nh làm nghề hát xướng, cái nghề mà xă hội phong kiến ngày xưa thường khinh bỉ gọi là “xướng ca vô loại”. Thủa thiếu thời, có lúc ông phải đi ăn xin từ làng này qua làng khác và rất nhiều lần phải chăn trâu cho các nhà phú hộ để đổi lấy bát cơm thừa. Trong hoàn cảnh khốn cùng đó, tương lai lại c̣n bị chận đứng bởi bức thành giai cấp cổ tục, ông vẫn quyết tâm sôi kinh nấu sử một ḿnh để trau dồi trí đức và sau này trở thành một bậc hiền tài mưu cao chí lớn được chúa Nguyễn Phúc Nguyên và các quan xem như bậc thầy.
    Lũy Thầy dài ba trăm trượng, chạy từ chân núi Đầu Mâu, phía Tây huyện Lệ Thủy, đến cửa sông Nhật Lệ thuộc phủ Quảng Ninh, đă là chiến lũy chận đứng được nhiều cuộc tấn công của quân Đàng Ngoài. V́ thế mới có lời truyền tụng:
    *********** Khôn ngoan qua cửa sông La,
    *********** Dù ai có cánh khó qua Lũy Thầy.
    Ngoài những cảnh trí non nước đă được nhắc nhở nhiều trong sử sách ngàn đời của dân tộc Việt, Quảng B́nh c̣n có nhiều phong cảnh đem tự hào cho dân chúng địa phương. Cách tỉnh lỵ Đồng Hới 17 cây số về phía Tây Nam, có động Phong Nha thuộc huyện Bố Trạch, một thắng cảnh vô cùng kỳ vĩ. Muốn vào động phải đi bằng thuyền, phải có đuốc dẫn đường; trong động có suối nước xanh màu ngọc bích, có thạch nhũ nhô ra như những bàn tay Phật, có những kiến trúc thiên nhiên như những toà lâu đài tráng lệ huy hoàng, lại có những sân khấu do thợ Trời sắp đặt với phong cảnh trang trí, đào kép múa may thật diễm ảo thần tiên. Những giọt nước từ nhũ đá rơi xuống suối nằm sâu trong ḷng động tạo thành những điệu nhạc trầm buồn và mỗi khi nước chao động đập vào ghềnh đá th́ có tiếng âm vang như tiếng chuông chùa. Theo dân chúng địa phương th́ những tiếng chuông chùa này chỉ ngân lên vào đêm Rằm và đêm mồng Một âm lịch mà thôi.
    Trời trên ṿm động có những đám mây ngũ sắc từ chóp núi Trường Sơn tụ lại làm cho cảnh vật Phong Nha thêm huyền ảo, thanh kỳ khiến khách du quan tưởng ḿnh như lạc đến chốn Bồng Lai Tiên Cảnh.
    Cụ Chu Mạnh Trinh cho rằng động Hương Sơn ở Hà Tây là Nam Thiên đệ nhất Động, c̣n học giả Thái Văn Kiểm (từng sống lâu năm và từng nghiên cứu về địa lư dân t́nh tỉnh Quảng B́nh và miền Trung) th́ lại cho rằng Phong Nha là “Đệ Nhất Kỳ Quan” của nước Việt Nam. Theo ông Thái Văn Kiểm th́ ông Barton, nhà chiêm tinh học người Anh, cho biết động Phong Nha không kém ǵ động Padirac của Pháp hay Cuevas del Drach ở Mallorque của xứ Tây Ban Nha[2]. Chỉ tiếc rằng động Phong Nha, một kỳ quan của đất nước quê hương, mà chỉ có người Âu Châu thăm viếng nhiều c̣n người Việt Nam chưa mấy ai lui tới chỉ v́ giao thông trắc trở, v́ chiến tranh cản ngăn.
    Nếu động Phong Nha đă tô điểm cho huyện Bố Trạch thành một vùng giang sơn cẩm tú th́ núi Đầu Mâu và đầm Hạc Hải ở Lệ Thủy và Quảng Ninh lại là nơi tụ hội của khí thiêng sông núi hun đúc nhân tài tỉnh Quảng B́nh. Núi Đầu Mâu cao vút, quanh năm mây mù bao phủ đầu non, h́nh chóp núi nhọn như ng̣i bút, c̣n đầm Hạc Hải h́nh thể như cái nghiên mực có lạch riêng cho thuyền bè qua lại, phía Đông Nam bao bọc bởi những động cát chập chùng, phía Tây Bắc có vách núi Trường Sơn làm thành quách. Cảnh vật Đầu Mâu và Hạc Hải trông giống như ng̣i bút và đĩa nghiên cho nên tiền nhân mới gọi Đầu Mâu vi bút, Hạc Hải vi nghiên, làm biểu tượng cho nền văn học tỉnh Quảng B́nh. Quanh Đầu Mâu và Hạc Hải có nhiều động, nhiều hang thiêng liêng, thần bí khác, đặc biệt là động Chấn Linh được tiền nhân ca ngợi là chốn đào nguyên hạ giới, người trần tục không nên lui tới: Động môn vô tỏa thực, tục khách bất tàng lai [3].
    Quảng B́nh, quê hương tôi, c̣n rất nhiều sơn kỳ, thủy tú. Có lẽ v́ tạo hóa đặc biệt ân thưởng để đền bù cho một vùng đất vốn không được ưu đăi về mặt kinh tế như các vùng khác của đất nước, lại gặp quá nhiều đau khổ v́ ách nước tai trời, v́ chinh chiến triền miên theo dọc chiều dài lịch sử. Trong thời xa xưa, Quảng B́nh liên tiếp đă là băi chiến trường của hai quốc gia Chiêm-Việt; đến đời nhà Lê, Quảng B́nh lại đắm ch́m trong can qua v́ cuộc phân tranh của hai nhà Trịnh-Nguyễn. Trong thời Pháp thuộc, vùng Tuyên Hoá phía Tây Quảng B́nh là chiến khu của vua Hàm Nghi, vùng tả hữu ngạn sông Gianh trở thành chiến địa giữa nghĩa quân Cần vương và quân đội viễn chinh của thực dân, giữa người Lương chống Pháp và người Giáo theo Pháp. Thời chiến tranh Pháp-Việt, 1945-1954, vùng Bắc Quảng B́nh là biên giới của hai phe lâm chiến, nhiều trận giao phong ác liệt đă xảy ra nơi vùng tiền tuyến của hai bên. Thời chiến tranh Nam Bắc Quốc Cộng (1954-1975) Quảng B́nh là tuyến đầu của quân đội miền Bắc, được sử dụng như một căn cứ tiền phương với nhiệm vụ t́nh báo, tồn trữ quân nhu, quân cụ và là xuất phát điểm của những chiến dịch xâm nhập hay tấn công quân đội miền Nam, nên đất và dân Quảng B́nh đă phải hứng chịu nhiều trận mưa bom hăi hùng, bất tận của không quân Mỹ-Việt.
    Ông bà xưa thường nói người khôn của khó. Câu nói đó áp dụng đúng cho trường hợp nhân dân Quảng B́nh. Dân Quảng B́nh nghèo khó, dân Quảng B́nh gặp tai ương triền miên, nhưng người Quảng B́nh lại thông minh, khí phách, can trường và nhất là dám sống chết cho lư tưởng.
    Tuy Quảng B́nh không có những nhân vật nổi tiếng về văn học và cách mạng như các danh sĩ Nghệ-Tĩnh và Nam-Ngăi, nhưng số người đỗ đạt khoa giáp lại rất nhiều, đặc biệt là tại hai phủ Quảng Trạch và Quảng Ninh. Quảng Trạch có bốn đại xă văn học là SƠN (Lệ Sơn), HÀ (La Hà), CẢNH (Cảnh Dương), THỔ (Thổ Ngọa). Quảng Ninh có bốn đại xă là VĂN (Văn La), VƠ (Vơ Xá), CỔ (Cổ Liễu), KIM (Kim Nại). Tên của tám xă góp lại thành hai vế của một câu đối là Sơn Hà Cảnh Thổ đối với Văn Vơ Cổ Kim, đă đem lại danh dự cho dân chúng Quảng B́nh. Ngoài hai phủ Quảng Trạch và Quảng Ninh, huyện Lệ Thủy cũng là một quê hương có nhiều nhân tài khoa hoạn, nhiều tiến sĩ, phó bảng. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí cho biết từ đời nhà Lê cho đến đời nhà Nguyễn, Quảng B́nh có rất nhiều người đỗ đạt và làm quan phục vụ cho dân, cho nước mà toàn là những người nổi tiếng về khí tiết, đức độ, liêm chính, tài năng, mưu lược. Có những nhân vật đức độ được ca ngợi là Phật sống, là Bồ Tát, có những nhân vật văn vơ vẹn toàn, có những người đa mưu túc trí được so sánh với Khổng Minh, với Lưu Bá Ôn, những nhân tài đời Hán, đời Minh bên Trung Quốc. Có những người chỉ xuất thân từ hàng sĩ tốt, nhờ tài thao lược, nhờ dũng khí, can trường làm nên đến Đô Thống, Quận Công. Quảng B́nh tỉnh nhỏ, người thưa mà lại có nhiều vị khoa giáp, tài đức, học hành toàn vẹn được nhiều đời Vua mời vào cung giữ chức “Phụ Đạo”, làm thầy dạy học cho các Hoàng Tử, Hoàng Đệ như Nguyễn Đăng Tuấn, Ngô Đ́nh Giỏi, Vũ Xuân Cẩn, Nguyễn Hàm Ninh. Có người như Nguyễn Tử Kính làm quân sư cho vua Lê đánh đuổi giặc Tàu, như Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân lănh đạo nghĩa quân Cần Vương, pḥ vua Hàm Nghi đánh Pháp. Có người như Nguyễn Hàm Ninh (bạn tri kỷ của Cao Bá Quát) nửa đường công danh không muốn tiếp tục vào ḷn ra cúi, cởi áo từ quan về nhà sống cuộc đời thanh bần. Lại có người như tiến sĩ Phạm Phi Diệu đỗ đạt rồi mà không màng lợi danh, chỉ muốn sống cuộc đời ẩn dật vui với non nước, cỏ cây chốn thôn dă bần hàn:
    *********** Bảng chiếu dương Ngô mai bạch tuyết,
    *********** Tâm lao hậu bỉ Thảo, Huyền nhân.
    Ư muốn nói là thi đỗ rồi chỉ muốn bồi dưỡng tâm hồn cho trắng như tuyết, cho sạch như mai, không nhọc ḷng làm kẻ viết kinh Huyền, kinh Thảo[4].
    Đến thời cận đại, khi nền giáo dục Tây phương theo chân quân xâm lăng tràn vào bờ cơi để đánh bật tận gốc rễ nền giáo dục Nho Hán và thay vào đấy bằng một nền giáo dục gọi là Tây học th́ Quảng B́nh, trong cơn chuyển đổi ngặt nghèo, cũng sản xuất ra được những nhân vật tiếng tăm lẫy lừng như gịng họ Ngô Đ́nh chẳng hạn, gịng họ đă có người làm đến Tổng Đốc Thượng Thư dưới thời bảo hộ Pháp, có người làm đến Tổng thống, Tổng giám mục dưới thời ảnh hưởng Mỹ. Cũng trong thời kỳ này, khi chiến tranh bao phủ non sông và bao nhiều người con yêu của tổ quốc đều chọn binh nghiệp làm lẽ sống th́ Quảng B́nh cũng có người làm đến Đại tướng hay Bộ trưởng như ông Vơ Nguyên Giáp chẳng hạn, tạo ra những chiến công hiển hách trong quân sử nước nhà. Quảng B́nh cũng c̣n nằm trong bộ phận đại quần chúng để cung cấp cho dân tộc những nghệ sĩ biết rung động với thiên nhiên và thời đại, những kỹ thuật gia biết vận dụng năng lực sáng tạo để khắc phục khó khăn.
    Lật trang sử cũ, ta thấy Quảng B́nh quả thật là quê hương địa linh nhân kiệt, vùng đất vốn chật hẹp, nghèo nàn mà núi sông lại hùng vĩ, phong cảnh lại hữu t́nh, sản xuất không biết bao nhiêu là văn tài, vơ tướng, hào kiệt, trượng phu, tô điểm vàng son cho lịch sử nước nhà. Nhưng rồi như cổ nhân đă dạy dân có vận, nước có tuần, đến giữa thế kỷ 20, chính những người con dân Quảng B́nh lại là những người chủ trương gây cảnh huynh đệ tương tàn, chiến tranh suốt 30 năm trời, quê hương núi xương sông máu, mà tiêu biểu rơ ràng nhất là hai nhân vật Ngô Đ́nh Diệm và Vơ Nguyên Giáp.
    Ư nghĩa lịch sử đích thực của cuộc chiến tranh đó nh́n bằng con mắt của 50 triệu người dân Việt và đặt nó nằm trong ḍng sinh mệnh gần 5000 năm ngút ngàn của tổ quốc Việt Nam th́ chỉ là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn. V́ dù có nhân danh bất kỳ một chủ nghĩa nào (Cộng sản hay Tư bản), dù có biện minh bằng một nguyên ủy nào (Giải phóng hay Tự do), th́ rơ ràng chính máu xương của người Việt đă đổ ra, chính người Việt này đă giết người Việt kia không bằng sự tỉnh táo và tự do của một con người Việt b́nh thường mà ước vọng về cuộc sống th́ thật là giản dị. Người Việt đă không phát kiến ra những hệ ư thức để mâu thuẫn nhau, lại càng không phát minh ra những vũ khí để tiêu diệt nhau. Đi t́m nguồn gốc lịch sử sâu xa của cuộc chiến Quốc Cộng là phải đi xa hơn nữa vào chiều dài của lịch sử, kể từ lúc ngọn gió dữ phương Tây quái ác cuộn vào đất nước làm bật tung cây cổ thụ văn hóa của dân tộc, cây cổ thụ đă được vun trồng bởi Quốc Tổ Hùng Vương, và được tưới bằng máu của biết bao anh hùng liệt nữ trải dài gần 5000 năm văn hiến, và cây cổ thụ đă một thời xanh tốt vững chăi bằng đất lành khí mát của nền Tam giáo đồng nguyên.
    Năm 1558, khi Nguyễn Hoàng được phép anh rể là Trịnh Kiểm vào Nam trấn nhậm, ông ra đi mang theo cái mộng trả thù cho cha anh và cái chí mưu bá đồ vương, anh hùng một cơi. Ông lập nên nghiệp Chúa ở Đàng Trong, mở mang bờ cơi đến tận Châu Đốc, Hà Tiên, xây dựng một giang sơn riêng biệt quyết chí đương đầu với chúa Trịnh ở phương Bắc. Từ đó Việt Nam bị chia đôi bằng ḍng sông Gianh của tỉnh Quảng B́nh và dân tộc Việt Nam phải chịu hai hệ thống cai trị. Tất nhiên cuộc Nam Bắc phân tranh đă phải xảy ra giữa hai họ Trịnh Nguyễn, với hệ quả tất yếu là cuộc nội chiến giữa Nguyễn Gia Long và Nguyễn Tây Sơn, kéo dài cho đến năm 1802 khi Gia Long thống nhất đất nước mới chấm dứt. Trong giai đoạn này, từ ải Nam Quan cho đến mũi Cà Mau, dân tộc Việt đă phải gánh chịu cảnh cốt nhục tương tàn trên 200 năm trời.
    Gia Long chấm dứt 200 năm nội chiến và thống nhất sơn hà phần lớn nhờ vào sức mạnh của vũ khí Tây phương qua sự vận động của các giáo sĩ Kitô giáo. Cho nên nội chiến chấm dứt rồi, sơn hà thống nhất rồi mà dân ta vẫn chưa được hưởng thái b́nh an lạc v́ các giáo sĩ Kitô giáo, khi đến Việt Nam, không phải chỉ có một mục đích rao giảng tin mừng của Thiên Chúa mà c̣n có một mục đích xâm thực văn hóa nữa. Mục đích xâm thực này phù hợp hoàn toàn với mục đích chiếm đất giành dân của chính quyền thực dân Pháp để cấu kết với nhau trở thành một chiêu bài mà họ gọi là “nhiệm vụ khai hóa” (mission civilisatrice).
    Cho nên Phong kiến không tự nó đẻ ra được Cộng sản trong trường hợp nước ta mà chính Thực dân đă đẻ ra Cộng sản. Và sau này, cũng chính hai sản phẩm này của nền văn minh Tây phương là Thực dân và Cộng sản đă thôi thúc dân ta rơi vào cảnh huynh đệ tương tàn.
    V́ vậy, bất hạnh thay cho dân tộc Việt, đúng 25 năm trước cuộc Nam tiến của Nguyễn Hoàng, vào năm 1533 thời vua Lê Trang Tôn, các giáo sĩ Kitô giáo Tây phương đă đi đường biển lẻn vào nước ta để giảng đạo. Nếu hoạt động của các giáo sĩ Tây phương chỉ cốt để truyền giáo mà thôi, như Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến Hà Đông năm 580 để truyền bá đạo Phật chẳng hạn, th́ có lẽ không có cái hậu quả 30 năm chiến tranh Quốc Cộng 1945-1975 sau này. Khốn nỗi họ lợi dụng việc truyền giáo, toa rập với các lực lượng Thực dân và Đế quốc phương Tây, để mưu đồ thôn tính Việt Nam. Không những họ đă làm đảo lộn cương thường đạo lư, tập tục cổ truyền của nền văn hóa dân tộc, mà họ c̣n gây căm thù chia rẽ giữa người Việt với người Việt, họ xây dựng một đạo quân thứ 5 bản xứ làm đội quân mai phục đưa đường dẫn lối cho quân đội Pháp sau này. Đây không phải là một biệt lệ cho trường hợp Việt Nam mà là một chính sách toàn cầu của đạo Công giáo La Mă được Toà thánh Vatican thực hiện một cách hiệu quả đến mức giáo hoàng John Paul II ngày nay phải đi nhận tội và xin lỗi ở khắp nơi từ Nam Mỹ đến Phi Châu.
    Dưới thời chúa Nguyễn Ánh, giám mục Pigneau de Béhaine đă cùng với Hoàng tử Cảnh, con trai đầu ḷng của Nguyễn Ánh, đến Pháp bệ kiến vua Louis 16 để xin viện trợ và kư hiệp ước Versailles, hiệp ước đầu tiên bán nước Việt Nam cho Pháp. Hiệp ước Versailles tuy không được áp dụng, nhưng từ đó và nhờ đó, Pigneau de Béhaine, các giáo sĩ và các sĩ quan hiếu động, nhiều tham vọng của Pháp đă khai thác cơ hội để thực hiện âm mưu thôn tính Việt Nam. Với những mưu đồ đen tối, với những thủ đoạn xảo quyệt, họ đă thúc đẩy được chính phủ Pháp đem quân xâm chiếm Việt Nam, đặt nền đô hộ gần suốt 100 năm trời.
    Trong tác phẩm nghiên cứu lịch sử nổi tiếng Việt Nam Pháp Thuộc Sử (in lại tại Mỹ gần đây), giáo sư Phan Khoang đă đưa ra những sử liệu rất rơ ràng về vai tṛ của các giáo sĩ Kitô giáo.
    “Nói về nước Pháp th́ sau cuộc chiến tranh bảy năm, đă mất nhiều thuộc địa, ở Ấn Độ chỉ c̣n năm nơi thương phụ, vậy muốn khôi phục thế lực ở Á Đông, người Pháp phải gắng kiếm thêm đất đai ở bên này mới được.
    Một giáo sĩ Pháp sẽ t́m cơ hội can thiệp vào nước Việt Nam và đặt viên đá đầu tiên cho cuộc xâm nhập nước ḿnh” (trang 32).
    và cũng trong cuốn Sử đó, ông đă đi vào chi tiết rơ hơn:
    “Những người đề xướng đầu tiên cuộc chinh phục nước Nam là mấy sĩ quan hải quân của hạm đội Pháp ở biển Trung Quốc như các ông Cécille, Rocquemaurel, Fourichon, Jaurès Maison-Neuve, mấy đại diện ngoại giao kế nhau ở Toà lănh sự Pháp ở Macao như các ông Forth Rouen, De Courcy, Bourboulon; các ông ấy đă nhiều lần đề nghị với chánh phủ đem quân can thiệp ở nước Nam.
    Nhưng hoạt động hăng hái hơn cả để làm cho chánh phủ Pháp quyết định là các Giáo sĩ, nhất là giáo sĩ Huc, Giám mục Retord, Giáo sĩ Libois và Giám mục Pellerin.
    Giáo sĩ Huc trước đă dâng vua Napoléon III một kế hoạch thành lập một công ty để lo việc chinh phục và khai thác các xứ Cao Ly, Đà Nẵng, Madagascar; năm 1857 lại dâng một bức thư nhắc lại Pháp-Nam hiệp ước 1857 và sự cần thiết phải thiết lập gấp một căn cứ ở nước Nam. Chính lá thư ấy đă làm cho chánh phủ vua Napoléon III quyết định đặt một ủy ban để Nghiên Cứu vấn đề Nước Nam (Commission de la Cochinchine), trong ủy ban ấy, Giáo sĩ Huc đă tỏ bày ư kiến. Sau khi dâng bức thư kia, Giáo sĩ Huc được vua vời đến diện yết, và Giáo sĩ đă làm cho vua tin tưởng ở lời nói ḿnh.
    Giám mục Pellerin th́ trong các năm 1851, 1855 đă xin chánh phủ Pháp giúp đỡ các giáo sĩ, giáo đồ đương bị bạc đăi và giết hại. Như ta đă thấy, năm 1856, Giám mục lén đến Đà Nẵng, gặp thuyền trưởng tàu Capricieuse.
    Nhân đó, Giám mục có dự cuộc thương thuyết của Montigny và các quan ta, rồi về Pháp bày tỏ trước công chúng những cảnh tượng bi thảm mà Giáo hội ở nước Nam đă phải trải qua. Giám mục có ra trước Ũy ban Nước Nam, được diện yết vua Napoléon III nhiều lần và dâng lên vua hai tờ điều trần dài.” (trang 115-117)
    Hai tờ điều trần mở đầu cho tàu chiến súng đạn Pháp xâm lăng nước ta.
    Tuy nhiên âm mưu xâm chiếm Việt Nam thật ra đă có từ thời giáo sĩ Alexandre de Rhodes kể từ khi ông ta đến Việt Nam (1624), nghĩa là hơn 200 năm trước.
    Ánh sáng của sự thật càng ngày càng được chiếu rọi vào hồ sơ mật trong các văn khố của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp và đă cho phép các sử gia xác định âm mưu thôn tính Việt Nam của Thiên Chúa giáo vốn có từ thời Cố đạo Alexandre de Rhodes chứ không phải dưới thời Pigneau de Béhaine và Nguyễn Ánh, như một số người chưa chịu nghiên cứu kỹ vẫn bị nhầm lẫn.
    Alexandre de Rhodes đến Việt Nam năm 1624 và vĩnh viễn rời Việt Nam năm 1645. Thời gian ở Việt Nam ông viết rất nhiều sách giúp người Âu Châu t́m hiểu t́nh h́nh chính trị, địa h́nh, địa vật, sông núi, sản phẩm, tài nguyên, v.v… của xứ Việt Nam. Ông cũng hoàn bị công tŕnh của các Giáo sĩ Bồ Đào Nha trưóc đó, dựa vào chữ La tinh mà chế ra chữ Quốc ngữ, để trước hết là cho giáo dân dễ học Kinh thánh và dễ dàng giao thiệp với những thừa sai ngoại quốc. Nhiều lần ông đă bị chúa Trịnh đuổi đi, nhưng từ Áo Môn, năm 1640 ông t́m cách trở lại Việt Nam để hoạt động cho đến năm 1645:
    Năm đó, cấp trên bảo ông trở về Âu châu để xin viện trợ vật chất và tuyển người truyền giáo mới. Ông đến La Mă năm 1649 đúng lúc Toà thánh cố tách rời việc truyền giáo tại châu Á ra khỏi quyền hành thế tục của Bồ Đào Nha. Ông tŕnh bày trước Hiệp Hội Truyền Giáo “Congrégations Propaganda Fide”, kế hoạch thiết lập tại Việt Nam một giáo đoàn thoát khỏi sự bảo trợ của Bồ Đào Nha. Được Giáo hoàng hân hạnh tiếp nhận. Vị tu sĩ ḍng Tên xứ Avignon được lựa chọn trong mục đích đó, Alexandre de Rhodes bèn quay về Pháp.
    Ông viết: “Tôi tin rằng Pháp, v́ là nước ngoan đạo nhất thế giới, sẽ cung cấp cho tôi nhiều binh sĩ để đi chinh phục toàn thể phương Đông. Cũng như ở đó tôi sẽ có cách có nhiều Giám mục vốn là các Cha và các Thầy của chúng ta ở trong nhà thờ. Tôi rời La Mă ngày 11-9-1652 với ư định đó.
    Về Paris, Alexandre de Rhodes gặp một nhóm linh mục trẻ liền quyết tâm biến việc đào tạo này thành sự vụ riêng của Pháp (affaire Francaise). Đó là thời kỳ chính trị Pháp bắt đầu chịu ảnh hưởng sự thu hút của biển cả. Được Hoàng hậu Pháp và một nhân vật cao cấp ủng hộ, kế hoạch bị Bồ Đào Nha tấn công mạnh mẽ, họ viện dẫn sự bảo trợ hoàn toàn mà năm 1493 Giáo hoàng Alexandre Borgia đă giao cho họ. Alexandre de Rhodes chết năm 1660 khi chưa thấy được kế hoạch của ḿnh thực hiện, nhưng cố gắng của ông đă thành tựu. Năm 1658 La Mă bổ nhiệm hai vị đại diện Tông Toà người Pháp là Francois Pallu (1626-1684) và Lambert De la Motte (1637-1693) đại diện trực tiếp Giáo hoàng… Lịch Sử của Hội này (Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp) sẽ gắn liền chặt chẽ với lịch sử chiếm đóng của Pháp tại Việt Nam (La Société des Missions Etrangères fut alors créée dont l’histoire allait être intimement liée avec celle de l’implantation francaise au Vietnam). (Xem Đạo Thiên Chúa và Chủ nghĩa Thực dân tại Việt Nam, luận án tiến sĩ của Cao Huy Thuần, bản Việt văn trang 47, 48, bản Pháp văn trang 9, 10).
    Giáo sư sử học Joseph Buttinger trong Vietnam a Political History (trang 63, 64) cũng có những nhận định như của tiến sĩ Cao Huy Thuần, được tạm dịch ra như dưới đây:
    Công cuộc phát triển đạo Thiên Chúa tại Đông Dương trở thành công tác đặc biệt của một tổ chức Pháp được gọi là Hội Truyền Giáo Hải Ngoại (Society of Foreign Mission) thành lập năm 1664 tại Paris. Tổ chức này đi song hành với Công ty Đông Ấn Pháp do các giáo sĩ Paris, Rouen thành lập. Ông viết:
    “Các tổ chức song hành “thương măi-tôn giáo đó” mở một trang sử khó quên cho nền thực dân Tây phương (A memorable chapter in the history of Western Colonialism) được thành lập vào khoảng 1650. Người Pháp mở một trung tâm thương măi Pháp Việt ở Hà Nội nhưng những người cư ngụ trong trung tâm đó là những giáo sĩ cải trang thành thương nhân người Pháp. Có vài dịch vụ trao đổi hàng hóa nhưng mục đích chính là để che đậy công tác bí mật nhằm tổ chức người cải đạo (Some trade was made but it served mainly as a cover for clandestine proselytizing).
    “…Pallu và De la Motte cố gắng tiếp tục công việc của Rhodes đă bỏ dở mặc dù bị các chính phủ Đàng trong và Đàng ngoài cấm giáo sĩ ngoại quốc xâm nhập vào Việt Nam. Họ chiến đấu bằng sự cải trang thành thương nhân để lo chuyện thương măi, nhưng khi các dịch vụ thương măi bị đ́nh trệ th́ số phận của họ lại phải tuỳ thuộc vào sự hoạt động tôn giáo tại Việt Nam. (“Vietnam a Political History”, Joseph Buttinger trang 64)
    Buttinger c̣n viết:
    “Đặc biệt Pallu là một nhà kế hoạch chính trị, thường đi xa hơn các chỉ thị của cấp trên. Có thể gọi ông ta là người sáng chế mô thức thuộc địa trong đường lối chính trị tại Paris với phương sách “đă rồi” (accomplished facts). Ngoài những công việc đă thực hiện tại Á Châu trong khuôn khổ của Hội truyền Giáo mới thành lập, Francois Pallu c̣n lo việc tại Pháp, hợp tác với chính phủ khuếch trương ảnh hưởng Pháp tại Viễn Đông.
    Như vậy chính Alexandre de Rhodes là người đầu tiên đă âm thầm hoạt động cho mưu đồ thực dân Pháp và lộ rơ vào năm 1649 khi được yết kiến Giáo Hoàng. Tuy nhiên, mưu đồ chưa thành h́nh th́ ông đă chết, sự nghiệp thực dân của ông ta được giáo sĩ Pallu tiếp nối.
    C̣n ông Yoshiharu Tsuboi, giáo sư đại học Đông Kinh xuất thân từ Đại học Paris, trong cuốn “L’Empire Vietnamien Face à la France et à la Chine” (trang 31-57) đă viết như sau:
    “…Sau hết người ta đă thảo luận dài ḍng về những nguyên nhân của sự can thiệp và xâm chiếm thuộc địa của Pháp tại Việt Nam, tác giả này th́ nhấn mạnh vào những nguyên nhân chính trị, tác giả khác lại chú ư tới những nguyên nhân kinh tế.
    Phần chúng tôi, chúng tôi muốn tập trung sự chú ư vào những người Pháp từng làm việc tại Việt Nam, qua đó và căn cứ vào quá tŕnh truyền thông những tin tức về mọi mặt có liên quan đến Việt Nam để đưa về Pháp. Làm thế nào để cho nổi rơ những nguồn thông tin từng thúc bách chính phủ Pháp phải can thiệp vào Việt Nam và chiếm lấy nước này làm thuộc địa (…de mettre en évidence les sources de renseignements qui ont déterminés l’intervention des gouvernements Francais au Vietnam et la colonisation de ce pays). Rút lại, tôi muốn đưa ra mấy yếu tố để trả lời một câu hỏi đơn giản song quan trọng: Tại sao không phải Anh Cát Lợi, Ḥa Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha mà chỉ có một ḿnh nước Pháp “gắn bó” với Việt Nam? Và mặt khác tại sao không phải Phi Luật Tân, Triều Tiên, Nhật Bản, Xiêm La mà chỉ có nước Việt Nam bị Pháp gắn bó?”
    Câu trả lời của vị giáo sư Nhật Bản là:
    Trong công cuộc “Phúc âm hóa” nước Việt Nam có một tổ chức và năm giáo sĩ người Pháp đă giữ một vai tṛ quan trọng: Hội Thừa Sai Paris và các giáo sĩ Alexandre de Rhodes, Francois Pallu, Pigneau de Béhaine, Francois Marie Pellerin và Paul Francois Puginier”.
    Như vậy là từ khi đến Việt Nam năm 1624, Alexandre de Rhodes đă nghiên cứu t́nh h́nh chính trị, kinh tế, địa dư nước Việt Nam, huấn luyện và tổ chức những tập đoàn tín đồ Thiên Chúa giáo bản xứ trung thành với Toà thánh Vatican rồi trở về Âu châu năm 1645 và qua năm 1646 tŕnh bày kế hoạch Phúc âm hóa Việt Nam với Giáo Hoàng và tŕnh bày kế hoạch thôn tính Việt Nam với chính phủ Pháp.
    Nói tóm lại, âm mưu thôn tính Việt Nam đă do các giáo sĩ sắp đặt từ 1649 (nếu không muốn nói là từ 1624) chứ không phải từ khi có cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Nguyễn Ánh và Pigneau de Béhaine năm 1776 (hay 1777) như nhiều người đă vô t́nh hay cố ư bóp méo sự thật.
    Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam vốn hào hùng bất khuất, vốn có truyền thống chống ngoại xâm như một truyền thống dựng nước và giữ nước, đă từng ba lần chiến thắng quân Mông Cổ, th́ đời nào chịu làm thân nô lệ cho ngoại bang. Do đó, từ ngày Pháp đặt được nền đô hộ, truyền thống đề kháng chống ngoại xâm bùng lên và những cuộc nổi dậy chống đối đă liên tục xảy ra từ Bắc chí Nam để thể hiện quyết tâm đánh đuổi giặc Pháp.
    Những cuộc nổi dậy lúc đầu chỉ do người Việt lănh đạo như phong trào Văn Thân, Cần Vương, như Việt Nam Quang Phục Hội,… nhưng đến thượng bán thế kỷ 20 th́ chủ nghĩa Mác-Lê âm thầm len lỏi vào Việt Nam, cho nên từ đó những cuộc nổi dậy chống đế quốc Pháp lại có thêm lực lượng của phong trào Cộng Sản quốc tế nữa.
    Trước đó, trong phong trào Cần Vương yêu nước chống Pháp (1885-1898), Nho giáo và Phật giáo đă là hai lực lượng yểm trợ chủ yếu. Giới tăng sĩ liên kết với các nho sĩ trung quân ái quốc phát động nhiều cuộc đấu tranh chống Pháp và tay sai bản xứ. Điển h́nh là vụ tăng sĩ Vơ Trứ liên kết với nho sĩ Trần Cao Vân để thực hiện cuộc khởi nghĩa ở Phú Yên (1898) mà Pháp và bọn tay sai đă gọi là “giặc thầy chùa”. Ở miền Bắc có tăng sĩ Vương Quốc Chính tổ chức “Hội Trương Chí” thiết lập một màng lưới tổ chức trong các ngôi chùa từ Nghệ An tới Bắc Ninh dấy động một phong trào nhân dân chống quân đội Pháp và chống văn hoá Pháp; ở miền Nam, nhiều tổ chức kháng Pháp như các tổ chức Nghĩa-Hoà, Thiên Địa Hội, Nhân Ḥa Đường,… kết hợp ḷng yêu nước với mẫu số chung tín ngưỡng Phật giáo qua các cơ sở quần chúng của Phật giáo Ḥa Hảo và Cao Đài để liên tục chống giặc Pháp xâm lăng [5].
    Đau đớn thay, trong lúc các lực lượng của nền Tam giáo tiếp tục hy sinh đấu tranh cho nền Độc Lập nước nhà th́ khối Công giáo vẫn cứ làm tay sai cho Thực dân Pháp. Bài “Hội hè của đồng bào Thiên Chúa giáo” (xem tác phẩm “Hội Hè Đ́nh Đám” của Toan Ánh và lời nhận xét của tạp chí Ánh Sáng Dân Tộc số 2 tháng 11 năm 1989) được trích đăng vào phần Phụ Lục cuốn sách này chứng minh một cách hùng hồn việc người Công giáo Việt Nam vẫn cứ ôm chặt chân người Pháp, vẫn coi nước Pháp là Mẫu quốc và vẫn vinh danh cố linh mục Trần Lục (Phát Diệm), kẻ đă làm tay sai đắc lực cho quân đội Pháp trong cuộc xâm lăng Việt Nam, đặc biệt là đă cùng với 5000 giáo dân giúp Pháp triệt phá chiến khu Ba Đ́nh của anh hùng Đinh Công Tráng.
    Trong khung cảnh đất nước lúc bấy giờ, và thể hiện rơ ràng trong đời sống ở thôn quê cũng như ở thị thành, ở trong chính quyền cũng như ở ngoài quần chúng, ba luồng ư thức đối nghịch nhau như nước với lửa, như đêm với ngày, chi phối toàn bộ sinh hoạt quốc gia Việt Nam là ư thức dân tộc nhân bản của nền Tam giáo, ư thức độc thần của Kitô giáo, và ư thức duy vật của chủ nghĩa Mác-Lê. Thời đô hộ, những mâu thuẫn ư thức dưới h́nh thái văn hoá đó chỉ xảy ra ngấm ngầm giữa ba thành phần dân chúng nhưng chưa đến nỗi khốc liệt v́ lực lượng Công giáo Việt Nam vẫn c̣n nắm được ưu thế tuyệt đối nhờ có bộ máy quyền lực của thực dân che chở bảo vệ.
    Nhưng cuộc tranh chấp của ba luồng ư thức bổng bộc phát mănh liệt và trở thành một cuộc sống mái tay đôi sau Đệ Nhị Thế Chiến khi thế lực thực dân đế quốc bắt đầu suy yếu và khi nền móng của nền Tam Giáo bắt đầu lung lay.
    Thật vậy, trong cuộc chiến tranh Đông Dương thứ nhất (1945-1954), Cộng Sản kiểm soát và điều động kháng chiến trong phong trào Việt Minh, hô hào toàn dân chống xâm lăng giành độc lập cho nước nhà và trở thành một lực lượng quần chúng lớn. C̣n thực dân Pháp th́ mượn chiêu bài chống Cộng để che dấu âm mưu tái chiếm Việt Nam bằng cách dựa vào một chút chính danh của hư vị triều đ́nh nhà Nguyễn và một chút chính nghĩa từ hậu thuẫn của hầu hết giáo dân Việt Nam để cũng trở thành một lực lượng (chính quyền) lớn. Riêng Phật giáo và những đại bộ phận khác của dân tộc, thế không thể dựa được vào ngoại bang, lực không kết tụ được thành sức mạnh, đành nằm trong cảnh trên đe dưới búa và chuyển địa bàn ư thức và ảnh hưởng vào nông thôn với ḷng hoài vọng về một ngày thành công của kháng chiến Việt Nam.
    Cho đến năm 1954, khi cả Việt Minh và Pháp đều kiệt quệ trên cả hai mặt quân sự lẫn chính trị sau trận đánh tại ḷng chảo Điện Biên Phủ và sau gần mười năm quần thảo, th́ Pháp muốn cầu hoà rút khỏi Đông Dương để giải quyết nội t́nh băng hoại của nền Đệ Tứ Cộng Ḥa, đồng thời củng cố vùng ảnh hưởng tại Bắc Phi; c̣n Việt Minh th́ trước áp lực của Nga Sô và Trung Cộng, và v́ nhu cầu ổn định để bồi dưỡng thực lực, bèn thỏa hiệp với nhau qua Hiệp Ước Genève. Đất nước lại hai phần chia cách, người dân lại hai miền ly biệt v́ hiệp ước này trao miền Bắc cho Cộng Sản quản lư, c̣n miền Nam th́ tạm thời vẫn thuộc quyền người quốc gia chống Cộng trong lúc chờ đợi hai miền tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo qui định của Hiệp Ước.
    Trong lúc đó, Hoa Kỳ đă có chủ định riêng, họ không kư vào bản Hiệp định v́ đă thủ sẵn lá bài Ngô Đ́nh Diệm do Hồng y Spellman và Công giáo quốc tế bảo đảm, lá bài vốn đă được khai sinh và nuôi dưỡng tại Mỹ từ cuối năm 1950. Mỹ dùng lá bài Ngô Đ́nh Diệm để nhảy vào miền Nam trong ư đồ thiết lập một tiền đồn tại Đông Nam Á hầu chặn đứng sự bành trướng của Cộng Sản quốc tế. V́ vậy, cuộc chiến tranh Quốc Cộng lại tái diễn trên đất nước Việt Nam, chỉ thay đào đổi kép cho một vở tuồng cũ mà thôi! (Xem thêm The Life and Times of Francis Cardinal Spellman, trang 238 đến 245)
    Phần đầu của cuộc chiến tranh Đông Dương thứ hai này là một cuộc chiến đă được cả hai phe lâm chiến tô vẽ cho một bản chất ư thức hệ mà một bên là ư thức Mác-Lê duy vật, và một bên là ư thức Kitô giáo độc thần. Nghĩa là một bên do đảng Cộng Sản Việt Nam với những lănh tụ Mác xít như Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp lănh đạo tại miền Bắc, một bên do một gia đ́nh Công giáo của ông Ngô Đ́nh Diệm, Tổng Giám Mục Ngô Đ́nh Thục và đảng Cần Lao gồm hầu hết là người có đạo Công giáo cai trị miền Nam.
    Phật giáo Việt Nam, lực lượng đại đa số trong cộng đồng quốc gia, từ sau khi đất nước bị chia đôi, đă nhận thức rơ vai tṛ áp đảo của Cộng Sản trong mặt trận Việt Minh, bèn bỏ hẳn chủ trương thân Việt Minh trước kia như hầu hết các đảng phái quốc gia khác. Nhưng bất hạnh cho Phật giáo, muốn tránh vỏ dưa lại đạp phải vỏ dừa, v́ miền Nam lại bị cai trị bởi gia đ́nh ông Diệm và đảng Cần Lao Công giáo, vốn chủ trương tiêu diệt các đảng phái quốc gia, ḱ thị, khủng bố và đàn áp các tôn giáo trong đó có Phật giáo. Bị kẹt giữa hai kẻ đối nghịch, Phật giáo phải chịu đựng thống khổ nhục nhă suốt gần 9 năm trời dưới chế độ độc tài Công giáo trị Ngô Đ́nh Diệm. Cho đến 1963, t́nh trạng không thể chịu đựng được nữa, lại nhân v́ ông Ngô Đ́nh Diệm ra lệnh hạ cờ Phật giáo nhân dịp lễ Phật Đản, Phật tử, dưới sự lănh đạo của Giáo hội Phật giáo, buộc phải vùng lên đấu tranh đ̣i hỏi b́nh đẳng tôn giáo, đ̣i hỏi tự do hành đạo như bên Công giáo, mở đầu cho một cuộc vận động cách mạng dân tộc. Cuộc đấu tranh của Phật giáo là cuộc đấu tranh bất bạo động và hợp ḷng dân nên đă mang một tầm vóc rộng lớn v́ được sự ủng hộ của đa số nhân dân của tất cả các tỉnh, thị miền Nam.
    Cuộc tranh chấp công khai của người Việt Nam trước đây chỉ có hai phe lâm trận, nay lại có thêm phe thứ ba là Phật giáo. Cuộc tranh chấp ư thức hệ này từ nay được lănh đạo bởi ba lư thuyết chánh trị rơ rệt: lư thuyết cực tả của Cộng Sản quốc tế, lư thuyết cực hữu của Kitô giáo quốc tế và lư thuyết trung dung của Phật giáo dân tộc. Thật ra, nếu anh em ông Diệm biết đặt quyền lợi tổ quốc và dân tộc trên quyền lợi của Công giáo La Mă, nếu ông Diệm tự coi ḿnh mang trách nhiệm của một vị nguyên thủ quốc gia hơn là trách nhiệm của một tông đồ và biết tạo sự đoàn kết giữa người quốc gia, th́ trận chiến tranh Việt Nam đă chỉ là trận chiến tranh giữa phe dân chủ tự do với phe Cộng Sản độc tài, và hai tôn giáo lớn tại Việt Nam đă có thể hài hoà sống chung để cùng rao giảng từ bi, bác ái. Bất hạnh cho miền Nam, gia đ́nh ông Diệm, và do đó chế độ của ông ta, lại là kẻ thừa kế đích thực của ba tệ hại lớn nhất: tệ hại phong kiến quan lại của thời Nguyễn Mạt, tệ hại hủ nho của một nền Tống Nho đă đến lúc suy tàn và sâu đậm nhất, tệ hại độc tôn giáo điều của một giáo hội Công giáo Việt Nam đang lên đến cao điểm nhờ sự khai sinh và nuôi dưỡng của thực dân Pháp từ hơn 100 năm và nhờ sự thừa nhận của Thiên Chúa giáo quốc tế (Vatican và Mỹ) như sức mạnh chống Cộng độc nhất ở Việt Nam. Cho nên ông Diệm và gia đ́nh của ông cũng đi con đường “Công giáo hóa” miền Nam như các cố đạo trước. V́ thế, hậu quả khốc liệt đă đến với gia đ́nh ông và với miền Nam sau này.
    Như đă nói, định mệnh trớ trêu đưa đẩy ḍng lịch sử của dân tộc đến một giai đoạn tranh chấp giữa ba xu hướng từ tầng chính trị bước lên kích thước văn hóa trong suốt những năm giao động của hai thập niên 50 và 60. Ba xu hướng này va chạm vào nhau và nổ bùng thành những cơn lốc chính trị và được lănh đạo bởi ba nhân vật cùng một quê quán Quảng B́nh. Đó là ông Vơ Nguyên Giáp quê làng An Xá, ông Ngô Đ́nh Diệm quê làng Đại Phong và Thượng Toạ Thích Trí Quang quê làng Diêm Điền.
    Làng An Xá cách làng Đại Phong hai con suối nhỏ và một cánh đồng lầy lội, c̣n làng Diêm Điền th́ nằm chếch hẳn một bên và cách đều hai làng này khoảng 20 cây số. Ba nhân vật trên đây, từ đời nội tổ trở lên chỉ là những ḍng họ khố rách áo ôm thuộc hàng bần dân nghèo dốt. Đến đời thân phụ ông Diệm là ông Ngô Đ́nh Khả, nhờ theo các cha cố và chính quyền bảo hộ Pháp mới được làm quan. Ông Vơ Nghiễm, thân phụ ông Vơ Nguyên Giáp chỉ vươn lên tới được chức cửu phẩm là chức thấp nhất trong hệ thống quan lại Nam triều, và phụ thân của Thượng Tọa Thích Trí Quang th́ măi vào những năm đầu của thế kỷ 20 mới bắt đầu ăn nên làm ra.
    Trong khung cảnh của một vùng đất khốn khổ và dân t́nh nghèo đói như tỉnh Quảng B́nh, 40 năm về trước, có ai ngờ ba đứa bé mở mắt chào đời vào buổi b́nh minh của thế kỷ thứ 20 lại có thể trở nên những nhân vật lẫy lừng làm chao nghiêng lịch sử và làm sụt sùi dân tộc. Có ai ngờ một cậu ấm tử sinh trưởng trong một gia đ́nh quan lại của một chế độ phong kiến mục nát lại trở nên Tổng thống của một quốc gia, dù nội dung thực sự là ǵ, th́ h́nh thức cũng là của một chế độ Cộng Ḥa Dân Chủ kiểu Tây phương; có ai ngờ một chú sa di đầu tṛn áo vuông lại trở nên linh hồn của một phong trào tôn giáo quần chúng lớn “làm rung chuyển nước Mỹ” với tham vọng thực hiện cuộc Tổng Hợp Đề văn hóa để ḥa giải dân tộc; và có ai ngờ một cậu học tṛ áo vải chân đất ê a mấy chữ a, b, c trong làng quê của một nước thuộc địa lại trở nên một nhân vật quân sự lẫy lừng, cầm chân và đánh bại được hai bộ máy chiến tranh hiện đại của Pháp rồi Mỹ.
    Ba nhân vật tiếng tăm của đất Quảng B́nh nghèo khó nhưng lạ lùng đó, mỗi người có tham vọng riêng, có quyền thế riêng, có hậu thuẫn riêng và dĩ nhiên có chỗ đứng riêng trong chiều dài lịch sử nước ta cũng như trong chiều sâu của ḷng dân tộc ta. Họ có lư do để chống đối nhau và tiêu diệt nhau v́ chủ nghĩa, v́ lư tưởng, v́ đặc quyền, đặc lợi phe đảng hay v́ bất cứ một cái “v́” nào khác, c̣n kẻ viết th́ cũng xuất thân từ vùng đất cày lên sỏi đá xơ xác đó, nên h́nh như cũng đă được định mệnh an bài để không thể trở thành một kẻ đứng bên ḍng lịch sử, bàng quan và lạc lơng, mà lại bị cuốn hút vào cơn cuồng phong của thời đại, nên đều liên hệ với cả ba nhân vật này mà đặc biệt là liên hệ khắng khít với ông Ngô Đ́nh Diệm từ những ngày đầu tiên khi c̣n là một trong những cán bộ tiên phong và ṇng cốt của cái tổ chức mới manh nha của ông ta. Nhưng rồi sau suốt 22 năm trời kể từ 1942, chia sẻ với nhau những giây phút vinh quang và khốn khổ của bao cuộc thăng trầm vinh nhục, trở thành chiến hữu trung kiên và cốt cán của tổ chức (và sau này của chế độ), cuối cùng kẻ viết lại trở thành một nhân vật trọng yếu trong công cuộc lật đổ và chấm dứt chế độ của ông Diệm vào năm 1963 để cho lư tưởng ban đầu của ḿnh vẫn là lư tưởng keo sơn với dân tộc, để cho chuyển ḿnh của ḿnh gắn bó với chuyển ḿnh của thời đại.
    Ôn lại dĩ văng, và bây giờ ở vào cái tư thế có thể nh́n lại một cách sáng suốt và tự do hơn chuỗi biến cố của lịch sử đất nước kể từ khi làn gió dữ Tây phương cuộn thổi vào quê hương trải dài thành gần trăm năm đô hộ Pháp và hơn 30 năm chiến tranh Quốc Cộng, lại được dịp lần giở kinh xưa sách cũ và đàm luận cùng những người bạn hiền thầy giỏi cùng thế hệ, kẻ viết lại chủ quan thấy thấm thía hơn về cái thuyết “Vô Thường” của đạo Phật và cái thuyết “Lư Số” của đạo Nho, để từ đó chấp nhận như là nhân sinh quan khoáng đạt và giải thoát của chính ḿnh.
    Trong cuốn Nho Giáo, học giả Trần Trọng Kim đă sơ giải cái Tổng Hợp Đề cần thiết cho sự Đồng Nguyên huyền diệu của Tam Giáo ở nước ta khi ông viết:
    Có một điều ta nên chú ư là cái tư tưởng của Nho Giáo đời Tống có lắm chỗ phảng phất tương đồng với Lăo Giáo và Phật Giáo. “Số” là cái uyên nguyên của Nho Giáo do Kinh Dịch mà ra, mà Kinh Dịch là sách bàn về Lư Học, chung cả bên Lăo lẫn bên Nho. Dịch Học cho cái đầu của vũ trụ do “Động, Tĩnh” mà biến thành Âm Dương rồi sinh ra vạn vật, vạn vật chung quy lại trở thành Thái Cực. Đó là cái lư “Đồng quy nhi thù đồ, Nhất trí nhi bách lự” của Khổng Tử đă nói trong Hệ từ. Lư Thái Cực ấy bên Lăo Giáo gọi là ĐẠO, bên Phật Giáo gọi là BHUTA TATHATA danh hiệu tuy khác nhưng cùng đồng một thể. Bởi cái lư đồng cho nên các học thuyết ấy đều theo một chủ nghĩa “Thiên địa vạn vật nhất thể”. Song mỗi học thuyết đi ra một đường là v́ cách lập giáo và sự hành đạo khác nhau.
    Ư niệm ấy lại được triển khai và lư giải rơ ràng hơn và hiện đại hơn qua Lê Văn Siêu trong cuốn “Việt Nam Văn Minh Sử Cương”, qua Nguyễn Đăng Thục trong cuốn “Tư Tưởng Việt Nam” và qua Phạm Văn Diêu với những tài liệu giảng huấn tại đại học Văn Khoa Sài G̣n v.v…
    Có lẽ chính cái quan niệm Vô thường và Lư số, tuy bàng bạc và đại chúng hơn trong dân dă, nhất là cái dân dă tuyệt đại đa số và tuyệt đại nghèo khổ của nước ta đă tạo nên sức mạnh của dân tộc. Cái sức mạnh đă giúp dân ta vẫn kiên cường trước sự tàn bạo của thiên nhiên và của quân thù, cái sức mạnh đă giúp dân ta khoan dung và nhân nghĩa trước những bạc bẽo và hận thù của đời sống.
    Và có lẽ chính nhờ được nuôi dưỡng và lớn lên trong ḍng suối văn hóa Đông phương vốn mang tính chất Tổng hợp và Hướng nội, kẻ viết mới cảm nhận và thông hiểu được qua lăng kính của hai thuyết Vô thường của nhà Phật và Lư số của nhà Nho, những thảm cảnh nghiệt ngă và bèo bọt về cảnh ngộ của cụ Vơ Hiển Nguyễn Hữu Bài, và đặc biệt của gia đ́nh ông Ngô Đ́nh Diệm mà kẻ viết sẽ ghi lại trong tập sách này, những nhân vật và gia đ́nh đại vọng tộc, bỗng một phút định mệnh, tán gia bại sản đời đời chuốc lấy oán cừu.
    Văn hóa Tây phương, mà bây giờ con em ta đang hấp thụ, dù là Tây phương tư bản hay Tây phương Cộng Sản, vốn có đặc tính phân tích và hướng ngoại, th́ khó mà cảm nhận và giải thích được những hiện tượng nhân sinh này, lại càng khó mà hiểu biết và chấp nhận được quan niệm Vô thường và Lư số của Đông phương, dù gần đây, trước bế tắc nhân văn của con người và bên bờ vực thẳm của một cuộc chiến tranh hạch tâm khốc liệt, đă có nhiều nỗ lực t́m về phương Đông để t́m câu trả lời cho cuộc khủng hoảng nhân văn toàn cầu.
    Những nỗ lực đó không những được thể hiện nơi các nghiên cứu của các nhà xă hội học và triết gia Tây phương như Paul Mus (Thousand Armed Kannon, A Mystery Or A Problem, 1964), John Blofeld (Bodhi Satva Of Compassion, 1978), Frederic J. Strend (Understand Religious Man, 1969)… mà c̣n nổi bật rơ ràng hơn nơi các nhà khoa học tự nhiên, vốn là thành phần rường cột và được ưu đăi của xă hội Tây phương thuần lư và thuần kỹ thuật. Đứa con trai út của kẻ viết, trong thời gian học về vật lư không gian có tặng cho kẻ viết cuốn “The Tao of Physics” của giáo sư khoa học gia Fritjof Capra mà kẻ viết trích dẫn một vài đoạn sau đây để chứng minh rằng xu hướng t́m về nguồn suối triết học nhân bản của Đông phương càng lúc càng mạnh mẽ nơi xă hội độc thần, duy lư và duy vật này.
    Julius Robert Oppenheimer (cha đẻ bom nguyên tử Hoa Kỳ) tác giả cuốn “Science and the Common Understanding” cho rằng:
    Những khái niệm tổng quát về sự hiểu biết của con người, được biểu hiện bằng những khám phá trong ngành vật lư nguyên tử, không phải là những khái niệm có bản chất xa lạ, mới mẻ hay chưa bao giờ được nhắc đến. Ngay cả trong nền văn hóa của chúng ta, những khái niệm này đă từng có một lịch sử vững vàng. Trong hệ thống tư tưởng của Phật giáo và Ấn Độ giáo, những khái niệm này c̣n giữ một địa vị rường cột và quan trọng hơn nữa, đem đến cho chúng ta một tấm gương sáng để noi theo, một niềm khích lệ tinh thần và sự kiện toàn của nền triết lư Đông phương sáng suốt [6].
    Werner Heisenberg (trong tác phẩm “Physic and Phylosophy” trang 202) cho rằng:
    Một đóng góp lớn lao của Nhật Bản từ cuối Thế chiến thứ 2 cho lư thuyết vật lư là đă cho thấy một sự tương quan nào đó giữa những tư tưởng triết lư của truyền thống văn hóa Viễn Đông và chất triết lư trong lư thuyết vật lư tư tưởng.[7]
    Niels Bohr, bác học gia Đan Mạch, giải thưởng Nobel, (tác giả cuốn “Atomic Physics and Human Knowledge”) cho rằng:
    Các tư tưởng gia đă đạt đến mức thành công như Phật Thích Ca hay Lăo Tử đă từng phải đối diện với những khó khăn đó khi ta cố ḥa hợp hai thế đứng (vừa là khán giả vừa là diễn viên) của ta trong vở kịch vĩ đại của kiếp nhân sinh. Có thế ta mới có thể so sánh được với bài học rút tỉa từ lư thuyết của ngành vật lư nguyên tử.[8]
    *********** Tất cả quan niệm đó đă được Fritjof Capra, tác giả cuốn sách, tổng kết lại trong một nhận định chắc nịch rằng:
    Với triết học phương Tây, môn luận lư và sự suy luận đă luôn luôn là những phương tiện chính để phát biểu tư tưởng triết lư, kể cả theo Bertrand Russel, những tư tưởng thuộc lănh vực tôn giáo. Ngược lại, đối với Đông phương huyền bí, ai cũng vốn hiểu được rằng sự thật được thể hiện một cách sâu xa hơn khả năng diễn đạt của ngôn ngữ b́nh thường: các nhà hiền triết Đông phương đă không e ngại ǵ mà không vượt quá sự hợp lư và những quan niệm thông thường. Tôi nghĩ rằng đây là lư do chính khiến cho những mẫu mực của Đông phương đă gầy dựng được một nền tảng triết lư kết hợp với nền vật lư ngày nay hơn là những mẫu mực của triết lư Tây phương.[9]
    Tuy nhiên, những nghiên cứu và hiểu biết của kẻ viết, dù đến từ kinh xưa sách cũ, hay tích luỹ từ bạn hiền thầy giỏi vẫn không phải là và chưa đủ là những kiến thức xây dựng thành quan niệm nhân sinh của kẻ viết, nếu những kiến thức lư thuyết đó đă không được đối chiếu với những kinh nghiệm thực tế của chính cuộc sống kể từ ngày người viết c̣n là một đứa trẻ nghèo khó trong một gia đ́nh thanh bần của đất Quảng B́nh xơ xác, kinh qua bao lên xuống của cuộc đời và trôi nổi trong thăng trầm của nhân thế cho đến nay, ở vào cái tuổi thất tuần, sống xa vời cố quận mà hồn th́ vương vấn quê xưa.
    Chính những kinh nghiệm thực tế xương máu đó, những mồ hôi và nước mắt, những vinh quang và tủi nhục, những thù hận và độ lượng, những phản trắc và nhân ái, những tà niệm và tỉnh thức… đă là những xác tín làm cho kẻ viết tin tưởng hơn vào tính cách vô thường của cuộc đời và những vận động cơ cấu của lư số cho kiếp nhân sinh. Chính trong cái nh́n Vô thường đó của Đạo Phật và cái nh́n Lư số đó của Đạo Nho mà người viết sẽ trang trải lại trên những trang giấy sau một phần cuộc đời của ḿnh có liên hệ với cuộc đời của ông Ngô Đ́nh Diệm và của đất nước.
    Những thiếu sót và sai lầm nếu có là do kiến thức chưa thực thâm sâu hoặc do kư ức bắt đầu phai nhạt chứ nhất định không phát xuất từ thiên kiến giáo điều hoặc cố tâm muốn bóp méo sự thật. Những cảm xúc và nhận định mà người đọc thấy thấp thoáng trên những trang sách là những cảm xúc và nhận định chủ quan và riêng tư, nhưng có lẽ nhờ vậy mà sẽ chân thành và trung thực.
    Những thiếu sót và sai lầm, xin được các bậc cao minh chỉ giáo và bổ khuyết. C̣n những cảm xúc và nhận định, nếu có đóng góp được ǵ cho một cái nh́n lịch sử đúng đắn và chính xác hơn về một giai đoạn truân chuyên của dân tộc th́ xin được trao gởi cho thế hệ Việt Nam tương lai, thế hệ mà trên cả hai miền đất nước cũng như bây giờ trong và ngoài nước, những phản trắc và lừa lọc, những gian dối và ngụy tạo đă làm lung lay niềm tin của họ vào con người, vào lịch sử và cả vào dân tộc.
    *
    -o0o-
    *
    Tôi vốn quê làng Thổ Ngọa, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng B́nh, vùng có địa danh là Ba Đồn, và đă từng được ghi vào sử sách dân tộc v́ nơi đó đă xảy ra nhiều trận chiến giữa quân Pháp xâm lăng và quân Cần Vương kháng chiến. Quê tôi nằm trên tả ngạn sông Linh Giang, tục gọi là sông Gianh, cách phía Nam đèo Ngang 25 cây số, nơi mà ngay từ cuối đời Hùng Vương cho đến thời nước nhà bị Pháp đô hộ đă liên tiếp là vùng chiến địa. Quê tôi vốn là vùng nước mặn đồng chua, hàng năm thường bị tai trời ách nước, lại bị chiến tranh liên miên xảy ra nên quê tôi nghèo lắm. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, nhân một chuyến Nam du, khi ngang qua đây, thấy dân chúng địa phương quá nghèo khổ đă phải tỏ lời thở than:

    *********************** Xe hơi đă tới Đèo Ngang
    *********************** Ấy qua Hà Tĩnh đường sang Quảng B́nh
    *********************** Danh sơn gặp khách hữu t́nh
    *********************** Đèo Ngang ơi hỡi là ḿnh với ta.

    *********************** Dừng xe lên đỉnh ta trông
    *********************** Mặt ngoài biển nước bên trong núi rừng.
    *********************** …
    *********************** Nhỏ to mả trắng bên đường,
    *********************** Xa xa mé bể cồn vàng thấp cao.
    *********************** Dọc đường dân chúng biết bao,
    *********************** Ruộng t́nh hữu ái như rào trận mưa.
    *********************** Rồng Tiên cũng họ từ xưa,
    *********************** Ba mươi năm mới bây giờ gặp nhau.
    *********************** Nhân xem áo vải quần nâu,
    *********************** Gái trai già trẻ một màu không hai,
    *********************** Văn minh rày đă bán khai,
    *********************** Mà đây c̣n hăy như đời Hùng Vương…
    *
    *********** Quê tôi nghèo đến độ dân chúng bốn mùa chỉ bận quần nâu áo vải, và chỉ trừ những ngày Tết, Lễ, được ăn cơm, c̣n th́ phải trộn khoai mà ăn với mắm cà rau muống suốt năm. Nhưng h́nh như Tạo hóa có luật thừa trừ: đă bắt dân chúng đói nghèo, cực khổ th́ bù lại họ có cái tiết tháo, thông minh. Quê tôi tuy nghèo nhưng lại là một đại xă nổi tiếng về văn học, buổi tiền triều khoa giáp rất đông. Làng Thổ Ngọa của tôi là một trong tám làng của tỉnh Quảng B́nh có nhiều người đỗ đạt, nhiều người làm quan, và cũng nổi tiếng v́ có nhiều vị khoa bảng làm quan nửa chừng rồi cởi áo từ quan về làng sống cảnh an bần lạc đạo.
    Có lẽ v́ làng tôi có nhiều nhà Nho, nhiều bậc sĩ phu vốn trọng nền Tam Giáo cho nên dân làng tôi không một ai cải đạo, mặc dầu phủ tôi v́ gần với căn cứ quân sự Pháp nên có nhiều làng theo đạo Công giáo hơn. Và có lẽ v́ thấm nhuần sâu đậm tư tưởng Khổng Mạnh, mang khí tiết, danh dự kẻ sĩ cho nên đă một thời tuy ở rất gần nhiều đồn lính Tây và bị bao vây bởi những làng theo đạo Công giáo mà vào những năm 1885, 1886 phần đông dân làng tôi đều theo nghĩa quân Cần Vương dưới quyền lănh đạo của vị anh hùng Lê Trực. Ông đă biến làng tôi thành một tiền đồn trực tiếp đối đầu với quân Pháp, che chở cho chiến khu của Vua Hàm Nghi trong rừng già Thanh Lạng, vùng giáp giới hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng B́nh.
    Nội tổ của chúng tôi cũng đă từng theo đ̣i nghiên bút, theo đường khoa danh như hồi kư của cháu tôi là Đại úy Đỗ Thọ, sĩ quan tùy viên của Tổng Thống Diệm [10] đă tŕnh bày; nhưng v́ thời thế loạn ly, ông bỏ đèn sách mà theo việc kiếm cung và trở thành viên tướng tiên phong cho vị lănh tụ Cần Vương là cụ Đề Lê Trực. Nội tổ chúng tôi bị tấn công bởi lính Pháp, lính Đạo, có giáo sĩ Tortuyaux từ Đồng Hới ra làm kẻ chỉ đường nên bị thất trận, giặc Pháp giết không toàn xác và ném thây xuống sông mất tích. Thủ hạ của ông chạy thoát được về báo cho gia đ́nh. Sau này con cháu họ Đỗ chúng tôi phải lập đền thờ cho đấng tiền nhân tiết liệt. Cũng sau này, con cháu họ Đỗ chúng tôi phải lập đàn cầu cơ, hỏi người hồn phách siêu lạc, vất vưỡng phương nào để con cháu xây bia lăng chôn “ḿnh dâu, đầu gáo” và lập đền thờ cho đấng tiền-nhân tiết-liệt. Khi cơ lên, Nội tổ chúng tôi cho biết ông đă bị mắc mưu bội phản nên bị quân Tây sát hại. Ông đă viết trên mâm gạo trắng một bài thơ dài, tả tâm sự và cảnh ngộ của ḿnh, lời thơ vô cùng ảo năo thương tâm. Con cháu chúng tôi học thuộc ḷng để mỗi khi cúng kỵ cùng tụng lên theo tiếng mơ hồi chuông như tụng kinh trước bàn thờ Phật. Bài thơ này chính là chúc thư cách mạng đầu tiên cho tôi để sau này lớn lên biết yêu nước, yêu dân, và biết theo lẽ phải giữ ǵn khí tiết:
    *********************** “Phật tự Liên Hoa nhân mạc kiến,
    *********************** Tăng như Lô thảo thế nan tầm.
    *********************** Gẫm cuộc đời thêm nhớ bạn tri âm,
    *********************** Nh́n thế sự khôn cầm cơn lệ ngọc.
    *********************** Ví thuở trước bụi hồng không lăn lóc,
    *********************** Th́ có đâu những lúc hiện thời.
    *********************** Cũng vừa may nhờ lượng Bửu Đài,
    *********************** Nên mới đặng văng lai nơi cố quận.
    *********************** Nay gặp buổi phong ḥa vũ thuận,
    *********************** Xét phàm trần trắc ẩn tiền nhân.
    *********************** Vậy* mua vui dạo ít cung đờn,
    *********************** Mượn bút ngọc phô trương sự tích:
    *********************** Nhớ thuở trước tiền triều niên lịch,
    *********************** Buổi thiếu thời chỉ thích cao ngôi,
    *********************** Chốn văn chương cửa Thánh trau giồi,
    *********************** Đường vơ bị theo đ̣i cung kiếm.
    *********************** Chí những tưởng đăng khoa bút điểm,
    *********************** Trổ tài hoa đoạt chiếm công danh,
    *********************** Ai ngờ đâu duyên phận mỏng manh,
    *********************** Trong phút chốc tan tành sự nghiệp.
    *********************** Ấy cũng bởi quá tin t́nh nghĩa hiệp,
    *********************** Hóa xui nên thân kiếp biệt ly trần.
    *********************** Hận ḿnh mang gánh nặng quân ân,
    *********************** Mà khổ nỗi nợ nần chưa báo đáp,
    *********************** Th́ đă vội gió vùi mưa dập,
    *********************** Mộng ngàn thu chôn lấp tấm hồn trung.
    *********************** Kể từ đây bốn bể vẫy vùng,
    *********************** Cho thỏa chí anh hùng khi tử tiết.
    *********************** Đức Thượng Đế đoái thương người tuấn kiệt,
    *********************** Sắc phong cho Trung Liệt Hiển Nhơn Thần,
    *********************** Dưới Hoành Nam đi lại kiểm tuần,
    *********************** Theo Liễu Chúa tùy thân hậu giá.
    *********************** Nay gặp hội thừa nhàn thư thả
    *********************** Mượn bút đào lược tả thành chương,
    *********************** Vẫn rằng đây “Tổ thúc Đỗ Đường”,
    *********************** Đem tâm sự phô trương tỏ rơ.
    *********************** Ai là kẻ đem ḷng ngưỡng mộ,
    *********************** Xét đơn tâm báo bổ độ tŕ,
    *********************** Bằng như ai ăn xổi ở th́,
    *********************** Cũng thây kệ thiên tri phó mặc.
    *********************** Ḱa lồng lộng trăng soi vằng vặc,
    *********************** Cảnh tuần hoàn có chắc ǵ đâu,
    *********************** Xanh kia vẫn đội trên đầu
    *********************** Khuyên đừng điên đảo mang câu tội t́nh.
    *********************** Kiếp trần ấy, kiếp phù sinh!”
    *********** Theo tinh thần bài thơ th́ ông Nội tôi v́ hy sinh cho chính nghĩa dân tộc nên được Thượng Đế phong sắc làm Thần và được theo Bà Chúa Liễu Hạnh đi kiểm tuần ở vùng phía Nam núi Hoành Sơn (Đèo Ngang). Theo giáo sư Nguyễn Đăng Thục th́ bà Chúa Liễu Hạnh là vị tiên chúa đại diện cho nguyên lư “Mẫu” cũng như Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo) đại diện cho nguyên lư “Phụ”. Bà Chúa Liễu Hạnh tượng trưng cho sự trong trắng, sự khôn ngoan, hiền thảo của người đàn bà nên được dân chúng Việt Nam tôn thờ như Quốc Mẫu, có đền thờ ở Ṣng Sơn (Bắc Việt) và được vua chúa các triều đại phong sắc. Trong dân gian có câu tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ, Cha là Đức Thánh Trần, Mẹ là Tiên Chúa Liễu Hạnh.[11]
    V́ Nội tổ chúng tôi là một vị thần linh nên dân làng bảo trợ cho con cháu lập đền thờ ở quê làng để hàng năm Xuân Thu nhị kỳ cùng đến làm lễ cúng kỵ. Khi đất nước bị chia đôi vào năm 1954, họ chúng tôi di cư vào Nha Trang, lại lập đền thờ trong khuôn viên ngôi nhà anh ruột tôi là ông Đỗ Toàn mà nhiều bạn bè của gia đ́nh chúng tôi ở Nha Trang đă từng đến chiêm ngưỡng.
    Nói về quân Cần Vương ở quê tôi, sử gia Trần Trọng Kim đă viết:
    Vua Hàm Nghi bấy giờ phải ẩn nấp ở vùng huyện Tuyên Hóa có các con của Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp cùng với đề đốc Lê Trực và cử nhân Nguyễn Phạm Tuân hết sức giữ ǵn và đem quân đi đánh phá ở mạn Quảng B́nh và Hà Tĩnh.
    Tháng Giêng năm Bính Tuất (1886), trung tá Mignot đem quân ở Bắc Kỳ vào Nghệ An rồi chia làm hai đạo. Một đạo do thiếu tá Pelletier theo sông Ngàn Sâu vào mạn Tuyên Hóa, một đạo th́ trung tá Mignot tự đem quân đi đường quan lộ vào giữ thành Hà Tĩnh rồi vào đóng ở sông Gianh.
    Ở Huế lại sai trung tá Metzniger đem một toán quân ra tiếp ứng các đạo. Quân Pháp đóng ở chợ Đồn (Ba Đồn) và ở Minh Cầm rồi trung tá Metzniger đem ông Cố Tortuyaux đi làm hướng đạo để lên lấy đồn Vé. Thế quân Pháp tiến lên mạnh lắm, quân Cần Vương chống không nổi, phải tan ra.
    Quân Pháp triệu các đạo quân về chỉ đóng giữ ở Quảng Khê (cửa sông Gianh), ở Ṛn, ở Ba Đồn mà thôi. Quân Cần Vương thấy quân Pháp rút đi lại trở về đóng ở đồn cũ.
    Người Pháp cũng biết là thế lực của đảng vua Hàm Nghi chẳng được là bao nhiêu, cốt t́m đường mà chiếm dần địa thế, bởi vậy cho nên không dùng đến đại binh.
    Trước, đại úy Mouteaux ở Quảng B́nh đă cùng với ông cố Tây Tortuyaux đem quân đi đánh lấy đồn của Lê Trực ở Thanh Thủy, nhưng quân của ông ấy vẫn không tan, cứ đánh phá măi. Đại úy Moutaux biết ông Lê Trực là người có nghĩa khí cho nên đại úy vẫn có ư trọng lắm, đưa thư dụ ông về đầu thú. Ông Lê Trực trả lời: “Tôi v́ vua v́ nước chết sống cùng một ḷng, không tham sống mà quên việc nghĩa.”
    Từ khi quân Pháp đóng đồn Minh Cần, ông Lê Trực ra mạn Hà Tĩnh, ông Nguyễn Phạm Tuân về đóng phía Nam sông Gianh, ông bị trúng đạn, sống được mấy ngày th́ chết, quân của ông bị vây rồi bị bắt cả.[12]
    Theo phụ thân tôi và các bậc tôn trưởng trong làng kể lại th́ sau khi Nội tổ bị sát hại, quân Cần Vương tan ră, lính đạo của các cố Tây và dân các làng Công giáo kế cận như Đơn Sa, Diên Ḥa, Diên Phúc, Hướng Phương,… đến bao vây làng tôi, giết hại có hàng trăm người, đốt phá đ́nh chùa, miếu vũ. Những ai đă từng đi qua làng tôi đều thấy dọc theo bờ sông Gianh hàng mấy trăm nấm mồ vô chủ, ngổn ngang như g̣ đống, đó là những ngôi mả của dân làng chết v́ tham dự quân đội Cần Vương hay v́ bị dân các làng theo đạo Công giáo sát hại. Vốn sinh sống nơi vùng đất quê nghèo, sau cuộc kháng Pháp, dân làng tôi vốn đă nghèo khổ lại càng nghèo khổ, gian truân hơn.
    Vùng tả hữu ngạn sông Gianh là nơi quân Pháp đă đóng nhiều đồn bót khi họ đánh chiếm Quảng B́nh cho nên vùng này có trên hai mươi làng theo đạo Công giáo… Giáo phận này có cả tiểu chủng viện ở làng Hướng Phương, quê hương của linh mục Nguyễn Phương, tác giả cuốn “The Parade of American Puppet”, cuốn sách suy tôn Tổng Thống Diệm anh minh và hằn học mạt sát tướng lănh trong quân đội đă lật đổ ông ta.
    Thời kỳ kháng Pháp (1946-1954), trong khi tất cả các làng khác theo tiếng gọi non sông tham gia kháng chiến th́ các làng theo đạo Công giáo ở hai bên bờ sông Gianh đều rào làng, xây cḥi canh tự nguyện thành lập những đội Partisans để phụ lực cho đội quân viễn chinh Pháp, biến vùng này thành một dăy tiền đồn cho quân Pháp an toàn đóng ở Đồng Hới, hướng về Liên khu Tư của Việt Minh. Linh mục Nguyễn Phương đă từng là dân vệ trong đội quân Partisans của làng Hướng Phương trước khi ông vào Huế tiếp tục học hành. C̣n linh mục Cao Văn Luận, nguyên viện trưởng viện Đại Học Huế dưới chế độ Ngô Đ́nh Diệm, từ Hà Nội vào ở tại vùng này một thời gian trước khi vào Huế xin thủ hiến Phan Văn Giáo dạy học ở trường trung học Khải Định. Khi quân đội Pháp rút bỏ dăy tiền đồn ở vùng tả hữu ngạn sông Gianh th́ hầu hết thanh niên những làng theo đạo Công giáo cũng sợ hăi rút theo. Phần đông những thanh niên này gia nhập vào bộ đội Việt Binh Đoàn miền Trung rồi trở thành quân đội quốc gia dưới chế độ Quốc trưởng Bảo Đại. Sau này, phần đông số binh sĩ đó được tuyển chọn vào Lữ Đoàn Liên binh Pḥng vệ phủ Tổng Thống, họ được ông Diệm đặc biệt lưu tâm ưu đăi v́ họ thuộc thành phần trung kiên nhất đối với ông Tổng thống người Quảng B́nh mộ đạo này.
    Sống giữa thời ly loạn, mà cha chú, bà con phần đông bị giặc Pháp cầm tù hay sát hại, nước nhà th́ mất chủ quyền, cha tôi, một nho sĩ nghèo nàn chỉ c̣n biết kéo dài cuộc đời bất đắc chí. Tôi ra đời giữa khung cảnh đất nước đó, trong một gia cảnh thanh bần và giữa một làng quê bùn lầy nước đọng. Mẹ tôi v́ lao tâm lao lực, một nắng hai sương làm lụng cực nhọc để nuôi chồng và một đàn con đông đảo, ḿnh mang trọng bệnh lại thiếu tiền thuốc thang, nên bà đă từ giă cơi đời khi tôi vừa lên bốn tuổi, bỏ lại cha con tôi với thảm cảnh gà trống nuôi con. Tuy nhiên, qua mấy đời, gịng họ con cháu đều theo đ̣i ít nhiều kinh sử, cho nên khi tôi lên năm, cha tôi cũng cố cho tôi theo học chữ Hán trường ông Tú gần nhà. Cho đến khi lên chín th́ tôi được gởi lên trường Phủ học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Thời gian theo bậc tiểu học, tôi đă không có những phút êm đềm của tuổi học tṛ thơ ấu, lại càng không có những mộng mơ hồn nhiên của tuổi đến trường, mà cứ mỗi độ hè đến là phải đi chăn trâu, ngày nghỉ là phải ra đồng mót lúa, đào khoai hay xuống sông ṃ tôm bắt cá kiếm thêm miếng ăn cho gia đ́nh. Sau khi đỗ tiểu học, tôi định bỏ ngang sự học v́ thời bấy giờ muốn vào trung học th́ phải vào Huế, phải tốn tiền ăn, tiền nhà trọ, tiền sách vở áo quần, tiền xe cộ đi về. Với gia cảnh bần hàn mà ngay cả mỗi miếng ăn đói, mỗi manh áo rách đều là kết quả nhọc nhằn của mồ hôi và nước mắt của toàn gia đ́nh, cha tôi biết lấy ǵ để chu cấp cho tôi theo đuổi việc học hành mà tốn kém hàng tháng cũng phải đến 6 đồng bạc, một số tiền lớn giá trị độ 6,7 chục ngàn thời 1970.
    May mắn thay, khi tôi vừa đỗ tiểu học th́ có bà cô họ vốn biết tính ham học của tôi bèn từ Huế về làng, xin cha tôi cho tôi vào Huế tiếp tục việc học hành. Chồng cô tôi là một ông Đề lại đă về hưu, có một ngôi nhà vườn rộng với nhiều cây ăn trái ở chợ Cống, con cái đă thành gia thất và đều đi làm việc cho chính phủ ở các tỉnh xa. Cô tôi đem tôi về, vừa để giúp tôi tiếp tục việc học hành, vừa có thêm đứa cháu cho cảnh nhà bớt phần quạnh quẽ. Tôi theo học trường trung học tư thục Hồ Đắc Hàm, ngày nghỉ về nhà giúp cô dượng tôi nhổ cỏ, tưới cây, quét tước cửa nhà, vườn tược. Ở cái tuổi 15, đáng lẽ tôi đă có thể vẽ được cho ḿnh – dù là viển vông – những ước mơ cao xa và những hoài băo to lớn, nhưng nh́n lại hoàn cảnh gia đ́nh và trong bối cảnh của một quê hương rách nát tang thương, tôi chỉ ao ước được học hết 4 năm, lấy mảnh bằng Thành Chung để xin vào ngạch thư kư ṭa Sứ, ngạch trợ giáo hay ngạch thừa phái Nam triều như ước mơ của hầu hết thanh niên nghèo lúc bấy giờ, không đủ điều kiện học lên tú tài. Nhưng có lẽ vận số gịng họ nhà tôi chưa có mả phát về văn học, nên sắp bước vào năm thứ 4 th́ cô tôi qua đời. Dượng tôi, phần th́ tuổi già, phần th́ thiếu người nội trợ, nên cho thuê ngôi nhà để đi theo con làm y tá ở Phan Thiết, và không thể tiếp tục làm mạnh thường quân giúp tôi ăn học nữa, tôi đành phải dang dở việc học hành, trả lại giấc mơ giản dị và tội nghiệp cho nhà trường để trở lại làng xưa.
    Về đến Đồng Hới, tôi vào ty kiểm học để nộp đơn xin một chức giáo viên sơ học th́ được cụ Kiểm học Trần Kinh, thân phụ của giáo sư Trần Vỹ, thâu nhận vào làm giáo viên sơ học của một làng trong Phủ với số lương hàng tháng là 12 đồng do ngân sách hàng tỉnh đài thọ.
    Trong khi việc học của tôi dang dở như vậy th́ người bạn châu quận của tôi là anh Phan Xứng, vốn cùng tuổi và cùng học với tôi ở trường Phủ, lại may mắn được tiếp tục học cho đến khi đỗ bằng Thành Chung rồi thi vào ngạch thư kư toà Sứ. Tôi nhắc đến anh Phan Xứng, người bạn tri kỷ của tôi, v́ sau này, qua bao nhiêu biến cố đổi thay của thời cuộc, anh với tôi trở nên hai đồng chí trên trường chính trị kể từ năm 1948, khi chúng tôi cùng tích cực hoạt động cho tổ chức của ông Diệm dù lúc bấy giờ ông Diệm mới chỉ là một chính khách trùm chăn đợi thời.
    Tôi dạy học được một năm, xét thấy nghề giáo viên trường làng với số lương quá thấp, vừa không đủ nuôi thân vừa không giúp được ǵ cho gia đ́nh, nên nhân có mấy người bạn cùng học trước kia ở trường Phủ rủ nhau gia nhập quân đội, tôi bèn nhận lời theo họ. Tôi thích đời quân ngũ một phần v́ lương bổng cao hơn, tương lai bảo đảm hơn, có thể thăng quan tiến chức và phần khác, v́ là quân nhân th́ sẽ biết tác chiến, có được nhiều bạn đồng ngũ, hợp với sở thích hiếu động của tôi. Hơn nữa, và đây mới là điều quan trọng nhất, khi gia nhập quân đội tôi sẽ vừa có tiền nuôi thân lại vừa có tiền giúp đỡ cha già mỗi ngày thêm già nua bệnh hoạn.
    Thời Pháp thuộc, bên Nam triều, có những ngạch lính riêng như lính Lệ, lính Giản, lính Hộ Thành, lính Khố Vàng, c̣n bên Bảo Hộ có lính Chính quy, tức là lính Khố Đỏ, lo việc chống ngoại xâm và lính Bảo An tức là lính Khố Xanh (Garde Indochinoise) lo việc trị an trong nước. Thật ra tôi thích đi lính Khố Đỏ hơn v́ nghe nói đi lính ấy sẽ được dịp xuất ngoại, sẽ được đi Tây, biết được những chân trời xa lạ cho thỏa chí giang hồ, nhưng v́ người tôi ốm yếu không đủ cân lượng làm một người lính chính quy nên tôi đăng vào ngạch lính Khố Xanh ở cơ Bảo An Hà Tĩnh.
    Trong nhà binh thời Pháp thuộc, những quân nhân có tŕnh độ trung học như tôi đều làm việc ở văn pḥng, khỏi phải làm tạp dịch nặng nề. Đến năm thứ sáu, tôi đi học lớp hạ sĩ quan tại cơ Lưu động Huế, nơi đào tạo hạ sĩ quan cho toàn thể xứ Trung kỳ. Sau năm tháng học tập, thi măn khóa tôi đỗ đầu nên được người Pháp giữ lại làm huấn luyện viên cho các lớp hạ sĩ quan tiếp theo. Tôi cùng Hồ Văn Tố (cựu Thiếu tướng Quân đội Việt Nam Cọng Ḥa) đă dạy ở đây mấy năm trường. Hiện nay tại hải ngoại có rất nhiều người đă từng học lớp hạ sĩ quan Huế do chúng tôi làm huấn luyện viên. Dưới thời Việt Nam Cộng Ḥa họ đă giữ những chức vụ trọng yếu trong quân đội hay các cơ quan chính quyền, chẳng hạn như Đại tá Phùng Ngọc Trưng, Giám đốc nha Quân nhu Quân Đoàn I, cựu Đại tá Lê Khương từng là Tỉnh trưởng Quảng Nam và Tổng Giám đốc Bảo An, ông Lê Kim Ân từng là nhân viên cao cấp ngành Công An Cảnh Sát Quốc Gia, vân vân… (Ba nhân vật trên hiện ở hải ngoại). Năm 1942, năm dạy lớp hạ sĩ quan tại Huế, tôi vừa đúng 25 tuổi.
    Nh́n lại hai mươi lăm năm của thời kỳ đầu tiên trong cuộc đời, 25 năm ngậm đắng nuốt cay của một đứa trẻ mồ côi mẹ, lớn lên trong lũy tre làng xơ xác của một làng quê xác xơ, 25 năm nền móng để xây dựng nên cốt cách và nhân phẩm của ḿnh sau này, tôi sung sướng và hănh diện được sinh ra trong khung cảnh của một nông thôn nghèo nàn, của một gia đ́nh nho phong khí tiết. Chính những mồ hôi nhọc nhằn đổ ra trên ruộng lúa cằn cỗi, sau này, đă dạy cho tôi bài học về giá trị của lao động; chính những đêm buốt giá mà manh chiếu không đủ để che thân, sau này, đă dạy cho tôi bài học về chống bất công, chống độc tài. Và cũng chính những ân t́nh của xóm làng gia tộc đă dạy cho tôi về nhân nghĩa, về ḷng độ lượng và bao dung. Cho nên những thực tại đó của cuộc đời, những kinh nghiệm sống thật đó của bản thân, hơn tất cả những bài học ở trường, hơn tất cả những sách vở mà tôi đă nghiên cứu, mới là hành trang quư giá và thân thương nhất giúp tôi xông pha vào đời với một lương tâm trong suốt và với một con tim tràn đầy nhiệt huyết.
    Hai mươi lăm năm đầu tiên đó của cuộc đời lại cũng là khoảng thời gian mà tôi mở mắt nh́n, lắng tai nghe kiếp sống đáy tầng của một dân tộc bị trị. Kiếp sống mà “theo đạo Chúa, làm cho Tây” th́ tính mạng được an toàn và cơm áo được tươm tất, kiếp sống mà sĩ khí không mua được lon gạo, tiết nghĩa không đổi được lít dầu!
    Cảnh nhà khốn khổ của thời ly loạn đă khiến tôi dang dở việc học để lăn vào đời sớm hơn những thanh niên khác. Nhưng dang dở việc học mà tôi không ân hận v́ đă được mang những nhọc nhằn của ḿnh ra phần nào báo hiếu cho cha già; lăn vào đời sớm mà tôi không xót xa v́ chính cuộc đời đă tôi luyện chí khí và nhân cách cho ḿnh vào cái thời kỳ c̣n trong trắng nhất, c̣n chưa hệ lụy vào lư thuyết trừu tượng và giáo điều. Cho nên sau này, trước bao nghịch cảnh của cuộc đời, tôi vẫn hoài niệm về 25 năm đầu tiên đó của ḿnh, tôi vẫn hoài niệm về cha già gà trống nuôi con, tôi vẫn hoài niệm về làng Thổ Ngọa tiêu điều đó như là những năng lực tuyệt vời giúp tôi vượt thoát lên trên mọi giông băo.
    Nhưng vào thời điểm của những năm đầu của thập niên 40, những ước mơ, những cao vọng, những rung cảm của tôi mới chỉ là những ước mơ tầm thường và tội nghiệp của một người dân tội nghiệp và tầm thường. Nghĩa là phải chiến thắng sự nghèo khổ cho chính gia đ́nh ḿnh, c̣n những Độc Lập, những ái Quốc, những Kháng Chiến, những Chống Xâm Lăng… đều là những tiếng gọi mơ hồ và xa lạ.
    Tôi những tưởng cuộc đời của tôi như thế là đă được an bài, sẽ lớn lên trong ḷng quân đội Pháp, vô thức làm một công cụ cho chế độ thực dân và hài ḷng với những đảm bảo kinh tế của một người dân bị trị cho đến ngày nhắm mắt.
    Nhưng định mệnh đă đưa đẩy ném tôi vào những chuyển ḿnh lớn lao của lịch sử như bao nhiêu người trai trẻ của thế hệ đó để trong một cơ may hiếm hoi của đời người, tôi bừng tỉnh và theo đ̣i những hoạt động cách mạng vào những ngày mà t́nh h́nh thế giới đang căng thẳng mở màn cho thế chiến thứ hai.

    *

    [1] Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử lược, tr. 12, 13.
    [2] Thái Văn Kiểm, Đất Việt Trời Nam, tr. 322, 326.
    [3] Nhà Xuất Bản Khoa Học, Đại Nam Nhất Thống Chí, tr. 26.
    [4] Nhà Xuất Bản Khoa Học, Đại Nam Nhất Thống Chí, tr. 60.
    [5] Lư Khôi Việt, Hai Ngàn Năm Việt Nam và Phật Giáo, tr. 255, 256.
    [6] Fritjof, Capra, The Tao of Physics, tr. 4.
    [7] Fritjof, Capra, The Tao of Physics, tr. 4.
    [8] Fritjof, Capra, The Tao of Physics, tr. 4.
    [9] Fritjof, Capra, The Tao of Physics, tr. 33.
    [10] Lê Tử Hùng, Nhật Kư Đỗ Thọ, tr. 154.
    [11] Nguyễn Đăng Thục, Tư Tưởng VN, tr. 90.
    [12] Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử lược, tr. 325, 326.
    1. VÀO ĐƯỜNG ĐẤU TRANH
      *

      Trong những năm đầu tiên của đệ nhị thế chiến, có hai biến động xảy ra ngoài nước Việt Nam nhưng lại đặc biệt liên hệ chặt chẽ đến vận mệnh nước ta vào lúc đó. Liên hệ chặt chẽ v́ hai biến động này xảy ra trong hai quốc gia và cho hai dân tộc đă từng xâm chiếm và đặt nền* đô hộ trên lănh thổ Việt Nam.
      Biến cố thứ nhất xảy ra vào ngày 19 tháng 6 năm 1940, khi gót giày sắt của quân đội Đức Quốc Xă giẫm nát vỉa hè thủ đô Balê tiến vào chiếm điện Elysée và bắt đầu khống chế nước Pháp bằng một chế độ quân quản sắt đá, chấm dứt uy thế và quyền lực của Chính phủ Pháp không những trên lănh thổ Pháp quốc mà c̣n làm suy yếu thực lực và tinh thần của các bộ máy chính trị quân sự tại các nước thuộc địa.
      Biến cố thứ hai xảy ra tại Trung Hoa vào đầu năm 1940 khi Nhật Bản, khởi đầu bằng cuộc đổ bộ ở Lư Câu Kiều vào năm 1937, điều động đoàn quân tinh nhuệ với những vũ khí hiện đại đánh tan các lộ quân của Thống chế Tưởng Giới Thạch, tràn xuống miền Nam Hoa, chiếm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, và chuẩn bị kế hoạch tấn chiếm Đông Dương để hoàn thành các mắt xích chiến lược của kế sách địa lư chính trị “Đại Đông Á”.
      Kết quả hỗ tương và nhịp nhàng của hai biến cố đó đă chấn động t́nh h́nh chính trị tại Việt Nam và đẩy bộ Chỉ huy Quân sự của Nhật Bản đến quyết định đặt yêu sách đ̣i chính quyền của Pháp tại Đông Dương phải chấm dứt giao thương với Trung Hoa và giành quyền thiết lập một lực lượng kiểm soát việc thực thi quyết định này tại cảng Hải Pḥng. Lúc bấy giờ Decoux vừa mới thay Catroux trong nhiệm vụ Toàn quyền Đông Dương và được Chính phủ Pháp, trong cơn ngặt nghèo lúng túng của chính nội t́nh mẫu quốc, ủy nhiệm toàn quyền chỉ huy quân sự, chính trị để giữ vững bán đảo Đông Dương.
      Ban đầu Decoux nhất quyết chống đối quyết định đó của Nhật Bản nên ngày 22 tháng 9 năm 1940, ngày quân Nhật từ Quảng Đông phối hợp hỏa lực mănh mẽ của lục quân và đoàn quân cơ giới thần tốc xua quân đánh tan một số căn cứ quan trọng tại biên giới và tấn chiếm Lạng Sơn (vốn là bộ Chỉ huy trung ương của Pháp, phụ trách tuyến pḥng ngự Việt Bắc) và bắt Pháp phải nhượng bộ. Quân Nhật không những đă ngang nhiên đóng quân tại nhiều địa điểm chiến thuật ở sâu trong vùng đồng bằng mà c̣n sử dụng đường hỏa xa, các hải cảng, các phi trường và mua cao su, gạo, nhiên liệu cùng nhiều sản phẩm địa phương cần thiết với giá rẻ để cung ứng cho nhu cầu quân nhu và vận tải của quân đội viễn chinh Nhật (mà đường tiếp liệu xa chính quốc gần 10 ngàn cây số càng lúc càng khó khăn). Ngược lại, Nhật Bản tôn trọng tư cách và quyền hành cai trị của Pháp tại Đông Dương cũng như tư cách và quyền hành của vua Bảo Đại tại Trung Kỳ.
      Trong biến cố này, v́ những hứa hẹn chính trị và yểm trợ vũ khí của Nhật Bản, một lực lượng Phục quốc quân do chí sĩ Trần Trung Lập chỉ huy đă giúp quân đội Nhật Bản tấn công căn cứ Lạng Sơn và chiếm đóng thành phố này. Đau đớn thay, sau khi đă được Pháp nhượng bộ, Nhật phản bội lực lượng Việt Nam này và trao lại toàn bộ đơn vị phục quốc quân cho người Pháp như một điều kiện trong thỏa hiệp Nhật-Pháp. Chí sĩ Trần Trung Lập hy sinh và hầu hết phục quốc quân Việt Nam kẻ bị tử h́nh, người bị tù chung thân, chỉ một số ít liều ḿnh vượt thoát được qua Trung Hoa. [1]
      Song song với việc thiết lập những cơ sở quân sự và nắm chặt t́nh h́nh an ninh tại Đông Dương, Nhật Bản vẫn khôn ngoan duy tŕ hệ thống hành chánh và hư danh của bộ máy bảo hộ Pháp để có th́ giờ chuẩn bị cho cuộc đấu tranh chính trị ở tầng quần chúng qua cơ quan phản gián Kempeitai, qua tờ báo Tân Á xuất bản bằng tiếng Việt nhằm tuyên truyền chống Pháp, đề cao chủ nghĩa “Đông Á của người Á Đông”, hô hào nước Việt Nam “độc lập trong khối thịnh vượng Đại Đông Á”. Họ tổ chức các lớp học Nhật ngữ nhằm chuẩn bị một lực lượng cán bộ hành chánh bản xứ, họ tuyển mộ một số thanh niên Việt Nam vào đội Hiến binh và thông ngôn của họ, và đặc biệt họ ngấm ngầm tuyên truyền cho sự trở về tất yếu của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, lúc bấy giờ đang lưu vong trên đất Nhật.
      Kỳ Ngoại Hầu Cường Để nguyên là cháu đích tôn của Mỹ Đường Nguyễn Phúc Đan mà ông này lại vốn là trưởng nam của Hoàng tử Cảnh. Quyết định xuất dương để vận động chống Pháp của Hoàng thân Cường Để là vừa để trả nợ nước vừa để trả thù nhà. Trả nợ nước là nhiệm vụ chung của toàn dân ta trong giai đoạn bị ngoại thuộc đó, dù ở giai tầng nào trong xă hội, dù đứng ở vị trí nào trong ḷng dân tộc, ngoại trừ một thiểu số được thụ hưởng đặc quyền đặc lợi của Pháp và liên hệ máu thịt với những định chế giáo quyền và thế quyền tại mẫu quốc. Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là Hoàng thân quốc thích vừa lại là người thật tâm yêu nước, yêu dân nên việc ông xả thân tranh đầu là điều hiển nhiên. Trả thù nhà là v́ sau khi vua Gia Long băng hà, chi hệ thuộc Hoàng tử Cảnh v́ đă bỏ đạo gia tiên, nhục mạ Phật giáo, lại c̣n bị giám mục Pigneau de Béhaine xúi dục theo Công giáo La Mă qua hành động đ̣i mẹ bôi phân lên tượng Phật, nên không được Hoàng phái đồng ư cho nối nghiệp cha [2] mà lại để cho vua Minh Mạng, một vị vua thông minh, cương nghị và chống Pháp trong tinh thần quốc gia cực đoan nối ngôi.[3] Chi hệ Hoàng tử Cảnh bị biếm hạ xuống thành hàng thứ dân và phải sống khổ nhục cho đến năm 1848 mới được vua Tự Đức gia ân phục hồi lại tước vị và ban cho một số tiền phụ cấp nhỏ nhoi.[4]
      Hoàng thân Cường Để xuất dương qua Nhật, cùng với cụ Phan Bội Châu hoạt động chống Pháp dành độc lập nhằm quang phục đất nước và được cụ Phan tôn làm Minh chủ trong tổ chức Cách Mạng Việt Nam Quang Phục Hội do cụ thành lập. Hai người con trai của cụ Hoàng thân là ông Tráng Liệt và ông Tráng Cử ở lại quê nhà trong cảnh nghèo khó, không ai để nương tựa, lại bị người Pháp gây khó khăn nên không tiến thân được. Ông Tráng Liệt sau đó được làm thư kư công nhật ở pḥng Văn khố ṭa Khâm sứ Huế, c̣n ông Tráng Cử th́ đi dạy ở một trường tiểu học nhỏ tại Trung phần, trong chánh sách mua chuộc của người Pháp.
      Lúc bấy giờ, thế chiến thứ hai đang ở cao điểm thắng lợi của phe Trục Đức-Ư-Nhật. Quân đội của họ đánh tan các lực lượng đề kháng yếu ớt và thiếu chuẩn bị của khối Đồng minh. Và mặt trận Đông Dương, v́ bộ máy Bảo hộ bị gián đoạn với mẫu quốc, lại bị hăm dọa bởi lực lượng quân sự hùng hậu của Nhật, đă trở thành một cơ hội thuận tiện cho những người Việt muốn đấu tranh để giành độc lập cho nước nhà.
      Mùa xuân năm 1941, sau gần 30 năm biệt xứ, ông Nguyễn Tất Thành, tức Chín Thẩu, tức Ba, tức Nguyễn Ái Quốc, cải trang thành một phóng viên Trung Hoa, theo đường bộ vượt qua biên giới Hoa Việt và cùng với các ông Phạm Văn Đồng và Vơ Nguyên Giáp xây dựng một căn cứ địa an toàn, thành lập “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh” với chủ trương đánh Pháp đuổi Nhật. Tại hang Păc Pó, ông Nguyễn Tất Thành đổi tên thành Hồ Chí Minh [5], chính thức phát động cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, đồng thời bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam, mở màn cho hai cuộc chiến tranh Đông Dương đẫm máu sau này. Trong khi đó th́ hầu hết các cá nhân tổ chức thuộc phe quốc gia lại t́m cách hợp tác với quân đội Nhật với hy vọng sẽ cùng với Nhật Bản lật đổ Pháp tại Đông Dương để dành độc lập cho Việt Nam, một nền độc lập thực sự hay ngay cả một nền độc lập trong khối Đại Đông Á.
      Lúc bấy giờ, theo khuynh hướng này, đại để ở miền Bắc có những nhân vật như nhà báo Vũ đ́nh Dy, bác sĩ Nguyễn xuân Chữ, bác sĩ Lê Toàn, cụ Trần Trọng Kim, cụ Dương Bá Trạc, hoặc như một bộ phận đảng Đại Việt của ông Trương Tử Anh, đảng Dân Chính của ông Nguyễn Tường Tam... C̣n ở miền Nam th́ có những cá nhân nổi bật như nhà báo Trần Văn Ân, ông Nguyễn Văn Sâm, hoặc khối Cao Đài, lực lượng Ḥa Hảo... Riêng tại miền Trung, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để từ Nhật gửi thư về Huế nhờ nhà cách mạng Huỳnh Thúc Kháng làm đại diện cho Ngài để liên lạc và thảo luận với người Nhật, nhưng cụ Huỳnh lấy lư do tuổi già sức yếu để từ chối lời yêu cầu này và cụ nhờ người con trưởng của Kỳ Ngoại Hầu là ông Tráng Liệt viết thư cho cha đề cử ông Ngô Đ́nh Diệm thay thế Cụ.
      Điều đáng lưu ư là 5 năm sau, năm 1946, cụ Huỳnh lại nhận lời của ông Hồ Chí Minh để đảm nhận chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ tại Hà Nội mặc dù, lúc bấy giờ, cụ tuổi già sức yếu hơn nhiều. Có hai lư do giải thích hai quyết định có vẻ mâu thuẫn này trong đời hoạt động của cụ Huỳnh.
      Thứ nhất là cụ từ chối lời yêu cầu của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để v́ lập trường quốc gia quá khích của cụ. Khác với người bạn thân là cụ Phan Bội Châu, cụ Huỳnh không tin tưởng vào sự hợp tác chân thành của người Nhật nói riêng và người ngoại quốc nói chung. Chính v́ lập trường quá khích đó mà năm 1946, ông Hồ Chí Minh đă thuyết phục và lôi kéo được cụ với lá cờ dân tộc chống xâm lăng.
      Và thứ hai là cụ không chủ trương đấu tranh chống Pháp cho một nước Việt Nam theo thể chế quân chủ lập hiến trong tương lai như ông Diệm mà phải là một nước Việt Nam không những độc lập mà c̣n dân chủ nữa. V́ thế, giới thiệu ông Ngô Đ́nh Diệm, một người mà cả ba đời bề tôi trung thành của nhà Nguyễn, để làm đại diện cho Kỳ Ngoại Hầu, một người Hoàng phái ḍng chính thống, là một việc làm mà cụ Huỳnh thấy vừa hợp lư vừa thuận t́nh. Lại vừa nói lên cái thâm thuư của nhà Nho ở chỗ cụ vốn đánh giá rất thấp khả năng và đạo đức của ông Diệm, nên mới giới thiệu cái gánh nặng chính trị đó cho tổ chức của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, mà cụ vốn chê là có xu hướng vọng ngoại [6], nếu không muốn nói là có khả năng trở thành một tổ chức phản động trong cuộc cách mạng sau này. Khi đề cập đến quan điểm chính trị “chống vọng ngoại” này của một sỹ phu thời đó, giáo sư Nguyễn Văn Xuân đă xác quyết trong tác phẩm biên khảo “Phong trào Duy Tân” rằng:
      “Cụ Huỳnh Thúc Kháng sau này không chịu nhận hợp tác với Nhật chắc chắn là v́ đă rút gọn được kinh nghiệm cũ”.[7]
      (Việc này cũng để cải chính một số luận điệu rằng nhà cách mạng Huỳnh Thúc Kháng đă hợp tác với ông Diệm lúc bấy giờ).
      Sau khi nhận được thư của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để gởi về đồng ư cho ông Ngô Đ́nh Diệm làm đại diện và lănh đạo một phong trào thân Nhật tại miền Trung, ông Tráng Liệt bèn đi với ông Nguyễn Bá Mưu đến gặp ông Diệm một cách bí mật và trao thư cùng giấy ủy nhiệm của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để cho ông ta. Ông Diệm vô cùng hân hoan, vội viết thư phúc đáp, tỏ lời cảm tạ và hứa sẽ hết ḷng phục mệnh Kỳ Ngoại Hầu. Ông Diệm lúc bấy giờ đang là một vị quan mất hết phẩm hàm, sống ẩn dật tại Huế.
      Ông Nguyễn Bá Mưu là anh vợ của tôi và bạn cùng sở với ông Tráng Liệt và ông Vơ Như Nguyện, lúc bấy giờ đều làm Phán sự ở Ṭa Khâm sứ Huế, ông Mưu đă có cảm t́nh với phong trào Cường Để từ lâu v́ ông với anh em ông Tráng Liệt đă là những bạn thân tri kỷ từ trước.
      Với tư cách là đại diện chính thức của tổ chức có thế yểm trợ quốc tế, lại được mang tính chính thống của ḍng họ nhà Nguyễn, ông Diệm mới bắt đầu dự trù những kế hoạch chính trị có tầm vóc toàn quốc hơn và có nội dung đấu tranh hơn.
      Khi ông Diệm từ quan (rồi mất hết phẩm hàm) vào năm 1933, trong gia đ́nh ông cũng đă có nhiều tranh luận sôi nổi, người theo, kẻ chống quyết định này. Dư luận trong giới quan trường tại Huế có xôn xao một dạo rồi biến cố đó cũng ch́m dần vào quên lăng: người th́ khen ông Diệm cứng rắn chống nhà nước Bảo hộ mà từ quan, người th́ cho rằng ông Diệm chống nhau với Thượng thư Phạm Quỳnh bị thua nên uất ức mà từ chức. Riêng ngoài quần chúng, ngay cả tại Huế, không mấy ai để ư đến chuyện lên voi xuống chó trong chốn Triều Trung v́ họ cho rằng Nam triều chỉ đóng vai bù nh́n của Pháp, việc lên hay xuống, ở hay đi của các vị quan lại chẳng qua là việc tranh giành địa vị, đua chen lợi danh chứ không ảnh hưởng ǵ đến chánh sách của Pháp, lại càng không ảnh hưởng ǵ đến đời sống quần chúng hay vận mệnh quốc gia. Thật vậy, kể từ ngày Kinh đô thất thủ (1885) làm cho vua Hàm Nghi bôn đào, rồi vua Thành Thái bị truất biếm, và nhất là kể từ khi vị vua trẻ tuổi Duy Tân mưu đồ cách mạng bị thất bại rồi cả ba vị vua Việt Nam bị Pháp bắt đi lưu đày, th́ người dân Huế đâm ra bi quan. Họ nh́n về tương lai mịt mù với tất cả chán chường và thất vọng. Họ nh́n rêu phủ trên thành quách, lau mọc bên bờ sông, trăng tàn trên nội điện mà cảm thương cho vận nước lao lung.
      Hầu như tất cả người dân xứ Huế đều thuộc ḷng 5 câu thơ mà sau này trở thành những câu ḥ rất phổ biến trong nhân gian:
      Chiều chiều trước bến Văn Lâu
      Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,
      Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
      Thuyền ai thấp thoáng bên sông?
      Đưa câu mái đẩy chạnh ḷng nước non.

      Họ mượn câu ḥ để ghi lại một biến cố đau buồn của lịch sử và đồng thời cũng để kư thác nỗi niềm tâm sự của ḿnh. Nỗi niềm thương tiếc một nhà vua yêu nước mà bị gian truân, một bậc trung thần can trường mà đầu rơi máu chảy, tâm sự của một người dân nh́n đất nước suy vong mà chỉ biết đưa câu mái đẩy để chạnh ḷng nước non!
      Họ lại càng trở nên chai lỳ hơn với những đổi thay của thời cuộc kể từ khi vua Khải Định hành xử như một tên Việt gian vô trách nhiệm, chỉ biết cúi đầu vâng dạ người Pháp để có cơ hội tiêu xài phung phí công quỹ. Từ đó về sau, người dân Huế xem những buổi tế lễ ở đàn Nam Giao, những buổi thiết triều trong Đại Nội với áo măo xênh xang, tiền hô hậu ủng cũng giống như những xuất hát bộ trên sân khấu của rạp hát bà Tuần. Họ sống với hiện tại nhưng ḷng th́ chỉ hoài niệm về quá khứ, một quá khứ mà quê hương c̣n vắng bóng ngoại nhân đô hộ, c̣n có vua quan là minh quân. V́ vậy, việc ông Diệm từ quan hay ông Quỳnh thắng thế không làm xúc động hay gây được sôi nổi trong đời sống vốn rất trầm mặc của họ.
      Mùa xuân năm 1942, khi những cơn sóng ngầm bắt đầu chuyển động trong sinh hoạt chính trị của người Việt th́ tôi được thuyên chuyển về Huế làm huấn luyện viên các lớp Hạ sĩ quan. Đối với tôi, về Huế là về kinh đô của quốc gia, là về với cung đài diễm lệ của trung tâm đất nước. V́ thuở thiếu thời chỉ biết lũy tre làng và đồng ruộng khô, thời niên thiếu th́ bận học hành, lớn lên gia nhập quân đội chỉ biết kỷ luật thép và hàng rào sắt, nên khi được đổi về Huế, tôi đă lợi dụng dịp này để ngao du khắp các ngơ ngách của kinh thành.
      Phong cảnh đất Thần kinh vừa u trầm cổ kính, vừa thơ mộng hữu t́nh rất phù hợp với tinh thần vốn bảo thủ và nặng ḷng hoài cổ của tôi. Những ngày nghỉ lễ, tôi thường lang thang đi bộ viếng thăm những danh lam thắng cảnh của kinh đô như hồ Tịnh Tâm, chùa Thiên Mụ, đàn Nam Giao, cửa Ngọ Môn, thôn Vĩ Dạ, vườn Ngự Viên, cầu Bạch Hổ, núi Ngự B́nh, chùa Diệu Đế, làng Kim Long, trường Quốc Tử Giám... ở đâu và lúc nào, tôi cũng t́m được những rung cảm tuyệt vời. Từ tiếng chuông thu không của những buổi chiều bảng lăng đến tiếng ḥ năo nùng trong sương mờ của buổi sáng sông Hương, từ cô gái giặt áo ở mặt nước ven sông đến tà áo tím Đồng Khánh của mùa thu tan trường về, từ hàng cau thôn Vĩ đến tiếng thông reo đỉnh Ngự, tất cả đều có sức thu hút lạ lùng và đều để lại trong tâm tưởng tôi những h́nh ảnh không quên. Lần băng cầu Ḷ Rèn để đi Phú Cam , tôi đi qua nhà ông Diệm và thầm cảm phục vị Thượng thư đầu triều, tuy c̣n trẻ tuổi mà không màng danh lợi, dám cởi áo từ quan trong giai đoạn mà nhiều người bán hết gia tài để mua chút phẩm hàm, hoặc dâng vợ cho giặc để kiếm chức tri huyện.
      Đời sống của tôi tại Trung tâm Huấn luyện Hạ sĩ quan càng ngày càng trở nên căng thẳng và bực bội. Những va chạm với những quân nhân Pháp trong lúc điều hành công tác giảng huấn, những hành vi hống hách kỳ thị của họ đối với quân nhân Việt Nam, những áp bức và bất công trong đời sống trong và ngoài doanh trại, và nhất là thái độ khúm núm sợ hăi đến độ tội nghiệp của một số đồng ngũ người Việt Nam... như biến thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước của thời thơ ấu thôn quê của tôi, mà chết chóc, đốt phá, hăm hiếp, tù đày do người Pháp và tay sai của họ gây ra đă chồng chất bấy lâu nay.
      Cho đến một hôm vào tháng 6 năm 1942, tôi đang dạy tác chiến cho một trung đội khóa sinh tại chân núi Ngự B́nh th́ ông Trần Văn Dĩnh (sau này là Giám đốc Thông tin dưới thời ông Diệm và hiện đang sống tại Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ [8]) và một người lạ mặt đến thao trường xin gặp tôi. Ông Dĩnh tự giới thiệu tên họ của ḿnh và người lạ mặt (mà bây giờ tôi mới nhớ ra tên Nguyễn Huy Tuân), một công chức của Chính phủ Bảo hộ.
      Ông Dĩnh đặt ra một số vấn đề thời sự để thẩm định ḷng yêu nước và quyết tâm dành độc lập cho nước nhà của tôi, rồi phân tích t́nh h́nh chính trị thế giới và Việt Nam cho tôi nghe để đi đến kết luận là chế độ bảo hộ của Pháp tại Việt Nam thế nào cũng phải chấm dứt và Việt Nam thế nào cũng được độc lập. Tuy c̣n trẻ, nhưng ông lư luận rất khoa học và ông đặt vấn đề rất đúng đắn, cách tŕnh bày của ông, tuy rất tổng quát, nhưng lại phù hợp hoàn toàn với những suy tư của tôi từ lâu.
      Trả lời thắc mắc v́ sao ông biết tôi và dám đến để làm công tác tuyên truyền này th́ ông cho hay là đă điều nghiên và thiết lập được danh sách những quân nhân Việt Nam tại Huế từng chứng tỏ có ḷng yêu nước và dám xả thân chống Pháp. Trước khi về, ông khuyên tôi nên gia nhập một tổ chức đấu tranh để đi vào hoạt động cách mạng và hẹn gặp tôi vào một dịp khác chưa định trước được.
      Ngay tối hôm đó, tôi liền đến nhà ông Nguyễn Bá Mưu kể rơ lại trường hợp gặp gỡ và nội dung buổi nói chuyện. Nghe tôi nhắc đến tên ông Trần Văn Dĩnh, anh vợ tôi cười rồi cho biết rằng tuy chưa quen Dĩnh nhưng ông biết Dĩnh là em ruột ông Trần Văn Hướng, con của cụ Tú Trần Văn X, và cũng như ông, cả ba cha con đều ở trong phong trào ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để do ông Diệm lănh đạo. Nghe anh tôi nói rơ, tôi mới yên tâm v́ trong ḷng vẫn ngại Dĩnh là nhân viên trá h́nh của sở Mật thám Pháp.
      Mấy tuần sau, cũng tại chân núi Ngự B́nh, Dĩnh lại t́m đến gặp tôi. Lần này th́ Dĩnh cho biết thẳng là đang làm việc cho ṭa Lănh sự Nhật Bản tại Huế và hoạt động rất an toàn v́ được cơ quan Hiến binh của Nhật (lúc bấy giờ đóng ở trường trung học Hồ Đắc Hàm cũ) bảo vệ kỹ càng. Trong lần nói chuyện này, chúng tôi thảo luận sâu xa hơn nhưng rơ ràng là Dĩnh t́m cách tác động tinh thần yêu nước chống Pháp của tôi mà cụ thể là theo Nhật để đánh đổ Pháp. Theo Dĩnh th́ thế nào Nhật cũng đảo chánh Pháp và cả vua Bảo Đại, để đưa Kỳ Ngoại Hầu về nước cầm chính quyền với ông Diệm làm Thủ tướng Chính phủ.
      Vốn đă được nghe anh vợ tôi phân tích t́nh h́nh chính trị đương thời trong chiều hướng đó với những triển vọng thật lạc quan, lại đang ẩn ức v́ cứ phải ôm những hoài băo của ḿnh trong ḷng mà vẫn phải làm việc chung với người Pháp, nay nghe Dĩnh phân giải và thúc đẩy hoạt động với một sách lược cụ thể trong một tổ chức có thật, tôi rất xúc động và hứa sẽ cùng hoạt động với ông ta. Tôi liền được Dĩnh trao cho công tác bí mật theo dơi hoạt động của những sĩ quan Pháp trong đơn vị của tôi, theo dơi số lượng vũ khí xuất nhập kho và t́m cách kết nạp thêm nhiều đồng chí khác.
      Sau một vài lần nữa tiếp xúc với Dĩnh, cuối cùng tôi được anh vợ tôi và ông Tráng Liệt giới thiệu tôi vào tổ chức của ông Ngô Đ́nh Diệm. Lúc đó là vào mùa thu năm 1942.
      Anh vợ tôi mà một số các vị Mục sư Tin Lành (hiện sống ở Los Angeles) cũng như ông Vơ Như Nguyện (hiện đang sống tại Mỹ) đều biết là một người tính t́nh ngay thẳng, cương nghị và có chí lớn. V́ nhà nghèo, nên sau khi đỗ bằng Thành Chung, ông bèn thi vào ngạch Thư kư ṭa Sứ để có phương tiện sinh sống. Vừa mới có đứa con đầu ḷng (sau này là cố Chuẩn tướng Nguyễn Bá Liên) được 15 ngày th́ vợ chết, ông rất buồn nên t́m nguồn an ủi trong giáo lư của đạo Tin Lành. Thân phụ của ông là cụ Nguyễn Bá Dĩnh, đỗ Cử nhân và được bổ làm Tri huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An. Được mấy năm, chán cảnh quan trường, lại bất măn v́ triều đ́nh bất lực trước ngoại nhân, cụ từ quan về làng mở trường dạy học sống cảnh an bần lạc đạo. Người con gái đầu của Cụ, tức là chị ruột của ông Nguyễn Bá Mưu, lấy người con trai của cụ Cử Lưu Trọng Kiến ở huyện Bố Trạch, vốn là thân phụ của hai thi sỹ Lưu Kỳ Linh và Lưu Trọng Lư, mà người em đă đi vào lịch sử thi văn nước nhà với bốn câu thơ bất hủ [9]:
      Em không nghe mùa thu
      Lá thu rơi xào xạc
      Con nai vàng ngơ ngác
      Đạp trên lá vàng khô...

      C̣n thân phụ tôi tuy không đỗ đạt cao nhưng cũng có công dùi mài kinh sử nên người trong huyện gọi là ông “Đầu Xứ”, c̣n chú tôi th́ vào đến Tam Trường mới hỏng cho nên nơi hương đẳng đ́nh trung cũng được liệt vào hàng những nhà Nho trọng vọng. V́ thế, cụ cử Nguyễn Bá Dĩnh và gia đ́nh tôi trở nên bằng hữu thân thiết trong khung cảnh của một làng quê nghèo nàn nhưng nề nếp. Lạ ǵ thanh khí lẽ hằng, cụ Cử và cha chú tôi vốn là những môn đồ Khổng Mạnh vào cái thời mà văn minh Tây phương đang công phá những thành tŕ văn hóa và chính trị cuối cùng của nếp sống nho phong, nên trở thành bạn tâm giao tri kỷ một cách dễ dàng, và cũng nhờ đó mà hai nhà mới trở thành thông gia và tôi trở thành em rể của ông Nguyễn Bá Mưu.
      Một mặt nhờ gịng máu bất khuất của tổ tiên, mặt khác nhờ tấm gương sĩ khí của nhạc gia và anh vợ, nhưng sâu sắc nhất là nhờ làm việc trực tiếp với quân đội Pháp nên càng ngày tôi càng thấy rơ chính sách hà khắc và thâm độc của người Pháp, cũng như thái độ ḷn cúi nhục nhă của quan lại An Nam. Chính những sinh họat thực tế hàng tháng, hàng ngày, hàng tuần đó... chính những chứng kiến trong công việc, trong đời sống đó... đă nẩy mầm và nuôi dưỡng trong tâm hồn tôi cái quyết tâm khước từ và chống lại sự cai trị của một chính quyền ngoại nhân trên đất nước. V́ thế khi ông Tráng Liệt và ông Trần Văn Dĩnh tổ chức tôi vào phong trào của cụ Cường Để với mục đích tối hậu là giành lại độc lập và chủ quyền cho quốc gia trong tay chính quyền Pháp th́ tôi hăng hái nhận lời gia nhập ngay, dù ư thức được rằng là một quân nhân, nếu bị Pháp khám phá ra, tôi có thể mang tội tử h́nh như một số quân nhân khác trong phong trào “Đầu độc Hà thành”, trong vụ “Khởi nghĩa Yên Bái”, trong vụ “Đội Cung ở Nghệ An”...
      Lúc bấy giờ, ư thức đấu tranh cách mạng hay quan niệm một đảng đấu tranh cách mạng, đối với tôi, không phải là nhu cầu cấp bách nhất. Quyết định của tôi chỉ được vận động bằng t́nh cảm căm thù Pháp đô hộ và chỉ bằng t́nh cảm đó mà thôi, nên bất kỳ một tổ chức nào, Việt Quốc, Tân Việt hay ngay cả đảng Cộng Sản, nếu đến tuyên truyền và kết nạp, tôi cũng sẵn sàng gia nhập ngay.
      *Thế rồi vào một đêm mưa phùn gần cuối năm 1942, khoảng 11 giờ khuya, ông Tráng Liệt đến nhà tôi và rủ đi gặp ông Ngô Đ́nh Diệm. Chúng tôi đi dọc theo tả ngạn sông Hương hướng về phía Phú Cam và dừng lại trước ngôi nhà cổ kính, từ đường của gia tộc Ngô Đ́nh.
      Được người vào báo, ông Diệm ra tận bậc cấp trước cửa nhà để đón chúng tôi. Đó là lần đầu tiên tôi gặp ông Diệm. Ông rất trẻ so với tước vị và những huyền thoại về ông. Dù đă khuya, ông vẫn mặc áo lương, khăn đóng, giày hạ, ra mời chúng tôi vào pḥng khách chính, nơi có bộ bàn ghế mây xưa mà chú Phẩm, người đầy tớ trung thành của ông, đă dọn ra ba chén nước chè xanh để mời khách.
      Dưới ngọn đèn mờ, trong một pḥng khách cổ kính, trước một nhân vật đă từng là Thượng thư đầu triều, đă từng cởi áo từ quan, và bây giờ đang thay mặt Kỳ Ngoại Hầu Cường Để cầm đầu một tổ chức chống Pháp, tôi có cảm tưởng như ḿnh lạc vào một thế giới khác, xa lạ hẳn với thực tế sôi động của t́nh h́nh đất nước. Sau khi mời chúng tôi dùng nước chè xanh, ông Diệm bắt đầu hỏi về gia thế và sinh hoạt của tôi, cũng như hỏi về đời sống và tinh thần của quân nhân Việt Nam trong mối tương quan với quân nhân Pháp.
      Có lẽ nhờ đă được ông Tráng Liệt giới thiệu trước về hoàn cảnh và ước vọng của tôi cũng như có lẽ nhờ có người anh vợ của tôi vốn đă là thành viên trong tổ chức, nên sau phần mở đầu đó của câu chuyện, ông Diệm tỏ ra tin tưởng và thân t́nh với tôi hơn. V́ vậy, ông bắt đầu kể chuyện đời ông như để trang trải tâm sự hơn là để khoe khoang nhằm thuyết phục: ông nói nhiều về giai đoạn ông làm Tri huyện rồi Tri phủ mà công tác chính là cùng với các trưởng đồn người Pháp đi thanh sát ở làng quê, hoặc khám phá và lùng bắt những tổ chức Cộng sản thời 1929-30 khi phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bị đàn áp. Ông cũng tŕnh bày chuyện ông từ bỏ quan trường v́ người Pháp đă không thực tâm khai hóa nhân dân Việt Nam. Cuối cùng, ông đi vào trọng tâm của buổi nói chuyện là khơi dậy ḷng yêu nước, nung nấu chí căm thù thực dân và tay sai như Bảo Đại và ba ông Thượng thư đồng triều mà ông thù ghét nhất, là Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản và Hồ Đắc Khải. Ông cũng đề cập đến cuộc đời và con đường hoạt động của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và của cụ Phan Bội Châu để kết thúc câu chuyện đă quá dài.
      Suốt buổi gặp gỡ, ông Tráng Liệt và tôi nghe nhiều hơn nói. Riêng tôi, tuy có ư chờ ông tŕnh bày về tổ chức mà ông đang phụ trách nhưng v́ ông không đề cập đến nên tôi cũng chưa tiện hỏi. Đêm đă quá khuya, ông Tráng Liệt bèn xin phép ra về. Ông Diệm tiễn chúng tôi ra tận cửa, hẹn gặp lại tuần sau và dặn kỹ không nên vào bằng cửa chính để tránh sự theo dơi của mật thám Pháp mà nên đi bằng cửa bí mật ở vườn sau gần đường xe lửa, lối vào chỉ có một số đồng chí được ông cho biết mà thôi.
      Trên đường về, trong cái rét buốt của xứ Huế buổi trọng Đông, tôi cảm thấy xúc động lạ thường v́ buổi gặp gỡ đó. Buổi gặp gỡ mà tôi cho như là một xác tín cá nhân về tư cách của một đảng viên trong một phong trào cách mạng, có một lănh tụ thuộc gia đ́nh vọng tộc đă dám từ quan để đấu tranh cho quê hương dân tộc. Trong cái tâm trạng mang mang của một người từ nay có một tổ chức để nương dựa, có một lănh tụ để được hướng dẫn, có một lư tưởng để đấu tranh, tôi vẽ ra cho ḿnh những ước mơ sáng tươi trong cái tươi sáng chung của tương lai dân tộc.
      Từ đấy, hầu như mỗi tuần lễ tôi đều đến ngôi nhà ở Phú Cam, vốn được xem như trụ sở trung ương của tổ chức, để sinh hoạt và thảo luận cùng ông Diệm và các đồng chí của ông. Trong số này có hai người cốt cán là ông Hoàng Xuân Minh làm Tham tá ở ṭa Khâm sứ Huế và ông Nguyễn Tấn Quê làm thư kư cho sở Mật thám Trung kỳ. Hai người này đặc biệt được ông Diệm trọng vọng và tin tưởng, nhất là ông Nguyễn Tấn Quê, tuy chỉ mới đỗ Trung học nhưng là người được ông Diệm xem như mưu sỹ chính.
      Sau gần nửa năm hoạt động với ông Diệm và các đồng chí, tôi đi đến nhận xét rằng sinh hoạt và phương thức tổ chức của nhóm về mặt nội dung lẫn cơ cấu có vẻ là một phong trào chính trị hơn là một đảng cách mạng chặt chẽ. Nhóm không có một hệ thống tổ chức với các cơ cấu và chức năng rơ ràng, không có chủ thuyết chỉ đạo cũng như không có một sách lược đấu tranh với các kế hoạch giai đoạn nhất định. Tại các tỉnh, và đặc biệt tại Huế, bất cứ ai đồng ư chung chung với chủ trương thân Nhật và kính phục ông Diệm th́ đều có thể gia nhập phong trào của ông. [10]
      Nói tóm lại, ngay từ lúc đó, tôi đă đánh giá được bản chất của tổ chức là một bản chất chính trị vận dụng chứ không phải cách mạng đấu tranh như các đảng khác. Tổ chức đó được kết tinh sau lưng uy tín của một lănh tụ và hoạt động theo sự biến chuyển của t́nh thế.
      Dù nhận định như vậy, tôi vẫn quyết định hợp tác với ông Diệm v́ lư do t́nh cảm nhiều hơn là v́ chọn lựa chính trị có ư thức. Công tác của tôi được ông Diệm giao phó là tổ chức một lực lượng quân nhân Khố xanh trong khắp các cơ binh thuộc xứ Trung kỳ, bao gồm từ Thanh Hóa vào đến Phan Thiết và các tỉnh Cao Nguyên. Về quân nhân Khố đỏ th́ do Thiếu úy Phan Tử Lăng đang phục vụ trong thành Mang Cá ở Huế phối hợp với ông Đội khố đỏ Nguyễn Vinh (mà sau này, khi ông Diệm mới chấp chánh, là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Danh dự, tiền thân của Liên binh Pḥng vệ Tổng Thống phủ) phụ trách việc liên lạc và thông tin các cơ sở quân sự đóng tại Huế và Phú Bài.
      Đặc biệt ông Diệm giao cho tôi thảo một kế hoạch hoạt động chi tiết để phối hợp với quân đội Nhật Bản khi nào Nhật làm cuộc đảo chánh tấn công quân Pháp, và một dự án dài hạn khác về việc tái tổ chức quân đội Bảo An cho quốc gia sau khi Hoàng thân Cường Để lấy lại chính quyền trong tay người Pháp. Hai dự án này, nhờ sự hội ư của hai ông Hoàng Xuân Minh và Nguyễn Tấn Quê, và nhất là nhờ được sử dụng những tài liệu quốc pḥng của Pháp tại Trung tâm Huấn luyện, đă được tôi hoàn tất đúng kỳ hạn và tŕnh cho ông Diệm nghiên cứu. Độ hai tuần sau ông cho biết là đă đọc kỹ và đồng ư hoàn toàn.
      Nhờ uy tín và vị thế huấn luyện viên của các khóa hạ sỹ quan, tôi thiết lập được liên lạc và tổ chức một hệ thống các tổ gồm từ 5 đến 7 người trong suốt 20 cơ binh của miền Trung. Những học tṛ, những bạn bè của tôi được tổ chức vào phong trào Cường Để do ông Diệm lănh đạo, nhiều người được các ông Vơ Như Nguyện, Trần Văn Hướng hay Phùng Ngọc Trưng hiện ở hải ngoại biết rơ.
      Ngoài ra, lợi dụng 15 ngày nghỉ phép thường niên của tôi, ông Diệm c̣n giao cho tôi công tác đi khắp các tỉnh Trung Kỳ để liên lạc với các đồng chí có uy tín và thực lực khác. Tôi đă từng đi Thanh Hóa liên lạc với cụ Nguyễn Trác (là thân phụ của kỹ sư Nguyễn Luân và cũng là nhạc phụ của luật sư Nghiêm Xuân Hồng một nhân sỹ có tinh thần cách mạng đă từ chức Tri huyện để hoạt động) đi Hà Tĩnh liên lạc với ông Trần Văn Lư đang làm Tuần vũ tại đây, đến Quy Nhơn gặp bác sỹ Lê Khắc Quyến, đến Phan Thiết gặp ông Trần Tiêu, một người đồng hương đang giữ chức Kinh lịch, v.v...
      Nhờ những chuyến đi này và kinh qua những lần tiếp xúc với các vị đàn anh, tôi được học hỏi nhiều thêm về ư thức chính trị và khả năng phân tích t́nh h́nh. Cũng nhờ những chuyến đi này, tôi được biết không những người trong giới quan lại ủng hộ ông Diệm, đặc biệt là cụ án sát Phan Thúc Ngô ở Quảng B́nh, mà c̣n có một số trí thức tân học, tuy không ở trong phong trào, nhưng cũng có cảm t́nh với ông Diệm như bác sỹ Ung Vi ở Phan Thiết hay kỹ sư Đặng Phúc Thông ở Nha Trang. (Kỹ sư Thông sau này giữ chức Bộ trưởng Công Chánh một thời gian ngắn trong Chính phủ đầu tiên của Việt Minh)...
      Ngoài hai công tác chính này, riêng tại Thừa Thiên, tôi cũng đă đẩy mạnh công tác kinh tài cho tổ chức bằng cách tuyên truyền và vận động một số các thương gia giàu có t́nh nguyện đóng góp cho ông Diệm. Có người đóng góp 4 đồng bạc Đông Dương mỗi tháng, riêng có một vị lương y (là thân phụ của Trung Tá Nguyễn Mễ, hiện ở Mỹ) t́nh nguyện đóng góp hết 6 đồng (mỗi đồng bạc Đông Dương vào thời đó, có giá trị rất lớn. Một kí gạo chỉ 25 xu).
      Trong suốt thời gian này, không bao giờ tôi thấy ông Diệm rời khỏi Huế cũng không bao giờ thấy ông xuất hiện hoạt động trong giới chính trị công khai hoặc bí mật. Hàng ngày ông đi lễ nhà thờ và buổi chiều thường mặc áo lương đen đi lang thang một ḿnh dọc bở sông Phú Cam để hóng mát. Cũng trong suốt thời gian này (cho đến năm 1948), dù thường đến nhà ông Diệm tôi cũng không hề thấy mặt ông Ngô Đ́nh Cẩn. Tôi gặp ông Nhu hai lần: một lần vào năm 1943 trong dịp tang lễ của cụ Thân Thần Tôn Thất Hân (khi tôi dẫn trung đội lính đi dàn chào lúc làm lễ động quan), và lần thứ hai, gặp cả hai vợ chồng tại văn pḥng Văn Khố ṭa Khâm sứ Huế khi tôi đến thăm ông Tráng Liệt. Ông Tráng Liệt cho biết cứ hai hay ba ngày, bà Nhu lại đến văn pḥng chồng để gặp gỡ và nói chuyện. Bà Nhu đến bằng xe kéo gọng vàng do một người đầy tớ thân tín và lực lưỡng kéo. Xe kéo của bà Nhu là một trong những chiếc xe sang nhất ở Cố Đô mà các cậu Ấm và cô Chiêu trong triều đ́nh nhà Nguyễn thường dùng để di chuyển trong thành phố.
      Về trường hợp ông Nhu, ông Diệm thường dặn ḍ chúng tôi: “Chú ấy theo Tây, ham ăn sung mặc sướng, không thiết ǵ đến chính trị hay cách mạng đâu, các ông chớ nên gặp gỡ hay thân thiết với chú ấy làm ǵ”. Lúc đầu chúng tôi thực sự ngạc nhiên v́ lời dặn ḍ lạ lùng đó, tự hỏi tại sao anh th́ muốn làm cách mạng mà em th́ lại hủ hóa như vậy; nhưng từ từ chúng tôi mới hiểu được rằng lời dặn ḍ đó là một trong những biện pháp an ninh phát xuất từ t́nh cảm gia đ́nh mà ông Diệm chỉ muốn một ḿnh chịu trách nhiệm và hậu quả về hoạt động thân Nhật và chống Pháp của ông, chứ không muốn làm liên lụy cả gia đ́nh. Hơn nữa, ông Nhu vừa mới ở Pháp về, và cũng vừa lập gia đ́nh với một người vợ c̣n son trẻ (bà Nhu sinh năm 1924) của Hà thành hoa lệ, ông ta cần có thời gian để củng cố địa vị của một công chức Bảo hộ cao cấp và củng cố đời sống gia đ́nh mà người vợ vốn quá tự do tân thời, tự thấy bị tù túng mà lại c̣n phải ganh đua giữa một kinh kỳ có nhiều mệnh phụ quư phái.
      Cuối năm 1943, những hệ quả chính trị và kinh tế của đệ nhị thế chiến thật sự ảnh hưởng đến hoạt động và đời sống hàng ngày của những người như tôi. Giá sinh hoạt leo thang vùn vụt, đồng bạc Đông Dương bị mất giá thảm hại, gạo từ 25 xu lên đến một đồng một kư khiến lương hàng tháng 40 đồng của một quân nhân trung cấp như tôi quả thật không đủ cho tiểu gia đ́nh tôi đủ sống. V́ vậy, và cũng v́ không muốn vướng bận thê nhi trong hoạt động đấu tranh của ḿnh, tôi đă phải bùi ngùi quyết định cho vợ tôi và hai đứa con trai nhỏ về quê sống với bên ngoại. Về quê, tuy đời sống thanh đạm và thiếu thốn hơn, tuy có phải tảo tần cực khổ một nắng hai sương nhưng ít ra vợ con tôi c̣n có một mảnh vườn để trồng rau cỏ, một hồ nước có tôm cá, một rừng tràm có củi nứa và nhất là có bà con thân thuộc để có thể đắp đổi sống qua ngày. Buổi biệt ly, nh́n chiếc xe đ̣ cũ kỹ chập chùng đưa vợ con về cố quận thân thương, người cán bộ 26 tuổi đời như tôi không khỏi có một chút xao xuyến xót xa. Được biết quyết định đó của tôi, ông Diệm hân hoan lắm và khen tôi làm cách mạng th́ phải biết hy sinh cá nhân, phải biết thoát ly gia đ́nh để có nhiều th́ giờ và năng lực cống hiến cho đại cuộc.
      Đại cuộc đó, hay nói đúng ra là những vận động chính trị của nhóm ông Diệm trong khuôn khổ cuộc tranh chấp ảnh hưởng giữa Nhật và Pháp tại Việt Nam, vẫn tiếp tục thăng trầm theo nhịp độ thắng hay bại của phía người Nhật. Quân đội Nhật Bản, chiến thắng oanh liệt trong những năm đầu của thế chiến, từ cuối năm 1943 trở đi, đă trở về thế pḥng ngự thụ động. Và tại các mặt trận lớn ở Ấn Độ, Miến Điện, Nam Dương... quân Nhật hứng chịu những thất bại quân sự nặng nề đến nỗi phải rút lui ra khỏi những quốc gia bị chiếm đóng... Đầu xuân năm 1944, chuyện phải đến đă đến, mật thám Pháp và Thượng thư Phạm Quỳnh tổ chức vây bắt ông Diệm mà nếu không nhờ Hiến binh Nhật, với khả năng t́nh báo của sở gián điệp Kempeitai, kịp thời can thiệp để cứu thoát trong đường tơ kẽ tóc th́ có lẽ sinh mạng và chính tổ chức của ông Diệm đă không c̣n.
      Nguyên tổ chức có một đồng chí tên là Khang làm thư kư ở sở Bưu điện Huế, đêm đó trực ở pḥng điện tín đến khuya mà vẫn c̣n thấy viên trưởng sở bưu điện người Pháp ở lại đích thân thảo và đánh điện tín, ông bèn t́m cách lén đọc được một số công điện mà trong đó có công điện mang nội dung về việc bắt ông Diệm. Ông liền thông báo cho một anh em có liên hệ đến bên t́nh báo của Nhật biết tin này. (Cũng có thể có nhiều đường giây khác nữa mà tôi không được biết).
      Khoảng gần 11 giờ đêm th́ ba người Hiến binh Nhật Bản đến nhà ông Diệm ở Phú Cam và độ nửa giờ sau th́ họ ra về trước cặp mặt xoi mói của nhân viên mật thám Pháp đang canh chừng nhà ông Diệm. Măi đến quá nửa đêm, các nhân viên mật thám Pháp mới bố trí xông vào nhà bắt ông Diệm nhưng họ chỉ gặp được bà cụ thân mẫu của ông, người đầy tớ tên Phẩm và một người hiến binh Nhật Bản... Th́ ra ông Diệm, vốn người thấp lùn, nên đă giả trang mặc quân phục Hiến binh trốn theo cùng với hai người hiến binh Nhật kia ra đi từ lâu, làm mất công viên chánh sở mật thám Đông Dương là Pierre Arnoux từ Hà Nội vào đích thân điều khiển công tác vây bắt nhân vật thân Nhật Bản quan trọng nhất tại Trung Kỳ. Nhóm mật thám Pháp dọa dẫm bà cụ thân mẫu ông Diệm, tra tấn anh Phẩm một hồi rồi hậm hực ra về.
      Hiến binh Nhật đưa ông Diệm về tạm trú tại ṭa Lănh sự Nhật của ông Ishida [11] vài tiếng đồng hồ rồi chở ông đến thẳng trụ sở Hiến binh tại trường Hồ Đắc Hàm cũ để được an toàn hơn và để tránh những va chạm ngoại giao có thể có với người Pháp. Cụ Thái Văn Châu (nguyên Phó chủ tịch Pḥng Thương mại Sài G̣n và hiện tị nạn tại Pháp), lúc bấy giờ là một thương gia có khuynh hướng thân Nhật và đang được đấu thầu cung cấp thực phẩm cho quân đội Nhật, biết tin nên vội vàng vào thăm và mang một ít đ̣n chả Huế cho ông Diệm dùng chung với khẩu phần đạm bạc tại sở Hiến binh Nhật. Theo lời cụ th́ ông Diệm có vẻ suy tư và nỗi lo âu lộ hẳn ra mặt.
      Được vài ngày, người Nhật liền hộ tống ông Diệm bằng ô tô nhà binh vào Đà Nẵng và từ đó chở ông bằng phi cơ quân sự vào Sài G̣n. Ban đầu họ để ông tạm trú tại trụ sở trung ương của sở Hiến binh Nhật, sau đó họ di chuyển ông đến văn pḥng chính của Đại Nam Công ty, vốn là bề mặt ngụy trang của Bộ chỉ huy trung ương của ông Matsuisita, trùm gián điệp của Nhật tại Đông Dương. Thời ông Diệm làm Tổng thống, ông Matsuisita trở lại miền Nam Việt Nam làm ăn buôn bán và đă giúp ông Diệm rất đắc lực trong quan hệ ngoại thương giữa VNCH và Nhật Bản. Sau ngày chế độ ông Diệm bị toàn dân lật đổ, ông Matsuisita bị Hội Đồng Tướng Lănh làm khó dễ trong vấn đề tài sản và các thương vụ của ông tại Sài G̣n, nhưng v́ nghĩ t́nh xưa giữa ông Diệm và ông ta, tôi đă t́m cách can thiệp và giúp đỡ.
      Sau ngày ông Diệm bị bắt hụt và được Nhật che chở mang đi mất vào Sài G̣n, viên chánh sở mật thám Trung Kỳ Perroche, vốn cụt một tay và nổi tiếng tàn ác, bắt đầu nghi ngờ có nhân viên ch́m của ông Diệm trong sở mật thám Huế, bèn yêu cầu với trung ương cho biệt phái ông Lombert, viên chánh sở mật thám Vinh vốn thông thạo về t́nh h́nh đảng phái và nhân sự Việt Nam, vào Huế và thành lập một ủy ban đặc nhiệm phụ trách điều tra “vụ án Ngô Đ́nh Diệm”. Ông Hoàng Đồng Tiếu, (hiện ngụ tại Portland, tiểu bang Oregon), lúc bấy giờ c̣n đang có cảm t́nh với cá nhân ông Diệm và đang làm phán sứ tại sở mật thám Huế, tuy có thông báo sự kiện này cho một số người trong tổ chức ông Diệm biết, nhưng cũng không tránh khỏi t́nh trạng một số chiến hữu lần lượt bị sa lưới mật thám Pháp.
      Trước hết là cụ Án Sát Phan Thúc Ngô bị lột chức và bắt giải vào giam ở Huế, rồi đến ông Tuần vũ Hà Tĩnh Trần Văn Lư suưt bị bắt nhưng nhờ có bà vợ là bà con gần với Nam Phương Hoàng Hậu nên chỉ bị hạ tầng công tác, thuyên chuyển vào Phú Yên và vĩnh viễn không được đề nghị thăng thưởng. Ông Vơ Như Nguyện và ông Lương Duy Uỷ (sau này làm tỉnh trưởng Phú Yên và Vĩnh B́nh dưới thời ông Diệm), hai đồng chí thân thiết nhất với tôi lúc bấy giờ, cũng bị bắt đày lên Dakto. Ngoài ra, một số các đồng chí khác tại Huế và các tỉnh Trung Kỳ, người th́ vào ṿng lao lư, người th́ bị truy lùng.
      Về phía quân nhân bên Khố đỏ chỉ có mấy người Đội cao cấp bị bắt giữ, c̣n bên Khố xanh, từ Thanh Hóa vào đến Phan Thiết, bị mật thám Pháp bắt giữ rất nhiều. Có người bị tra tấn đến gẫy cả hai hàm răng và xương quai hàm như anh đội Lộc ở Phú Bài, có người bị đánh què chân như anh đội Xự ở Quảng Trị. Đa số các hạ sĩ quan Khố xanh bị bắt và giam tại các nhà lao Bái Thượng ở Thanh Hóa, nhà lao Lao Bảo ở Quảng Trị hoặc tại các nhà lao khác ở Cao nguyên Trung phần. Riêng phần tôi, v́ là người lănh đạo toàn bộ nhóm quân nhân Khố xanh nên bị bắt giam và tra tấn tàn bạo ở sở mật thám Huế và tống giam ở lao Thừa phủ gần hai tháng, trước khi bị đày lên Di Linh để biệt giam trong một nhà lao do lính Thượng canh giữ.
      Đầu năm 1945, quân đội Nhật Bản bị phản công và bị dồn vào thế tuyệt vọng tại các mặt trận Trung Hoa cũng như trên các tuyến pḥng vệ Đông Nam Á. Trong khi đó, trên chiến trường Âu Châu, sau cuộc đổ bộ ngày 6/6/1944 tại bờ biển Normandie của quân lực Đồng Minh, tướng De Gaulle dẫn toàn bộ Chính phủ lâm thời từ Alger trở về Pháp nắm chính quyền vào tháng 8 cùng năm đó.
      Trên mặt trận Thái B́nh Dương, tướng Mac Arthur đă chiếm xong Phi Luật Tân và đang tung quân tấn chiếm các quần đảo pḥng vệ chiến lược của xứ Phù Tang, yểm trợ cho một kế hoạch tái chiếm Đông Dương của liên quân Anh-Pháp. Trước nguy cơ có thể bị nội công ngoại kích đó, quân đội Nhật Bản tại Việt Nam bèn đảo chánh chính quyền Pháp vào đêm 9/3/1945, bắt toàn quyền Decoux và thiết lập nhiều trại tập trung để giam giữ công chức và quân nhân Pháp tại nhiều địa điểm trên toàn lănh thổ Đông Dương. Tại Bắc Kỳ, một số đơn vị Pháp chống lại cuộc đảo chánh này đều bị đàn áp, kẻ th́ bị bắt, kẻ th́ trốn qua Tàu.
      Thế là sau gần 100 năm đô hộ Việt Nam, tiến hành một chính sách thực dân tàn ác để khai thác tối đa tài nguyên và nhân lực của nước ta, tiến hành một chính sách xâm lược văn hóa xảo quyệt để phá nát truyền thống của dân ta, tiến hành một chính sách cai trị dựa trên bạo lực và phân hóa, chỉ cần một đêm và một đêm thôi, toàn thể bộ máy thống trị của Pháp hoàn toàn bị sụp đổ. Huyền thoại về “nhiệm vụ khai hóa” đầy nhân đạo của các quan toàn quyền và các vị cố đạo theo lá cờ Tam tài rơi rũ xuống đất.
      Biến cố lịch sử đêm mồng 9/3/1945, và nhất là hai ngày sau đó, khi vua Bảo Đại tuyên bố “Việt Nam độc lập” trong khối “Thịnh vượng chung Đại Đông Á”, dù không phải là kết quả của một cuộc đấu tranh thực sự do người Việt chủ xướng, dù sau đó sẽ đưa Việt Nam đến một chân trời đầy lọc lừa và cạm bẫy, đầy máu và nước mắt, đầy đau đớn và tủi nhục, nhưng ngày đó, tự nó, có một ư nghĩa lịch sử lớn như một trở ḿnh của lịch sử, có tác dụng mạnh trong sự thức tỉnh sảng khoái của nhân dân cả nước sau 100 năm dài ch́m đắm trong giấc mộng bị trị hăi hùng.
      Tôi xin trích lại ở đây một đoạn hồi kư của một nhân chứng đă sống trong ngày đó và đă bộc bạch một cách thành thật tâm sự của ḿnh trước, sau và trong ngày đó. Chứng nhân này là ông Lư Chánh Trung, một tri thức Công giáo, từ sau 1975 đă ở lại Việt Nam làm việc cho chính quyền Hà Nội. Hồi kư đó được trích từ tác phẩm “T́m về Dân tộc”, xuất bản tại Sài G̣n vào năm 1967. Tôi cũng cần phải nói rằng với tư cách một người đă chống lư thuyết và chế độ Cộng sản từ 30 năm* nay bằng chính máu xương của ḿnh, với tư cách là người đă từng cầm đầu một bộ phận về an ninh đối đầu với người Cộng Sản, với tư cách là chiến hữu, đồng chí, bạn bè của những nhân vật Việt Nam đă từng là nguyên thủ của hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Ḥa, ở vào thời điểm nầy, trong buổi hoàng hôn của cuộc đời nơi xứ lạ quê người, khi đọc hai tác phẩm “T́m về Dân tộc” và “Tôn giáo và Dân tộc” của Lư Chánh Trung, tôi vẫn không giám quả quyết ông Trung có thật tâm theo cộng sản hay không? Cũng như tôi vẫn không giám quả quyết là những người như ông Trung, suốt chiều dài của cuộc chiến 30 năm Quốc-Cộng, dù đứng bên này hay bên kia chiến tuyến, có thật sự là đă có tự do và sáng suốt để lựa chọn hay không? Hay tất cả chỉ muốn thể hiện ḷng yêu nước của ḿnh nhưng lại bị xảo quyệt vận dụng bởi những ngôn từ, những ảnh tượng, những thủ đoạn của các thế lực oan nghiệt khác.
      Đoạn hồi kư của ông Lư Chánh Trung, dù được viết lại hơn 20 năm sau, vẫn nói lên được rất rơ ràng sức chấn động lạ lùng của biến cố đêm 9/3/1945:
      Từ trường Taberd Sài G̣n ra Huế, tôi được học ở trường Providence, thọ giáo với các linh mục của hội Mission Etrangère.
      Nói đến xứ Trung Kỳ, nghe xa lạ làm sao. Từ nhỏ chí lớn, tôi chỉ biết có cờ Tam sắc, bây giờ ra Huế mới hay rằng xứ An Nam c̣n có một lá cờ, lá cờ vàng sọc đỏ (thuở đó mới có một sọc thôi...)
      Nhưng lá cờ đó không gây cho tôi một sự hănh diện nào mà trái lại: Tất cả những vật đó có vẻ mốc meo, mục nát, lỗi thời, không c̣n một chút ǵ liên hệ với tôi.
      Tôi c̣n nhớ buổi chào cờ trọng thể đầu niên học tại trường Providence, ṭa Khâm sứ và Chính phủ Nam triều đều cử đại diện đến tham dự. Bên người Pháp là hai ông sĩ quan trẻ tuổi hùng dũng trong bộ quân phục trắng tinh. Bên người Việt có hai cụ sồn sồn bụng phệ, khăn đóng áo rộng thùng th́nh lẹp xẹp đôi dép hàm ếch, lại c̣n phe phẩy cái quạt đồi mồi ngay trong lễ thượng cờ. Chúa ơi! Trông mới chán đời làm sao!
      Trường Providence tân tiến hơn trường Taberd, có một nền giáo dục hoàn bị, cởi mở hơn trường Taberd. Các Cha gần gũi học sinh hơn các sư huynh. Nơi đây tôi đă hấp thụ những kiến thức vững chắc để có thể hiểu biết nền văn hóa Tây phương là nền văn hóa quân b́nh, nhân bản và sâu sắc. Tôi cũng đă thấm nhuần nền đạo lư Kitô giáo để cảm thấy cái đ̣i hỏi (ít ra cũng được như thế) hướng cuộc đời ḿnh về một cái ǵ tốt.
      Nền giáo dục này hội điều kiện cho tôi “thành người”. Chỉ tiếc một điều là “con người đào tạo nơi đây không phải là con người Việt Nam”! Quê hương vắng bóng ngay giữa ḷng quê hương!
      Trong mấy năm trường, chúng tôi đă sống bên ngoài dân tộc, bên lề lịch sử. Cho nên đêm mồng 9/3/1945, khi tiếng súng của quân đội Nhật hoàng đ́ đùng báo hiệu sự cáo chung của nền đô hộ Pháp, chúng tôi chẳng hiểu mô tê ǵ.
      Vài ngày sau, học sinh trường Khải Định, Đồng Khánh biểu t́nh mừng độc lập: Việt Nam Độc Lập! “Việt Nam” đă lạ tai rồi, “Độc Lập” nghe c̣n quái đản hơn.
      Ngày biểu t́nh, chúng tôi ṭ ṃ đi xem, nh́n thiên hạ vác biểu ngữ reo ḥ “Việt Nam! Việt Nam!” mà chẳng thấy vui mừng chi, chỉ nghe ấm ức và bực bội và cảm thấy ḿnh bơ vơ, lạc loài giữa đám đông. Tôi c̣n nhớ một đứa trong bọn tôi đă nói lớn “Độc lập là cái cóc ǵ?” Câu hỏi xấc xược, ngô nghê này diễn đạt cái tâm trạng chung của chúng tôi lúc ấy. Quả t́nh chúng tôi không hiểu...[12]
      Hai mươi năm sau, câu hỏi Độc lập là cái cóc ǵ? mới nổ lớn thành câu trả lời rực lửa trong ḷng Lư Chánh Trung để ông “T́m về với Dân Tộc”, để khỏi vắng bóng giữa ḷng quê hương... Là một tín đồ Công giáo La Mă mộ đạo, là một tri thức xuất thân từ các trường Ḍng mà nội dung giáo dục thiên Tây phương, ông Trung đă phải lục kư ức t́m về một ngày lịch sử xa xưa để tỉnh thức t́m về dân tộc nhưng cuối cùng lại phục vụ cho Cộng sản. Nguyên ủy nào đă đưa đẩy thân phận của một trí thức Công giáo trôi giạt vào thảm cảnh của một người Việt Nam thấy lạc loài ngay chính trên quê hương ḿnh để cuối cùng phải bám víu vào những ảo ảnh của một lư thuyết phi dân tộc hầu thỏa măn những khát khao muốn có một chỗ đứng trên đất Mẹ ở giữa ḷng quê hương?!
      *Sau đêm mồng 9 tháng 3, sau cơn bàng hoàng chính trị chung của cả nước, mọi người, và đặc biệt tại Trung Kỳ, đều dự đoán là Kỳ Ngoại Hầu Cường Để sẽ nắm được cơ hội mà về nước lên ngôi Vua để trao cho ông Diệm chức Thủ tướng, thành lập nội các để điều khiển quốc gia. Không ngờ chỉ hai ngày sau, ngày 11/3/1945, vua Bảo Đại vẫn tại vị và tuyên bố Việt Nam độc lập trong khối Đại Đông Á, hủy bỏ mọi hiệp ước bảo hộ đă kư kết với Pháp từ trước và mời học giả Trần Trọng Kim thành lập Chính phủ. Chính phủ này được thành lập và ra mắt đồng bào vào ngày 17/4/1945 mà Kỳ Ngoại Hầu Cường Để vẫn ở Nhật và ông Diệm vẫn cô đơn nằm tại Sài G̣n một cách im lặng lạ lùng.
      Sau này, ông Bảo Đại cho biết người Nhật đă dứt khoát không tiếp tục ủng hộ ông Diệm nữa [13], và cụ Trần Trọng Kim trong hồi kư “Một cơn gió bụi” cũng kể lại rằng trong cuộc gặp gỡ giữa cụ và ông Diệm tại Bộ tư lệnh Nhật Bản tại Sài G̣n, ông Diệm cho cụ biết người Nhật đă không cho ông Diệm biết ǵ cả, ngay cả bức điện tín của vua Bảo Đại gởi mời ông Diệm về Huế cũng bị dấu kín.[14]
      Những sử liệu và những dự kiện thực tế này cho ta thấy Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và ông Diệm, dù trước đó đă thật tâm ủng hộ người Nhật, cuối cùng đă thực sự bị người Nhật bỏ rơi v́ uy tín và sức mạnh chính trị của họ (dù dưới mắt người Nhật chỉ là vị trí và sức mạnh của một lá bài chính trị bản xứ cho một nhu cầu ổn định giai đoạn) không c̣n phù hợp với nhu cầu mới của chính sách của Nhật tại Đông Dương. Và điều này cũng cải chính luôn luận điệu của một số tài liệu do bộ máy tuyên truyền của chế độ ông Diệm vào những năm ông mới chấp chánh, cũng như những tài liệu do những “sử gia” hoài Ngô sau 1963, cố t́nh cho rằng “ông Diệm không bao giờ chịu hợp tác và nương dựa vào người Nhật”.[15]
      Trường hợp ông Diệm bị Nhật Bản bỏ rơi và phản bội sau gần bốn năm hợp tác chân thành với Nhật chỉ là sự lập lại của một quy luật chính trị cổ điển và sơ đẳng trong các tương quan quốc tế, nhất là tương quan giữa một trong nhiều thế lực chính trị của một nước nhược tiểu với một cường quốc như Nhật Bản. Thật vậy, Nhật Bản phản bội ba lần cùng một tổ chức Việt Nam (trực tiếp hay gián tiếp do Kỳ Ngoại Hầu Cường Để lănh đạo):
      - Năm 1909, trục xuất Kỳ Ngoại Hầu và cụ Phan Bội Châu sau khi họ kư hiệp ước thân hữu với Pháp.
      - Năm 1940, bắt giam và trao lại cho Pháp lực lượng Phục quốc quân của chí sĩ Trần Trung Lập, Trần Huy Thanh và Hoàng Lương sau trận Lạng Sơn.
      - Năm 1945, bỏ rơi cụ Cường Để và ông Diệm để thừa nhận vua Bảo Đại với Chính phủ Trần Trọng Kim, sau biến cố 9 tháng 3 năm 1945 đảo chánh quân Pháp.
      Quả thật ông Diệm và những mưu sĩ trong bộ tham mưu của ông đă không học được hai bài học trước.
      Sau thất bại chính trị nói trên, ông Ngô Đ́nh Diệm buồn rầu chán nản vô cùng, nhất là khi Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời, hầu như ông không c̣n nghị lực để tiếp tục cuộc đấu tranh nữa. Mang tâm trạng của người thất thế, ông lui về sống cô đơn không tiếp xúc với ai nữa tại nhà người em là Ngô Đ́nh Luyện ở Chợ Lớn, hoặc thỉnh thoảng xuống thăm người anh là giám mục Ngô Đ́nh Thục ở Vĩnh Long. Gia đ́nh và t́nh anh em luôn luôn là pháo đài kiên cố làm nơi nương dựa cho ông trong hoạn nạn cũng như trong đắc thắng.
      Trong lúc đó th́ tại Huế, v́ vấn đề liên lạc cách trở, thông tin chậm chạp, người anh trưởng là ông Ngô Đ́nh Khôi vẫn không nắm vững t́nh h́nh để thấy rằng “lá bài Ngô Đ́nh Diệm và giải pháp Cường Để” đă hoàn toàn bị Nhật xóa bỏ, vẫn tiếp tục hoạt động chuẩn bị cho ngày về của ông Cường Để và nội các của ông Diệm. Số đồng chí của ông Diệm, mà một số lớn đă được phóng thích khỏi nhà giam Pháp nhờ cuộc đảo chánh của Nhật, vẫn tiếp tục sinh hoạt tại nhà ông Khôi để đợi chờ ông Diệm.
      Về phần tôi, sau khi cùng với các chính trị phạm khác ở trại tù Di Linh được quân đội Nhật phóng thích, tôi bèn trở về quê cũ thăm gia đ́nh làng xóm độ nửa tháng rồi trở lại Huế cũng sinh hoạt với các đồng chí cũ dưới sự điều hành của ông Ngô Đ́nh Khôi. Tư dinh của ông Khôi tọa lạc tại tả ngạn sông Phú Cam, là một dinh thự to lớn, huy hoàng và lộng lẫy như lâu đài của các vị hầu tước Âu Châu. Mỗi khi họp, ông Khôi thường cho trải sáu tấm chiếu cạp điều giữa pḥng khách rộng lớn để mọi người cùng ngồi tṛn quanh ông, chẳng khác ǵ ṣng sóc đĩa lớn tại các nhà phú hộ ở thôn quê. Trong các buổi họp, ông Khôi thường nói nhiều, nói lưu loát và luôn luôn mềm dẻo khi có mâu thuẫn về lư luận. Tuy tính t́nh của ông vui vẻ và ḥa đồng, nhưng ông vẫn được tiếng là người nhiều thủ đoạn nhất trong số chín anh chị em.
      Vào khoảng một tuần lễ sau khi nội các của cụ Trần Trọng Kim ra đời, ông Nguyễn Tấn Quê và tôi được ông Khôi cử vào Sài G̣n để gặp ông Diệm và để tổ chức cuộc đón tiếp Kỳ Ngoại Hầu mà ông Khôi tưởng sẽ trở về Việt Nam. Ông Khôi c̣n trao cho chúng tôi một chiếc khăn đóng và một chiếc áo gấm màu tím để ông Diệm mặc trong dịp nghênh đón nhà cách mạng đă từng bôn ba nơi hải ngoại hơn 40 năm trời. Chúng tôi đến được nhà ông Luyện ở số 2 đường Armand Rousseau tại Ngă Sáu Chợ Lớn, nơi ông Diệm đang cư trú, sau một cuộc hành tŕnh hết sức gian lao, nguy hiểm, v́ trên suốt chặng đường gần một ngàn cây số đó, nhất là đoạn ở miền Trung, phi cơ Đồng Minh liên tiếp oanh tạc ngày đêm làm gián đoạn đường sá và làm các toa xe lửa đổ ngổn ngang nhiều nơi.
      Gặp lại ông Diệm sau hơn một năm trời mà tưởng như một khoảng thời gian xa cách lâu lắm. Những thất bại chính trị và sự tan tác của tổ chức v́ quá nhiều nhân sự cốt cán bị tù đày đă làm cho chúng tôi sung sướng bàng hoàng trong buổi hội ngộ này. Sau khi tŕnh bày đầy đủ chi tiết các tin tức liên quan đến tổ chức tại miền Trung, và sau khi trả lời cho ông Diệm biết t́nh h́nh chính trị tại Huế, ông Nguyễn Tấn Quê c̣n cho biết là dọc đường, trong một lần bị phi cơ Mỹ ném bom suưt nữa cả hai chúng tôi tan xác, hành lư của chúng tôi, trong đó có cả khăn đóng và áo gấm của ông Khôi gởi vào, đă bị thất lạc. Ông Diệm không tỏ vẻ trách móc ǵ, ông chỉ cười buồn chua chát mà thôi.
      Cũng tại ngôi nhà này, lần đầu tiên chúng tôi được gặp ông Ngô Đ́nh Luyện, linh mục Lê Sương Huệ, và ông Vơ Văn Hải. Ông Luyện c̣n rất trẻ, ít tham gia những cuộc thảo luận chính trị, c̣n Vơ Văn Hải chỉ là một thanh niên mới lớn, giúp ông Diệm* các công việc giấy tờ vừa như một thư kư, vừa như một tùy phái. Ban ngày, ông Quê và tôi về khách sạn để ông Diệm tiếp khách hoặc nghỉ ngơi, chỉ vào buổi chiều, chúng tôi mới trở lại ngôi nhà ở Armand Rousseau để dùng cơm tối với anh em ông Diệm và linh mục Huệ rồi tiếp tục thảo luận. Dù biết chúng tôi trông chờ, tuyệt nhiên ông Diệm vẫn không đề cập ǵ đến hoàn cảnh của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và những dự tính tương lai.
      Ở Chợ Lớn vào khoảng một tuần lễ, ông Diệm cho chúng tôi biết ngày mai sẽ khởi hành đi Đà Lạt. Sáng hôm sau, khi Sài G̣n bắt đầu trở ḿnh thức dậy với những sinh hoạt rộn rịp th́ bốn người chúng tôi là ông Diệm, linh mục Huệ, ông Quê và tôi lên đường. Lúc xe ngừng lại tại Blao để ăn trưa, ông Diệm mới tŕnh bày việc người Nhật đă phản bội không cho Kỳ Ngoại Hầu Cường Để về nước và cắt đứt mọi liên lạc chính trị với chính ông, rồi ông tỏ ư buồn phiền vua Bảo Đại đă mời “tên đồ nho Trần Trọng Kim” làm thủ tướng. Lúc bấy giờ ông Quê và tôi mới thực sự hiểu rơ t́nh h́nh và trạng huống bi đát của ông Diệm và của tổ chức chúng tôi. Sách lược nắm chính quyền bằng con đường thân Nhật của ông Diệm đă đi vào bế tắc và hoàn toàn thất bại, hệ quả chính trị của nó không những là mất đi những ưu thế phát triển mà quan trọng hơn cả, c̣n là sự tê liệt của tổ chức.
      Xe đến Đà Lạt vào buổi chiều, sương núi mờ mờ phủ xuống thành phố vừa lên đèn và không khí lạnh lùng vào dịp đầu Thu càng làm cho nỗi buồn của chúng tôi thêm sâu đậm. Sau khi chạy xuyên qua trung tâm thành phố và vượt mấy ngọn đồi, xe đến thẳng dinh Tổng đốc của ông Trần Văn Lư. Dinh Tổng đốc vốn là ṭa Đốc lư cũ của Pháp, kiến trúc theo lối Tây phương, tọa lạc trên ngọn đồi cao nh́n xuống khắp thành phố Đà Lạt. Ông Lư ân cần đón chúng tôi vào pḥng khách và cho người dọn trà thơm dùng cho ấm bụng. Biết rằng chúng tôi mệt mỏi sau cuộc hành tŕnh nên ông cho người thu xếp pḥng để chúng tôi đi nghỉ sớm.
      Đêm đầu trên thành phố Cao Nguyên này mà càng về khuya trăng càng mờ, sương càng lạnh, trời đất th́ bàng bạc huyền ảo như tâm sự mông lung của những người vừa thất bại sau một cuộc đấu tranh. Thành phố Đà Lạt ch́m xuống sau những rặng thông im ĺm như chia xẻ nỗi thất vọng của chúng tôi. Trước khi ngủ, ông Nguyễn Tấn Quê c̣n tâm sự với tôi rằng một khi Bảo Đại đă tiếp tục cầm chính quyền để củng cố thế lực th́ tổ chức khó có thể thay đổi được t́nh h́nh, huống ǵ ông Diệm, người lănh đạo của tổ chức lại không phải là một loại nhân vật “anh hùng tạo thời thế”. Tôi c̣n nhớ măi mấy lời phê phán cuối cùng của ông như một tiếng than năo nùng trong đêm vắng: “Chúng ta đă vớ phải cái bè nứa mục ră trôi xuôi theo con nước lũ”. Nhận định và tâm sự của ông Quê như vậy, chẳng trách ǵ mười năm sau, ông đă bị anh em ông Diệm thẳng tay hạ sát khi họ có quyền lực trong tay. Đến năm 1948, 1949 Nguyễn Tấn Quê c̣n nhắc lại những nhận xét trên cho nhiều bạn bè. Trong số bạn bè đó có cả ông Vơ Như Nguyện...
      Mấy hôm sau, linh mục Huệ lấy xe đ̣ đi Phan Rang để từ đó trở lại Sài G̣n, ông Nguyễn Tấn Quê đáp xe lửa về Huế mang theo một lá thư riêng của ông Diệm gởi về cho ông Ngô Đ́nh Khôi, c̣n ông Diệm và tôi th́ vẫn ở lại Đà Lạt.
      Ông Trần Văn Lư, quê ở Quảng Trị, có bà con với giám mục Lê Hữu Từ, là một vị quan nổi tiếng liêm chính. (Khi ông làm Thủ hiến Trung Việt, người em ruột của ông là Trần Văn Tŕnh, chủ sự pḥng Nội dịch, ngày chủ nhật lấy xe Chính phủ về sử dụng riêng bị ông cất chức ngay, đối với các linh mục hay đến xin xỏ, nhờ cậy, ông thẳng thắn từ chối). Ông Lư là người thanh liêm, cương trực, có tinh thần yêu nước và có khả năng quản trị nên được Chính phủ Trần Trọng Kim mời giữ chức Tổng đốc cai trị 4 miền cực Nam Trung Việt như là một thứ Tiểu Khâm Sai. Chức vị của ông lúc bấy giờ là “Tổng đốc Lâm-Đồng-B́nh-Ninh” (bốn tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai, B́nh Thuận, và Ninh Thuận), và v́ lúc bấy giờ phương tiện giao thông và hệ thống liên lạc c̣n khó khăn cách trở nên ông được đại diện chính phủ toàn quyền giải quyết cấp thời công việc quốc gia. Văn pḥng Tổng đốc có ông Nguyễn Đ́nh Hàm (sau này có thời làm hiệu trưởng một trường trung học tại Huế) giữ chức Tổng thư kư, ông Tham Tự làm chánh văn pḥng và nhà văn Vơ Hồng vừa làm bí thư vừa làm thông dịch viên v́ ông Vơ Hồng nói và viết thông thạo cả ba ngôn ngữ Pháp, Anh, Nhật.
      Ông Lư trưng dụng một ngôi biệt thự tại Đà Lạt và biệt phái một số bồi bếp cũng lính Bảo An giữ an ninh cho ông Diệm và tôi. Trong hơn một tháng trời sống chung với nhau trong ngôi nhà rộng răi nhưng lạnh lùng đó, sinh hoạt thường nhật của chúng tôi thật trầm lặng: buổi sáng thức dậy uống trà nói chuyện rồi dùng điểm tâm, sau đó chúng tôi đi ra đồi thông sau nhà để có một chút nắng ấm và để tạm thay cho buổi tập thể dục; sau buổi cơm trưa, chúng tôi hoặc đi nghỉ hoặc lên thư pḥng đọc sách kê trên ba cái tủ sách lớn của người chủ nhân Pháp cũ để lại cho đến chiều. Sau buổi cơm tối, chúng tôi hoặc tiếp khách nhưng thường thường là ngồi nói chuyện với nhau đến khuya mới đi ngủ. Thỉnh thoảng ông Lư cho người đến hướng dẫn chúng tôi đi thăm các thắng cảnh tại Đà Lạt như thác Cam Ly, hồ Than Thở, đỉnh Lâm Viên, ngôi mộ ông Nguyễn Hữu Hào v.v...
      Một hôm ông Trần Văn Lư nhận được điện tín của chánh phủ Trần Trọng Kim thông báo sẽ bổ nhiệm thiếu úy Đinh Xuân Thạc (em của luật gia Đinh Xuân Quảng, người sau này tham gia chính biến Nhảy Dù 11/11/1960 để đảo chánh ông Diệm) giữ chức Trưởng ty Vơ pḥng kiêm tư lệnh Bảo an bốn tỉnh cực Nam Trung Kỳ trực thuộc ông Lư. Chúng tôi thảo luận với nhau rồi đánh điện trả lời đề cử tôi thay thế Đinh Xuân Thạc trong chức vụ này. Đề nghị này được Huế mau chóng chấp thuận chỉ trong mấy ngày, v́ tôi đang có mặt tại chỗ và nhất là thiếu úy Phan Tử Lăng, một đồng chí cũ của tôi, đang giữ chức Tổng chỉ huy Bảo an Trung Kỳ.
      Sau này, ông Lư nhận được nghị định chính thức và hồ sơ binh sách của tôi, trong đó có một tài liệu của sở mật thám Trung Kỳ cũ của Pháp với lời phê: “A pris une part très active dans un mouvement politique contraire aux intérêts de la France en Indochine, a revélé de ce fait un charactère sournois d’autant plus dangereux qu’il est très intelligent. A arrêter et surveiller étroitement”. (Đă tham dự rất tích cực vào một phong trào chính trị đi ngược lại với quyền lợi nước Pháp tại Đông Dương, điều đó chứng tỏ đương sự không những gian giảo mà lại c̣n nguy hiểm nữa v́ đương sự rất thông minh. Thành phần cần phải bắt giam và kiểm soát chặt chẽ). Vốn đă biết tôi từ trước, bây giờ lại được đọc hồ sơ của tôi, ông Trần Văn Lư cảm thấy vui mừng và phấn khởi lắm v́ từ nay có thêm một người vừa là cộng sự viên có khả năng vừa là đồng chí có tinh thần yêu nước. Và cũng chính nhờ lời phê phán của mật thám Trung Kỳ mà mấy tháng sau đó, khi Việt Minh cướp chính quyền, tôi khỏi bị bắt giam mà c̣n được trọng dụng. C̣n ông Lê Khương, sau này dưới thời Đệ nhất Cộng Ḥa mang cấp bậc Đại tá, lúc bấy giờ là một Trung sĩ Bảo an phục vụ dưới quyền tôi tại Đà Lạt.
      Ông Diệm ở lại Đà Lạt cho đến đầu tháng Tám th́ quyết định trở lại Sài G̣n. Buổi chia tay giữa ông và tôi thật buồn, mỗi người một tâm sự, mà tâm sự nào cũng có liên hệ đến cơn sóng gió vừa qua của tổ chức và cũng đều phản ảnh cái tương lai vô định của những ngày sắp tới. Ông ân cần khuyên tôi nên giữ ǵn sức khỏe và hẹn sẽ gặp lại ở Huế nơi ngôi nhà Phú Cam mà tôi đă gặp ông lần đầu năm 1942, khi ông c̣n đang làm lănh tụ lạc quan của phong trào thân Nhật ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Xe của ông đă khuất sau rừng thông mà tôi c̣n đứng ngẩn ngơ v́ những bịn rịn của buổi chia ly, không biết trước được rằng cuộc chia tay hôm đó lại mở đầu cho chuỗi ngày lao lư của lănh tụ ḿnh và cho những sóng gió thời cuộc đẩy đưa tôi vào những biến động máu lửa của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1945-1954.
      Như vậy là chỉ trong ba năm ngặt nghèo, từ 1942 đến 1945, từ một quân nhân mang rất nhiều ẩn ức t́nh cảm và chính trị trong một môi sinh ngột ngạt và đè nén, tôi đă nhờ những chuyển động của thời thế và quyết tâm của chính ḿnh để cuối cùng được gia nhập vào một tổ chức đấu tranh cho đất nước và, riêng cá nhân, được hành xử như một chiến sĩ kiên tŕ và liên tục đấu tranh cho quê hương.
      Nhiệm vụ mới đă dẫn dắt tôi đi suốt miền Trung nghèo nàn cằn cỗi. Công tác mới đă tạo ra những liên hệ thân t́nh với các nhân vật mà nhiều lúc t́nh bằng hữu quyện luôn vào t́nh chiến hữu. Vóc dáng và vị thế của ông Ngô Đ́nh Diệm trong giai đoạn này, đối với tôi là vóc dáng và vị thế của người thuyền trưởng lèo lái con thuyền tổ chức, tuy ngặt nghèo lên xuống nhưng đằm thắm t́nh nghĩa. Nhưng lỗi lầm cơ bản về chính trị do khả năng đấu tranh yếu kém của ông gây ra tuy có kéo theo những đổ vỡ làm tê liệt tổ chức, nhưng cuối cùng, trong buổi tạm biệt sầu mang mang của một buổi sáng Đà Lạt, tôi vẫn tin tưởng mănh liệt vào người anh cả đầu đàn đó như tôi vẫn hằng tin tưởng vào một nước Việt Nam được thực sự độc lập trong tương lai.
      Những giây phút âm thầm khắc phục mọi khó khăn để bí mật xây dựng tổ chức trước mạng lưới mật thám Pháp, những ngày tháng thui thủi và nhục nhằn trong trại tù chính trị phạm ở Di Linh, rồi những đêm dài nhớ vợ thương con, nhớ bến đ̣ xưa, thương cây đa cũ... đă làm tăng trưởng khả năng chịu đựng và tôi luyện thêm quyết tâm đấu tranh trong tôi, như chiến cuộc Việt Nam đă trui rèn hàng hàng lớp lớp thanh niên Việt Nam trong giai đoạn đó.
      Ba năm ngắn ngủi đó cũng đă chất đầy hành trang chính trị cho tôi để bước vào một cuộc chiến tranh Pháp-Việt sắp mở màn.





      [1] Nguyễn Phúc Dân, Cuộc Đời Cách Mạng Cường Để, tr. 135, 136.
      [2] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam, tr. 293 (và theo lời kể lại của nhiều nhân sĩ lăo thành thuộc Nguyễn Phước tộc).
      [3] Theo lời kể lại của cụ Tôn Thất Toại, nguyên Thượng thư Bộ Nghi lễ Nam triều, bạn học buổi thiếu thời của ông Ngô Đ́nh Diệm.
      [4] Thái văn Kiểm, Đất Việt Trời Nam, tr. 488.
      [5] Stanley Karnow, Vietnam A History, tr. 126, 127.
      [6] Ông Nguyễn Dậu, một nhân sĩ tỉnh Phú Yên, vốn là bạn thân với ông Trương Kỳ Nguyên em ruột của ông Trương Tử Anh, lănh tụ đảng Đại Việt, thường đến chơi nhà cụ Trương Bội Hoàng (thân phụ của Trương Kỳ Nguyên) được cụ cho biết khoảng 1942-43 khi cụ được ông Ngô Đ́nh Diệm mời ra Huế bàn chuyện hợp tác trong việc ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, trước khi gặp ông Diệm cụ Hoàng ghé thăm cụ Huỳnh Thúc Kháng để hỏi ư kiến, cụ Huỳnh khuyên không nên, cho rằng ông Diệm là hạng người phong kiến không thể làm cách mạng. Ông Nguyễn Dậu hiện sống ở California, Mỹ.
      [7] Nguyễn Văn Xuân, Phong Trào Duy Tân, tr. 156.
      [8] Ông Trần Văn Dĩnh c̣n được ông Thiên Nhất Phương đề cập đến trên bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại (số 33 năm 1978, tr. 35).
      [9] Hoài Thanh & Hoài Châu, Thi Nhân Việt Nam, tr. 309.
      [10] Đề cập đến tổ chức ông Diệm lúc bấy giờ, ông Trần văn Hướng, một cán bộ ở Huế của ông Diệm, sau này đă hồi ức lại như sau (trích từ Nhật báo Người Việt thứ Năm số 564, ngày 31/10/1985):
      “... Tại Huế, cụ kết nạp một số rất đông thanh niên yêu nước chia thành từng nhóm. Để tránh màn lưới mật thám Pháp, cụ đưa họ vào hoạt động không lương tại các cơ quan Nhật như Toà Lănh Sự, Sở Hiến Binh để theo dơi hành động của Nhật cũng như cho Nhật biết mọi hành động chống Nhật của Pháp, nhằm mục đích thôi thúc người Nhật sớm lật đổ chính quyền Pháp giải phóng Việt Nam như Nhật đă từng tuyên bố.
      ... Ở các công sở Pháp cũng như của Nam triều, ở các đồn lính khố xanh khố đỏ của Pháp, cụ Ngô đều có tổ chức các cộng tác viên nên mọi chỉ thị của Pháp cụ đều rơ. Cũng nhờ vậy mà vào năm 1944, khi mật thám Pháp vây nhà khám xét và định bắt cụ đưa đi an trí ở Xieng Khoang (Lào) th́ cụ đă được báo tin trước mấy ngày. Cụ có đủ th́ giờ đi ẩn náu tại nhà của Phó lănh Sự Nhật tại Huế là ông Ishida.
      ... Mục đích hoạt động của cụ Ngô là lợi dụng thời cơ để thu hồi nền độc lập cho Tổ Quốc, thành lập thể chế Quân chủ Lập hiến giống như Anh Quốc với Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm vua, và một chính phủ lâm thời do Cụ làm Thủ tướng. Phương pháp hành động là dùng người Việt trong các cơ quan và đồn lính Pháp nổi dậy lật đổ chính quyền Pháp với sự giúp đỡ của quân đội Nhật.”
      Ngoài ra, trong tác phẩm nghiên cứu Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí (Chính Đạo, NXB Văn Hoá), phong trào Cường Để thân Nhật Bản của ông Diệm - mà tên một thành viên được nhắc đến là Đỗ Mậu - cũng đă được nêu lên nhiều lần. Điều này mặc nhiên phản bác luận điệu vô cơ sở của một linh mục viết sách cho rằng ông Diệm không thân Nhật và phong trào Cường Để không có thật.
      [11] Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà, lúc ông Nguyễn Ngọc Thơ c̣n làm Đại sứ VN tại Tokyo, ông Ishida lúc bấy giờ đă thôi việc ở Bộ Ngoại Giao Nhật Bản, được thuê vào làm thư kư cho Toà Đại Sứ VN. Năm 1964, nhân một chuyến công du Nhật Bản, tác giả có đến nhà riêng thăm ông Ishida. Kể lại những kỷ niệm xưa, vị cựu Phó Đại sứ Nhật Bản tại VN thời 1944-45 không quên trách khéo ông Diệm lúc làm Tổng Thống đă quên ông ta mà chỉ trọng dụng ông Matsuisita nguyên Chỉ huy ngành Hiến binh mà thôi.
      [12] Lư Chánh Trung, T́m Về Dân Tộc, tr. 23-27.
      [13] Bảo Đại, Le Dragon d Annam, tr. 99-115.
      [14] Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi.
      [15] Phạm Kim Vinh, Những Bí Ẩn Về Cái Chết Của Việt Nam Cộng Ḥa, tr. 27 và sách Đời Một Tổng Thống của Minh Bảo.




    1.   THĂNG TRẦM TRONG   CUỘC CHIẾN VIỆT PHÁP

      *Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng sau khi hứng chịu hai quả bom nguyên tử tiêu huỷ hoàn toàn hai thành phố Hirosima và Nagasaki. Ngày 18, tại Đông Dương, Bộ chỉ huy Nhật Bản trao quyền lại cho chính phủ Việt Minh và ngày 23 vua Bảo Đại thoái vị. Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập chính phủ lâm thời tại Hà Nội vào ngày 19 tháng 8, mời công dân Vĩnh Thụy làm cố vấn Tối Cao để ngày 2 tháng 9 năm 1945, tuyên bố Việt Nam độc lập. Quân đội Anh, dưới quyền của tướng Douglas Gracey, đổ bộ lên Sài G̣n ngày 13 tháng 9 để giải giới quân đội Nhật và sau đó trao quyền lại cho quân đội Pháp.

      Chỉ trong ṿng một tháng ngắn ngủi đó, bao nhiêu biến cố trọng đại đă dồn dập xảy ra trên chiến trường và chính trường Việt Nam, đưa vận mệnh đất nước vào một khúc quanh nghiệt ngă mới. Trong khi đó, tại Đà Lạt, sau khi ông Diệm đi được mấy hôm, và tôi chỉ mới bắt đầu nhậm chức Tư lệnh Bảo an của bốn tỉnh cực Nam Trung phần, th́ các đoàn thể thanh niên tại thị xă họp đại hội và bầu tôi làm Thủ Lănh Thanh Niên Tiền Phong Đà Lạt (Thanh niên Phan Anh) dù lúc đó Việt Minh đă bắt đầu trải người hoạt động mạnh. Cờ đỏ sao vàng và truyền đơn kêu gọi nổi dậy chống Nhật và Pháp rải đầy thành phố, một vài vụ bạo động và nguồn tin sẽ có đ́nh công băi thị càng làm cho không khí thị xă thêm căng thẳng.

      Đầu tuần lễ thứ nh́ của tháng chín, Việt Minh cướp chính quyền tại Đà Lạt bằng một cuộc biểu t́nh rầm rộ, vây dinh Tổng đốc bắt ông Trần Văn Lư giải về Huế, c̣n tôi th́ họ giữ lại tại địa phương để điều tra bổ túc. Vừa thoát khỏi ngục Pháp được mấy tháng tôi lại bước vào cửa ngục Việt Minh.

      Trong các lần thẩm vấn, tôi quyết định khai hết sự thật v́ nghĩ rằng "vàng thật sợ ǵ lửa đỏ", tôi là người thật tâm yêu nước, nếu có làm việc trong hệ thống quân đội của Pháp th́ chẳng qua cũng là v́ thời thế bắt buộc, nếu có ở trong hệ thống hành chính của Nhật th́ chẳng qua cũng là v́ hoàn cảnh, miễn rằng tâm và chí của ḿnh không thân Tây vọng Nhật. Duy có việc tham gia một phong trào chống Pháp th́ tôi cố càng dấu tổ chức của ḿnh càng nhiều càng tốt, nhất là danh tánh các đồng chí.

      Lúc bấy giờ, tôi chưa biết Mặt Trận Việt Minh do đảng Cộng Sản chỉ đạo và điều động mà chỉ biết họ như một tổ chức cách mạng lớn, cướp chánh quyền để đánh đổ chế độ phong kiến, chống thực dân Pháp và phát xít Nhật cho độc lập, tự do, hạnh phúc của toàn dân Việt Nam. Cho nên ở một mặt nào đó, tuy bị giam cầm và tù ngục, tôi vẫn yên tâm và c̣n có ư trông chờ ngày được họ phóng thích để trở về Huế. Quả nhiên, chỉ hơn một tuần lễ sau, tôi được mời lên một văn pḥng trông đàng hoàng hơn pḥng lấy khẩu cung thường lệ, và cho biết v́ hồ sơ cá nhân của tôi sạch sẽ, tứ thân phụ mẫu đều thuộc giai cấp nho sĩ vô sản, và hồ sơ binh sách của tôi bị phê là có hoạt động chống Pháp nên tôi được họ thả với lời "yêu cầu" ở lại Đà Lạt hợp tác với chính quyền cách mạng địa phương.

      Tin tức Sài G̣n đưa về cho biết t́nh h́nh rất sôi động v́ quân Pháp, sau khi được quân đội Anh trao lại quyền quản trị, đă cấp tốc thiết lập các đơn vị tác chiến để tái lập trật tự tại Sài G̣n và mở rộng vùng ảnh hưởng ra toàn bộ Nam kỳ. Chính quyền Việt Minh tại Đà Lạt vội tổ chức khẩn cấp hai tiểu đoàn Vệ Quốc Quân. Một tiểu đoàn được giao cho Nguyễn Lương, người Quảng Ngăi, nguyên là thư kư toà Sứ Đà Lạt nhưng có lẽ đă tham gia Việt Minh từ trước, chỉ huy ; và tiểu đoàn thứ hai được giao cho tôi điều khiển. Trong tiểu đoàn thứ nhất này c̣n có ông Tôn Thất Đính làm uỷ viên chính trị trung đội và ông Phạm Đăng Tải (ông Tải sau làm ở Bộ Ngoại giao thời Đệ Nhất Cộng Hoà và hiện sống ở Monterey, Hoa Kỳ).

      V́ quân Pháp đang âm mưu tiến về miền Trung và đánh chiếm các tỉnh Cao Nguyên Trung phần nên ông Vơ Nguyên Giáp, lúc bấy giờ là Bộ trưởng Nội vụ trong chính phủ Hồ Chí Minh, vội cầm đầu một phái đoàn quân chính lên Đà Lạt để tham quan t́nh h́nh và cho những chỉ thị cần thiết[1]. Chúng tôi được lệnh dàn quân chung quanh trụ sở Uỷ Ban Hành Chính Tỉnh và gia nhập phái đoàn đón tiếp ông Vơ Nguyên Giáp. Khi ông Giáp đến, trong phái đoàn tuỳ tùng, tôi thấy có cả Thiếu uư Phan Tử Lăng (vốn là Tổng chỉ huy Bảo an Trung kỳ và là một đồng chí trong tổ chức ông Diệm) bấy giờ là đại diện cho Uỷ Ban Quân Sự Trung Bộ của Việt Minh tại Huế. Thấy Lăng, tôi bàng hoàng, nhưng cũng gọi tên và giơ nắm tay lên cao để chào, nhưng Lăng chỉ mỉm cười kín đáo rồi trả lời vừa đủ để tôi nghe: "Việc cũ bỏ hết, đừng nhắc lại nữa".

      Tuy đă có lần nghe ông Diệm kể chuyện ông Giáp đến thăm ngôi nhà ở Phú Cam và tuy đă được nghe tiếng tăm của ông Giáp từ lâu, nhưng đây là lần đầu tiên tôi trực tiếp gặp ông ta. Tôi không ngờ ông ta c̣n quá trẻ và phong cách th́ như một bạch diện thư sinh chưa từng dăi nắng dầm sương. Mặc dù lúc bấy giờ tôi không đồng quan điểm với Việt Minh nhưng vẫn chưa có ǵ để chống đối thù nghịch nên trong thâm tâm tôi thoáng có một chút cảm phục và tự hào về nhân vật đồng hương trẻ tuổi nhưng tài cao chí lớn nầy.

      Ông Giáp làm Bộ trưởng Nội vụ năm 32 tuổi trong một chính phủ độc lập của một quốc gia thống nhất từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu, trong khi người đồng hương của ông ta là ông Diệm, cũng năm 32 tuổi, làm Thường thư Bộ Lại cho một triều đ́nh phong kiến bù nh́n của một xứ Bảo hộ Trung kỳ. So sánh đó tuy có thoáng qua rất nhanh trong óc tôi, nhưng trong buổi gặp gỡ ông Giáp tại trụ sở Ủy Ban Hành Chánh Đà Lạt, h́nh bóng của ông Diệm với bao kỷ niệm cũ vẫn có đủ sức mạnh đánh đổ cái hấp lực hào hùng của ông Giáp.


    1. Ông Vơ Nguyên Giáp sinh năm 1912, quê làng An Xá, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng B́nh, cách làng Đại Phong của ông Diệm chỉ có hai con hói. Học trường tiểu học Lệ Thuỷ rồi vào Huế học trung học ở trường Khải Định, ông Giáp nổi tiếng thông minh và thuộc ḷng sử Pháp lẫn sử Việt. Ông thuộc từng chi tiết về cuộc đời, sự nghiệp và những trận đánh của Nă Phá Luân. Tại trường Khải Định, mặc dù là học sinh trung học Đệ nhất cấp mà ông vẫn được giáo sư Sử-Địa Pháp mời thuyết tŕnh sử Pháp cho hầu hết giáo sư và học sinh toàn trường nghe. Ông được chú ư sớm nhờ tính t́nh văn nghệ và nhờ mang tư tưởng cách mạng của chí sĩ Phan Bội Châu. Mới 14 tuổi, ông đă gia nhập "Tân Việt Cách Mạng Đảng", tham dự phong trào băi khoá để tang cho chí sĩ Phan Chu Trinh. Năm 1930, nhân những vụ nổi loạn ở Nghệ An, ông bị mật thám Pháp ở Trung kỳ bắt giam vào lao Thừa Phủ, Huế. Sau mấy tháng ở trong tù, nhờ lời khai thú tội nên được Giám đốc Sở Chính trị Phủ Toàn quyền là Marty can thiệp trả tự do. Ông Giáp được Marty nâng đỡ giúp cho vào trường trung học Pháp Albert Sarraut ở Hà Nội. (Theo tôi th́ việc đầu hàng Sở Chính trị của thực dân chỉ là sự đầu hàng giả trá, sự đầu hàng đă được đảng Cộng Sản Đông Dương cho phép và tổ chức, v́ lúc bấy giờ ông Giáp đă trú ngụ từ lâu tại nhà giáo sư Đặng Thai Mai, một đảng viên Cộng Sản). Trong lúc c̣n là học sinh, ông Giáp đă cộng tác với ông Phạm Văn Đồng trên tờ báo Pháp ngữ "Le Peuple . Tiếp tục lên đại học, ông thi đỗ cử nhân Luật khoa năm 1937. Điều buồn cười là trong kỳ thi cử nhân luật đó, ông Giáp hoàn toàn hỏng môn Quốc Tế Công Pháp nhưng nhờ môn kinh tế chính trị được 18 điểm trên 20, nên mới khỏi bị đánh rớt. Đỗ cử nhân xong, ông dạy ở trường Thăng Long, vốn là một môi trường tốt để truyền bá chủ nghĩa Mác-Xít trong đám bạn bè và sinh viên. Năm 1945, sau khi cướp được chính quyền, công an dưới quyền ông Giáp đă sát hại chính vị hiệu trưởng trường Thăng Long là giáo sư Tôn Thất B́nh và bắt cha vợ của ông B́nh là Thượng thư Phạm Quỳnh đem đi thủ tiêu.

      Chiến tranh thế giới bùng nổ, ông Giáp thoát ly gia đ́nh, để vợ sống một ḿnh ở Vinh, rồi lui vào bóng tối hoạt động bí mật. Người vợ cũng là một chiến sĩ cách mạng bị bắt năm 1941, bị kết án chung thân khổ sai và chết trong lao tù, sau đó người em gái vợ cũng bị tra tấn và chết tại khám lớn Sài G̣n. Thảm cảnh gia đ́nh càng làm cho ông ta thêm thù hận người Pháp, ông bèn trốn qua Tàu và nghe nói có theo học một lớp quân sự tại Diên An. Tại Trung Hoa, ông Giáp gặp các ông Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng để từ đó trở lên một trong những nhân vật tối quan trọng của đảng Cộng Sản Đông Dương.

      Năm 1944, ông Giáp tổ chức dân thiểu số vùng Việt Bắc vào các đội du kích quân, và kết nạp được ông Chu Văn Tấn thuộc dân thiểu số, và tuy là một Cai Lính dơng, nhưng ông Tấn đă trở thành một trong những tướng lănh giỏi của Cọng sản sau nầy. Ông Giáp là cha đẻ của Chiến tranh Du kích và của Quân đội Nhân dân tại Việt Nam. Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, ông Giáp được coi như nhân vật trọng yếu thứ nh́ của Việt Minh, sau ông Hồ Chí Minh. Theo Bernard Fall th́ từ khi chiến tranh Pháp-Việt mở màn cho đến ngày Cộng Sản toàn thắng, với tư cách là Tổng tư lệnh quân đội Việt Minh, ông Giáp chỉ phạm lỗi lầm chiến lược có một lần trong trận tấn công Vĩnh Phúc Yên, Đông Triều và Ninh B́nh (để bị tướng De Lattre de Tassigny đánh bại), v́ tuy rất thông minh nhưng vẫn là người tự học một ḿnh và v́ ông ta chủ quan sau chiến thắng Cao Bằng, đường số 4. Từ đó về sau, ông Giáp luôn luôn chiến thắng. Trong suốt bốn năm đầu của cuộc chiến tranh Pháp-Việt, ông để cho du kích địa phương cầm chân tiêu hao lực lượng viễn chinh Pháp, mà chỉ nỗ lực tổ chức và huấn luyện quân chính quy tại vùng núi rừng Việt Bắc và tại phía Nam Trung Hoa.[2]

      Thân phụ của ông Vơ Nguyên Giáp là ông Vơ Nghiễm, nguyên là một thư kư của ty Hành Chánh tỉnh Quảng B́nh thời phong kiến, được hàm Cửu phẩm văn giai cho nên thường được gọi là ông Cửu Nghiễm. Gia đ́nh ông Cửu Nghiễm là gia đ́nh tiểu tư sản, có ruộng cho thuê và có tiền cho vay. Người con gái đầu ḷng của ông Cửu Nghiễm lấy chồng là một quản lính Khố đỏ và sống ở thôn quê. Hai người con trai của ông Cửu Nghiễm là Vơ Nguyên Giáp và Vơ Thuần Nho, ngược lại, đều theo Việt Minh và đều là những nhân vật sắt máu. Ông Vơ Thuần Nho giữ chức Uỷ Viên Tư Pháp tỉnh Quảng B́nh, khi Việt Minh cướp chính quyền năm 1945 đă xử tử nhiều người. Trước nhà ông Vơ Nghiễm có một bức b́nh phong kết bằng những cây chè cắt h́nh một con cọp, mỗi lần gió thổi, cọp chè lay động theo bóng đêm làm nhiều người đi qua trông thấy phải giật ḿnh. Năm 1947, khi quân Pháp đổ bộ lên Quảng B́nh, ông Vơ Nghiễm bị bắt đem về giam ở lao Thừa Phủ, Huế. Ông ta chết ở trong lao và được chôn tại đó nhưng không biết làm sao mà hài cốt được Việt Minh đào lên và di chuyển đến một chỗ bí mật khác, có lẽ đă đem về chôn ở Quảng B́nh.

      Sự kiện ông Vơ Nguyên Giáp phải đến thị sát Đà Lạt và vùng Tây Nguyên đă nói lên tính cách nghiêm trọng của t́nh h́nh miền Nam và Cao nguyên lúc bấy giờ. Sau cuộc thị sát của ông Vơ Nguyên Giáp, tôi được chỉ thị của Uỷ Ban Hành Chánh Kháng Chiến Đà Lạt đem tiểu đoàn bố trí từ ngoại ô thành phố đến Dran (Đơn Dương), có một trung đội của ông Từ Bộ Cam từ Huế vào tăng cường. (Ông Từ Bộ Cam sau này là Đại tá Không quân, hiện ở tiểu bang Washington). Tiểu đoàn gồm độ 500 binh sĩ nhưng vũ khí đều là loại vũ khí cũ của Pháp và Nhật để lại, hoả lực chính của tiểu đoàn là ba khẩu liên thanh kiểu FM 1924-1929. Chủ lực của tiểu đoàn gồm một số lính Khố xanh cũ có kinh nghiệm tác chiến, nhưng phần lớn c̣n lại toàn là thanh niên mới gia nhập, chưa được huấn luyện ǵ. T́nh trạng tiểu đoàn như thế mà tôi phải đương đầu với cuộc tấn công của liên quân Anh-Pháp-Nhật, được yểm trợ bởi một chi đội thiết giáp.

      Sau khi thảo luận với chính trị viên của tiểu đoàn, tôi quyết định tránh đụng độ trực diện với kẻ thù, chỉ t́m cách cầm chân hay giảm thiểu sức tiến của địch để bảo toàn đơn vị và để chờ bộ chỉ huy Đà Lạt có th́ giờ triệt thoái. Áp dụng kỹ thuật hoán vị các đại đội, tôi cho ba tổ liên thanh di chuyển từ cao điểm này đến cao điểm khác của vùng đồi núi Đơn Dương, bám theo đà tiến của kẻ thù mà phục kích tấn công. Dĩ nhiên hoả lực yếu kém của chúng tôi chỉ làm cho địch chuyển quân chậm hơn và gây thiệt hại không đáng kể, chứ không thể nào cầm chân hay công phá được sức tiến của đoàn thiết giáp. Sau một ngày một đêm vừa đánh vừa lùi, cuối cùng tôi ra lệnh bỏ chiến trường Đơn Dương, rút quân về Ninh Thuận. Với hơn 300 binh sĩ c̣n lại, tôi và bộ chỉ huy tiểu đoàn băng rừng về miền núi phía Tây tỉnh Phan Rang và lập chiến khu ở vùng Ba Râu.

      Tại đây, theo lệnh của Uỷ Ban Kháng Chiến Trung Uơng, tôi được lệnh mở những cuộc đột kích quân đội Pháp để tạo t́nh trang bất an ninh trong vùng và để cầm chân những đơn vị này không thể tăng phái về các mặt trận khác. Sau nửa năm, t́nh trạng của tiểu đoàn trở nên nguy kịch, thiếu đạn dược, thiếu thực phẩm, thiếu thuốc men, binh sĩ của tôi càng ngày càng mất khả năng cũng như tinh thần chiến đấu. Bị cô lập và phải hoàn toàn tự lực tất cả mọi mặt, tôi không t́m ra được phương thế nào để chấn chỉnh lại sức mạnh của đơn vị đang càng lúc càng rơi vào t́nh trạng tê liệt. Đă vậy, thỉnh thoảng các chính trị viên Việt Minh đến thanh tra chiến khu lại gay gắt phê b́nh và lên án những nhược điểm của chúng tôi mà không đề nghị một biện pháp giải quyết nào cả.

      Đồng thời, qua những sinh hoạt hàng ngày, tôi bắt đầu phát hiện ra vai tṛ quyết định và đầy ưu thế của đảng Cộng Sản Đông Dương đằng sau mặt trận Việt Minh, một vai tṛ không những giành độc quyền chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Pháp mà c̣n giành độc quyền quản trị đất nước ngay từ bây giờ cũng như trong tương lai. Tính độc quyền đó, ngay cả trong giai đoạn kháng Pháp mà nhu cầu đoàn kết là một nhu cầu tối quan trọng, vẫn được thể hiện qua những vụ thanh trừng các nhân vật và lực lượng không Cộng Sản.

      Vừa bực ḿnh v́ thái độ vô trách nhiệm của chính uỷ, vừa bắt đầu lo sợ v́ màu sắc chính trị không Cộng Sản của ḿnh, và nhất là vừa nhớ nhà sau hơn hai năm trời biền biệt khói lửa, nên vào một buổi chiều nọ, tôi rời khỏi chiến khu Ba Râu, trốn ra vùng biển Ninh Chữ, giả vờ làm thường dân tản cư thuê ghe về Tuy Hoà để từ đó t́m đường về quê. Ra đến Tuy Hoà, không ngờ tôi lại tạm trú tại nhà một vị cựu công chức Nam triều nên được biết một số tin tức về ông Diệm.

      Nguyên sau khi Việt Minh cướp chính quyền tại Nam bộ, ông Diệm liền theo đường bộ rời Sài G̣n để về Huế. Cùng đi với ông có ông Vơ Văn Hải và một đồng chí trẻ tuổi tên là Bảo. Đến Nha Trang th́ ông bị Việt Minh bắt giữ nhưng nhờ kỹ sư Đặng Phúc Thông đang làm việc ở ty Hoả Xa và một trung uư hiến binh Nhật can thiệp nên được trả tự do. Sáng hôm sau, ông tiếp tục cuộc hành tŕnh chỉ với Bảo, nhưng cả hai lại bị Việt Minh chận bắt tại sông Cầu. Riêng ông Vơ Văn Hải, v́ ngủ quên tại nhà người quen tại Nha Trang nên thoát khỏi.

      Sau gần hai tuần lễ chỉ để vượt một đoạn đường không đến 500 cây số, lúc th́ đi bằng thuyền, lúc th́ xe hoả, lúc xe hàng, cuối cùng tôi đă đặt chân được tới Huế.

      Tại ngôi nhà Phú Cam, tôi mới biết tin ông Diệm bị Việt Minh bắt đem ra Bắc không biết số phận như thế nào, c̣n ông Ngô Đ́nh Khôi và người con trai độc nhất của ông là Ngô Đ́nh Huân cùng bị bắt với ông Phạm Quỳnh và sau đó bị thủ tiêu tại một địa điểm ở phía Bắc tỉnh Thừa Thiên. Một số lớn đồng chí của tôi, trong đó có Nguyễn Tấn Quê, kẻ th́ bị bắt giam vào lao Thừa Phủ, kẻ th́ bị giam giữ ở những trại tù bí mật xa thành phố Huế, có người lại bị thủ tiêu mất tích.

      Về Huế mà tôi như lạc lơng đến một vùng đất xa lạ. Cũng thành quách soi bóng nước sông Hương mơ màng, cũng cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp, cũng tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân vang, cảnh cũ vẫn đó mà người xưa đâu c̣n. Ngọn cờ đỏ sao vàng ngạo nghễ tung bay trên kỳ đài Ngọ Môn đă làm đảo lộn dân t́nh xứ Huế. Nhân dân tự vệ, Vệ Quốc quân đang soạn sửa để chờ đợi cuộc giao tranh, dân chúng đang lo lắng để tản cư về vùng thôn dă. Công dân Vĩnh Thuỵ ra đi, kinh thành trưởng giả, đài trang, cổ kính xưa kia, nay đă biến thành một quê hương ly loạn. Mấy năm sau, đọc bài thơ của Vũ Hoàng Chương, tôi vô cùng thán phục thi nhân đă lột tả được một cách thần t́nh những thay đổi của Cố Đô và tâm trạng của những con người vốn nặng ḷng hoài cổ:

      *

      Một gánh gươm đàn tới Cố Đô,

      Mưa liền sông tạnh tưởng vào Ngô.

      B́m leo cửa khuyết ai ngờ rứa,

      Rồng lẫn mây thành chẳng thấy mô.

      Lăng miếu tỉnh chưa hồn cựu mộng,

      Vàng son đẹp nhỉ bức dư đồ.

      Tiếng chuông Thiên Mụ riêng hoài cảm,

      Tốt đă vào cung loạn thế cờ.

      *

      Sau khi ở Huế mấy hôm để ḍ la thêm tin tức và đau đớn chấp nhận một thực tại khốc liệt là tổ chức đă tan, lănh tụ đă bị bắt, thế cờ đă loạn, tôi quyết định rời Huế để trở về lại quê làng Thổ Ngoạ của tôi.

      Trận đói Ất Dậu (năm 1945) khủng khiếp vẫn c̣n hằn in nét đau thương kinh hoàng trên từng luống đất của làng xóm, trên mỗi khuôn mặt của bà con: mồ mả ngổn ngang mọc đầy đồng làm loang lổ những đám ruộng nứt nẻ, bà con chỉ c̣n xương bọc da thất thểu đi t́m nhau trong tuyệt vọng. Chỉ có cán bộ Việt Minh và Nhân dân tự vệ, tay súng tay dao, hung hăng hành xử quyền làm chủ một đại xă nổi tiếng văn học, nho phong của ngày xưa.

      Gặp lại người vợ ngày xưa ṃn mỏi v́ trông đợi mà đôi vai gầy như oằn xuống v́ sức nặng của nhớ mong và của thiên tai, gặp lại hai đứa con trai c̣m cơi tay lấm chân bùn đang ê a những mẫu tự vỡ ḷng trên chiếc chiếu lá xơ xác, ḷng tôi như quặn lại. Tôi tự nghĩ, chí hướng và sự nghiệp của ḿnh đă dang dở mà Việt Minh th́ bây giờ lại xem ḿnh như thành phần đă từng hợp tác với Pháp, cuộc sống tương lai chắc chắn sẽ vạn phần bấp bênh nguy hiểm.

      Bị dằn vặt trong tâm trạng đó, tôi bèn giữ thái độ "gặp thời thế thế thời phải thế , chủ trương sinh hoạt như một kẻ an phận thủ thường để lo nuôi vợ dạy con, vốn đă quá cơ cực bần hàn với ước mơ chịu đựng cho qua cơn băo tố để chờ ngày trời quang mây tạnh.

      *Nhưng người anh vợ của tôi, ông Nguyễn Bá Mưu, vốn bất khuất, luôn luôn mang đầu óc quật cường, đă cùng với một số đảng viên Việt Quốc thành lập một tổ chức đối kháng lại với Việt Minh, t́m cách bắt liên lạc với những đảng phái quốc gia ở ngoài Bắc. Ông kết nạp những thành phần cựu hào lư, quân nhân, công chức chế độ cũ gồm người cùng làng và những làng lân cận, trong đó có hai người anh ruột và anh rể của tôi. Nhưng chẳng may âm mưu bị bại lộ, ông Nguyễn Bá Mưu cùng một số đảng viên Việt Quốc bị ban ám sát của Việt Minh đang đêm đến chặt đầu ngay tại nhà. Người anh rể, một người anh ruột và tôi bị bắt lên chiến khu Trung Thuần, mỗi người bị đem giam một chỗ.

      Trong khi tôi nằm đếm ngày tháng ṃn mỏi trôi qua trong ngục tù của Việt Minh th́ t́nh h́nh chính sự bên ngoài vẫn biến chuyển sôi động. Vào cuối tháng 5 năm 1946, ông Hồ Chí Minh đi Pháp tham dự hội nghị Fontainebleau để điều đ́nh với Pháp cho đến tháng 9 mới trở về với một bản "modus vivendi về các hợp tác kinh tế để chấm dứt các vụ xung đột. Tháng Sáu cùng năm đó, đô đốc Thierry d Argenlieu, Cao ủy Pháp tại Đông Dương, đă vi phạm thoả ước kư kết với nhau từ tháng Ba, tuyên bố thành lập một chính phủ tự trị cho Nam kỳ. Ngày 23 tháng 11, trước mâu thuẫn quyền lợi không thể thoả hiệp được và trong thế sống mái quân sự một mất một c̣n, các chiến hạm của Pháp tại cảng Hải Pḥng bắt đầu pháo vào thị xă và đổ quân vào thành phố để hành quân tiến về Hà Nội. Quân đội Việt Minh rút về bảo vệ thủ đô nhưng đến tuần lễ thứ nh́ của tháng 12 th́ quyết định bỏ trống Hà Nội cho các đơn vị thanh niên chống trả, ông Hồ Chí Minh dẫn bộ tham mưu và chủ lực chính quy rút về Việt Bắc lập chiến khu, mở màn cho cuộc chiến tranh Pháp-Việt.

      Tháng 6 năm 1947, bắt được tin t́nh báo cho hay một đơn vị quân Pháp đang đóng ở Quảng Khê (sông Gianh) sẽ phối hợp với một đơn vị khác đóng tại làng Công giáo Đan Sa tái chiếm Ba Đồn, một vị trí chiến lược nằm ngay cửa chính mở vào mật khu của họ, Việt Minh bèn thủ tiêu hết những tù nhân mà chúng cho là nguy hiểm đang bị cầm tù. Cả anh ruột lẫn anh rể của tôi đều bị sát hại trong quyết định tàn ác này. Hai các chết đó đă ám ảnh tôi rất sâu đậm trong suốt cuộc đời đấu tranh của tôi sau này.

      Riêng tôi và một số anh em Công giáo khác đang bị biệt giam ở một trại tù ở dưới chân núi đèo Ngang, kịp thời phá tù trốn thoát được trong đường tơ kẽ tóc. Tôi dựa vào bóng đêm và men theo đường rừng, ṃ mẫm về được làng cũ trong bí mật. Nhưng chỉ mấy hôm sau, để tránh tai hoạ cho gia đ́nh, vào một buổi tối mưa lớn đổ ào ạt, nh́n lại lần cuối hai đứa con trai đang ôm nhau ngủ vùi trong manh chiếu rách, hôn vợ và ôm chặt đứa con trai thứ ba vừa mới sinh được hai tháng, tôi lại lầm lũi ra đi, rời làng vào Đồng Hới. Mưa xối nặng nề trên mái tranh xác xơ của ngôi nhà như nước mắt của người vợ hiền tiễn chồng ra đi ngút ngàn v́ nghiệp dĩ đấu tranh...

      Vào đến Đồng Hới, đang bơ vơ chưa biết sẽ liên lạc với ai để t́m lại các đồng chí cũ th́ t́nh cờ gặp được ông Hoàng Văn Toản, lúc bấy giờ đang làm Tổng thư kư của toà Hành chính tỉnh, cũng là một thành viên trong tổ chức của ông Diệm ngày xưa. Ông cho biết ông Trần Văn Lư, hiện đang làm Chủ tịch Hội Đồng Chấp Chánh Trung phần, ra lệnh phải t́m kiếm tôi để phụ trách đơn vị Bảo Vệ Quân tỉnh Quảng B́nh. Tôi bèn cấp tốc vào Huế gặp ông để từ chối chức vụ Chỉ huy trưởng Bảo Vệ Quân và tŕnh bày thẳng ư định của tôi về ưu tiên huấn luyện một tầng lớp cán bộ chính trị quân sự. Ông Lư đồng ư và thảo liền công văn cho tỉnh trưởng Quảng B́nh là ông Nguyễn Hữu Nhân về việc thiết lập một khoá huấn luỵện quân sự và chính trị do tôi phụ trách.

      Trong dịp gặp riêng ông Lư ngoài giờ làm việc, tôi hỏi thăm tin tức về ông Diệm và được biết rằng sau khi bị bắt ở Sông Cầu, ông Diệm bị đem ra Bắc cô lập ở một vùng rừng núi Việt Bắc cho đến đầu năm 1946, nhờ giám mục Lê Hữu Từ, lúc bấy giờ đang là cố vấn tôn giáo của ông Hồ Chí Minh, can thiệp nên ông được trả tự do. Sau đó ông Diệm về Hà Nội ở tại nhà thờ ḍng Chúa Cứu Thế Nam Đồng một thời gian rồi khi th́ lên Cao Nguyên sống với vợ chồng ông Ngô Đ́nh Nhu tại Đà Lạt, khi th́ xuôi miền Nam sống với giám mục Ngô Đ́nh Thục tại Vĩnh Long. Về việc ông Diệm bị bắt, có một số báo chí và sách vở Cần Lao cho rằng trước khi được phóng thích từ Thái Nguyên, ông Diệm đă từ chối lời mời tham gia hợp tác chính phủ Hồ Chí Minh, và ông Hồ đă phải thả ông Diệm ra sau đó. Nhưng theo ông Hồ Sĩ Khuê (tác phẩm Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm và Mặt Trận Giải Phóng, tái bản lần thứ nhất) th́ ông Diệm bị "giam lỏng trong bệnh viện Lannessan (Hà Nội) do các bà Soeurs trông coi. Đêm Tổng khởi nghĩa 19/12/1946, ông Hồ và Việt Minh phải đương đầu với t́nh thế cấp bách mà bỏ quên ông Diệm tại Hà Nội trong bệnh viện này. Nhờ thế, ông Diệm đă thoát khỏi tay ông Hồ".

      Ngoài ra, ông Lư cũng cho biết Cựu Hoàng Bảo Đại hiện ở Hồng Kông và trở thành một "giải pháp" cho cả hai ông Diệm và Lư. Không như các tổ chức của Nguyễn Phước tộc ủng hộ Bảo Đại để phục hồi nền quân chủ cũ, hai ông Diệm và Lư ủng hộ Bảo Đại để tiến đến một chế độ quân chủ lập hiến. Theo ông Trần Văn Lư th́ chế độ này là một thể chế trung dung giữa chế độ quân chủ phong kiến đă lỗi thời và chế độ Cộng Hoà Tây phương c̣n quá mới lạ với quần chúng cũng như truyền thống chính trị Việt Nam. Nhưng dù sao th́, theo ông, tối thiểu Việt Nam cũng phải có một qui chế như Dominion mới lôi kéo được nhân dân Việt Nam ra khỏi hấp lực của Hồ Chí Minh mà về với Bảo Đại. Cũng cần phải nói rơ thêm như Bernard Fall đă mô tả th́ ông Diệm là người có đầu óc phong kiến, quan lại, cổ hủ, chỉ muốn bảo vệ một nền quân chủ. Cho đến năm 1955, v́ ở vào t́nh trạng tranh chấp với Bảo Đại và muốn có quyền hành thật to lớn, ông mới chủ trương thành lập nền Cộng Hoà để làm một nhà độc tài [3].

      Đối với tôi, chọn lựa này rất phù hợp với tư thế chính trị và bản chất đấu tranh của những người như ông Diệm và ông Lư, vốn là những vị quan lại được sinh ra và lớn lên, rồi lại được thăng hoa trong hệ thống phong kiến, nhưng lại có va chạm với những định chế Tây phương trong vị trí của một viên chức công quyền. Lửa cách mạng để lột xác một cách triệt để và toàn diện, để dứt khoát hoàn toàn với quá khứ không thể có được trong các ông. Chính một cộng sự viên thân tín của ông, sáu năm sau ngày ông bị lật đổ, nh́n lại khoảng thời gian làm việc chung với ông cũng đă phê phán như sau:

      "Nhưng ông Ngô Đ́nh Diệm không phải là người có tâm lư chính trị mới mẻ như vậy. Sinh trưởng trong một gia đ́nh triều thần, được đào tạo theo nếp giáo dục cổ truyền, rồi chính ông lại thừa nghiệp nhà mà thờ nhà Nguyễn: hẳn ông không phủ nhận những mối liên lạc tinh thần giữa vua tôi và thầy tṛ thuở trước. Chứng cớ là không thấy ai bắt buộc hơn ông và ông Nhu sự trung thành ở người cộng sự. Trung thành là điều kiện ưu tiên được đặt trên cả tài năng" [4].

      Tuy nhận định như vậy, nhưng lúc bấy giờ, đối với tôi, thể chế tương lai chưa phải là mối quan tâm hàng đầu mà chính sự xây dựng một tổ chức vững mạnh với một đội ngũ cán bộ kiên tŕ mới là yếu tố quan trọng để khi đuổi Tây đi, giành được độc lập th́ vẫn c̣n sức mà "sống mái" với lực lượng Việt Minh của ông Hồ Chí Minh. Lư luận đơn giản và chắc nịch như thế, nên tôi để mặc những vấn đề thể chế cho các vị đàn anh như ông Diệm hay ông Lư, c̣n ḿnh th́ chỉ xả thân hoạt động trong phạm vi của ḿnh.

      Tôi trở lại Đồng Hới làm việc dưới quyền của ông Tỉnh trưởng Nguyễn Hữu Nhân để điều khiển một lớp đào tạo cán bộ gần 40 khoá sinh, mà nội dung giảng huấn gồm cả hai phần chính trị lẫn quân sự, nhằm mục đích xây dựng cái lơi nhân sự đầu tiên cho một đơn vị quân chính tương lai.

      Độ gần một tháng sau, nhân chuyến đi kinh lư ở Đồng Hới, ông Trần Văn Lư có ghé thăm lớp huấn luyện và tỏ ra rất ngạc nhiên về những tiến bộ và thành quả của khoá. Cùng đi với ông c̣n có kỹ sư Lê Thế Ngạc (hiện nay đang ở Mỹ), lúc bấy giờ là Uỷ Viên của Hội Đồng Chấp Chánh, và ông Trần Trọng Sanh, một lănh tụ Việt Quốc tại Huế đang làm Giám đốc Công an Trung phần (hiện ở Mỹ).

      Song song với việc điều hành lớp huấn luyện, tôi bắt đầu tổ chức lại từ căn bản phong trào ủng hộ ông Diệm trong địa phương của ḿnh, đặc biệt là gây dựng lại hệ thống nhân sự cho tổ chức. V́ Đồng Hới là cửa ngơ mở ra liên khu Tư nhưng cũng là cửa thoát cho các phần tử quốc gia muốn rời bỏ Việt Minh để "về tề", nên tôi đă thành lập một bộ phận chỉ chuyên điều nghiên để kết nạp các phần tử này.

      Hoạt động của tôi dù kín đáo bao nhiêu nhưng cuối cùng cũng không thoát khỏi đôi mắt nghi ngờ của mật thám Pháp. Nghi ngờ đó biến thành thái độ đối phó khi họ quyết định bắt tôi và ba đồng chí cốt cán của tổ chức lúc khoá huấn luyện sắp kết thúc. Thế là ông Hiệu (trưởng ty Công an tỉnh Quảng B́nh), ông Đặng Phúc (một người bà con của ông Diệm), ông Phạm Đăng Tải quận trưởng quận Lệ Thủy (hiện ở Mỹ) và tôi bị pḥng Nh́ Pháp ập vào nhà riêng từng người bắt giam, và sau đó giải về pḥng điều tra của pḥng Nh́ Pháp tại Huế.

      May mắn thay, nhờ có đồng chí kịp thời thông báo, ông Trần Văn Lư vội can thiệp ngay với tướng Lebris, đang vừa là Uỷ Viên Cộng Hoà, vừa là Tư lệnh quân đội Pháp ở miền Trung, nên chúng tôi được trả tự do.

      Cuối tháng 12, Bảo Đại kư thông cáo chung với Cao uỷ Emile Bollaert, chuẩn bị cho Việt Nam độc lập trong Liên hiệp Pháp. Tôi quyết định chuyển từ đấu tranh bí mật sang đấu tranh công khai. Quyết định này phát xuất từ ba lư do rất rơ ràng: Trước hết, trong khung cảnh đấu tranh chính trị lúc bấy giờ, vấn đề biểu dương lực lượng để xác định sự hiện diện và sự lớn mạnh của tổ chức rất cần thiết; thứ nh́ là cần tạo một số cơ sở quần chúng để đưa tổ chức dựa lưng vào nhân dân; và cuối cùng là cá nhân tôi và một số đồng chí đàng nào cũng có hồ sơ và cũng bị mật thám Pháp theo dơi rồi.

      Một cơ quan ngôn luận vừa có chức năng thông tin tuyên truyền, vừa có nhiệm vụ đấu tranh là h́nh thức thích hợp nhất và có thể trả lời được ba điều kiện trên. Tôi bèn bàn với anh Phan Xứng, người bạn tri kỷ của tôi, quyết định cho ra đời tuần báo Tiếng Gọi. Tôi làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, c̣n anh Xứng th́ làm Tổng thư kư toà soạn với sự hợp tác của anh Nguyễn Văn Chuân (sau này là thiếu tướng, và hiện ở Mỹ) và Nguyễn Khương (sau này là đại tá, và hiện ở Pháp). Bốn người chúng tôi là chủ lực phụ trách phần bài vở nói lên đường lối của tờ báo và lo phần điều hành, những bài vở khác có nội dung văn nghệ nhưng phù hợp với chủ trương của tờ báo th́ do một số nhà văn ở cố đô Huế được mời viết.

      Lúc bấy giờ ở Huế đă có hai tờ báo khác: nhật báo Quốc Gia của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp, do cựu Thượng thư Trần Thanh Đạt chủ trương, và bán tuần san Ḷng dân, tiếng nói bán chính thức của Hội Đồng Chấp Chánh Trung Kỳ, do ông Vơ Như Nguyện điều khiển. Hai tờ báo này có lập trường chính trị rất rơ rệt là chống Cộng Sản và cổ xuư cho giải pháp Bảo Đại. Tuần báo Tiếng Gọi của chúng tôi, ngoài lập trường chống Cộng, c̣n chủ chương đấu tranh chống thực dân đế quốc, ủng hộ đường lối và cá nhân ông Ngô Đ́nh Diệm.

      Năm 1948 mở màn với những vận động sôi nổi tại Hồng Kông, nơi ông Bảo Đại trú ngụ. Trước sự thành h́nh minh nhiên của giải pháp Bảo Đại, tôi viết một bài quan điểm nẩy lửa kêu gọi ông Bảo Đại nên chấp thuận lập trường và chủ trương của ông Ngô Đ́nh Diệm. Chủ đích của bài báo là vừa giới thiệu thân thế và sự nghiệp của ông Diệm với quần chúng đông đảo, vừa chứng minh rằng một lập trường cứng rắn trong giai đoạn này là thích ứng nhất cho vận mệnh đất nước. Số tiếp theo, số 8, tôi lại viết một bài nhan đề Con chó đá bên mộ cụ Phan Bội Châu, đả kích và lên án gắt gao thái độ ngoan cố của thực dân Pháp đang tiến hành chính sách tái lập nền đô hộ. Bài này lại được tờ Quốc Gia của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp trích đăng đầy đủ.

      Mấy ngày sau, trong lúc đang cùng với anh em toà soạn chuẩn bị ra số tiếp theo th́ nhận được tin sở Liêm Phóng Pháp sắp bắt tôi một lần nữa. Ông Trần Văn Lư lại phải can thiệp với tướng Lebris để tôi khỏi vào tù, nhưng tờ Tiếng Gọi th́ bị thâu hồi giấy phép, đóng cửa vĩnh viễn. Sau tám số tung hoành ngang dọc, tờ Tiếng Gọi đành im tiếng, nhưng lời kêu gọi của nó vẫn c̣n vang vọng trong ḷng một số người dân cả ba kỳ. Tôi thanh toán các hồ sơ c̣n dang dở, thu xếp bàn ghế và dụng cụ rồi bùi ngùi đóng cửa toà soạn với rất nhiều cảm xúc. Phan Xứng lên đường đi Đà Lạt và Sài G̣n.

      Cuối tháng ba, Mặt trận Quốc Gia Liên Hiệp vận động cất chức ông Trần Văn Lư và thành công trong việc thay thế ông Lư bằng ông Hà Xuân Hải trong chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Chánh Trung Kỳ (nhiều sách Việt ngữ [5] và ngoại quốc, sau này, đă sai lầm khi viết rằng ông Diệm là lănh tụ của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp tại Huế. Thật ra, mặt trận này đă xem ông Diệm và ông Lư là những đối thủ quan trọng).

      Đến tháng Năm th́ giải pháp Bảo Đại thật sự thành h́nh với sự ra đời của Chính Phủ Trung Ương Lâm Thời tại Sài G̣n do ông Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng, và ông Phan Văn Giáo, một cộng sự viên thân tín của ông Bảo Đại, từ Hồng Kông về Huế đảm nhận chức vụ Tổng trấn Trung phần.

      Ông Phan Văn Giáo nguyên là một dược sĩ ở Thanh Hoá và đă từng là bạn thân với ông Ngô đ́nh Diệm và ông Nguyễn Đệ. Ông bị Việt Minh bắt giam gần một năm rưỡi, khi ra khỏi tù, ông liền qua Hồng Kông cộng tác với Cựu Hoàng Bảo Đại. Ông Giáo là một chính trị gia nh́n xa thấy rộng, hoạt bát, lanh lợi, và rất b́nh dân. Đối với binh sĩ và cán bộ dân sự thường phải trực tiếp đối đầu với hiểm nguy, ông coi họ như bà con ruột thịt, thường giúp đỡ tiền bạc mỗi khi họ túng thiếu. Thỉnh thoảng ông đi hành quân với binh sĩ, ngủ lại đêm với họ ở những tiền đồn hẻo lánh xa xôi.

      Về Huế nhậm chức Tổng trấn, việc đầu tiên của ông là tiến hành việc tổ chức và xây dựng một quân đội quốc gia tại miền Trung mà ông có tham vọng sẽ thay thế quân đội Pháp. Ông xin đại uư Nguyễn Ngọc Lễ, lúc bấy giờ đang làm việc trong quân đội Pháp, về giữ chức Tư lệnh đội quân quốc gia mà ông đặt tên là Việt Binh Đoàn. Theo ông Giáo, Việt Binh Đoàn là V.B.Đ. ngầm ư là vua "Vua Bảo Đại", "V́ Bảo Đại", hay "Với Bảo Đại". Đại uư Nguyễn Ngọc Lễ dù cấp số thuộc quân đội Pháp nhưng là một phần tử quốc gia yêu nước mà nhà văn Nguyễn Vỹ có đề cập đến trong tác phẩm Tuấn, chàng trai nước Việt. Ông Lễ, từ khi chuyển qua Việt Binh Đoàn được thăng cấp thiếu tá, là một người hiền hậu, chân thành, ông xem binh sĩ cấp dưới như anh em ruột thịt trong nhà.

      Với chỉ tiêu của đợt thành lập đầu tiên là 10.000 quân nhân cho quân lực Việt Binh Đoàn, ông Lễ có rất nhiều cộng sự viên có khả năng trong bộ tham mưu của ông. Do đó, tuy không quen nhau từ trước nhưng chỉ v́ có nghe đến khả năng tham mưu và thành tích đấu tranh của tôi mà ông cho mời tôi đến và hợp tác. Trong buổi hội kiến đầu tiên, điều làm cho tôi ngạc nhiên thật sự và có phần nào cảm phục là ông Lễ (và cả ông Giáo) đều biết tôi là một cán bộ ṇng cốt của tổ chức ông Diệm, đối thủ trực tiếp và đáng kể của cả hai ông, thế mà v́ nhu cầu quốc gia, hai ông đă không ngần ngại kêu gọi làm việc chung.

      Sau khi hội ư với một số anh em, tôi quyết định nhận lời để duy tŕ sự hiện diện của ḿnh trong một bộ phận trung ương của quân đội tương lai. Tôi được giữ chức Trưởng Pḥng Ba, đặc trách về tổ chức, huấn luyện, và hành quân, đồng thời kiêm nhiệm chức chủ nhiệm tuần báo Tiếng Kèn, cơ quan ngôn luận chính thức của quân đội Việt Binh Đoàn. Cả hai nhiệm vụ này đều phù hợp với khả năng và sở thích của tôi. Tôi thầm nghĩ: sau Tiếng Gọi yêu nước, bây giờ là Tiếng Kèn lên đường, đều là những tiếng KÊU tranh đấu cả.

      Chỉ hơn một năm sau, quân đội Việt Binh Đoàn đă phát triển mạnh mẽ, tinh thần chiến đấu cao và khả năng tác chiến ở mức khá hiện đại. Tại nhiều địa phương chiến lược, đơn vị Việt Binh Đoàn đă thay thế các đơn vị của quân đội Pháp. Uy tín và uy thế của Việt Binh Đoàn càng ngày càng lên cao làm cho các chính khách ở ngoài Bắc cũng như trong Nam và các cấp chỉ huy Pháp đi từ ngạc nhiên đến thán phục. Nhiều khi họ tổ chức hẳn thành những phái đoàn đến thăm để nghiên cứu.

      Ngày 8 tháng 3 năm 1949, cựu hoàng Bảo Đại và Tổng thống Pháp Vincent Auriol kư thoả ước Elysée biến Việt Nam thành một quốc gia "Độc lập trong Liên Hiệp Pháp", nhưng Quốc pḥng, Ngoại giao và Tài chính vẫn bị Pháp chi phối, kiểm soát.

      Tháng 4 năm 1949, Quốc trưởng Bảo Đại hồi loan sau ba năm tự ư lưu vong nơi hải ngoại. Ông đi công du ba miền để thăm viếng đồng bào, về Huế thăm lại Cố Đô, thăm mẹ già và cúng kỵ Tiên Vương. Ông sung sướng thấy tại miền Trung một quân đội hoàn toàn Việt nam, do chính sĩ quan Việt Nam chỉ huy, tinh thần cũng như tác phong hùng dũng, gương mẫu, không thua ǵ quân đội chính qui ở các nước tiên tiến. Cũng cần nhắc lại năm ngoái, năm 1948, ông Phan Văn Giao được Quốc trưởng Bảo Đại thăng hàm Trung tướng, do đó một buổi lễ diễn binh long trọng do tôi tổ chức trước lầu Ngọ Môn để Thủ tướng chính phủ Nguyễn Văn Xuân, đại diện cho Cựu Hoàng đang ở Hồng Kông, gắn lên vai Trung tướng Phan Văn Giáo ba ngôi sao bạc. C̣n năm 1949, một chợ phiên qui mô, to lớn để tŕnh bày thành tích của Việt Binh Đoàn cũng do tôi tổ chức tại Bến Thương Bạc và trên sông Hương, đă thu hút hàng chục vạn người tham dự. Các chính khách, tướng tá, các nhân sĩ, thương gia từ Hà Nội, Đà Lạt, Sài G̣n, đến dự chợ phiên đông đảo, tạo cho quang cảnh cố đô mười ngày đêm tưng bừng rộn ră vô cùng.

      *

      Nước Việt Nam, trong tiến tŕnh lập quốc rồi Nam tiến mở mang bờ cơi, và cận đại hơn, trong chuỗi thời gian Pháp đô hộ, Nhật chiếm đóng, Việt Minh cướp chính quyền, cho đến khi Pháp trở lại và giải pháp Bảo Đại ra đời, đă có đến ba thủ đô: Hà Nội, Huế và Sài G̣n. Tùy hoàn cảnh chính trị, tuỳ triều đại, tuỳ những đổi thay của thời cuộc mà mỗi thành phố lần lượt mang vai tṛ thủ đô lănh đạo chính trị, hành chánh quốc gia. Ví dụ như từ triều đại nhà Lư đến hậu Lê, Hà Nội là thủ đô quốc gia ; triều đại nhà Nguyễn từ thời Gia Long đến hết đời Tự Đức, thủ đô là Huế; và thời Pháp thuộc, thủ đô là Sài G̣n. Tuy nhiên, mỗi thủ đô có một cá tính đặc thù, như Hà Nội có tiếng là đất ngàn năm văn vật, Sài G̣n th́ mang tên ḥn ngọc Viễn Đông, c̣n Huế, từ thời nhà Nguyễn đến thời Việt Nam Cộng Hoà, đă đóng vai tṛ ǵn vàng giữ ngọc cho nền văn hoá dân tộc. H́nh ảnh và dư âm của những trường thi Hương, thi Hội, những chùa chiền, lăng tẩm, miếu vũ, đền đài, Hoàng thành, Đại nội, Văn Vơ Thành, Tàng thư, Di Luân Đường, những biến cố truất biếm hay lưu đầy các vị vua cách mạng, sự hiện diện của chí sĩ Phan Bội Châu mười lăm năm trời tại Bến Ngự, những điệu ḥ mái nh́, mái đẩy, những câu ca Nam B́nh, Nam Ai, hay cái áo dài muôn thuở của người con gái xứ Huế ... đă là những biểu tượng sống động của nền văn hoá và t́nh tự dân tộc. Nếu chưa cho những thành tựu, những kết tinh đó là đủ th́ phong cảnh, cỏ cây, hoa lá của xứ Huế, hơn nơi nào hết, đă hoà t́nh người với cảnh vật, đă hoà hồn cá nhân với hồn vũ trụ tạo nên khí thiêng và sức sống của dân tộc.

      Trong bối cảnh lịch sử của thập niên 50, trong khi Hà Nội như đang đi vào dĩ văng, Sài G̣n th́ đang cựa ḿnh vươn lên để đón nhận một tương lai kinh tế và thương mại phồn thịnh, th́ Huế vẫn tượng trưng cho sự quyết tâm bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc, kiên tŕ bám chặt lấy truyền thống cốt lơi. Cho nên Huế đă giữ đúng vai tṛ trọng yếu trong sự phát huy quốc học nói chung và Phật học nói riêng. Thử kiểm điểm những bia miếu, liệt kê trong những ngôi chùa, thử làm một danh bản những bậc cao tăng, ghi lại những nhọc nhằn đau đớn mà dân tộc đă gánh chịu, những hân hoan kiêu dũng của một kinh đô giữa ḷng đất mẹ, th́ ta sẽ thấy ngay một bức tranh sinh động về văn hoá và tinh thần của dân tộc Việt Nam. V́ quen nghĩ đến Huế như một biểu tượng b́nh lặng, khuất ch́m trong cuộc sống nên ít người biết rằng dưới cái lớp vỏ u hoài cô tịch của xứ Huế, có một sức sống mănh liệt, dạt dào đang luôn sôi sục để nếu có một cơ hội là vùng lên phát huy, tung nở đoá hoa dân tộc. Những biến cố lịch sử cận đại cũng đủ để chứng minh điều đó rồi.

      Sau những mùa chiến chinh ly loạn với bao thay đổi đoạn trường, những lá cờ cũng thay h́nh biến dạng đổi màu từ cờ Long Tinh qua cờ Quẻ Ly, rồi từ cờ đỏ sao vàng biến thành cờ tam tài xanh trắng đỏ cho phù hợp với những đổi thay phông cảnh, đào kép trên sân khấu chính trị. Riêng dân Việt Nam, tôi muốn nói đến những người Việt quốc gia chống Cộng phải chấp nhận thế đứng đớn đau ở bên này chiến tuyến, quả thật đă hoàn toàn tuyệt vọng v́ có chính nghĩa mà không làm sáng bùng lên chính nghĩa đó khi (v́ lư do này hay lư do khác, dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác) phải cùng với người Pháp bảo vệ những mảnh đất quê hương c̣n tự do. Cho nên sự trở về của vua Bảo Đại, với sự ra đời của lá cờ vàng ba sọc đỏ như một biểu tượng hồi sinh mới, đă tượng trưng cho một niềm hy vọng.

      Đồng ư là vua Bảo Đại đă có thời gian là một vị vua bù nh́n, sống cuộc đời thụ hưởng ở quê người. Nhưng năm 1948, sau những vận động ngoại giao khôn khéo trong những điều kiện khó khăn nhất của một kẻ mất đất mất dân, yếu thế, ông đă thành công trong nỗ lực tiến lên một bước, một bước đầu tuy ngắn nhỏ nhưng cơ bản, để đặt nền móng cho chế độ gọi là quốc gia sau này. Một ông vua đă lột xác, đă thức tỉnh để giữ đúng và giữ trọn tinh thần của lời tuyên bố bốn năm trước rằng:

      "Trẫm hy sinh ngai vàng điện ngọc cho quốc dân" và "Trẫm thoái vị để thà làm dân một nước độc lập, c̣n hơn làm vua một nước nô lệ" [6].

      V́ vậy, ông trở về và đă được những lực lượng đấu tranh trong nước đón nhận như một biểu tượng của thế quốc gia chống Cộng của người Việt Nam. Nhiều chính khách, nhân sĩ yêu nước và có hoạt động cách mạng, trước đây giữ thái độ trùm chăn hoặc chống đối người Pháp bằng thái độ bất hợp tác, nay cũng quyết định ra mặt ủng hộ Quốc trưởng Bảo Đại như các ông Phan Khắc Sửu, Nguyễn Tôn Hoàn, Hoàng Nam Hùng,Vũ Hồng Khanh, Ngô Thúc Định, Nguyễn Phan Long... và nhiều nhân vật trọng yếu trong các đảng Đại Việt, Việt Quốc, hay các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo. Đặc biệt, giám mục Lê Hữu Từ vốn là Cố vấn Tôn Giáo của ông Hồ Chí Minh và từng duy tŕ giáo phận Phát Diệm của ngài trong tư thế "tự trị", cũng từ bỏ thái độ này và sát nhập vùng tự trị Phát Diệm vào cộng đồng quốc gia dưới quyền cai trị của Quốc trưởng Bảo Đại [7]. Ngay cả ông Ngô Đ́nh Diệm, dù sau này đă từng xuống tay hạ nhục ông Bảo Đại bằng một cuộc trưng cầu dân ư lạ lùng, th́ cũng là một Thủ tướng do chính Bảo Đại bổ nhiệm, và tháng 7 năm 1954, khi vị Tân Thủ tướng ra Huế, th́ cũng đă phải đến cung Diên Thọ trong nội thành cố đô Huế để cúi đầu bái yết đức Từ Cung, thân mẫu của Quốc trưởng Bảo Đại. (Tâm trạng của ông Diệm và ư nghĩa đích thực của cuộc trưng cầu dân ư năm 1955 đă được ông Đoàn Thêm phân tách rơ ràng trong chương "hạ bệ và suy tôn" của tác phẩm Những ngày chưa quên).

      Cho nên, lật lại những trang sử cũ, khách quan và nghiêm chỉnh nh́n lại những biến động của đất nước trong thời gian đó để đừng v́ tinh thần bè phái và xúc động chủ quan mà bóp méo sự thật, ta phải công nhận rằng chính Bảo Đại đă đặt viên đá đầu tiên xây dựng nền tảng pháp lư, cơ sở quốc gia, và nội dung chống Cộng cho các chế độ Cộng hoà sau này. Nền tảng đó, cơ sở đó, nội dung đó, nếu sau này theo t́nh h́nh mà tăng trưởng hay lụn bại, mà đẹp thêm hay xấu đi th́ viên đá đầu tiên, với những giới hạn của trạng huống đất nước lúc đó, vẫn có giá trị không chối căi được của một viên đá đầu tiên.

      Nói rơ ra, phải có một Bảo Đại mới có một Ngô Đ́nh Diệm. Cũng như phải có một Ngô Đ́nh Diệm th́ mới có một Nguyễn Văn Thiệu trong sự liên tục luân lưu của lập trường chống Cộng từ năm 1949 cho đến năm 1975. Sự sụp đổ thảm bại của quyết tâm đó và lực lượng đó, ngoài những yếu tố khách quan và ngoại vi khác, là do ông Ngô Đ́nh Diệm và ông Nguyễn Văn Thiệu, chứ phần lớn nhất không phải là và không thể là do ông Bảo Đại.

      Giải pháp Bảo Đại đă khai sinh ra Việt Binh Đoàn, tiền thân đích thực của Quân đội Việt Nam Cọng Ḥa sau này, một đội quân hoàn toàn Việt Nam trên phương diện tổ chức, nhân sự và đường lối. Tuy người Pháp lúc bấy giờ có thành lập một số "tiểu đoàn Việt Nam" nhưng những tiểu đoàn này vẫn do sĩ quan Pháp hoặc tay sai của họ chỉ huy và vẫn bị người Việt Nam khinh bỉ v́ bản chất "lính đánh thuê" của chúng. Trái lại, Việt Binh Đoàn, dù chưa có truyền thống của một quân đội độc lập lâu dài, dù c̣n phải phối hợp với quân đội Pháp để cùng chiến đấu chống lại bộ đội Cộng sản, đă thực sự là một quân đội quốc gia (trong ư nghĩa chủ quyền và tự quyết) để che chở và bảo vệ nhân dân đang kẹt giữa hai lằn đạn của Việt Minh và Pháp. Chính Việt Binh Đoàn với trường Vơ Bị Quốc Gia đầu tiên ở Huế đă cung cấp cho quân lực Việt Nam Cộng Hoà sau này những sĩ quan chỉ huy cấp tướng và cấp tá. Cũng chính Việt Binh Đoàn đă đào tạo ra những chiến sĩ anh dũng (sau này được chọn lựa vào Lữ Đoàn Liên Binh Pḥng Vệ Tổng Thống Phủ của ông Diệm) và những cấp chỉ huy của hai sư đoàn 1 và 2 can trường đương đầu sóng gió Trị Thiên.

      Nhớ lại thời kỳ chập chững h́nh thành của Việt Binh Đoàn với bao khó khăn và trở ngại phải khắc phục, nhớ lại thời kỳ phát triển vàng son của Việt Binh Đoàn với những chiến thắng oanh liệt, tôi không khỏi liên tưởng đến cựu Trung tướng Nguyễn Ngọc Lễ bây giờ đă là người ngàn thu, và ông Trần Nguyên An (hiện ở Mỹ) nguyên Tham Mưu Trưởng Việt Binh Đoàn. Một người tượng trưng cho lư tưởng, tinh thần và ư chí, một người biểu tượng cho óc tổ chức, tài quyền biến và khả năng vận động của lực lượng vơ trang đầu tiên này của quốc gia Việt Nam. Chính hai người này, trong t́nh nghĩa chung lưng đấu cật với tôi, trong nỗi chia sẻ công tác khó khăn với tôi, đă ảnh hưởng khá nhiều đến con người nhà binh của tôi sau này.

      Tuy nhiên, dù bận rộn v́ công vụ, dù tâm t́nh có chia sẻ với những người bạn mới trong công tác chung, và dù trên mặt hệ thống quân giai có trực thuộc ông Nguyễn Ngọc Lễ và ông Phan Văn Giáo (do đó, Quốc trưởng Bảo Đại), ḷng tôi vẫn luôn luôn nghĩ về ông Ngô Đ́nh Diệm v́ những liên hệ keo sơn đă kết tinh từ lâu, và nhất là v́ ư thức chính trị và kinh nghiệm đấu tranh thực tiễn cho tôi thấy rằng t́nh h́nh Việt Nam không thể ngưng lại trong t́nh trạng của một quốc gia độc lập mà lại c̣n có chính quyền Pháp kiểm soát, của một quân đội chống Cộng mà lại c̣n phối hợp với lính viễn chinh Pháp đang khủng bố, tàn sát đồng bào ruột thịt.

      Giải pháp Bảo Đại chỉ là giải pháp tạm thời để khai thông một số bế tắc chính trị. Sự hợp tác giữa ông Bảo Đại và Pháp chỉ là sự hợp tác giai đoạn, kết quả của một thế chính trị có lợi cho cả hai bên, do đó, không sớm th́ muộn, một giải pháp khác sẽ phải ra đời cho phù hợp với t́nh h́nh quốc tế và sự đe doạ càng lúc càng nguy hiểm của đảng Cộng Sản trong ḷng cuộc kháng chiến của Việt Minh. Giải pháp khác đó phải đặt nền tảng trên chủ quyền quốc gia của người Việt mà thể hiện đầu tiên và rơ ràng nhất là quân đội quốc gia phải hoàn toàn thuộc về một chính phủ Việt Nam. Tôi suy nghĩ (và ước mơ) rằng giải pháp đó là giải pháp Ngô Đ́nh Diệm.

      V́ thế, từ khi trở lại Huế vào cuối năm 1948, tôi đă tiếp tục đến sinh hoạt ở ngôi nhà Phú Cam, nơi ông Ngô Đ́nh Cẩn đang ở, để cùng với một số anh em thảo luận những kế hoạch chính trị nhằm ủng hộ cho ông Diệm.

      Ông Ngô Đ́nh Cẩn là một người có cung cách và tác phong giống hệt một viên chánh tổng của miền quê Bắc Việt. Chân đi guốc gỗ, mặc áo bà ba lụa trắng, miệng nhai trầu nhóp nhép nhưng nói phô trịch thượng và lại khinh người. Với ai ông Cẩn cũng gọi là thằng nọ, thằng kia, ngay cả với ông Bảo Đại. Ông Cẩn chỉ trích và chê bai tất cả các đảng phái và thường huyênh hoang bảo rằng "bọn Đại Việt, Việt Quốc có đến mời tôi làm lănh tụ nhưng "bọn đó" chẳng làm nên tṛ trống ǵ nên tôi từ chối". Ông Cẩn có tiếng nói rơ ràng và cặp mắt rất sắc, đôi lông mày rậm và hơi xếch lên theo cái tướng của những người hiểm ác, dám làm những việc táo bạo. Sáu người con trai của ông Ngô Đ́nh Khả ai cũng học hành thành tài và có sự nghiệp, chỉ riêng ông Cẩn mới học đến lớp ba tiểu học th́ v́ ham chơi mà đứt ngang việc học hành. Cũng v́ thế mà khi lớn lên, Ông Cẩn chỉ lo việc đồng áng, chăm sóc bà cụ thân sinh và phụ trách các việc quan, hôn, tang, tế trong gịng họ Ngô Đ́nh.

      Từ năm 1948, một phần v́ tổ chức bị tan ră từ trước và phần khác v́ ông Diệm không có mặt thường trực tại Huế. nên số cán bộ cũ không c̣n lại bao nhiêu người, chỉ thưa thớt có các ông Vơ Như Nguyện, Trần Văn Hướng, Nguyễn Vinh, và tôi, vốn là những đồng chí cũ của ông Diệm từ thời tiền 1945.


    1. Dần dần, nhờ nỗ lực phát triển của chúng tôi và nhất là nhờ có một số người ư thức được rằng giải pháp Bảo Đại chưa phải là một giải pháp lâu dài để giải quyết dứt khoát và toàn bộ vấn đề Việt Nam, nên họ lượng định lại "lá bài" Ngô Đ́nh Diệm, và muốn liên hệ với chúng tôi như một lối thoát chính trị trừ bị, do đó họ cùng đến sinh hoạt và ủng hộ chúng tôi. Nhóm này có các ông Nguyễn Đôn Duyến, Tôn Thất Trạch, Phạm Văn Nhu, Trương Văn Huế, Phùng Ngọc Trưng, Nguyễn Văn Đông, Bùi Tuân, Huỳnh Hữu Hiến... Linh mục Nguyễn Văn Thính thuộc ḍng Chúa Cứu Thế ở Huế, cũng thường lui tới ngôi nhà Phú Cam để yểm trợ và theo dơi t́nh h́nh.

      Số lượng ủng hộ ông Diệm càng ngày càng gia tăng, phần đông là các linh mục và những người theo Công Giáo. Tuy nhiên, cho đến ngày ông Diệm về nước (vào năm 1954), số lượng đó chỉ hơn 30 người ở khắp bốn tỉnh miền trung Trung phần. Ông Trần Điền (sau này là nghị sĩ Quốc Hội thời Đệ Nhị Cộng Hoà) và ông Nguyễn Trân (sau này là Tỉnh trưởng Nha Trang dưới thời ông Diệm) cũng thỉnh thoảng đến nhà ông Ngô Đ́nh Cẩn, nhưng hai ông này chỉ đến gây cảm t́nh và để nghe ngóng t́nh h́nh chứ không phải thực sự ủng hộ ông Diệm. Ông Trần Điền, v́ một mặt có bà con với ông Hà Thúc Kư (một lănh tụ Đại Việt ở miền Trung), mặt khác là cộng sự viên thân tín của ông Trần Văn Lư, lại có ư khinh bỉ ông Cẩn nên không thực tâm ủng hộ; c̣n ông Nguyễn Trân, v́ có mặc cảm là một cựu tri phủ tham nhũng của Nam Triều bị hạ hồi dân tịch, lại có xu hướng thân Pháp, nên không dám hoạt động cho giải pháp Ngô Đ́nh Diệm [8]

      Ông Trần Văn Lư, vốn là một đồng chí kỳ cựu của ông Diệm, trong thời kỳ làm Chủ tịch Hội Đồng Chấp Chánh đă giúp đỡ tiền bạc để ông Diệm tiêu dùng và chi phí việc đi lại Hồng Kông gặp gỡ Cựu hoàng Bảo Đại. Nhưng từ khi ông Cẩn thấy tổ chức của anh ḿnh bắt đầu sống lại và càng ngày càng phát triển mạnh thêm th́ bắt đầu có thái độ khinh thường ông Lư, cho nên kể từ tháng 3 năm 1948, khi ông Lư mất chức Chủ tịch Hội Đồng Chấp Chánh th́ hai gia đ́nh không c̣n liên hệ ǵ với nhau nữa. Các ông Diệm, Nhu, và giám mục Thục có lẽ v́ nghe lời dèm pha và xúi giục của ông Cẩn nên cũng chấm dứt mối tương quan với ông Lư.

      Thời bấy giờ ở Huế, ông Cẩn công khai bày tỏ sự căm thù đối với dược sĩ Nguyễn Cao Thăng, và gọi là Việt gian, vô luân, v́ ông Thăng là bạn giao t́nh của Thủ hiến Phan Văn Giáo, người mà ông Cẩn thù ghét. Ông Nguyễn Cao Thăng c̣n là tay chân thân tín của Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm và là đại diện thợ thuyền của ông Tâm tại Trung phần. Nhưng lư do chính và sâu kín nhất mà ông Cẩn thù hằn ông Thăng là v́ ông này thường công khai gọi ông Cẩn là "hạng nhai trầu, dựa tên tuổi của cha anh mà làm tàng, hàng chánh tổng mà đ̣i làm lănh tụ..." Ông Cẩn c̣n tuyên bố với anh em chúng tôi là hễ có chính quyền trong tay th́ người đầu tiên ở Huế mà ông ta chặt đầu là Nguyễn Cao Thăng. (Cuối năm 1954, khi ông Diệm đă làm Thủ tướng, tức là ông Cẩn "đă có chính quyền trong tay", ông bèn ra lệnh cho nhóm Lê Quang Tung, Trần Thái ném lựu đạn vào nhà riêng của ông Trần Văn Lư và vào nhà thuốc của ông Nguyễn Cao Thăng ở đường Trần Hưng Đạo. Ông Trần Thái hiện sống ở Mỹ).

      Từ năm 1948, các ông Thục, Diệm, và Nhu thỉnh thoảng về Huế để thăm bà cụ thân sinh. Cứ mỗi lần như vậy, nhất là khi chính ông Diệm về, chúng tôi lại tổ chức các cuộc gặp gỡ trong ṿng đồng chí và thân hữu để thảo luận về t́nh h́nh chính trị, t́nh h́nh chiến sự và các kế hoạch cần phát động. Và từ đó, chúng tôi xiết chặt ṿng thân hữu lại bằng cách yêu cầu các thân hữu (chứ không phải chỉ các đồng chí trong tổ chức mà thôi như trước kia) cứ mỗi ba tháng lại đóng góp một số tiền để giúp đỡ ông Diệm, ông Nhu có khả năng hoạt động chính trị. Sau này, khi ông Diệm xuất ngoại, số tiền đóng góp của chúng tôi lại tăng thêm và thường xuyên hơn.

      Ông Thục và ông Nhu cũng tỏ ra cởi mở và vui vẻ hơn ngày xưa, thường hỏi thăm hoàn cảnh gia đ́nh và tâm sự cá nhân riêng tư của chúng tôi. Vào một buổi chiều tháng 6 năm 1950 ông Nhu đă nhờ ông Vơ Như Nguyện và ông Huỳnh Hữu Hiến hướng dẫn đến thăm tôi tại căn nhà nghèo nàn chật hẹp ở cửa Đông Ba. Lúc bấy giờ tôi là một Trung uư trong quân đội Việt Binh Đoàn với một người vợ đảm đang nhưng quê mùa và bốn đứa con trai mà đứa đầu mới 10 tuổi. Trong căn pḥng khách chật hẹp và nóng nực, và cũng là pḥng học và pḥng ngủ của các con tôi, ông Nhu tuy mồ hôi nhễ nhại mà cũng vui vẻ dùng chén chè xanh và cho biết sở dĩ ông đến thăm tôi v́ lời giới thiệu đặc biệt của hai ông Diệm và Cẩn về một cán bộ trung kiên, tâm huyết, can trường và biết sống chết cho lư tưởng. Tôi c̣n nhớ ông Nhu đă nói thẳng rằng: "muốn làm cách mạng th́ phải có những chiến sĩ như anh, c̣n hạng khoa bảng chỉ là bọn nhát gan, hay tính toán và chỉ biết tranh giành địa vị để làm giàu".

      Ông Cẩn tuy thường ngạo mạn và ra oai với mọi người nhưng cũng biết e dè với cụ Trương Văn Huế, một bậc lăo thành, với ông Vơ Như Nguyện và tôi, hai cán bộ dám chỉ trích và tranh luận tay đôi với ông ta.

      V́ những sinh hoạt của tôi tại ngôi nhà Phú Cam càng ngày càng công khai, và v́ ông Cẩn càng ngày càng đả kích Quốc trưởng Bảo Đại nên một hôm, Thủ hiến Phan Văn Giáo, với tư cách là cấp* chỉ huy của tôi, đă mời tôi đến văn pḥng để cảnh cáo dưới h́nh thức của một buổi nói chuyện thân t́nh:

      "Moa biết toa làm việc với moa mà toa vẫn cứ trung thành và hoạt động cho Ngô Đ́nh Diệm. Nhóm Ngô Đ́nh Cẩn làm ǵ, kể cả việc nói xấu Đức Quốc Trưởng và chỉ trích moa, moa biết hết. Nhưng moa tha cho hết v́ nhóm đó cũng là những người chống Cộng sản, chống Việt Minh, huống chi moa biết Diệm quá rơ, Diệm không làm nên tṛ trống ǵ đâu, bọn toa có hoạt động cũng vô ích, cũng chẳng đi tới đâu, nên moa chẳng cần bắt bớ.

      "Toa chưa biết chứ Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Đệ và Phan Văn Giáo đă có một thời kết nghĩa anh em như "Les trois Mousquetaires". Diệm lù khù như một nhà tu, lại dang dở việc t́nh duyên nên moa và Đệ gọi y là "Aramis". (Đệ là ông Nguyễn Đệ, nguyên Đổng lư văn pḥng của Quốc trưởng Bảo Đại. Trong hồi kư Le Dragon d Annam, Bảo Đại cũng cho biết ông Đệ và ông Diệm là đôi bạn thân, khi ông Diệm từ chức Thượng thư Bộ Lại th́ ông Đệ cũng từ quan luôn. Ông Đệ hiện ở Pháp – Ghi chú của tác giả).

      "Có lẽ v́ Ngô Đ́nh Cẩn tự ái không cho toa biết chứ moa đă giúp đỡ cho mụ Cả Lễ (em gái ông Diệm) nhiều vụ đấu thầu để bà ta có lời lấy tiền giúp cho Diệm và Cẩn hoạt động. Chủ trương của moa là các đảng phái quốc gia cần phải được chính quyền giúp đỡ v́ họ càng hoạt động, càng tổ chức, th́ càng làm giảm tiềm lực Cộng Sản, hàng ngũ chống Cộng càng tăng thêm. Trước đây Trần Văn Hướng (anh ruột của Trần Văn Dĩnh) làm Phó Giám đốc Thông Tin, in bài báo của đại sứ William Bullit để đả kích Quốc trưởng rải khắp nơi trong ư đồ ủng hộ ông Diệm, moa cũng tha thứ, th́ nay moa chỉ gọi toa đến để nói cho toa biết ḷng quảng đại, khoan dung của moa chứ moa không làm tội t́nh ǵ toa đâu". (Những lời lẽ của ông Giáo trên đây tôi có nói lại cho ông Cẩn và các bạn bè như ông Duyến, Nguyện, Hướng biết).

      Sau này, năm 1954, khi ông Diệm mới từ Mỹ về nước cầm quyền th́ ông Giáo đang là Thủ hiến Trung Việt (nhiệm kỳ hai). Trong lần ông Diệm trở về Huế để bái yết đức Từ Cung và thăm những tôn miếu trong Hoàng thành, ông Giáo đă tổ chức một cuộc đón rước rất trọng thể tại sân bay Phú Bài và ngay tại cố đô Huế. Nhưng chỉ độ một tháng sau th́ ông Diệm cách chức ông Giáo, điều tra tài sản và đe doạ khiến ông Giáo phải trốn đi Pháp.

      Ông Giáo không phải là người hoàn toàn và chắc chắn đă có những lỗi lầm cá nhân, nhưng trên mặt công việc, nhất là công việc chung của đất nước, ông là một nhân vật có lập trường quốc gia chống Cộng rất vững chắc, một cán bộ cao cấp có tài tổ chức, có tầm nh́n xa và rộng, lại có tinh thần đoàn kết rộng răi và biết trọng dụng nhân tài. Đă từng công tác với ông trong một số công việc khó khăn và quan trong, tôi cứ tiếc hoài một người như ông Phan Văn Giáo mà không làm Bộ trưởng Quốc Pḥng để tổ chức và chỉ huy quân đội quốc gia hầu đọ sức thi tài với ông Vơ Nguyên Giáp.

      Ngày 7 tháng 2 năm 1950, Hoa Kỳ và Anh quốc cùng công nhận nước Việt Nam độc lập và thiết lập quan hệ ngoại giao với chính quyền Bảo Đại. Toà đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên đặt tại Sài G̣n do ông Donald Heath, một nhà ngoại giao kỳ cựu, điều khiển. Trong khi đó th́ Mao Trạch Đông, sau khi thống nhất được Trung Hoa Lục Địa, bắt đầu kế hoạch quân viện quy mô cho Việt Minh dọc theo miền biên giới Việt Hoa.

      *

      Như vậy, những vận động âm ỉ từ trước của các cường quốc về số phận của nước Việt Nam bắt đầu phát động mạnh mẽ bằng những biểu dương ngọai giao và quân sự ngay trong ḷng đất nước vào mùa xuân năm 1950, mặc những nỗ lực tội nghiệp của đế quốc Pháp đang trên đà suy tàn. Và đến cuối năm, sau khi bị đánh bại nặng nề ở Cao Bằng, ngày 6 tháng 12, chính phủ Pháp bổ nhiệm tướng Jean De Lattre de Tassigny làm Tổng tư lệnh quân đội kiêm Cao uỷ Đông Dương để mong cứu văn t́nh h́nh càng ngày càng nguy ngập.

      Tháng 2 năm 1951, ông Hồ Chí Minh thành lập đảng Lao Động để thay thế cho đảng Cộng Sản đă được tuyên bố giải tán từ năm 1945, và thống nhất Mặt Trận Liên Hiệp nhằm lôi kéo những lực lượng chống Pháp không Cộng sản khác. Cũng trong mùa xuân năm đó, tôi được thuyên chuyển ra Đồng Hới giữ chức Chỉ huy trưởng lực lượng Việt Binh Đoàn tỉnh Quảng B́nh. Trước khi lên đường về nhiệm sở mới, trong văn pḥng ông Phan Văn Giáo và có mặt cả ông Nguyễn Ngọc Lễ, ông Giáo cho biết người Pháp đă phản đối kịch liệt quyết định bổ nhiệm tôi vào chức vụ quan trọng này v́ họ không tin tưởng vào lập trường chính trị của tôi. Trước khi ra về để lên đường, ông mới nói rơ ư định thật của ḿnh: "Moa giải thích với người Pháp về chuyện bổ nhiệm toa giữ chức chỉ huy quân sự rằng toa là người quê Quảng B́nh nên hiểu rơ dân tính và địa thế vùng đất chiến lược này. Moa muốn toa hợp tác chặt chẽ với bên dân sự là tỉnh trưởng Nguyễn Văn An ở ngoài đó. (Nguyễn Văn An tức Nguyễn Tấn Quê, mưu sĩ xuất sắc nhất của ông Diệm mà tôi đă đề cập đến trong chương hai, ông đổi tên từ sau khi ở tù Việt Minh ra. Từ đây tôi sẽ chỉ gọi tên Nguyễn Văn An để thay thế cho tên Nguyễn Tấn Quê). Hai anh em sẽ bắt tay nhau chặt chẽ để b́nh định tỉnh Quảng B́nh, v́ moa đang điều đ́nh với người Pháp để họ giao hoàn toàn quyền cai trị tỉnh này lại cho chính quyền Việt Nam. Quảng B́nh là nơi đứng đầu sóng ngọn gió đối đầu với Liên khu Tư của Việt Minh, ḿnh phải tỏ ra đủ khả năng đương đầu với Việt Minh trên cả hai mặt trận chính trị và quân sự th́ ngựi Pháp mới dần dần trả đất đai quyền hành lại cho Đức Quốc trưởng".

      Tôi về lại Quảng B́nh, quê hương thân thương, và cùng với ông Nguyễn Văn An bắt tay liền việc xây dựng và phát triển sức mạnh của Việt Binh Đoàn như một sức mạnh vừa công vừa thủ, vừa có chức năng bảo vệ các cơ sở hành chánh và kinh tế, vừa có nhiệm vụ tiêu diệt các đơn vị vơ trang của địch.

      Cũng trong năm1951 này, một hôm tôi nhận được điện tín mật của ông Nguyễn Đôn Duyến (tôi nhớ h́nh như lúc bấy giờ ông đang làm Tỉnh trưởng Thừa Thiên) chuyển lời của ông Ngô Đ́nh Cẩn nhờ chấm số tử vi của ông Diệm xem trong tương lai gần có biến chuyển ǵ không. Liên lạc thêm với ông Duyến, tôi mới biết cụ bà Ngô Đ́nh Khả mang trọng bệnh sắp mất và ông Cẩn đă nghĩ đến chuyện "hậu sự" cho bà như chuẩn bị quan tài, in thiếp báo tang và cũng đă đánh điện tín thông báo cho ông Diệm lúc bấy giờ đang ở Hoa Kỳ biết.

      Tại Đồng Hới có một thầy tử vi rất giỏi là thầy Dụ mà ông Cẩn, dù là một tín đồ Thiên Chúa giáo ngoan đạo và vẫn thường chỉ trích những h́nh thức bói toán này, đă nhấn mạnh với ông Duyến nhờ nói với tôi là phải đến ông thầy này chứ không ai khác. Tôi đến gặp thầy Dụ và đưa tuổi ông Diệm mà tôi giả vờ bảo là tuổi anh cả của tôi để thử tài và nhờ đoán hộ một số. Bấm tay xong, thầy Dụ bảo tuổi Canh Tư này không phải là tuổi của anh tôi mà phải là tuổi của một nhân vật rất tiếng tăm nhưng cuộc đời th́ "thăng trầm vô độ". Thầy Dụ lần lượt kể ra những đặc biệt của số này: Một là anh em của người này phải có người làm tu sĩ cấp cao, hai là anh em phải có người chết bất đắc ḱ tử, ba là tuổi này đă có một đại hạn (mười năm) làm quan rất lớn, bốn là trong đại hạn hiện tại, tuổi này chỉ là bạch đinh và phải xa nhà, xa anh em vạn dặm trùng dương, năm là tuổi này về đường thê thiếp th́ vợ con vô thuỷ vô chung v́ cặp mắt có nốt ruồi thương phu trích lệ, và cuối cùng là đại hạn sắp tới (mười năm tiếp theo) công danh tột đỉnh, tiếng tăm vang lừng, nhưng sẽ bị thiên hạ nửa ghét nửa thương.

      Tôi ngắt lời thầy Dụ để hỏi :"Ai ở đời mà không có người thương người ghét?" thầy Dụ đồng ư nhưng ông cho là rất khó nói v́ thương ghét ở đây c̣n có ư là phe đảng, thuần phục và chống đối. (Sau này tôi mới hiểu ra được thời gian ông Diệm cầm quyền th́ đất nước bị chia đôi thành hai phe Quốc- Cộng). Điểm quan trọng mà ông Cẩn muốn biết là ông Diệm có về kịp để nh́n mặt mẹ trước khi tống táng cho mẹ không th́ thầy Dụ bảo rằng: "số này là số mẹ khóc con, nghĩa là mẹ sẽ chết sau con" (xin lưu ư là lúc bấy giờ h́nh như bà cụ đă gần 90 tuổi rồi). Ông Diệm là lănh tụ của tôi, là niềm hy vọng của tôi cho nên tôi hỏi thêm: "Nếu trong đại hạn tới, tuổi Canh Tư công danh tột bực, tiếng tăm vang khắp cơi, vậy th́ đường công danh của ông có kéo dài vài chục năm không?" Thầy tử vi tài ba này vội trả lời: "Số này v́ cung Phúc Đức kém lắm, số đại phát mà cũng đại sát! Công danh chỉ kéo dài mười năm mà thôi". Tôi gửi thư trả lời cho Ngô Đ́nh Cẩn về việc bà cụ chưa thể từ trần, Cẩn hết sức vui mừng . Lúc chia đôi đất nước, thầy Dụ di cư vào Huế ở phường Tây Lộc trong Thành Nội, được ông Cố vấn Chỉ đạo Chính trị miền Trung nhắn gởi lời khen. Người con trai thầy Dụ là một sĩ quan ngành Công Binh Tạo Tác được ông Cẩn giữ lại tại Huế, khỏi phải thuyên chuyển đi nơi khác, như là một sự đền ơn. (Việc này, nhiều người đồng hương Quảng B́nh c̣n nhớ rơ). Theo ông Cẩn th́ tất cả những điều thầy Dụ nói đều đúng hết. Số mệnh của ông Diệm như đă tŕnh bày trên đây, lúc bấy giờ tôi cũng kể cho các bạn tôi biết.

      Giờ đây nhớ lại ông Diệm sinh năm Canh Tư mà quên mất tháng, ngày, giờ âm lịch, những yếu tố cần thiết để có thể an sao hầu biết chi tiết về cả cuộc đời ông. Nhưng nh́n vào từng đại hạn để đối chiếu với thực tế th́ thấy rơ số của ông đúng là"thăng trầm vô độ" và "đại phát đại sát". Số của ông Diệm thuộc về Mộc tam cục, nghĩa là mỗi đại hạn bắt đầu bằng tuổi tận cùng có số 3. Ta thấy cuộc đời của ông Diệm cho đến 23 tuổi th́ hết vận thanh niên, học hành, sửa soạn cho sự trưởng thành. Từ 23 đến 33 tuổi (1923-1933) ông làm quan thăng chức như diều. Từ 33 đến 43 tuổi (1933-1943) là hạn xấu, mất hết quyền lộc nhưng chưa đến nỗi truân chuyên. Vận này, ông về nhà sống bên cạnh mẹ và em nhưng chưa đến nỗi tù tội, cô lập, ly cách. Nhưng hạn 44 đến 53 tuổi (1944- 1953) ông gặp Thiên la Địa vơng, bị Pháp bắt năm 44 tuổi, phải đi trốn, bị Việt Mnh bắt, bị giam cầm, khi được tự do cũng không làm nên được công nghiệp ǵ, phải xuất ngoại (ly cách). Từ 54 đến 63 tuổi (1954-1963), ông đến hạn phát giả như lôi, làm nên sự nghiệp (Tổng thống), tiếng tăm vang lừng như "sấm sét".

      Cuối năm 1963, ông bị sát hại như tiếng vang rền của sấm sét tan vào không gian, đúng với số "thăng trầm vô độ" và "đại phát đại sát", đồng thời cũng phù hợp với cung Phúc Đức rất xấu của ông. Năm 1951, cụ bà Ngô Đ́nh Khả chưa măn phần là một yếu tố may mắn cho cuộc đời chính trị của ông Diệm v́ nếu cụ mất, ông Diệm về chịu tang th́ thế nào cũng bị người Pháp gây phó khăn không cho đi nữa. Lư do không phải như ông đă kể lại với kư giả Robert Shaplen của tờ The New Yorker rằng ông bị Việt Minh xử tử h́nh vắng mặt, v́ "người Pháp không đủ nhân viên an ninh để bảo vệ nên cho phép ông xuất ngoại" [9].

      Lư do thật sự là trên đường xuất ngoại để vận động với lực lượng Thiên Chúa giáo quốc tế và Hoa kỳ, lúc ghé lại Hông Kông, ông đă đưa ra lời tuyên bố với báo chí có nội dung chống Quốc trưởng Bảo đại và chính sách của Pháp tại Việt Nam. Ông cũng tuyên bố "chính phủ tương lai phải là một chính phủ gồm toàn những nhân vật đang cầm súng kháng chiến" chứ không phải là hạng người mà ông cho là bù nh́n và tay sai của Pháp như Bảo Đại và nội các đương nhiệm.

      Chuyện ông Diệm xuất ngoại sẽ được tŕnh bày trong chương tiếp theo và bây giờ xin trở lại với thời gian tôi đang về Quảng B́nh làm việc.

      Một hôm, tôi vào văn pḥng Tỉnh trưởng th́ gặp ông Nguyễn Văn An đang đàm luận với một tu sĩ Phật giáo, ông bèn giới thiệu với tôi vị tăng sĩ này. Đó là lần đầu tiên tôi gặp Thượng toạ Thích Trí Quang, vị tăng sĩ sau này, năm 1963, đă làm "rung động nước Mỹ" và lănh đạo lực lượng Phật giáo để cùng với quần chúng cả nước đương đầu với chế độ Ngô Đ́nh Diệm, Thượng toạ Trí Quang lúc bấy giờ c̣n trẻ, gương mặt xương, hai lưỡng quyền cao và cặp mắt rất sáng, tuy nhiên cách nói chuyện của ông rất nhỏ nhẹ mà rơ ràng.

      Tôi vào một lát th́ Thượng toạ Trí Quang ra về. Ông An cho tôi biết Thượng tọa trụ tŕ ở Huế nhưng được ông An đích thân mời ra Đồng Hới trong ư định nhờ Thượng toạ yểm trợ kế hoạch Việt nam hoá tỉnh Quảng B́nh mà ông Phan Văn Giáo đă uỷ thác cho chúng tôi. Tỉnh trưởng Nguyễn Văn An kết luận rằng "quân sự th́ có anh, chính trị th́ có tôi, c̣n thế nhân dân th́ phải nhờ đến Thượng toạ". Hỏi thêm th́ ông An cho biết đă quen với Thượng toạ Trí Quang trong thời kỳ hoạt động chung cho Hội Chấn Hưng Phật Giáo miền Trung với Bác sĩ Lê Đ́nh Thám, một cư sĩ tiếng tăm của Phật giáo.

      Hai con người đa mưu túc trí đó đều mang chung hoài băo xây dựng một vùng "Ba Thục Việt Nam", không Việt Minh, không Pháp, để làm căn cứ địa cho một chiến lược lâu dài (chính v́ hoài băo lớn đó mà Nguyễn Văn An đă không trở lại hoạt động cho ông Diệm nữa như những đồng chí cũ, mà lại hợp tác với ông Phan Văn Giáo và Quốc trưởng Bảo Đại để lợi dụng thời cơ tính chuyện lâu dài). An dặn tôi phải giữ bí mật tối đa tung tích và hoạt động của Thượng toạ Trí Quang v́ người Pháp vẫn c̣n nghi ngờ Thượng toạ thân Việt Minh chống Pháp.

      Chương tŕnh xây dựng tỉnh Quảng B́nh đang phát triển tốt đẹp th́ ông Phan Văn Giáo bị tân Thủ tướng Trần Văn Hữu cất chức và bổ nhiệm ông Trần Văn Lư thay thế. Ông Lư bèn gửi văn thư yêu cầu tôi rời Đồng Hới tức tốc trở về Huế giữ chức Tham Mưu trưởng Việt Binh Đoàn thay thế cho Thiếu tá Trần Nguyên An, tay chân thân tín của ông Phan Văn Giáo. Đại uư Tôn Thất Xứng (hiện ở Canada) được cử thay thế tôi

      Rời Quảng B́nh mà ḷng tôi không khỏi bùi ngùi và luyến tiếc. Không những bùi ngùi v́ phải từ biệt một đồng chí thân thiết và luyến tiếc v́ công tác b́nh định đang trên đà thắng lợi mà c̣n v́ trong mấy tháng ở đó, với tư cách chỉ huy trưởng quân sự, tôi đă được dịp thăm kỹ và thăm hết vùng đất quê hương thân yêu của tôi mà thời niên thiếu tôi đă không có cơ hội thực hiện được. Tôi cũng đă đến thăm Diên Điền, quê hương của Thượng toạ Trí Quang, chỉ cách tỉnh lỵ Đồng Hới có ba cây số, cũng như đến làng An Xá và làng Đại Phong, quê hương của các ông Vơ Nguyên Giáp và Ngô Đ́nh Diệm. Chính nhờ những dịp gặp gỡ với người trong làng, những dịp tiếp xúc thân t́nh với các bô lăo kỳ cựu trong xóm mà tôi t́m hiểu được một số dữ kiện về xuất xứ, gịng họ của các ông Diệm, ông Giáp và Thượng toạ Trí Quang (những dữ kiện mà những sách báo và tài liệu v́ muốn suy tôn và huyền thoại hoá các nhân vật này đă không muốn đề cập đến). Thật ra, lúc bấy giờ, sự t́m hiểu này là để thoả măn óc ṭ ṃ về các nhân vật cùng quê đang có liên hệ đến công việc của ḿnh chứ không phải v́ sau này ba người đồng hương kia trở thành ba đối thủ lợi hại mà tên tuổi vang lừng khắp bốn bể năm châu, mà những quyết định nhiều khi làm đảo điên vận mệnh đất nước.

      Với nhiệm vụ của một Tham Mưu trưởng trực thuộc Trung tá Nguyễn Ngọc Lễ trong hệ thống quân giai và thủ hiến Trần Văn Lư trong hệ thống hành chánh, tôi được giao hai công tác quan trọng và khẩn cấp: Thứ nhất là cải tổ Việt Binh Đoàn trở thành quân đội chính quy, thống nhất vào quân đội quốc gia, phụ thuộc vào Bộ Tổng Tham Mưu Trung Ương Sài G̣n. Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam này vừa được thành lập với tất cả những sơ hở và yếu kém của một định chế mới chào đời trong những điều kiện khó khăn của những bước đầu chập chững (Ông Nguyễn Văn Hinh, nguyên Trung tá Không quân của quân đội Pháp được đặc cách phong Thiếu tướng thuyên chuyển qua làm Tổng Tham Mưu trưởng). Sự thành lập quân đội quốc gia nằm trong chủ trương chung của Quốc trưởng Bảo Đại và Tướng De Lattre và phù hợp với điều kiện tiên quyết của Hoa Kỳ, chỉ muốn viện trợ quân sự để thành lập một quân đội chính quy cho quốc gia Việt Nam (từ ngày 9 tháng 3 năm 1950, ông Acheson đă yêu cầu Tổng thống Truman chuẩn chi 15 triệu Mỹ kim viện trợ cho người Pháp tại Đông Dương và 6 tháng sau "The Voice Of America" bắt đầu có phần tin tức ngữ Việt ) [10]. Việc này là nhờ uy tín của Quốc trưởng Bảo Đại.

      Công việc khẩn cấp thứ hai của tôi là thành lập một số tiểu đoàn tác chiến chính quy mà quân nhân gồm toàn thanh niên Công giáo động viên từ vùng Phát Diệm và các giáo khu miền Bắc để thành lập một sư đoàn trong kế hoạch phản công tiến chiếm tỉnh Thanh Hoá. Những thanh niên này sẽ được bí mật không vận về Huế để được huấn luyện đặc biệt và được tổ chức thành các đơn vị tác chiến tinh nhuệ, rồi lại đưa về Phát Diệm để thực hiện kế hoạch tái chiếm Thanh Hoá. Đây là một chiến dịch tối mật do giám mục Lê Hữu Từ và thủ hiến Trần Văn Lư đề nghị và được Tướng De Lattre và Thủ tướng Trần Văn Hữu đồng ư thực hiện.

      Tôi mới thành lập được một tiểu đoàn mang danh số "Tiểu đoàn 27" và sắp măn khoá huấn luyện tại Quảng Trị th́ tại Sài G̣n, tháng 8 năm 1952, ông Trần Văn Hữu từ chức và ông Nguyễn Văn Tâm được vua Bảo Đại uỷ nhiệm lên thay thế. V́ là một bạn thân của cựu Thủ tướng Trần Văn Hữu, ông Trần Văn Lư bị giải nhiệm chức Thủ hiến Trung phần.

      Ông Nguyễn Văn Tâm là thân phụ của tướng Nguyễn Văn Hinh, có hỗn danh "Cọp Cai Lậy", là một người thân Pháp và nổi tiếng rất chống Cộng tại miền Nam. Nội các do ông thành lập, trừ ông Vơ Hồng Khanh lănh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng làm Bộ trưởng Thanh Niên và Thể Thao, số c̣n lại gồm toàn những nhân vật không được quần chúng tín nhiệm v́ xu hướng thân Tây quá rơ ràng. Vị lănh sự Mỹ tại Hà Nội đă phúc tŕnh cho Hoa Thịnh Đốn rằng nội các này sẽ trở thành "một đối tượng tuyên truyền cho Việt Minh" và chỉ là sự "trở lại khốn cùng của tiền Mỹ máu Pháp"[11].

      Cả ông Hinh lẫn Trung tá Trần Văn Đôn (lúc bấy giờ là Giám đốc An Ninh Quân đội) đều nắm vững hồ sơ cá nhân của tôi và biết tôi là phần tử chống Pháp và hoạt động cho ông Diệm nên quyết định tê liệt hoá hoạt động của tôi bằng cách thuyên chuyển tôi ra Bắc Việt, trao quyền Tham Mưu Trưởng Đệ Nhị Quân Khu tại Huế lại cho Thiếu tá Trương Văn Xương, một sĩ quan tay sai của Pháp và là nhân viên thân tín của Tướng Hinh.

      Ngày ra đi, sân bay Phú Bài nắng chói chang, vợ tôi và sáu đứa con nhỏ nhờ người đồng chí của tôi là ông Thái Văn Châu chở lên phi trường để tiễn chồng, tiễn cha đi về miền Bắc khói lửa ngút ngàn. Tôi c̣n nhớ hai câu thơ tả cảnh biệt ly năo nuột đó mà tôi đă viết gởi về cho các con tôi một năm sau:

      ****************** Mi con tràn lệ cha rơi lệ
      ************** Mà lệ khôn cầm cảnh chia tay...

      Tính sổ lại cuộc đời trong tám năm truân chuyên đó, tôi đă vào tù ra khám nhiều lần (của cả Tây lẫn Việt Minh), tôi đă tổ chức nhiều cơ cấu và đă phát động nhiều chiến dịch có tầm ảnh hưởng mạnh và dài, tôi cũng đă hoặc chỉ huy trực tiếp hoặc làm việc với những nhân vật mà quyết định của họ (lúc đó hay sau này) liên hệ đến vận mệnh quốc gia; và trên hết, tôi đă quyết tâm keo sơn với một lănh tụ duy nhất, cho một tổ chức duy nhất trong ánh sáng chỉ đường rực rỡ của lư tưởng đời ḿnh là độc lập cho nước nhà. Độc lập, ôi hai tiếng huyền diệu của thập niên 40!

      Nhưng những lên và xuống đó của tám năm trôi nổi trong một đời người chỉ là những nổi trôi bé nhỏ và khiêm nhường khi so sánh với những biến chuyển vĩ đại của đất nước trong cơn chuyển ḿnh đau đớn. Có hàng vạn thanh niên như tôi ở cả hai phía, đă đổ máu cho ḷng đất mẹ thêm màu mỡ, đă phơi xương cho hồn dân tộc thêm kiêu hùng. Tôi hănh diện được là giọt nước, hiện diện đầy đủ và hành xử đúng đắn, trong ḍng sông miên man của lịch sử Việt Nam thuộc giai đoạn đó.

      Cho nên khi giă từ miền Trung thân thương để có mặt tại chiến trường Việt Bắc khói lửa, tuy tim th́ như muối xát mà trí th́ mở rộng để đón chờ những ngày gian nguy hơn sắp bắt đầu.


      [1] Vơ Nguyên Giáp, Những Chặng Đường Lịch Sử, tr.319.
      [2] Bernard Fall, Le Viet Minh, tr.183-185
      [3] Bernard Fall, The Two Vietnam, tr.236.
      [4] Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, tr. 10 và 11.
      [5] Phạm Kim Vinh, Những Bí Ẩn Về Cái Chết Của Việt Nam Cọng Ḥa, tr. 74.
      [6] Trích lời tuyên bố thoái vị của vua Bảo Đại đọc trước lầu Ngọ Môn ngày 25-8-45 khi trao ấn kiếm cho Trần Huy Liệu, đại diện Mặt Trận Việt Minh. Tư liệu của tác giả.
      [7] Bảo Đại, Le Dragon d Annam, tr. 247.
      [8] Trong lá thư gởi tờ Sun Valley đề ngày 4/5/87 cho một số báo chí, ông Nguyễn Trân viết rằng* “Trước đó mấy tháng một tên Nhật Bản tới phủ hỏi tôi về việc trồng bông vải, tôi trả lời đất Tỉnh Gia phần nhiều là đất cát, rau cải cũng không trồng được mà ăn, nên không trồng bông vải được. Không biết tên thông dịch viên Việt Nam dịch thế nào mà tên Nhật Bản chồm lên để đánh tôi. Tôi tránh được, nhưng nghĩ thế khó làm việc, th́ bệnh của nhà tôi đă cho tôi cái dịp xin nghỉ dài hạn 6 tháng”.
      Đoạn viết này nhằm giải thích và phản bác việc tôi cho rằng ông Trân tham nhũng nên bị hạ hồi dân tịch. Tuy nhiên chúng tôi đă được cụ Phạm Đ́nh Nghị, cựu Tỉnh trưởng Quảng Ngăi và là một đảng viên cao cấp Quốc Dân Đảng, hiện sống tại El Toro, California, xác nhận điều tôi viết đúng. Cụ Nghị học cùng trường với ông Trân và theo dơi kỹ hoạn lộ của ông Trân sau này. Do đó, dữ kiện trên vẫn được giữ nguyên trong lần tái bản nầy.
      Trong tác phẩm "Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm và Mặt Trận Giải Phóng" (1992, NXB Văn Nghệ), tác giả Hồ Sĩ Khuê ở Pháp, một người đă từng làm việc ở mức độ chiến lược với hai ông Diệm Nhu, nhân nhắc đến thời kỳ ông Trân làm Tỉnh trưởng tại Định Tường cũng đă xác nhận ông Trân bị "Phủ Toàn Quyền cất chức v́ hối lộ".
      Ngoài ra, trên báo Tia Sáng số 18, xuất bản tại Houston ngày 20-6-87, có bài của ông Trương Thiện (bút hiệu của một Thiếu tá không quân ngày xưa làm việc tại Nha Trang và hiện đang ở Long Beach, California) cũng đă tố cáo ông Trân tham nhũng như sau:

      "Thưa cụ Nguyễn Trân,

      Chỉ v́ một số đố kỵ, ích kỷ, cố bào chữa cho lỗi lầm cá nhân ḿnh mà cụ đă đi vào cái lầm lẫn quá lớn lao đối với tuổi đời đang chồng chất trên bản thân. Theo tôi biết, Tướng Đỗ Mậu c̣n thiếu sót khi viết về màn ly kỳ nhất lúc Tỉnh Trưởng Nguyễn Trân tham nhũng ở Nha Trang độ nào đă bị bác sĩ Nguyễn Thạch (anh em cột chèo với cụ) xách súng rượt, cụ phải chui vào cầu tiêu (W.C.) trốn, lúc bác sĩ Thạch dí súng vào đầu, cụ van lạy để được tha tội! Sau đó bác sĩ Thạch vào khám Chí Hoà một thời gian chỉ v́ chống tham nhũng Nguyễn Trân và gia đ́nh Ngô Đ́nh Diệm".

      Ngoài ra, trong tác phẩm "Công và Tội" (trang 117), ông Nguyễn Trân kể lại rằng trước khi rời Nha Trang, ông "...có kư một chi phiếu hai triệu gửi nơi Linh mục Cần, căn dặn chỉ nên đưa cho người nào có chữ kư của tôi mà thôi để đưa lại cho anh em kháng chiến. Không biết sao Đỗ Mậu biết được việc đó, đến năn nỉ để nhận nói là nuôi quân...".
      Đây là một sự bịa đặt thiếu khôn ngoan: Thứ nhất, một số tiền rất lớn của chính phủ, làm sao linh mục Cần chỉ v́ một lời "năn nỉ" mà lại trao cho tôi. Thứ hai,dù có trao cho tôi th́ không có chữ kư của ông Trân làm sao Ty Ngân Khố dám phát tiền ra. Thứ ba, sau đó khi Thủ tướng Diệm cho điều tra vụ này th́ chỉ thẩm vấn và định truy tố ông Nguyễn Trân ra toà án mà không thẩm vấn tôi, lại không thấy lúc đó ông Trân khai vụ tôi "năn nỉ" linh mục Cần. Ngược lại, vào đúng thời điểm này, tôi lại được thăng chức Trung tá. Số tiền hai triệu bạc đó, theo tôi, chỉ do một trong hai người thủ đắc: hoặc linh mục Cần (mà tôi thực sự không biết là ai) hoặc chính ông Nguyễn Trân.
      [9] Robert Shaplen, The Lost Revolution, tr. 109-112.
      [10] Stanley Karnow, Vietnam A History, tr. 177.
      [11] Stanley Karnow, Vietnam A History, tr. 177.

    NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG
    ********************** **** CỦA THỰC DÂN PHÁP
    *
    Cho đến đầu Thu năm 1952, tổng số quân nhân Pháp bị tử trận, thương* vong và mất tích tại Đông Dương lên đến hơn 90.000 người. Chi phí cho chiến trường này bằng hai lần số kinh viện của Hoa Kỳ trong khuôn khổ chương tŕnh viện trợ tái thiết Marshall. Tại quốc hội Pháp, từ ngữ “la sale guerre” (cuộc chiến tranh bẩn thỉu) bắt đầu được xử dụng trong các cuộc tranh luận giữa các phe chủ chiến và chủ ḥa.
    Trong khi đó th́ tại miền Bắc Việt Nam, tướng Vơ Nguyên Giáp đánh bật các đơn vị thiện chiến của tướng Raoul Salan ra khỏi cứ điểm Ḥa B́nh và bắt đầu tung ba sư đoàn chiếm một ngôi làng bé nhỏ tên là Mường Thanh ở biên giới Việt - Lào trong một vùng ḷng chảo bề dài 18 cây số, bề ngang 8 cây số có tên gọi là Điện Biên Phủ.
    Mấy tuần lễ trước khi Ḥa B́nh thất thủ, tôi bị tướng Nguyễn Văn Hinh thuyên chuyển ra Bắc. Hồi bấy giờ, “ra Bắc” được xem như là một biện pháp chế tài đối với những sĩ quan ở miền Trung* và miền Nam, v́ t́nh h́nh sôi động của chiến sự và v́ những tổn thất nặng nề về phía những quân nhân Việt Nam. Hầu hết những sĩ quan Việt Nam trung cấp bị đổi ra Bắc đều ít nhiều có hồ sơ chống Pháp, hoặc chống Bộ Tổng Tham mưu của tướng Nguyễn Văn Hinh.
    Tôi theo học khóa Tiểu Đoàn trưởng và khóa Liên Đoàn Lưu Động (để được cập nhật hóa với chiến trường Việt Bắc) do Đại tá Vanuxem, một trong những sĩ quan cao cấp xuất sắc nhất của Pháp lúc bấy giờ điều hành. Cùng khóa với tôi có Trung úy Nguyễn Văn Thiệu.
    Măn khóa, Thiệu, có thêm Trung úy Cao Văn Viên và tôi, được lệnh thuyên chuyển ra mặt trận Hưng Yên, tŕnh diện với Trung tá Dương Quư Phan, một sĩ quan nổi tiếng thân Pháp, tay chân của tướng Cogny. Tư Lệnh miền Đông Bắc Việt đang đóng ở Hải Dương. Mặt trận Hưng Yên vừa được bộ tư lệnh Pháp trao trả phần trách nhiệm lại cho quân đội quốc gia Việt Nam và đang bị những áp lực nặng nề. Bộ Tổng Tham mưu Sài g̣n chỉ định tôi làm Tham mưu trưởng, Cao Văn Viên làm trưởng pḥng Nh́ và Nguyễn Văn Thiệu làm trưởng pḥng Ba. C̣n pḥng Tư vẫn do một Đại úy người Pháp phụ trách. Bộ chỉ huy và trung tâm hành quân khu chiến được đặt tại ngôi giáo đường to lớn rộng răi của tỉnh lỵ Hưng Yên mà linh mục bề trên đă vui ḷng cho quân đội Pháp xử dụng từ trước.
    Ba anh em chúng tôi được cấp phát chung một căn pḥng nhỏ vừa đủ để ba cái ghế bố loại nhà binh và hàng ngày ăn cơm tại câu lạc bộ sĩ quan. Buổi tối, lúc trở lại pḥng để chuẩn bị đi ngủ, Thiệu và tôi thường phân tích và luận bàn về t́nh h́nh chính trị và chiến sự đến khuya. Riêng Viên vốn tính ít nói nên chỉ thỉnh thoảng góp ư kiến mà thôi.
    Tháng 4 năm 1953, tuy t́nh h́nh chiến sự ở Lào trở nên quyết liệt hơn khi Việt Minh chiếm Cánh Đồng Chum và tiến quân về Luang Prabang, thủ đô Hoàng gia Lào, nhưng không v́ thế mà áp lực quân sự giảm bớt tại chiến trường Bắc Việt. Tháng 5 năm đó, tướng Henri Navarre thay thế tướng Salan nhưng chỉ làm cho quân Pháp thêm lúng túng v́ quan điểm chiến lược thiếu thực tế của vị tướng lạnh lùng và cô đơn đă từng tham gia hai trận thế chiến này. Quân đội Pháp hoàn toàn bị động ngay cả ở thế pḥng thủ. Hết căn cứ này đến căn cứ khác lần lượt bị mất vào tay địch hoặc bị rút bỏ, chỉ c̣n giữ lại một ít địa bàn ở các giáo phận Công giáo như Bùi Chu, Phát Diệm, Kẻ Sặt…và các tỉnh chung quanh Hà Nội và Hải Pḥng.
    Trước t́nh thế bi quan đó, một hôm Nguyễn Văn Thiệu đă hỏi tôi: “Theo anh th́ cuộc chiến tranh hiện tại sẽ đi về đâu và tương lai Việt Nam sẽ như thế nào?” Đó là câu hỏi có tính toàn bộ và lâu dài nhưng tôi vẫn xác quyết với Thiệu và Viên là “thế nào Pháp cũng bị bại trận và t́m giải pháp thỏa hiệp với Việt Minh, đất nước sẽ bị chia đôi nhưng không biết chia ở khu vực nào. Hoa kỳ sẽ can thiệp vào Việt Nam để chận đứng mưu đồ bành trướng của Cộng Sản ở Đông Nam Á và Hoa Kỳ sẽ đưa ông Diệm về nước nắm chánh quyền”. Sau này tại Sài G̣n, mỗi lần gặp tôi, Thiệu không quên nhắc lại chuyện cũ và công nhận tôi nh́n xa thấy rộng.
    Sống tại Bắc Việt và đặc biệt tại Hưng Yên, tôi ở vào t́nh trạng của một sĩ quan đang thọ phạt dưới h́nh thức của sự lưu đày. Những đêm trăng lạnh lùng của xứ Bắc, với cái tâm trạng “cử đầu vọng minh nguyệt, đê đầu tư cố hương”, tôi nhớ về quê hương miền Trung, nơi đang có gia đ́nh, bạn bè và tổ chức. Tôi hồi tưởng đến những công tác đang dang dở và những đồng chí đang lưu lạc với rất nhiều nhớ thương. Nỗi niềm đó cộng với ư thức chính trị, tinh thần dân tộc cực đoan un đúc bởi mười năm hoạt động, làm tôi không thiết tha một chút nào với công việc hiện tại, một công việc tuy gọi là chống Cộng sản nhưng trước hết chỉ làm lợi cho người Pháp trong ư đồ bám víu lấy mảnh đất thuộc địa mà không thực tâm trao trả độc lập lại cho người Việt Nam, một nền độc lập đă biến thành ư thức chỉ đạo của dân tộc, mà v́ nó và do nó mà trước tôi đă tồn tại đến ngày nay. Cho nên trong suốt thời gian ở tại Hưng Yên, tôi đă cố t́nh không để một chút nhiệt tâm nào vào công vụ.
    Thái độ đó lại được củng cố vững chắc hơn vào ngày 27 tháng 5 năm 1953, khi tại Sài G̣n, hội nghị Đoàn Kết đ̣i hỏi “độc lập ḥa b́nh cho Việt Nam” do các đoàn thể chính trị của các giáo phái Cao Đài, Ḥa Hảo, các đảng phái chính trị như Đại Việt, Việt Quốc và các nhân vật tên tuổi như Trần Trọng Kim, Trần Văn Ân, Nguyễn Xuân Chữ, Ngô Đ́nh Nhu,…tổ chức đă phổ biến lập trường quyết liệt của nhân dân Việt Nam. Do đó, tôi thường t́m cơ hội lên Hà Nội liên lạc với một số đồng chí và thân hữu như ông Mai Văn Toan (sau này làm Dân biểu dưới chế độ ông Diệm), ông Trần Trung Dung (sau này giữ chức Phụ tá Bộ trưởng Quốc Pḥng thời Đệ Nhất Cộng Ḥa)…để theo dơi hoạt động của ông Diệm tại Hải ngoại và t́m hiểu những biến chuyển mới của t́nh h́nh chính trị.
    Mỗi lần đi Hà Nội về, tôi lại mang theo một số báo Xă Hội (do ông Nhu chủ trương) để phổ biến cho một số sĩ quan và nhân sĩ tại Hưng Yên trong mục đích xây dựng hậu thuẫn cho chủ trương chính trị của ông Diệm. Trong những dịp đi hành quân hay thanh tra các đơn vị, tôi cũng thường tŕnh bày cho các sĩ quan biết t́nh cảnh trôi nổi hiểm nghèo thật sự của đất nước Việt Nam trong cái thế tương tranh Pháp - Cộng và thuyết phục họ về con đường nào mà một người Việt Nam thực sự yêu nước, đặc biệt nếu người Việt Nam đó lại là một chiến sĩ cầm súng, nên chọn lựa.
    Nhưng rồi những hoạt động “phi quân sự” đó của tôi dần dần bị báo cáo lên cho Bộ chỉ huy rồi đến tai Trung tá Dương Quư Phan, nên tôi bị tướng Cogny phạt 60 ngày trọng cấm, hạ tầng công tác và thuyên chuyển về Liên Đoàn Lưu Động số 3, đang hành quân tại vùng Ninh B́nh do Thiếu tá Phạm Văn Đổng (hiện ở Mỹ) chỉ huy. Lư do bị phạt ghi trong hồ sơ quân vụ c̣n có thêm tội “vô lễ với cấp chỉ huy” v́ đă hai lần tôi công khai chỉ trích Phan trước mặt đông người về tác phong “bồi Tây” của y khi mỗi buổi sáng, nếu gặp các hạ sĩ quan Pháp th́ Phan ân cần chào hỏi “Bonjour mon caporal” c̣n nếu gặp sĩ quan Việt Nam th́ Phan chỉ chào lấy lệ và c̣n có ư khinh bỉ.
    Trong bữa ăn cuối cùng tại câu lạc bộ sĩ quan để tiễn tôi lên đường về nhiệm sở mới, Trung úy Nguyễn Văn Thiệu mở một chai champagne mời tôi và nói mấy lời tiễn biệt rất cảm động. Dương Quư Phan nổi giận, nạt ông Thiệu tại sao lại dám ca ngợi một sĩ quan đang mang trọng tội trước mặt y. Cử chỉ vừa ưu ái, vừa khí phách của ông Thiệu càng làm cho tôi quư mến ông ta hơn. Trớ trêu thay, trong cuộc đời binh nghiệp và chính trị của ông Thiệu và tôi, và qua những biến cố quan trọng của quốc gia, chúng tôi c̣n nhiều duyên nợ cho đến năm 1965, 1966, khi hai ông Thiệu và Kỳ lănh đạo quốc gia, bắt tôi giam lỏng hai lần ở Pleiku và Nha Trang gần cả năm trời.
    Cũng mang cái tâm trạng bất hợp tác như ở Hưng Yên, tôi về Nam Định và làm việc tại Bộ Chỉ huy Liên đoàn 3 Lưu Động. Nhiều khi ngay cả trong giờ công vụ tôi vẫn viết bài hay sáng tác thơ gởi về Sài g̣n cho ông Nhu hoặc ông Đỗ La Lam (hiện ở Mỹ) đăng vào báo Xă Hội. Đặc biệt trong hai bài thơ Nhớ con và Nhớ Huế và trong tùy bút Tâm sự ḍng sông Hương, tôi đă kư thác nỗi ḷng của ḿnh về nỗi hoài vọng ngày ông Diệm và tổ chức thành công đem lại độc lập và tự do cho đất nước để cho những người Việt Nam b́nh thường như tôi khỏi c̣n phải đấu tranh trong cái thế hiểm nghèo giữa Pháp và Việt Minh. Tâm sự này, sau ngày chia cắt đất nước, tại miền Nam, tôi t́m lại được một cách rất khoái cảm trong kịch phẩm Thành Cát Tư Hăn của nhà văn Vũ Khắc Khoan (thuộc nhóm Quan Điểm, gồm những văn nghệ sĩ miền Bắc đă từng theo kháng chiến rồi về Tề, hoặc đă ở lại Hà Nội nhưng bất hợp tác với Pháp) khi ông cho nhân vật Sơn Ca của ông vừa không cộng tác với chính quyền Thành Cát Tư Hăn vừa không vào bưng theo “kháng chiến” Cổ Giă Trường, mà lại chọc mù đôi mắt đi về hướng mặt trời mọc để kết thúc kịch phẩm này.
    Một phần có lẽ v́ những bài thơ đó, và phần khác có lẽ v́ ông Nhu đang muốn tập hợp lại cán bộ đề tụ lực chuẩn bị ngày ông Diệm về nước, nên ông đă vận động với hai người bạn của ông là Đại tá Trần Văn Đôn (vừa thăng chức và vẫn c̣n chỉ huy An Ninh Quân Đội) và Đại tá Trần Văn Minh (Tham Mưu trưởng của tướng Hinh để tôi được thuyên chuyển về Nha Trang, là địa phương chiến lược nằm gần giữa Huế (căn cứ địa của tổ chức) và Sài G̣n (chiến trường của tổ chức).
    Rời miền Bắc căng thẳng của một Hà Nội đang bắt đầu lên cơn sốt, tôi bay về Nha Trang với tư cách Đại diện Đặc biệt của Bộ Tư Lệnh Quân khu Hai với nhiệm vụ cấp thiết thành lập 9 tiểu đoàn khinh quân theo kế hoạch tổ chức mới của Bộ Tham mưu Hỗn hợp Pháp-Việt và của Tướng O’Daniel, trưởng phải bộ quân sự Mỹ ở Sài G̣n. Sau khi đă huy động thanh niên của ba tỉnh Khánh Ḥa, Ninh Thuận và B́nh Thuận trong bốn tháng, tất cả 9 tiểu đoàn đều được thành lập và đều đang trong ṿng huấn luyện ở quân trường th́ tôi được thuyên chuyển về chỉ huy khu chiến Phan Rang vừa được Pháp trao lại cho Việt Nam.
    Khu chiến Phan Rang gồm lănh thổ Ninh Thuận và quận Ḥa Đa của tỉnh B́nh Thuận, quân số gồm hai tiểu đoàn bộ binh và độ 20 đại đội phụ lực binh (supplétif) và một đơn vị thiết giáp. Về đây tôi gặp lại người bạn tri kỷ làm Tỉnh trưởng Ninh Thuận là ông Thái Văn Kiểm. Ông là một nhà văn hóa và cũng là một nhà viết sử tiếng tăm tại miền Trung, từng làm việc lâu năm ở quê hương Quảng B́nh của tôi, biết nhiều về xuất xứ ḍng họ của các ông Ngô Đ́nh Diệm và Vơ Nguyên Giáp. Tôi được hân hạnh quen biết ông Thái văn Kiểm từ ngày ông làm giám đốc Nha Thông tin Trung Việt vào khoảng năm 1948-1949. Thế rồi khi ông làm Tỉnh trưởng Khánh Ḥa, tôi được thuyên chuyển về đó, nay ông về trấn nhậm Phan Rang, không ngờ tôi lại gặp ông để hai anh em, kẻ bên văn người bên vơ, cùng chung lo dân sinh, dân kế cho đồng bào Ninh Thuận. Khác với những Tỉnh trưởng thời Pháp hay thời Việt Nam Cọng Ḥa sau này, dùng luật lệ, h́nh phạt để trị dân, nhà học giả họ Thái chỉ lo “văn dĩ tải đạo”, lấy nhân trị làm nguyên tắc trị dân. Ông ít khi ngồi ở văn pḥng dinh Tỉnh trưởng mà thường lê gót khắp các ngơ xóm làng để thăm dân cho biết sự t́nh. Đi đến đâu ông cũng đem theo những lời giảng dạy của thánh hiền, những chuyện xưa tích cũ để giáo hóa, d́u dắt dân quê về mọi mặt: tôn giáo, chính trị, xă hội, kinh tế…Sau này, tôi c̣n nhớ vào khoảng tháng 4 năm 1954, ông Ngô Đ́nh Cẩn vận động với các tỉnh, thị trưởng miền Trung lập kiến nghị gởi lên Quốc trưởng Bảo Đại ở Pháp yêu cầu Bảo Đại chấp thuận cho ông Diệm làm Thủ tướng, ông Kiểm (cũng như ông Lê Tá, thị trưởng Đà Nẵng, hiện ở Mỹ) đă vui ḷng kư tên vào thỉnh nguyện thư dù ông Kiểm không thuộc phe đảng chính trị nào. Nhưng sau khi ông Diệm về nước cầm quyền th́ ông Kiểm bị mất chức ngay. Ông được dân chúng Ninh Thuận vô cùng ngưỡng mộ, nghe nói ngày ông từ giă Phan Rang ra đi, đă có nhiều người không cầm được nước mắt trong buổi tiễn đưa.
    Ninh Thuận và Ḥa Đa là nơi dân chúng hiền ḥa, b́nh dị, lực lượng của Việt Minh tại đây không lấy ǵ làm mạnh. Chiến khu Ba Râu của họ (mà khi c̣n là tiểu đoàn trưởng của Việt Minh, tôi đă từng đóng quân tại đây như đă đề cập trong chương III) bị tôi phá hủy các cơ sở dưỡng binh và các kho tồn trữ nên trong thời gian tôi làm việc tại Phan Rang, t́nh h́nh an ninh tương đối khả quan, nhân dân làm ăn đi lại như thuở thái b́nh.
    Tháng 7 năm 1953, quốc hội Pháp làm áp lực yêu cầu chính phủ Pháp phải bắt đầu t́m biện pháp thương thảo để giải quyết chiến tranh Đông Dương. Ngày 9 tháng 11, Hoàng thân* Norodom Sihanouk nắm lấy quyền chỉ huy quân đội Hoàng gia và tuyên bố Cao Miên độc lập. Giáng sinh năm đó, ông Hồ Chí Minh tiết lộ với một kư giả Thụy Điển rằng Việt Nam sẵn sàng thảo luận về những đề nghị ḥa b́nh của chính quyền Pháp và chỉ một tháng sau, ngày 25 tháng Giêng năm 1954, các Ngoại trưởng của Hoa Kỳ, Nga, Anh và Pháp họp tại Tây Bá Linh quyết định sẽ triệu tập một hội nghị quốc tế về Triều Tiên và Đông Dương vào tháng Tư cùng năm.
    Trong khi đó th́ cũng vào đầu năm 1954, tướng Navarre, Tổng Tư lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương, phát động chiến dịch Atlante để tiến chiếm B́nh Định và Phú Yên, và tạo áp lực nhằm xé nhỏ quân của Vơ Nguyên Giáp vốn đang nỗ lực dồn hết chủ lực quân về mặt trận Điện Biên Phủ. Dự đoán rằng ông Giáp cũng sẽ áp dụng cùng sách lược, nghĩa là mở nhiều trận đánh lớn khác tại Trung Việt để cầm chân và làm tê liệt khả năng di động của các đơn vị địch, tôi bèn thảo một bản nhận định t́nh h́nh và một tờ tŕnh về cho Bộ Tư lệnh Pháp-Việt của Phân khu Duyên Hải tại Nha Trang để yêu cầu có kế hoạch đối phó và đồng thời xin tăng cường phương tiện pḥng thủ cho khu chiến Phan Rang vốn rất thiếu thốn và yếu kém. Tôi c̣n dự đoán kế hoạch phản công của Việt Minh trong địa phương trách nhiệm của tôi với những chi tiết về từng đồn một, và sự thất bại gần như đương nhiên của các đơn vị dưới quyền nếu không được thỏa măn nhu cầu tăng viện.
    Nhưng Bộ Tư lệnh Nha Trang, mà về phía Việt Nam do Đại tá Nguyễn Văn Vỹ chỉ huy, lại cho là tôi hốt hoảng, báo cáo láo, bèn gửi văn thư khiển trách, kèm theo lệnh thuyên chuyển tôi ra Hà Nội học lớp Trung Đoàn trưởng, một quyết định mà tôi cho là phát xuất từ những mâu thuẫn chính trị hơn là từ nhu cầu quân sự lúc bấy giờ. Nhưng cũng nhờ theo học lớp Trung Đoàn trưởng này mà tôi có thêm hai người bạn mới đồng khóa: Thiếu tá Lam Sơn và Đại úy Nguyễn Chánh Thi. Người thay thế tôi tại Phan Rang là Thiếu tá Nguyễn Văn Thiệu, vừa ở Bắc về, với lư do Thiệu là người Ninh Thuận sẽ am hiểu và nắm vững t́nh h́nh hơn tôi.
    Sau đó, quả nhiên đúng như bản nhận định mà tôi đă chi tiết rơ ràng, trong lúc tôi ở Hà Nội th́ Việt Minh tổng phản công khắp các tỉnh miền Trung, đặc biệt tại các tỉnh duyên hải. Tại Phú Yên và B́nh Định, nhiều tiểu đoàn bị tiêu diệt hoàn toàn, phải rút về lập ṿng đai an toàn để chỉ c̣n bảo vệ các tỉnh lỵ mà thôi. Tại Quảng Nam, Việt Minh tấn công Hội An và chiếm giữ một đêm, khi rút đi, họ phá hủy một số công sự và bắt mang theo một số sĩ quan và những dụng cụ truyền tin. Riêng tại Ninh Thuận của ông Thiệu, Việt Minh tiến chiếm và tiêu hủy các căn cứ ngoại vi mà tôi đă xây dựng để che chở mặt Tây Nam của Bộ Chỉ huy Phan Rang. Trong một trận đánh ác liệt gần Tháp Chàm, ông Thiệu đích thân dẫn một đơn vị đi tiếp cứu bị Việt Minh phục kích và theo lời một số người kể lại th́ ông Thiệu đă phải “ôm quần mà chạy”.
    Sau những thất baị liên tiếp, ông Thiệu bị mất chức chỉ huy, đổi về Huế làm việc tại Bộ Tham mưu Quân khu Hai, dưới quyền Đại tá Trương Văn Xương, một cộng sự viên thân tín của tướng Hinh, giao quyền chỉ huy khu chiến Ninh Thuận lại cho ông Thái Quang Hoàng vừa được thăng Thiếu tá. Thật ra không phải ông Thiệu kém khả năng chỉ huy hay thiếu kinh nghiệm chiến trường. Ông Thiệu là người khôn ngoan, tính toán rất kỹ lưỡng, và hành động rất cẩn mật, nhưng v́ binh sĩ tại khu chiến Ninh Thuận đại đa số là dân địa phương hiền lành, không có tinh thần chiến đấu cao, gặp địch phản công mạnh là sợ hăi thối lui. Họ là những nông dân của xứ Chàm cỏ khô lá úa, sau giờ đồng áng th́ thích rươu chè, chọi gà và nhất là cải lương, nên thiếu sự gan dạ và tinh thần kỷ luật phải có của quân nhân tác chiến giỏi. Lúc tôi c̣n là Chỉ huy trưởng tại Phan Rang, cứ mỗi lần có một đoàn cải lương từ Sài G̣n ra lưu diễn tại tỉnh lỵ là một lần tôi phải ban hành t́nh trạng báo động với nhiều lo lắng, v́ binh sĩ tại các căn cứ ngoại vi thành phố đều muốn bỏ đồn về xem hát, bất chấp những biện pháp kỷ luật mà ngày mai họ phải chịu, bất cần Việt Minh có thể tấn công chiếm đồn đêm đó. Nếu dùng biện pháp mạnh, họ có thể đào ngũ hoặc theo Việt Minh làm du kích.
    Đă từng chỉ huy và đă từng t́m hiểu phong thổ, dân t́nh của tỉnh này vốn nằm giữa hai tỉnh nổi tiếng “Cọp Khánh Ḥa, Ma B́nh Thuận” và có một quận người Chàm tuy thủ phận làm ăn nhưng lại rất ngoan cố, cứng đầu khi có mâu thuẫn với người Việt, nên trong những năm sau, dưới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, khi hai ông Ngô Đ́nh Nhu và Ngô Trọng Hiếu tuyên dương tỉnh Ninh Thuận đứng đầu trong công cuộc thực hiện ấp chiến lược, tôi nghĩ thầm Ngô Đ́nh Nhu đúng là chỉ biết những con số báo cáo của Trung tá Khánh, tỉnh trưởng Phan Rang (Công giáo Phú Cam), và nh́n sự việc bằng cái bề ngoài hời hợt mà không có một chút kinh nghiệm thực tế nào. Thấy dân Ninh Thuận hăng hái cắm chông, rào ấp, đào hào rồi lại nhiệt tâm thực tập báo động khua trống, gơ mơ, ông Nhu vội đánh giá cao tinh thần chống Cộng của dân ở đây mà không biết rằng dân Chàm làm như vậy là để bố pḥng sợ người Việt phá phách, c̣n người Việt làm như vậy là để ngăn ngừa cọp về phá vườn bắt trâu.* C̣n giữa Việt Cộng và Quốc gia, th́ chọn lựa của người dân rất rơ ràng: bên nào mạnh họ theo!
    *- o0o-
    Trở lại năm 1950, khi tôi về Quảng B́nh để bắt đầu một giai đoạn nổi trôi lăn lóc trong những năm tàn khốc của cuộc chiến Pháp-Việt từ Trung ra Bắc, th́ tháng Tám năm đó, sau một thời gian vận động ngầm của giám mục Ngô Đ́nh Thục, ông Diệm và người anh có ảnh hưởng lớn lao trên giáo hội Công giáo La Mă Việt Nam này, lên đường đi La Mă dự lễ Năm Thánh để che đậy âm mưu đi Mỹ vận động chính trị.
    Lộ tŕnh không đi thẳng đến La Mă mà c̣n ghé qua Nhật Bản để thăm Kỳ Ngoại Hầu Cường Để (một “giải pháp” hầu như không c̣n giá trị ǵ nữa kể từ năm 1945) và nhất là để ông Diệm có cơ hội gặp giáo sư Wesley Fishel, một cựu sĩ quan t́nh báo Hải quân thuộc Đệ Thất Hạm đội Hoa Kỳ thời đệ nhị thế chiến và nghe nói đang là một nhân viên cao cấp của CIA. Buổi họp mặt với viên chức quan trọng này của cơ quan t́nh báo Mỹ đưa đến kết quả là trường đại học Michigan sẽ bảo trợ cho chuyến đi Mỹ của ông Diệm [1].
    Sau đó, ông Diệm lên đường đi La Mă dự lễ Năm Thánh và yết kiến Đức Giáo Hoàng, rồi từ đó bay đi Mỹ. Qua trung gian của giám mục Ngô Đ́nh Thục, ông được Hồng Y Spellman, thuộc ḍng Franciscain, tiếp kiến.
    Từ Mỹ, ông Diệm lại quay về La Mă mấy ngày rồi mới đi Thụy Sĩ, Bỉ, Pháp để thảo luận với một số chính khách Việt Nam phần đông là người Công giáo đang cư ngụ tại các nước này. Năm 1951, ông Diệm trở lại Hoa Kỳ hai năm, sống trong tu viện Maryknoll tại Lakewood (New Jersey) và Ossining (New York). Nhờ sự giúp đỡ của Hồng y Spellman, thỉnh thoảng ông lại được mời đi thuyết tŕnh tại các đại học miền Đông và miền Trung-Tây Hoa Kỳ. Ông cũng diễn thuyết tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn và với lư luận rằng “chỉ cần chấm dứt chính sách thực dân Pháp và chỉ cần Việt Nam có một chính phủ do người quốc gia lănh đạo là có thể đánh bại được Cộng Sản” mà ông đă chiếm được cảm t́nh và lời hứa sẽ yểm trợ của các chính trị gia Mỹ như Nghĩ sĩ Mike Mansfield, John Kennedy, Dân biểu Walter Judd, Chánh án Williams Douglas, và nhiều chính khách Công giáo Mỹ khác. Phê b́nh câu nói của ông Diệm, giáo sư Buttinger cho rằng luận cứ này phối hợp được sự đơn giản rất hấp dẫn và sự hợp lư khó căi được [2].
    Chính v́ sự “hấp dẫn không căi được” đó và quyết tâm của Hồng Y Spellman muốn có một chính phủ Việt Nam do người Công giáo La Mă lănh đạo [3], mà ông Diệm đă trở thành một “giải pháp” khả dụng và khả thi cho chính sách của Mỹ tại Đông Dương trong tương lai rất gần. Nhưng cái luận cứ "đơn giản và hợp lư” này đă chứng tỏ tính thiếu khoa học và không thực tế của nó khi ông Diệm, với một chính phủ quốc gia và 9 năm cai trị, ông Thiệu với một chính phủ quốc gia và 11 năm cai trị khác, vẫn không đánh bại được Cộng Sản. Nếu không muốn nói rằng chính phủ quốc gia của ông Diệm đă chính nghĩa hóa sự hiện diện của Cộng Sản tại miền Nam, và chính phủ quốc gia của ông Thiệu đă kiện toàn hóa chiến thắng của Cộng Sản tại miền Nam. Như vậy, rơ ràng hai chế độ “quốc gia" đă quản trị đất nước trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1975 quả thật đă không xứng đáng trên cả hai mặt nội dung cũng như thực tế để mang nhận danh từ này.
    Theo dơi hành tŕnh vận động quốc tế của ông Diệm, ta thấy gồm 6 chặng đường: Đi Đông Kinh gặp một nhân viên t́nh báo Mỹ, đến Vatican gặp Đức Giáo Hoàng, đi Mỹ gặp một vị Hồng Y, trở lại Vatican không biết để làm ǵ trong một thời gian ngắn rồi lại qua Mỹ gặp tiếp vị Hồng Y cũ, sau đó là các chính khách Hoa Kỳ. Sáu chặng đường đó thật ra chỉ gồm trong hai danh từ riêng lẫy lừng: Vatican và Mỹ.
    Tháng 5 năm 1953, theo lời mời của một số chính khách Việt Nam lưu vong mà đa số là người Công giáo, ông Diệm từ giă Hoa Kỳ về Pháp rồi đi Bỉ và trú ngụ tại tu viện Bénédictine de St André les Purges. Đúng một năm sau, năm 1954, khi số phận Việt Nam bắt đầu bị cột chặt bởi chiến bại của Pháp tại Điện Biên Phủ vào ngày mồng 7 tháng 5* và những mặc cả tại hội nghị Genève, th́ ông Diệm trở lại Paris và sống tại ngôi nhà của ông Tôn Thất Cẩn. Tại đây, với sự yểm trợ đắc lực của người em là ông Ngô Đ́nh Luyện, ông bắt đầu mở các cuộc thăm ḍ và vận động trong giới chính khách Việt Nam cũng như với các thế lực quốc tế.
    Theo giáo sư Buttinger th́ tại Sài G̣n, ông Nhu biết rằng anh ḿnh không đủ khả năng trong việc đối phó với những vận động chính trị quốc tế khó khăn và phức tạp, bèn vội vàng phái cộng sự viên thân tín là hai ông Trần Chánh Thành và Lê Quang Luật qua Paris để tăng cường thêm cho ông Diệm. Ông Trần Chánh Thành nguyên là tri huyện thời Pháp thuộc, sau theo Việt Minh làm chánh án Liên khu Tư, rồi bỏ kháng chiến về Tề vào năm 1952. C̣n ông Lê Quang Luật là một trí thức Công giáo Bắc Việt, người thân tín của giám mục Lê Hữu Từ.
    Ba mục tiêu vận động quan trọng và quyết định nhất của ông Diệm là được sự yểm trợ của chính quyền Mỹ, tranh thủ được sự thỏa thuận của chính phủ Pháp, và cuối cùng là thuyết phục được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm Thủ tướng. Ba vận động liên hệ chặt chẽ đến vận mệnh của hàng triệu người Việt Nam mà sức mạnh vô định của chính hàng triệu người Việt Nam đó không hề được vận dụng tới. Thật ra ba bước vận động này tṛng vào nhau như ba mắt xích, mà trong bối cảnh chính trị quốc tế lúc bấy giờ, mở được mắt xích thứ nhất là hai mắt xích c̣n lại sẽ bị tháo tung. Mắt xích thứ nhất, Hồng y Spellman đă giúp ông Diệm mở ra từ năm 1953 rồi cho nên tuy Bảo Đại và chính phủ Pháp lúc bấy giờ không đồng ư “con người Ngô Đ́nh Diệm”, nhưng dưới áp lực của ngoại trưởng Mỹ Foster* Dulles và sự can thiệp mạnh mẽ của Hồng Y Spellman vào chính sách của Phong trào Cọng ḥa B́nh dân Thiên Chúa Giáo Pháp (MRP), cuối cùng chính phủ Pháp và Bảo Đại đành phải chấp thuận bổ nhiệm ông Diệm làm Thủ tướng.
    Trong hồi kư Le Dragon d’Annam, trang 328, ông Bảo Đại đă cố t́nh không nói rơ những áp lực nầy dù những vận động chính trị của các nước liên hệ đến chính t́nh Việt Nam lúc đó, cũng như dù mối bất hoà Bảo Đại-Ngô Đ́nh Diệm trong quá khứ đă rơ ràng (xem thêm Bên Gịng Lịch Sử 1940-1975, ấn bản Hoa Kỳ, của Cao Văn Luận). Một cách thật tinh tế, để nói lên áp lực của người Mỹ, ông Bảo Đại đă cho biết rằng "sau khi gặp ông Foster Dulles để cho ông ta biết dự án của tôi, tôi đă gọi ông Diệm đến và nói rằng" (Après m être entretenu avec Foster Dulles, pour lui faire part de mon projet...). Sự kiện trước lúc lấy một quyết định nội bộ quan trọng (chỉ định một Thủ tướng) mà vị nguyên thủ quốc gia phải hội ư với Ngoại trưởng của Mỹ (không như trước đó ông Bảo Đại đă chỉ định 5 Thủ tướng mà không cần phải qua "thủ tục này") đă chứng tỏ áp lực của Mỹ quả thật có tác dụng lên quyết định của ông Bảo Đại. Hơn nữa, ngay ở trang 239 sau đó, ông Bảo Đại c̣n viết thêm:
    Thật vậy từ, nhiều năm nay, ông ta được nhiều người Mỹ biết và thích nhờ tính cứng rắn. Dưới mắt họ, ông Diệm là người phù hợp một cách đặc biệt cho hoàn cảnh hiện tại, v́ vậy mà Hoa Thịnh Đốn không ngần ngại ǵ mà không ủng hộ ông ta. (En effet, depuis de nombreuses années, il était connu des Américains qui appréciaient son intransigeance. A leurs yeux, il était l’homme fort convenant particulièrement à la conjoncture, aussi Washington ne lui ménagerait pas son appui).
    Nêu lên nhận định nầy, ông Bảo Đại ngầm cho ta biết sự can thiệp của người Mỹ trong quá tŕnh chọn lựa ông Ngô Đ́nh Diệm làm Thủ tướng là một sự can thiệp có thật. (Những người không hiểu rơ cá tính của hai ông Bảo Đại và Ngô Đ́nh Diệm, lại không nắm vững những hoạt động quốc tế cũng như nội bộ Việt Nam lúc bấy giờ, đă nhầm lẫn và không hiểu rơ được sự can thiệp nầy nên đă hiểu sai luôn những biến cố lịch sử sau đó là lẽ dĩ nhiên).
    Sự kiện ông Diệm được Vatican và Mỹ ủng hộ là một yếu tố quan trọng xoay chuyển lịch sử Việt Nam trong chiến tranh Quốc-Cộng nên tôi cần trích dẫn ra dưới đây những đoạn sách khả tín của các kư giả, nhà văn, nổi tiếng Anh, Mỹ để thêm tài liệu cho các nhà nghiên cứu sử sau nầy.
    Theo John Cooney th́ Giáo Hoàng Pius 12 muốn Hồng Y Spellman vận động với Hoa Kỳ tham dự vào chánh t́nh Việt Nam và ủng hộ cho ông Ngô Đ́nh Diệm cầm quyền tại nước này:
    Theo Malachi Martin, một giáo sĩ Ḍng Tên đă từng làm việc tại Vatican trong những năm Mỹ gia tăng sự tham dự vào Việt Nam, th́ lập trường của Hồng Y Spellman hợp với ư muốn của Giáo Hoàng (in accordance with the wishes of the Pope...) Giáo Hoàng muốn Hoa Kỳ ủng hộ Diệm v́ ngài bị ảnh hưởng của Giám mục Thục là anh của Diệm. Ông Martin xác nhận rằng "Giáo Hoàng lo ngại Cộng Sản sẽ bành trướng thêm làm suy hại đến Giáo hội. Giáo Hoàng đă nhờ Spellman khuyến khích người Mỹ can dự vàoViệt Nam ("The pope was concerned about Communism making more gains at the expense of the Church. He turned to Spellman to encourage American commitment to Vietnam", The American Pope, JohnCooney, tr.241, 242).
    V́ vậy Spellman đă bắt tay vào việc điều động kỹ càng một chiến dịch xây dựng chế độ Diệm (carefully orchestrated campaign to prop up the Diem regime)... Spellman và Kennedy cũng thành lập một tổ chức ở Hoa Thịnh Đốn để vận động cho Diệm. Chiêu bài vận động là chống Cộng và Công giáo (the rallying cries were anti-Communism and Catholicism). Sách đă dẫn, trang 242.
    Tháng 10 năm 1950, hai anh em Thục Diệm gặp các viên chức Bộ Ngoại Giao tại khách sạn Mayflower ở Hoa Thịnh Đốn, có cả sự tham dự của Dean Rusk. Diệm và Thục được linh mục McGuire và ba giáo sĩ chính trị gia (political churchmen) đặc trách chính sách chống Cộng tháp tùng, đó là Cha Emmanual Jacques, Giám mục Howard Carroll và Edmund Walsh của Đại học Georgetown. Mục đích của cuộc gặp gỡ là để t́m hiểu t́nh h́nh Việt Nam và để xác định lập trường chính trị của hai anh em Diệm-Thục. Hai anh em tin rằng Diệm đă được an bài để cai trị đất nước (both Diệm and Thục believed that Diệm was destined to rule his nation). Sự kiện giáo dân Việt Nam chỉ chiếm mười phần trăm chẳng làm cho hai người bận tâm. (The fact that Vietnam,s population was only ten percent Catholic mattered little as far as the brothers were concerned...) như Diệm đă nói trong bữa ăn tối rằng hai lập trường không lay chuyển của ông đă quá rơ ràng. Ông tin tưởng vào quyền lực của Toà thánh và ông chống Cộng kịch liệt (He believed in the Power of the Catholic Church and He was virulently anti-Communist). Sách đă dẫn, 241.
    Thật vậy, ngoài cuốn "The American Pope - The life and Time of Francis Cardinal Spellman" của John Cooney do Time Book phát hành, trong quyển "VietNam - Why did we go" của Avro Mahattan (trang 58), chuỗi sự kiện này cũng đă được tŕnh bày lại rơ ràng:
    "Spellman introduced Diem to William O. Douglas of the Supreme Court. The latter introduced Diem to Mike Mansfield and to John F. Kennedy, both Catholics and senators. Allen Dulles, director of the CIA adopted him.
    Following the decision of his brother, John Foster Dulles, and of Cardinal Spellman, who was acting for Pope Pius XII, Diem become their choice; he was going to be the head of the government in South Vietnam.
    The decision has been taken, Dulles adviced France to tell Bao Dai to appoint Diem as Prime Minister. France, having by now decided to abandon Vietnam, agreed. Diem became Prime Minister in June, 1954. The 19th of the same month, Bao Dai invested Diem with dictatorial power. This entailed not only civilian but also military control. Diem arrived in Saigon June 26, 1954 and on June 7, set up his own government."
    Tạm dịch: HồngY Spellman đă giới thiệu ông Diệm với ông Wiliam O.Douglas, Thẩm phán Tối Cao Pháp Viện. Ông nầy lại giới thiệu ông Diệm với ông Mike Mansfield và ông John F. Kennedy, cả hai đều là Thượng Nghị sĩ theo Công giáo. Ông Giám đốc CIA Allen Dulles cũng đă đỡ đầu cho ông Diệm.
    Theo quyết định của anh ông ta là (Ngoại trưởng) John Foster Dulles và của Hồng Y Spellman, người đại diện cho Giáo Hoàng Phero XII, ông Diệm đă được họ tuyển chọn, ông sẽ là người cầm đầu chính phủ Nam Việt Nam.
    Sau khi lấy quyết định xong, ông Dulles khuyến cáo chính quyền Pháp hăy nói với Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm làm Thủ tướng. V́ lúc bấy giờ đă có quyết định bỏ Việt Nam nên Pháp đồng ư. Ông Diệm trở thành Thủ Tướng vào tháng 6 năm 1954. Ngày 19 cùng tháng đó, Bảo Đại phong cho Ông Diệm toàn quyền. Không những quyền kiểm soát dân sự mà c̣n cả quân sự nữa trên toàn quốc. Ông Diệm về tới Sài G̣n ngày 26 tháng 6 và thành lập chính phủ vào ngày 7 thàng 7 năm 1954.
    Những bí ẩn lịch sử trên đây cho ta thấy ngay từ trước năm 1950, ông Diệm v́ không thể cộng tác được với Pháp và cựu Hoàng Bảo Đại nữa nên hướng về Hoa Kỳ, mà cuộc vận động nhịp nhàng của Vatican và cơ quan CIA đă đưa ông thành công với chức vụ Thủ tướng khi Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ. Bây giờ th́ ta đă thấy rơ ràng tại sao trên đường xuất ngoại năm 1950 hai ông Diệm và Thục lại gặp giáo sư Wesley Fishel tại Nhật Bản, nhân viên cao cấp của cơ quan T́nh báo Trung Ương Mỹ, tại sao trong "Bên Gịng Lịch Sử" linh mục Cao Văn Luận khoe khoang; "Có thể nói rằng nếu không có cha Houssa th́ số phận Việt Nam không chừng đă khác", tại sao khi đến thăm Sài G̣n thăm lính Mỹ, Hồng Y Spellman tuyên bố: "các anh chiến đấu cho văn minh Thiên Chúa Giáo". Từ nay, ông Diệm trở thành người lính tiền đồn ngăn chận Cộng Sản cho Vatican và Hoa Kỳ.
    Đàng sau vở tuồng chính trị này, ta c̣n thấy thấp thoáng bóng dáng một người đàn bà mà tuy vai tṛ khiêm nhường nhưng không kém phần quan trọng là bà Nam Phương Hoàng Hậu, một nữ tín đồ Công giáo ngoan đạo và có uy tín. Ông Tôn Thất Cẩn, con trai của cụ Thân thần Phụ chánh Tôn Thất Hân và là bạn thân của ông Diệm, đă thuyết phục bà Nam Phương để bà góp ư với chồng với điều kiện sau khi ông Diệm cầm quyền phải nâng đỡ Hoàng tử Bảo Long, người con trai đầu ḷng của bà và của vua Bảo Đại. Bernard Fall cho biết ông Diệm đă quỳ xuống trước bà Nam Phương để nhận lời uỷ thác đó [4].
    Ngày 16 tháng 6 năm 1954, sau một buổi tiếp kiến với Ngoại trưởng Foster Dulles, Quốc trưởng Bảo Đại kư sắc lệnh 38/QT bổ nhiệm ông Ngô Đ́nh Diệm làm Thủ tướng. Sau khi ông Diệm tuyên bố chấp nhận, vua Bảo Đại bèn kéo ông vào một gian pḥng kế cận trong lâu dài Thorence, nơi vua Bảo Đại trú ngụ tại Cannes, trước bức thánh giá rồi bắt ông thề:
    -"Chúa của ông đó, ông hăy thề sẽ bảo toàn lănh thổ quốc gia mà người ta sẽ giao phó cho ông. Ông sẽ bảo vệ quốc gia chống lại Cộng Sản và nếu cần chống cả người Pháp".
    Ông Diệm suy nghĩ giây lát, nh́n Bảo Đại, rồi quay lại phía thánh giá, ông nói thầm:
    -"Tôi xin thề" [5].
    Kể lại những sự kiện trên đây, kư giả Karnow viết rằng: "Sau khi bổ nhiệm ông Diệm làm Thủ tướng, Bảo Đại đă tự đào lỗ huyệt chính trị của ḿnh mà không biết".
    Những sự kiện về ông Ngô Đ́nh Diệm đến bái yết Quốc trưởng Bảo Đại khi nhận chức Thủ tướng c̣n được Hillaire du Berrier kể tường tận hơn, đúng như cựu "Tổng trưởng trực tiếp với Phủ Thủ Tướng" (trong chính phủ Bửu Lộc) Phan Huy Quát và ông Tôn Thất Cẩn đă kể cho tôi nghe:
    Ngô Đ́nh Diệm sau khi từ giă Hoa Kỳ năm 1953, về Bỉ rồi đến Pháp và không thể tránh được con đường dẫn tới ngôi lâu đài 12 pḥng tại Cannes. Lúc ấy, vào tháng 6 năm 1954, một người thấp nhỏ, kỳ dị, lạnh lùng, thiếu nét vui tươi đứng trước mặt một vị Cựu Hoàng mà vẫn tâu là "Bẩm tâu Hoàng Thượng", mặc dù vị cựu Hoàng đó lúc bấy giờ chính thức mang danh hiệu là Quốc trưởng.
    Bảo Đại biết rơ con người đó tính t́nh bất thường hay thay đổi, khi th́ bẽn lẽn rụt rè nhưng đôi khi lại nóng nảy cộc cằn, thứ người ĺ lợm khắc khổ v́ những năm tháng cô đơn thiếu t́nh người. Bảo Đại biết con người đó cao ngạo và ngoan cố. Nếu để chọn lựa một vị Thủ tướng trong giờ phút Tổ quốc lâm nguy để phục vụ hữu hiệu cho quốc gia th́ Ngô Đ́nh Diệm mà Bảo Đại phải chỉ định làm Thủ tướng chỉ là con người được lựa chọn sau chót, nhưng Bảo Đại không có lựa chọn nào khác hơn.
    Qú xuống trước Bảo Đại, Ngô Đ́nh Diệm thề trung thành với vị Hoàng Đế của ông ta. Đă trải qua biết bao thăng trầm cay đắng, Bảo Đại chấp nhận mọi việc chỉ là thường t́nh. Bảo Đại cố quên những buổi hội họp đầy sóng gió tại Hồng Kông năm năm về trước. Bảo Đại biết rằng con người trước mặt ông ta không bao giờ quên thù hận nhưng Bảo Đại vẫn làm phần vụ của ông ta là chỉ định Ngô Đ́nh Diệm làm Thủ tướng với toàn quyền thành lập chính phủ. Lời nói cuối cùng của Bảo Đại là: "Ông hăy hợp nhất các giáo phái vào cộng đồng quốc gia, thống nhất phần đất nước c̣n lại của chúng ta".
    Bà Nam Phương Hoàng Hậu, cũng là một tín đồ Công Thiên Chúa giáo như ông Diệm, đă khẩn khoản yêu cầu ông Diệm hăy cứu văn và tạo thế lực cho nhà Nguyễn để giúp đỡ cho Bảo Long, con trai của bà.
    Bảo Đại kư cho ông Diệm cái ngân phiếu một triệu đồng bạc để tổ chức những cuộc biểu t́nh "tự phát" (spontaneous demonstration) hầu làm xúc động người Mỹ và tạo hào hứng cho dân chúng Việt Nam. Diệm bỏ ngân phiếu vào túi rồi cảm ơn và tâu: "Bẩm Hoàng thượng, nếu khi nào Ngài thấy tôi có lỗi, Ngài chỉ nói một lời là tôi xin từ chức ngay".
    Ngày 26 tháng 6 năm 1954, Diệm vào tuổi 54, trở về Việt Nam để chấp chánh và từ đây th́ trách nhiệm về phần người Mỹ [6].
    Nhận định về những nỗ lực và thành quả vận động quốc tế của ông Diệm, ta thấy yếu tố chính quyết định những nỗ lực và thành quả này là tôn giáo của ông Diệm. Uy tín trong nước của ông, vị thế chính trị trong nước của ông, cơ sở quần chúng trong nước của ông... quả thật chỉ là những hậu thuẫn nhỏ nhoi không đủ để giúp ông mở được cánh cửa của Mỹ và Pháp. Trong cái thế chính trị toàn cầu lúc bấy giờ, khi mà nội bộ nền đệ tứ Cộng Hoà Pháp đang dần dần băng ră v́ "trận chiến tranh bẩn thỉu", khi mà Cộng Sản đang hiện diện một cách áp đảo tại Đông Nam Á, th́ nhu cầu của cường quốc Mỹ là can thiệp vào Việt Nam với một "người hùng bản xứ" chống Cộng. Mà dưới nhăn quan chính trị và nhân văn của Mỹ vào thập niên 50, 60 "người hùng" chống Cộng đó phải là và chỉ có thể là một tín đồ Công giáo khả tín (như có anh ruột là chức sắc cao cấp chẳng hạn). Ông Diệm thoả măn đầy đủ những điều kiện đó của nhu cầu này. Và v́ ông là ứng cử viên "hợp lệ" duy nhất nên ông đă được chọn. Tôn giáo của ông đă đưa ông lên đài danh vọng, th́ cũng chính v́ tôn giáo của ông, mà sau này thân thế sự nghiệp của ông phải tan tành.
    Mấy ngày trước đó, Thủ tướng Pháp Pierre Mendès-France được tín nhiệm để thành lập một nội các với lời hứa sẽ thực hiện cuộc ngưng bắn tại Đông Dương trong ṿng một tháng. Ngay sau khi nhận chức, thủ tướng Mendès-France liền điều đ́nh với ông Chu Ân Lai, Ngoại trưởng Trung Cộng.
    Cho những độc giả cần nghiên cứu kỹ càng hơn về giai đoạn khai sinh ra nền Đệ Nhất Cộng Hoà nầy qua việc ông Ngô Đ́nh Diệm được Vatican, Hồng Y Spellman chọn lựa và được cơ quan CIA và bộ ngoại giao Hoa Kỳ bảo trợ để được Bảo Đại cử làm Thủ tướng Việt Nam vào năm 1954, tôi đề nghị xin đọc kỹ hai tác phẩm: "The American Pope - The Life and Times of Francis Cadinal Spellman" của kư giả Cooney từ trang 236 đến trang 245, và "Vietnam - Why did we go?" của Avro Mahattan, từ trang 51 đến trang 75. Qua chi tiết của hai cuốn sách vừa kể, ta thấy quả thật ông Diệm được Vatican và Hoa Kỳ cùng sử dụng để làm con cờ chống Cộng ở Đông Nam Á. Nói thế không phải là chê trách ông Diệm, khen hay chê ông ta là tuỳ vào hành động lănh đạo quốc gia sau này. Nói thế chỉ v́ sự thật của lịch sử như thế.
    *Một sự kiện lịch sử khác cũng cần phải được phân tách cho ra lẽ, đó là việc ông Diệm khi nhận chức Thủ tướng không biết có quỳ trước Bảo Đại như Hilaire du Berrier đă viết trong "Background to Betrayal" hay không, mà trong "Le Dragon d Annam", Bảo Đại nói chỉ bắt ông Diệm thề trước Chúa mà thôi.
    *Ngoài Hilaire du Berrier, nhà văn Hoàng Trọng Miên trong cuốn "Đệ Nhất Phu Nhân" (trang 389), học giả Nguyễn Hiến Lê trong cuốn "Con Đường Thiên Lư" (trang 202), kư giả Bernard Fall trong cuốn "The Two Vietnam" (tr.244) cũng nêu lên việc ông Diệm có quỳ trước Nam Phương Hoàng Hậu trong lễ nhận chức Thủ tướng tại lâu đài Thorence:
    "... After three days of hesitasion, Bao Dai yielded. Diem received absolute dictatorial power on June 19. Fully realizing that he was throwing his throne away, Bao Dai allegedly made Diem swear a solemn oath of alllegiance to him, and several authoritative witnesses affirm that Diem also swore on his knees to Empress Nam Phuong that he would “do everything in his power” to preserve the throne of Vietnam for Prince Bao Long, son of Bao Dai."
    Có thể ông Ngô Đ́nh Diệm đă không quỳ cho nên vua Bảo Đại không đề cập đến chuyện này, cũng có thể ông Ngô Đ́nh Diệm có quỳ mà Bảo Đại v́ tế nhị không muốn nói đến.
    Nhưng nghĩ cho cùng th́ có lẽ ông Ngô Đ́nh Diệm đă quỳ như hành động cuối cùng của chuỗi nỗ lực vận động nắm chức Thủ tướng, trong đó kể cả việc ông Ngô Đ́nh Luyện dâng Bảo Đại một chiếc ô tô lộng lẫy mà ông Hồ Sĩ Khuê đă nêu ra trong tác phẩm "Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm, và Mặt Trận Giải Phóng" (tr. 276) hoặc như ông Ngô Đ́nh Luyện đến Cannes đề nghị biếu Bảo Đại 300 triệu Francs (30 triệu bạc Việt Nam) nếu Bảo Đại cho ông Diệm toàn quyền củng cố uy quyền bằng vũ lực ("Việt Nam Niên biểu Nhân vật Chí" của Chính Đạo, tr.290).
    Như vậy, rơ ràng việc ông Diệm được Giáo hoàng La Mă, Hồng y Spellman và chính giới Mỹ "bồng" về Việt Nam cầm chính quyền, và việc vua Bảo Đại bất đắc dĩ cử ông Ngô Đ́nh Diệm làm Thủ tướng, là những sự thật lịch sử đă được ghi lại minh bạch và đầy đủ, thế mà “trí thức” Công giáo Nguyễn Văn Chức trong cuốn sách gọi là "Việt Nam Chính Sử" lại nguỵ biện cho rằng tác giả VNMLQHT viết sai và gian trá.
    Ông Diệm từ Paris trở về nước ngày 26 tháng 6 năm 1954, sau 5 năm trời sống tại các thủ đô quốc tế ở hải ngoại. (Năm năm này, sau đó, đă được đưa vào phần mở đầu của bài ca "Suy tôn Ngô Tổng thống"..."Ai bao năm từng lê gót nơi quê người..." bắt buộc hát sau bài quốc ca để cân bằng với 40 năm biệt xứ đấu tranh của ông Hồ Chí Minh).
    Sự trở về của ông Diệm không gây được hào hứng nào trong khối quần chúng Việt Nam. Ông Diệm không được đón tiếp như một anh hùng từng đấu tranh cho đất nước. Rơ ràng tên tuổi ông ta không làm bốc lửa trong ḷng nhân dân. Chỉ độ 500 người gồm những quan lại già nua, chức sắc Công giáo và nhân viên cao cấp của chính phủ đón chào ông ta tại phi trường. Những người đến đón nhà lănh đạo quốc gia mới không ngờ rằng khi ông Diệm bước ra khỏi phi cơ là sẽ đi trên con đường vinh quang mau chóng, tuyệt vọng và sớm mua lấy cái chết.[7]
    *Sau này, khi biết được cuộc đón tiếp ông Diệm thiếu sự tham dự của nhân dân, tôi đă trách móc ông Nhu và ông Vơ Văn Hải không huy động nổi đồng bào đi biểu t́nh đông đảo để đón tiếp sự hồi hương của lănh tụ.******
    Buổi đón tiếp tuy đầy đủ phần nghi lễ nhưng thiếu hẳn quần chúng đón chào tỏ ra rằng ông Diệm không có thực lực quần chúng ủng hộ. Vả lại, 500 người có mặt tại Tân Sơn Nhất hôm đó quả thật đă không đại diện một chút nào cho 25 triệu người Việt Nam trên mặt pháp lư cũng như chính trị, trên mặt liên đới t́nh cảm cũng như liên đới tinh thần.
    Một người đă từng chống Bảo Đại và chống Pháp th́ không thể trở về với dân tộc để lănh đạo quốc gia bằng một sắc lệnh của Quốc trưởng và trên một chiếc máy bay có cờ tam tài. Trường hợp đó và khung cảnh đó phù hợp với những thoả hiệp của một cuộc vận động chính trị hậu trường, hơn là kết quả của một quyết tâm xả thân đấu tranh cho đất nước, cho nên nhân dân Việt Nam nói chung, và quần chúng Sài G̣n nói riêng vẫn không t́m được sự hào hứng để chào mừng ông Diệm trong ngày trở về của ông.
    Nhưng lúc đó, đối với tôi, từ miền Bắc xa xăm, và sau 5 năm trông đợi ngày về của người lănh đạo tổ chức, ngày ông Diệm về nước là một ngày hội lớn, là sự thành tựu của 12 năm đấu tranh cho lư tưởng của ḿnh xuyên qua h́nh bóng của ông Ngô Đ́nh Diệm, là ngày mà những tra tấn trong ngục tù, những ly biệt với vợ con, những hiểm nghèo trong lửa đạn bắt đầu đơm bông kết trái thành đài vinh quang. Tôi đă không cần dấu diếm nữa mà bộc bạch hẳn với hai người bạn cùng khoá là Thiếu tá Lam Sơn và Đại uư Nguyễn Chánh Thi về tương lai chắc nịch của đất nước, về cơ hội lịch sử đă cho phép ông Diệm sẽ được quản trị quốc gia một cách dân chủ, sẽ được thi thố tài năng trong cuộc thư hùng với Cộng Sản.
    Tuy nhiên, sau những phút vui mừng bồng bột đầu tiên đó, tôi bắt đầu lo âu cho ông Diệm. Đă từng sống giữa ḷng quê hương từ trước cuộc kháng Pháp, đă từng làm việc chung với người Pháp trong chế độ Bảo Đại, đă là chứng nhân của bao nhiêu biến cố chính trị, bao nhiêu lừa lọc phản trắc, tôi biết ông Diệm sẽ phải đi qua một băi ḿn nổ chậm với bao nhiêu khó khăn phức tạp cạm bẫy đang chờ đợi ông. Cụ thể hơn, là một sĩ quan cấp tá thâm niên, tôi biết rơ tham vọng và tính t́nh của tướng Nguyễn Văn* Hinh và tinh thần quân đội dưới quyền ông ta. Những thực tế này sẽ là trở lực khó khăn nguy hiểm đầu tiên mà ông Diệm không thể tránh được. Đành rằng trong giai đoạn đó, quân đội không phải là yếu tố quyết định những thay đổi quan trọng của t́nh h́nh chính trị Việt Nam, nhưng ở một mặt nào đó, quân đội dưới quyền tướng Hinh, một người Pháp mang tên Việt, lại đủ sức* để cản trở những kế hoạch của ông Diệm. Hay đi xa hơn, có thể tiêu diệt ngay sức mạnh pháp lư và chính trị c̣n mong manh của vị tân Thủ tướng.
    Biết như thế mà lại biết rất rơ nữa là khác, cho nên dù điều kiện khó khăn và phương tiện bị hạn chế, tôi cũng phải làm mọi cách để giúp được ông Diệm phần nào hay phần đó. Tuyên truyền, giác ngộ vẫn là thứ khí giới hữu hiệu nhất cho nên tôi bèn viết rất nhiều thư cho các bạn bè từ chí thân đến sơ giao, cho các sĩ quan thân tín ở nhiều quân khu, nhiều đơn vị, nói cho họ biết muốn cứu nước, muốn quốc gia khỏi rơi vào tay Cộng sản, muốn c̣n có đất chôn chân th́ phải ủng hộ cho Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm vượt thắng mọi thế lực chống đối ông ta. Với các sĩ quan miền Trung như Nguyễn Ngọc Lễ, Lê Văn Nghiêm, Thái Quang Hoàng, Tôn Thất Đính,... tôi không ngần ngại nói thẳng cho họ biết rằng tướng Hinh và những tay sai của Pháp sẽ t́m cách triệt hạ ông Diệm. Tôi yêu cầu họ nỗ lực hoạt động lôi kéo bạn bè, cộng sự viên của họ theo con đường chính nghĩa. Mục tiêu của tôi là xây dựng cho ông Diệm một chủ lực, nếu không được th́ ít nhất là một hậu thuẫn trong quân đội, để đối phó với cuồng vọng của tướng Nguyễn Văn Hinh sau này.
    Tại Hà nội, nơi tôi học, có bốn lớp quân sự: lớp Trung đoàn trưởng, lớp Tham mưu trưởng, lớp Tiểu đoàn trưởng, và lớp Đại đội trưởng, tổng số* khoá sinh gồm độ 150 người, mà khi tốt nghiệp những sĩ quan này sẽ được bổ nhiệm vào các chức vụ chỉ huy. Tôi dùng luận điệu "ông Diệm có c̣n, Việt Nam mới c̣n" để tác động tinh thần họ. Thiếu tá Lam Sơn, Đại uư Nguyễn Chánh Thi cũng đồng quan điểm với tôi và sau này họ đă có công trong việc giúp ông Diệm chống lại lực lượng của tướng Hinh. Sau này, biến cố đất nước bị chia đôi ngày 20 tháng 7 bởi hiệp ước Genève do sự bất lực của Pháp và các chính phủ của chế độ Bảo Đại, càng cho tôi thêm yếu tố để tuyên truyền hầu tăng cường uy tín và lập trường quốc gia chống Pháp của ông Diệm.
    Ngày 30 tháng 6, khi ông Diệm ra Hà Nội để quan sát t́nh h́nh miền Bắc và để thăm ḍ nhân sự hầu thành lập nội các, th́ t́nh h́nh chiến sự tại Bắc Việt đă đến hồi kết thúc trong hỗn* loạn, Đại tá Vanuxem mở cuộc hành quân Auvergne để di tản khỏi miền Nam của Bắc Việt (Thái b́nh, Ninh B́nh, Nam Định... các tỉnh có nhiều giáo phận và đồn bót của Pháp) trong cố gắng tránh những tổn thất do cuộc rút quân gây ra. Thành phố Hà Nội tràn ngập dân di tản ở các vùng này, họ sống lê lết ở các vỉa hè và xô xát với nhân viên công lực. Và đúng như Bảo Đại mô tả trong "Le Dragon d`AnNam", họ là những người Công giáo, lực lượng mà ông Diệm tin cậy sẽ là hậu thuẫn ở miền Bắc nhưng họ chỉ lo t́m đường chạy trốn vào Nam.
    Quyết định rút lui của quân đội Pháp đă như cơn gió mạnh thổi tan lực lượng này, vốn hiện diện và tồn tại phần lớn nhờ nương dựa vào sức mạnh của chính quân đội ngoại bang đó. Khi cây đă ngă th́ những b́m bịp bám dựa vào đó cũng ngă theo luôn.
    Khi nhận chức Thủ tướng với Bảo Đại, ông Diệm không ngờ chiến sự tại Bắc Việt lại suy sụp nhanh đến thế, khi thề trước thánh giá sẽ "bảo vệ toàn vẹn lănh thổ", ông Diệm đă hoàn toàn không nắm vững được t́nh h́nh sẽ biến chuyển theo chiều hướng nào. Như suốt cả cuộc đời ông Diệm (và cả anh em ông nữa) đă chứng minh, họ luôn luôn chủ quan, không thực tế, và nhất là chỉ cho ḿnh là đúng, là nhất.
    Khi quân Pháp rút lui, tâm trạng bị bỏ rơi của các giáo phận đó đă được chính Đại tá Vanuxem kể lại trong hồi kư của ông qua thái độ tuyệt vọng một cách nhục nhă của Giám mục Phạm Ngọc Chi thuộc giáo phận Bùi Chu, một thái độ bị bỏ rơi nên trở lại coi người bạn Pháp năm xưa như kẻ thù [8]:
    Một ngày kia, tại Nam Định, nơi có bộ chỉ huy của tôi, người ta báo cho tôi biết có một số các vị giáo phẩm Công giáo Việt Nam của địa phận tới xin vào thăm, tôi tiếp họ ở một căn hàng tạp hoá. Cả thảy có bốn người, cầm đầu bởi giám mục Phạm Ngọc Chi thuộc giáo phận Bùi Chu, và sau này thuộc giáo phận Đà Nẵng và luôn luôn là bạn thân của tôi.
    Đến trước mặt tôi, ông bèn quỳ xuống trong lúc tôi cố đỡ ông dậy, ông nói: "Không, tôi xin lỗi Đại tá. Chúng tôi xin lỗi Đại tá. Chúng tôi cứ tưởng rằng quốc gia chúng tôi xứng đáng được độc lập mà chúng ta có bổn phận giúp đỡ; nhưng chúng tôi đă nhận ra quá muộn rằng những người mà chúng tôi trông cậy (người Pháp) lại là những kẻ thù của chúng tôi, những kẻ thù muốn chúng tôi mất linh hồn".
    Vanuxem kết luận rằng:
    Thật là một thảm hoạ to lớn khi những nhân vật lănh đạo tinh thần đă buộc phải hạ ḿnh nhục nhă trước một quân nhân. Tương lai đă cho thấy tất cả thảm hoạ đó.
    Giáo phận Bùi Chu đă hợp tác và phục vụ quân đội Pháp ngay từ ngày đầu tiên Pháp trở lại Bắc Việt. Giáo phận này đă biến một số giáo đường thờ Chúa thành pháo đài quân sự, khuyến khích thanh niên Công giáo gia nhập Phụ Lực Binh cho quân đội Pháp. T́nh trạng của giáo dân trước viễn ảnh Tây đi Cộng về rơ ràng rất nguy hiểm và rất đáng tội nghiệp, nhưng không phải v́ thế mà một vị tu sĩ cao cấp lănh đạo tinh thần của một tôn giáo có truyền thống hy sinh tử v́ đạo lại có thể quỳ xuống trước một quân nhân ngoại quốc để cầu khẩn họ ở lại bằng những luận cứ trách móc, giận hờn. Cách thế hành sử đó và nội dung lời cầu khẩn đó không những làm đau ḷng những tín đồ Công giáo chân chính mà c̣n làm cho những đồng bào Việt Nam của ông hổ thẹn nữa. (Sau này, khi di cư vào Đà Nẵng, Giám mục Phạm Ngọc Chi trở thành một lănh tụ của đảng Cần Lao tại miền Trung bên cạnh lănh chúa Ngô Đ́nh Cẩn. Không trách ǵ quần chúng và Phật giáo đồ tại miền Trung bị khốn khổ và cũng không trách ǵ v́ những người như vậy, mà chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị toàn dân căm thù lật đổ vào năm 1963).
    Được tin ông Diệm đến Hà Nội, tôi bèn tới dinh Thủ Hiến để gặp chào mừng ông. Một đám đông chưa tới một ngàn người, do nhóm các ông Lê Quang Luật và Hoàng Bá Vinh (hai nhân sĩ Công giáo ở Bắc) tổ chức, đang cầm quốc kỳ và trương biểu ngữ diễn hành trước dinh Thủ Hiến để chào mừng vị tân Thủ tướng. Tôi vừa buồn vừa giận v́ số người tham dự quá ít ỏi so với dân số Hà Nội lúc bấy giờ, nhất là dân số đó lại vừa được tăng cường nhờ số dân Công giáo tị nạn từ các tỉnh mới đến. Tôi nghĩ thầm như thế và đâm ra ngượng với các cán bộ của Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí (thuộc đảng Đại Việt), vốn không ưa ǵ ông Diệm.
    *Khi ông Diệm đến bậc thềm để vào dinh Thủ Hiến th́ thấy tôi, tôi vội chào lớn "thưa Cụ". ông Diệm nh́n tôi vừa lộ vẻ ngạc nhiên một cách vui mừng và nói lớn: "À! có cả anh Mậu đây nữa à . Tôi chưa kịp nói thêm lời nào th́ những lễ nghi quân cách đă vang lên kéo ông vào đại sảnh. Tuy hơn tôi những 16 tuổi và xa cách gần sáu năm trời, tôi vẫn không thấy ông già thêm bao nhiêu. Bước đi của ông vẫn ngắn và thoăn thoắt, chỉ có dáng người trông có vẻ bệ vệ hơn trong bộ âu phục trắng. Biết ông c̣n bận rộn với những nghi lễ, tôi vội rời đám đông trở về quân trường. Nhớ lại ngày nhận được tin ông Diệm được ông Hồ Chí Minh trả tự do tôi mừng bao nhiêu th́ hôm nay, gặp lại ông trong cảnh huy hoàng của sự đạt thành ư nguỵện, tôi mừng bấy nhiêu. Đối với tôi, một cá nhân tầm thường, một cán bộ đấu tranh chỉ có tấm ḷng son trang trải cho quê hương, th́ sự kiện ông Diệm nắm được chính quyền là một thắng lợi vĩ đại vừa của tổ quốc, vừa của tổ chức, và vừa của chính ḿnh. Mười hai năm gian truân vào tù ra khám, mười hai năm không biết được mái ấm gia đ́nh, mười hai năm cầm cự cho tổ chức sống c̣n... như cuốn phim dài chợt tuần tự tŕnh chiếu lại như một thoáng vó câu. Tôi mừng mừng tủi tủi đến rơi nước mắt và trong một thoáng ngắn ngủi, chợt thấy trời đất Bắc mùa Hạ mà ngọt ngào hương nắng mùa Xuân.
    Hai ngày sau, ông Diệm cho người mời tôi vào dinh Thủ Hiến để thăm hỏi t́nh h́nh chiến sự, t́nh trạng gia cảnh. Ông bắt tôi kể lại cho ông nghe điều kiện hoạt động của từng anh em trong nhóm và riêng tôi th́ khi nào măn khoá để về Nam. Ông cũng cho biết là mới về, công việc c̣n đa đoan và nhiều khó khăn. Sau những phút nồng nhiệt ban đầu của cuộc gặp gỡ, ông trở lại với trạng thái đăm chiêu, nét lo âu mệt mỏi hiện rơ ra trên cặp mắt kém linh động; ghế bên kia, ông Nhu ngồi với bộ mặt khổ năo lầm ĺ. Được gần một tiếng đồng hồ th́ tôi đứng dậy chào về v́ bên ngoài đă có người chờ vào gặp.
    Ra ngoài hành lang dinh Thủ Hiến, tôi gặp cụ Tạ Chương Phùng và ông Vơ Văn Hải, bèn thắc mắc với họ về nét mặt ưu tư của ông Diệm và ông Nhu. Ông Hải chưa kịp trả lời th́ cụ Phùng đă nói: "Hôm qua Nhu mới bị ông Cụ la cho một trận nên thân đó . Cụ Phùng nhắc lại gần nguyên văn lời ông Diệm gay gắt với ông Nhu: "Chú đánh điện qua Pháp bảo tôi mọi việc ở nhà đều xong xuôi sẵn sàng cả rồi, bây giờ tôi về lại gặp không biết bao nhiêu là khó khăn. Không ai thèm hợp tác với tôi, ngay cả ông Chữ và ông Toàn cũng từ chối (tức là bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ và bác sĩ Lê Toàn, hai đồng chí của ông Diệm trong phong trào Cường Để hoạt động ở Bắc Việt dưới thời Nhật chiếm đóng). Tôi không làm việc được trong t́nh cảnh này, về Sài G̣n rồi tôi sẽ ra đi..." Tuy ông Diệm nói thế nhưng hai anh em ông vẫn liên lạc thăm ḍ, mời một số chính khách tham dự vào nội các của ông. Sau gần hai tuần lễ Việt Nam không có chính phủ, ngày 7 tháng 7 tại Sài G̣n, nội các Ngô Đ́nh Diệm đầu tiên ra mắt quốc dân với thành phần như sau;
    *- Ngô Đ́nh Diệm: Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội vụ, kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng.
    * - Trần Văn Chương: Quốc Vụ Khanh.
    * - Trần Văn Đỗ: Tổng trưởng Ngoại Giao.
    * - Trần Văn Của: Tổng trưởng Tài chính, Kinh tế.
    * - Phan Khắc Sửu: Tổng trưởng Canh nông.
    * - Nguyễn Tăng Nguyên: Tổng trưởng Lao Động và Thanh Niên.
    * - Trần Văn Bạch: Tổng trưởng Công chánh và Giao Thông.
    * - Nguyễn Dương Đôn: Tổng trưởng Giáo Dục.
    * - Phạm Hữu Chương: Tổng trưởng Y Tế và Xă Hội.
    *
    Ngoài ra c̣n có một số Bộ trưởng như:
    * - Trần Quang Thành: Bộ trưởng Phủ Thủ tướng.
    * - Lê Quang Luật: Bộ trưởng Thông Tin.
    * - Nguyễn Ngọc Thơ: Bộ trưởng Nội Vụ.
    * - Lê Ngọc Chấn: Bộ trưởng Quốc pḥng.
    * - Bùi Văn Thinh: Bộ trưởng Tư Pháp.
    * - Nguyễn Văn Thoại: Bộ Trưởng Kinh Tế.
    * - Trần Hữu Phương: Bộ Trưởng Tài Chánh.
    *- Phạm Duy Khiêm: Phát ngôn viên Phủ Thủ tướng [9]
    Nh́n vào thành phần chính phủ trên đây ta thấy có một số nhân vật có uy tín, có thành tích đấu tranh, số khác là những nhà trí thức khoa bảng hoặc là thành phần quan lại cũ, nhưng không có nhân vật nào nằm gai nếm mật xả thân cho Cách mạng chống Pháp chống Việt Minh như anh em ông Diệm thường hô hào. Và đại đa số những Tổng, Bộ trưởng trong nội các lại càng chưa bao giờ "cầm súng kháng chiến" như lời tuyên bố của ông Diệm tại Hồng Kông năm 1950 khi ông bắt đầu cuộc hành tŕnh vận động quốc tế.
    *Điều mỉa mai là trong số 16 nhân vật cộng tác với ông Diệm trong chính phủ đầu tiên này, chỉ trừ các ông Nguyễn Dương Đôn và Phạm Duy Khiêm là không nghe nói đến có mâu thuẫn và chống đối với ông Diệm hay chế độ của ông, 14 vị c̣n lại dần dần đều đứng trong tư thế đối lập hoặc trở thành kẻ thù của ông Diệm. Ngay như hai ông Bùi Văn Thinh và Trần Chánh Thành, những người từng chia sẻ cay đắng, đồng lao cộng khổ với ông Diệm trong những năm 1954, 1955, mà rồi cũng bị bạc đăi để phải đi ra nước ngoài theo chính sách "được làm Vua thua làm Đại sứ". Kỹ sư Trần văn Bạch chỉ v́ không chịu hô "Ngô Thủ tướng muôn năm" trong lễ chào cờ mà bị mất chức, bị gán cho là thân B́nh Xuyên và bị theo dơi [10]. Ông Nguyễn Ngọc Thơ, người bạn chí thân của ông Diệm, cuốí cùng rồi cũng theo phe cách mạng 1-11-63. Ông Nguyễn Văn Thoại làm Bộ trưởng mấy tháng rồi cũng chán nản từ chức bỏ nước ra đi v.v...
    Một điểm cần lưu ư ở đây là từ năm 1956, nghĩa là khoảng tám tháng sau khi truất phế Cựu hoàng Bảo Đại và thành lập nền Cộng Hoà, chính phủ ban hành đạo luật xem ngày 7 tháng 7 như một quốc lễ (lễ Song Thất) và đồng thời bài "Suy tôn Ngô Tổng Thống" được hát sau bài quốc ca trong tất cả mọi lễ chào quốc kỳ của tất cả mọi trường hợp (Bài hát đại ư tôn vinh cá nhân Ngô Tổng thống anh minh đă cứu nguy cho dân tộc), mà trong phần điệp khúc có câu “Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng thống. Ngô Tổng thống, Ngô Tổng thống muôn năm” đă được quần chúng nhại lại một cách châm biếm là "Toàn dân Việt Nam nhớ ăn tô hủ tiếu. Tô hủ tiếu, Tô hủ tiếu ngon ghê!". Lễ song thất và bài ca suy tôn Ngô Tổng thống là một sự bắt chước thô kệch và thất nhân tâm của ngày lễ Song Thập, vốn là quốc khánh của Trung Hoa Dân quốc để kỷ niệm ngày cách mạng Tân Hợi thành công (10-10-1911). Thô kệch về h́nh thức v́ một bên là vinh danh một cuộc cách mạng, một bên là suy tôn một cá nhân; và thất nhân tâm là v́ nội dung của nó, một bên mô tả lại một cuộc cách mạng gian khổ để đạp đổ nền quân chủ phong kiến, c̣n một bên mô tả lại một cá nhân “bao năm lê gót nơi quê người” mà ai cũng biết là "lê gót" để đi vận động chính trị chứ không phải xuất dương để đấu tranh cách mạng gian khổ.
    Tội nghiệp ông Diệm đă từng chống lại Bảo Đại rồi "lê gót" từ Việt Nam qua Rome, qua Mỹ mong cầu hai thế lực này đưa ông về nước làm lănh tụ, không ngờ ông c̣n buộc phải qua cái cầu Bảo Đại nữa mới mong làm được Thủ tướng. Theo linh mục Cao Văn Luận trong Bên Gịng Lịch Sử th́ giữa năm 1953, ông Diệm "lê gót" từ Mỹ qua Pháp mong cầu gặp Đức Quốc trưởng nhưng chờ chực ba tháng trời mà không được Quốc trưởng tiếp kiến làm cho ông bồn chồn, lo âu, bực tức đến phải trách móc than thở. Thấy thái độ lănh đạm của Cựu hoàng Bảo Đại, ông Diệm lại phải "lê gót" qua Bỉ để đợi thời. Cho đến khi Ngoại trưởng Foster Dulles yết kiến vua Bảo Đại để vận động cho ông Diệm, vua Bảo Đại mới chịu tiếp kiến ông Diệm và sau đó cử ông làm Thủ tướng.
    Chỉ là một Thủ tướng được Quốc trưởng chỉ định chứ không phải do con đường cách mạng mà lên cầm quyền cho nên các văn kiện như sắc lệnh, như Dụ, v.v... ông phải kư "thừa lệnh Đức Quốc trưởng". Sau khi thành lập chính phủ mà ông đă từng chỉ trích chống đối, ông Diệm cử Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ và ông Nguyễn Hữu Châu, một luật sư danh tiếng, anh em cột chèo với ông Ngô Đ́nh Nhu, đi tham dự hội nghị Genève thay thế phái đoàn của chính phủ Bửu Lộc do giáo sư Nguyễn Quốc Định cầm đầu; đồng thời bổ nhiệm ông Hoàng Cơ B́nh giữ chức chủ tịch Uỷ Ban Bảo Vệ Bắc Việt thay thế ông Nguyễn Hữu Trí, Thủ hiến Bắc Việt, một nhân vật thuộc đảng Đại Việt.
    Trách nhiệm ông Diệm là phải bảo toàn tất cả những phần đất của phe quốc gia và nước Việt Nam phải toàn vẹn lănh thổ như ư nguyện của mỗi người quốc gia và như ông đă thề trước thánh giá và trước Quốc trưởng Bảo Đại. Nhưng ông đă hoàn toàn thất bại.
    Tại pḥng hội lớn của Liên Hiệp Quốc tại Genève, trưởng phái đoàn Việt Nam là Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, mặc dù khả năng lư luận có thừa và ḷng yêu nước cuồn cuộn, vẫn không ngăn được kết quả của một thế cờ đă được sắp sẵn rồi. Thế cờ oan nghiệt cắt đứt đất nước thành hai miền để những thoả hiệp của các cường quốc có thể thành h́nh trên máu lệ của 25 triệu người dân Việt Nam.
    Thư mà cựu Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ gởi cho tôi đính kèm trong phần Phụ lục là một tài liệu lịch sử quư giá nói lên nỗi đau ḷng của một nhà Ngoại giao thất thế. Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đă không khóc lóc tại hội nghị Genève như một số người viết sử đă thêu dệt, vô t́nh tạo cơ hội cho Cộng Sản tuyên truyền; ngược lại, chính ông đă phản đối kịch liệt Thủ tướng Mendès-France, trưởng phái đoàn Pháp, đ̣i hỏi Pháp phải đưa ra lời tuyên bố long trọng công nhận Việt Nam hoàn toàn độc lập. Ít ra, trong những giây phút cô đơn và tuyệt vọng nhất, ông cũng đă phơi bày được tấm ḷng son với đất nước quê hương.
    C̣n tại Bắc Việt, ông Hoàng Cơ B́nh, chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ Bắc Việt nhất định không muốn rút lui khỏi miền Bắc, ông thành lập trung đoàn Thủ Đô để bảo vệ Hà Nội. Người Pháp thấy thái độ cứng rắn của ông có thể gây trở ngại cho việc thi hành những điều quy định của hiệp ước Genève nên làm áp lực với Thủ tướng Diệm cất chức ông ta. Ông Diệm đành phải nhượng bộ người Pháp và cử ông Lê Quang Luật đang làm Bộ trưởng Thông Tin tại Sài G̣n ra Hà Nội thay thế ông Hoàng Cơ B́nh, giải tán trung đoàn Thủ Đô và tổ chức cuộc triệt thoái các cơ cấu quốc gia trong ṿng 300 ngày theo qui định của hiệp ước Genève.
    Trước đó và cách đó gần trọn nửa trái cầu, vào buổi chiều ngày 20