Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.net





Việt Nam Nước Tôi
Phạm Trần Anh

 


VIỆT NAM

  Việt Nam nước tôi là một đất nước nhỏ bé nhưng thật là xinh đẹp ở  bán đảo Đông Dương vùng Đông Nam Á. Đất nước Việt Nam hình chữ S nằm bên bờ Thái Bình Dương với diện tích khoảng 330.991 km2 (329.314 km2). Đất nước Việt Nam tuy nhỏ nhưng dân tộc Việt có một lịch sử lâu đời với một nền văn minh lúa nước được xem là cổ nhất của nhân loại. Sử gia thời danh Arnold Toynbee đã nhận định nền văn minh Việt là một trong 35 nền văn minh tối cổ còn tồn tại tới ngày nay.

 

     Ngày nay, giới nghiên cứu đã thống nhất một nhận định chung cho rằng Đông Nam Á với nền văn hóa Hòa Bình của
những cư dân Hoabinhian, là một trong những cái nôi cổ nhất của nhân loại, nơi phát xuất nền văn minh của nhân loại.
Việt Nam nằm ở vị trí trung tâm giao lưu của các nền văn hoá nên Việt Nam là nơi hội tụ hầu hết mọi đặc trưng văn hóa
của khu vực và thế giới. Chính vì vậy, các nhà Đông Nam Á học đã gọi Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ. Vận mệnh
dân tộc Việt trải qua nhiều thăng trầm dâu bể, hết gần một ngàn năm chịu nô lệ của giặc Tàu lại đến trăm năm đô hộ của
giặc Tây, dân tộc chưa giành lại được nền độc lập thì chủ nghĩa cộng sản đã đưa dân tộc Việt vào cuộc chiến tranh ý
hệ tương tàn để lại một hậu qủa bi thảm là một đất nước Việt Nam độc tài toàn trị, nghèo nàn chậm tiến nhất thế giới !!!

 

Vị trí địa lý của Việt nam nằm giữa con đường giao thương quốc tế từ Đông sang Tây và ngược laị, nên được xem như
ngã tư quốc tế. Tiềm năng kinh tê dồi dào cũng như vị trí địa lý chiến lược hết sức quan trọng khiến Việt Nam trở thành
mục tiêu của các cuộc xâm lược, nơi đối đầu của các thế lực quốc tế khiến dân tộc Việt phải chịu gần 1 ngàn năm đô
hộ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây và … 25 năm chiến tranh ý hệ đối đầu giữa Tư bản và Cộng sản! Vận mệnh
thăng trầm của lịch sử cũng tạo điều kiện thuận lợi để dân tộc Việt Nam tiếp nhận ảnh hưởng cuả các nền văn minh Đông
Tây rồi dung hóa tinh hoa của các nền văn minh của nhân loại, tổng hợp đại thành nền văn minh Việt Nam hiện đại.

 

Vị trí địa lý chiến lược cũng như hoàn cảnh nhân sinh đã tạo nên một Việt Nam như học giả Hans Stille, chủ tịch ủy ban kiến
 tạo thế giơi đã nhận định:“ Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi do lòng đât chứa hầu hết các yếu tô câu tạo chính của vỏ
trái đât. Việt Nam lại nằm trên bản lê của đại lục phương Bắc và đại lục phương Nam của trái đất, của múi lục địa và
múi đại dương. Chính vì vây, Việt Nam mới ở trên bản lề của 2 vành đai kiến tạo và sinh khoáng cỡ hành tinh Thái Bình Dương và Địa Trung Hải”

 

 

                                          ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM

 

     Đất nước Việt Nam ngày nay rộng 330.991km2, phía Bắc giáp Trung Quốc, Nam giáp vịnh Thái Lan, Tây giáp
Lào và Cambodia, Đông giáp Thái Bình Dương. Nếu tính từ đỉnh cao phía Bắc trải dài xuống tới cực Nam là 1.650 km
(từ vĩ tuyến  8027’ đến vĩ tuyến 23023’, Kinh tuyến 10208’).  Đường biên giới dài
4.639 km giáp ranh với Trung Quốc,
Lào và Cambodia. Hình thể đất nước Việt Nam như một cái đòn gánh với đồng bằng sông Hồng ở Bắc Việt và đồng bằng
sông Cửu Long ở Nam Việt, ở giữa là một giải đất hẹp tính từ Đông sang Tây chỉ khoảng 50 km. Việt Nam như bao lơn
nhìn ra biển Đông (Thái Bình Dương) với bờ biển trải dài từ tỉnh Quảng Ninh cực Bắc trải dài xuống mũi Cà Mâu khoảng
 2828 hải lý tức 5.237 km* theo đường ven biển. Theo Công pháp quốc tế qui định lãnh hải là 12 hải lý, 12 hải lý kế tiếp
giáp cộng với 200 hải lý của vùng đặc quyền kinh tế với thềm lục địa dài 200 hải lý khoảng 370 km.

 

Việt Nam hiện là một thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) gồm Miến Điện (Myanamar), Thái lan,
Lào, Cao Miên (Cambodia), Phi Luật Tân (Philippines), Mã lai (Malaysia), Tân Gia Ba (Singapore), Nam Dương
(Indonesia), Brunei và Việt Nam.

 

* Các sách sử địa Việt Nam từ trước đến nay vẫn căn cứ trên những con số thời thực dân Pháp nên thường chép
là khoảng 2500km-3.260km. Nhà nghiên cứu Vũ Hữu San đã lấy thước đo kéo dài theo duyên hải đã ước lượng
khoảng 5.000 km. Học giả Mark J. Valencia trong công trình nghiên cứu “Vietnam’s National Interests and the law of
the sea” đã công bố một con số tương đối xác thực là đường ven biển của Việt Nam dài 2.828 hải lý tức khoảng 5.237 km.

 

Việt Nam nằm ở một vị trí địa lý thuận lợi với một bờ biển dài như một cái bao lơn nhìn ra biển Thái Bình Dương, kiểm soát
 toàn bộ hải trình từ Biển Đông Bắc Thái Bình Dương xuống phương Nam, qua vùng biển Đông của Việt Nam rồi qua
vịnh Thái Lan, eo biển Mallacca sang Ấn Độ Dương lên Địa Trung Hải rồi tới các hải cảng ở Âu Châu và ngược lại. Chính v
ì vậy, Việt Nam giữ một vị trí “ngã tư giao thương quốc tế” đồng thời chiếm giữ một vai trò “địa lý chiến lược” của cả vùng
Đông Nam Á nói riêng và thế giới nói chung.

 

    Thái Bình Dương (Pacific Ocean) nằm ở phiá Đông nước Việt Nam nên từ xa xưa chúng ta đã gọi Thái Bình Dương
là biển Đông. Biển Đông là biển rộng thứ ba thế giới với diện tích khoảng 3.447. 000 km2, độ sâu trung bình 1.400 m, đ
ược bao bọc bởi các quần đảo Philippine và Indonesia. Bờ biển Việt Nam dài 5.237 km nên biển Đông của Việt Nam
có hơn 4.000 đảo lớn nhỏ với diện tích gần 2.000km2.

 

    Theo bản thống kê mới nhất thì Việt Nam có 65 đảo là có dân cư sinh sống, 6 đảo lớn là Phú Quốc dân số 50 ngàn, Cái
Bầu dân số 20 ngàn, Phú Quí 18 ngàn, Lý Sơn 16 ngàn, Cát Bà 15 ngàn và Cát Hải 13 ngàn người. Chỉ riêng vùng biển
Quảng Ninh ở vịnh Bắc Việt đã có hơn 2 ngàn đảo chiếm 2/3 tổng số đảo trong cả nước. Trong vịnh Hạ Long có hàng ngàn
đảo đá vôi bị xâm thực bào mòn tạo nên muôn hình dạng, muôn vẻ đẹp quyến rũ. Bên trong là những hang động thạch nhũ
kỳ thú nên được tổ chức văn hóa và giáo dục Liên Hiệp Quốc xếp hạng là kỳ quan thế giới. Đặc biệt vùng này có bến Vân
 Đồn với Hợp Phố là 2 thương cảng sầm uất của người Việt cổ từ xa xưa. Cửa biển Vân Đồn lừng danh với những chiến
tích lẫy lừng trong lịch sử Việt và đảo Bái Tử Long nằm cách bờ biển 110 km giữ một vị trí phòng thủ hết sức quan trọng.

Quần đảo Hoàng sa (Paracels Islands) nằm trong kinh độ 110 đến 113 độ và vĩ độ 15, 45’ đến 17,15’ bắc ngang với vĩ
độ cuả Huế và Đà Nẵng. Quần đảo Hoàng Sa bao gồm 3 nhóm đảo là nhóm Nguyệt Thiên, nhóm Tuyên Đức và nhóm
Linh Côn với hơn 30 đảo, bãi đá ngầm và San hô với diện tích khoảng 15.000 km2.

 

     Về lịch sử thì không chỉ quần đảo Trường Sa mà ngay cả đảo Hải Nam và cả vùng trung nguyên thuộc lãnh thổ của cộng
 đồng Bách Việt cách đây hơn 6 ngàn năm. Dưới triều Nguyễn, quần đảo này trực thuộc phủ Quảng Ngãi tỉnh Quảng Nam do
 triều đình trực tiếp cai quản quần đảo này. Năm 1938, quần đảo này là đơn vị hành chánh Đại lý Hoàng sa thuộc tỉnh Thừa
Thiên. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, Hoàng Sa là xã Định Hải, quận Hòa vang tỉnh Quảng Nam. Quần đảo Trường sa
 (Spratley Island) nằm ở kinh độ từ 111 độ 30’ đến 117 độ Đông và vĩ độ từ 6 độ 50’ đến 12 độ Bắc. Quần đảo này án
 ngữ vùng biển ngoài khơi từ Khánh Hoà xuống tới Nam Việt. Quần đảo Trường Sa có trên 100 đảo lớn nhỏ với diện
tích khoảng 180.000 km2. Trước đây, quần đảo này thuộc phủ Quảng Nghĩa, năm 1933 thuộc tỉnh Bà Rịa, năm 1956
 thuộc tỉnh Phước Tuy (Vũng Tàu), nay là huyện Trường sa tỉnh Khánh Hòa.

 

Ngoài tài nguyên với khối lượng dầu hỏa ẩn tàng dưới thềm lục địa, quàn đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
chiếm giữ một vị trí chiến lược quốc tế kiểm soát toàn bộ hải trình trên biển Đông từ Bắc Á Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan
 xuống Đông Nam Á, qua eo biển Malacca sang Ấn Độ Dương đến Trung Đông và các hải cảng ở Âu Châu. Vị trí địa l
ý chiến lược của Hoàng Sa và Trường Sa hết sức quan trọng, khống chế toàn bộ hải trình từ Đông sang Tây và ngược
 lại. Tổng số các đảo (iiland), đụn (dune), cồn (cay), đá (rosk), bãi cạn bãi ngầm (bank, shoal, reef)… thuộc Hoàng Sa là
130 Trên thực tế, con số này còn nhiều hơn nữa, đáng tiếc là cho đến nay vẫn chưa có con số chính xác.

 

Sự thật lịch sử đã minh nhiên khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc lãnh thổ Việt Nam. Thế nhưng chính
 vì  tầm quan trọng của vị trí địa lý chiến lược nên các thế lực quốc tế, các quốc gia Đông Nam Á nhất là Tầu Hán ngày xưa
và Tầu Cộng bây giờ luôn luôn tìm cách xâm chiếm sở hữu 2 quần đảo chiến lược này.

Đơn vị đất (land masses) ước lượng tới 500 “đất” như học giả Michael Benneth đã công bố trong Stanford
Journal of International Law (N28, Spring 1992, p 423).

 

BỜ BIỂN VÀ CÁC HẢI CẢNG VIỆT NAM

 

   Thê giới đã biết tới vịnh Giao Chỉ từ rất lâu mãi đến một thế kỷ sau Dương lịch nhà hàng hải lừng danh, học giả Ptolemy
khi vẽ bản đồ thế giới mới gọi vùng biển bán đảo Đông Dương (Indochine) là “Bán đảo vàng”. Ptolemy đã vẽ hải đồ với
những chú giải chi tiết từ các hải cảng tới một hải cảng “Giao Chỉ” được ghi là Cattigara hay Kattigara với tọa độ 177
độ Đông kinh tuyến và 8 độ 30 Nam vĩ tuyến. Các nhà nghiên cứu ở Trường Viễn Đông Bác cổ phỏng định là Kattigara
nằm ở vùng Quảng Yên Hòn Gai. Theo danh từ chuyên môn của giới hàng hải Katti theo nghĩa Bắc Âu là tàu thuyền và
gara là đường biển (hải đạo) nhưng theo nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc thì Kattigara nằm trong vùng kẻ chợ nên
Kattigara có thể là Kẻ thị Gay tức thành phố ghe thuyền và Kattigara chính là Hòn Gay.

 

    Miền trung Việt Nam với những dải núi “Hoành Sơn” chạy từ Tậy Bắc trải dài ra biển, chia cắt thành những vùng đồng
bằng nhỏ hẹp. Vị trí điạ lý thiên nhiên của miền Trung tựa lưng vào rặng Trường Sơn, mặt nhìn ra biển Đông với bờ biển
 cong như hình cây cung cùng với những vịnh ăn sâu vào đất liền đã tạo thành những thương cảng lý tưởng, cửa ngõ
của giao thương quốc tế từ Bắc xuống nam, từ Đông qua Yây và ngược lại. Yocco Ishi trong tác phẩm “ Minh họa Lịch sử
thế giới cổ” đã đề cập tới con đường hàng hải từ Nhật Bản đi qua ven biển Hoa nam xuống ven biển miền Trung Việt
Nam qua đất Phù Nam rồi tới bán đảo Mã lai qua vịnh Thái lan vào Ấn Độ Dương.

 

    Hai cảng Cửa Việt và Cửa tùng đã là nơi các thương thuyền quốc tế cập bến để trao đổi mua bán các mặt hàng quí
hiếm như hương liệu, lưu li, gỗ quí Trầm Hương … Con đường thương mại quốc tế thời cổ, đường  di cư của các tộc
 người,  đường giao lưu văn hoá và cũng là con đường gốm sứ tơ lụa từ hàng ngàn năm trước khi nước Sở (Kinh) còn
 cực thịnh. Đó là con đường hàng hải xuyên Thái Bình Dương (Trans Pacific), xuyên Ấn Độ Dương và đường ven biển
nối từ cảng Alexandrie bên bờ Địa Trung Hải qua ven biển Ấn Độ, vịnh Thái Lan tới Cam Ranh, Cửa Tùng cửa Việt,
Vân Đồn Kattigara (Kauchi) đến Quảng Châu, Phúc Kiến, Triết Giang … Con đường này phải đi qua biển Đông
dọc theo ven biển miền Trung từ Nha Trang Cam Ranh, Quảng Nam Quảng Trị mà các bản đồ và sách vở Ả Rập thế
kỷ thứ VIII đến thế kỷ XIII ghi là biển Chămpa.*

 

*Trần Quốc Vượng trong theo dòng Lịch sử dẫn Thuỷ Kinh Chú (thế kỷ thứ VI) tr 431 và Bão Phác Tử, thế kỷ thứ IV tr 432).

 

THIÊN NHIÊN VIỆT NAM

 

 

       Đất nước Việt Nam giàu tài nguyên thiên nhiên với những mỏ quí kim vàng, bạc, măng gan, Bô xít, Chromát, phốt phát,
 than đá và với bờ biển dài có thềm lục địa vói nguồn khoáng sản dầu mỏ có trữ lượng dầu cao, tiềm năng phong phú
của đất nước chưa được khai thác đúng mức. Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp với diện tích đồng bằng canh tác
được khoảng
20%. Tam giác châu thổ sông Hồng chạy dài từ Việt Trì ra tới vịnh Bắc Việt rộng khoảng 15 ngàn cây số
vuông. Ngày xưa cách đây khoảng hơn 8 ngàn năm, vùng đồng bằng này trải dài tới đảo Hải Nam mà các nhà địa chất học
gọi là Nanhailand và Sundaland là bán đảo Đông Dương trải dài xuống tới Úc Châu.  Sau nạn biển tiến, mực nước biển
dâng lên hàng trăm mét tạo thành vịnh Bắc Việt ngăn cách đảo Hải Nam với đồng bằng Bắc Việt, mũi cà Mâu với
quần đảo Indonesia hiện nay.

 

                                                      MIỀN BẮC

 

Tam giác châu thổ sông Hồng là vùng đất sinh tụ tự lâu đời của người Việt cổ từ đỉnh tam giác Việt Trì trải dài tới giáp
 vịnh Bắc Việt. Sông Hồng dài khoảng 1.200 km phát nguyên từ vùng Vân Nam chạy vào Bắc Việt với những hợp lưu là
sông Lô và sông Đà với khối lượng phù sa khổng lồ 500 triệu mét khối mỗi giây. Vào mùa mưc lũ, lưu lượng tăng
gấp 60 lần khiến người dân vùng này phải đắp đê, tu sửa hàng năm nhưng nhiều khi cũng không tránh được cảnh vỡ
đê, lũ lụt tràn ngập lên tới 14 mét. Mặt khác, khối lượng phù sa lắng đọng cũng tạo thêm màu mỡ phì nhiêu cho tam giác
châu thổ sông Hồng để trở thành những cánh đồng lúa nước phì nhiêu và mỗi năm lấn ra biển khoảng 100 mét. Vùng t
hượng du Bắc Việt ở phía Đông và Tây Bắc Việt trải dài xuống trung du gồm nhiều rặng núi cao nên có tên gọi là “Thập
vạn Đại sơn” rừng rậm che phủ quanh năm. Ngọn núi cao nhất Việt Nam là ngọn Phăng Si Păng trong dãy Hoàng Liên
Sơn cao 3.142 mét. Những rặng núi ở Bắc Việt Nam chạy dài ra tới vịnh Bắc Việt tạo nên những kỳ quan có một không
hai của thế giới như vịnh Hạ Long … Hà Nội nổi tiếng là đất ngàn năm văn vật, ngày xưa là thành Thăng Long kinh đô của
nhà Lý ….

 

                                                      MIỀN TRUNG

 

     Hệ thống núi non trải dài từ Hi Mã Lạp Sơn chạy dài xuống hướng Đông Nam, qua Vân Nam xuống Bắc Việt chia
 ra miền Miền Tây Bắc và Đông Bắc. Đến Trung Việt thì những giải núi chia cắt ngang đồng bằng hẹp Trung Việt Nam
rồi chạy thẳng ra biển nên có tên là Hoành Sơn tạo nên những thắng cảnh như đèo Hải Vân, một vùng núi non trùng điệp
 trong đó có núi Bạch Mã nổi tiếng, bán đảo Sơn Trà, bãi biển Nha Trang cát trắng … Ở phía Tây rặng Trường Sơn là
vùng cao nguyên rộng 51.800 km2 với những đỉnh núi lởm chởm, rừng rậm cao nguyên chiếm tới 22% rừng của cả nước.
Vùng cao nguyên đất đỏ (Basalt) rộng khoảng 51.800 km2, thời Pháp có tên là Liangbiang (Lâm Viên) gồm các tỉnh
Ban Mê Thuột (Darlac), Pleiku, Kontum, Phú Bổn, Quảng Đức, Lâm Đồng … nơi mà đa số dân cư ngụ là đồng bào
Thượng bao gồm các sắc tộc Rhadé, Banhar, Churu, Kaho, Mạ, Stiêng …

     Cao nguyên nổi tiếng với  ngọn núi lâm Viên, thành phố Đà Lạt cảnh đẹp như mơ. Đặc biệt, Cố đô Huế của Triều
Nguyễn với kiến trúc Việt cổ độc đáo nóc oằn mái và đầu dao cong vút được tổ chức văn hóa giáo dục Liên Hiệp
Quốc công nhân là di sản văn hóa của nhân loại.

                                                            MIỀN NAM

 

      Miền Nam mưa nắng hai mùa nổi tiếng với đô thành Sai Gòn “Đi dễ khó về” ngày xưa có tên là Bến Nghé, nơi đất
lành chim đậu, khí hậu ấm áp dân tình vui vẻ, trạm dừng chân của một thời “Mở đất phương Nam”. Miền Nam với hệ t
hống kinh rạch chằng chịt tạo nên vùng đất phì nhiêu được xem như là vựa lúa của Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu Long
 là một vùng đất rộng bao la với diện tích 40.000 km2, mặt đất chỉ cao hơn mực nước biển khoảng 3 m. Sông Cửu Long
có một khối lượng phù sa khổng lồ tính ra mỗi năm khoảng 1 tỷ mét khối. Đồng bằng sông Cửu Long là một vùng đất trũng
với hệ thống kinh lạch chằng chịt, một vùng sông nước mêng mông với cánh đồng cò bay thẳng cánh, xanh vút tận chân
trời với diện tích canh tác trên 10.000 cây số vuông (10.000 km2) là một vựa lúa lớn nhất thế giới. Đồng bằng sông Cửu
 Long mà chúng ta thường goi là miền Tây với những vườn trái cây xanh tươi cung cấp cho chúng ta đủ loại trái cây
ngon ngọt quanh năm…

 

    Sông Cửu Long phát tích từ cao nguyên Tây Tạng chạy dài 4.500km là một trong 12 con sông dài nhất thế giới. Sông
 chảy qua Vân Nam Trung Quốc, Lào, Cambodia có tên gọi là sông Mékong, đến Phnom Pênh vào lãnh thổ Việt nam
chia làm 2 nhánh dài 230km gọi là: Tiền Giang và Hậu Giang rồi chảy ra 9 cửa biển nên dân gian đặt tên gọi là Cửu Long
Giang mà người xưa gọi một cách trìu mến là dòng sông mẹ. Đặc biệt, một nhánh sông từ hồ Tonlé Sap chảy vào sông
Mê Kông ở Phnôm Pênh tạo thành một hồ nước ngọt rộng lớn nên còn có tên là Biển hồ. Chính nhờ biển hồ rộng bao la
này khi mùa mưa nước chảy vào hồ diện tích lên tới 10.000 km2 đã điều hòa mực nước khiến đồng bằng Cửu Long
bớt đi nạn ngập lụt. Cả một vùng lưu vực sông Cửu Long 8 ngàn năm về trước trải dài tới Mã lai, Nam Dương và cả Úc
 châu nữa được các nhà nghiên cứu gọi là Sundaland. Sau nạn biển tiến hơn 8 ngàn năm trước, mực nước biển dâng
lên cả trăm mét mới tách Úc châu, Nam Dương ra khỏi lục địa Sundaland như ngày nay.

 

     Việt Nam ở vùng nhiệt đới gió mùa, độ ẩm tương đối  mưa nhiều. Lượng mưa hàng năm ở mọi vùng đều lớn dao
động từ 120 đến 300 centimét nên gây ra nạn lũ lụt ở một số nơi. Nằm ở miền nhiệt đới gió mùa nên Việt Nam với
những vùng đất thấp, núi cao và nhiều cao nguyên với những cánh rừng rậm ở thượng du Bắc Việt và cao nguyên
Trung Việt. Miền Bắc Việt Nam khí hậu “tứ thời bát tiết” chia ra 4 mùa khá rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa Đông từ tháng
9 đến tháng 12 trong đó từ tháng 12 đến tháng 1 là tháng lạnh nhất và nơi lạnh nhất là đỉnh Sapa nhiệt độ xuống
 tới 50 C (bách phân), mùa Hạ 37°C tháng nóng nhất là tháng 4, nhiệt độ cao nhất khoảng 370 C.

 

      Miền Trung đất đai khô cằn, nưa cát sỏi nửa đất đai nên con người miền Trung sinh ra đã phải đấu tranh với thiên
nhiên nên ý chí cao, chịu đựng được mọi gian khổ thử thách…. Dải núi Hoành Sơn chia cắt miền Trung thành từng
mảnh nên chỉ có những đồng bằng hẹp. Vùng lưu vực sông Cả, sông Mã, sông Lam (xem lại) là vùng đồng bằng tương
đối rộng nhất nơi qui tụ những người Việt cổ với nên văn hóa Đông Sơn còn lưu lại ấn tích “Văn minh Trống đồng”
của Việt tộc. Vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, Tuy Hòa, Bình Định với nền văn hóa Sa Huỳnh … Trái lại, miền Nam với nền
văn hóa Óc Eo rực rỡ một thời được xem là nơi “ Đất lành chim đậu” với khí hậu dễ chịu “Mưa nắng hai mùa”, đất đai
 phì nhiêu nên tâm tính người miền Nam hiền hòa chân chất. Ngoại trừ vùng cao nguyên, nhiệt độ mùa chỉ chênh lệch vài
độ, thường trong khoảng 21°C-28°C.

 

VIET NAM MY COUNTRY


 Vietnam my country is a small country, beautiful in the Indochinese peninsula Southeast Asia. Of Vietnam is the S-shaped Pacific coast with an area of about 330,991 km2 (329,314 km2). Of Vietnam's small but ethnic Vietnamese have a long history with the wet rice civilization is considered the oldest of humanity. Historian Arnold Toynbee got time list of Vietnamese civilization is one of 35 ancient civilizations exist up to today.

 Currently, researchers have agreed to receive them as a Southeast Asian cultures Peace of residents Hoabinhian one of the oldest cradles and where production has

ancient civilization of mankind up. Vietnam is located at the center exchange of cultures should converge Vietnam where most cultural characteristics of the region and the world. Therefore, the study of Southeast Asia called Vietnam is a Southeast Asian thumbnail.

Vietnam is the way international trade from East to West and vice versa, should be considered as the international crossroads. Abundant economic potential as well as strategic geographical location is very important cause Vietnam became the target of invasion, where the confrontation of forces led international ethnic Vietnamese suffered almost a thousand years domination enemy ship, a hundred years slaves Western invaders and 21 years of war confrontation between us comments Capitalism and Communism!

Destiny vicissitudes of history and create favorable conditions for Vietnam people receiving the influence of Western and Eastern civilizations use chemical essence of the civilization of mankind, the great general civilization modern Vietnam.

After the invation of North Vietnam 30-4-1975 , millions of men decided to go find freedom. The main objective conditions of history, this makes Vietnam to get so smart Vam mechanical engineering of the three central Japan, Germany and the United States. More than 3 million people in Vietnam in foreign countries with the success of Vietnam in many areas and Vietnam is the number of intellectuals and professionals the most advanced in the world.

Strategic geographical location and circumstances of birth was created as a Vietnam scholar Hans Stille, president committee tectonic world have confirmed that:

 "Vietnam is blessed by the ground contains most of the major factors structuring of the Earth's crust. Now Vietnam is on the margin of the mainland North and the South Mainland of the Earth, continents and time zones of the ocean zone. Therefore, a new Vietnam in the hinge of the two tectonic belts and life-sized planets mineral Pacific Ocean and the Mediterranean.

                                        Coast and ports VIETNAM

 Vietnam with a coastline of 5236 km, the S-shaped curve should constitute the natural harbor important for ocean ships stop or shelter to avoid the stormy battle hurricanes of the ocean. Long, the world has known only the Gulf of Transportation until a century after the solar calendar Mariners famous, scholar Ptolemy mapped the new world called Indochina Peninsula waters (Indochine) as "Peninsula gold. Ptolemy drew marine map detail with notes from the port to a port "assigned" was recorded as the coordinates Kattigara Cattigara or 177 degrees east longitude and 30 degrees South latitude 8. Researchers at the School of the Far East Room of Uncle Kattigara is located in the Quang Yen Hon Gai. According to the expert list from the World Maritime katti in the sense that the Nordic boats and sea but the garage is a researcher Binh Nguyen Loc Kattigara in the region who could be so Kattigara Ke market boats Gay City News Gay and Kattigara is Hon.

Central Vietnam with the mountain range "Hengshan County" runs from northwest stretches to the sea, divided into the narrow plains. Geographic location of the natural title back to the central Truong Son ranges, overlooking the sea in the east coast as the curved bow with eating deep into the Gulf of land formed the ideal trading port, the gateway to traffic international trade from North to South, from East through the West and vice versa. Yocco Ishi in the work "Illustrations Ancient World History" has been mentioned maritime route from Japan to the U.S. coast to coast South Central VN Funan the Malay Peninsula to the Gulf of Thailand and the Indian Ocean.

 Two Vietnamese ports and each has a place of international merchants access terminals to exchange trading rare items such as spices, save li, Tram Huong your timber. International trade routes of antiquity, sugar migration of ethnic, cultural and roads as well as pottery and silk road from thousands of years before the Department (Business) still very prevalent. That is the way of maritime trans-Pacific, across the Indian Ocean and the coastal road linking the port Alexandrie the Mediterranean coast through coastal India, Thailand to Cam Ranh Bay, Vietnam Cua Tung door, Van Don Kattigara ( Kauchi) to Guangzhou, Fujian, Zhejiang ... This road must go through the East Sea along the central coast from Nha Trang Cam Ranh Bay, Quang Nam Quang Tri, which maps and books Arabic to VIII century XIII century recorded a sea Cham .*

·          Tran Quoc Vuong in the series History of Water Economy Guide Comments (VI century) p. 431 and Hurricane Outline Tu century IV p. 432.

 

ĐẶT LẠI VẤN ĐỀ

CHỦ QUYỀN LỊCH SỬ

 

ĐẾ QUỐC TRUNG CỘNG

HIỂM HỌA TOÀN CẦU

 

     Từ trước tới nay, khi lên tiếng tố cáo Trung Cộng xâm chiếm Hoàng sa và Trường sa chúng ta thường dựa trên
Hiệp ước Thiên Tân ký kết giữa Thực dân Pháp và triều Thanh Trung Quốc cũng như những sử liệu triều Nguyễn chứng
tỏ chủ quyền quốc gia của chúng ta … Thế nhưng, Trung Cộng với bản chất xâm lược dối trá và ỷ thế của một nước
 lớn đã phủ nhận hiệp ước Thiên Tân là một hiệp ước bất bình đẳng nên họ phủ nhận không bàn cãi trên cơ sở hiệp định này.

 

Lịch sử Việt đã chứng minh rằng bản chất “Đại Hán” xâm lược được thực hiện xuyên suốt lịch sử kể từ triều Thương lập
nước Trung Quốc, qua các triều đại không ngừng xâm lược đánh đuổi Việt tộc xuống phương Nam.

 

     Ngay sau khi Mao Trạch Đông chiếm được Trung Hoa lục địa đã công khai tuyên bố: "Tất cả các lãnh thổ và hải đảo
huộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc đã bị phe Đế Quốc chiếm đoạt từ giữa thế kỷ 19 đến sau Cách Mạng 1911,
như Ngoại Mông, Triều Tiên, An Nam (Việt Nam), Hồng Kông, Macao cùng những đảo tại Thái Bình Dương như
 Sakhalin, Đài Loan, Bành Hồ sẽ phải được giao hoàn cho Trung Quốc".
 

 

     Trung Cộng vẫn gọi nước ta là An Nam như các triều đại phong kiến trước kia. Những lời tuyên bố trắng trợn này
được ghi trong “Cách Mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc”. “Lược Sử Tân Trung Quốc” nhắc lại  những
cương lĩnh và những lời tuyên bố ngang ngược của Mao Trạch Đông là: “sẽ vĩnh viễn thuộc về Trung Quốc bằng sự
 chinh phục và khai hóa của văn minh chống man di”
.

 

     Chính vì vậy, chúng ta phải đặt lại vấn đề chủ quyền lịch sử của nước ta đã được chính các bộ sử Trung Quốc ghi chép.
Đây là một sự thật lịch sử mà Trung Cộng không thể phủ nhận được. Chỉ khi nào cả công luận quốc tế thấy rằng, ngay
 từ thời Thương lập nước Trung Quốc cách đây 3.785 năm, họ đã xâm chiếm lãnh thổ của Việt tộc ở lưu vực 2 con
sông Hoàng Hà và Dương Tử. Chúng ta trình bày cho thế giới biết rằng, đừng nói gì Hoàng Sa, Trường Sa mà
ngay cả phần lãnh thổ của trung Cộng hiện nay trước kia là của Việt Nam.

 

    Sự thật lịch sử này đã được chính sách sử của Trung Quốc ghi chép thừa nhận. Đây là chứng cớ cụ thể mà đế quốc đỏ
Trung Cộng dù là một nước lớn đất rộng người đông, dù ngoan cố thế nào cũng không thể phủ nhận được. Một khi công
luận của cả nhân loại tiến bộ lên tiếng thì vấn đề chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là vấn đề không cần bàn cãi nữa.

 

     Sự thật lịch sử được phơi bầy bởi chính các bộ cổ sử của TQ, chứng minh chủ quyền lịch sử của dân tộc Việt trên phần
lãnh thổ hiện nay của nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thế nên việc tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa đã sáng tỏ trên phương diện lịch sử. Công luận của toàn thể loài người tiến bộ sẽ lên án hành vi xâm l
ược của đế quốc Đại Hán xâm lược xa xưa và hành động xâm lấn bành trướng của đế quốc đỏ TC ngày nay. Việc Trung
Cộng ỷ vào thế nước lớn ngang nhiên xâm chiếm Tây Tạng rồi Hoàng sa và Trường Sa là một vấn đề không những
của Việt Nam mà còn là hiểm họa của toàn thể nhân loại nữa.


PHỤC HỒI SỰ THẬT LỊCH SỬ

 

     Bước sang thiên niên kỷ thứ ba, ánh sáng của sự thật soi rọi vào quá khứ bị che phủ hàng ngàn năm bởi kẻ thù Hán
tộc thâm độc quỉ quy
ệt. Trong thiên niên kỷ thứ hai, nhân loại sửng sốt trước cái gọi là “Nghịch lý La Hy” khi trước đây
nhân loại cứ tưởng tất cả nền văn minh Tây phương là của đế quốc Hy Lạp La Mã để rồi phải xác nhận đó chính là nền
văn minh của Trung Quốc. Cuối thiên niên kỷ thứ hai, nhân loại lại ngỡ ngàng khi thấy rằng cái gọi là nền văn minh
Trung Quốc lại chính là nền văn minh của đại chủng Bách Việt. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải nhìn lại toàn bộ
lịch sử Việt để phục hồi sự thật của lịch sử, xóa tan đám mây mờ che lấp suốt mấy ngàn năm lịch sử bởi kẻ thù
truyền kiếp của dân tộc.

 

     Ngày nay, sự thật lịch sử đã được phục hồi khi các nhà Trung Hoa học đều xác nhận rằng Di-Việt là chủ nhân
của Trung nguyên tức toàn thể lãnh thổ Trung Quốc bây giờ. Một sự thực lịch sử nữa cũng được xác nhận là hầu hết
các phát minh gọi là văn minh Trung Quốc từ nền văn minh nông nghiệp đến văn minh kim loại, kỹ thuật đúc đồng, cách
làm giấy, cách nấu thủy tinh, cách làm thuốc súng, kiến trúc nóc oằn mái và đầu dao cong vút … tất cả đều là của nền
văn minh Bách Việt.
Chính một vị vua của Hán tộc, Hán Hiến Đế đã phải thừa nhận nước ta là một nước văn hiến:
 
Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất ..!”.

 

     Theo Công trình mới nhất “Nguồn gốc nền văn minh Trung Hoa”, tổng kết trong Hội nghị Quốc tế các nhà Trung Hoa
học trên toàn thế giới tổ chức tại Berkeley năm 1978, thì không thể tìm ra đủ dấu vết chứng cớ để phân biệt giữa Hán tộc
và các tộc người không phải là Tàu trên phương diện lịch sử. Giới nghiên cứu phải tìm về dấu tích văn hoá mà về văn
hoá thì Hán tộc chịu ảnh hưởng của Di Việt. Tương truyền Thần Nông phát xuất ở miền Tây Tạng (Tibet) đi vào Trung
Nguyên qua ngã Tứ Xuyên tới định cư ở Hồ Bắc bên bờ sông Dương Tử, còn theo dân gian thì ông Bàn cổ chính là ông
Bành tổ. Theo dân gian truyền tụng thì mồ mả của ông còn ở đâu đó miền rừng núi Ngũ Lĩnh. Bàn cổ mới được đưa vào
lịch sử Trung Quốc đời Tam Quốc trong quyển “Tam Ngũ lược Kỷ” của Từ Chỉnh và theo Kim Định thì Phục Hi, Nữ Oa
đều xuất thân từ Di Việt ở châu Từ miền Nam sông Hoài.

 

     Giáo sư Wolfram Eberhard trong tác phẩm “Lịch sử Trung Quốc” đã nhận định:“Ý kiến cho rằng chủng tộc Hán đã
sản sinh ra nền văn minh cao đại hoàn tự lực do những tài năng đặc biệt của họ thì nay đã không thể đứng vững, mà
nó phải chịu cùng một số phận như những thuyết cho rằng họ đã thâu nhận của Âu Tây. Hiện nay, người ta biết rằng
xưa kia không có một chủng tộc Tàu, cũng chẳng có đến cả người Tàu nữa, y như trước đây 2.000 năm không
có người Pháp, người Suisse vậy. Người Tàu chỉ là sản phẩm của sự pha trộn dần theo một nền văn hoá cao hơn
 mà thôi”
.

 

Tóm lại, người Trung Quốc mà ta thường gọi là Tàu (Hán tộc) không phải là một chủng thuần tuý và cũng không có một
văn hoá riêng biệt nào. Lịch sử Trung Quốc bắt đầu từ triều đại Thương là một tộc người du mục kết quả của sự phối hợp
 chủng giữa Nhục Chi và Huns (Mông cổ). Kế tiếp là triều Chu cũng là một tộc du mục có hai dòng máu Mông Cổ và Hồi
(Turc). Sau khi Mông Cổ chiếm được Trung Quốc đã thành lập triều Nguyên rồi khi Mãn Châu diệt triều Minh lại thành lập
 triều Thanh trong lịch sử Trung Quốc.

 

    Lịch sử Trung Quốc là lịch sử của sự xâm lăng và bành trướng đồng thời cũng bị xâm lăng nhưng tất cả kẻ chiến thắng
bị sức mạnh của văn hoá của dân bị trị (trong đó phần lớn là văn hóa Việt cổ) khuất phục để rồi tự đồng hoá với cư dân
bản địa cuối cùng trở thành Hán tộc mà ta thường gọi là người Tàu. Các nhà nghiên cứu như VK Tinh, Wang Kwo Wu
và cả nhà văn nổi tiếng Quách Mạt Nhược đều xác định là hầu hết các huyền thoại về các vị Vua cổ xưa nhất không
thấy ghi trên giáp cốt đời Thương. Tất cả chỉ được ghi vào sách vở về sau này, khoảng từ thế kỷ thứ IV TDL, tức
là thời kỳ xuất hiện các quốc gia Bách Việt thời Xuân thu Chiến quốc.

 

    Thực tế lịch sử này cho thấy những huyền thoại cổ xưa là của Việt tộc vì nếu là tổ tiên Hán tộc thì đã phải ghi trên
giáp cốt đời Thương cũng như trong các sử sách hoặc chữ tạc trên đồ dùng. Chính vì vậy mà nhóm Tân học gọi là
Nghi cổ phái thành lập năm 1920 do Quách Mạt Nhược chủ xướng đã bác bỏ thời Tam Hoàng, Ngũ Đế là của
Trung Quốc. Thật vậy, huyền thoại về thủy tổ Bàn Cổ mới được nói đến trong quyển “Tam Hoàng”, kể cả Phục Hi,
Nữ Oa cũng không hề được nhắc tới trong các sách cổ xưa như Kinh Thi, Trúc thư kỷ niên và cũng không hề thấy xuất
hiện trong đồ đồng hoặc bốc từ. Viêm Đế Thần Nông mới được Mạnh Tử thời Xuân thu Chiến quốc nhắc tới
còn Hoàng Đế chỉ biết tới vào thế kỷ thứ III TDL khi Tư Mã Thiên đưa vào bộ “Sử ký” của Tư Mã Thiên.

 

     Trước những sự thật của lịch sử, Trung Quốc đã phải xác nhận là nền văn hoá của họ là do hàng trăm dân tộc góp
phần tạo dựng nhưng văn hoá Hán ở vùng Tây Bắc là chủ thể. Thế nhưng chính học giả Trung Quốc Wang Kuo Wei lại
cho rằng nơi phát nguyên văn hoá Tàu là ở miền Đông Bắc tức vùng Sơn Đông của Lạc bộ Trãi chứ không phải ở miền
Tây Bắc (Thiểm tây) như quan niệm sai lầm từ trước đến nay.

 

Lịch sử Việt là lịch sử của sự thăng trầm từ khi lập quốc đến ngày nay trải qua hàng ngàn năm đô hộ của giặc Tàu, gần một
trăm năm nô lệ giặc Tây và hơn nửa thế kỷ nô dịch văn hóa ngoại lai. Trong suốt trường kỳ lịch sử, Hán tộc luôn luôn
chủ trương xâm lược tiêu diệt Việt tộc bằng mọi giá, ngay cả sau khi Việt tộc đã giành lại độc lập tự chủ. Các triều đại
Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều đem quân xâm lược Việt Nam nhưng đều bị quân dân ta đánh cho tan tành
không còn manh giáp. Thế nhưng Hán tộc vẩn luôn tìm cách xâm lấn nước ta mỗi khi chúng hùng mạnh. Bản chất xâm
lược của Hán tộc trước sau như một.

 

     Từ các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh năm xưa và Trung Cộng bành trướng ngày nay vẫn tìm cách xâm lấn đất
đai, biển cả của chúng ta. Hán tộc bành trướng với ưu thế của kẻ thắng trận và thủ đoạn thâm độc quỉ quyệt đã không
những dùng mọi phương cách để đồng hóa Việt tộc bằng cách xóa đi mọi dấu vết cội nguồn, bóp méo sửa đổi lịch sử
khiến thế hệ sau, chỉ biết tìm về lịch sử trong một mớ “chính sử” hỗn độn mơ hồ. Mỗi một triều đại Hán tộc đều chủ tâm
thay đổi tên đất, tên sông xưa cũ của Việt tộc cùng với ảnh hưởng nặng nề của một ngàn năm đô hộ của sự nô dịch
văn hóa khiến ta chấp nhận tất cả như một sự thật mà không một chút bận tâm.

 

     Học giả J Needham người có công phục hồi sự thật lịch sử Việt bị che giấu hàng ngàn năm, làm đảo lộn mọi sử
sách xưa nay đã nói rằng: “Sự thật bị che phủ hàng ngàn năm cùng với ảnh hưởng của ngàn năm thống trị nô dịch
văn hóa khiến ngay cả người Việt cũng ngỡ ngàng, không tin đó là sự thật
.!!!”.

 

     Để xóa nhòa nguồn cội gốc tích Việt, Hán tộc thâm độc một mặt đốt hết sách sử hoặc bất cứ bản văn nào liên quan
đến văn hóa Việt, nguồn gốc Việt, mặt khác ra lệnh cấm tàng trữ và không cho phái đoàn đi sứ qua Tàu được mua sách
sử. Sau gần một ngàn năm bị trị dân tộc Việt đã bị triệt tiêu văn tự, không còn chữ viết để lưu lại cho đời sau. Hán tộc
quỉ quyệt đã bóp méo sửa đổi toàn bộ lịch sử Việt hiến ngày nay, chúng ta khó mà tìm được một bộ sử đầu tiên của Việt tộc.

 

      Bộ sử đầu tiên được biết là bộ “Việt Chí” của Trần Phổ và bộ “Đại Việt Sử ký” do Lê văn Hưu biên sọan đời Trần
Nhân Tông năm 1272. Cả 2 bộ sách này đã bị quân Minh tịch thu rồi tiêu hủy nên hiện không còn nữa. Cuối đời Trần,
sách Đại Việt Sử lược do một tác giả vô danh biên soạn nhưng bản duy nhấy lại lưu trữ trong “Thủ sơn các Tùng thư
và Khâm định Tứ khố Toàn thư” đời Thanh. Bộ sử này được hiệu đính bởi Tiền Hi Tộ, sử quan triều Thanh nên đã sửa
chữa nội dung kể cả tên sách Đại Việt Sử lược cũng bị sửa lại là Việt sử lược. Chúng ta thấy rõ ngay bản chất thâm
độc quỉ quyệt của Hán tộc xâm lược, các sử gia Hán đã sửa đổi niên đại thành lập nước Văn Lang, kéo lùi lại hàng
ngàn năm hòng xóa bỏ vết tích cội nguồn  quê hương xa xưa của Việt tộc ở Trung nguyên. Đồng thời xuyên tạc ý nghĩa
cao đẹp của sự thành lập quốc gia Văn Lang qua việc một người lạ, dùng ảo thuật áp phục … Hai Bà Trưng khởi nghĩa
giành độc lập dân tộc thì chúng viết là bất mãn Tô Định bạo tàn nổi lên làm loạn !!!

 

     Đại Việt Sử lược bị quân Minh tịch thu tiêu hủy, bản duy nhất còn giữ ở Tứ khố Toàn thư” của triều Minh. Sử quan triều
Thanh là Tiền Hi Tộ, sửa đổi xuyên tạc, bóp méo lịch sử theo ý đồ “Đại Hán xâm bành trướng” đã chép về sự thành lập của
quốc gia Văn Lang như sau:

 

Đến đời Chu Trang Vương (696-682TDL) ở bộ Gia Ninh có người lạ dung ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng
Hùng Vương, đóng đô ờ Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang. Phong tục thuần hậu, chất phác. Chính sự dung lối
thắt nút. Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương
…”.

 

     Các nhà nghiên cứu lịch sử Mác-Xít với sử quan duy vật, viết sử theo nghị quyết của đảng Cộng sản đã nhân danh cái
gọi là “khoa học lịch sử hiện đại” đã bác bỏ niên đại lập quốc 2979TDL. Họ dựa theo “Việt sử lược” là bộ sử đã bị
Tiền Hi Tộ sử quan triều Thanh sửa đổi rồi nhất loạt cho rằng “Niên đại mở đầu của thời sơ sử Việt Nam được xác định
 là cách ngày nay khoảng từ 2.600 năm đến 2.500 năm
”. Chủ trương của đảng CSVN là không dám đả động gì đến
phần lãnh thổ của Việt tộc ở bên Tàu từ thuở xa xưa sợ làm mích lòng đàn anh Trung Cộng. Thế là các nhà sử học
 Xã hội chủ  nghĩa, những con người mất gốc này đồng loạt nhân danh khoa học lịch sử hiện đại, vội vàng phủ nhận
cội nguồn gốc tích Việt, phủ nhận niên đại lập quốc cách nay ít nhất là 6 ngàn năm. Tệ hại hơn nữa, họ lại dựa trên Đại
Việt Sử lược đã bị sử quan triều Thanh đổi tên lại là Việt sử lược, sửa đổi niên đại lập quốc của Văn Lang ngang với
thời Chu Trang Vương (696-682 TDL) để xóa nhòa ký ức Việt về thời lập quốc xa xưa của Việt tộc.

 

    Sử quan đóng khung viết theo nghị quyết của đảng Cộng sản Việt Nam bán nước đã phủ nhận cội nguồn và đi
 ngược lại quyền lợi dân tộc, phản bội tồ quốc là một chứng tích tội ác, một vết nhơ của lịch sử Việt. Chính Phan Huy
Lê, viện trưởng viện sử học của nhà nước CHXHCNVN đã viết:

 

“Lịch sử là lịch sử, nếu viết sử theo nghị quyết thì không còn là lịch sử nữa” và sử gia Đào Duy Anh trước khi chết đã
phải viết một câu đi vào lịch sử “ Người ta biết tôi qua sách sử và người ta cũng kết tội tôi vì lịch sử”…!!!

 

Trong lịch sử nhân loại, có lẽ không một dân tộc nào chịu nhiều mất mát trầm luân như dân tộc Việt với những thăng trầm
lịch sử, những khốn khó thương đau. Ngay từ thời lập quốc, Việt tộc đã bị Hán tộc với sức mạnh của tộc người du mục
đã đánh đuổi Việt tộc phải rời bỏ địa bàn Trung nguyên Trung quốc xuống phương Nam để rồi trụ lại địa bàn Việt Nam
bây giờ. Lịch sử thế giới không có một dân tộc nào có thể vùng lên giành lại độc lập sau đêm dài nô lệ hơn một ngàn
năm dưới ách thống trị của kẻ thù thâm độc quỉ quyệt như dân tộc Việt Nam.

 

     Lịch sử Việt là lịch sử của công cuộc trường kỳ kháng chiến, chiến đấu và chiến thắng để  Việt Nam tồn tại mãi tới
 ngày nay. Dân tộc Việt đã chiến thắng biết bao kẻ thù hung hãn quỉ quyệt bất cứ từ đâu đến, dù chúng núp dưới bất kỳ
chiêu bài hoa mỹ nào. Lịch sử Việt cũng chứng minh rằng tất cả những gì xa lạ với bản sắc dân tộc đều phải khuất
phục trước sức sống Việt Nam, trước truyền thống anh hùng của một dân tộc có gần năm ngàn năm văn hiến.

 

Sở dĩ, Phan Huy Lê phải viết ra điều này vì chính ông đã là nạn nhân của “Cái gọi là viết sử theo nghị quyết” của bộ
chính trị đảng cộng sản Việt Nam.

 

 Trong bài viết giới thiệu “ Tác giả, văn bản và tác phẩm “Đại Việt Sử ký Toàn thư” của sử thần Ngô Sĩ Liên, Phan
Huy Lê viết rằng: “Ngô Sĩ Liên đưa nhà Triệu của Triệu Đà vào quốc sử là một sai lầm kéo dài …”.

 

Thực ra sai lầm này bắt đầu từ nhận định phiến diện chủ quan của Ngô Thì Sĩ và  sau này là Phan Huy Chú, khiến chúng
ta sau này phải lần mò trong rừng thư tịch TQ cổ mù mờ khó hiểu. Các hủ nho cứ nhắm mắt tin vào “Chính sử” của Trung
Quốc như Ngô Thì Sĩ … để lại một di sản vô cùng tai hại. Tệ hại hơn, các nhà sử học Mác Xít ngày nay đã viết sử theo nghị
quyết của tập đoàn Việt gian bán nước đã phơi bầy thái độ hèn mạt nhục nhã của sĩ phu thời đại Cộng sản khiến “Thần
người đều căm hận, Trời đất chẳng dung tha
”.

CỔ SỬ TRUNG QUỐC XÁC NHẬN SỰ THẬT LỊCH SỬ.

 

Cổ sử Trung Quốc chép “Năm Quí Tỵ 2.198TDL, vua Đại Vũ nhà Hạ hội chư hầu ở Cối Kê. Năm Qúi Mão 2.085TDL
 vua Thiếu Khang nhà Hạ phong cho con thứ là Vô Dư ở đất Việt”.

 

Cổ sử Trung Quốc chép : “Đời Cao Tông triều Ân, vượt Hoàng Hà đánh nước Quỉ Phương (Xích Qui Phương) 3 năm
 không thắng
…”. Kinh Thư, Sử Ký Tư Mã Thiên và bộ Trúc Thư Kỷ niên chép đời Vũ Đinh là vị vua thứ 22, lấy hiệu là
Cao Tôn, thì một biến cố quan trọng xẩy ra; bộ Trúc Thư ghi như sau: “Năm thứ 32, đem quân đánh Quỉ Phương và
đóng quân tại Kinh
”.

Sử Ký của Tư Mã Thiên chép: “Đời Chu An Vương, Sở Điệu Vương sai Bạch Khởi đánh dẹp Bách Việt ở miền Nam”.

 

Sách Lã Thị Xuân Thu viết: “Phía Nam Dương, Hán là Bách Việt”.

 

Hậu Hán Thư chép: “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê trên 7,8 ngàn dặm, người Bách Việt ở xen kẽ nhau gồm nhiều chủng
tính (tên họ) khác nhau
…”.

 

Sử Ký mục Đông Việt truyện chép: “Đông Việt hay Đông Âu (Âu Việt ở phía Đông) trong thời Tần Hán đóng đô ở
Vĩnh Ninh tức Vĩnh Gia miền Triết Giang, Mân Việt ở đất Mân Trung tức miền Phúc Kiến. Nam Việt đô ở Quảng
Châu gọi là thành Phiên Ngung thuộc miền Quảng Đông. Tây Âu (Âu Việt ở phía Tây) ở phía Nam sông Ly miền
Quảng Tây …
”.*

 

Cổ sử Trung Quốc chép “Dân Lạc ở vùng sông Lạc Thiểm Tây vùng Tam Giang Bắc gồm sông Vị, sông Hoàng,  sông
 Lạc và Ba Thục
”. Năm 770TDL, sau khi bị “Khuyển Nhung” tức Lạc bộ Chuy đánh chiếm Kiển Kinh, triều Chu phải dời
đô về Hà Nam phía Đông. Triều Chu giao cho Tần trấn giữ hướng Tây. Năm 659TDL, Tần Mục Công đánh thắng Lạc bộ
Chuy. Sử Ký của Tư Mã Thiên chép: “ Lạc bộ Chuy bị Tần Mục Công diệt vào đời Chu Thành Vương năm 659TDL
 thời Đông Chu
.

 

Tiền Hán thư, Hậu Hán Thư và Sử Ký của Tư Mã Thiên đều ghi chép những sự kiện lịch sử sau:

 

Năm 316TDL Tần đánh chiếm Ba Thục.

 

Năm 257TDL, An Dương Vương Thục Phán thống nhất chi Lạc Việt và Âu Lạc thành lập quốc gia ÂU LẠC của Việt tộc.
Sách Đại Việt Sử lược chép:“Cuối đời Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Thục Phán đánh đuổi mà thay. Phán
đắp thành ở Việt Thường, lấy hiệu là An Dương Vương rồi không thông hiếu với họ Chu nữa
”.

 

Năm 299 TDL, Tần thắng Sở bắt giam Sở Hoài Vương. Năm 278 TDL Tần Bạch Khởi đánh chiếm đất Dĩnh, Sở phải
bỏ Đan Dương phía Bắc dời đô xuống phía Nam sông Dương Tử lập ra trấn lỵ Tiểu Đan Dương. Tiểu Đan Dương là
vùng đất Ô châu cũ nay là vùng Giang Tô, xưa gọi là Kiến Nghiệp Kim Lăng tức Nam Kinh bây giờ.

 

Năm 223TDL, Tần lại đem quân đánh chiếm nước Sở. Tướng Tần là Vương Tiễn chiếm Hồ Bắc, Hồ Nam rồi đem
quân đuổi theo truy kích tàn quân Sở tới An Huy, giáp biển Đông. Dân quân Sở kể cả Ngô, Việt một lần nữa phải lên
đường di tản theo đường biển xuôi Nam xuống cổ Việt hội nhập với cư dân Lạc Việt của nước Văn Lang đã định cư
 từ lâu ở vùng châu thổ sông Hồng sông Mã. Sau khi diệt Sở năm 223TDL, Tần đánh chiếm Tề năm 221 TDL lên
ngôi bá chủ Trung nguyên.       

 

Năm 218TDL, Tần Thuỷ Hoàng sai Đồ Thư đem 50 vạn quân tiến xuống Lĩnh Nam. Năm 214TDL, quân Tần chiếm
được một phần Lĩnh Nam rồi chia làm 3 quận gồm Nam Hải (Việt Đông tức Quảng Đông bây giờ), Quế Lâm (ở phía
Bắc và Đông của Việt Tây tức Quảng Tây bây giờ) và Tượng Quận (Bắc Việt Tây và Nam Quí Châu). Quân trưởng Tây
 Âu là Dịch Hu Tống hy sinh, quân dân Việt rút vào rừng thường xuyên đột kích tiêu diệt quân Tần. Tinh thần quân giặc
hoang mang lo sợ, dân quân Việt thừa thế tổng phản công giết chết tướng giặc Đồ Thư tại trận, quân Tần tháo chạy về
 
nước. Đây là cuộc chiến tranh du kích đầu tiên trong trường kỳ lịch sử của Việt tộc đã đập tan đạo quân bách chiến
bách thắng của đế chế Tần hùng mạnh. Chiến thắng quân Tần là minh chứng hùng hồn của sự hợp nhất các chi tộc Việt thành
quốc gia Âu Lạc của An Dương Vương.

 

Năm 111TDL, Hán Vũ Đế cử Lộ Bác Đức giữ chức Phục Ba Tướng quân, xuất binh tiến đánh Nam Việt. Sử chép t
rước thế giặc mạnh như vũ bảo, Lữ Gia cùng với Vua và triều đình phải rút về vùng biển. Lộ Bác Đức sai quân đuổi theo
bắt giết cả Triệu Kiến Đức và Tướng Lữ Gia.

 

Sau khi Hán tộc đánh chiếm Nam Việt, chúng đổi tên Nam Việt thành Giao Chỉ bộ gồm 9 quận Nam Hải (Quảng Đông),
Thương Ngô (Quảng Tây), Uất Lâm (Quảng Tây), Hợp Phố (Quảng Châu), Giao Chỉ (Bắc Việt Nam), Cửu Chân (từ
ân Nam xuống tới Thanh Hóa), Nhật Nam (Nghệ An), Châu Nhai (Đảo Hải Nam), Đạm Nhĩ (nay là Đam Châu thuộc
đảo Hải Nam). Thực tế này, một lần nữa khẳng định Trung nguyên, vùng Nam Trung Hoa ( Hoa Nam) kể cả đảo Hải Nam,
Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa là của Bách Việt mà Hán tộc đã xâm lược thời Hán mà thôi. Quận Nam Hải thời đó là
phần đất thuộc tỉnh Quảng Đông bây giờ nên sách sử Trung Quốc viết biển Nam Hải tức là biển Quảng Đông mà thôi.
Nam Hải hay Trướng hải là vùng biển Hoa Nam cách huyện Hải Phong tỉnh Quảng Đông 50 dặm. “Tân Từ điễn Thực
dụng Hán Anh” xuất bản tại Hồng Kông năm 1971 viết: “ Nam Hải là vùng biển kéo dài từ eo biển Đài Loan đến Quảng
Đông”. Nhà bác học Lê Quí Đôn trong tác phẩm “Vân Đài Loại ngữ” viết : “Quảng Đông ngày xưa thời quốc gia Nam
Việt là Phiên Ngung, còn gọi là Dương Thành, Dương Châu, Dương Thủy, Long Uyên, Long Biên, Quảng
Châu Loan …
(1) Quảng Đông Quảng Tây trước có tên là Việt Đông, Việt Tây nên cả vùng biển gọi là Nam Hải
của Quảng Đông trước kia đều thuộc lãnh thổ Việt Nam.

 

     Các nhà hàng hải Tây phương không hiểu rõ vấn đề chủ quyền biển Đông nên thường gọi là biển Nam Trung Hoa nên
một số bản đồ ghi là biển Nam Trung Hoa dể tiện việc hải hành chứ không hề xác nhận đó là biển Nam Trung Hoa. Thực
tế này chính “Từ Nguyên cải biên” bản xuất bản năm 1951 và 1984 ghi rõ là người ngoại quốc gọi Nam Hải là Nam
Trung Quốc hải. Nhân sự kiện này, Sách “Từ Nguyên cải biên” lợi dụng danh xưng này đã viết: “Vị trí ở phía Nam Phúc
Kiến và Quảng Đông, phía Tây Đài Loan và Phi Luật Tân, phía Đông bán đảo Trung Nam và bán đảo Mã Lai, phía
Bắc Ba La châu (Borneo) và đảo Tô Môn Đáp Lạp (Célebres?). Có điều là thời xưa biển nước ta (Trung Quốc) mệnh
danh là Nam Hải, có thời đã bao quát cả Ấn Độ dương nữa, vậy chẳng nên giới hạn diện tích Nam Hải ở phạm vi như
chép ở trên… (2)

Chính Hán sử cho chúng ta biết rằng sau khi chiếm được Nam Việt rồi thì Lộ Bác Đức phải nhờ Giám Cư Ông là người
Việt ở Quế Lâm chiêu dụ Âu Lạc về thuộc Nam Việt. Sở dĩ Hán Vũ Đế không dám xua quạn xuống Tây Âu, Âu Lạc vì Lưu
An tác giả “Hoài Nam Tử” đã nhắc lại kinh nghiệm thất bại năm xưa của đại quân Tần. Vì thế Lộ Bác Đức đóng quân ở
ợp Phố rồi chờ 2 viên Điền sứ của Triệu Đà ở Âu Lạc đến dâng nộp ấn tín sổ sách và 1000 vò rượu rồi giao cho 2 viên
Điền sứ cai trị như xưa. Đi
ều này chứng tỏ là ngay từ thời Triệu Vũ Đế Âu Lạc vẫn tự trị. Trên thực tế, quân dân Nam
Việt một số chạy ra đảo Hải Nam cùng với cư dân Lạc Lê ở địa phương tiếp tục chiến đấu nên năm 81TDL, Hán triều
phải bỏ Đạm Nhĩ và đến năm 46TDL, quân Hán lại phải bỏ Châu Nhai vì bị thiệt hại nặng nề. Trước tình hình đó, Hán
triều phải bãi chức, triệu hồi Tích Quang v
ề kinh.

 

     Như vậy, chính sử TQ đã xác nhận là Hán tộc đã xâm lược lãnh thổ của Việt tộc trong suốt tiến trình lịch sử nên cả
đảo Hải Nam chứ đừng nói tới Hoàng Sa và Trường Sa vẫn thuộc chủ quyền của VN từ lâu. Đây là chứng cớ hùng
hồn về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt tộc.

 

 

    Tự xa xưa, dân gian thường phân biệt rõ ràng sự khác biệt giữa Tàu và Việt nên thường nói “ Bắc Hán, Nam Việt” có
nghĩa là người Hán ở phương Bắc, người Việt ở phương Nam. Chính Hán văn Đế cũng phải giao trả toàn bộ đất đai vùng
Lĩnh Nam về cho Việt tộc năm 181TDL. Hán văn Đế phải cử sứ gỉa mang thư với lời lẽ hạ mình khiêm nhượng sang Nam
Việt điều đình thương lượng xin giao trả phần đất phía Nam rặng Ngũ Lĩnh để đổi lấy hòa bình và thông thương giữa hai nước.

 

     Sau gần một ngàn năm đô hộ, Hán tộc thâm độc đã triệt tiêu văn tự, sách sử của nước ta nên các sử gia nước ta lấy
nguyên văn của Hán sử chép là họ Triệu lập nước Nam Việt là viết theo văn phạm của Hán ngữ đặt tĩnh từ trước danh từ.
Người Việt chúng ta luôn đặt tĩnh từ sau danh từ như trời xanh, mây trắng, Việt Nam, Hải Nam trong khi chữ Hán lại viết
là Thanh thiên, bạch vân, Nam Việt, Nam Hải … Sự thực này đã được danh nhân Nguyễn Trãi xác định rõ trong tác phẩm
Dư Địa Chí” là: “Thiên Vương chế chép các tên gọi An Nam, Nam Việt, Việt Nam, Nam Bình đều là tên của nước
Việt Nam bây giờ
”. Chính vì vậy quốc gia Nam Việt theo Hán sử chép chính là quốc gia Việt Nam của Việt tộc ở phương
Nam và ngay cả đảo Hải Nam cũng thuộc nước ta từ lâu. Đến thế kỷ thứ XVIII mà Trung Quốc vẫn chưa biết gì về
Hòang Sa, Trương Sa như lời của nhà s
ư Thích Đại Sán(1633-1705), tu sĩ cửa chùa Chang-shou ở Quảng Đông
trong hồi ký của ông tên là Hai wai ji shi (Ghi chép một chuyến đi hải ngoại) viết về chuyến đi của ông tới phần nửa
phía Nam của VN vào năm 1695 có nói tới các đảo Hoàng Sa là lãnh thổ Việt nam và tiết lộ rằng triều đình Việt nam
có gửi tàu ra tuần tra thường xuyên các đảo ấy.

 

     Hứa Văn Tiền, sử gia Trung Quốc viết trong bản dịch tác phẩm “An Nam Thông sử” của sử gia Nhật là Nham Thân
Thành Doãn đã khẳng định:“Thực ra người Việt tạo dựng được cơ nghiệp ở bán đảo Trung- Ân là có uyên nguyên chứ
hông phải việc ngẫu nhiên, bởi vì người Việt Nam là giống cường đại nhất trong Bách Việt. Nước Sở xuất hiện khoảng
mười một thế kỷ trước kỷ nguyên là do dân tộc An Nam thành lập
”. Hứa Văn Tiền dẫn “Sử Chính nghĩa” của Trung Quốc
viết: “Nam Việt và Âu Lạc đều lập họ”. Tác giả Sử Ký Chính Nghĩa lại trích dẫn sách “Thế Bản” chép: “Việt họ Mi cùng
Tổ với Sở. Sách xưa gọi là đồng tính, đồng tổ tức là cùng chung một chủng tộc. Vả lại, theo sách sử Việt thì cương
vực người Việt ngày xưa, phía Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam tiếp với nước Hồ
Tôn (Lâm Ấp) thì bỏ Sở đi sao được?”
.   

 

     Tóm lại, chính sử sách Trung Quốc đã xác nhận là Hán tộc đã xâm lược lãnh thổ của Việt tộc trong suốt tiến trình lịch
sử nên cả đảo Hải Nam chứ đừng nói tới Hoàng Sa và Trường Sa vẫn thuộc chủ quyền của Việt Nam từ lâu.
Đây là chứng cớ hùng hồn về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt tộc.
Chính vì vậy, trước năm 1909 không có một
bản đồ nào của các triều đại người Tàu nói gì về Hoàng Sa và Trường Sa. Tất cả các bản đồ cho tới nhà Minh chỉ cho
thấy phần cực Nam của Trung Hoa là đảo Hải Nam mãi đến năm 1909, Trung Quốc mới vẽ bản đồ về biển Đông
mà họ mạo nhận là biển Trung Hoa. Chính bộ “Tân Từ điễn Thực dụng Hán Anh” xuất bản tại Hồng Kông năm 1971
đã xác nhận: “Nam Hải là vùng biển kéo dài từ eo biển Đài Loan đến Quảng Đông”. Như vậy, quần đảo Hoàng
Sa Trường Sa thuộc về Biển Đông của VN.

Phạm Trần Anh

Nguồn: http://www.anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=view&id=2231



Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Việt Nam Nước Tôi
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến di sản văn hóa của Việt tộc


Trở lên đầu trang

Trở Lại Trang Mặt