2. GIẢI THÍCH TỪNG THỜI
KỲ
2.1. Môn Hóa Kỳ
(Thần Tắc Kỳ)
Tại sao gọi là
Môn Hóa?
Vì cái đặc sắc của thời kỳ này là dân
tộc ta đã chế ra đươ c văn tự là
thứ chữ Môn Thư, chữ Hoa hình như con nòng nọc, ta
gọi là lối chữ khắc
dấu mà người Hán đã dùng để chế ra chữ
Hán của họ. Thứ chữ Môn này, ở
Mường còn có nơi dùng, nhưng ở dân
Thái thì đã bị pha
trộn với chữ Phạn của Ấn Độ mà biến ra một thứ chữ riêng.
Ở ta dấu tích
thứ chữ ấy còn sót lại ở trong quan tài bà
Dương Thái Hậu (vợ vua Đinh
Tiên Hoàng sau lấy vua Lê Đại Hành) tại
làng Sơn Dược tỉnh Ninh Bình,
muốn biết gốc tích thứ chữ ấy, ta phải lùi lại thời kỳ
hơn một vạn năm
trước.
Theo
sử Tàu thì vua đầu tiên của họ gọi là
Hoàng Đế, theo sử ta thì vua đầu
tiên của ta gọi là Viêm Đế. Hai ông vua ấy
là tiêu biểu 2 hành trong
Ngũ Hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Số học của Tàu bắt đầu
từ số 1 biểu
hiệu của Thái Cực, lúc đó là đời Bàn
Cổ (hỗn độn), sau mới sinh ra Tam
Tài là Thiên - Địa - Nhân, Trời Đất chia ra 5
phương thuộc 5 hành là
Đông (Mộc), Tây (Kim), Nam (Hỏa), Bắc (Thủy), Trung (Thổ).
5 phương ấy là
do 5 giống người làm đại biểu cho 5 hành và 5 sắc,
nên những người đại biểu đã dùng 5 sắc mà
đặt tên:
* - Bắc Phương (Thủy) sắc đen gọi là Hắc Đế.
* - Tây Phương (Kim) sắc trắng gọi là Bạch
Đế.
* - Đông Phương (Mộc) sắc xanh gọi là Thanh
Đế.
* - Nam Phương (Hỏa) sắc đỏ gọi là Viêm Đế.
* - Trung Phương (Thổ) sắc vàng gọi là
Hoàng Đế.
Theo
thứ tự như trên thì loài người có văn minh
trước nhất là giống Bắc
Phương (Hắc Đế) tức là nòi Địch, giống người tối cổ ở
Sibérie, thứ đến
là người Khương ở Tu Di (Palmir) thuộc Tây Phương rồi đến
giống người ở
Đông Phương (Di) kế đến giống Viêm tức giống Việt ta ở Nam
Phương và
giống Hán là tập đại thành của mọi cái của
các giống trên.
Tóm lại tất cả
trên đây ta có thể thu
thành đồ biểu:
* - Thái Cực
* - Tam Tài
(Thiên Địa Nhân)
* - Thủy [ Hắc Đế ]
* - Kim
[ Bạch Đế ]
* - Mộc [ Thanh Đế ]
* - Hỏa
[ Viêm Đế ]
* - Thổ
[ Hoàng Đế ]
Văn
minh theo sử Tàu, khi có lễ thắt nút tự bao ly
(tức Phục Hy) nhận thấy
con Long Mã (Rồng) dưới sông Hoàng Hà nổi
lên có 55 điềm, bèn ghi lấy
rồi chế ra Bát Quái đến đời Hoàng Đế mới sai
ông Phương Hiệt dựa vào
các dấu của Bát Quái mà chế ra thành
chữ. Sau này vua Hạ Vũ lại nhân những
vết trên lưng rùa thấy ở Đông Lạc mà vạch ra
Cửu Trù.
Chữ Hán và khoa số học của Tàu do ở đấy mà
ra, mà 2 cái đó gọi là Hà Đồ
- Lạc Thư, nhưng đó là do ghi chép của các
sử gia Tàu và căn cứ ở sử
Tàu là dựa vào Xuân Thu của Khổng Tử
và các kinh sách của Khổng Tử đã
san định lại, mà các kinh sách ấy đã bị sai
lạc từ đời Phần Diến (hủy
các điển tích xưa) trong đời nhà Chu, chứ
không phải bị sai lạc sau đời
Tần Thủy Hoàng là người đã đốt sách
và chôn học trò. Nhưng dù sao Hà Đồ
và Lạc Thư cũng đã có trước đời Hoàng Đế
mà chính là của dân Việt ta đã
dùng làm vận dụng cho văn hóa khi còn giữ
được chỏm Thái Sơn làm hoa
địa để khống chế vũ trụ, vì vậy nên cái hèm
(totem) của ta đã lấy con
Rồng làm biểu tượ ng. Sau đời Viêm Đế, khi dân tộc
ta đã phải lùi xuống
phía Nam, lấy Phong Châu làm hoa địa về đời Hồng
Bàng vua Hùng Vương
thứ VI còn cống hiến qua Tàu một con rùa chu vi 8
thước, bề mặt và trên
mai rùa ghi đủ lịch số, thiên văn, số học, triết học. Sau
vua Nghiêu
đem kê cứu mà lập ra lịch Rùa (Qui Lịch) và
ngay đến thời Lý Nhân Tôn,
còn bắt được con rùa trên mai có văn tự, đem
khảo sát thì nhận được 4
chữ “Y Bát Thần Khí”, xem đấy đủ biết Hà
Đồ (Đồ vẽ trên mình Rồng) và Lạc Thư (Sách
trên mai Rùa) vốn xưa là của giống Việt ta.
Trong
thời gian chiếm lĩnh núi Thái Sơn làm hoa địa,
ngoài cái đặc điểm chế
ra văn tự (chữ Môn) dân tộc ta đã tới thời
nông nghiệp (theo triết học
gọi là thần tắc) còn xã hội tổ chức thì
cùng theo lối bộ lạc gọi là Lạc
Chế. Dân từng nơi bầu ra Lạc Hầu và Lạc Tướng. Ruộng cấy
chia đều gọi
là Lạc Điền, dân cấy rồi thì nạp thuế (theo lối bộ
lạc bình sản kinh
tế), nước thì gọi là Làng nên sau này
mới có những danh từ như chữ Văn
Lang đời Hùng Vương và Đào Làng đời
Lý Phật Tử (chữ Làng ấy sau này
theo chữ Hán mới viết đọc là Lang rồi sai lần đi).
Trong thời Môn
Hóa này tức là thời kỳ thần tắc, dân tộc
Việt đã dùng 2 vật sau này làm hèm
(totem):
1. Rồng: Nghĩa là tỏ ý to lớn nhất lại
hay biến hóa và đầy năng lực phấn đấu.
2. Tiên: Tỏ ý cao siêu sáng suốt,
trường thọ.
Hai
thứ
trên
là
biểu
dương của nguyên tố về vật chất
và tinh thần.
Nhưng
chiếm núi Thái Sơn được một thời gian thì lại phải
tranh đấu với các
giống Di, Khương, Địch và Hán, nhất là với giống
Hán từ Thiên Sơn
(Altai) tràn xuống khá mạnh nên hoa địa Thái
Sơn phải mất và dân tộc
Việt phải lùi xuống phía Nam, lấy song Dương Tử và
Ngũ Hồ, Ngũ Lĩnh làm
căn cứ địa.
Đó
là
lần
Nam
Thiên
Di thứ nhất, cuộc đấu tranh này
đã chuyển từ văn hóa đến vũ lực nên các vũ
khí đã tiến lên đến nghề rèn sắt. Vì có rèn sắt nên mới
có nam châm, cái gốc chính của địa
bàn (boussole - Lressole).
Cuộc
Nam thiên lần thứ nhất này là thời kỳ Viêm
Đế, sau cuộc ấy hoa địa đã
mất quyền khống chế vũ trụ cũng mất, mà nơi căn cứ mới là
miền Dương Tử
và Ngũ Hồ, Ngũ Lĩnh lại thấp nên tình thế dân
tộc đã bị lung lay về mọi
phương diện văn hóa, quốc phòng. Sự thất bại đời
Viêm Đế đã để cho ta
những kinh nghiệm sau đây:
a. Mất
Thái Sơn là mất cả sinh hoạt về vật chất và tinh
thần vì đấy là một
trọng địa, nơi nào chiếm được sẽ làm lễ phong thiên
chiêu hồn tá (hồn
tế?) (tá = phụ tá, tế = chủ) tất cả các tử sĩ
và đắp nằm ở trên các
ngọn núi đền thờ phụng tổ tiên, lại là một căn cứ
quan trọng cho việc
quốc phòng, có đủ điều kiện về kinh tế văn hóa để
tiến, lui, đánh, giữ.
b.
Vì sự thất bại ấy nên mất Hà Đồ - Lạc Thư tức
là mất vận động về tinh thần và mất cả bản lĩnh sống,
cùng sáng tạo và đấu tranh.
c.
Sau khi Nam thiên, các bộ lạc bị tan nát về thời kỳ
trên, chúng ta có thể tóm tắt lại như sau:
1. Đại Việt Viêm Đế:
a. Trọng điểm: Ngũ Hồ, Ngũ Lĩnh.
b.
Kinh tế: Lạc Chế Bình Dân Bộ Lạc.
c. Văn
hóa: chữ Môn, Hà Đồ - Lạc Thư.
d.
Hèm: Rồng Tiên.
2.2. Văn Hóa Kỳ (Đế Tắc
Kỳ)
Tranh đấu Nam tiến:
a. Mất Thái Sơn (hoa địa: đất làm
nổi, phát huy tinh hoa).
b.
Hoạt động: từ quốc gia bình diện đến quốc tế lập thể hoạt động
sang quốc gia lập thể.
c. Bộ
lạc: Băng hoại phân tán.
d.
Văn hóa: Đế Tắc Kỳ.
Thời
kỳ này bắt đầu Nam thiên từ lưu vực sông Dương Tử
và lưu vực 5 hồ 5 núi
xuống Phong Châu, lấy nơi này làm hoa địa mới, lập
ra nước Văn Lang,
nên thời kỳ này gọi là văn hóa tức Văn Lang
mà ra, đoạn sau khi mất hoa
địa Thái Sơn xảy ra, văn minh thời này đã tiến
lên sự trừu tượng, tư
tưởng đón mọi quan niệm vào một mối do trời định (Đế)
nên thời kỳ này
gọi là Đế Tắc Kỳ.
Sau
cuộc băng hoại của dân tộc Việt về cuối thời Môn
Hóa, cái công việc
quan hệ nhất của văn hóa là phải liên lạc những
phần tử bị tan rồi để
gây lại thành một khối, câu chuyện điển hình
là một bọc trăm trứng tức
là sự biểu tượng cho sự liên lạc ấy. Lưu vực của giống
Việt chiếm cứ
lúc bấy giờ là suốt từ 5 hồ, 5 núi cho đến hết
phía Nam, bao quát cả
Miến Điện xuống đến Mã Lai ăn ra các đảo ngoài
Đông Hải và Java
Phillipine.
Vậy
mà về phía người Hán thì phạm vi hoạt động
quốc tế của họ, phía Nam
chưa ra khỏi núi Hằng Sơn, phía Đông không
quá Đông Hải, phía Bắc chưa
quá An Sơn (hồ Baikal) và Tây không
quá Lưu Xá.
Còn về thời
Hồng Bàng thì phạm vi
hoạt động quốc tế của ta sau khi lấy Phong Châu làm hoa
địa, dân tộc ta
đã lấy Ngũ Hồ làm trọng trấn phía Bắc, Miến Điện
làm trọng trấn phía
Tây. Hiện nay ở lưu vực sông Hằng
(Gange) ở Ấn Độ
còn hơn 10 triệu người Thái thuộc giống ta và ở
Miến Điện có giống Thái
nói nửa tiếng Mường và nửa tiếng Thái.
Tục
Hèm về thời văn hóa (tức Hồng Bàng) này
là vẽ hình mình, ăn trầu, nhuộm
răng, thờ cúng tổ tiên, và các thứ thần, cắt
tóc ngắn, quần áo lúc ấy
thì lấy mảnh vải khoét lỗ mà chui đầu qua,
không tay (như lối áo nâu
nhiều miền quê còn mặc khi rước thần) và lối
áo giáp ra trận như áo
giáp mây khi Mạnh Hoạch chống nhau với Gia Cát
Lượng.
Về
tín ngưỡng thời này, ngoài việc thờ cúng tổ
tiên và các thần còn có
việc Chử Đồng Tử tu theo đạo tiên, mà hiện nay di
tích còn ở Đầm Dạ
Trạch (Hưng Yên) và ở núi Nam Giới thuộc Cửa
Sót (Hà Tĩnh) Cam Lộc. Còn
việc thần Tản Viên chế ra gậy thần và sách ước, tức
là cái triết sáng
tạo của ta: gậy thần là vô vi biến hóa, 2 đầu
là biểu hiệu sự sống chết
và ở giữa tay nắm để vận dụng dẫn dắt loài người. Sống
là bắt nguồn ở
cái chết, chết là bắt nguồn của cái sống, vậy cần
phải nắm giữ thế nào
để vận động sư sống chết để quân bình, tức là sự
tiến hóa thích trung,
còn sách ước thì nguyên chỉ là tập
giấy trắng, trông vào trắng tất phải
nghĩ ngợi, tâm lý chung ai ai cũng ước vọng điều hay, điều
tốt, do đó
mà sáng tạo ra những cái hay, cái tốt
và tiến bộ.
Chế độ sinh hoạt về
thời này lúc đầu cũng như về thời Môn Hóa
tức là theo lối Lạc Chế cùng
Lạc Hầu và Lạc Tướng trông coi dân cày cấy
(Lạc Điền) nhưng rồi dần dần cũng đi tới trạng thái quốc gia.
Theo
một
ngạn
ngữ
ở
Nghệ An nói “Ông tát bể,
ông kể sao, ông đào sông, ông trồng
cây, ông xây rú, ông trụ trời” ta
có thể thấy đó là dân tộc vô danh của
thời ấy, đã xây dựng nên quốc gia và mưu cuộc
lớn cho dân tộc.
Ông tát bể
(đại biểu cho dân nông nghiệp) lúc ấy hóa
những đồng lầy ở gần biển
thành những ruộng cây lúa và trồng trọt, lấp
bể mà trồng trọt.
Ông kể sao, đại biểu cho thiên văn
khí số, để hiểu biết khu vực phương hướng tìm ra lịch số
chỉ về những thời tiết thay đổi.
Ông đào sông, đại biểu sự khai
phá giao thông để mở mang ngòi lạch dẫn thủy nhập
điền, tránh nạn lụt, thông thương tiện lợi.
Ông trồng cây, bao quát cả về
nông nghiệp, trồng trọt, mục súc, săn bắn, di dân.
Ông xây rú, khai phá rừng
núi để làm dinh trại (quốc phòng) và trồng
trọt, đan cây,xẻ gỗ, v..v..
Ông trụ trời, làm ra nhà để chống
mưa nắng.
Sở
dĩ
làm
như
vậy
được là vì thời ấy nơi trung
tâm Văn Lang đã biết dùng sắt rồi.
Dân Việt trong những cuộc đấu tranh kịch liệt chiếm giữ
Thái Sơn đã
vượt qua tuổi thạch khí, đồ đồng đến sắt, nên thời
Hùng Vương thứ VII
giặc Ân (nhà Ân giống Hán) tràn xuống
xâm lấn, Phù Đổng Thiên Vương đã
dùng ngựa sắt để chế ngự lại. Trong truyện Thánh
Gióng còn dùng cả gậy
tre đánh giặc, tướng Ân
lúc ấy là Cao Tông Vũ định mang quân xuống ta
nên trong Kinh Dịch mới có câu: “Cao Tông
phạt quỷ phương, Xích quỷ nam phương tam niên khắc chế” và
ở
đối
diện
với
đền Gióng ta còn thấy đền thờ Vũ Địch (thờ
giặc). Lối
đền ấy giống như lối đền Phạm Nhan (Nguyễn Bá Lĩnh), một
tên Tàu lai
làm gián điệp chỉ đường cho quân Nguyên
(Mông Cổ) đã đứng đối diện với
đền thờ đức Trần Hưng Đạo (khi lễ Thánh Gióng thì
quay mông sang đền Vũ
Địch, khi lễ đức Thánh Trần thì quay mông sang đền
Phạm Nhan).
Trong cuộc xâm lăng
này thì người Ân lại học ta được nghề châm
cứu của bà Ma Thị, dùng ngải
cứu đốt vào chỗ đau mà trừ bệnh, mà chính
bà đã truyền cho quân lính Ân.
Về
hôn thú thì việc Mễ Nàng (Ba nàng Mỵ
Nương) con vua Hùng Vương là Tiên
Dung lấy Chử Đồng Tử là một thứ hôn thú thời ấy
có gả và cưới hẳn hoi.
Tóm
lại, thời kỳ này là thời kỳ gắng sức của dân Việt
để gom góp lại sự tan
rã của Đại Việt cũ, xây dựng lại nền móng thống
nhất phương Nam.
Đặc điểm của thời kỳ
này là liên lạc,
sáng tạo và đối phó:
A. Liên lạc hết thảy các phần tử
Bách Việt xưa để thành lập một quốc gia phương Nam. Hiện nay những dân tộc cùng giống Việt ấy,
ta còn thấy tản mát ở Ba Thục 50 triệu người, ở Vân
Nam, Hồ Nam.
Phúc Kiến, kể cả Lưỡng Quảng, người Việt xưa còn nhiều
rồi người Thái,
Mường, Chàm và các giống ở Phillipine và
Nam Dương thời ấy cũng là
giống Bách Việt cả.
B.
Sáng tạo một văn hóa mới như gậy thần sách ước,
ông tát bể, ông kể sao, v.v... dựa vào nền gốc cũ xưa, xây đắp một
thứ mới để vận dụng cho sự liên lạc trên.
C.
Đối phó một giống Hán luôn luôn xâm lấn
nên việc quốc phòng là cần
thiết, sắt đã phát minh từ khi còn chống giữ
Thái Sơn, nên khi xuống
Phong Châu đã biết dùng sắt ngay để làm
khí giới quốc phòng. Về chuyện
Phù Đổng Thiên Vương, nói là đứa trẻ
lên ba tuổi vươn vai là biểu tượng
lực lượng dũng mạnh kỳ dị của dân tộc, là tỏ ý
toàn dân tham gia kháng
chiến, nói gậy tre giáo mác là biểu hiện
kháng chiến toàn thể dân tộc,
áo mặc bằng bông lau (lá lau) biểu hiện sự
bình dân. Rồi
việc Phù Đổng đánh giặc xong lên núi
Sóc Sơn mà hóa là biểu hiện sự cao
khiết hy sinh vì nghĩa vụ trọn vẹn rồi thì danh lợi cũng
không màng.
Trong
lúc thực hiện ba điều kiện trên đây thì
dân tộc Việt ở rải rác các bộ
phận phía Bắc trên sông Dương Tử từ thời Xuân
Thu Chiến Quốc là thời
loạn ly của giống Hán, mà lần lượt mưu tính việc
khôi phục lại khu vực
xưa, trước hết là Sở, rồi Ngô, rồi Việt, đều là
những nước Bách Việt
cả, tổ chức những cuộc hành binh lớn lao để lần lượt tranh
giành lại
đất cũ, đã từng thắng và chiếm được ngôi bá
chủ (Việt) và xưng hùng
(Sở) ở Trung Nguyên. Bởi vậy nên từ cuối đời Xuân Thu
ở Tàu, bởi văn
hóa, họ đã tìm mọi cách để hủy diệt những
cái cũ đi và học lấy cái mới
thông dụng ra, giống Hán thì biên chép
lại, sắp đặt lại cho nó có hệ
thống để xóa nhòa những dấu vết cũ của giống Việt, Di,
Khương, v.v... từ trước, mà coi
các giống ấy chỉ là giống mọi rợ. Người
đại
biểu
cho
công
việc ấy là Khổng Tử, nên học
thuyết của Khổng Tử đã trái ngược với học thuyết của
Lão Tử ở phương Nam. Về chính
trị thì họ chủ trương Hưng Hoa Diệt Di (có cả Việt ở
trong).
Lối nhân nghĩa và đạo đức của Khổng Tử là
Hóa và Diệt các giống khác,
nhân nghĩa để liên lạc thay binh đao, đạo đức thì
như câu sách Nho: “Thoái nhi tu đức nhi hậu
miêu tộc từ suy dao, đắc đạo khả dĩ thứ nhân” nghĩa
là lùi không đánh, lấy đức mà
hóa làm dân mình. Cái
thủ
đoạn
ấy
cũng
là một lối đế quốc về đời Chu, nên thời
ấy Mặc Tử mới đề xướng thuyết kiêm ái để đối lại. Thuyết của Mặc Tử cũng giống như thuyết xã hội
ngày nay.
Ngoài những
việc trên này về thời Văn Hóa (Văn Lang),
chúng ta còn ghi được những việc như sau:
1. Đối Nội:
Chính thể Hồng Bàng là từ chính thể Tiểu
Việt (bộ lạc rời rạc lên đến
Đại Việt (liên lạc Bách Việt) chính tự có
Hoàng Đế Lạc Long Quân sau là
Hùng Vương hay Lạc Vương (chữ Long của Tàu là do
chữ thuồng luồng của
ta), nước là Làng (Văn Làng), dưới vua là
Lạc Hầu tiên chỉ và Lạc
Tướng, Lý Trưởng.
Sinh hoạt: Lạc Điền, ruộng của làng được chia
đều (quân điền chế), nòi giống Việt lúc ấy chia
làm 3 hệ:
A.
Lạc Việt ở Quý Châu, Tứ Xuyên (Ba Thục), Xiêm
La, Miến Điện, Mã Lai, Java, Phi Luật Tân.
2. Đối Thoại:
vừa tiêu cực vừa tích cực, đề kháng tiêu cực
bằng xây dựng lại hay báo
thù và tích cực bằng chiến đấu. Trong thời gian
này, người Hán còn mượn
của ta mấy thứ:
1.
Đàn Bầu (âm nhạc)
2.
Cung tên (võ khí)
3.
Châm cứu (y dược)
4.
Rùa (Quy Lịch, thiên văn)
5.
Tiên đạo: Tôn giáo học thuyết là Lão
Giáo biến thái.
6.
Nghề đúc sắt, Hoàng Đế đánh Xi Vưu Việt tìm
kiếm chế được nam châm.
Tóm lược Văn Hóa
Kỳ:
1. Đời
Hồng Bàng:
a.
Tái kiến văn hóa cũ
b.
Liên lạc dân tộc bị băng hoại
c.
Lập lại văn hóa mới, Gậy Thần Sách Ước đi ngay
vào sự dùng sách để gây dựng quốc gia.
d.
Chế độ quốc gia bình sản kinh tế, Lạc Chế theo
chế độ quân chủ phân quyền.
e.
Hèm vẽ mình, ăn trầu, nhuộm răng,
cắt tóc ngắn.
2. Đối ngoại tắc:
a. Đấu tranh bằng văn hóa và giao
hảo bằng văn hóa với giống Hán.
b.
Đấu tranh bằng vũ lực nếu bị xâm lăng, hay thừa cơ loạn ly của
giống
Hán (ví dụ chống Ân hay Việt bá trung
nguyên, Sở hùng chiến quốc).
2.3. Hồng Hóa Kỳ (Danh
Tắc Kỳ)
Thời kỳ này
bắt đầu từ Thục Phán là cháu ngoại vua Hùng
Vương từ Ba Thục xuống chiếm Văn Lang làm Âu Lạc. Trong
sử nói, ông ta chiếm đất vua Hùng là theo
lời dặn của ông tổ ba đời thì
việc không lấy được Mễ Nàng, nhưng có lẽ
không đúng. Tuy rằng đời Hùng
có tục đồng tính kết hôn (theo thuyết của J J
Rousseau) việc từ hôn
trên nếu có cũng chỉ là việc trong nhà,
không có gì thái quá như vậy
và
tuy xác nhận Thục Phán là người nhà vua
Hùng, là đương nhiên lên thế
ngôi vua Hùng, không phải là tranh
cướp. Điều mà chúng ta cần
chú ý là sau khi Thục Phán lên
ngôi, xưng là An Dương Vương, đổi Văn
Lang là Âu Lạc thì kinh đô lại đổi từ Phong
Châu về Loa Thành (thành
trôn ốc gọi là Cổ Loa) từ Phong Châu về Phúc
Yên xa hàng trăm dặm.
Thành trôn ốc xây cất kiên cố cao trăm trượng.
Muốn rõ những ý nghĩa ấy ta
phải hiểu bên đối phương giống Hán tình thế ra sao?
Lúc ấy là thời Chiến Quốc, dân Bách Việt giữ
trọng trách ở phía đông
Dương Tử đã dồn cả vào một nước Sở là một nước
hùng cường (trong Thất
Hùng), trong 7 nước hùng cường ấy, Tần là
nòi Khương trội hơn hết, đi
tiêu diệt các nước khác, Sở cùng ở trong
các nước bị tiêu diệt. Ba Thục
bị Tần chiếm trước tiên, sa u khi thống nhất Trung Nguyên,
đối với Hán
Tần Thủy Hoàng cho tiêu diệt văn hóa đế quốc chủng
tộc của nhà nho đi,
đối với Địch ở phương Bắc, Tần dùng Vạn Lý Trường
Thành để ngăn cản,
đối với Bách Việt ở phương Nam thì cho người đem
quân sang đánh rồi
đồng hóa.
Xem
đây, ta thấy Thục Phán không phải là việc
riêng định thôn tính (hay đổi
tên cũng thế) nước Văn Lang để lập ra nước Âu Lạc mà
thật ra là vì việc
chống giữ cho no I Bách Việt, theo mưu kế của Cao Lỗ. Thục
Phán xây Loa
Thành, vòng trôn ốc dài 100 trượng có
gắn 9 vòng là tỏ cái đạo sống
tiến hóa của dân tộc từ nhỏ ra to, từ hẹp ra rộng
và Bách Trượng dài là
để kỷ niệm 100 giống Việt, còn cái nỏ móng
rùa của ông cha ta chỉ là
cái liên nỏ bắn 100 phát một của ta chế ra, người
Hán học được và
truyền đến đời Tam Quốc thì mất. Nỏ ấy
là biểu tượng của Linh Cổ Thần Tắc, quân sĩ tinh nhuệ
bách chiến bách thắng, mà sách lược Cao Lỗ
là người đặt ra. Ta để ý điều này của Thục An
Dương Vương dựng Âu Lạc được ít lâu thì
Nhâm Ngao sang đánh. Trước Đà
và Ngao, Đồ Thư và Liễu Lộc đã đem 50 vạn vừa
quân vừa dân sang đánh và
hóa dân miền Ngũ Lĩnh. Đồ Thư và Liễu Lộc bị
dân Lục Lương (6 giống
cứng cổ) đánh cho thua và bị giết, như vậy thì
Thục Phán xây Loa Thành
không phải là để tranh ngôi với vua Hùng,
mà ông ta là đại biểu trong
Lục Lương vậy.
Thời
kỳ
Hồng
Hóa
này
việc chống đánh của Lục Lương
là một việc quan trọng. Đáng ghi nhất là
việc mở đầu cho thời kỳ này, theo
ý nghĩa của tập thông luận này vậy. Hành động của Thục Phán vừa là đối
ngoại cách mạng vừa là quốc gia cách mạng.
Nhưng rồi Thục Phán đã thất bại có lẽ là
vì đi quá trớn và vì giết Cao
Lỗ đi, mà không đủ sức vận dụng sách lược của Cao
Lỗ, Âu Lạc bị Triệu
Đà là tướng Tàu cướp mất, dân Bách
Việt từ đấy lại bị tan rã.
2.3.1. Hỗn Hợp thời đại
Quân
cách mạng, lực lượng có thể gọi là chính
thức bắt đầu từ khi Tần Thủy
Hoàng thôn tính cả 6 nước rồi cho Đồ Thư sang
đánh Ngũ Lĩnh. Từ lúc An
Dương Vương mất Âu Lạc, từ đấy trở đi dân Bách Việt
lại phải một phen
băng hoại và lưu tán, nên công việc của
dân tộc lại phải cố để mưu một
tương lai thoát khỏi sự áp bách của dị chủng
và khôi phục lại những nền
gốc xưa. Thời đại
này
là thời đại hỗn hợp bắt đầ u từ lúc Triệu Đà lập
ra nước Nam Việt cho
đến khi vua Đinh dựng lại nền độc lập hoàn toàn.
Thời hỗn hợp
này chia ra làm hai thời kỳ:
Nam Việt thời - Tiểu Việt thời:
A. Nam Việt Thời: Triệu
Đà là quan nhà Tần theo Nhâm Ngao sang
thôn tính Bách Việt, sau khi Đồ
Thư, Liễu Lộc chết trận, Phiên Ngung (bây giờ là
Quảng Châu) lại ly Sở
cho Đà làm chức lệnh ở Long Xuyên. Ít
lâu sau, Ngao chết, Đà lên thay
rồi sau khi Tần mất nước, Đà chiếm được Âu Lạc mới xưng
là vua, đặt tên
là Nam Việt (2072) trước Thiên Chúa (?).
Vì
sao
Triệu
Đà
lại
lấy tên nước là như vậy? Mà
chữ
Việt ấy có đúng không?
Theo sách Chúc Phương của nhà Chu nói về
dân bộ thì từ Dương Tử Giang
trở xuống có Cửu Mân, Bát Lạc, Tam Ân
là Bách Việt, chữ Việt ( )
này mới đúng là tên của ta, còn chữ
Việt ( ) của Triệu Đà là có
ý khinh mạn và nhất là có chữ Nam ( ) ở trên, mới càng tỏ vẻ một tên
đặt có chính trị ở trong. Việc Triệu Đà là
nòi Hán sang ta dựa vào lúc lư
c lượng suy vong của ta mà lập được nền thống trị nhưng ở về
phía Bắc
đang còn có Ngô Việt, Mân Việt, v.v...
nên Đà mới gọi là Nam Việt và sở
dĩ Đà lập được Nam Việt cũng là nhờ tình thế loạn
ly của giống Hán sau
đời Tần và các giống Việt ở phía Bắc chống đỡ cho
cách biệt hẳn với
Hán, mà Phiên Ngung lại là nơi hẻo
lánh xa xôi. Việc làm của
Triệu Đà từ khi diệt được Âu Lạc mà lập ra Nam Việt
lại có hai mục đích khác nhau.
Lúc còn
nhà Tần thì Đà là một đại biểu cho chủ
nghĩa xâm lược của Tần, chỉ biết theo
chính sách của Tần mà làm tròn bổn
phận. Đến khi Tần bị diệt thì Đà vừa
là tình thế, vừa nhân cơ hội loạn ly mới tự xưng
làm vua chiếm cứ một
phương, nhưng dù cố ý hay vô tình,
công việc làm của Triệu Đà cũng chỉ
dồn vào mục đích chung của giống Hán là
tiêu diệt các dân tộc xung
quanh Hán. Lúc đầu, Đà theo kế hoạch của Tần
là đem quân sang đánh và
đem dân sang hóa ta theo họ, nhưng việc đánh
đã gặp nhiều sự khó khăn
gian nan do sức chống đánh và mưu mẹo du kích của
dân Lục Lương, còn
việc đồng hóa cũng không đem đến kết quả là bao
nhiêu. Ta cứ xem hiện
nay còn một số người Mán nói tiếng Quan Hỏa ở
các miền rừng xứ Bắc Việt
thì đó là di tích sự đồng hóa ấy.
Đến khi lập thành Nam Việt thì Triệu
Đà tuy xưng Đế xưng Vương nhưng cũng phải thỏa hiệp với
dân Việt và
cũng vào hàng ngũ chống
xâm lăng của Hán
sau này. Tuy mục đích của Triệu Đà chỉ là
mưu một nền thống trị cho
mình và cho con cháu mình, nhưng
không thể đi trái ngược ý định và
nguyện vọng ở xung quanh của mình đang cai trị, nên
chính sách Triệu Đà
lúc ấy chỉ là kiểm soát, không đồng
hóa nổi nên dân Việt vẫn đư ợc tự
mưu sự sinh hoạt theo lề thói của mình.
Sách lược của Triệu
Đà lúc bấy giờ ta thấy chú trọng về quốc nội trong
đó có 7 nhân tố như sau:
1. Liên lạc các giống Việt ở
các nơi như Ngô, Sở, Mân để thành lập đồng
minh.
2.
Lợi dụng các giai cấp quý tộc ở Mân, Ngô,
v.v... để kéo cánh về
mình.
3.
Kinh tế: Từ Dương Tử Giang trở xuống thực hành chế độ
bình sản kinh tế, lợi dụng để kiến thiết quân đội địa
phương.
4.
Chú trọng đến Trường Sa (Hồ Nam)
là nơi mũi dùi rất lợi hại cho sự xâm lược của
Hán từ Bắc xuống Nam.
5.
Đối nội: Lợi dụng lúc bộ lạc cũ để cho tự trị mưu việc ổn định
bên trong.
6.
Ngoại giao: Lợi dụng tình thế còn non nớt của Hán
vừa cứng vừa mềm để giữ vững địa vị của mình ở phương Nam.
7. Thừa
hưởng
được
tình
thế
lúc ấy, các nước theo
văn hóa Hồng Bàng như Đại
Chiếm Nam Dương cũng bị suy yếu nên chỉ lo việc chống Bắc.
Bởi
nhờ 7 nhân tố trên nên chiến lược của Triệu Đà
từ lúc còn Hán Cao Tổ
cho đến khi Cao Tổ chết, Lã Hậu lộng quyền tuyệt giao với Nam
Việt và
khi Hán Huệ Đế lên, Triệu Đà lúc bấy giờ
thấy có cơ hội thì yên chí mới
xưng thần phụng cống, lúc bị đe d ọa thì cùng với
các nước đồng minh
phía Bắc cùng làm thế ỷ dốc, đem quân
đánh thẳng vào Hồ Nam (Trường Sa)
đánh cho Hán sợ rồi lại rút quân về
phòng thủ, nhưng sau đó Hán sợ, Hán
điều đình, Đà lại xưng thần như trước. Xem đấy ta thấy
sách lược của
Triệu Đà chỉ là mưu riêng cho con cháu
mình về sau, và nhân đấy đã vô
tình giúp cho các mưu xâm lược của
Hán về sau này vì Triệu Đà mắc mấy
nhược điểm sau đây:
1.
Kiến quốc không triệt để vì Đà là giống
Hán, dân là giống Việt nên giữa kẻ cầm quyền
và dân không ai thực lòng với ai.
2.
Quốc phòng không triệt để, không chiếm được trọng
địa Trường Sa là mũi dùi của
sự xâm lược Hán xuống phương Nam.
3.
Vì đồng minh là Ngô, Sở, Mân sau khi Triệu
Đà chết không liên lạc với Nam Việt mà lại
còn thù oán đánh nhau nữa.
Bởi
3 nhược điểm trên nên sau khi Triệu Đà chết chỉ được
vài ba đời Nam
Việt lại bị Hán thôn tính một cách nhẹ
nhàng và khôn khéo, như ta đã
thấy việc tướng Việt là Lữ Gia giết Cù Thị là mẹ
Ai Vương và Thiếu Quý
là sứ giả nhà Hán. Việc làm của Lữ Gia chỉ
là một phản ảnh của một sức
lực rời rạc của dân tộc Việt, nên kết quả chẳng ăn thua
gì, và mưu xâm
lược của Hán đã đạt được một cách nhẹ nhàng
sau khi xóa nhòa được tên
Nam Việt chỉ là cái danh hiệu biến hình.
B. Tiểu Việt Thời
Trước Nam Việt của
Triệu Đà, Tàu gọi nước ta
là Tượng Quân, khi Hán xóa nhòa được
Tượng Quân Nam Việt thì đổi nước ta là Giao Chỉ
Quận, cắt quan sang cai
trị. Lúc đầu thủ phủ của Giao Chỉ là Quy Lân (Thuận
Thành Bắc Ninh) sau
dời về Thương Ngô (Quảng Tây) đến cuối cùng lại dời
về Phiên Ngung
(kinh đô cũ của Việt). Xem sự lùi thủ phủ ấy ta thấy một
nguyên nhân gì
ở trong chính sách Hán hay Tần chỉ là quan
sang kiểm soát, đó là lối đế
quốc thực quan chứ không phải thực dân, bờ cõi của
quận Giao Chỉ là gồm
tất cả Quảng Đông, Quảng Tây và Nam Việt, sau vụ
thất bại của Lữ Gia
không phải cứ im lặng mà chịu sự đè nén của
nòi Hán, mặc dù chính sách
của Hán coi Giao Chỉ là nơi cống hiến các
sản vật như quế, ngọc trai, chim Trĩ, v.v... còn
các bộ la c được tự trị theo lối lạc chế xưa. Bởi vậy về sau
này dưới sự đè nén của thái thú Tàu là
Tô Định, ông Thi Sách và Hai Bà Trưng
mới có cuộc âm mưu chống lại. Khi
còn tổ chức lực lượng cách mạng vì sự bị tiết lộ,
ông Thi Sách bị giết,
vợ ông là bà Trưng Trắc và em là
Trưng Nhị mới thay ông nắm lấy lực
lượng để vừa trả thù vừa mưu cuộc giải phóng cho
dân tộc trong một thời
gian rất ngắn, Hai Bà đã thu phục vào tay 65
thành trì, nhưng chống giữ
được 3 năm thì lại bị tướng nhà Hán là
Mã Viện đem quân sang đánh.
Trước sự xâm lăng quá mạnh,
Hai Bà bị thua
và tự tử chết, đất nước trở lại sự đè nén của
nhà Hán. Xét sự thất bại
của Hai Bà Trưng lúc ấy là vì dân tộc
Việt từ thời Nam Việt của Triệu
Đà đã bị tan nát rồi, khi Hán diệt Nam Việt
lập ra Giao Chỉ quận, tuy
chỉ cho quan sang kiểm soát và cai trị, nhưng có
nhiều bọn quan thứ sử
như Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp cũng đã
dùng những thủ đoạn đồng
hóa, làm giảm bớt cái tinh thần dân tộc đi
nhiều, tuy vậy vẫn có sự kết
lập lực lượng mạnh mẽ chống lại xâm lăng của Mã Viện, việc
thất bại của
Hai Bà đã mở đường cho cho nhiều giai đoạn hay về sau
trên lịch sử Việt.
Từ
cuộc
thất
bại
của
Hai Bà cho đến lúc vua Đinh dựng nền
độc lập, non
1000 năm dân tộc ta không mấy lúc không
có những vận động giải phóng. Bà Triệu đời
Tam Quốc, Lý Nam Đế, Lý Phật Tử, Mai Thúc Loan,
v.v... đổ đồng cứ non 100 năm lại có
một cuộc cách mạng.
Tựu
trung có một việc ta đáng chú ý nhất
là trong thời kỳ này, ông Khu Liêm
dòng dõi Hồng Bàng đem một số dân thuần
túy Việt vào phía Nam đất Nhật
Nam (Quảng Bình) lập ra nước Lâm Ấp, vừa gây dựng
lực lượng dân tộc cũ,
vừa ngăn sức tràn ra p hía Nam của giống Hán. Dân
Chiêm Thành này về sau này bị dân tộc
ta ở phía Bắc vào tiêu diệt đi,
kể ra là một sự đau thương, nhưng cũng là việc tất
nhiên của lịch sử.
Non 1000 năm dưới sự đè nén của giống Hán,
dân Chiêm Thành chẳng những
đã ngăn không cho tràn vào phía Nam
mà nhiều khi còn mưu khôi phục lại
phía Bắc, về đời Đường đã giúp vua Mai Hắc Đế
chống lại Tàu, gây ra một
nước Văn Lang (Nghệ An). Những hành động của Khu Liêm về
sau có thể nói
là cuộc cách mạng thuần túy Việt hết sức
tìm cách tiến lên để khôi phục
lại căn bản xưa, đó có thể nói là một sự
sửa soạn cho cuộc quật khởi
Hồng Việt về sau này. Một điều ta còn nên để
ý về thời này là văn hóa
phía Bắc cũng muốn mang văn hóa Khổng Nho xuống nhồi cho
ta, bên Ấn Độ
đạo Phật (cả Bà La Môn Giáo) cũng đã
tràn lan qua các miền Chiêm Thành,
lúc ấy miền này cũng đã hấp thụ văn hóa Ấn
Độ nhiều rồi, mới chuyển qua
Giao Chỉ rồi lên Bắc. Ta có thể nói văn hóa
Ấn Độ truyền sang Tàu do 2
mũi dùi, một mũi qua Tân Cương Tây Tạng vào
phía Tây nước Tàu, còn một
mũi từ Chiêm Thành qua Bắc Việt sang, nhưng trước khi đạo
Phật truyền
vào Tàu thì đạo tu tiên của Bách Việt
đã giúp cho văn hóa Tàu nhiều.
Đời Tần Thủy Hoàng rất sùng đạo Tiên, đời
Hán Vũ Đế cũng rất sùng tín.
Thần Tiên là đạo gốc của ta thời Tiểu Việt này,
trung tâm hoạt động của
dân tộc ta là dồn cả vào trong Bách Việt
trước khi Nam Việt chưa bị Hán
diệt thì hoa địa của ta từ Phong Châu rồi lên
Phiên Ngung trọng địa Ngũ
Hồ Ngũ Lĩnh rồi đến Quế Châu (Quảng Tây) từ khi thuộc
Hán, hoa địa và
trọng địa thành vô dụng, lúc này dân
tộc ta dồn vào nơi trung tâm hoạt
động là tiền sông Nhị Hà. Sau đời Vũ Đế thứ sử Sĩ
Nhiếp sau một cuộc
thuyên dời thủ phủ sang Thượng Ngô Phiên Ngung lại
lấy Quý Sâm (Thuận
Thành) làm thủ phủ, đến đời Đường thì đã bị
đổi tên Giao Chỉ quận (Giao
Châu) sang An Nam đô hộ phủ mà thủ đô của ta
lại là Loa Thành (Hà Nội)
nên trung tâm hoạt động của dân tộc ta thời Tiểu Việt
đã dồn cả về vùng
Loa Thành, lúc đó Tàu hay ta cũng lấy
đây làm đầu não mà đánh lại với
họ và cùng lấy đây làm mục đích.
2.3.2. Hồng Việt thời đại
Thời
đại này là bắt đầu từ vua Đinh Tiên Hoàng
dùng sức Vạn Thắng (thắng hết
cả mọi thứ về lực lượng cũng như văn hóa) để xây dựng nền
độc lập cho
dân tộc Việt. Ta
có thể
nói cái sức Vạn Thắng của vua Đinh là bắt đầu
phôi thai từ đời hai bà
Trưng trở đi, mà thời quá độ là thời Ngũ Quỷ ở
Tàu, các ông Khúc Hạo,
Khúc Thừa Mỹ sang Dương Diên Nghệ rồi Ngô Quyền
chuyển biến nó lên đến
đời sau của vua Đinh, cái sức ấy mới vô cùng
mãnh liệt. Ngọn cờ Bông
Lau là biểu hiện của dân chúng toàn thể,
là tinh thần của cái sức Vạn
Thắng tên Hoa Lư (bông hoa lau) được lấy đặt cho kinh
đô nước Đại Cồ
Việt cũng là để kỷ niệm cái tinh thần toàn
dân cùng nổi dậy theo cởi mở
gông xích cho Việt.
Nhưng công cuộc
cách mạng Vạn Thắng còn đủ cho ta thấy những đặc điểm về
đời tái sinh cải tạo ấy.
a. Về văn
hóa: Đạo Phật
chiếm độc tôn, trên chữ Nho dùng chữ Nôm.
b. Về quân sự:
Sau việc tiêu diệt sứ quân, quân lính hầu hết
là dân quân đều tập trung
vào quyền chỉ huy của tối cao nguyên soái, thập đại
tướng quân Lê Hoàn
nên việc quốc phòng rất chuyên (chuẩn bị).
c. Về chế độ xã hội: Nước hoàn
toàn độc lập, tuy nhà vua có lập lối Phong Điền,
nhưng theo lối Lạc Chế quân điền vẫn
thực hiện.
Tóm lại: Kiến thiết rất chuẩn bị, nhất là kinh
đô lại đóng ở Hoa Lư có đủ thiên hiểm để đối
nội và đối ngoại.
Sau
đời Đinh nhà tiền Lê (Lê Hoàn) lên thay
có theo chế độ trước, nhưng Lê
Hoàn tuy là quân nhân, lại là giới Nho
học, nên có hơi thiên về Nho, vả
lúc ấy, đối ngoại vừa Tàu vừa Chiêm Thành
đều phải dùng vũ lực nên
không cải tạo được bao nhiêu.
Đến đời sau
là Ngọa Triều, chính thể lại thối nát, không
tiến được bước nào, cũng
như việc kiến thiết cũng thế, nhưng cùng là một thời kỳ
quá độ để chuẩn
bị cho nhà Lý về sau. Lê Ngọa Triều chết, Lý
Công Uẩn là Thập Đạo Tướng
Quân lên làm vua, từ đây việc kiến
thiết bắt đầu nảy nở, kinh đô
từ Hoa Lư dời ra Thăng Long, rộng rãi hơn, vua nhà
Lý đã xây đắp được
nhiều việc đáng ghi.
Từ
khi chế độ phong kiến bị đổ, chế độ quân điền lại áp dụng
cho toàn dân,
văn hóa tuy sùng Phật nhưng lại chú trọng về Nho
có sức ứng dụng vào
việc kiến thiết nhiều hơn, quân đội chú trọng về dân
binh, lấy nông dân
làm binh chia ra từng khu huấn luyện để dân có thể
làm lính, chính trị
lấy triều đình hợp với quốc dân, vua thường đến từng
làng ăn họp và hỏi
ý kiến dân. Về đối ngoại, nhà Lý thừa dịp
nhà Tống có cuộc chi a
rẽ tân cựu đảng, sai Lý Thường Kiệt mang quân sang
uy hiếp hai châu
Khâm Liêm để làm tan sách lược của Tàu
định lăm le mưu xâm chiếm. Công cuộc
này đã gây một thời kỳ quá độ cho nhà
Trần về sau chống Mông Cổ.
Hết Lý, Trần
lên. Cuối Lý sự xa hoa của triều
đình không vừa lòng dân và vì
vua đã tỏ ra chuyên chế độc đoán.
Nhà Trần lên thấy ý dân đã cao,
có quan niệm mạnh mẽ về quốc gia mới
nhân đấy lấy vua làm quốc gia, chế độ phong kiến trang
điền bỏ hẳn,
chính nhà vua ở Tức Mạc cũng không có
gì, mở rộng trường dạy văn và võ,
cấm ngặt uống rượu và đánh bạc, Nho và Phật đồng
thời thịnh hành và
khuyến khích, vua già thoái vị làm cố vấn
(Thái Thượng Hoàng) và đi tu
(tránh nạn vua ít tuổi và non nớt). Quốc sử bắt
đầu chép lấy gốc từ
Triệu Đà dựng ra Nam Việt, dùng chữ Nho để phổ
thông văn hóa, nhờ có sự
cải tạo văn hóa ấy mới chống được Mông Cổ, một sức mạnh
qua thế giới
lúc bấy giờ.
Trần
suy,
Hồ
Quý
Ly
cướp ngôi, lúc ấy ý thức kiến
thiết Trần đã cằn và trái thời không hợp với
quốc dân.
Quý Ly có tài nhưng không thành
nên việc xã hội không làm nổi trừ đạo
Phật, cải lương Nho, mở bờ cõi thiên đô về Thanh
Hóa, rút cục gây nội l
oạn, nhà Minh thừa cơ hội tràn sang, vì vậy
mà mất nước. Xét sự mất
nước này, tuy bấy giờ Hán mới đem binh sang đánh
chiếm, nhưng thực ra
từ đời Trần Nhân Tôn trở đi, nước nhà đã
quá thiên về Nho học, kinh tế
phần nhiều dùng toàn đồ Tàu. Nghệ
thuật
như
văn
chương
ca xướng cũng đã bị Tàu hóa
thì sự mất nước chẳng phải đời Hồ mà từ trước lúc
ấy.
20
năm Minh chiếm cứ, dân bị bắt buộc theo Tàu, phải mặc
áo Minh, sách vở
phải bị tịch thu đem về Tàu đốt đi, bắt dân phải
tìm ngọc trai, săn voi
trên rừng để cống hiến mọi thứ thật là đau khổ.
Nhưng
có sự đè nén thì sự quật cường càng
cao, vì vậy mà có cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn của vua Lê Thái Tổ bật lên, hơn 10 năm chống
đánh bằng toàn lực
hăng hái, khiến quân Minh phải bỏ đất Việt kéo
quân về nước. Cuộc cách mạng Lam Sơn
đã thành công bằng đủ mưu mẹo khôn
khéo của vua Lê. Trong 10 năm
nhà Minh đã hà hiếp bóc lột, dân ta
bị hao mòn cả vật chất lẫn tinh thần.
Cách mạng xuất phát được không phải là dễ,
nhưng vua Lê đã khéo léo lợi
dụng ngoại giao với Chàm và Lào làm hậu
địa, lại khéo léo biết dùng các
cách đánh chiến thuật nên quân Minh dù
mạnh cũng không chống lại được,
vì họ chỉ có quân đội sang đông, thành
trì bền vững, nhưng vua Lê có
toàn thể dân chúng ủng hộ.
Vua
Lê lên làm vua lúc ấy như trong cái
nhà sụp đổ, nên việc chỉ là sửa
soạn, đối nội còn vướng dòng dõi nhà Trần
cùng trăm người ủng hộ, nên
đối ngoại cũng là một việc gian nan về ngoại giao, về
phía quốc dân thì
tinh thần đã lên cao, sự cải tạo những chế độ cũ là
cần thiết, nhưng mà
vua Lê Thái Tổ không đủ sức làm thỏa
mãn lòng dân, vì vậy mới có việc
loạn của Nghê dân và việc giết công thần. Đến
đời Lê Thánh Tôn, sự kiến
thiết mới quy định và thực hiện, các làng được tự
trị (theo Lạc Chế),
ruộng đất cùng chia đều (công điền) nhưng cũng cho những
người có tiền
tậu để làm tư sản, chính trị vừa phân quyền
(làng) vừa trung ương tập
quyền (triều đình), pháp luật làm mới lại
và rất rộng rãi kỹ lưỡng,
giáo dục mở rộng (24 điều giáo hóa ra khắp
dân chúng). Quân lệnh cũng
quy định lại và gia tăng thêm, củng cố quốc phòng,
đất đai khai khẩn thêm, đê điều
đắp lại kiên cố, các nghề nhất là nghề thuốc nam
được khuyến khích.
Một
việc đáng ghi nhất là việc làm lại quốc sử lấy gốc
từ đời Hồng Bàng, có
lẽ đo là do các kết quả kê cứu từ đời nhà
Trần đã tìm ra được những gốc
gác xưa mà vì thế quân Minh mới cho thu hết
các sách vở của ta đem về
làm lăng chăng? Sau đời Lê Thánh Tôn
ít lâu, các vua kế nghiệp không đủ
sức thực hiện các chế độ trước, các chế độ ấy đã
gây ra một sự thể mới
trong dân chúng, rồi Mạc Đăng Dung cướp ngôi, Nguyễn
Kim, Trịnh Kiểm
phù Lê diệt Mạc, nước nhà chia làm hai phe
tranh giành. Khi Mạc tan,
Nguyễn–Trịnh lại đánh nhau gây ra cái thế một vua
hai chúa nội loạn
luôn luôn kế tiếp, sự thống khổ ấy đã luôn
luôn hun đúc trong lòng
người dân Việt một ý thức dân tộc thống nhất.
Vì vậy mà nhà Tây Sơn,
mấy anh em nông dân xuất hiện ra, người trội nhất là
vua Quang Trung đã
thừa cơ hội, trước sau đánh bại cả hai phe chúa, rồi
thống nhất cả
nước. Nhờ có sự thống nhất và lòng dân ủng
hộ mãnh liệt (vì họ đã thỏa
mãn) nên vua Quang Trung mới đủ sức phá cái
mưu xâm lăng của Mãn Thanh,
đánh cho quân của Tôn Sĩ Nghị thua liểng xiểng
không còn một mảnh giáp
mà rút về Tàu, nhưng rồi nhà Tây Sơn
cũng thất bại. Sự thất bại này do
hai nguyên nhân:
a. Tuy
Tây Sơn khi đã thống nhất lại muốn xây dựng quốc gia
theo lối quý tộc
của các vua chúa trước, trái với ý thức
dân tộc thời bấy giờ.
b.
Làn sóng Âu Châu đã tràn sang
mạnh mẽ, người đón được làn sóng ấy và
chiều theo nó là phe cừu địch của Tây Sơn, tức
là Nguyễn Ánh, dòng dõi
chúa Nguyễn có nhiều âm đức với dân
phía Nam nước Việt từ Quảng Bình
đến Cà Mau.
2.4. Dân Hóa Kỳ
Theo
thời kỳ này có thể bắt đầu từ khi Gia Long nhờ quân
Pháp (do cố đạo Bá
Đa Lộc) làm môi giới để dứt nhà Tây Sơn
mà thống nhất cả nước.
Như trên đã nói, sở dĩ vua Gia Long xây dựng
được cơ nghiệp tuy có nhờ
ở sự võ trang của người Pháp và Tây Ban Nha
nhưng ở trong lại có bọn
quý tộc và sức dân chúng lúc ấy
phân tán sự phản đối của Tây Sơn và
phần nào bọn quý tộc chịu
ảnh hưởng của
văn hóa Tàu giữ đỡ nên vua Gia Long lên
ngôi rồi thì từ pháp luật cho
đến việc học đều chịu ảnh hưởng Tàu rất nhiều, tuy đến đời Minh
Mạng
cũng có ý muốn gây một văn hóa riêng
của nước nhà như việc bắt phụ nữ
Bắc Việt mặc quần không được mặc váy, như câu ca dao:
* - Tháng tám
có chiếu vua ra,
* - Cấm quần không đáy người ta
hãi hùng.
* - Không đi thì chợ không
đông
* - Đi
thời phải lột quần chồng sao đang.
Những
ảnh hưởng của Tây Sơn rất mạnh, thêm vào đó
ảnh hưởng của Thiên Chúa
Giáo dồn dập đến cũng không kém phần mãnh
liệt, vì vậy kiến thiết thời
ấy có ba phái:
1.
Thiên về Hán học (bọn quan liêu quý tộc).
2.
Thiên về chữ Nôm (bọn học giả đi sát dân
chúng hay bị ảnh hưởng).
3.
Thiên về Tây học (theo đạo
Thiên Chúa).
Văn
hóa bị ba trào lưu giao động nên việc kiến thiết
rất là tròng trành
không vững đến đời Thiệu Trị trở đi, thế lực phía
Tây (theo đạo) lại
mạnh mẽ và thế lực phía theo Hán (triều
đình quan liêu) cũng mạnh trở
thành xung đột (giết đạo) dân chúng là vật ở
giữa bị lợi dụng đã tranh
giành, gây ra nạn mất nước từ cuối đời Tự Đức.
Trước
cái nạn mất nước ấy phái duy tân cải cách
nổi dậy, có cố đạo ủng hộ
(Nguyễn Trường Tộ) nhưng phái thủ cựu (bảo thủ) văn hóa
Tàu phản đối
nên phái trên thất bại rồi Pháp dùng
vũ lực can thiệp chiếm nước, sĩ
phu (quan lại và học trò) đứn g lên chống lại tức
là Đảng Cần Vương,
nhưng việc thất bại, nhà vua xin hàng, sĩ phu bèn
lập ra Văn Thân để
chống. Khi Văn Thân thất bại, phái
Duy Tân đổi mới lại quật dậy và đại biểu là Phan
Sào Nam.
Việc
nổi
dậy
của
phái
Duy Tân ta có thể chia ra
làm 3 thời kỳ:
1. Từ 1900 đến 1918.
2. Từ 1919 đến 1939.
3. Từ 1940 đến 1950 và tiếp đến 1951-2000.
Về
thời kỳ thứ I vừa vận động văn hóa dung hòa cả Á
lẫn Âu ở trong nước để
thức tỉnh dân chúng cùng giác ngộ mưu việc
cải tạo xã hội và chống xâm
lăng, vừa tìm ngoại viện ở các nước mạnh ở Á
Đông để giúp sức cho mà khôi phục lại đất nước. Phong
trào cắt tóc ở Nam, Đông Kinh Nghĩa Thục ở Bắc,
v.v... là
vận động văn hóa. Việc Đông Du (Nhật), Bắc du (Tàu)
là cầu viện, v.v...
còn trong nước thì nào là việc Đề
Thám chiếm cứ Yên Thế, việc Đội Cẩn
lấy Thái Nguyên, vua Duy Tân chống Pháp đều
là những việc gây ra do sự
phản tỉnh của dân chúng theo cái ý thức
“cứu quốc tồn chủng” của cụ Phan Bội Châu đề ra trước.
Đến
thời
kỳ
thứ
II
là sau thời kỳ Thế Chiến Thứ Nhất 1914-1918,
lúc ấy bộ mặt thực dân của đế quốc đã rõ rệt.
Sự ỷ lại vào người ngoài bất cứ v ề văn hóa hay về
vũ lực đều không có
ý nghĩa gì, nên từ đấy trong việc cách mạng
luôn luôn kháng ngoại
(địch), dân tộc đi sang một giai đoạn khác. Vì vậy
mà có sự thành lập
các đảng phái chính trị xu hướng khác nhau,
bọn thân Pháp thì níu lấy
chủ nghĩa Pháp Việt đề huề là lý thuyết của một
tên Việt gian viết ra
rồi đổ ẩu cho cụ Phan Bội Châu là tác giả mà
cụ thì không thèm cải
chính, phái thân Tàu thì lấy Tam
Dân chủ nghĩa của Tôn Văn làm lập
trường, phái thân Nga thì chủ trương thuyết Cộng
Sản, phái trung lập
thì bất cứ chủ nghĩa nào, miễn là đuổi Pháp
ra khỏi nước là được và bất
kể là Đảng nào họ cũng tán thành và
họ chiếm đa số, nhưng (tiền của)
phần nhiều dùng trong văn chương lỗi thời.
Phái
thân
Pháp
cũng
có
hai phái, một phe
chân chính như cụ Phan Chu Trinh,
một phe gian tà mưu lợi riêng như Phạm Quỳnh, Bùi
Quang Chiêu, còn một
phe thứ ba thì nửa thật nửa là lợi dụng tức là phe
Tam Điểm France
Marcommerue Margennene. Phái thân Tàu như Quốc
Dân Đảng, phái thân Nga
trước là Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội,
sau là Cộng Sản Đảng. Phái
trung lập như Tân Việt Đảng do Lê Văn Huân lập ra từ
1925 ở Nghệ Tĩnh,
v.v...
Sau khi
mấy đảng phái này bị đàn áp tan rã,
thời cuộc thế giới mỗi ngày một
khẩn trương, cuộc chiến tranh của toàn quốc tất phải phát
xuất, các
đảng phái lại ngấm ngầm nhỏm dậy từ năm 1936 trở đi. Các
đảng phái có
ba xu hướng, xu hướng Nhật vì Nhật gần hơn và có
thể lợi dụng để đánh
đuổi kẻ thù chung là
Pháp, một số nữa có
liên lạc với Cộng Sản và Đồng Minh, quân quốc gia
có khuynh hướng Đồng
Minh. Nga Tàu gây thành một thế ganh đua chia rẽ
thù nhau, tuy vậy
trong sự ganh đua chia rẽ ấy gây thành một cuộc liên
minh thống nhất
các đảng cùng chung một xu hướng Cộng Sản thân Nga,
Quốc Gia thân Tàu
và một phái quốc gia thân Nhật. Ba phái
trên, phái thân Nhật thì hiện
nay Nhật thất bại đã mất lập trường. Còn
hai
phái
Cộng
Sản
Quốc
Gia đương công khai phát động, nhưng ta phải
xem chủ
trương hai phái ấy có hợp với nguyện vọng của dân
chúng và đúng với
lịch sử quá khứ và hiện tại không? Lịch sử
ta trên một vạn năm
nay là một cái dây đấu tranh truyền kiếp,
không phải mới gần đây mấy
chục năm bị Pháp thuộc, các cuộc cách mạng ấy đều
lấy dân tộc làm tất
yếu, và muốn đạt được thành công, văn hóa
lại là một điều tất yếu hơn
nữa, nếu chỉ vận động cho dân tộc g iải phóng mà
không có văn hóa chắc
chắn thích hợp làm xu hướng cho dân tộc (nghĩa
là phải có một nền triết
học mới, nghĩa là chủ nghĩa mới, v.v...) thì dù
có thành công cũng chỉ
là tạm bợ mà thôi. Văn hóa của dân tộc
căn cứ vào lịch sử, cái quá vãng
của l ịch sử có lâu dài thì cái tương
lai của dân tộc sau cuộc vận động
mới được vững bền, như lời nhà nữ văn sĩ Starel về thế kỷ 19
viết rằng: “trong bất cứ một phong
trào
thời đại nào,
người ta phải ngoảnh lại cái quá khứ sâu xa bao
nhiêu thì cái công lực
phát triển ra tương lai của cái phong trào ấy cũng
được dài bấy nhiêu ”. Bởi
vậy chủ trương của chúng ta là ngoảnh lại cái
quá khứ một vạn năm của
lịch sử để đặt định một tương lai xa rộng vô cùng cho
dân tộc.
Nên thời kỳ
quyết định của dân tộc Việt là bắt đầu từ đây, nghĩa
là từ năm 1939 đến 1950 cho đến 2000.
Chúng
ta phải dựa vào vết đi của lịch sử mà đặt định một đường
lối cho tương
lai, nhưng không xa lìa lịch sử của nhân loại
và dân tộc, trái thế
chẳng những là vong bản mà sẽ còn bị tiêu
diệt trực tiếp hay gián tiếp.