Năm
Thứ
4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.com
www.vietnamvanhien.info
Việt Võ
Đạo
Lịch
Sử Võ Ta
Chưởng Môn
Lê Sáng
Các Thời Kỳ Võ Học Và Đặc Tính
Dẫn
Nhập
Lịch sử một nước, được phát triển do nhiều
động cơ quyết định: địa thế, ý chí, tài nguyên và kinh
tế, khả năng và truyền thống lãnh đạo quốc gia, văn hóa,
võ học...
Trong các động cơ này, động cơ võ học thường được
coi như động cơ quyết định cho sự tồn tại của một quốc
gia, nhất là đối với những quốc gia phải thường xuyên
tranh đấu để tồn tại. Thời trung cổ, Carthage là một đô
thị phồn thịnh nhờ thương mại, nhưng bị La Mã thanh
toán, chỉ vì động cơ võ học yếu kém. Chiêm Thành, Chân
Lạp, Bồn Man tuy có những khả năng kinh tế và địa thế
tốt không kém Việt Nam, nhưng lần hồi bị tiêu diệt cũng
trong những trường hợp tương tự.
Do đó, nhìn vào địa thế của Việt Nam trước, các quốc
gia lân bang thường xuyên có sự tranh chấp với Việt Nam,
chúng ta thấy ngay nhu cầu tranh đấu để tồn tại bao giờ
cũng được xếp hàng đầu, để hình thành và kiện toàn một
nền võ học dân tộc. Đặc biệt nhu cầu tranh đấu để tồn
tại của chúng ta không phải chỉ giới hạn võ học trong vị
thế tự vệ, mà còn mở rộng ra những lãnh vực Bắc phạt
(thời Lý, Lý Thường Kiệt, Tôn Đản đánh 3 châu Khâm, Ung
và Liêm), Nam tiến (với Chiêm Thành, Bồn Man, Chân Lạp)
và Tây tiến (Lão Qua).
Xác định giá trị của nhu cầu tranh đấu để tồn tại
của dân tộc Việt Nam rồi, chúng ta cũng cần xác định
thêm định nghĩa về võ học trong phạm trù Lược Sử Võ Học
Việt Nam.
Tựu trung, có 3 loại định nghĩa về võ học, tùy theo
từng trường hợp:
Trước hết, võ học được hiểu theo nghĩa thuần túy
nhất tức "kỹ thuật đấu tranh bằng sức".
Kế đó, võ học được hiểu theo nghĩa đấu tranh, tức
tất cả những gì không phải là văn đều là võ, như lối
diễn ý của cổ nhân trong thành ngữ "văn võ kiêm toàn" để
trở thành những nhân tài lý tưởng đương thời: phi ngựa
giỏi cũng là võ, chạy nhanh cũng là võ...
Cuối cùng, võ học hiểu theo nghĩa binh gia và có giá
trị tương tự như quân sự học. Ví dụ: khi nói đến "võ
tướng" là "tướng quân sự", "võ nghiệp của một danh
tướng" tức sự nghiệp binh gia của một vị võ tướng...
Chúng ta sẽ tìm hiểu lược sử võ học Việt Nam với cả
3 định nghĩa trên, tuần tự từ các thời đại võ học và đặc
tính, tiến trình thí võ qua các thời đại võ học và võ
học Việt Nam hiện đại.
Các Thời Đại Võ Học Và Đặc Tính
10 thời kỳ võ học được quy định và phân biệt
theo các biến cố lớn của quốc gia:
Thời huyền sử: chế độ thị tộc (2879-111 tr. CN.)
Thời Bắc thuộc (111 tr. CN. - 906) Thời kỳ thành lập
quốc gia: Ngô, Đinh, Tiền Lê (906-1009) Thời kỳ hoàn bị
quốc gia: Lý, Trần (1010-1341) Thời kỳ trung suy: Trần
mạt, Hồ, Minh thuộc (1341-1427) Thời kỳ phục hưng: Hậu
Lê, Mạc (1427-1540) Thời kỳ phân ly: Lê-Mạt,
Trịnh-Nguyễn, Tiền Nguyễn (1540-1802) Thời kỳ thống
nhất: Hậu Nguyễn (1802-1883) Thời kỳ Pháp thuộc
(1883-1945) Thời kỳ hiện kim (1945 tới nay)
I. Võ Học Thời Huyền Sử: Chế độ thị tộc
(2879-111 tr. CN.)
Võ học thời huyền sử, vì không có sử sách biên niên,
nên chỉ có thể căn cứ vào huyền thoại và những hình vẽ
trên đá, những cổ vật đào thấy tại Đông Sơn (Thanh Hóa)
và Chapa (Lào Cai).
Tựu trung, võ học trong thời kỳ này có những đặc
tính nổi bật:
A. Đặc tính 1: Văn võ song hành:
Đặc tính văn võ song hành được biểu lộ
ngay từ tổ chức xã hội hội : Lạc Long Quân, Âu Cơ không
những là những nhà tổ chức giỏi, còn là những nhà lãnh
đạo đấu tranh thiên tài với cả người, vật và thiên
nhiên, khi lập quốc.
Về tổ chức xã hội, ngoài nhà vua là một bậc văn võ
song toàn, các chức quan cũng được phân biệt thành 2
ngành văn, võ song hành với nhau, là các chức quan Lạc
hầu và Lạc tướng.
B. Đặc tính 2: Biết sử dụng vũ khí và kỹ thuật dụng
võ:
Qua những sử liệu, chứng tích lịch sử như trống đồng
Ngọc Lũ và các vũ khí đào được, chúng ta có thể ước đoán
về các loại vũ khí được sử dụng và kỹ thuật dụng võ
trong thời huyển sử như sau:
Búa rìu: xuất hiện trên trống đồng Ngọc Lũ với thế
nhảy múa và biểu diễn. Ước đoán: có thể đi tới cân pháp
, tức phép đánh búa rìu.
Dao ngắn: qua những di tích đào được bằng đá và bằng
đồng. Ước đoán: có thể đi tới đoản đao pháp (phép đánh
dao ngắn)
Lao, dáo: qua những hình vẽ cổ : mới đầu, chỉ là võ
khí dài, hoặc bằng tre, hoặc bằng một thứ cây cứng, nhỏ,
có đầu nhọn, để dùng vào việc săn bắn và đánh cá. Sau,
được lắp thêm một bộ phận đá mài, đồng hay sắt, vừa sắc
vừa nhọn, có thể phóng đi hay đánh sáp chiến. Ước đoán:
có thể đi tới Thương pháp (phép đánh giáo, thương) và
mâu pháp (phép đánh mâu)
Cung, nỏ, tên: qua các hình vẽ cổ và truyền thuyết
"nỏ thần" của An Dương Vương: cung, nỏ, tên được điều
dụng với cả thế bắn. Ước đoán: người huyền sử đã biết
khai dụng lối đánh viễn chiến (đánh xa) và tiễn pháp
(phép dùng tên) và viễn xạ pháp (phép bắn xa).
Gươm: qua các truyền thuyết về Lạc Long Quân đánh
Ngư Tinh bằng "khối sắc đỏ" và dùng "gươm sắt", chém đầu
đối thủ; truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương dùng "gươm
sắt", "ngựa sắt" đuổi giặc Ân; truyền thuyết An Dương
Vương dùng "gươm" chém Mỵ Châu ngồi sau lưng ngựa...
Gươm, được chế biến từ dao ngắn đã nâng cao kỹ thuật cận
chiến của người huyền sử. Ước đoán: có thể rút tỉa kinh
nghiệm từ đòn, thế, miếng mà lập ra "kiếm pháp" (phép
đánh gươm).
Thuyền: qua các hình vẽ cổ, là một phương tiện
chuyển vận và tiếp tế bằng đường thủy và hàng hải, rất
tiện dụng trong những trường hợp thủy chiến. Ước đoán:
người huyền sử đã biết xử dụng thuyền làm một phương
tiện khai thác thiên nhiên và thủy chiến, có thể kết hợp
thành "thủy chiến pháp", ứng dụng trong các giai đoạn
lịch sử nghiêm trọng.
Ngựa: qua các hình vẽ cổ, là một phương tiện chuyển
vận bằng đường bộ nhanh chóng và hữu hiệu nhất đương
thời. Ước đoán: sự biết xử dụng và khai thác khả năng
chuyên chở và tốc hành là động cơ chính cho những hoạt
động giang hồ hành hiệp, rồi đi tới "thiết kỵ chiến
pháp", "mã chiến pháp", và "xa mã chiến pháp", mở đầu
cho hàng loạt những kỹ thuật xử dụng võ học và áp dụng
binh pháp.
C. Đặc tính 3: Biết đưa võ học vào binh pháp:
Vì thiếu sử liệu chính xác, nên chúng ta chỉ có thể
ước đoán qua những truyền thuyết:
Cuộc chiến tranh giữa An Dương Vương và Lạc Vương
(Hùng Vương): Hùng Vương thắng nhiều cho nên kiêu, cuối
cùng thua về tay An Dương Vương nhờ mưu lược.
Cuộc xâm lăng của Triệu Đà bằng "giao hảo kế": An
Dương Vương tuy có "nỏ thần" và hệ thống kiến trúc tinh
vi của thành Cổ Loa, rút cuộc vẫn thua vì mắc mưu "lông
ngỗng đưa đường" của Trọng Thủy. Những trận chống Tần,
giết tướng Đồ Thư: đưa võ học lần lần vào binh pháp.
Tóm lại, võ học trong thời huyền sử đã đi từ đơn đấu
đến quần đấu, rồi thâm nhập vào binh pháp. Hiện tượng
này khởi đầu bằng những cuộc giao đấu cá nhân (như
trường hợp Lạc Long Quân đánh Ngư Tinh, Sơn Tinh đấu với
Thủy Tinh) chuyển sang trường hợp "nhất hổ địch quần hồ"
theo lối Phù Đổng Thiên Vương phá giặc Ân, rồi mới tới
trình độ đưa võ học vào binh pháp như các trận đánh An
Dương Vương-Hùng Vương thứ 18...
II. Võ Học Thời Bắc Thuộc
(111 tr. CN. - 906)
Sự nô thuộc vào người Tàu là một cơ hội un đúc tinh
thần bất khuất và khả năng võ học của người Việt đương
thời, làm phát triển cả 3 ngành võ học: võ thuật, kỹ
thuật đấu tranh, binh pháp và quân sự học.
Trong thời kỳ này, 2 phát kiến mới được hình thành:
Xu hướng hâm mộ anh hùng của quần chúng: quần chúng
bị áp bức, thường có xu hướng hâm mộ những vị anh hùng
đã giải thoát họ, như những vị hiệp sĩ, nữ kiệt và võ
dũng, mở đầu cho sự kết hợp những lực lượng chống ngoại
xâm. Nhân vật điển hình trong thời kỳ này đều là những
bậc võ dũng và có tài lãnh đạo quần chúng, như Triệu
Quang Phục, Trưng Nữ Vương, Triệu Trinh Nương, Lý Nam
Đế, Mai Hắc Đế, Bố Cái Đại Vương...
Xu hướng phát triển chiến pháp kỳ tập (du kích
chiến) và chiến pháp "dĩ nhược thắng cường, dĩ đoản
thắng trường" (lấy yếu chống mạnh, lấy ngắn chống dài)
do các lực lượng nghĩa binh được kết hợp để chống quan
quân nhà Hán. Triệu Quang Phục, người rút quân về Bãi
Sậy (Hưng Yên) chống quân Hán được coi như vị thủy tổ du
kích chiến của Việt Nam.
III. Thời Kỳ Thành Lập
Quốc Gia (906-1009)
Thời kỳ này bắt đầu từ họ Khúc dấy nghiệp tới chấm
dứt nhà Tiền Lê.
Điểm đặt biệt nhất trong thời kỳ này là, võ học đã
thâm nhập hẳn vào binh pháp và trở thành một yếu tố
quyết định trong sự thành lập và duy trì sự thành lập
của quốc gia.
Tinh thần thành lập quốc gia được phôi thai từ họ
Khúc, được thử thách quyết định bằng trận Bạch Đằng
Giang năm 931 của Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán, và với
nguy cơ sụp đổ vì nạn "Thập Nhị Sứ Quân" được Đinh Bộ
Lĩnh dẹp tan và thống nhất lại quốc gia.
Võ học hội nhập vào binh pháp trong thời kỳ này đã
được nâng cao và phát triển mạnh mẽ về phương diện:
Thủy chiến (thời Ngô Quyền) Bộ chiến (thời Đinh Bộ
Lĩnh) Lâm chiến (thời Đinh Bộ Lĩnh-Lê Hoàn) Kỵ thuật
phối hợp tác chiến thủy bộ (Ngô Quyền-Đinh Bộ Lĩnh) Tổ
chức quân đội (thời Đinh: mỗi "Đạo" quân gồm 100.000
binh sĩ. Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn chỉ huy 10 "Đạo",
là 1 triệu quân)
IV. Võ Học
Trong Thời Kỳ Hoàn Bị Quốc Gia (1010-1341)
Thời kỳ
hoàn bị quốc gia bao gồm 2 triều đại Lý-Trần, đã phát
huy võ học không những vào mọi tầng lớp xã hội, mà còn
phát huy cả ý thức dụng võ bằng tinh thần Phật giáo đời
Lý và tinh thần Tam giáo đời trần, vào cả những công
cuộc chống xâm lăng, bình định nội loạn, khẩn hoang lập
ấp, và mở rộng lãnh thổ.
Ý thức dụng võ nâng cao thành tinh thần thượng võ
được khuyến khích triệt để trong mọi tầng lớp xã hội
bằng các sự việc:
Tại kinh đô, có Giảng Võ Đường thành lập song hành
với Quốc Học Viện, để đào tạo những nhân tài "văn võ
kiêm toàn".
Công chúa, phi tần, công tử, văn quan, thứ dân đều
phải cưỡng bách học võ (múa gươm, cưỡi ngựa).
Mỗi vị võ dũng hữu trách đều phải chiêu mộ dân chúng
khẩn hoang lập ấp.
Binh pháp Lý Thường Kiệt chủ về công, binh pháp Trần
Hưng Đạo chủ về tự vệ, được phát huy rộng rãi, làm nền
tảng cho binh pháp học Việt Nam. Các chiến công lừng lẫy
của Lý Thường Kiệt và Trần Hưng Đạo đã làm các nước lân
bang kính nể, tạo được một thời kỳ ổn định, kiến thiết
và phát triển lâu dài.
Tinh thần Tam Giáo đã được hội nhập vào võ học, để
làm nền tảng khởi thủy cho tinh thần võ đạo Việt Nam
(được gọi là tinh thần tiền võ đạo). Việt Nam đã khởi
phát những chương trình Tây tiến và Nam tiến để mở rộng
lãnh thổ, chinh phục các quốc gia Lão Qua, Chiêm Thành
và Bồn Man.
V. Võ Học Trong Thời Kỳ
Trung Suy (1341-1427)
Thời kỳ này bắt đầu từ Trần mạt lúc chấm dứt Minh
thuộc vào năm 1427.
Trong thời kỳ này, mặc dầu vận nước suy đồi, võ học
vẫn tiếp tục phát triển với ý chí phục thù nhà, đền nợ
nước, tranh thủ độc lập cho dân tộc.
Điểm đặc biệt cần ghi nhận trong thời kỳ này là, sự
phát triển mạnh của võ học và hội nhập võ học vào binh
pháp, ý thức dụng võ cao độ phát triển với ý thức vững
mạnh, đã rút ngăn hẳn thời Minh thuộc, dù luôn, dù luôn
luôn bị đàn áp khốc liệt và vô nhân đạo chưa từng thấy
trong lịch sử (giết hàng loạt, rút ruột người treo lên
cây, tập trung xác chết và xương thành núi để khủng bố
và làm tê liệt ý chí đề kháng...). Cụ thể hóa là mặc dầu
xẩy ra những cuộc khởi nghĩa thất bại của Giản Định Đế
và Trần Quý Khoách với những vị liệt sĩ tuấn quốc dũng
cảm như Nguyễn Cảnh Chân, Đặng Tất, Đặng Dung... tình
thần kháng Minh cứu nước vẫn tiếp tục trường kỳ với
thành công, bằng những hoạt động huấn võ bí mật tại rừng
Lam Sơn (của Lê Lợi) và sự áp dụng binh pháp Việt Nam
truyền thống của Nguyễn Trãi, bên cạnh ý chí phục quốc
mãnh liệt của toàn quân và toàn dân đương thời.
VI. Thời Kỳ Phục Hưng
(1427-1540)
Thời kỳ này khởi đầu từ nhà Lê, và chấm dứt từ năm
1540 (Nguyễn Kim phù Lê diệt Mạc).
Thời kỳ này có 3 đặc điểm về võ học:
Võ học dân dã lần lần thay thế hẳn võ học quý tộc
trong mọi trách vụ quốc gia: trong thời kỳ Minh thuộc,
hệ thống võ học quí tộc tại các vùng thị trấn bị hoàn
toàn tiêu diệt, và quan quân nhà Minh triệt để cấm dân
chúng học võ bằng cách kiểm tra dân số, bắt đeo "hộ
thiếp", nhưng võ học dân dã vẫn phát triển, qua các tổ
chức huấn võ tại các địa điểm bí mật. Do đó, khi nắm
chánh quyền, Bình Định Vương chú trọng đặc biệt tới việc
phát triển võ học tại dân dã, bằng cách tổ chức các khoa
thi "Minh Kinh Khoa" cả văn lẫn võ để tuyển dụng nhânt
tài võ học văn văn học.
Cưỡng bách học võ: Các khoa "Minh Kinh Khoa" cũng
đặc biệt áp dụng cho cả quan văn từ hàng tứ phẩm trở
xuống, phải trúng tuyển mới được lưu dụng.
Ý thức dụng võ, tức tinh thần tiền võ đạo giảm sút:
Vì quá chú trọng tới võ học dân dã và coi nhẹ võ học quý
tộc, nên Lê triều đặc biệt chỉ chú trọng tới võ thuật
thuần túy, cuối cùng tự chuốc lấy những hậu quả trầm
trọng mở đường cho một thời kỳ phân ly lâu dài trong
Việt sử: trường hợp Mạc Đăng Dung giỏi võ, thí võ đậu Đô
lực sĩ được trọng dụng rồi âm mưu phản loạn, đã khởi đầu
từ ngay chính sách "trọng võ khinh văn" đặc biệt của Lê
triều.
VII. Võ Học
Trong Thời Kỳ Phân Ly (1540-1802)
Thời kỳ này khởi đầu từ năm Nguyễn Kim khởi nghĩa mở
đầu tình trạng phân ly Lê-Mạc, rồi Trịnh-Nguyễn, Tiền
Nguyễn (Tây Sơn) và chấm dứt vào năm 1802, khi Nguyễn
Ánh thống nhất lãnh thổ.
Võ học trong thời kỳ này có 3 đặc điểm:
Võ học quý tộc được phục hồi và phát triển song song
với võ học dân dã. Các danh tướng của các trận tuyến đối
nghịch đều xuất thân từ cả 2 hệ thống võ học trên.
Võ học dân dã đã có lúc lấn lước võ học quý tộc (nhà
Tây Sơn đuổi Nguyễn, dẹp Trịnh), với các danh tướng xuất
thân từ võ học dân dã, nhưng vì vua Quang Trung đột ngột
qua đời, nên võ học quý tộc (Gia Long), với các danh
tướng xuất thân từ võ học quý tộc, đã phục thù được và
thống nhất lãnh thổ.
VIII. Võ Học Trong Thời Kỳ Thống
Nhất (1802-1883)
Thời kỳ này khởi đầu từ khai nguyên nhà Hậu Nguyễn,
tới năn chánh thức đặt chế độ Pháp thuộc.
Võ học trong thời kỳ này có 5 đặc điểm:
Các vua chúa triều Nguyễn vì có tự ti mặc cảm với võ
học dân dã qua sự xuất hiện của Tây Sơn, nên không
khuyến khích võ học dân dã phát triển. Các chức võ quan
bị đặt dưới các chức văn quan, tạo thành một quan niệm
đặc biệt "trọng văn khinh võ".
Văn học phát triển độc lập, lần lần đưa giáo dục vào
khuôn khổ hư văn, cử tử.
Võ học suy yếu, phải dùng văn quan chỉ huy binh sĩ
(Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản...) nên thiếu khả năng đấu
tranh chống ngoại xâm khi quân Pháp tấn công.
Quan niệm "trọng văn khinh võ" đã đưa quốc gia tới
tình trạng suy sụp, mở đầu thời kỳ Pháp thuộc.
IX. Võ Học Trong Thời Kỳ
Pháp Thuộc (1883-1945)
Trong thời kỳ này, võ học bị biến thể và chìm đắm
trong chính sách ngu dân của người Pháp, đã mang 6 đặc
điểm:
Võ học bị tách khỏi quân sự học.
Võ học không còn được coi là một ngành học quan yếu
cho sự sinh tồn của quốc gia, mà chỉ còn được coi là một
ngành thể thao có tính cách giải trí.
Chính sách ngu dân (phong trào lãng mạn, rượu ty,
thuốc phiện) đã làm suy nhược tinh thần người Việt, để
làm tê liệt hay suy giảm tinh thần và khả năng đề kháng.
Sự du nhập võ học Nhật Bản (Jujitsu, Judo...) đã
kích thích tinh thần thượng võ của người Việt, đem lại
cho dân tộc Việt một nguồn hứng khởi mới.
Tự ái võ học dân tộc bùng dậy: người Việt bắt đầu
"về nguồn" võ học và hình thành một nền võ đạo Việt Nam
vào năm 1938, gọi là Vovinam Việt Võ Đạo.
Võ đạo dân tộc bừng dậy, nâng cao tinh thần ái quốc
và cứu quốc của người Việt, để chấm dứt thời Pháp thuộc
vào năm 1945.
X. Võ Học Trong Thời Kỳ
Hiện Kim (1945 tới nay)
Thời kỳ này bắt đầu từ 1945, năm cao trào tranh thủ
độc lập dân tộc bùng dậy, cho tới nay.
Võ học trong thời kỳ này mang 5 đặc điểm:
Võ học tân tiến dân tộc sau khi hình thành từ 1938
đã phát triển mạnh trong các ngành sinh hoạt xã hội,
nâng cao giá trị võ học từ một bộ môn thể thao giải trí
lên võ đạo (1968), với danh xưng Việt Võ Đạo.
Song song với Việt Võ Đạo, các môn phái võ đạo du
nhập cũng hoạt động và phát triển mạnh: Nhu Đạo từ 1946,
Không Thủ Đạo (Karatedo) từ 1954, Túc Quyền Đạo
(Taekwondo) từ 1964, gây một tinh thần hiếu võ sôi nổi
trong các tầng lớp xã hội, cùng với các môn võ khác như
Yoga, Aikido (Hiệp Khí Đạo)...
Võ học lại một lần nữa hội nhập vào binh pháp và các
hoạt động an ninh xã hội: các quân binh chủng và các lực
lượng an ninh, cán bộ đều có chương trình huấn luyện võ
thuật để thực dụng ngay vào công tác thực tế. Võ học,
nhất là Vovinam-Việt Võ Đạo, đã hội nhập vào một số
chương trình giáo dục học đường và chương trình huấn
luyện Cán Bộ Phát Triển Nông Thôn, Cán Bộ Hành Chánh...
Tinh thần võ đạo đã được biểu hiện trong nhiều ngành
sinh hoạt xã hội như cứu đói, cứu trợ nạn nhân chiến
họa, nạn nhân bão lụt, khẩn hoang lập ấp, và đặc biệt
được xử dụng trong nhiều trường hợp cận chiến trên chiến
trường Việt Nam.
Kết Luận
Vai tuồng của võ học trong lịch sử đấu tranh của dân
tộc Việt Nam là một vai tuồng thực dụng; và trong nhiều
triều đại, đã trở thành một bộ môn giáo dục căn bản của
người Việt.
Tùy theo từng chính sách giáo dục trong các thời kỳ
lịch sử, võ học có khi thăng khi trầm, nhưng vẫn luôn
luôn tạo điều kiện phát triển trong mọi hoàn cảnh lịch
sử.
Giá trị thực dụng của võ học chính là động cơ quan
yếu đã kiến tạo lịch sử: từ giao đấu cá nhân tới vận
dụng vào các kỹ thuật tranh đấu chống thiên nhiên, đối
nhân và đối vật, cuối cùng hội nhập vào binh pháp để trở
thành một phương tiện quan yếu trong mọi trường hợp tự
vệ và mở rộng lãnh thổ.
Trong các thời kỳ lịch sử, võ học đã hình thành 2
khuynh hướng rõ rệt là võ học quí tộc và võ học bình
dân, và đã có những cơ hội thi triển và đối nghịch mạnh
mẽ, nhưng rồi vẫn kết hợp lại thành bộ môn võ học dân
tộc duy nhất.
Cùng với đà tiến triển của nền võ học nhân loại, võ
học Việt Nam đã đi từ thô đến tinh, từ cá nhân tới tập
thể, và luôn luôn chứng tỏ giá trị hữu hiệu tự thân
trong mọi sứ vụ với xã hội và đất nước, và đã đạt tới sự
hình thành một nền võ đạo Việt Nam.
Võ sư chưởng môn Vovinam Lê Sáng
Tiến Trình Thí Võ và Võ Học Hiện Đại
I. Dẫn Nhập
Thông
thường, võ học của một quốc gia thường có 5 sứ vụ:
Trừ gian diệt
bạo Phò minh chúa Cứu quốc Kiến quốc Khai quốc
Trong 5 loại
sứ vụ trên, chỉ có sứ vụ trừ gian diệt bạo (dưới mọi
hình thức) là một sứ vụ hành võ tự do, thích hợp với
phong độ của những hiệp sĩ "giang hồ hành hiệp" tại
những vùng rộng lớn chưa ổn định, các cơ cấu cai trị
và luật pháp còn lỏng lẻo. Ba sứ vụ sau, đòi hỏi sự
dấn thân của người hành võ trong một khuôn khổ kỷ
luật, của quốc gia hay của một "minh chúa".
Việt Nam không
có đất đai rộng lớn và những vùng bất ổn mênh mông như
Trung Quốc và Hoa Kỳ, nên không có nhiều hiện tượng
"hiệp sĩ giang hồ" như Trung Quốc hay "anh hùng
cowboy" miền viễn tây Hoa Kỳ, mặc dầu vẫn có một số
hiệp thoại đặc biệt như Lãnh Tạo, Cố Bu, Chàng Lía
v.v... xuất hiện trong dân dã. Ngược lại, vị thế "tứ
diện thọ địch" của Việt Nam với những cuộc chiến tranh
chống xâm lăng, trừ nội loạn và mở mang bờ cõi liên
tục đã làm xuất hiện hàng ngàn vạn anh hùng chiến sử.
Rõ rệt là nhu
cầu quốc gia của chúng ta luôn luôn cần tới những anh
hùng dân tộc, hơn là những hiệp sĩ giang hồ.
Do đó, võ học
của VN là nền võ học mang nặng những sứ vụ đấu tranh
phục vụ quyền lợi chung của quốc gia, dân tộc, thay vì
chỉ phục vụ cho một gia đình, một xóm ấp, một lớp
người giới hạn trong một môi trường nhỏ hẹp. Người học
võ mặc nhiên chấp nhận truyền thống hành võ chung, nên
luôn luôn mong mỏi được có cơ hội thi thố tài năng phò
vua, giúp nước.
Muốn phò vua
giúp nước, phải khổ luyện tài năng và tìm cơ hội tiến
thân. Cơ hội tiến thân của người võ sĩ chính là các
cuộc thí võ của các triều đại lịch sử.
Tới nay, mặc
dầu các "cuộc thí võ" để tuyển dụng nhân tài võ học
thuần túy không còn giữ những khuôn thước cũ, nhưng
cũng vẫn được coi là những tiêu chuẩn thích dụng nhất
trong một số nghiệp vụ như huấn luyện võ thuật học
đường, quân đội, cán bộ, cảnh sát v.v... Tất nhiên,
tiến trình thí võ truyền thống đã được cải biến và
chuyên hóa trong thời hiện đại, nhưng không phải vì
thế mà võ học thời hiện đại bỏ qua những sứ vụ truyền
thống với dân tộc.
Trong mọi cảnh
huống và tình huống lịch sử, mặc dầu chương trình thí
võ có đổi thay, nhưng những tiêu chuẩn chính của thí
võ vẫn còn được duy trì, để xếp hạng và tuyển lựa nhân
tài võ học phục vụ trong mọi ngành sinh hoạt xã hội và
quốc gia.
II. Tiến Trình Thí Võ Qua
Các Thời Đại Võ Học
Vì nước nhỏ, lãnh thổ
hẹp, nên Việt Nam không có nhiều huyền thoại về "hiệp
sĩ giang hồ" như Trung Quốc và Nhật Bản; nhưng đổi
lại, võ học đã hội nhập nhanh chóng vào các sinh hoạt
cộng đồng - đặc biệt trong các lãnh vực phục vụ quốc
gia. Do đó, thay thế vào những hoạt động "hành hiệp
giang hồ" của từng cá nhân hay từng nhóm cá nhân rời
rạc, chúng ta có rất nhiều võ tướng phục vụ quốc gia
đắc lực. Mặt trái của sự ứng dụng những hoạt động võ
học vào các sinh hoạt cộng đồng, là tình trạng nội
loạn và giặc giã, trong đó có những kẻ cầm đầu đều là
những người võ dũng.
Tiến trình thí
võ qua các thời đại võ học, đi từ biểu dương tài nghệ
và thành tích, tới các cuộc thi trắc nghiệm rồi tới
những cuộc thí võ có qui chế rõ rệt.
A. Biểu Dương
Tài Nghệ và Thành Tích
Trước khi có
những quy chế rõ rệt về việc tuyển dụng nhân tài võ
học, sự xử dụng nhân tài võ học được ước đoán là không
ngoài sự biểu dương thành tích.
Sự biểu dương
tài nghệ thường chú trọng tới sức khỏe (vác tạ, cử
đình...), thập bát ban võ nghệ (nhất là kiếm pháp và
thương pháp), tài khéo đặc biệt (cưỡi ngựa, bơi lặn,
nhảy cao, chạy xa...)
Sự biểu dương
thành tích có thể căn cứ vào những buổi hội làng có
đấu võ và đấu vật, và các thành tích võ học đạt được ở
địa phương (như: đánh cướp, bẻ sừng trâu v.v...)
Trong những
trường hợp nhân tài tuyển dụng sẽ được điều dụng vào
những chức vụ cao, sẽ có những cuộc đàm thoại trắc
nghiệm đặc biệt về binh pháp học.
Lối tuyển dụng
nhân tài theo phương pháp trắc nghiệm gián tiếp bằng
cách đòi hỏi biểu dương tài nghệ và thành tích cá
nhân, được áp dụng cho tới năm 1253, năm thành lập
Giảng Võ Đường dưới thời Trần Thái Tông.
B. Thi Trắc
Nghiệm Võ Học
Trước khi có
những quy chế thí võ rõ rệt, nước ta đã áp dụng những
cuộc thi trắc nghiệm từ đời Trần Thái Tông.
Sở dĩ võ học
đời Trần tuy phát triển mạnh nhưng không thể có quy
chế thí võ rõ rệt vì các triều đại nhà Trần bị ảnh
hưởng mạnh bởi tư tưởng Trần Thủ Độ, người khai sinh
ra triều đại. Con người Trần Thủ Độ, nhiều ý tưởng
thiện ác đối nghịch nhau, và dôi khi pha trộn hỗn độn
tới mức khó có thể phân loại chúng: ông vừa là đại
gian thần nhà Lý, vừa là đại trung thần nhà Trần. Vừa
là một lãnh tụ phi nhân (lập mưu giết hết con cháu nhà
Lý để trừ hậu họa), vừa là một lãnh tụ vị tha (quyết
liệt chống Mông Cổ để giữ nước, cứu dân: "đầu tôi chưa
rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!"); vừa muốn tập
trung quyền lãnh đạo trong tay con cháu nhà Trần, vừa
muốn tận dụng nhân lực quốc gia để chống ngoại xâm, mở
mang bờ cõi và chiêu dân lập ấp; vừa muốn cưỡng bách
học võ cho mọi người không phân biệt đẳng cấp xã hội;
vừa muốn tập trung binh quyền trong tay con cháu nhà
Trần.
Việc thí võ
theo quy chế Giảng Võ Đường để tuyển dụng nhân tài võ
học do đó chỉ áp dụng với thường dân chứ không áp dụng
với quý tộc, mặc dầu quý tộc (vương gia) nhà Trần, từ
công chúa, phi tần tới cái văn quan đều bị cưỡng bách
học võ với các môn chính như múa gươm, cưỡi ngựa và
binh pháp, rồi được tự do tổ chức và huấn luyện những
đội quân riêng để đi khẩn hoang lập ấp, được gọi là
các đội quân "Vương gia hầu đô". Chắc chắn lối thí võ
dành riêng cho quý tộc nhà Trần chỉ là một lối thi
biểu dương tài nghệ, và có tính cách khích lệ nhiều
hơn lượng giá, phối kiểm.
C. Những Cuộc
Thí Võ Có Quy Chế Rõ Rệt
Những cuộc thí
võ có quy chế rõ rệt được áp dụng từ đời Lê Thái Tổ,
với chế độ Minh Kinh Khoa, và tùy theo chính sách võ
học của từng triều đại mà thay đổi.
Những triều
đại ấn định quy chế rõ rệt cho những cuộc thí võ, có
thể lấy 3 triều dại Lê Thái Tổ, Gia Long và Minh Mạng
làm điển hình.
1. Quy chế thí
võ thời Lê Thái Tổ
Quy chế thí võ
thời Lê Thái Tổ được ấn định ngay từ sau khi phục hưng
độc lập quốc gia, đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi.
Quy chế này
mang 3 đặc điểm:
Song song với
việc mở trường tại khắp các lộ, các phủ để dạy cả văn
lẫn võ, có tính cách cưỡng bách giáo dục cho cả con
quan và con cái thường dân, triều đình mở các khoa thi
"Minh Kinh Khoa" để chọn lọc và tuyển lựa nhân tài
trong dân dã, gồm cả các môn thi về kinh sử và võ học.
Các văn quan
từ tứ phẩm trở xuống, bị bắt buộc phải học và thi đậu
"Minh Kinh Khoa" mới được lưu dụng.
Các tăng nhân
cũng phải khảo hạch "Minh Kinh Khoa". Ai trượt, sẽ
phải hoàn tục.
Điểm đặc biệt
cần ghi nhận ở đây là, Lê Thái Tổ là một vì vua rất
trọng võ, nhất là võ học dân dã. Hơn ai hết, ông hiểu
rằng cuộc kháng Minh sở dĩ thành công, chính là nhờ ở
những tài nguyên võ học dân dã, chớ không phải là nền
võ học quý tộc đã bị ngoại xâm khống chế, và nhất là
không tùy thuộc ở những văn quan trong thời chiến.
2. Quy chế thí
võ dưới thời Gia Long
Gia Long phục
quốc được chỉ nhờ một phần nhỏ vào tài nguyên võ học
trong nước. Phần lớn cơ nghiệp của ông là do khả năng
lãnh đạo, mưu lược, sức chịu đựng, tài ngoại giao và
sự yểm trợ của ngoại quốc. Do đó, ông lượng giá rất
cao về mưu lược, và đồng thời đánh thấp khả năng võ
học được tuyển dụng, nhất là những khả năng võ học
xuất phát từ dân dã.
Tựu trung, quy
chế thí võ dưới thời Gia Long đã phản ảnh khá chính
xác quan niệm tuyển dụng nhân tài của ông, với 4 đặc
điểm:
Lập các khoa
thi võ tương tự như những khoa thi "văn" có đủ cả thi
Hương, thi Hội, thi Đình, nhưng áp dụng nguyên tắc "võ
tôn văn nhất trật", tức cùng một danh xưng, nhưng đậu
về "võ" bao giờ cũng kém đậu về "văn" một trật. Ví dụ:
đỗ "võ cử nhân" thì hàm tùng lục phẩm, còn đỗ "văn cử
nhân" thì được hàm chánh lục phẩm.
Thí võ tuy
cũng có Đình thí, nhưng không lấy Võ Trạng Nguyên, Võ
Bảng Nhỡn, Võ Thám Hoa, mà chỉ lấy "Võ Tiến Sĩ". Điều
kiện dự thí Võ Tiến Sĩ là phải tình nguyện thi 1 bài
bằng chữ nho, với chủ đề về binh pháp (binh thư đồ
trận, địa thế hành binh v.v...) Vì võ không được
khuyến khích, và những người nếu giỏi về Hán Văn
thường ít có khuynh hướng học võ vì bị bạc đãi và phải
chịu đựng nhiều cực nhọc, nguy hiểm, nên hầu như không
có ai dự thi Đình về Võ để hy vọng đậu Võ Tiến Sĩ.
Thể lệ thi võ
về Hương thí phải qua 4 trường
Cử trượng (tạ)
Bắn bia (9 mũi tên, xa 30 trượng, trúng đích cả) Quyền
thuật (đoản côn) đánh thắng 3 độ
Một kỳ chung
kết bao gồm cả 3 môn thi trên.
Thể lệ thi võ
về Hội thí có 5 kỳ, được dành cho những thí sinh đã
đậu Hương thí được gọi là Võ Cử Nhân. Các thí sinh Võ
Cử Nhân được dự thi Hội tại kinh đô, cũng phải qua 3
kỳ đầu như ở Hương thí, nhưng điều kiện thi nặng hơn:
xách nặng hơn nửa tạ trên thao trình xa hơn 10 trượng,
bắn 12/12 mũi tên trúng đích, đánh thắng 4/4 độ đoản
côn. Kỳ thứ 4 được gọi là kỳ đánh "lăn khiên" (giám
khảo cầm cây dáo quấn vải nhúng mực đâm ra, biết tránh
né không để đầu khiên có chấm mực là trúng) và kỳ cuối
cùng, bao gồm cả 4 môn trên.
3. Quy chế thí
võ dưới thời Minh Mạng
Từ thời Minh
Mạng trở đi, quy chế thí võ được ấn định làm 2 loại,
tới triều Triệu Thị, mới trù hoạch thời điểm rõ rệt
hơn: võ Hương thí được ấn định vào các năm Tý, Ngọ,
Mão, Dậu, võ Hội thí được ấn định vào các năm Thìn,
Tuất, Sửu, Mùi. Tuy nhiên, nội dung các kỳ thi có một
số môn được cải đổi hay thay đổi, để thích hợp với
trình độ quân sự mỗi ngày một thêm phát triển, với đặc
điểm như sau:
Môn giao đấu
đoản côn được thay đổi bằng màn múa côn, sang độc
diễn: múa côn nửa tạ (30kg) cầm vào khoảng 1/3, vừa đi
vừa múa, nhảy nhót, đâm đánh, né tránh, đỡ gạt theo
bài, miếng, thế, đòn đã định sẵn. Đi múa ngoài 60
trượng là ưu hạng, ngoài 50 trượng là bình hạng, ngoài
40 trượng là thứ hạng.
Môn múa sang
được bổ túc vào môn thứ 2: sang là một ngọn dáo dài 7
thước 7 tấc ta, phải cầm vào giữa để múa theo bài,
nhảy nhót độ 3,4 bước rồi nhắm người bồ nhìn ở cách xa
3 trượng thật kỹ, rồi chạy thẳng tới đâm vào giữa rốn.
Đâm trúng, xuyên qua là ưu hạng. Đâm trúng, không
xuyên qua là bình hạng. Đâm trúng chỉ sượt qua là thứ
hạng.
Môn bắn tên
được thay thế bằng môn bắn súng hiệp, 6 phát, cách 20
trượng 5 thước ta, nhắm vào bia (có vành tròn và hồng
tâm) đặt trước chiếc ụ. Nếu 2 phát trúng hồng tâm, 1
phát trúng vành tròn, 3 phát trúng ụ đất, là ưu hạng.
Nếu 1 trúng hồng tâm, 1 trúng vành tròn, 4 trúng ụ đất
là bình hạng. Nếu 2 trúng vành tròn, 4 trúng ụ đất là
thứ hạng.
Môn thi thứ tư
của Hương thí được thay đổi hẳn bằng phúc hạch về võ
kinh, để xếp hạng các tân khoa
Thi Hội cũng
có những môn như thi Hương, nhưng tạ nặng hơn (64 cân
ta), đi xa hơn (20 trượng), côn và sang nặng hơn,
người bồ nhìn xa hơn, bắn súng hiệu đứng xa hơn.
Đậu thi Hội
được vào thi Đình lấy Võ Tiến Sĩ, gọi là "Tạo sĩ", gồm
1 bài hỏi về võ kinh, 1 vài điều yếu lược trong cách
dùng binh của các danh tướng triều Nguyễn, và một vài
câu hỏi về thời sự. Không biết chữ có thể xin miễn.
Các tân khoa
"võ" được đãi ngộ ngang hàng với các tân khoa "văn",
chớ không còn chênh lệc như triều Gia Long.
Võ học Việt
Nam, qua quy chế thí võ như vậy, đã trải qua một thời
kỳ "trọng văn khinh võ" dài suốt 143 năm, qua các
chính sách giáo dục của vua chúa triều Nguyễn. Do đó,
chúng ta thấy một hiện tượng quái dị phát sinh: các vị
võ tướng giỏi, thường là những người chỉ giỏi binh
pháp chứ không giỏi (một đôi khi, không hiểu hay không
biết) về võ thuật, và những người giỏi về võ thuật lại
rất ít hiểu biết về binh pháp, chỉ vì lý do không biết
chữ (nên không có cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu). Hiện
tượng quái dị này để lại những thời tích đặc biệt
trong Việt sử: các văn quan có đức độ tốt, phẩm chất
cao, thường được giao phó cho những trách nhiệm điều
binh khiển tướng, như cụ Hoàng Diệu, xuất thân là phó
bảng, sau được bổ nhiệm Tổng Đốc và Binh Bộ Thượng
Thư, cụ Phan Thanh Giản xuất thân là phó bảng, sau
tuẫn quốc với chức vụ Kinh lược sứ. Trong khi có những
nhân tài võ học xuất sắc như Tôn Thất Hội, nổi tiếng
võ dũng suốt vùng Thừa Thiên, và thi đậu Võ Cử Nhân
thời Gia Long, vẫn không được chấp chưởng binh quyền.
Hậu quả của
quy chế thí võ thời Hậu Nguyễn, là không những võ học
Việt Nam bị đẩy lùi lại hàng chục thế kỷ, mà võ học
càng ngày càng tách rời khỏi văn học, và cuối cùng lại
tách rời ra khỏi cả binh pháp, để chỉ đào tạo được
những nhân tài "võ phu" hay "võ biền", tức những người
giỏi võ tuy đậu tới võ cử nhân và có công trạng lớn,
địa vị cao, nhưng vẫn không biết chữ (vì quy chế thí
võ không cần tới điều kiện này), khác hẳn với hệ thống
Giảng Võ Đường và Quốc Học Viện song hành thời Trần,
đã đào tạo được hàng loạt nhân tài võ học "văn võ song
toàn".
III. Võ Học Việt Nam Hiện
Đại
Thời Pháp
thuộc nối tiếp nhà Hậu Nguyễn tuy có cải tổ chính sách
giáo dục, nhưng lại hướng học chế Việt Nam sang ngành
học thư lại và chính sách văn hóa ngu dân. Võ học suốt
trong thời kỳ này (tới năm 1938) chỉ gồm một số hoạt
động võ thuật rời rạc, lẻ tẻ, dù có những xu hướng Cần
Vương Văn Thân chú trọng tới võ học trong việc chống
Pháp.
Loại võ học ra
khỏi chính sách giáo dục, người Pháp cũng đương nhiên
loại bỏ võ học ra khỏi tổ chức quân đội. Chương trình
thí võ trong quân đội đương nhiên được thay thế bằng
chương trình huấn luyện võ khí, tác xạ và kỹ thuật tác
chiến. Võ học Việt Nam trong thời kỳ này, gần như chỉ
còn được coi là một ngành thể thao có tác dụng giải
trí công cộng, rập khuôn quan niệm đơn giản về thể
thao của người Pháp.
Mãi tới cuối
thập niên 30, võ học Việt Nam mới có cơ hội bùng dậy,
sau những thất bại của những phong trào kháng Pháp và
sự học hỏi tinh thần tự cường của Nhật Bản được biểu
hiện tinh thần Nhật Võ Đạo (Bushido) và các chiến tích
võ sĩ đạo (Samurai) của họ.
Sau sự ra mắt
của môn phái Vovinam vào năm 1938 tại nhà Hát Lớn Hà
Nội, một phong trào học "Võ Tự Vệ" và "Vovinam của
người Việt Nam" được bừng dậy trong giới thanh niên -
sinh viên, học sinh, viên chức - tại Bắc Việt, khích
lệ thêm cả những dịch vụ du nhập võ học ngoại quốc vào
Việt Nam, đặc biệt là môn Nhu Thuật (JuJitsu) và võ
Thiếu Lâm. Sau 1945, Nhu Đạo (Judo) được du nhập Việt
Nam, cùng với môn Yoga (Du Già).
Tuy nhiên,
trong các môn phái võ học trên, chỉ có môn phái
Vovinam là phát triển mạnh nhất, do cao trào đấu tranh
chống Nhật - Pháp đương thời. Vụ đụng độ điển hình
nhất xẩy ra vào năm 1942, giữa 2 lớp sinh viên Việt và
Pháp tại Hà Nội, đã gây ảnh hưởng tốt đẹp trong dư
luận Hà Nội: những sinh viên Việt thấp bé, gầy yếu đã
xử dụng tay không đại thắng sinh viên Pháp cao to, vóc
dáng bên ngoài rất đường bệ. Từ đó, phong trào học "Võ
Tự Vệ" (danh xưng võ trình nhập môn của Vovinam đương
thời) và Vovinam" bùng dậy mãnh liệt tại khắp các nơi:
sân Septo, các trường trung tiểu học, trường Sư Phạm
v.v... mặc dầu tại một vài nơi, người Pháp đã quyết
liệt áp dụng những biện pháp chế tài tối đa, như cấm
học Vovinam, trong khu vực quyền hạn của họ.
Sau 18-8-45,
phong trào học Vovinam trở thành một phong trào bộc
phát tại Hà Nội, các tỉnh lỵ Bắc Việt và miền Bắc
Trung Việt. Tại Hà Nội, phong trào học Vovinam đôi khi
đã mang tính chất nồng nhiệt và quá độ, như sự xuất
hiện của các khẩu hiệu: Người Việt Nam học Võ Việt
Nam, học Vovinam để đánh Pháp tranh thủ độc lập, không
học Vovinam không phải là người yêu nước v.v...
Trong thời
gian này, phong trào học Vovinam để chống Pháp đã mở
rộng ra các vận động trường và sân Đại Học Xá Hà Nội,
với những lớp võ cộng đồng hàng ngàn người tới hàng
chục ngàn người. Trận đánh điển hình nhất là trận cận
chiến bằng dao găm và lưỡi lê, giữa một bên là Tự Vệ
Thành Hà Nội, một bên là lính Phi Châu thuộc Pháp. Tuy
nhiên, điểm đặc biệt cần ghi nhận trong thời gian này
là: môn phái Vovinam dưới sự lãnh đạo của Cố Võ Sư
Sáng Tổ Nguyễn Lộc đã cương quyết không làm chánh trị
và không hội nhập vào chánh trị, mặc dầu đã góp công
đào tạo rất nhiều cấp chỉ huy kháng chiến qua lớp huấn
luyện các cấp bộ đại đội trưởng và trung đội trưởng
dân quân du kích tại Chế Lưu Ẩm Thượng, Thanh Hương,
Đan Hà, Đan Phú v.v...; và các lớp huấn luyện võ thuật
cho bộ đội Nhà Chung Phát Diệm vào năm 1948 do ông
Trần Thiện làm Tổng Chỉ Huy.
Tới 1954, các
môn phái võ học du nhập cũng bắt đầu tạo lập được ảnh
hưởng mới tại Việt Nam, như Nhu Đạo, Không Thủ Đạo,
Yoga, và một số lò võ Thiếu Lâm độc lập, nhưng vẫn
chưa phát triển được sâu rộng trong các tầng lớp dân
chúng, vì chánh quyền đệ nhất Cộng Hòa không có ý
hướng khuyến khích phát triển võ học. Mãi tới sau cuộc
chính biến 1963, hào khí học võ mới bùng dậy, gây ảnh
hưởng mạnh mẽ trong các tầng lớp xã hội, đặc biệt
trong các giới thanh thiếu niên và sinh viên học sinh
bởi các động cơ:
Chiến tranh mở
rộng làm nổi bật giá trị thực dụng của võ học trong cả
2 trường hợp tự vệ và tấn công.
Các chánh
quyền chuyển tiếp đều mặc nhiên khuyến khích các hoạt
động võ học (khuyến khích các hoạt động thể thao, tạo
điều kiện thuận tiện cho các hoạt động võ học).
Nhu Đạo, nhờ
thế tranh đấu của Phật giáo qua các vị thượng tọa võ
sư Nhu Đạo, có điều kiện phát triển mạnh mẽ.
Túc Quyền Đạo
(Tae Kwon Do) hay Võ Đại Hàn (vẫn được gọi là Thái Cực
Đạo - vì tương tự với Karatédo của Nhật) được quân đội
Đại Hàn phổ biến mạnh mẽ tại Việt Nam, đã chứng tỏ rất
hiệu nghiệm trên các chiến trường du kích và cận
chiến.
Các môn phái
võ đạo của Nhật cũng du nhập mạnh mẽ cùng với ưu thế
thương mại của Nhật Bản: Atémi, Aikido, Karatédo,
v.v... xuất hiện tại Việt Nam với nhiều võ đường do
các võ sư Nhật, Việt điều khiển.
Môn phái
Vovinam bước sang giai đoạn quảng bá mạnh mẽ với danh
xưng Vovinam - Việt Võ Đạo, và hội nhập vào các chương
trình huấn luyện cộng đồng: quân đội, cảnh sát, cán bộ
phát triển nông thôn, cán bộ hành chánh, các trường
Đại Học và Trung Học v.v... đồng thời khởi sự quảng bá
ra ngoại quốc.
Các môn võ
Việt Nam cổ truyền cũng bừng sống lại và hoạt động khá
mạnh mẽ như: võ Bình Định, Lam Sơn Võ Đạo v.v...
Hiện nay, giá
trị thực dụng của võ học đang được ứng dụng vào cả các
lãnh vực chiến tranh và hòa bình, chắc chắn sẽ đẩy
mạnh sự trưởng triển của võ học Việt Nam và tinh thần
võ đạo Việt Nam.
V. Kết Luận
Qua các thời
kỳ lập võ và hành võ tại Việt Nam, chúng ta thấy rõ
ràng, mặc dầu tùy bối cảnh lịch sử mà phát triển mạnh
hay yếu, võ học vẫn luôn luôn là động cơ tranh đấu hữu
hiệu nhất trong cả 3 sứ vụ: cứu quốc, kiến quốc, và
khai quốc.
Trong cả 3 sứ
vụ, võ học Việt Nam đã luôn luôn đóng một vai tuồng
đặc biệt, vượt ra ngoài khuôn khổ hoạt động thể thao
như tại một số quốc gia Tây Phương: đặc biệt với Việt
Nam, võ học không phải chỉ là kỹ thuật vận dụng sức
mạnh hay kỹ thuật tranh đấu, mà còn hội nhập cả vào
quân sự học qua ngả đường binh pháp, và hội nhập với
triết học và văn học, để hình thành một hệ thống tiền
võ đạo Việt Nam và võ đạo Việt Nam.
Trong một vài
tình huống lịch sử, võ học Việt Nam có khi được tạm
thời phân lập làm 2 ngành chuyên biệt là võ học quý
tộc và võ học dân dã, nhưng cuối cùng cũng kết hợp lại
thành một ngành giáo dục chuyên nhất không phân biệt
đẳng cấp xã hội.
Trong một vài
cảnh huống lịch sử, võ học Việt Nam có khi phối kết
với văn học và triết học, có khi lại tách rời ra thành
một ngành học độc lập và hoàn toàn kỹ thuật, nhưng
cuối cùng vẫn trưởng triển trong tinh thần thượng võ
và ý thức võ đạo, quán hợp cả những tinh lý triết học
và văn học phù hợp.
Đặc biệt với
võ học Việt Nam trong hậu bán thời kỳ thống nhất, quy
chế thí võ biểu dương đầy đủ cho chính sách võ học của
triều đại đương thời. Quy chế này đã đem lại cho chúng
ta nhiều kinh nghiệm quý báu: một mặt vừa khuyến khích
võ học, mặt khác làm suy yếu giá trị võ học với quan
niệm trọng văn khinh võ, và tách biệt hẳn văn học ra
khỏi võ học (võ cử nhân không cần biết chữ). Một đặc
điểm khác là quy chế thí võ thời Nguyễn đã tỏ ra có ý
hướng nghiêng về kỹ thuật hóa và hoàn toàn lúng túng
trong vấn đề này: từ cung tên, đổi thành môn bắn súng
hiệp, một thế kỹ thuật quân sự học thuần túy. Từ căn
bản muốn hội nhập võ học vào kỹ thuật tác chiến hiện
đại, chính sách tuyển dụng nhân tài võ học đã tỏ ra
lúng túng trong việc phân biệt các ngành học, khi kỹ
thuật bắn súng hiệp đòi hỏi những điều kiện về xạ
trường và võ khí sử dụng khác hơn sự biểu hiện tài
khéo và công phu luyện tập bằng chân tay. Chính sách
xử dụng nhân tài võ học yếu kém từ căn bản, lại được
áp dụng trái ngược ngay trên thực tế, bằng sự điều
dụng các vị văn quan lỗi lạc chỉ huy trực tiếp các võ
quan, nên đã để lại những vết thương khá lớn cho lịch
sử dân tộc Việt khi phải đụng độ với chiến tranh cơ
khí của người Pháp.
Tới nay, sự
phục hưng và trưởng triển vị thế của võ học trong cộng
đồng quốc gia tuy đem lại cho chúng ta nhiều khích lệ
mới và thành tích mới, nhưng còn đòi hỏi chúng ta
nhiều công trình kiến tạo lớn lao hơn nữa để tô bồi
nền võ học Việt Nam và tinh thần võ đạo Việt Nam được
vinh danh với các cộng đồng nhân loại.
SƠ
LƯỢC
VỀ TIỂU SỬ CỐ VÕ
SƯ NGUYỄN LỘC
SÁNG TỔ MÔN PHÁI VOVINAM VIỆT VÕ ĐẠO
Cố Võ Sư Sáng Tổ
Nguyễn Lộc sanh ngày 24 tháng 5 năm 1912 nhằm mùng 8
tháng 4 âm lịch tại làng Hữu Bằng, Huyện Thạch Thất,
tỉnh Sơn Tây Bắc Việt.
Từ thuở nhỏ, ông đã không ngừng học hỏi và nghiên cứu
những tinh hoa võ học đã có trên thế giới, ông đã lấy
môn vật và võ cổ truyền Việt Nam làm nồng cốt, đồng
thời với đạo lý sống của dân tộc để xây dựng thành một
môn phái võ thuật và võ đạo đặt tên là VOVINAM vào năm
1938.
Ngót một năm sau, vào mùa thu năm 1939, ông đem lớp võ
đầu tiên công khai ra mắt dân chúng tại nhà hát lớn Hà
Nội, cuộc biểu diễn thành công rực rỡ. Vào mùa xuân
năm 1940 ông đã khai giảng lớp võ đầu tiên tại trường
Sư Phạm (école Normale) Hà Nội. Sau đó, nhiều lớp võ
liên tiếp được mở ra. Môn sinh thời đó rất tiến bộ nhờ
phương pháp huấn luyện tinh vi và khoa học, đồng thời
nhờ ảnh hưởng trực tiếp tinh thần dân tộc sáng chói
của ông.
Kể từ thời điểm đó,
Môn Phái Vovinam đã trở thành một phong trào giáo dục
quần chúng rộng rãi với một quan điểm rõ rệt là :
1. Môn Phái Vovinam
không phải là một đoàn thể chính trị, nên không hoạt
động chính trị. Tuy nhiên, Môn Phái Vovinam không xâm
phạm tới quyền công dân của các môn sinh nên cũng
không ngăn cấm các môn sinh làm chính trị với tư cách
công dân của họ.
2. Môn Phái Vovinam
chủ trương xây dựng con người toàn diện trên căn bản
võ thuật và tinh thần võ đạo chứ không hoạt động chính
trị và công tác xã hội. Tuy nhiên, khi thời cuộc nước
nhà đòi hỏi Môn Phái Vovinam sẵn sàng tiếp tay với các
đoàn thể ái quốc để thực hiện công cuộc cứu quốc và
cứu tế xã hội với tinh thần vị tha vô điều kiện. Và sự
tiếp tay này nếu có, không có nghĩa là Môn Phái
Vovinam đã phục vụ cho một cá nhân hay đoàn thể nào mà
chỉ là phục vụ Dân Tộc trong công cuộc ích quốc lợi
dân, rồi sau đó lại trở về với mục đích quảng bá võ
thuật và tinh thần võ đạo của Môn Phái.
Vào ngày 29.04.1960
nhằm ngày mùng 04 tháng tư âm lịch, Cố võ sư Nguyễn
Lộc Sáng Tổ Môn Phái Vovinam Việt Võ Đạo đã vĩnh viễn
ra đi tại Sài Gòn, sau khi trao quyền Chưởng Môn cho
người Môn Đệ trưởng tràng : Võ Sư Lê Sáng.
Suốt cuộc sống tận tụy hy sinh xây dựng nền võ đạo cho
dân tộc, ông đã để lại một sự nghiệp phi thường. Hằng
năm, những môn đệ kế nghiệp từ bốn phương, hướng về
ngày giỗ ông, bậc thầy của một võ đạo dân tộc : Đốt lò
hương tưởng niệm, đặt tay thép trên trái tim từ ái,
cùng cúi đầu thầm nhắc nhở để hiến dâng năng lực và
tâm huyết cho tương lai, cho đại nghĩa.
SƠ LƯỢC
VỀ TIỂU SỬ VÕ
SƯ LÊ SÁNG CHƯỞNG MÔN MÔN PHÁI VOVINAM VIỆT VÕ ĐẠO
Võ Sư LÊ SÁNG chào đời
vào mùa thu năm 1920 tại căn nhà bên bờ hồ Trúc Bạch (Hà
Nội). Vào năm 1939, sau một cơn bạo bệnh nên đôi chân đi
đứng khó khăn, nghe lời khuyên của Mẹ, Võ Sư LÊ SÁNG đã
tìm thầy học võ với mục đích rèn luyện cho đôi chân cứng
cáp và thân thể khỏe mạnh. Duyên may đưa đẩy ông đến với
lớp tập VOVINAM tại trường Sư Phạm ( École Normal ) Hà
Nội do Cố Võ Sư Sáng Tổ giảng dạy.
Có năng khiếu ,thông
minh và chuyên cần luyện tập ,vài năm sau ông được Võ Sư
Sáng Tổ cho tham gia công việc huấn luyện tại Hà Nội. Từ
đó, ông luôn gắn bó cùng Võ Sư Sáng Tổ như anh em ruột
thịt, cùng đồng lao cộng khổ và đã theo chân Võ Sư Sáng
Tổ đi dạy VOVINAM ở nhiều nơi như : Thạch Thất ( Sơn Tây
), Phú Thọ, Chuế Lưu, Đan Hà , Đan Phú ( Yên Bái ) …
Năm 1954, ông cùng
Võ Sư Sáng Tổ di cư vào Sài Gòn. Tại đây ông được phân
công mở các lớp VOVINAM ở đường Thủ Khoa Huân và ở
quận Thủ Đức .
Giữa năm 1957, Võ
Sư Sáng Tổ nằm bệnh phải nghỉ dạy và đã ủy quyền cho
Võ Sư LÊ SÁNG tạm thời thay thế việc phụ trách các lớp
võ. Vào thời điểm này, căn cứ vào các ý niệm tiên khởi
về Cách Mạng Tâm Thân do Võ Sư Sáng Tổ giảng dạy, Võ
Sư LÊ SÁNG đã hệ thống hóa kỹ thuật võ học, lý thuyết
võ đạo, đường hướng, mục đích, tôn chỉ của Môn Phái.
Đồng thời Võ Sư LÊ SÁNG đã qui tụ lớp môn đệ từng theo
tập với Võ Sư Sáng Tổ từ năm 1955, bồi dưỡng thành lớp
võ sư cốt cán sau này để chung tay phát triển Môn
Phái.
Năm 1958, Võ Sư LÊ
SÁNG được bầu vào chức vụ Tổng Thư Ký Tổng Cuộc Quyền
Thuật Việt Nam và đã giữ chức vụ này trong suốt ba
nhiệm kỳ ( 1958 - 1968 ); ngòai ra ông còn giữ chức vụ
Tổng Thủ Quỹ Ủy Hội Thế Vận ( Olympic ) Việt Nam (
1960 - 1972 ). Trong thời kỳ này, Võ Sư LÊ SÁNG đã
nghiên cứu, tìm hiểu sâu rộng về các môn võ cổ truyền
và ông đã rút ra được tinh túy và tìm cách bổ túc và
chỉnh lại phần phân thế đã thất truyền của những bài
võ xưa mà lập ra một hệ thống mới "Một phát triển
thành ba" cho VOVINAM VIỆT VÕ ĐẠO sau này. Với hệ
thống này, người tập sẽ dễ luyện, dễ nhớ, ôn đi ôn lại
nhuần nhuyễn. Các kỹ thuật và bài bản mới như :
- 30 thế chiến lược được ghép thành 3 bài đơn
luyện là : Thập Tự quyền pháp, Ngũ Môn quyền pháp và
Thập Thế Bát Thức quyền pháp.
- Hệ thống phản đòn cơ bản được ghép thành 2 bài
đơn luyện là : Tứ Trụ quyền pháp, Viên Phương quyền
pháp và 4 bài song luyện từ số 1 đến số 4.
- 28 thế vật căn bản được ghép thành 3 bài song
đấu vật từ số 1 đến số 3.
- 12 thế tay không bắt dao găm được ghép thành
bài song luyện dao.
- 12 thế tay không bắt búa rìu được ghép thành
bài song đấu búa.
- 12 thế tay không bắt mã tấu được ghép thành bài
song đấu mã tấu.
- 12 thế tay thước được ghép thành bài Mộc Bản
pháp.
- 12 thế côn được ghép thành bài Tứ Tượng côn
pháp và bài song luyện côn.
- 15 thế kiếm được ghép thành bài Tinh Hoa Lưỡng
Nghi kiếm pháp và bài song luyện kiếm.
- Ngòai ra còn một số bài bản khác trong chương
trình huấn luyện của Môn Phái như : Long Hổ quyền
pháp, Lão Mai quyền pháp, Ngọc Trản quyền pháp, Việt
Võ Đạo quyền pháp, Xà quyền, Hạc quyền, Nhật Nguyệt
đại đao pháp, Thái Cực đơn đao pháp...
Là người môn đệ
trưởng tràng, luôn sát cánh cùng Võ Sư Sáng Tổ trong
suốt thời gian 20 năm, Võ Sư LÊ SÁNG đã hình thành một
hệ tư tưởng đạo thật minh bạch từ nguồn tư duy của Sáng
Tổ qua phần lý thuyết võ đạo được đưa vào chương trình
huấn luyện chính thức của Môn Phái; Điển hình là một số
bài viết sau đây :
- Ý nghĩa phù hiệu và kỳ hiệu.
- Ý nghĩa các màu đai.
- Ý nghĩa Mười điều Tâm Niệm.
- 12 Phương châm Tu Dưỡng Hành Xử của Việt Võ Đạo
Sinh.
- Tác phong của Việt Võ Đạo Sinh.
- Vài nét định hướng thể hiện nếp sống tình cảm
Việt Võ Đạo.
- Việt Võ Đạo với thế hệ thanh niên hiện đại.
- Giá trị nhân bản của Việt Võ Đạo.
- Triết lý về võ đạo.
- Vũ trụ quan và Nhân sinh quan Việt Võ Đạo.
- Chủ thuyết Cách Mạng Tâm Thân.
- ...
Năm 1960, Võ Sư Sáng
Tổ trước khi tạ thế đã ủy thác trách nhiệm lãnh đạo Môn
Phái Cho Võ Sư LÊ SÁNG để tiếp tục công trình và tâm
nguyện còn dang dở là hình thành một nền võ đạo cho Dân
tộc và Nhân lọai.
Năm 1964, để đáp
ứng nhu cầu phát triển, Võ Sư LÊ SÁNG đã cho thành lập
Ban Chấp Hành đầu tiên của Môn Phái và hai cơ cấu họat
động là : Tổng Cục Huấn Luyện và Tổng Đòan Thanh Niên.
Kể từ đó danh xưng chính thức của Môn Phái là VOVINAM
VIỆT VÕ ĐẠO và Võ Sư LÊ SÁNG trở thành Chưởng Môn của
Môn Phái.
Là người lãnh đạo
tối cao của Môn Phái, bằng tài năng, đức độ và nếp
sống thanh cần gương mẫu; Võ Sư Chưởng Môn LÊ SÁNG đã
cống hiến trọn cả cuộc đời cho công cuộc xây dựng và
phát triển Môn Phái VOVINAM VIỆT VÕ ĐẠO trên tòan thế
giới.
Nguồn:
http://vn.vovinam-eu.net
Trang
Mạng
Cuả Việt Võ Đạo Hải Ngoại
Việt Võ Đạo
http://vovinamworld.com
Việt Võ Đạo
Liên Lục Địa
http://www.vietvodao.vovinam.net
Việt Võ Đạo
Canada
http://www.vovinamcanada.org
Việt Võ Đạo Úc
Châu
http://www.vovinamaustralia.com
Việt Võ Đạo Hoa
Kỳ
http://www.vovinamus.com
Việt
Võ Đạo Pháp
http://www.viet-vo-dao.com.fr
Việt Võ Đạo
Hưng Đạo
http://www.vovinamusa.org
Việt Võ Đạo
Maroc
http://www.vovinam.ma
Việt Võ Đạo
Nam Liên Xô
http://www.vovinam-wd-russia.nm.ru
Việt Võ Đạo
Âu Châu
http://www.vovinam-eu.org
Việt Võ Đạo
Bĩ
http://www.vovinam.be
Việt Võ Đạo
Đức
http://www.vovinam-muenchen.de
Việt Võ Đạo
Ý
http://www.vovinam.it
Việt Võ Đạo
Hoà Lan
http://www.vovinam.nl
Việt Võ Đạo
Na Uy
http://www.vovinam.no
Việt Võ Đạo
Ba Lan
http://www.voviet.pl
Việt Võ Đạo
Thụy Sỹ
http://www.vovinam.ch
Việt Võ Đạo
Bồ Đào Nha
http://www.vovinam-vietvodao.net/espana
Tạp Chí
Việt Võ Đạo
http://www.vovinam-via.org
Trung Tâm
Huấn Luyện Toàn Cầu
http://vovinamworld.com
Lễ
Truy
Điệu
Cố
Võ
Sư Chưởng Môn Lê Sáng
|