Ý NGHĨA LỄ VU
LA
N



Hàng năm cứ vào độ trăng tròn tháng Bảy âm lịch, tức khoảng trung tuần tháng Tám dương lịch là ngày lễ Vu Lan trở về.  Vào ngày này các chùa Việt Nam và Trung Hoa thường thiết lễ rất trọng thể và các Phật tử đến tham dự rất đông đảo để cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền được an lạc, cha mẹ quá vãng được siêu sanh tịnh độ, cùng là được nghe các thầy giảng về ý nghĩa lễ Vu Lan và đạo hiếu của người con đối với các bậc sinh thành. 

Lễ Vu Lan chính thức được bắt nguồn từ một bản kinh ngắn của Phật Giáo Đại Thừa "Phật Thuyết Kinh Vu Lan Bồn", do ngài Trúc Pháp Hộ dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán vào đời Tây Tấn, tức khoảng năm 750-801 sau Công Nguyên và được truyền từ Trung Hoa vào Việt Nam, không rõ từ năm nào. 

Chữ Vu Lan, vốn phiên âm từ tiếng Sanscrit: Ullambana, Hán dịch là giải đảo huyền, có nghĩa là “cứu nạn treo ngược”.  Giải có nghĩa là gỡ ra cho khỏi ớng mắc, cởi trói buộc, giải mê lầm.  Ðảo là ngược, cũng có nghĩa bóng là những hành động điên đảo gây nên do sự thấy biết sai lầm, như việc phải cho là quấy và việc quấy cho là phải; do đó tạo nghiệp dẫn đến cảnh khổ.  Huyền là treo.  Ðảo huyền là treo ngược, đầu trở xuống đất, chân đưa n trời.  Cụm từ “giải đảo huyềnnghĩa là cởi trói cho người bị treo ngược, gỡ cho họ khỏi gông cùm xiềng xích, khỏi khổ đau ách nạn.  Sâu xa, giải đảo huyền còn có nghĩa là giải thoát khỏi tất cả những mối phiền não, những dây luyến ái đã từng trói buộc cái tâm đi luân hồi, giải thoát khỏi sự trói buộc cuả tâm tham, tâm sân và tâm si. 

Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân, thì thấy bà đang ở cõi ngạ quỷ vô cùng đói khổ. Ngài đem cơm đến dâng mẹ, nhưng mẹ ngài khi được cơm thì lòng tham nổi n, sợ người khác trông thấy mà đến dành giựt hay xin bớt, cho nên bà một tay che bát cơm lại, một tay bốc ăn.  Bởi lòng tham lam độc ác trong tiền kiếp nổi bừng n, nên cơm đưa vào miệng liền biến thành  than hồng không ăn được.  Ngài vô cùng thương xót mà không biết làm sao cứu, bèn trở về thưa với Phật, xin ngài từ bi chỉ dạy phương pháp cứu độ mẹ.  Phật dạy rằng vào ngày trăng tròn tháng bảy, tức là ngày lễ Tự Tứ [1] của chư Tăng, sau ba tháng an cư kết hạ thanh tịnh, hãy sắm lễ vật và thỉnh chúng Tăng để cúng dường, nhờ sự chú nguyện của chúng Tăng thì mẹ Ngài sẽ được gỉai thoát.  Ngài Mục Kiền Liên tuân theo lời Phật dạy, thỉnh chúng Tăng chú nguyện và nhờ đó mẹ ngài, bà Thanh Ðề đã được sanh về cõi trời. 

Hình ảnh bà Thanh Ðề chụp ngay bát cơm khi ngài Mục Kiền Liên dâng n, một tay che không cho người khác thấy vì sợ bị giựt, một tay bốc ăn, nói n cái tâm mê muội tham lam của con người và hình ảnh khi bà vừa đưa tay bốc cơm thì cơm hoá thành than hồng cháy đỏ, bụng đói mà không sao ăn được, nói n cảnh giới địa ngục. Thật ra ba cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh hay còn gọi là ba đường ác, có thể xuất hiện bất cứ lúc nào trong con người chúng ta.  Bất cứ lúc nào
chúng ta nóng giận là lửa địa ngục sân hận bừng cháy.  Bất cứ khi nào tham dục nảy sinh trong tâm ta là chúng ta sống trong cảnh giới ngạ quỷ.  Địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh là những nơi thọ quả báo của những chúng sanh gieo trồng nhân tham lam, sân hận và si mê.  Nếu con người không chế ngự được ba thứ độc dược này thì luôn luôn sống trong toan tính, rồi từ đó ăn không ngon, ngủ không yên, triền miên đau khổ phiền não, luôn sống trong ác mộng và cuộc đời biến thành địa ngục lúc nào không hay biết.  Quả là như thế, con người khi tham mà không được thì hay nổi sân và mỗi khi tham và sân chế ngự được tâm chúng ta thì chúng ta không còn kiểm soát được lời nói, ý nghĩ và việc làm nữa, do đó tâm thần trở nên bất an, xao động và hỗn loạn, nói những lời không nên nói, làm những việc không nên làm, và mang nhiều tư tưởng xấu xa đen tối.  Nói cách khác, ta đang sống trong cảnh giới địa ngục vậy. 

Thật ra, tâm bà Thanh Ðề cũng có thể là tâm mẹ quá khứ của chúng ta và cũng có thể là tâm tham sân si của chính mình.  Vì thế, muốn được siêu thoát, ngoài yếu tố chính là cọng lực chú nguyện của chư Thánh Tăng tác động n tâm bà Thanh Đề, thì tâm bà Thanh Đề hay tâm mẹ quá khứ của chúng ta phải tự thức tỉnh, tự chuyển tâm sám hối lỗi lầm.  Một khi tâm chuyển là cảnh giới địa ngục của chính mình tan rã, tựa như ánh sáng xoá tan màn đêm đen tối.  Nếu không tự thức tỉnh, không tự chuyển hoá tâm, thì sức chú nguyện của chư Thánh Tăng cũng không thể nào cảm ứng để mà giải cứu được, bởi vì đối với Phật giáo, việc tái sinh đã không do một đấng sáng tạo mà do theo luật nhân quả tác động thì việc cứu độ vong linh cũng thế, cũng tuỳ thuộc vào luật nhân quả, chứ không thể cầu khẩn một đấng thần linh nào cứu được.  Sở dĩ bà Thanh Đề thoát khỏi cảnh giới địa ngục, sinh về cõi trời là do sức mạnh bởi sự chú nguyện của chư Thánh Tăng và do sự tự thức tỉnh của bà Thanh Đề.  Khác với sự cầu nguyện nơi một số tôn giáo khác, chú nguyện là tập trung hết năng lượng tư tưởng của mình vào một điều gì mình muốn cho tha nhân.  Năng lực được tập trung lại đó có thể làm thay đổi tình thế như tia sáng Laser ngày nay do sự hội tụ của ánh sáng có thể đốt cháy được một vật ở rất xa ngoài không gian. Một ví dụ điển hình khác là các nhà thôi miên, bằng sự tập trung tư tưởng vào một người, có thể nâng người đó n hay di chuyển thân người đó dễ dàng. Ðây là vấn đề sức mạnh của tư tưởng mà các nhà khoa học hiện đại đều công nhận.  Các cao Tăng hay còn gọi là thanh tịnh Tăng, sau thời gian ba tháng an cư thiền định thường có tâm lực rất mạnh, dễ dàng tác động vào tâm của bà Thanh Ðề khiến bà thấu rõ tội ác của mình trong quá khứ và nổi niệm sám hối, chuyển đổi tâm niệm, từ tâm ích kỷ tham lam độc ác, thành tâm vị tha quảng đại. Hễ tâm thay đổi thì ngay đó cảnh giới địa ngục khổ sở tan rã, theo như câu: "Tội tuỳ tâm sinh, tội tùng tâm diệt" hay "khổ tuỳ tâm sinh, khổ tùng tâm diệt". Nhờ vậy bà thoát khỏi cảnh giới ngạ quỷ, rời khỏi chốn địa ngục tối tăm cực khổ mà sinh vào cảnh giới an lành, không có sự can thiệp của thần linh nào vào đây cả.  Ngài Mục Kiền Liên, tuy là bậc thần thông đệ nhất nhưng với đạo lực một mình vẫn không thể nào thay đổi được luật nhân quả, cứu vớt nổi mẫu thân, nên đã phải nhờ đến sức chú nguyện tập thể của mười phương Tăng trong ngày Tự tứ. 

Chúng ta cũng cần nhớ rằng kinh Phật thường có vô lượng nghĩa, để khế hợp với vô lượng tâm chúng sanh.  Ðức Phật là bậc đại từ đại bi, sau khi giác ngộ, Ngài trực nhận ra rằng tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, nhưng chỉ vì bị ba thứ độc hại: tham, sân và si lôi kéo mà bị dẫn đi trong luân hồi, như trường hợp bà Thanh Đề. Ngài muốn trải ruộng phước cho chúng sinh trồng xuống cây bố thí, đó là cánh cửa đầu tiên để cho chúng sinh tập hạnh xả bỏ, bớt đắm nhiễm vào của cải, bớt tham lam bỏn sẻn, cho nên Ngài dùng phương tiện thiện xảo dạy chúng sinh thực hiện pháp cúng dường chư Tăng, vừa tạo duyên lành cho Phật tử gieo trồng nhân thiện, vừa dạy cư sĩ thực hiện nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo, ngõ hầu chư Tăng ni có được đầy đủ vật dụng cần thiết mà an tâm tu hành cho tới giác ngộ, để tiếp tục trao truyền ngọn đèn chánh pháp, độ thoát cho hết thảy chúng sanh khỏi sanh già bệnh tử. 

Tưởng cũng nên biết, trong dịp lễ hội Vu Lan, ngoài việc tụng kinh cầu siêu, thiết lễ cúng dường trai tăng tại các tự viện còn là ngày xá tội vong nhân. Đó là ngày tha thứ mọi lỗi lầm, ngày ăn năn, sám hối, mong được tha thứ lỗi lầm. Nhờ ý nghĩa tha thứ những lỗi lầm đó nên cũng chính ngày này chư Tăng, Ni thành tâm chú nguyện cho các vong linh sớm thoát khỏi những kiếp khổ đau. Ngày xá tội vong nhân được dân gian gọi một cách nôm na là ngày cúng cô hồnLễ cúng cô hồn được truyền từ Ấn Độ vào Trung Hoa vào thời Đường và được truyền sang nước Việt từ năm 1302, [02] sau đó lễ này rất thịnh hành vào thời đại Phật Gíao nhà Trần qua việc tổ chức các trai đàn chẩn tế, gọi là “diệm khẩu phổ thí pháp hội”nghĩa là những đại hội về Phật Pháp để bố thí thức ăn cho loài quỷ đói.  Phép này được thực hành trên căn bản một tác phẩm tên là “Thí Chư Ngạ Quỷ Ẩm Thực Cập Thủy Pháp” do Bất Không dịch vào thế kỷ thứ tám, đời Ðường [03].  Theo sự tích thì một đêm A Nan Tôn Giả, đệ tử Phật, thấy một con quỷ đói tên là Diệm Khẩu xin A Nan cho ăn cơm. A Nan hỏi Phật, nhân đó Phật chỉ bày phương pháp thí thực cho ngạ quỷ tức là quỷ đói. 

Lễ cúng cô hồn khác với lễ Vu Lan dù được cử hành trong cùng Ngày Rằm. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ nhiều đời được siêu thoát, một đằng là để bố thí thức ăn cho những vong hồn chưa được siêu thoát, những vong hồn không nơi nương tựa, không người cúng kiếng.   Dần dà về sau tại miền Nam Việt Nam, tập tục cúng cô hồn này biến thể từ hình thức đến nội dung, chuyển từ khuôn viên chùa ra ngoài dân gian và được lan rộng tổ chức tại các xí nghiệp thương mại và tại các công ty tư lập theo truyền tụng rằng, ngày này cửa địa ngục rộng mở, ngạ quỷ được phóng thích, nên cúng tế chúng để được buôn may bán đắt, tai qua nạn khỏi.  Ngày xưa cúng cháo hoa và vàng mã cho cô hồn, canh ốc nhồi nấu với chuối xanh cho người sống; ngày nay giết gà, mổ bò, mổ heo làm cỗ linh đình gọi là cúng cô hồn nhưng thực là cúng cho người sống.  Là Phật tử chúng ta không nên đi theo vết mòn xưa cũ, chỉ nên cúng chay theo truyền thống mà không nên giết hại súc vật và nên phát tâm bố thí đến những người nghèo khổ cùng là phóng sinh để báo hiếu cho cha mẹ ông bà quá vãng. 

BBT
http://www.thuvienhoasen.org

 

Chú thích: 
[01] Mùa Hạ ở Ấn Ðộ thường mưa nhiều, là mùa côn trùng sinh sản, nên đức Phật không muốn cho chúng Tăng đi lại nhiều, giẫm đạp n chúng.  Ngài đại từ đại bi, còn không muốn cho các côn trùng bị nuốt vào bụng người mà chết, nên chư tăng ni đều phải có đồ lọc nước để cứu chúng trước khi uống nước.  Vì thế mới có lệ chư Tăng Ni an cư ba tháng Hạ trong chùa, hay tịnh xá, để học hỏi giáo pháp và tự thanh tịnh tâm.  Do đó, trong ba tháng này, Phật tử đem vật thực đến cúng dường tại chùa, vì các sư không đi từng nhà khất thực. 

[02] Nguyễn Lang, Việt nam Phật Giáo Sử Luận Tập I, Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội 1979: http://www.thuvienhoasen.org/vnphatgiaosuluan1-16.htm 

[03] Kinh Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni


Nguồn: Thư Viện Hoa Sen


                                                               (Tranh cuả www.nguoiaolam.net)



Báo hiếu theo Kinh Vu Lan



   Mùa Vu lan về gợi nhắc chúng ta nhớ đến ông bà tổ tiên, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc đang hiện hữu hoặc không còn hiện hữu trên cuộc đời này. Thật vậy, dân tộc chúng ta có truyền thống cao đep là kính trọng ông bà cha mẹ đang hiện hữu và cả ông bà cha mẹ đã qua đời.

Đối với cha mẹ còn hiện tiền, con cháu phải chăm sóc, phụng dưỡng; không làm tròn việc này là phạm tội bất hiếu. Với người thân đã khuất bóng, phải thờ cúng, làm việc thiện, hoặc giữ trai giới để cầu nguyện cho vong linh được sinh về thế giới an lành.


 Trong Phật giáo, hiếu hạnh được quan tâm đặc biệt. Đức Phật dạy rằng không có tội nào lớn hơn tội bất hiếu và không có phước nào lớn hơn là làm tròn hiếu hạnh. Với truyền thống báo hiếu, nhân dân ta cảm nhận sâu sắc hiếu hạnh của ngài Mục Kiền Liên đã cứu mẹ thoát khỏi cảnh giới ngạ quỷ được ghi trong kinh Vu Lan Bồn. Vì thế mà kinh Vu Lan được nhiều người đọc tụng, nhất là trong mùa Vu lan.


Theo kinh Vu Lan, Đức Phật dạy rằng phải nhờ định lực của chư Tăng thanh tịnh mới cứu được vong hồn của cha mẹ tội lỗi đang bị đọa ở chốn đau khổ nhất, là địa ngục và việc cầu siêu nên tổ chức trong mùa an cư của chư Tăng, đó cũng là mùa Vu lan. Vì trong mùa này, chư Tăng cấm túc an cư, trì giới thanh tịnh, đức hạnh cao dày, tạo thành đạo lực mạnh có khả năng cảm hóa được vong hồn đau khổ, bơ vơ ở cõi âm.


“… Hoặc người thọ hạ kinh hành, chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng, hoặc người đặng lục thông tấn phát và những hàng Duyên giác, Thanh văn, hoặc chư Bồ tát mười phương, hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh, đều trì giới rất thanh rất tịnh, đạo đức dày chánh định chơn tâm…”.


Đó là mẫu người tu chân chính mà Đức Phật nói với Mục Kiền Liên, hay chỉ cho chúng ta nương nhờ, cúng dường, để họ cầu nguyện mới cứu thoát được vong linh khỏi chốn u đồ và phải đúng mùa an cư, hay mùa Vu lan, chư Tăng tập trung nỗ lực tu hành thanh tịnh mới có định lực siêu độ vong linh.

Đặc biệt là đất nước chúng ta phải trải qua hai cuộc chiến tranh quá khốc liệt trong thời cận đại, khiến chúng ta vẫn luôn hướng tâm thương nhớ, kính quý những vong hồn của các chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh trong chiến tranh vì độc lập Tổ quốc, hoặc chúng ta cũng trang trải tình thương đến những người phải chết vì thiên tai, vì dịch bệnh… Vì vậy, chúng ta thường lập đàn cúng chẩn tế cô hồn từ ngày 15 đến 30-7, nhờ lực gia trì của chư Tăng thanh tịnh để giải trừ oan khiên cho các vong hồn hết sầu khổ, được an vui, được no ấm và đươc tái sinh vào cảnh giới an lành.


Trong mùa Vu lan, thực hiện sự báo hiếu theo lời Phật dạy, chúng ta cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ, cha mẹ đã khuất bóng hay cha mẹ hiện tiền, cũng cầu siêu cho tất cả các chiến sĩ trận vong và oan hồn uổng tử.


Song song với việc nhớ nghĩ đến người đã quá vãng, chúng ta cần thể hiện lòng biết ơn đối với những thương binh đã hy sinh một phần thân thể cho đất nước, cũng như giúp đỡ những đồng bào còn nhiêu khó khăn trong cuộc sống trên mọi miền đất nước.


Thực hiện được như vậy, chúng ta đã thể hiện được mẫu người đệ tử Phật hiện hữu trên cuộc đời vì lợi ích, vì an lạc cho nhiều người.  

HT Thích Trí Quảng
Nguồn:http://www.giacngo.vn/chude/vulan2008/2008/08/21/56C058/



MÙA  VU LAN NGHĨ VỀ CHA MẸ
QUA MẤY VẦN THƠ THƯ PHÁP

Thích Hạnh Tuệ


Cứ mỗi độ Vu Lan về, người con Phật khắp muôn nơi hướng vọng về hai đấng sinh thành Cha và Mẹ để tưởng niệm đến công đức sinh thành trời biển. Đã một thời, Cha và Mẹ đó đã sinh ta, nuôi ta, dạy ta… trưởng thành như ngày hôm nay. Nếu không có Cha và Mẹ thì còn nói gì đến sự nghiệp, công danh, tiền tài, vợ chồng, con cái… vốn là những cái tạo nên danh phận của con người trong xã hội. Nếu không có Cha và Mẹ thì còn có ai tồn tại trên cõi đời nầy nữa đâu. Cha và Mẹ đó như thể là trời, là đất, là dưỡng khí, là ánh nắng, là mưa rào, là cọng rau, là ngọn cỏ… để từ đó mỗi người con được sinh ra, được che chở, được nuôi lớn, được thụ hưởng, được thành đạt… trong đời.

“Tháng sáu buôn nhãn bán trâm, tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân.” Mùa Vu Lan lại về. Tiết Vu Lan lại đến. Xôn xao từ đầu làng, đến cuối xóm; rộn rã từ thôn quê đến thị thành; từ nền văn hóa truyền thống Phật giáo ở các nước phương Đông đến nền văn hóa Phật giáo lan truyền ra hải ngoại phương Tây, đâu đâu cũng thiết lễ Vu Lan Thắng Hội, đâu đâu cũng thiết lễ trai đàn Bạt độ vong nhân. Nương nhờ oai lực của Tam Bảo, Cha Mẹ hiện đời được phước thọ tăng long, bồ đề tâm tăng trưởng; Cha Mẹ đã quá vãng được siêu thăng vào thế giới an lành; chư vị hương linh chiến sĩ trận vong, chư âm linh cô hồn cũng có được bữa ăn no đủ, không bị đọa đày, tra khảo và được thọ sanh không còn vất vưởng.

Nói đến mùa Vu Lan là nói đến Cha và Mẹ. “Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao.” Hay: “Vạn cổ tình thâm ân cúc dục, thiên thu nghĩa trọng đạo sinh thành.” Mà ca dao Việt Nam đã bao lần nhấn mạnh rằng: “Cảm ơn chín chữ cù lao, sinh thành kể mấy non cao cho vừa.” Hay “Cảm ơn chín chữ cù lao, ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình.” Sinh (đẻ ra), cúc (nâng đỡ), phủ (vuốt ve), dục (dạy dỗ), súc (nuôi cho bú mớm), trưởng (nuôi cho khôn lớn), cố (trông nom), phục (là xem tính tình mà chỉ bảo), phúc (là bảo vệ) đó là chín chữ cù lao mà không đức con nào trong nhân gian có thể đáp đền cho trọn vẹn được. “Ơn cha trọng lắm ai ơi, nghĩa mẹ bằng trời mang nặng đẻ đau.” Thế nên, làm sao mà nói hết được: "Đố ai đếm được lá rừng, đố ai đếm được mấy từng trời cao, đố ai đếm được vì sao, đố ai đếm được công lao mẫu từ" Lời thơ ấy là minh chứng cho sự bất khả thuyết (không thể nói hết), bất khả tư nghì (không thể nghĩ cho cùng) khi muốn định lượng công đức của Cha và Mẹ. Vì công sinh thành, dưỡng dục ấy đã vượt ra ngoài mọi định chế của nhân gian, không thể cân, đo, đong, đếm… Thế nên: Nước biển mênh mông không đong đầy tình Mẹ, mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha” hay “ân Cha dưỡng dục dường non Thái, nghĩa Mẹ sinh thành tợ biển Đông.” Núi Thái kia cao vời vợi ấy đâu thể sánh được với công Cha. Biển Đông kia dẫu có mênh mông và thẩm sâu đến thế nhưng làm sao sánh nổi với nghĩa của Mẹ hiền. Để rồi, những đứa con khi lớn khôn rong ruổi khắp muôn phương, đối diện với dòng đời xuôi ngược, tất bật với thế thái nhân tình, bôn ba với dòng đời vạn nẻo… mới chợt nhận ra là: “Đi khắp thế gian không ai thương con bằng Mẹ, gian khổ cuộc đời không ai nặng gánh bằng Cha.”

Hình bóng của Cha là biểu tượng con sự vững chải, nghiêm nghị mà tình thương cho con thì sâu kín: “Cha cho con một cuộc đời, mối tình sâu kín trong lời dạy khuyên, lòng cha nghiêm nghị thiêng liêng, cho con lẽ sống giữa miền trần gian.” Chính sự ẩn tàng ấy sâu kín của tình thương Cha ấy đã tiếp cho con bản lĩnh sống giữa cuộc đời. Bản lĩnh và nghị lực sống của con bây giờ có phải chăng đã di truyền từ Cha: “Cha là bầu trời, con thơ là hạt bụi, con lẫn vào cha từ bé đến muôn đời.” Và Mẹ cũng vậy, “Mẹ hiển nhiên như trời đất đã thành, như cuộc đời không thể thiếu trong con”. Và rồi, từ cái không có gì đó, con được sinh thành, được trưởng dưỡng để lớn khôn. Từ một hạt bụi như muôn ngàn hạt bụi lang thang, con về đây nương gá nơi bào thai Mẹ: “Hình hài con khi còn là hạt bụi, lớn lên dần qua tim mẹ bao dung.” Chỉ có tình thương thôi, mà Cha và Mẹ đã tạo dựng nên sắc màu của cuộc sống muôn trùng. Và tình thương ấy không bao giờ phai nhạt. “Mẹ là sữa ngọt quê hương, rót vào thiên kỷ nguồn thương cho đời.” Con nên danh phận, hạnh phúc với cuộc đời thì Cha Mẹ vui mừng cho con. Còn nếu như, con thất bại, hiu quạnh giữa muôn người thì Cha Mẹ lại là người gần con nhiều hơn để nâng đỡ, vỗ về, chia sẻ… “Con dù lớn vẫn là con của Mẹ, đi hết cuộc đời lòng Mẹ vẫn theo con.” Khi con lớn khôn, bước vào đời, rời xa vòng tay che chở của Cha Mẹ, con đi xa cho thỏa chí tang bồng. Có thể là, con cần phải đi xa để lo cho sự nghiệp của mình. Hay cũng có thể là, con đi xa chứng minh rằng mình đã lớn, đã có thể tự lập được rồi, không còn muốn Cha Mẹ chăm nom nữa... Nhưng dẫu có xa đến đâu, dẫu con có phiêu bạt ở chân trời hay góc biển nào thì tình thương của Cha Mẹ ấy, tấm lòng của Cha Mẹ ấy vẫn dõi theo con như ánh trăng rằm theo người lữ khách đêm khuya. “Mẹ vầng trăng sáng thiên thu, soi đời con bước lãng du hải hà” Hơn thua, được mất ở đời… cái gì rồi cũng bị phủ mờ dưới lớp bụi của thời gian. Nhưng tình thương của Cha và của Mẹ thì không hề nhạt đi. “Biển đông có lúc đầy vơi, chớ lòng cha mẹ suốt đời tràn dâng.”

Với tình thương mênh mông của Cha Mẹ ấy, với công đức sinh thành và dưỡng dục ấy… phận làm sao con cái sao có thể quay lưng lại được. Kinh Thi có câu: “Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hạo Thiên võng cực.” Nghĩa là: Cha sanh ta, mẹ nuôi ta, thương thay Cha Mẹ sinh dưỡng ta khó nhọc, muốn báo đáp ơn sâu, ơn đức của Cha Mẹ mênh mông như bầu Trời. “Mênh mông lòng mẹ thương ta, xin hòa thành bản tình ca dâng người.” Vô phương trước sự báo đáp, đền trả công ơn sinh thành dưỡng dục, những người con chỉ có thể tri ân thôi và cũng chỉ có thể báo bổ trong muôn một thôi. Và nhất là đối với Cha Mẹ còn sinh tiền thì phải hết lòng phụng dưỡng, sớm viếng tối thăm, ân cần thưa hỏi. Chính sự thưa hỏi đó, làm cho Cha Mẹ được nguôi ngoa ở tuổi xế chiều, làm cho Cha Mẹ không cảm thấy cô liêu, quạnh quẻ với cái già, cái bệnh đơn côi. Với dòng chảy của thời gian trôi nhanh vun vút ấy, mấy ai trong nhân gian có thể thoát khỏi cảnh lão bệnh nầy. Lúc còn trẻ thì Cha và Mẹ đã vì mình mà lam lủ, bôn ba để tạo dựng, xây đắp cho gia đình, con cái. Vì vậy mà khi về già, sức khỏe của Cha Mẹ hao mòn, đau nhức toàn thân. Có bao giờ con đã trả ơn bằng cách đấm lưng cho Cha, bóp tay cho Mẹ chưa, hay con đã vô tâm bỏ mặc, lãng quên sự đau nhức ấy...

Ôi nói sao cho hết tấm lòng hi sinh cao cả, vô bờ bến một đời của Cha, một đời của Mẹ. Cho nên: “Ai còn Mẹ xin đừng làm mẹ khóc, đừng để buồn lên mắt Mẹ nghe không!” Lời nhắn nhủ ấy, gần giũ, thân thương như bài ca “Bông hồng cài áo”. “Rồi một chiều nào đó anh về nhìn Mẹ yêu, nhìn thật lâu, rồi nói, nói với Mẹ rằng “Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không ?” Biết gì? “Biết là, biết là con thương Mẹ không ?””  

Mùa Vu Lan năm nay lại về, xin cầu chúc cho hai đấng sinh thành khắp cả mười phương luôn được an lành và hạnh phúc trong tình thương yêu và kính trọng của con cháu. Xin cài lên áo anh, chị, em một đóa hoa hồng để biết là mình đang rất hạnh phúc còn Mẹ trên đời. Và "Vu Lan đến thêm người cài hoa trắng, trần gian buồn thêm một kẻ mồ côi", xin chia buồn với những ai đã không còn Mẹ trên đời. Để rồi một ngày nào đó, "con về quỳ giữa quê hương, thầm hôn lên những bước đường Mẹ qua."

Chùa Phật Đà, San Diego ngày 9/8/2011.
Nguồn: http://www.thuvienhoasen.org


(Tranh cuả www.minhkhai.com.vn)



Trở lại trang mặt