Vũ
Trọng Phụng
|
|
Sinh |
20 tháng 10, 1912
Hà Nội |
Mất |
13 tháng 10, 1939 (26 tuổi)
Hà Nội |
Bút danh |
Thiên Hư |
Công việc |
|
Giai đoạn
sáng tác |
1930-1939 |
Thể loại |
Trào
phúng
Phóng
sự |
Trào lưu |
Hiện thực |
Tác phẩm
nổi bật |
Số
đỏ, Giông
tố, Kĩ
nghệ lấy Tây |
Phối ngẫu |
Vũ Mỹ Lương |
Con cái |
Vũ Mỵ Hằng |
Thân nhân |
Vũ Văn Lân (cha)
Phạm Thị Khách (mẹ) |
Vũ Trọng Phụng (1912-1939)
là một nhà
văn, nhà báo nổi
tiếng của Việt Nam vào
đầu thế kỷ 20. Tuy thời gian cầm bút
rất ngắn ngủi, với tác phẩm đầu tay là truyện
ngắn Chống nạng lên đường đăng
trên Ngọ báo vào
năm 1930,
ông đã để lại một kho tác phẩm đáng kinh ngạc:
hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập
phóng sự, 7 vở kịch, cùng một bản dịch vở kịch
từ tiếng Pháp, một số bài viết phê bình, tranh
luận văn học và hàng trăm bài báo viết về các
vấn đề chính trị, xã
hội, văn hóa[1]. Một
số trích đoạn tác phẩm của ông trong các tác
phẩm Số đỏ và Giông
Tố đã được đưa
vào sách giáo khoa môn Ngữ văn của
Việt Nam.[2][3]
Nổi tiếng với
giọng văn trào phúng châm biếm xã
hội của mình, một số người đã so sánh ông như Balzac của
Việt Nam[4]. Tuy
nhiên, cũng vì phong cách "tả chân" và yếu tố tình dục trong
tác phẩm mà khi sinh thời ông đã bị chính
quyền bảo hộ Pháp tại Hà Nội gọi ra tòa vì
"tội tổn thương phong hóa" (outrage aux bonnes
moeurs)[5]. Về
sau này, tác phẩm của ông lại bị cấm xuất bản
vì là "tác phẩm suy đồi" tại miền Bắc Việt
Nam từ năm 1954 và
cả nước từ ngày 30 tháng 4 năm
1975 cho đến tận cuối
những năm 1980 mới được chính quyền cho lưu
hành[4][6].
Thân thế và sự
nghiệp
Vũ Trọng Phụng
sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912,
quê ở làng Hảo, huyện
Mỹ Hào (nay là phường Bần Yên Nhân, thị xã Mỹ Hào),
tỉnh Hưng Yên nhưng
ông lớn lên và qua đời tại Hà Nội. Cha
ông là Vũ Văn Lân làm thợ điện ở Ga-ra
Charles Boillot, mất sớm khi ông
mới được 7 tháng tuổi, Vũ Trọng Phụng được mẹ
là bà Phạm Thị Khách ở
vậy tần tảo nuôi con ăn học[7]. Sau
khi học hết tiểu học tại
trường Hàng Vôi, Vũ Trọng Phụng phải thôi học
để đi làm kiếm sống vào khoảng năm 16 tuổi[8]. Ông
có may mắn được hưởng thụ chế độ giáo dục mới
do Toàn
quyền Pháp Albert Sarraut đề
xướng, miễn phí hoàn toàn trong sáu năm tiểu
học, và là một trong những lứa thanh niên Việt
Nam đầu tiên được giáo dục bằng tiếng Pháp và chữ Quốc Ngữ[8]. Đó là
nguyên nhân khiến ông luôn thần tượng nền văn
hóa Pháp và
là lớp nhà văn tích cực truyền bá văn học chữ Quốc Ngữ[9]. Sau
hai năm làm ở các sở tư như nhà hàng Gôđa, nhà
in IDEO (Viễn Đông), ông chuyển hẳn sang làm
báo, viết văn chuyên nghiệp.
Năm 1930,
Vũ Trọng Phụng đã có truyện ngắn đầu tay Chống
nạng lên đường đăng
trên tờ Ngọ Báo. Bắt
đầu ông viết một số truyện ngắn, nhưng không được chú
ý nhiều. Năm 1931,
ông viết vở kịch Không
một tiếng vang, thì bắt đầu thu
hút được sự quan tâm của độc giả. Năm 1934,
Vũ Trọng Phụng mới cho ra mắt cuốn tiểu thuyết tâm
lý đầu tay Dứt tình đăng
trên tờ Hải
Phòng tuần báo.
Năm 1936, ngòi bút
tiểu thuyết của ông nở rộ, chỉ trong vòng một
năm, bốn cuốn tiểu thuyết lần lượt xuất hiện
trên các báo, thu hút sự chú ý của công chúng.
Cả bốn tiểu thuyết Giông
tố, Số đỏ, Vỡ đê và Làm đĩ đều hiện thực,
đi sâu vào các vấn đề xã
hội. Trong đó Số đỏ xuất
sắc hơn cả, được xem như tác phẩm lớn nhất của
Vũ Trọng Phụng[4], một
vài nhân vật, câu nói trong Số
đỏ đã đi vào ngôn ngữ
đời sống hằng ngày.
Là một nhà báo, Vũ
Trọng Phụng đã viết nhiều phóng sự nổi
tiếng. Với phóng sự đầu tay Cạm bẫy người (1933)
đăng báo Nhật Tân dưới
bút danh Thiên Hư, Vũ
Trọng Phụng đã gây được sự chú ý của dư luận
đương thời. Năm 1934,
báo Nhật Tân cho
đăng Kỹ nghệ lấy Tây.
Với hai phóng sự đó, Vũ Đình Chí và Vũ Bằng đã
cho ông là một trong hàng vài ba "nhà văn mở
đầu cho nghề phóng sự của nước ta". Những
phóng sự tiếp theo như Cơm
thầy cơm cô, Lục sì đã
góp phần tạo nên danh hiệu "ông vua phóng sự
của đất Bắc" cho Vũ Trọng Phụng[10].
Những tiểu thuyết
và phóng sự của ông cũng nhận được nhiều ý
kiến phản bác. Từ năm 1936 đến
khi Vũ Trọng Phụng qua đời năm 1939,
đã nổ ra cuộc tranh luận xung quanh vấn đề
"Dâm hay không Dâm" trong các tiểu thuyết,
phóng sự của ông[11].
Cả đời Vũ Trọng
Phụng sống trong nghèo khổ. Vì còn bà nội và
mẹ già nên dù lao động cật lực, ngòi bút của
ông vẫn không đủ nuôi gia đình. Tuy viết về
nhiều các tệ nạn, thói ăn chơi nhưng Vũ Trọng
Phụng là một người đạo đức và sống rất kham
khổ. Vì vậy ông mắc bệnh lao phổi. Những ngày
cuối đời, trên giường bệnh ông từng phải thốt
lên với Vũ Bằng: "Nếu
mỗi ngày tôi có một miếng bít tết để ăn thì
đâu có phải chết non như thế này"[12]. Vợ
ông, bà Vũ Mỹ Lương, tên thường gọi là bà Gái,
là con người vợ thứ tư của cụ Cửu Tích, một
nhà tư sản có cửa hàng thuốc ở phố Hàng Bạc.
Sau khi làm đám cưới vào ngày 23 tháng 1 năm
1938, hai vợ chồng đã cùng thuê nhà ở phố Hàng Bạc.
Ông mất ngày 13 tháng
10 năm 1939,
khi mới 27 tuổi, để lại gia đình còn bà nội,
mẹ đẻ, vợ và người con gái chưa đầy 1 tuổi tên
là Vũ
Mỵ Hằng[13]. Nhà
văn Vũ Trọng Phụng sống long đong, khi qua
đời, cũng nhiều phen đổi dời. Lúc mới mất, ông
được chôn cất ở nghĩa trang Hợp
Thiện, rồi nghĩa trang Quán Dền. Đến năm 1988,
con gái Vũ
Mỵ Hằng mới đưa ông về
quy thổ vĩnh tại mảnh vườn của nhà mẹ vợ nhà
văn tại làng Giáp
Nhất.[14]
Tác phẩm
Bìa
tiểu thuyết Giông Tố in
năm 1937
Bản
quyền tác phẩm
Theo Luật sở hữu trí
tuệ Việt Nam, thời hạn bảo hộ tác quyền
chỉ là 50 năm kể từ năm mất của tác giả[15], đồng
nghĩa với việc đối với tác phẩm của Vũ Trọng
Phụng là đến hết năm 1989.
Tuy nhiên, 28 tác phẩm của ông đã được Hãng
Bảo hộ bản quyền tác giả Việt Nam (nay là Cục Bản quyền
Tác giả Việt Nam) gia hạn thời hạn bảo
hộ thêm 30 năm[16], gây
lúng túng về nghĩa vụ thanh toán tiền tác
quyền của một số hãng chuyển thể hoặc tái sử
dụng tác phẩm của ông[17].
- Không một
tiếng vang (1931)
- Tài tử (1934)
- Chín đầu
một lúc (1934)
- Cái chết
bí mật của người trúng số độc đắc (1937)
- Hội nghị
đùa nhả (1938)
- Phân bua (1939)
- Tết cụ Cố (Di
cảo - đăng sau khi tác giả qua đời, trên Tiểu
thuyết thứ bảy số
295, ngày 3 tháng 2 năm 1940)
Dịch
thuật
Phóng sự
- Đời cạo
giấy (1932)
- Cạm bẫy
người (1933)
- Kỹ nghệ
lấy Tây (1934)
- Hải Phòng
1934 (1934)
- Dân biểu
và dân biểu (1936)
- Cơm thầy
cơm cô (1936)
- Vẽ nhọ
bôi hề (1936)
- Lục xì (1937)
- Một huyện
ăn Tết (1938)
Tiểu
thuyết
- Dứt tình (1934)
- Giông tố (1936),
khi đăng trên Hà Nội
báo có tên Thị
Mịch.
- Vỡ đê (1936)
- Báo Tương Lai
- Số đỏ (1936)
- Hà Nội báo
- Làm
đĩ (1936) -
Tạp chí Sông Hương
- Lấy
nhau vì tình (1937)
- Trúng
số độc đắc (1938)
- Quý phái (1937,
đăng dang dở trên Đông
Dương tạp chí - bộ
mới)
- Người
tù được tha (Di
cảo)
Truyện
ngắn
- Chống
nạng lên đường (1930)
- Một
cái chết (1931)
- Bà
lão lòa (1931)
- Con
người điêu trá (1932)
- Quyền
làm bố (1933)
- Cuộc
vui ít có (1933)
- Hai
hộp xì gà (1933)
- Cái
hàng rào (1934)
- Tình là dây oan (1934)
- Duyên
không đi lại (1934)
- Thầy
lang bất hủ (1934)
- Ông
đừng lầm (1934)
|
- Sao
mày không vỡ, nắp ơi? (1934)
- Sư
cụ triết lý (1935)
- Rửa
hờn (1935)
- Bộ
răng vàng (1936)
- Hồ
sê líu hồ líu sê sàng (1936)
- Mơ
ngày Tết (1936)
- Tết
ăn mày (1936)
- Lỡ
lời (1936)
- Người
có quyền (1937)
- Cái
ghen đàn ông (1937)
- Lòng
tự ái (1937)
- Đi
săn khỉ (1937)
|
- Máu
mê (1937)
- Tự
do (1937)
- Lấy
vợ xấu (1937)
- Một
con chó hay chim chuột (1937)
- Một
đồng bạc (1939)
- Đời
là một cuộc chiến đấu (1939)
- Bắt
vích (1939)
- Ăn
mừng (1939)
- Gương
tống tiền (không rõ năm viết)
- Đoạn
tuyệt (không rõ năm viết)
- Từ
lý thuyết đến thực hành (không rõ
năm viết)
|
Vinh danh
Tên ông được đặt
cho những con đường ở Hà
Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ
Chí Minh, Kiên Giang, Đồng Hới.
Nguồn
tham khảo
Tham
khảo khác
- ^ Trần Hữu Tá 2001,
trang 13-14
- ^ Trần Quang
Đại (ngày 26 tháng 3 năm 2008). “Sách giáo
khoa còn thiếu tính khoa học và
chuẩn mực”. Báo
Dân Trí. Truy
cập ngày 25 tháng 6 năm 2009. , có nhắc đến Giông
tố và Số
đỏ trong nội
dung Sách Ngữ văn 11 và 12
- ^ “Cấu trúc đề
thi ĐH-CĐ 2009 môn Văn, Sử, Địa,
Toán, Lý, Hóa, Sinh, Anh, Nga”. Báo Tuổi Trẻ.
ngày 27 tháng 11 năm 2008. Truy
cập ngày 6 tháng 8 năm 2019.
- ^ a ă â Dumb Luck: a
novel, bìa 4
- ^ Lại Nguyên
Ân (Ngày 7 tháng 11 năm 2005). “Vũ Trọng
Phụng và vụ án văn chương”. VnExpress. Truy
cập Ngày 6 tháng 8 năm 2019.
- ^ Hoàng Minh
Tường (Ngày 13 tháng 5 năm 2007). “Con rể nhà
văn Vũ Trọng Phụng: Kính xin ba chữ”. Báo Tiền Phong. Truy
cập Ngày 6 tháng 8 năm 2019.
- ^ Dumb Luck: a
novel, trang 4
- ^ a ă Dumb Luck: a
novel, trang 8
- ^ Dumb Luck: a
novel, trang 11
- ^ Trần Hữu Tá 2001,
trang 14, đây là danh hiệu do Lãng Nhân Phùng
Tất Đắc phong
cho Vũ Trọng Phụng.
- ^ Trần Hữu Tá 2001,
trang 15, bài báo "Ý kiến của một người
đọc: Dâm hay không dâm", ký tên Nhất
Chi Mai, viết trên tờ tuần báo Ngày
Nay ra năm 1937.
- ^ Vũ Bằng
(2008) [1969]. “Phần 2, Báo đấu
tranh”. Bốn mươi
năm nói láo, phần 2. Nhà xuất
bản Lao động.
- ^ Trần Hữu Tá 2001,
trang 9
- ^ “Nhà văn Vũ
Trọng Phụng và câu chuyện về ngôi mộ
giữa lòng Hà Nội”.
- ^ “Luật sở hữu
trí tuệ Việt Nam” (Thông
cáo báo chí). Truy
cập ngày 27 tháng 6 năm 2009.
- ^ “Tác phẩm của
Vũ Trọng Phụng bị vi phạm bản quyền”. Báo Lao động.
Ngày 13 tháng 5 năm 2005. Truy
cập ngày 27 tháng 6 năm 2009. [liên
kết hỏng]
- ^ Trọng
Thịnh (Ngày 16 tháng 5 năm 2005). “Rắc rối
chuyện trả tiền tác quyền cho nhà
văn Vũ Trọng Phụng”. Báo Tiền Phong. Truy
cập ngày 27 tháng 6 năm 2009.
Tham
khảo chính
- GS. Trần Hữu Tá (sưu tầm,
tuyển chọn, giới thiệu). Vũ
Trọng Phụng - Những tác phẩm tiêu biểu .
Nhà xuất bản Giáo dục.
- Vũ Trọng
Phụng. Peter Zinoman (biên tập). Dumb luck: a novel.
Nguyễn Nguyệt Cầm (biên dịch). University
of Michigan Press. ISBN
0472068040. Truy cập
ngày 25 tháng 6 năm 2009.