Hàng
năm
cứ tới ngày mồng 6 tháng 2 âm lịch
người Việt, nhất là phái nữ, con cháu hai
Bà Trưng, tổ chức lễ tưởng nhớ hai Bà. Chắc chắn
là ngày mồng 6 tháng 2 âm lịch này
không phải là ngày hai Bà Trưng trầm
mình xuống sông Hát. Ngày này cũng
không phải là ngày sinh nhật của hai Bà
và cũng không phải là ngày hai Bà
lên ngôi vua. Vậy thì tại sao, tổ tiên
chúng ta lại chọn ngày này để làm lễ tưởng
nhớ hai Bà? Tại sao trong một năm có 360 ngày
(tính theo âm lịch) tổ tiên ta lại chọn ngày
này? Hiển nhiên ngày này phải liên hệ
tới hai Bà. Vậy trước hết ta hãy tìm hiểu sơ qua
một chút về dòng dõi hai Bà. Theo lịch sử,
hai Bà Trưng là con cháu, dòng dõi
vua Hùng Vương. Hùng Vương đóng đô ở Phong
châu. Lê Ngô Các, Phạm Đình
Toái, đã ghi lại rành rành trong Đại Nam
quốc sử diễn ca:
Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận
người
tham bạo thù chồng chẳng quên.
Chị
em
nặng một lời nguyền,
Phất
cờ
nương tử, thay quyền tướng quân...
Như
thế hai Bà Trưng quê ở châu Phong thuộc dòng
dõi Hùng Vương. Hai Bà khi lên
ngôi đóng đô ở đất Mê Linh. Về ngôn ngữ
học Mê-Linh là một từ phát gốc từ một từ cổ Việt.
Theo tác giả Trần Quốc Vượng, ông dựa vào
các nghiên cứu tổng hợp các tài liệu lịch
sử, ngôn ngữ và truyền thuyết dân gian, Mê
(Ma,
Minh,
Mi) Linh là Mling. Mling, mlang (cặp tên
có tính chất lấp láy) theo tiếng của các
dân tộc Tây nguyên có nghĩa là một
loài chim... Mọi tài liệu đều nói lên một
cách thống nhất huyện đó, bộ lạc đó, khi xưa mang
tên một loài chim Mling với một thị tộc (bào tộc)
gốc thờ chim làm vật tổ. Đó là bộ lạc gốc thời
Hùng Vương dựng nước (Hùng Vương Dựng Nước, tập I,
tr.154). Đúng như giáo sư Trần Quốc Vượng nói,
trong dân ca Ê-Đê có bài hát
nhắc đến tên loài chim này:
Anh đến từ nơi
xa,
Anh
mang
theo chim mơ-linh từ nhà,
Chim
mơ-lang
từ buôn.
Anh
nghĩ
rằng
em là con gái chưa tơ vương...
(Vũ
Ngọc
Phan, Tục Ngữ, Cao Dao, Dân Ca, Việt Nam).
Nhưng
giáo sư Trần Quốc Vượng và các tác giả viết
về ca dao này không biết rõ chim mơ-linh, mơ-lang
là chim gì, chỉ giải thích một cách tổng
quát là một loài chim to, lông đen,
phía dưới cánh trắng hay lông nâu. Vậy
chúng ta thử nhận diện xem thứ chim mling mlang này
là chim gì? Tên chim có trong ngôn
ngữ các tộc Tây nguyên mà ta đã
biết rằng một số tộc Tây nguyên có liên hệ mật
thiết với một số tộc ở Mã Lai, Nam Dương và ngôn
ngữ Việt Nam liên hệ với ngôn ngữ Mã Lai, Nam Dương,
như vậy ta hãy tìm tung tích chim mling, mlang
này trong ngôn ngữ Mã Lai xem sao? Trong từ điển
Malay-English Dictionary của R.J. Wilkinson có từ lang:
a
generic
name for hauks, kites and eagles (một tên chủng loại
chỉ diều hâu và ó, ưng). Như thế chim lang,
chim linh chỉ chung loài mãnh cầm, loài chim mang
hùng tính biểu tượng cho đực, dương, phái nam, mặt
trời. Điểm này ăn khớp trăm phần trăm với hai từ lang
và linh trong Việt ngữ. Việt ngữ lang
là chàng, con trai. Chàng còn
có nghĩa là chiếc chàng, chiếc đục
(chisel). Chàng, đục là vật nhọn biểu tượng cho bộ phận
sinh dục phái nam, cho đực, dương. Linh ruột thịt với
Ấn ngữ linga (bộ phận sinh dục nam). Linh biến
âm với đinh theo kiểu linh đinh. Đinh
là con trai, thanh niên như tráng đinh, lễ
thành
đinh. Rõ ràng chim mlang, mling
là chim lang, chim chàng, loài chim mang biểu
tượng cho đực, dương, hùng tính, mặt trời. Ta thấy rất
rõ tổ Hùng Vương gọi là quan lang
(tiếng nôm Tầy quan có nghĩa là chàng),
theo
qui
luật từ đôi có nghĩa như nhau (Tiếng
Việt Huyền Diệu), ta có quan = lang = chàng. Như thế chim
lang là chim chàng (trai, đục) chim biểu của các
lang Hùng Vương. Ngoài ra từ hùng
có một nghĩa chỉ chim đực (thư hùng). Lang Hùng
có chim biểu là chim lang, chim hùng. Chim lang,
chim hùng theo nghĩa tổng quát như đã thấy ở
trên là loài mãnh cầm biểu tượng cho nọc,
đực, dương, mặt trời. Theo ngày nay đó là
loài diều hầu, ưng ó. Nhiều quốc gia hiện nay dùng
loài mãnh cầm này làm chim biểu tượng cho
quốc gia, ví dụ Hoa Kỳ lấy loài chim bald eagle
làm quốc biểu. Tuy nhiên đối với Đại tộc Việt dòng
dõi thần mặt trời Viêm Đế có vua tổ Hùng
Vương, tức Vua Mặt Trời Hừng Rạng (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng
Việt) thì chim Lang, chim Hùng (thuộc loài
mãnh cầm) là chim tổ tất phải là chim Việt.
Việt có nghĩa là vọt (que, nọc), vớt
(dao dài), vác (mác), Việt biến âm
với viết (que nhọn dùng để vạch, vẽ, viết trên
đất sét, đá, vỏ cây, giấy), Hán Việt Việt
có một nghĩa là rìu, búa nhọn. Tổng
quát Việt là vật nhọn biểu tượng cho đực, dương, măt
trời. Vậy chim lang, chim hùng là chim Việt, chim
rìu. Chim có mỏ to như chiếc rìu là
chim mỏ cắt (bồ các, hornbill). Vì vậy trong Việt
ngữ chim cắt còn gọi là chim rìu. Ta thấy rất
rõ chim lang (chim hùng, chim Việt) là chim
chàng (có một nghĩa là chisel) là chim đục,
chim rìu, chim Việt, chim cắt (bồ các). Chim cắt,
chim rìu là chim Việt, chim tổ của Đại tộc Việt là
chim biểu của đực, hùng, dương, mặt trời. Điểm này ăn
khớp trăm phần trăm với Mã Lai ngữ langling: the Southern
pied hornbill (chim cắt có lông sặc sỡ, nhiều màu ở
miền Nam).
Tóm
lại
chim
Mê Linh, mling, mlang, chim lang, chim chàng,
tổng quát là chim mang hùng tính biểu tượng
cho ngành, tộc dương, lửa, mặt trời. Đối với Đại tộc Việt
là chim Lang, chim Chàng, chim Hùng, Chim
Rìu, Chim Việt, chim Cắt, chim tổ của người Việt mặt trời rạng
ngời Hừng Việt, là chim biểu của vua tổ mặt trời hừng rạng
Hùng Vương.
Hai
Bà Trưng thuộc dòng ngoại Lửa Âu Cơ, nhánh
Hùng Lửa, Hùng Kì thuộc dòng
dõi Hùng Vương vì thế mới đóng đô ở
Mê Linh. Do đó ngày lễ mồng 6 tháng 2
âm lịch bắt buộc phải liên hệ với Hùng Vương. Bắt
buộc. Bắt buộc. Và bắt buộc.
Trong
Ca Dao Tục Ngữ, Tinh Hoa Dân Việt và nhiều lần
khác, tôi đã chứng minh những ngày giỗ Tết,
vía, kỷ niệm trong văn hóa Việt Nam như ngày lễ
Lạc Long Quân, Hùng Vương, Thánh Dóng
vân vân... đều chọn ngày tháng theo Dịch
lý. Vì vậy ngày lễ hai Bà Trưng bắt buộc
cũng phải chọn theo Dịch lý. Vì hai Bà
là dòng dõi Hùng Vương nên
ngày này tính theo Dịch phải dựa vào bản
thể của Hùng Vương. Hùng Vương đẻ ra từ một
cái bọc trứng mang hình ảnh bọc Trứng Vũ Trụ nên
có bản thể là bọc, bầu vũ trụ, bầu trời, khí
gió ứng với Đoài. Ở cõi tạo hóa,
Đoài là bọc khí gió và ở cõi
thế gian là bọc nước ấm, ao đầm (Việt Dịch Bầu Cua Cá
Cọc). Như vậy ngày 6 tháng 2 phải liên hệ với bản
thể Đoài của Hùng Vương.
Theo
Dịch, những giỗ ,Tết, vía, kỷ niệm thường có
ngày tháng là một kết hợp âm (số chẵn)
dương (số lẻ) ví dụ ngày giỗ tổ Hùng Vương
là ngày 10 (âm) tháng 3 (dương). Nhưng ở
đây ngày 6 tháng 2, cả hai số đều là số chẵn
tức số âm. Tại sao? Xin thưa, vì hai Bà Trưng
là phái nữ nên ngày lễ hai Bà đều
là hai số âm. Hai số âm cũng cho biết hai Bà
thuộc dòng ngoại Âu Cơ của Hùng Vương. Thật vậy,
ngày 6 theo Dịch số 6 là số Tốn, OII (gió
âm). Âu Cơ, theo dòng Lửa, có một dòng
máu Tốn nên có một khuôn mặt là chim
vì thế bà mới đẻ ra một bọc trứng chim nở ra trăm
Lang Hùng. Tốn OII là khuôn mặt âm ngược của
Đoài, IIO, theo dương Dịch, Tốn hôn phối với Đoài.
Tháng 2 với số 2 là số Khảm. Khảm 2 là một số
chẵn, số âm nằm ngay phía bên tay trái của số
3 (Đoài) nên số 2 là khuôn mặt âm của
số 3 (Đoài) (Đoài 3 là Đoài vũ trụ
có một khuôn mặt tạo hóa là bầu khí
gió vũ trụ). Kiểm chứng lại, ta cũng thấy rất rõ số 2
mang khuôn mặt Đoài qua ma phương Đoài 3/18:
Ma
phương
3/18 (lưu ý trong ma phương này số 1
còn tương đương với 10 và số 2 tương đương với 11).
Xin
nhắc qua một chút về ma phương (magic square). Ma phương
là gì? Nói nôm na giản dị là
hình vuông thần kì có 9 ô, trong mỗi
ô có một con số. Đọc theo tất cả các chiều, 3 con
số cộng lại đều bằng nhau. Ma phương 3/18 có con số
3 là con số trục nằm ở ô giữa hình vuông
và cộng các con số theo các chiều lại
bằng 18 (lưu ý trong ma phương này số 1 còn tương
đương với 10 và số 2 tương đương với 11). Như đã biết
trăm Lang Hùng đẻ ra từ bọc Trứng Vũ Trụ nên có
mạng Đoài vũ trụ. Số 3 là số Đoài vũ trụ ứng
với ma phương 3/18. Ma phương này cho thấy rõ mồn một
là số 2 = 11. Số 11 là số Đoài thế gian
(theo Dịch, số 3 là số Đoài tầng 1 tức Đoài vũ trụ
và số 11 = 3+8 là số Đoài tầng 2 tức
Đoài thế gian, nên nhớ là cộng 8 vì
các tầng cách nhau 8 quẻ). Đoài thế gian số 11
là khuôn mặt âm tức số 2 của Đoài vũ
trụ số 3. Ngày 6 (Tốn) hôn phối với Đoài
và tháng 2 (Khảm) là khuôn mặt âm của
Đoài vũ trụ 3 và tương đương với Đoài thế
gian 11. Rõ như hai năm là mười
là ngày lễ hai Bà liên hệ với bản thể
Đoài của Hùng Vương.
Một
lần nữa cho thấy muốn hiểu thông suốt văn hóa Việt ta phải
dựa vào Dịch lý để tìm hiểu. Không
nhìn dưới lăng kính Dịch học thì không bao
giờ hiểu thấu triệt được văn hóa Việt.
Tóm
lại
hai
Bà Trưng dòng dõi Hùng Vương
nên ngày lễ hai Bà mồng 6 tháng 2
âm lịch là ngày tháng liên hệ với hai
khuôn mặt tạo hóa (hay truyền thuyết) và thế
gian (hay lịch sử) của bản thể Đoài Trứng Vũ Trụ của Tổ
Hùng Vương.
Tài
Liệu
Tham
Khảo
.Trần
Quốc Vượng, Hùng Vương Dựng Nước, NXB KHXH, Hà Nội,
1972, tập I, tr.154).
.Lê
Ngô
Các,
Phạm Đình Toái, Đại Nam quốc sử
diễn ca.
.Vũ
Ngọc Phan, Tục Ngữ, Cao Dao, Dân Ca, Việt Nam.
.R.J.
Wilkinson
Malay-English
Dictionary.
.Hoàng
Triều
Ân,
Từ Điển Chữ Nôm Tầy, NXB KHXH, Hà Nội 2003.
.Nguyễn
Xuân
Quang:
-Khai
Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt (Y Học Thường Thức, 1999).
-Ca
Dao Tục Ngữ, Tinh Hoa Dân Việt (Y Học Thường Thức, 2002).
-Tiếng
Việt Huyền Diệu (Hừng Việt, 2004).
-Việt
Dịch Bầu Cua Cá Cọc (Hừng Việt, 2006).
|