Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
Ý
nghĩa những hình vẽ trên bề mặt trống đồng Ngọc Lũ
Bài từ Tủ
sách Khoa học VLOS
Tìm hiểu ý nghĩa
những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ
( Việt Nam Văn Minh Sử - Lê Văn Siêu )
Lời nói đầu :
Theo sự phân loại của Hê-gơ, và bản tổng
kê của các nhà khảo cổ tại miền Bắc, trong
sách Thời Đại Đồng Thau, những trống đồng loại 1 phát
hiện ở Việt Nam khoảng trên 70 chiếc. Số lượng tìm thấy
đã hơn bất cứ một miền nào khác. Mặc dầu tướng
Mã Viện đời Đông Hán khi qua đánh Giao Chỉ,
đã tịch thu không biết bao nhiêu trống nữa, để
đúc con ngựa kiểu mà chơi, và đúc
cái cột đồng khắc chữ “Đồng Trụ chiết Giao Chỉ diệt“.
Những trống loại 1 đã thấy khá nhiều tại Thanh
Hoá để có thể đoán chắc rằng Thanh Hoá
là nới sản xuất và những trống cùng loại thấy ở
các nơi khác ( Hà Đông, Hà Nam,
Hà Nội, Hải Phòng, Hoà Bình, Cao Bằng,
Lào Cai, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định, Nghệ An)
là những trống được kịp thời giấu đi. Đó là những
trống có thể đoán được là của các tù
trưởng đã thuê lò Thanh Hoá đúc.
Đó là những vật biểu tượng quyền uy của tù trưởng.
The Dong Son bronze drums
Trong những di vật quý giá này , trống
thuộc loại vừa kể, thuộc loại đẹp nhất, vẫn là trống tìm
thấy năm 1902 ở Ngọc Lũ ( tỉnh Hà Nam ) hiện để tại viện bảo
tàng lịch sử ở Hà Nội.
Các nhà khảo cổ có tinh thần khoa học
mới, khi nghiên cứu về những di vật ấy chắc sẽ hứa hẹn nhiều
khám phá về kỹ thuật, niên đại, tương quan tạo
tác, tương quan sản xuất, xã hội, cả về trình độ
tiến hoá mỹ thuật của dân tộc.
Chúng tôi nghiên cứu lịch sử, không
bị ước thức bởi những mô thức, nên tự thấy được rộng tay
đóng góp một phần tìm tòi thuộc về nội dung
những hình vẽ. Tất nhiên không thiếu gì
nhà khoa học mới mỉm cười cho là tưởng tượng, nhưng
tìm hiểu ý nghĩa của một hình vẽ củ không
có lời chú giải của tác giả bên cạnh,
mà chẳng dùng tưởng tượng thì dùng
cái gì ? Người ta đã tưởng tượng đây
là bộ lạc thờ thần mặt trời, mặt trăng, hay thờ chim vật tổ.
Nhưng có tinh thần khoa học nào cấm người khác
không được có tưởng tượng khác, nhất là khi
tưởng tượng này có thể hữu lý, dễ đúng
hơn ? Huống chi chúng tôi có ở đây
khá đủ những căn cứ của nền cổ học phương Đông mà
dường như nhiều nhà khoa học mới vì lẽ nào
đó không để ý tới khiến sự nhìn vào
di sản văn hoá cũ ở Đông phương, mà thuần bắng con
mắt Tây phương, thì có thể sẽ quên những
khía cạnh quan trọng ở nột dung chăng ?
Chính vì ngại chuyện ấy mà chúng
tôi có bản viết này, riêng đề cập tới
hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, ước mong cho rằng
nó sẽ là chìa khoá để mở nhiều những kho
tàng khác có thể có trên những mặt
trống khác. Chúng tôi không nói tới
hình vẽ ở tang trống vì nó có giá
trị trang trí nhiều hơn là thực tiễn.
Trống đồng Ngọc Lũ
Kể từ ngày cái trống này được moi ra khỏi
chổ chôn giấu đến nay, những hình vẽ trên mặt trồng
vẫn là một thách đố đối với các nhà khảo cổ
học, cũng như với nhân dân Việt Nam muốn tìm hiểu
nó định nói cái gì ?
Chúng tôi rất kính phục và cảm ơn
các nhà khảo cổ Tây phương nhất là ở trường
Viễn Đông Bác Cổ Pháp, để rất nhiều năm
tháng và tâm tư cùng đem những sử học,
mày mò, khảo sát, suy luận và giả thiết.
Các vị ấy đã viết nên cả những bộ sách lớn
khiến trống đồng trở thành một vật nổi tiếng trên Thế
Giới. Nhờ các vị mà rất đông những nhà học
giả của nước chúng tôi khi đề cập đến di sản văn
hoá này cũng đã khiến được cho quần chúng
bình dân biết đại khái rằng ngày xưa
các bộ lạc của tổ tiên mình thờ vật tổ là
con chinh tên là Lạc, thờ thần mặt trời ( vì
hình vẽ ở trung tâm mặt trời loé ra nhiều tia
sáng),lại có những hình người đội mũ cánh
chim, mặc áo xòe ra như lông cánh chim, rồi
có cả mắt chim ở đầu mũi thuyền, đầu mũi tên, trên
mái chèo, bánh lái thuyền, …
Nhiều vị xác quyết rằng bộ lạc cổ xưa này sau
đó di cư đến các hải đảo Thái Bình Dương,
nên có liên hệ bà con với bộ lạc Dayak ở
Bornéo, còn có hình thuyền giống như
trên trống dùng vào dịp tang lễ. Nhiều vị
khác còn thêm tại miền Bắc có bộ lạc hay
hoá trang cái đầu thành đầu chim trong lễ nghi
cúng kiếng theo điệu trống đồng.
Trống vốn không biết nói, cũng không biết
thế nào mà dám cãi. Thôi thà
tuỳ người ta nhớ được một tiền tích nào ở đâu
thì sẵn ghép cho nó những nội dung khác
nhau. Ra sao nó cũng phải chịu.
Chúng tôi chỉ trộm nghĩ rằng, trống đồng xưa chỉ
tù trưởng mới được phép có, nó như một ấn
ngọc tỷ, biểu tượng uy quyền của vị Hoàng Đế, người ta chả
nên lầm mà hiểu nó như một sản phẩm công nghệ
để trao đổi trong phiên chợ, và hiểu những hình vẽ
là để cho vui mắt người mua dùng.
Việc cần là tìm cái ý tiên
khởi của người xưa gởi gắm vào hình vẽ và nếu
có thể được thì tìm hiểu xem hình vẽ
đó để làm gì ?
Tạm coi là hình mặt trời ở giữa mặt trống, nhưng
sao lại 14 tia sáng mà không hơn,
không kém ?
Sao lại chỉ có 18 con chim ?
Sao lại có 6 con gà, 10 con
hươu ? Rồi 8 con gà 10 con hươu nữa ?
Nếu làm cho đẹp sao không làm đều
nhau ?
Có lẽ chăng đây là cái trống của
người tù trưởng quản lãnh 14 vị tù trưởng nhỏ
khác mà tiếng trống đánh lên thì 14
nơi kia đều phải nghe ?
Hoặc đây là một đám rước và người
ta hoá trang chăng ? Nhưng đâu là đầu,
đâu là cuối đám rước ? Và sao lại
có người giã gạo ? Người ngồi nhà
sàn ?
Tài ba và nhiệm vụ của tù trưởng
Một tù trưởng hẳn phải có nhiều đám
dân đến hỏi những việc thuộc đời sống hằng ngày của họ.
Ông phải có hiểu biết gì hơn họ và chỉ bảo
họ ra sao ?
Chẳng hạn, có đám hỏi đêm nay có
thể đi săn được không ?
Liệu có trăng không ? Trăng lên
vào chặp tối hay gần sáng ?
Ngày mai nước có lên không ?
Có thể cho thuyền ra khơi đánh cá được
không ?
Mùa này nên ở nhà hay đi hái
trái ?
Đã nên giả gạo để ủ làm rượu dùng
vào ngày lễ nào đó chưa ?
……
Ông tù trưởng phải có nhiệm vụ biết
ngày giờ, sáng tối, trăng tròn trăng khuyết, tiết
trời nóng lạnh, mưa gió, con nước, tình
hình muôn thú, cũng như những dịp lễ lạt phải chuẩn
bị trước. Sự tích lũy kinh nghiệm của nhiều đời tù
trưởng đã phải được ghi lại, cũng như phải có
gì để mà ghi lại, để mà làm việc và
hướng dẫn quần chúng.
Một quyển lịch cổ xưa
Vì các lý lẽ trên, vị tù
trưởng phải có một quyển lịch năm, tính theo tuần trăng,
theo mùa màng khí tiết, đặt ngay cạnh mình,
để dân hỏi gì là tra ngay ra được câu trả
lời.
Lịch ấy vạch trên đồ đất nung thì dể vỡ, dễ
mòn, không truyền được nhiều đời. Vạch trên mặt
trống đồng thì thật là tiện, gọn, đúng với vật
biểu tượng uy quyền của mình cùng cả dòng
tù trưởng.
Vậy những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc
Lũ là một quyển Âm Lịch, có tháng
đủ, tháng thiếu, có đêm trăng tròn, trăng
khuyết, hay không có trăng, lại có cả năm nhuận
và chu kỳ 18 năm để tính tháng dư, cũng như
có những chỉ vạch về 4 mùa trong năm.
Nếu vậy thì không những không có
gì là mê tính ( thờ chim, vật tổ mặt trời,
mặt trăng, ca vũ để cầu thần linh,…) mà có vẻ như người
xưa còn có tinh thần thực tế, hợp lý, khoa học,
chính xác, chưa biết chừng người đời nay còn phải
giật mình là đằng khác nữa.
Cách đếm ngày và đêm
Năm âm lịch theo kinh nghiệm nhiều đời nghiên cứu
mặt trăng, vẫn được tính là 354 ngày ( dương lịch
tính 365 ngày ) chia ra cho 12 tháng, thì
mỗi tháng 29 ngày gọi là tháng thiếu
và có dư 6 ngày để thêm vào cho 6
tháng khác gọi là tháng đủ.
Vậy một năm âm lịch có 6 tháng 29
ngày và 6 tháng 30 ngày.
Cứ năm năm lại có hai năm mỗi năm dư 1 tháng,
gọi là năm dư tháng nhuận.
Và cứ sau năm thứ 18, qua năm thứ 19 gọi là 1
chương thì lại không tính là năm dư, chỉ
có 12 tháng thôi, kể như là năm thường vậy.
Do đó, vòng hình vẽ 18 con chim
mỏ dài cánh lớn ở ngoài cùng là
hình vẽ một chu kỳ 18 năm, mỗi con chim ấy là 1 năm.
Vòng hình vẽ thứ nhất ở trong cùng gần
trung tâm có 6 người trang phục kỳ dị mỗi bên
vòng tròn đối nhau, đã không phải người Giao
Chỉ ăn bận như thế, mà đó là những vị thần cai
quản mỗi vị 1 tháng, trong 6 tháng đầu ở 1 bên
và 6 tháng cuối mỗi năm. Thêm có một
hình người thấp bé hơn cạnh 6 người ở một bên,
đó là để ghi tháng nhuận của năm dư.
Vòng hình vẽ thứ nhì ở giữa, có 6
con gà, 10 con hươu, rồi lại 8 con gà, 10 con hươu, ấy
là hình vẽ những con vật tương trưng. Gà chỉ
đi ăn vào ban ngày, Hươu đi ăn vào đêm trăng
sáng. Có 6 đêm vào đầu tháng từ 1
đến 6 không trăng; và 8 đêm vào cuối
tháng từ 22 đến 30 cũng không trăng. Những đêm ấy
không đi săn thú được. Và sau đó, khi
có trăng thì có thể tổ chức đi săn đêm.
Theo kinh nghiệm cũ truyền mãi tới ngày nay,
có 6 đêm đầu tháng không trăng, người ta
tính :
Mồng 1 lưỡi trâu - Mồng 2 lưỡi gà - Mồng 3 lưỡi
liềm - Mồng 4 câu liêm - Mồng 5 liềm vật - Mồng 6 phạt cỏ -
Mồng 7 tỏ trăng, là bắt đầu tuần trăng sáng.
Tuần trăng sáng kia dài đến đúng
đêm 10 rằm trăng náu (đáo : đủ ). Mười
sáu trăng treo ( chiêu : sáng sủa ). Mười bảy
trải giường chiếu ( rủ giường chiếu ). Mười tám giương cạm (
trương : xếp đặt, chẩm : cái gối ). Mười chín
bịn rịn (bị : áo ngủ đắp trùm, rị : tối ). Hai
mươi giấc tốt ( ngủ ngon ). Hai mốt nữa đêm ( mới có trăng
).
Từ 22 lại vào tuần không trăng, ( 22 – 30 )
nên không cần tính nữa.
Cái hoa 14 cánh ở trung tâm không
phải là hình mặt trăng hay mặt trời của bộ lạc thờ những
tinh thể ấy, đó là hình vẽ để đếm đêm
và ngày.
Đêm là khoảng cách nằm giữa mỗi 2
ngày, trong cả tháng 29 ngày. Tổng số khoảng
cách ấy là 28 nếu là tháng thiếu, 29 nếu
là tháng đủ.
Cái hoa 14 cánh, đếm hết vòng thứ nhất từ
1 đến đêm trăng tròn (15, đêm rằm ) và đếm
vòng thứ 2 nữa, từ 16, thì lại trở về đêm
không trăng (đêm 30).
Bắt đầu đếm từ đâu ?
Tìm ra đầu mối là vấn đề quan trọng. Chỉ
có 1 điểm trong cả vòng tròn để dùng khởi
đầu cuộc đếm. Ấy là điểm chỉ vào đêm 30 không
trăng.
Ta biết rằng vào đầu tháng có 6 đêm
không trăng.
Vậy điểm khởi đầu để xem lịch phải nằm ở đuôi con
gà cuối cùng trong dòng 6 con.
Thực hành việc ghi lịch và xem lịch :
Người ta có thể dùng một chất màu (son
phấn, mực đen) mà bôi lên hình của mỗi
cánh hoa khi có 1 đêm qua. Chẳng hạn đến
cánh thứ tư mà vòng ngoài chưa có
gì cả thì đó là đêm mồng 4
tháng giêng năm đầu của chu kỳ. Nếu vòng
ngoài đã có 3 hình người tượng trưng cho
tháng và vòng ngoài cũng đã
có 6 con chim bị bôi rồi thì đó là
đêm mồng 4 tháng tư năm thứ 7 của chu kỳ.
Người tù trưởng có thể lấy năm đầu của
mình chấp chưởng quyền lãnh đạo làm năm đầu chu
kỳ. Khi nhìn vào lịch thì biết rõ
mình đã cai trị được bao nhiêu năm.
Con vật nhỏ theo sau mỗi con CHIM THỜI GIAN của một
năm là để dành ghi năm nhuận 13 tháng. Cứ 5 năm
thì bôi màu đánh dấu vào hai con vật
nhỏ ấy, để hết tháng sáu nữa mới bôi vào
tháng 6.
( Việc làm có vẻ mất công. Như ngày
nay, mỗi ngày người ta cũng phải bóc một tờ lịch,
và nếu lịch tháng thì mỗi ngày cũng phải
lấy bút đánh dấu để hết tháng thì xé
một tờ ).
Quyển Âm Lịch dùng cho nhiều năm :
Như vậy, ta thấy quyển lịch này dùng được cho nhiều năm
và chúng tôi nghĩ rằng ngay cả bây giờ vẫn
dùng được, để có thể mệnh danh là Nguyệt Lịch Vạn
Niên.
Làm sao biết chính xác năm nào
nhuận vào tháng nào ?
Điều ấy chưa có tài liệu nào khác để hiểu
thêm. Có lẽ người xưa đã dùng lối
chiêm nghiệm về khí tiết trong nhiều năm, nhiều chu kỳ,
thấy có diễn biến trở lại như cũ mà bồi bổ dần cho sự
hiểu biết chăng ?
Biết đúng tháng nào đủ, thiếu , hoặc hai
ba tháng đủ liền, hai ba tháng thiếu liền, và nhất
định vào đâu trong năm, tất cũng do chiêm nghiệm.
Hoặc còn một dụng cụ để ghi nhớ nào khác,
trên một mặt trống khác, hay một vật nào
khác mà ngày nay chưa tìm ra ?
Điều ta có thể biết chắc được là người xưa
đã quan sát tinh tế rồi chiêm nghiệm trước, sau mới
tính toán, để lại chiêm nghiệm nữa, mà kiểm
điểm những tính toán kia.
Sách Xuân Thu Tả Truyện có chép
rằng : mùa đông tháng 12 (Năm Ai Công
thứ XII) có châu chấu phá hoại. Quý
Tôn hỏi Khổng Tử, ông đáp : “Tôi nghe
rằng: chiều mà không thấy sao hoả nữa thì côn
trùng ẩn phục hết. Nay sao hoả vẫn còn thấy chuyển vận về
phía Tây, chắc các nhà làm lịch
đã lầm”. Ý nói theo lịch Trung Hoa là
tháng chạp. Đáng lý ra thì sao hoả
không còn thấy được vào buổi chiều. Sâu bọ
phải ẩn phục hết rồi vì lạnh. Thế mà nay sao hoả vẫn
còn thấy hiện, côn trùng còn phá
phách, như vậy các nhà làm lịch Trung Hoa
thời ấy đã lầm, đáng lẽ phải có tháng nhuận
nữa mới phải.
Đó chính là thể thức và phương
pháp làm lịch chung cho cả mọi giống dân trên
thế giới, mà quyển lịch trên mặt trống đồng Ngọc Lũ
đã có sẵn những gì để phòng hờ chỗ ghi năm
dư tháng nhuận, thì trước khi nó hiện ra là
một bảng lập thành, dòng dõi các
tù trưởng Giao Chỉ không phải chỉ chừng năm ba thế hệ.
Chúng ta có thể đoán không sợ sai lầm
là ít nhất cũng phải mươi cái chu kỳ 180 năm (tức
ít nhất là 1800 năm cho đến khi cái trống Ngọc Lũ
đầu tiên được đúc), còn hơn nữa thì
không dám biết.
Những kết quả chiêm tinh lịch số riêng :
Vâng, riêng của dòng tù trưởng Giao
Chỉ. Đây là những bằng chứng hùng hồn nhất cho biết
đích xác hồi đầu lịch sử, giống dân Giao Chỉ ở gốc
tổ sống mà chẳng dính dáng gì về văn
hoá với giống người Trung Hoa.
Người Trung Hoa cho rằng nền thiên văn của họ bắt đầu
với Phục Hi, khoảng 2850 năm trước kỷ nguyên Tây lịch. Đến
đời Hoàng Đế ( 2657 – 2557 ) ta đã thấy họ dùng
cách tính năm tháng theo chu kỳ lục thập hoa
giáp ( chu kỳ 12 năm ). Hán thư Nghệ Văn Chí
có ghi : “Hoàng Đế ngũ gia lịch tam thập quyển”.
Cháu ba đời Hoàng Đế là Chuyên Húc
(2545 – 2485 ) rất có nhiều về thiên văn. Trúc Thư
Ký Niên viết : Sau khi lên ngôi được 13
năm, vua bắt đầu làm lịch số, và tính toán
vị trí các sao trên trời. Xuân Thu Tả Truyện
cũng ghi nhận rằng đời vua Chuyên Húc đã có
những quan coi về lịch, về nhị phân (xuân phân, thu
phân) và nhị chí (đông chí, hạ
chí) và đoán được các ngày đầu
mùa ( Xuân Thu Chiêu Công năm XVII ). Đời vua
Nghiêu ( 2356-2255) đã biết vị trí nhị thập
bát tú, nhật nguyệt ngũ tinh, đã định năm
là 365 ngày, đã biết đặt tháng
nhuận.
Riêng dòng tù trưởng Giao Chỉ, một
mình hùng cứ một cõi trời nam, thì
tính năm 354 ngày với 6 tháng đủ, 6
tháng thiếu trong một năm, cho đúng với tuần trăng
và khí tiết, mà đến ngày nay, âm lịch
từ Trung Hoa in đem qua bán, cũng tính theo như thế. Nếu
cần tính sổ vay mượn, thì có lẽ người Trung Hoa
đã thiếu nợ của ta vậy.
Lịch in vào sách và lịch khắc
trên mặt trống :
“Hoàng Đế ngũ gia lịch tam thập tam quyển”. Thật
đã rõ: người Trung Hoa in lịch trên sách
và lịch 365 ngày. Người giao Chỉ khắc lịch vào mặt
trống đồng và lịch 354 ngày. Người Trung Hoa dùng
Thiên Can, Địa Chi tính năm tháng ngày theo
chu kỳ thập lục hoa giáp. Người Giao Chỉ tính chu kỳ 18
năm và những bội số của 18 ấy. Tỉ như 180 là gồm 3 lần
lục thập hoa giáp (180=3x60) . Kết quả vẫn như nhau vậy .
Riêng việc có một sáng kiến sắp xếp
ngày tháng năm của quyển lịch cho tiện dụng hàng
vạn năm thì đã thật là một sáng chế
không kém cõi về khoa học, hợp lý, nhất
là khi chúng ta được biết chưa thấy dẫn nước nào
có một quyển lịch như vậy (Âm lịch hay Dương lịch ).
Đi sâu vào chi
tiết :
Hướng tiến chung :
Tất cả các hình vẽ chim, gà, hươu, người,
đều tiến theo một hướng trong vòng tròn, từ trái
qua phải, thuận theo chiều quay của Trái Đất đối với người quan
sát, day mặt về hướng Bắc ( ngược chiều quay của kim đồng
hồ ).
Bởi lịch này là nguyệt lịch nên đặt tất cả theo
chiều quay chung ấy.
Phương tí ngọ :
Đặt đúng khởi điểm của lịch ở cuối con gà trong
dòng 6 con như đã nói, thì phương tí
ngọ (bắc nam) chếch qua tia cuối bên tay trái của 14 tia ở
trung tâm. Ấy là tiết đông chí nhất dương
sinh, ngày đầu năm thiến văn, các loại vật đông
miên bừng tỉnh dậy và mầm của cây cối cũng bắt đầu
đội vỏ đâm lên.Ta gặp trên đường thẳng vạch từ trung
tâm ra vòng thứ nhất, hình vẽ của những gì
như người ở trong nhà sàn vừa tỉnh dậy.
Còn kéo thẳng đường ấy ngược lên
phái Nam , là thái dương cư ngọ, ấy là
ngày hạ chí, trời nóng nực. Ta gặp hình vẽ
của những gì như người làm việc đồng án vắng
nhà.
Phương mẹo dậu :
Từ Tây sang Đông hới chếch lên, không
vuông góc với Nam Bắc, ta gặp ở 2 đầu trên đường
thẳng vạch tại vòng tròn thứ nhất, hai cái
hình giống nhau, cùng khum tròn với 2 cột 2
bên, ở giữa một bệ như bệ thờ. Ấy là Xuân
phân, Thu phân, khí trời mát mẻ, mọi người
phải lo làm việc tế lễ.
Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này
chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ
để làm lịch.
(Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách
Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn :
Không những bóng mặt trời khác ở những ngày
nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày
ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày
nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc
khác nhau).
Chúng ta không còn những dụng cụ của người
Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải
có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có
những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta
dùng nó như những cái mốc thời gian mà
làm lịch.
Phương tí ngọ và phương mão dậu với
chòm sao bắt đẩu :
Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam
Đông Tây như vừa nói, thì trống tất
nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù
trưởng.
Do đó ngoài công dụng làm
lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc,
khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về
trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay
đường bộ.
Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ
cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán
vì chỉ có một cái và lại đặt như thế.
Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về.
Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng
không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ
xem sao mà xoay hướng thuyền.
.
Hình thuyền trên
thân trống đồng Ngọc Lũ.
Các hướng Đông Tây được ước định theo chiều xoay của
kim đồng hồ. Đó là khi người ta quan niệm Trái Đất
đứng yên một chỗ, chỉ mặt trời mọc đằng Đông , lặn đằng
Tây.
Nhưng khi người ta chiêm nghiệm và quan niệm Mặt
Trời đứng nguyên vị và Trái Đất chạy xung quanh Mặt
Trời theo quỹ đạo thực của nó, thì phương hướng lại được
ước định như sau :
Vì vậy, trên mặt trống đồng ta thấy :
Vấn đề hướng Đông Tây, theo sử gia Hy Lạp Hérodote,
ở thế kỷ V trước CN, khi tiếp xúc với các tu sĩ Ai Cập,
ông được các vị này cho biết trải qua 341 thế hệ
thiên vương Ai Cập ( tính ra 11 ngàn năm )
đã có 4 lần mặt trời mọc và lặn ở phương
khác nhau. 2 lần nó đã mọc ở phía nó
lặn bây giờ và 2 lần nó đã lặn ớ phía
nó mọc bây giờ.
Nhà học giả Nga Immanuel Velikovsky khi dẫn điều ấy
trong sách “Tinh Cầu va chạm” ( Modes en collision ) còn
nhắc thêm nhiều cổ tự Ai Cập khắc trên lá giấy
papyrus nói về sự lộn ngược của Trái Đất hồi 2
thiên niên kỷ trước Tây lịch, không thể cho
là mơ hồ được những lời như : Harakhte ( mặt trời chiều )
mọc ở phương Tây. Ông lại dẫn thêm những chữ khắc
trong các kim tự tháp : “Mặt Trời đã
thôi ở phương Tây và bắt đầu chói sáng
ở phương Đông”. Sau khi có hiện tượng đảo ngược phương
hướng ấy, thì danh từ phương Tây và mặt trời mọc
đã không còn đồng nghĩa với nhau nữa, mà
người đời đã phải nói thêm để xác
định : l’Quest, qui est à l’Occident (phương Tây
là ở về phương Tây).
Theo luận cứ của tác giả thì đó là
kết quả của hiện tượng lộn ngược trục xoay của Trái Đất.
Chúng tôi chưa dám tin là đúng như
vậy, bởi vì đúng như vậy thì kể từ ngày đổi
phương hướng Đông Tây ấy, mà chữ khắc trong kim tự
tháp ghi nhận, và đây mặt trống vẽ ra khi chưa đổi
phương hướng, người ta tất phải chiếu theo để ước định rằng quan niệm
và chiêm nghiệm này có tuổi thọ xưa hơn quan
niệm và chiêm nghiệm ghi trong kim tự tháp.
Quan sát mặt trăng và thuỷ triều :
Tù trưởng cần biết đích xác thuỷ triều
lên xuống để chỉ dẩn dân chúng làm ruộng hay
ra khơi. Cho nên ông cần ngồi đồng hướng mới nghiên
cứu được mặt trăng và con nước.
Kinh nghiệm không sai dạy từ xưa đã cho biết
rằng :
· Mặt trăng đến phương Mão Dậu thì thuỷ
triều dâng lên ở phía Đông, Tây. Mặt
trăng đến phương Tí Ngọ thì thuỷ triều dâng
lên ở phía Bắc, Nam .
· Từ mồng một đến ngày rằm, con nước thường chậm
một đêm. Từ ngày rằm đến ngày mồng một, con nước
thường chậm một ngày. Trước và sau ngày mồng một
và ngày rằm, mặt trăng đi mau hơn, cho nên 3
ngày trước cuối tháng thì con nước thượng thế lớn
hơn.
· Ba ngày sau ngày mồng một, con nước
đương thế to tát. Trong ngày rằm con nước cũng như thế.
Trong thời trăng lưỡi liềm, mặt trăng đi hơi chậm, cho nên con
nước lên xuống hơi kém.
· Trong một tháng, con nước lên mạnh sau
ngày mồng một và ngày rằm.
· Trong một năm, con nước lên mạnh vào
giữa mùa xuân và mùa thu.
· Con nước ban ngày trong mùa hạ
thì to ………
Đó là những chiêm nghiệm của người ở hải
khẩu vùng sông Mã, người ở Phong Châu trong
đất liền sợ không có chiêm nghiệm ấy.
Con chim thời gian :
Trên mặt trống ở vòng ngoài cùng,
kể như vòm không gian, ta thấy vẽ những con chim mỏ
dài cánh lớn đang bay. Không phải là chim
vật tổ, mà đó là biểu tượng của một năm qua, do
người ta quan sát thấy con chim ấy bay vút ngang trời
vào mùa này năm ngoái, thì năm nay
cũng mùa này, cỡ ngày này lại thấy
nó bay.
Chu kù 18 con chim :
Tức là đã có chu kỳ 18 năm. Sở dĩ chỉ
có 18 không hơn không kém số ấy là
vì người ta dựa theo thang biểu 9 năm trước để tính
ngày nguyệt sóc 9 năm sau.
Sách Vân Đài loaị ngữ của Lê
Quý Đôn có chép định thứ tính lịch
như sau :
Ngày mồng một của mỗi tháng vốn từ xưa đã
có phép tắc.
Quy định ngày ấy của 9 năm trước đem dùng lại để
quy định ngày ấy của 9 năm sau.
Gặp ngày ấy của tháng đủ ở 9 năm trước
thì đếm liên tục từ can cũ của ngày ấy đến can thứ
năm, từ chi cũ của ngày ấy đến chi thứ chín ( theo số lẻ,
để định can chi cho ngày ấy tháng ấy của chín năm
sau ).
Gặp ngày ấy của tháng thiếu ở 9 năm trước cũng
đếm như thế, nhưng dùng can thứ 4, chi thứ 8 ( theo số chẵn để
định can chi cho ngày ấy tháng ấy ở chín năm sau
).
Gặp năm thứ 36 = 6x6 = 18x2 của chu kỳ thì nên
lưu ý suy tính cho kỹ. Phải tính xem trong
vòng 36 năm ấy có bao nhiêu số lẻ thuộc về tiết
Hàn lộ. Rồi ông lấy thành quả ấy để quy định
ngày Lập Xuân của năm mới này.
Nếu tính toán theo căn bản đó thì
không sai lầm.
Bốn mươi bảy năm về trước có nhuận vào
tháng nào thì nay phải gia thêm 2
tháng để tính tháng nhuận. Giảm tăng như thế
thì không sai vào đâu được.
Tất cả các phép tính trên đây
có thể có bàn tay mà tính ra được.
Ví dụ :
Giả như năm Mậu Tý, tháng giêng là
tháng thiếu, ngày mồng một là ngày Ất Dậu,
can ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu đến chi thứ tám
là Thìn. 9 năm sau là năm Bính Thân,
tháng giêng ngày mồng một là ngày Mậu
Thìn.
Giả như năm Mậu Tý, tháng hai là
tháng đủ, ngày mồng một là ngày Giáp
Dần. Can giáp đến can thứ năm là can Mậu, chi dần đến chi
thứ chín là chi Tuất, 9 năm sau là năm Bính
Thân, tháng 2 ngày mồng một là ngày
Mậu Tuất.
Cũng trong Vân Đài loại ngữ của Lê
Quý Đôn còn có bí quyết tính
ngày mồng một và ngày rằm như sau :
Mồng một tháng giêng của 9 năm trước là
ngày Thìn.
Ngày rằm tháng hai của 9 năm sau cũng là
ngày Thìn.
Mồng một thàng hai của 9 năm trước là
ngày Thìn.
Ngày rằm tháng hai của 9 năm sau cũng là
ngày Thìn.
Chúng ta chưa biết rõ người Giao Chỉ khi quan
niệm lịch với chu kỳ 18 năm đã gọi tên tháng như
thế nào, và đã những số can chi gọi bằng những
tên nào khác để tính ngày ra sao.
Nhưng hẳn đã phải có thì đời sau mới noi theo
bí quyết cũ mà làm những bài thơ đặt
công thức cho người làm lịch. Cả những kết quả chiêm
nghiệm về khí tiết, tháng nhuận., ngày Lập
Xuân,… hẵn cũng đã phải có để người đời sau chỉ
tuân theo thôi.
Sáu con gà và tám con
gà :
Sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” đã dẫn lời
sách Hoàn Vũ ký mà cho biết rằng : ở
Ái Châu về huyện Di Phong có giống gà gọi
là Trào Kê, khi tới kỳ nước triều lên
thì gáy để báo tin. Sách ấy cũng có
nói tới một giống gà khác ở mạng thượng du
là Cẩm Kê, lông có nhiều sắc xanh đỏ trắng
xen lẫn như nền gấm.
Trên mặt trống, có thể chắc được là người
ta vẽ hình con Trào Kê, một đặc sản địa phương
có linh tính hữu ích cho cuộc sống, lại có
liên hệ tới công dụng của trống về sự quan sát thuỷ
triều.
Nhưng tại sao lại vẽ sáu con gà sau ngày
mồng một và ngày rằm. Trong khi theo kình nghiệm
chỉ 3 ngày trước và 3 ngày sau những ngày
ấy thì con nước mới ở thế lớn hơn ? Và tại sao lại
vẽ tám con gà bên kia vòng tròn, sau
và trước 10 con hươu ?
Phải chăng để nói về 6 đêm đầu tháng
và 8 đêm cuối tháng không trăng, không
nên tổ chức đi săn đêm?
Mười con hươu lại 10 con hươu :
Hươu vẽ ở đây là hươu sao, có đốm
lông trên mình, và vẽ thành từng
cặp : đực đi trước, cái đi sau, tất cả đều có sừng.
Đó là con vật có tên là lộc, hay ở
núi cao, tiết Hạ Chí rụng sừng ( khác hẳn với nai,
chỉ con đực có sừng và hay ở hốc núi nên
tiết Đông Chí rụng sừng).
Theo tục truyền thì hươu thuộc loài tiên
thú, 60 năm ắt có ngọc quỳnh, ở gốc sừng có dấu
tích lấm chấm sắc tím. Do đó cổ ngữ nói con
hươu có ngọc nên sứng vằn, con cá có
châu nên vảy tím. Đặc biệt hơn là hươu trắng,
người xưa coi hươu trắng xuất hiện là một điềm may. Cho
nên hễ bắt được nó thì người ta dâng về cho
vua và sẽ được thưởng.
Theo tài liệu của sách sử và địa
lý cũ, chỉ Thanh Hoá có nhiều loài
này. Vùng phía Bắc từ Ninh Bình trở ra
thì hiếm dần. Vùng phái Nam cũng vậy. Từ
đèo Hải Vân trở vào thì không thấy
nữa, chỉ có nai thôi.
Điều đáng nói ở đây là người ta vốn
biết tánh con hươu hay dâm, một con cái thường giao
cấu với vài con đực. Vậy mà trên mặt trống người ta
vẽ cặp nào cặp ấy, không lộn xộn, con đực đi trước, con
cái đi sau. Người ta muốn sắp xếp đời sống vợ chồng của
chúng nó vào khuôn khổ luân
lý ? Hoặc đó là dấu hiệu để nói
lên cuộc sống định cư, chấm dứt thời kỳ thị tộc mẫu hệ ?
Riêng việc vì sao vẽ 10 con hươu, theo ý
chúng tôi phỏng đoán có lẽ con số 10 chỉ
là con số toàn vẹn, để nói rằng nhiều lắm, đầy đủ
lắm, mà người đi săn đêm sẽ gặp vào đêm trăng
sáng ?
Vòng sinh hoạt của người :
Vòng này quan trọng hơn, tiết rằng việc
nghiên cứu của chúng tôi bị hạn chế, vì ngại
rằng người vẽ có thể đã theo định kiến cũ về người
lên đồng, ca múa cầu thần linh, không lưu ý
đến những ý nghĩa tượng trưng của các hình vẽ,
khiến có thể đã bỏ sót những chi tiết có
ích chăng ?
Tiết đông chí :
Ta gặp trên đường bán kính từ trung
tâm bông hoa kéo ra, hình vẽ cái
nhà sàn, có hai vợ chồng con chim trên
nóc mái, và trong nhà có ba người
đang nằm vừa ngồi nhỏm dậy. Góc phải của nhà sàn ở
mặt đất có cái gì như cái cối đặt nằm
nghiêng. Góc trái có đứa nhỏ gõ
vào cái gì như cái trống con, có vẻ
để báo thức.
Ta hiểu rằng trải qua một mùa đông, các
loài vật đông miên ngủ vùi đến ngày
đông chí mới tỉnh dậy, mầm mộng của các loài
hoa lá trên cành cũng đến ngày ấy mới “ngồi
dậy”. Cả đến cái cối nằm ngủ mãi có lẽ cũng sắp
được dựng dậy để làm việc.
Tiết hạ chí :
Đối điểm của Đông chí bên kia vòng
tròn, trên cùng đường kính là tiết hạ
chí.
Ta gặp những cái nhà sàn ấy. Nhưng
trên nóc mái chỉ có một con chim trống. Vợ
nó đâu ? Vợ nó đương ở nhà ấp trứng. Do
đó mùa hè phải đóng bè làm
phúc, không được phá phách các tổ
chim, bắt được chim còn phải phóng sinh nó đi, để
nó về nuôi vợ con nó. Thương biết là bao
nhiêu, truyền thống ấy còn mãi đến thế hệ
chúng ta !
Trong nhà sàn ta thấy hai đứa nhỏ đối mặt nhau,
tóc buông sau gáy, ngồi co dầu gối đặt hai
bàn chân lên nhau và đưa hai bàn tay
lên cao để úp vào nhau cho rơi cái gì
như hai viên sỏi. Đúng là hai đứa trẻ đang vui
chơi, Cha mẹ chúng đâu ? Cha mẹ chúng đi
làm việc ngoài đồng áng.
Tháng tư đi tậu trâu bò.
Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm.
Câu ca dao này về sau mới có. Nhưng thời
dụng biểu của nhà nông trong hoàn cảnh địa
lý, khí hậu, và điều kiện đất nước, để làm
mùa, thì đã có ngay từ hồi đầu định cư.
Hình vẽ đã nói lên thực rõ.
Bên dưới nhà sàn, góc phải,
có cái cối đặt ngang và bên trái
có một đứa trẻ ngửa mặt, tóc xoã sau lưng, đưa tay
kéo một trục tròn có vẻ xoay được một trục đứng.
Hình vẽ có nghĩa xoay và nặn đồ gốm chăng ?
Còn cối đặt nằm nghiêng có nghĩa là bận việc
đồng áng, nghỉ giã gạo chăng ?
Hội hè, gõ trống :
Tiếp theo nhà sàn nói về Đông
chí và Hạ chí, đều có cảnh gõ trống
và đều có 4 cái đặt úp trên bệ của
nó trong 4 cái hố. Bệ là một chân đội một
mặt tròn, như hình cái nấm, để trống úp
đúng vào vành mặt ấy. Mặt ấy chắc là bằng
gỗ, hẵng phải khoan thủng nhiều lỗ thì khi gõ, tiếng
trống mới có lối thoát ra và vang đi xa. Nếu
đúng như dự đoán thì tuỳ theo mặt tròn
có nhiều hay ít lỗ, và lỗ lớn hay nhỏ của 4
cái khác nhau, mà âm thanh của cả 4
cái khi cùng gõ lên đã có thể
trở thành một bản hòa tấu.
Theo hình vẽ thì trống đặt bên dưới
nhà sàn, trong hố, không trông thấy. Người
ngồi trên sàn gõ vào mặt trống. Như vậy trống
để gõ đã không cùng loại với trống biểu
tượng quyền uy của tù trưởng như trống Ngọc Lũ này.
Bên cạnh nhà Hạ chí, cả bốn người
gõ trống đều ngồi quay mặt theo hướng chung, riêng
bên cạnh nhà Đông chí lại có một người
đứng và quay lưng lại hướng chung ấy và một người ngồi
đưa bàn chân để cho dùi trống không gõ
xuống. Đó là hai điệu nhạc khác nhau của 2 dịp hội
hè lớn khác nhau trong một năm.
Sửa soạn hội hè :
Người ta phải sửa soạn từ trước ngày Đông
chí, bằng cách giã gạo để ủ lên men
làm rượu, hoặc để làm bánh, nấu xôi.
Hình hai người giã chày đứng trong một
cái cối ở trước hai nhà đông chí và
hạ chí nói về việc ấy. Nhưng cảnh giã gạo
bên hạ chí có vẻ thong thả, người đàn
ông chếch một chân đạp vào chân cối.
Còn bên đông chí thì vội
vã hơn, ngưởi đàn ông đứng cả hai chân
trên mặt đất và người đàn bà tóc
xoã tay cầm chày giơ cao hơn.
Hình người và gà cạnh đó cũng
khác nhau. Sau xuân phân, người cầm gậy quay mặt lại
có vẻ là chăn dắt nuôi gà. Sau thu
phân, người kiễng chân, không có gậy,
có vẻ là nhảy để bắt gà. Đó là những
việc phải làm để sửa soạn cho ngày lễ.
Xuân phân thu phân :
Trên cùng một đường kính vạch ngang hơi
chếch lên đường Đông chí Hạ chí, là
đường Xuân phân Thu phân, ta thấy 2 kiến tạo giống
nhau, mái hình khum mui thuyền, gác trên hai
trụ đứng cũng khum lại, trên đầu gọt tròn đều nhau, với
hai vòng trang trí tròn, còn phiá
chân cột có sàn bắt ngang, để hở ở dưới hai tảng
kê hai bên với một vật gì như để chồng ở giữa.
Bên trong khung hình khum ấy, khoảng trống được
vạch chia làm 3 phần, bên Xuân phân thì
ở giữa hình chữ nhật vẽ một người đứng nghiêng, quay mặt
theo hướng chung, tay cầm cuống một trái gì như
trái bầu tròn. Hai phần tả hữu, một bên vẽ bảy
vòng tròn, một bên vẽ tám, tất cả đều
có một chấm ở giữa.
Nếu vòng tròn ấy là hình
trái cây thì kiến tạo miếu thờ vị thần phù
trợ cho cây cối sinh nhiều trái. Còn bên Thu
phân thì vẽ hình người dang chân và
dang tay lên trời, hai bên không có
vòng tròn mà có 4,5 vết như lá tụng.
Người vẽ tỏ ra rất hiện thực vậy.
(Có ý kiến cho rằng các vòng
tròn có chấm là nhạc cụ còng, chiên;
có ý kiến lại cho rằng đó là biểu tượng của
hào âm hào dương; xem thêm bài “ Dạng nguyên thuỷ của Âm Dương ” )
Các vị Nguyệt thần :
Theo điểm khởi đầu năm nhân sự, ta thấy ban đầu
có một vị thần nhỏ bé hơn cả, không có mũ,
để dùng ghi tháng nhuận, rồi đến 6 vị để ghi sáu
tháng đầu năm, đối diện với bên kia vòng
tròn có 6 vị nữa để ghi sáu tháng cuối năm.
Vị nhỏ bé để ghi tháng nhuận, cánh
cụp xuống, đầu không mũ, người nghiêng, tay cầm
phách dang ngang theo tư thế ca vũ. Còn 12 vị đều
là chim thần, không phải người hoá trang
thành chim.
Người ta nhìn vội nên cho rằng người đội mũ
lông cánh chim. Đó là một bên
cánh mọc từ lưng ra, bị đầu che một đoạn, còn một
bên cánh mọc từ ngực ra xoè xuống đất. Bởi nếu
là đội mũ, thì có vị quay mặt đi, có vị
quay mặt lại, sao mặt quay lại mà mũ lại không quay
lại ?
Lông đuôi thì xoè về phía
chân trước. Hai tay và hai chân thì
ráp vào hai bên mình như người. Chim thần
khàc người và khác chim thường ở chổ ấy.
Việc dùng một con chim thần tiêu biểu cho một
tháng chứng tỏ người xưa quan niệm thời gian qua mau. Nhưng
khác với người phương Tây thần thánh hoá
và nhân cách hoá thời gian thành
hình một ông cụ có cánh, tay cầm lưỡi
hái tượng trưng quyền lực huỷ hoại, không những thời gian
chẳng giúp gì cho người mà còn thù
nghịch với người nữa. Ở đây chim thần từng tháng đem những
hướng dẫn đến cho người trong cuộc sống. Thời gian có cộng
tác với người, là bạn là thầy của người.
Trừ vị thần dùng cho tháng nhuận ( xen kẻ
vào bất cứ tháng nào trong năm ) đúng
là có dáng điệu người ca vũ mềm mại và vui
tươi, chân bước theo hướng tiến chung, hai tay cầm cái
gì như phách để gõ nhịp cho bước chân,
còn 12 vị thần khác thì mỗi vị cầm một đồ vật
khác nhau để nói lên cái ý
khuyên bảo người đời tháng ấy thì nên
làm một việc nào với đồ dùng đó :
Tháng giêng : Đồ vật ở tháng
giêng to lắm, thần phải ôm bằng hai tay đưa ra phái
trước mặt, trong có vẻ như con cá. Có lẽ là
tháng nên đi bắt cá. Về điểm này ta thấy tệ
xưa có ghi rằng : Loài gấu chưa tế thú (
vào mùa thu ) thì không được chăn lưới ở
cánh đồng , loài rái chưa tế cá (
vào mùa đông ) thì không được thả lưới
vét xuống nước. Nay đã sang tháng giêng, vậy
có thể đi bắt cá được.
Tháng hai : Đồ vật ở tháng hai
là cây gậy thẳng, thần cầm bàn tay trái đưa
ngang ra trước mặt, đầu trân của gậy uốn ra ngoài, đầu
dưới uốn vào phái bụng. Tay phải của thần đưa về
phía sau lưng cầm một trạc gậy trút xuống. Chân
và mặt đưa ra theo hướng tiến chung. Có thể là con
dao đi rừng để chặt những cành kho củi mục, việc nên
làm vào tháng hai.
Tháng ba : Thần bước đi theo hướng tiếng
chung nhưng mặt quay lại nhìn tay phải cầm trạc cây
trúc xuống, tay trái cầm một cây gậy hơi cong với
đầu to ở trên, đầu nhỏ ở dưới. Có vẻ thần khuyên
người nên làm việc gì ngay trên mặt đất sau
bước chân cảu mình, giao hạt giống chăng ?
Tháng tư : Thần có dáng điệu
như vị ở tháng ba nhưng mình nghiêng hẳn về
phía sau, đầu và mỏ cũng cuối thấp hơn, với mặt mở
tròn to hơn. Nếu không có điệu cánh
và chân bước theo hướng chung thì có thể kể
là thần đi ngược chiều được. Tay trái thần cũng cầm gậy
thẳng nhưng ngắn hơn, tay phải cầm gậy trạc cây với gốc độ đẹp
hơn. Có vẻ thần khuyên người săn sóc việc bắt
sâu bọ.
Tháng năm : Mắt thần nhìn theo hướng
tiến chung, thân hình ở tư thế đi bình thường, tay
trái cầm gậy ngắn nhất, tay phải cầm trạc cây với một
bên cụt hơn. Có vẻ như thần khuyên nghỉ tay.
Tháng sáu : Cũng vậy, có vẻ
như tháng này và hai tháng nữa không
thể làm việc đồng án được.
Tháng bảy : Thần quay mặt nhìn theo
hướng chung, cầm trong tay vật gì như muỗng múc canh,
có dấu tròn biểu tượng mắt chim ở ngoài, tay phải
cầm cái gì như cái lồng bắt chim. Cả hai
tày đều đưa về phái trước mặt. Có vẻ là
tháng nên đi bắt chim. Vị này có thêm
một đặt điểm : ở sau gáy nơi đầu cánh có một
hình tam giác, giữa vẽ một hình tròn, chưa
rõ ý nghĩa gì.
Tháng tám : Thần thổi loa ở miệng,
loa dính với một vật tròn tia ra ba vạch lên trời,
ba vạch xuống đất. Đó có vẻ là tiếng gọi
vào rừng săn thú. Tháng tám trăng
sáng nhất là tháng thích hợp nhất cho việc
ấy.
Tháng chín : Thần cầm dao đi rừng
như tháng hai nhưng đầu trên lại khoằm vào trước
mặt, đầu dưới lại uốn khoằm ra, mặt và chân quay về hướng
tiến chung. Có vẻ là vật để hái trái,
má tháng này là tháng có
nhiều trái cây chín.
Tháng mười : Thần vẫn cầm dao ấy ở tay
trái như vậy nhưng mặt nhìn xuống đất sau bước chân
với chạc cây hạ thấp xuống gần mặt đất. Có vẻ như thần
muốn nói về việc gặt lúa.
Tháng mười một : Thần cầm gậy ngắn với trạc
cây ngắn ở tư thế nghỉ ngơi và theo dáng đi
bình thường ( như tháng năm, tháng sáu
đã nói ). Có vẻ là tháng xong việc
đồng án thì nghỉ ngơi.
Tháng chạp : Thần cầm vật gì giống
như hình cái bàn chải đánh răng, dài
bằng cả một bên cánh, dưới đầu cán có
hình mũi tên chĩa nghiêng xuống mặt đất phía
trước mặt. Ấy là hình tượng sự chít một lông
cánh thời gian, để nói việc hết năm.
Những đặc tính của mỗi năm trong chu kỳ :
Chúng ta thấy mỗi con chim thời gian giống nhau bay ở
vòng ngoài ( theo chu kỳ 18 năm đã nói )
đều có một con chim nhỏ ở dưới mỏ dài của nó,
mà chim ấy thì không con nào giống con
nào cả.
Cần phải là người đi rừng nhiều, trông
hình vẽ mới tin chắc được rằng lịch 12 con giáp của Trung
Hoa đã ít tuổi hơn lịch 18 con chim này nhiều lắm.
Bởi lịch này cho thấy người ta mới định cư còn ở thời kỳ
chưa nuối được con lợn, con trâu, con mèo, chưa biết được
con dê con ngựa là gì nữa.
(Doremon360 : Bạn hãy tham khảo bản đồ địa
hình dưới đây để thấy việc ngập lục bán đảo Sunda
và thềm lục địa Namhailand vào cuối kỷ băng hà
đã dẫn đến sự di dân của cư dân đông Nam
Á cổ vào các vùng đất cao, sự định cư mới
mà tác giả nói ở trên có thể
có mối liên hệ với sự kiện di cư từ nơi định cư củ sang
nơi định cư mới ).
Còn đây là các bản đồ thể hiện
sự di cư của con người từ xa xưa đến các vùng đất
trên Thế Giới :
Kết luận :
Mặt trống đồng Ngọc Lũ quả đúng là một quyển
lịch được sắp xếp và vẽ một cách thông minh. Trừ
một vài chi tiết chưa hiểu rõ như đã nói,
những nét chính của hình vẽ đã khiến ta
chân thành khâm phục rằng: Với mức độ hiểu biết
và tiến hoá của đời nay cũng chưa chắc có người bố
trí nổi một bản ghi thời gian tài tình như thế.
Nguồn
Blog Doremon360
Xem thêm
Nguồn: http://tusach.thuvienkhoahoc.com
|